PGS. TS. Lê Trung Hoa
Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường ĐH KHXH&NV
TÓM TẮT
1.Đặc điểm của địa danh hành chính Việt Nam: hầu hết là từ Hán Việt và có nhiều thành tố chung.
2.Để hiểu rõ đặc điểm của các thành tố chung này, ta cần phân biệt thành tố chung và danh từ chung.
2.1.Chúng có 5 khác biệt: về vị trí, về chức năng, về từ loại, về hình thức, về khả năng chuyển hóa.
2.2.Những giống nhau và khác nhau về thành tố chung của các địa danh hành chính Nam Bộ với Trung Bộ và Bắc Bộ ở đầu thế kỷ 19.
2.3. Những giống nhau và khác nhau về thành tố chung của các địa danh hành chính Nam Bộ với Trung Bộ và Bắc Bộ hiện nay.
3.Kết luận
Summary
1. Specific traits of administrative toponyms of Vietnam: most of them are Sino-Vietnamese
with many common components.
2. In order to understand the specific traits of the common components well, the common
components and antecedents should be differentiated.
2.1. They have 5 different points: on position, on function, on part of speech, on form and
on capacity of transfer.
2.2. Similar and different characteristics of the common components of the administrative
toponyms on South, Central and North of Vietnam at the beginning of 19th century.
2.3. Similar and different characteristics of the common components of the administrative
toponyms on South, Central and North of Vietnam today
3. Conclusion.
1. Địa danh hành chính (ĐDHC) do chính quyền trung ương hoặc địa phương ban hành. Chúng có hai tiêu chí để phân biệt với các loại địa danh khác là: do Nhà nước đặt và có thể xác định diện tích, dân số của địa bàn. Chúng có một số đặc điểm chung: hầu hết là từ Hán Việt và có nhiều thành tố chung.
2. Để hiểu rõ ý nghĩa của các địa danh này, ta cần xác định khái niệm thành tố chung và phân biệt nó với tiền trí từ.
2.1.Phân biệt tiền trí từ và thành tố chung:
Tiền trí từ và thành tố chung có một điểm giống nhau là chúng xuất hiện trước và trong nhiều địa danh. Thí dụ: rạch Chiếc, rạch Thai Thai; Vĩnh Long, Long Xuyên, Phú Tân, Bình Phú,....
Nhưng chúng có nhiều điểm khác nhau cần phân biệt.
2.1.1.Về vị trí: Tiền trí từ luôn luôn đứng trước địa danh. Thí dụ: sông Tiên, xã Tân Phú Trung, cầu Ông Lãnh, vùng Bà Quẹo,…
Còn thành tố chung có thể đứng đầu hoặc cuối địa danh. Thí dụ: tỉnh Quảng Bình, tỉnh Bình Định; huyện Tân Phú, huyện Phú Vang,…
2.1.2.Về chức năng: Tiền trí từ chỉ tiểu loại địa danh. Thí dụ: sông Lô, huyện Sông Cầu, cầu Cần Thơ, khu Ngã Bảy,…
Còn thành tố chung là yếu tố cấu tạo nên địa danh. Thí dụ: Tân An, Tân Bình; huyên Càng Long, tỉnh Vĩnh Long;…
2.1.3.Về từ loại: Tiền trí từ là danh từ: các từ sông, huyện, cầu, đường,… đều là danh từ. Các từ vốn thuộc từ loại khác thì phải danh hóa. Thí dụ: Trong ngả tắt, cái tắt thì tắt là tính từ, sau đó ở Nam Bộ, từ tắt này đã được danh hóa thành tắt (bị viết sai chính tả ở Nam Bộ thành tắc) như tắt Ráng, tắc Chàng Hảng,….
Còn thành tố chung có thể thuộc nhiều từ loại khác nhau. Thí dụ: An Bình, Long An (tính từ), Sông Bé, Sông Cầu (danh từ);…
2.1.4.Về hình thức: Tiền trí từ thì không viết hoa. Thí dụ: huyện Trần Văn Thời, thành phố Huế.
