Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975

Hai mươi năm (1954-1975) là một đoạn đường dài đối với lịch sử đương đại cũng như với văn chương Việt Nam. Trên một nửa đất nước tính từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, một giai đoạn văn học với nhiều đặc điểm khác biệt so với trước và sau đó đã tồn tại và phát triển. Xét về khía cạnh lịch sử là một phần không thể tách rời của văn học dân tộc. Việc tìm hiểu, đánh giá thành tựu và khuynh hướng vận động của văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 không chỉ là nhiệm vụ của văn học sử, mà còn là công việc quan trọng đầu tiên để tiến hành mọi cuộc khảo sát, nghiên cứu, nhận định về các vấn đề có liên quan trong phạm vi bao quát của nó.

 

Tác giả bài viết mong muốn thông qua việc giới thiệu vài nét về đội ngũ tác giả, tác phẩm văn xuôi và đời sống văn chương đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (qua khảo sát từ những tư liệu đã có), sẽ nhận được sự chia sẻ, quan tâm từ người trong giới nghiên cứu văn học.

 

I. Về tác giả

 

Năm 1973, trong cuốn Văn học và tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ, có bản thống kê gọi là "Đồ biểu văn xuôi Việt Nam"(1), tác giả ghi tên khoảng 50 tác giả văn xuôi ở miền Nam giai đoạn từ 1954 đến 1973 cùng với các tác phẩm tiêu biểu của họ (bao gồm tác phẩm thuộc thể "truyện" và cả các công trình khảo cứu văn hóa, lịch sử).

 

Năm 1987, trong cuốn Hai mươi năm văn học miền Nam, 1954-1975 (Phần tổng quan) của Võ Phiến, ở phần thống kê cuối sách, người đọc tính được 267 tác giả trong đó hơn hai phần ba là tác giả văn xuôi(2).

 

Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá trong tác phẩm Nhìn lại một chặng đường văn học đã qua, riêng trong phần tuyển chọn tác phẩm của các cây bút có xu hướng "tiến bộ, yêu nước" ở vùng đô thị miền Nam, đã đưa ra đến 60 tác giả văn xuôi(3).

 

Những con số nói trên dù không hoàn toàn chính xác nhưng cũng là một cơ sở để người đọc hình dung về lực lượng đông đảo những người viết văn, làm báo ở miền Nam giai đoạn trước 1975. So sánh với đội ngũ nhà văn thời tiền chiến từ 1913 đến 1945 trong cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh cũng cho rằng số lượng các tác giả văn xuôi giai đoạn sau 1954 ở miền Nam rất lớn, lên tới 200 người(4). Ngoài đặc điểm về số lượng, đội ngũ cầm bút còn đa dạng về thành phần, nghề nghiệp và khác nhau trong quan niệm sáng tác. Nhiều nhất trong số họ là làm báo và dạy học.

 

Từ 1954, trong số những người từ miền Bắc di cư vào Nam, có  nhiều nhà văn, nhà thơ. Một số tác giả đã viết trước đó và tiếp tục sáng tác như Nhất Linh, Vũ Bằng, Vi Huyền Đắc... trong khi nhiều người bắt đầu sự nghiệp văn chương tại miền Nam như Thanh Tâm Tuyền, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Dân... Hoạt động của họ trên văn đàn ở giai đoạn đầu có tác dụng kích thích, gây hào hứng cho bầu không khí sáng tác chung; làm cho đội ngũ viết văn, làm báo của miền Nam đông đúc hơn, đa dạng hơn, nhiều thành phần và phức tạp hơn.

 

Thế hệ những nhà văn miền Nam sau thời của Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức... hồi đầu thế kỷ; và sau thời kháng chiến chín năm của Mai Văn Bộ, Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà... là Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Hà Huy Hà, Vân Trang... Còn có sự tham gia của nhiều tên tuổi khác từ miền Trung như Vũ Hạnh, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Minh Quân, Nguyễn Mộng Giác... Họ là những người đã từng tham gia kháng chiến, những người có cảm tình với kháng chiến hoặc chỉ có tình yêu văn chương và tinh thần dân tộc...