Còn thành tố chung thì phải viết hoa. Thí dụ: Bình Tân, An Tân; Giồng Trôm, Giồng Riềng,…
2.1.5.Về khả năng chuyển hóa: Tiền trí từ rất dễ chuyển hóa thành thành tố chung. Thí dụ: rạch Chiếc => cầu Rạch Chiếc, cầu Ông Lãnh => phường Cầu Ông Lãnh,…
Còn thành tố chung ít có khả năng này. Đối với các từ Hán Việt, nếu muốn biến thành tiền trí từ thì phải dịch sang từ thuần Việt, rồi thay đổi vị trí theo cú pháp của tiếng Việt. Thí dụ: Hồng Hà => sông Hồng.
2.2.Tiếp theo, chúng ta thử thống kê số lượng các thành tố chung xuất hiện trong ĐDHC Việt Nam trong nhiều thời điểm khác nhau để thấy những sự giống và khác nhau của ĐDHC ở
Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ.
Ở đầu thế kỷ 19 (vào thời điểm 1810-1813), ở miền Bắc (từ Nghệ Tĩnh trở ra) có 10.994 ĐDHC. Các đơn vị hành chính trong tài liệu này gồm có: đạo, huyện, phủ, thôn, tổng, trấn, xã, xứ. Các thành tố chung có số lượng từ nhiều đến ít như sau:
Thành tố chung | Số lượng | Tỷ lệ | Thành tố chung | Số lượng | Tỷ lệ |
1. An | 515 | 4,48 | 2. Phú | 235 | 2,13 |
3. Đông | 208 | 1,89 | 4. Kim | 166 | 1,50 |
5. Đại | 153 | 1,39 | 6. Ngọc | 141 | 1,28 |
7. Thanh | 140 | 1,27 | 8.Bình (Bằng) | 140 | 1,27 |
9. Cổ | 132 | 1,20 | 10. Vĩnh | 127 | 1,15 |
11. Văn | 121 | 1,10 | 12. Thượng | 121 | 1,10 |
13. Phúc | 104 | 0,94 | 14. Mỹ | 100 | 0,90 |
15. Sơn | 89 | 0,80 | 16. Cao | 75 | 0,68 |
17. Xuân | 72 | 0,65 | 18. Quảng | 71 | 0,64 |
19. Cẩm | 67 | 0,60 | 20. Dương | 64 | 0,58 |
21. Minh | 58 | 0,52 | 22. Đa | 45 | 0,40 |
23. Thụy | 39 | 0,35 | 24. Hòa | 39 | 0,35 |
25. Bất | 33 | 0,30 | 26. Đức | 31 | 0,28 |
27. Thịnh | 28 | 0,25 | 28. Long | 19 | 1,17 |
29. Tân | 14 | 0,12 |
|
|
|
Còn theo sách Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, vào thời điểm năm 1832 ở Nam Bộ gồm 1.637 đơn vị hành chính. Thành tố chung từ cao đến thấp như sau:
Thành tố chung | Số lượng | Tỷ lệ | Thành tố chung | Số lượng | Tỷ lệ |
1.Tân | 270 | 16,49 | 2.Bình | 191 | 11,66 |
3.An (Yên) | 117 | 7,14 | 4.Long | 103 | 6,29 |
5.Phú | 92 | 5,62 | 6.Mỹ | 91 | 5,55 |
7.Phước | 91 | 5,55 | 8. Vĩnh | 79 | 4,82 |
9.Hòa | 34 | 2,07 | 10.Thanh | 29 | 1,77 |
11.Thái (Thới) | 22 | 1,34 | 12.Thạnh | 19 | 1,16 |
13.Hưng | 15 | 0,91 | 14.Đại | 14 | 0,85 |
15.Xuân | 14 | 0,85 | 16.Sơn | 7 | 0,42 |
17.Cổ | 3 | 0,18 |
|
|
|
Qua hai bảng thống kê này, ta thấy có những từ sau đây ở cả hai miền Nam, Bắc đều chiếm số lượng cao: An, Bình, Mỹ, Phú, Phúc (Phước), Vĩnh,…Đây là những từ nói lên ước vọng của người Việt: yên ổn, không có chiến tranh, giàu có, hạnh phúc, tốt đẹp, bền vững. Trong khi đó, Nam Bộ là vùng đất mới nên chữ Tân chiếm vị trí số 1, còn Trung Bộ và Bắc Bộ, Tân đứng thứ 29. Cũng vậy, Nam Bộ là vùng đất mới nên ước mơ thịnh vượng nên từ Long rất được ưa chuộng (đứng thứ 4), còn miền Bắc, Long đứng thứ 28.