 

Bên cạnh lực lượng sáng tác là những nhà lý luận, nghiên cứu, phê bình, khảo cứu văn hóa mà hoạt động của họ có tác động đến sự phát triển văn học như Nguyễn Hiến Lê, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Lữ Phương, Đặng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Nhật Duật, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh... Bên cạnh những cây bút có quá trình hoạt động văn chương xuyên suốt nhiều thời kỳ là lớp nhà văn trẻ xuất hiện từ sau 1964 như Hồ Minh Dũng, Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Lê Văn Thiện, Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn, Nguyễn Mai, Dương Uẩn, Cung Tích Biền, Đinh Tiến Luyện, Du Tử Lê, Thế Vũ... Họ đã trẻ hóa và làm linh hoạt, nhộn nhịp các diễn đàn văn xuôi.

 

Một hiện tượng văn học cũng được dư luận quan tâm là sự xuất hiện của một số nhà văn nữ như Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH... So với những nhà văn cùng phái với họ như Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Minh Quân, Mộng Trung...; sáng tác của các cây bút nữ nói trên thực sự mới mẻ về giọng điệu, ngôn từ; đặc biệt là việc khai thác và thể hiện các yếu tố tình dục, bản năng, lối sống hiện sinh. Võ Phiến tính rằng số lượng nữ văn, thi sĩ mới chỉ chiếm "17 phần trăm" và "Nam phái chỉ kịp trông thấy một viễn tượng thua sút, chứ kỳ thực chưa nếm mùi thua sút"(5), nhưng cũng chính tỷ lệ này cho thấy sự thay đổi, phá cách trong văn chương của các nhà văn nữ được chú ý nhiều hơn so với nam văn sĩ.

 

Trước đây, văn chương, báo chí cũng chỉ phát triển ở các đô thị lớn, nay hoàn cảnh chiến tranh càng khiến Sài Gòn thành nơi qui tụ các nhà văn, nhà thơ. Chỉ có một số ít tác giả vì việc làm, vì hoàn cảnh gia đình... mới sống ở các thành phố nhỏ hoặc một số nơi khác. Gần gũi nhau và cùng một môi trường sáng tác nên các nhà văn thuận lợi trong việc giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhưng cũng dễ dẫn đến một hệ quả là trùng lặp về đề tài, giống nhau về giọng điệu, câu chữ...

 

Điểm khác biệt của đội ngũ tác giả văn xuôi miền Nam giai đoạn trước 1975 không phải là ở "thế giá" thấp, là nỗi "cô đơn" vì thiếu chỗ dựa mà có thể là do ý thức hệ hoặc do môi trường hoạt động văn hóa nghệ thuật thay đổi. So với trước, sự phân hóa về tư tưởng chính trị, về nhận thức xã hội trong các nhà văn diễn ra quyết liệt hơn, thậm chí dẫn đến nhiều quan điểm cực đoan. So với trước, hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật đa dạng, sôi động hơn và sự "cạnh tranh" nhau ngang bằng, tự do, không xếp hạng khiến cho nhà văn khó có ngôi thứ và sự trọng vọng trong lòng công chúng.

 

Dù muốn dù không, người viết cũng phải đối diện với nhu cầu cơm áo, vòng quay cơ chế thị trường, những xáo trộn về chính trị và hoàn cảnh không bình thường thời chiến tranh. Tác phẩm chính là biểu hiện cụ thể nhất tư tưởng, tài năng hay quan niệm về văn chương của họ.

 

II. Về tác phẩm

 

Văn xuôi giai đoạn 1954-1975 ở các vùng đô thị miền Nam vượt trội hơn so với thơ cả về số lượng lẫn chất lượng nhất là ở các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tạp bút... Tạ Tỵ viết hai tập Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay giới thiệu sự nghiệp văn nghệ và tác phẩm của 20 nghệ sĩ mà ông cho là thành đạt nhất ở miền Nam, trong đó có tới 13 tác giả văn xuôi, chiếm gần hai phần ba (6).  Cho tới nay chưa có một công trình nào thống kê đầy đủ các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này, nhưng cũng có thể hình dung sơ bộ qua một vài ước tính. Tạp chí Bách Khoa là một tạp chí nửa tháng một kỳ, nội dung là phổ biến kiến thức chung về văn hóa nghệ thuật, kinh tế, chính trị..., là tạp chí sống "thọ" nhất ở miền Nam - tới 18 năm! Cũng như những tờ báo và tạp chí khác, Bách Khoa có dành một số trang cho văn học trong đó có văn xuôi. Từ số đầu tiên ra ngày 15/01/1957 đến số cuối cùng là số 426 ra ngày 19/4/1975, ước tính có hơn 600 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận... của nhiều tác giả, đã được in trên Bách Khoa. Trên tập san Văn do ông Nguyễn Đình Vượng chủ trương, con số trên còn tăng gấp đôi, gấp ba vì mục đích tập san này chỉ là in tuyển, giới thiệu tác phẩm văn, thơ. Một tạp chí khác hoạt động ngắn ngủi, chỉ trong vòng hơn hai năm từ 1970 đến 1972 như tờ Trình Bày (Tạp chí Văn hóa - Chính trị - Xã hội) trong 42 số đã đăng khoảng gần 80 truyện ngắn, trung bình gần 2 truyện trên một số. Có thể dẫn chứng thêm, như nhà văn Bình Nguyên Lộc có khoảng 1000 truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết, truyện dài khác(7); như học giả Nguyễn Hiến Lê tính đến năm 1975, có đúng 100 đầu sách các loại đã được xuất bản(8)...