2.3.Ở thời điểm năm 2006, các đơn vị hành chính trong tài liệu này gồm: tỉnh, thành phố, thị xã, quận, huyện, thị trấn, phường, xã. Chúng tôi chỉ thống kê các thành tố chung trong tên các thị trấn, phường, xã, là những đơn vị hành chính chiếm tuyệt đại đa số trong tài liệu. Tần số xuất hiện của các thành tố chung theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau:
Thành tố chung | Tổng số | Thành tố chung | Tổng số | Thành tố chung | Tổng số | Thành tố chung | Tổng số |
1. Tân | 546 | 2.An/Yên | 456 | 3. Phú | 262 | 4.Bình | 245 |
5.Vĩnh | 232 | 6.Xuân | 221 | 7.Thanh | 196 | 8.Phúc/Phước | 189 |
9.Hòa | 188 | 10.Mỹ | 175 | 11.Đông | 168 | 12.Long | 144 |
13.Quảng | 144 | 14.Đồng | 127 | 15.Sơn | 125 | 16.Nam | 120 |
17.Minh | 117 | 18.Nghĩa | 116 | 19.Trung | 106 | 20.Đức | 101 |
21.Tam | 99 | 22.Cẩm | 93 | 23.Hồng | 93 | 24.Đại | 92 |
25.Hải | 92 | 26.Hưng | 85 | 27.Thái | 82 | 28.Thạnh | 82 |
29.Kim | 78 | 30.Ia | 77 | 31.Ngọc | 75 | 32.Thụy | 70 |
33.Văn | 67 | 34.Khánh | 67 | 35.Ninh | 65 | 36.Nhân | 64 |
37.Hương | 63 | 38.Quỳnh | 61 | 39.Hà | 60 |
|
|
Sau đây là những thành tố chung được dân Nam Bộ ưa chuộng, do đó chiếm số lượng nhiều hơn Trung Bộ và Bắc Bộ.
Thành tố chung | Tổng số | Nam Bộ | Tỷ lệ % | Trung Bộ | Tỷ lệ % | Bắc Bộ | Tỷ lệ % |
1.Long | 144 | 126 | 87,50 | 5 | 3,47 | 13 | 9,02 |
2.Thạnh | 82 | 68 | 82,92 | 6 | 7,31 | 8 | 9,75 |
3.Mỹ | 175 | 106 | 60,57 | 33 | 18,85 | 36 | 20,57 |
4.Tân | 546 | 278 | 50,91 | 83 | 15,20 | 185 | 33,88 |
5.Vĩnh | 232 | 112 | 48,27 | 73 | 31,36 | 47 | 20,25 |
6.Phú | 262 | 121 | 46,18 | 70 | 26,71 | 71 | 27,09 |
7.Bình | 245 | 113 | 46,12 | 76 | 31,02 | 56 | 22,85 |
Tiếp theo là các thành tố chung xuất hiện nhiều trong ĐDHC ở Bắc Bộ:
Thành tố chung | Tổng số | Bắc Bộ | Tỷ lệ % | Trung Bộ | Tỷ lệ % | Nam Bộ | Tỷ lệ % |
1.Văn | 67 | 55 | 82,08 | 11 | 16,41 | 1 | 1,49 |
2.Kim | 78 | 63 | 80,76 | 10 | 12,82 | 5 | 6,41 |
3.Minh | 117 | 89 | 76,06 | 13 | 11,11 | 15 | 12,82 |
4.Đông | 168 | 98 | 57,98 | 40 | 23,80 | 30 | 17,50 |
5.Thanh | 196 | 111 | 56,63 | 56 | 28,57 | 29 | 14,79 |
6.Xuân | 221 | 96 | 43,43 | 91 | 41,17 | 34 | 15,38 |
Sau cùng là những thành tố chung hiện diện nhiều trong địa danh Trung Bộ:
Thành tố chung | Tổng số | Trung Bộ | Tỷ lệ % | Bắc Bộ | Tỷ lệ % | Nam Bộ | Tỷ lệ % |
1.Quảng | 144 | 103 | 71,52 | 39 | 27,08 | 2 | 1,38 |
2.Sơn | 125 | 82 | 65,60 | 34 | 27,20 | 9 | 7,20 |
3.Quỳnh | 61 | 35 | 57,37 | 26 | 42,62 | 0 | 0 |
4.Nghĩa | 116 | 66 | 56,89 | 48 | 41,37 | 2 | 1,72 |
5.Hải | 92 | 48 | 52,17 | 44 | 47,82 | 0 | 0 |
6.Hòa | 188 | 87 | 46,27 | 40 | 21,27 | 61 | 32,44 |
Qua 3 bảng thống kê vừa trình bày, ta thấy các sự khác biệt như sau:
-Bắc Bộ rất chú trọng văn hóa, văn học nên thành tố Văn nhiều hơn hẳn Trung Bộ và nhất là Nam Bộ (82,08% - 16,41% - 1,49%). Đặc biệt hai từ Hán Việt Giang và Hà đều chỉ “sông lớn”.
Nhưng chỉ có Bắc Bộ và Nam Bộ mới có sông lớn. Tuy nhiên, Bắc Bộ thích thành tố Hà hơn Giang nên có nhiều tỉnh thành mang thành tố này hơn (Hà Nội, Hà Nam, Hà Bắc, Hà Đông, Hà Tây,…). Còn Nam Bộ lại thích thành tố Giang hơn (An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang, Hậu Giang,…). Còn Trung Bộ không có sông lớn nên nên ít có thành tố Hà hay Giang.
-Trung Bộ là vùng đất hẹp nên ước mong đất đai rộng rãi; vì thế chỉ có vùng này có đến 5 tỉnh mang thành tố Quảng (“rộng rãi”) ở trước, là Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Ngãi và thành tố Quảng có tỷ lệ cao hơn hẳn Bắc Bộ và Nam Bộ (71,52% - 37,08% - 1,38%). Mặt khác, miền Trung có nhiều núi nên thành tố Sơn chiếm tỷ lệ cao nhất (65,60 – 27,20 – 7,2).
-Còn Nam Bộ là vùng đất có tài nguyên phong phú nên hai thành tố Long và Thạnh (“phát triển”;“thịnh vượng”) chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn Bắc Bộ và Trung Bộ (82,50% và 82,92% - 3,47% và 7,31% - 9,02 và 9,75%). Đặc biệt, các thành tố Hán Việt có nội dung khó hiểu, tức cao sâu như Thụy, Quỳnh hoàn toàn vắng mặt. Nhưng đây là vùng đất mới nên Tân vẫn là yếu tố chiếm tỷ lệ cao nhất (50,91 – 15,20 – 33,88).
3. Như vậy, qua các thành tố chung trong ĐDHC, ta có thể thấy những đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa của từng vùng, nhất là Nam Bộ. Do đó, quả thật, địa danh là những tấm bia lịch sử- văn hoá của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam, HN, Nxb Thống kê, 2006.
2.Lê Hồng Chương, Từ điển đơn vị hành chính Việt Nam, HN, Nxb Từ điển Bách khoa, HN, 2007.
3.Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb tp. Hồ Chí Minh, 1994.
4.Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, HN, Nxb KHXH, 1981.