 

Tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954-1975 phát triển dồi dào về số lượng, nguyên nhân chính là do tác động của báo chí và hoạt động của các nhà xuất bản. Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói láo tính rằng riêng tại Sài Gòn vào thời điểm tháng chạp năm 1963 có đến 44 tờ nhật báo(9). Đến tháng 4 năm 1975, con số này chắc chắn còn tăng lên. Đó là chưa kể các loại báo tuần, báo tháng, tạp chí, tập san và đủ các loại in tuyển khác. Võ Phiến cũng cho rằng Sài Gòn trước 1975 "... đã có cả nghìn nhà in, 150 nhà xuất bản. Những nhà xuất bản như Sống Mới, Khai Trí, Trường Thi, Nguyễn Đình Vượng, Trí Đăng..., những nhà phát hành như Thống Nhất, Nam Cường, Đồng Nai, Á Châu..., mức hoạt động của họ chắc chắn các đồng nghiệp thời tiền chiến không thể nào sánh nổi..."(10).

 

Phần lớn tác phẩm trước khi in thành sách đều đã đăng trên báo, tạp chí; và hầu hết các loại báo và tạp chí đều có phần dành cho văn chương. Được nhiều người đọc nhất là loại tiểu thuyết nhiều kỳ đăng thường xuyên trên nhật báo (còn gọi là Feuilleton), thứ nữa là truyện ngắn, rồi tới tùy bút, đoản văn... Trong một lần trả lời phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, nhà văn Bình Nguyên Lộc cho biết: "Vào năm 1957 thì tôi viết mỗi ngày11 feuilletons. Nhưng sau đó chính An Khê và Lê Xuyên dẫn đầu. An Khê có năm viết tới 12 feuilletons mỗi ngày, nhưng tôi chưa hề thấy ai vượt qua con số 12 nổi. Sự viết nhiều, viết ít, không do ta, cũng không do chủ báo. Đó là may mắn (hay rủi ro) ngẫu nhiên..."(11). Thị trường báo chí sôi động, lôi cuốn các nhà văn chuyên nghiệp và cả những người không chuyên vào cuộc. Kết quả là năng suất tăng nhanh, một người có thể cộng tác với nhiều báo, và một ngày có thể viết xong nhiều bài, thậm chí một truyện ngắn; nhưng chất lượng nghệ thuật của tác phẩm lại có thể tỷ lệ nghịch với số lượng vì nhiều nhà văn phải "chạy" cho kịp báo.

 

Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới hiện thực cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá linh hoạt nhu cầu của người đọc tại các vùng đô thị. Ở làng quê và các vùng nông thôn xa xôi, sách và báo chí chưa có điều kiện đến gần, nhưng nhiều người nông dân vì chiến tranh, vì mưu sinh phải từ giã ruộng đồng đến sống ở thành phố, hình thành nên một lớp độc giả mới của đô thị...

 

Nếu Ngọc Linh, Ngọc Sơn trên Nhân Loại, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới và nhiều nhật báo khác trung thành với loại tiểu thuyết dài tình cảm hay chuyện gay cấn, ly kỳ; thì Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ là trụ cột của tờ Sáng Tạo. Mai Thảo,Viên Linh, Võ Phiến, Vũ Bằng và một số người khác thường xuyên viết cho mục tùy bút, đoản văn trên tuần báo Khởi Hành, Văn, Thời Tập và các báo khác. Cũng như vậy, những bài nghị luận chính trị - xã hội của Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Trọng Văn... luôn là phần quan trọng trên các tạp chí Đối Diện, Tự Quyết, Đất nước, Tin Văn, Trình Bày... Hình thức dài ngắn của văn xuôi hầu như được thể hiện khá linh hoạt để tính chữ, tính trang. Trong các bài viết và công trình nghiên cứu, phê bình về văn xuôi, ông Cao Huy Khanh và nhiều người khác đều gọi chung các thể loại truyện ngắn, truyện dài cho tới tùy bút, đoản văn... bằng cái tên là "tiểu thuyết"(12). Loại tiểu thuyết dài (nhiều trang) có số lượng rất lớn, như Ngọc Linh có hơn 20 tiểu thuyết(13). Một số tác giả khác cũng có xấp xỉ con số này. Nhưng chất lượng nghệ thuật tác phẩm hầu như đều nghiêng về thể truyện ngắn, kể cả với những người viết nhiều thể loại như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng... Trong vòng một năm (từ 15/11/1958 đến 15/11/1959), trên tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Ngu Í phụ trách mục "Phỏng vấn văn nghệ sĩ về truyện ngắn Việt và ngoại quốc được yêu thích nhất", sau khi lấy ý kiến từ 42/72 nhà văn, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu được hỏi; đã tổng kết được rằng truyện ngắn Ba con cáo và Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc chiếm tỷ lệ bầu chọn cao nhất. Thứ tự còn lại là của các tác giả khác, trong đó có Khái Hưng, Phạm Duy Tốn... của giai đoạn trước(14). Tuy nhiên bản thân Bình Nguyên Lộc lại "không đồng ý" với những người bầu chọn tác phẩm của ông. Nhà văn cho rằng: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (tạp bút), Cuống rún chưa lìa (truyện ngắn), Tỳ vết tâm linh (truyện dài) mới là các tác phẩm hay của ông(15). Cũng xét riêng ở mảng truyện ngắn, ngoài thế hệ đi trước như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng, Vũ Hạnh...; các thế hệ nối tiếp như Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Tuấn... được đánh giá là những nhà văn xác lập được phong cách riêng và không bị trùng lặp với người khác.

 

Trong hơn hai thập niên phát triển, sự thay đổi về số lượng và nội dung tác phẩm thấy rõ hơn những thay đổi về hình thức nghệ thuật. So với văn xuôi giai đoạn trước, giai đoạn này còn thiếu những đỉnh cao có sức tỏa sáng lâu dài như Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao..., nhưng bù lại bề rộng cuộc sống lại được các nhà văn khai thác đa dạng hơn, tác phẩm đến được với nhiều loại công chúng hơn.

 

Giới trí thức, học sinh, sinh viên có thể tìm đến các loại sách học làm người của Nguyễn Hiến Lê, sách truyện của Phan Du, Võ Hồng, Võ Phiến, Vũ Hạnh... Người bình dân miền Nam thích đọc nhật báo và các loại truyện của Ngọc Linh, Ngọc Sơn, An Khê, bà Tùng Long... Sách cho thiếu nhi từ đầu thập niên 60 phát triển rất nhanh về số lượng lẫn đề tài và hình thức thể hiện. Ngoài những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, giá trị đạo đức con người của Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Minh Quân... còn có hàng loạt tác phẩm của tủ sách Tuổi Hoa gồm các loại Hoa xanh, Hoa đỏ, Hoa tím... in giấy khổ nhỏ, phổ biến cho đủ mọi lứa tuổi và các loại truyện tranh. Duyên Anh thành lập nhà xuất bản Tuổi Ngọc chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi và ông cũng là tác giả của nhiều truyện dành cho độc giả tuổi từ 13, 14 trở lên, lứa tuổi bắt đầu thích khẳng định cá tính, sự tự do, hứng thú phiêu lưu và cả những kiểu yêng hùng mới lạ... Sách khảo cứu không chỉ dừng lại ở các đề tài tìm hiểu văn học, văn hóa cổ, các nhân vật lịch sử nổi tiếng... mà còn tập trung giới thiệu địa lý, lịch sử, văn hóa các địa phương. Được chú ý như các quyển Xứ trầm hương của Quách Tấn, Non nước Bình Định, Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tư, Hương nước hồn quê của Toan Ánh...

 

Như vậy, tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954 không chỉ giới hạn trong những đề tài "cổ điển" như nói về cuộc sống của người thành thị, trí thức, tình cảm lãng mạn, phiêu lưu hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất cả mọi vấn đề từ cao cả đến thấp hèn, hướng đến mọi đối tượng từ người lớn đến trẻ em, từ giới trí thức đến người lao động, nhưng tập trung nhất vẫn là đề tài tình yêu với đủ mọi cung bậc, biến thái khác nhau. Nhiều khi vì mục đích thương mại, một số báo chí cổ động, khuyến khích cho những truyện, bài viết nói về tình dục hoặc các chuyện ghen tuông vớ vẩn, chủ yếu gợi sự tò mò của độc giả. Vũ Bằng là nhà văn có tên tuổi, nhưng bên cạnh những tác phẩm hay như Thương nhớ mười hai và một số tác phẩm khác, ông cũng có nhiều bài báo, truyện ngắn viết chủ yếu để đăng báo, ít có giá trị văn học. Mai Thảo và một số nhà văn khác cũng tương tự như vậy.

 

Tóm lại, tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954 - 1975 ở vùng đô thị miền Nam là những sản phẩm hàng hóa, được làm ra trong một điều kiện lịch sử, môi trường văn hóa đặc biệt. Giá trị của nó tùy thuộc vào mục đích của người tiếp nhận nhưng sự vận động, biến đổi lại bị chi phối hết sức nghiệt ngã từ những yếu tố kinh tế, chính trị...

 

III. Về các khuynh hướng và sự phát triển

 

Xuất phát từ lập trường chính trị và tư tưởng, các nhà nghiên cứu như Phạm Văn Sĩ(16), Trần Trọng Đăng Đàn(17), Trần Hữu Tá(18) và một số người khác chia văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (trong đó có văn xuôi) thành hai khuynh hướng: một là yêu nước, cách mạng; hai là phản động, suy đồi. Phạm Văn Sĩ cho rằng chính sách văn hóa thực dân mới đã tác động và làm cho văn chương đô thị miền Nam có những xu hướng biểu hiện như "văn chương chống Cộng, văn chương nhân vị, văn chương hiện sinh"(19). Cũng như tác giả Trần Trọng Đăng Đàn coi bộ phận văn học yêu nước, cách mạng là "một dòng trong giữa những dòng đục"(20), nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá phân tích đặc điểm của khuynh hướng văn học tích cực này là "gắn bó chặt chẽ với phong trào đấu tranh đô thị, với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", "xác lập được khuynh hướng tư tưởng - nghệ thuật nhất quán và sáng tạo nhiều phương thức hoạt động độc đáo, đa dạng", "tập họp được nhiều lực lượng viết khác nhau và hình thành nên những trung tâm đấu tranh lớn". Tác giả kết luận: "Nó là sự tiếp nối của truyền thống; nó khẳng định tư tưởng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc luôn là nguồn mạch chính của văn học Việt Nam…"(21).

 

Khác với quan điểm trên, Võ Phiến cho rằng văn xuôi miền Nam vận động theo hai hướng: một là đi theo con đường truyền thống, hai là có xu hướng phản kháng lại. Dòng truyền thống bao gồm những tác giả không khác trước mấy về tư tưởng nghệ thuật lẫn quan điểm xã hội, nghĩa là vẫn phản ánh các vấn đề đạo đức, tình cảm, tâm lý... con người như các nhà văn của giai đoạn trước 1945. Ví dụ Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc... xếp vào khuynh hướng phong tục; Phan Du, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hạnh... có khuynh hướng xã hội; Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nhất Hạnh, Nguyễn Mộng Giác... thuộc khuynh hướng luận đề; Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Võ Hồng, Doãn Quốc Sỹ... có khuynh hướng luân lý. Các khuynh hướng phản ứng lại truyền thống gồm có: "phản ứng trong suy tưởng: Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu...; phản ứng trong nếp sống: Nguyễn Thị Hoàng, Chu Tử, Nguyễn Đình Toàn, Trần Thị NgH, Lệ Hằng...; phản ứng trong bút pháp: Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Đông Ngạc...". Võ Phiến còn nhấn mạnh thêm rằng những phản ứng, chống đối nêu trên "... vượt ra ngoài phạm vi tiểu thuyết, phạm vi văn nghệ; sự chống đối ấy bao trùm cả nếp sống trong xã hội, cả nếp tư tưởng, cả phong cách con người, cả bút pháp các nhà văn như chúng ta đã thấy..."(22).

 

Cách phân loại của Võ Phiến về đại thể vẫn dựa vào sự phân chia cũ của Vũ Ngọc Phan năm 1941 (Doãn Quốc Sỹ năm 1973 cũng phân tiểu thuyết thành 10 loại: phiêu lưu, phong tục, lịch sử, tâm lý, tả chân, hoạt kê...(23)), nhưng mặt khác lại chú trọng đề cao các hiện tượng mới và trào lưu văn học.

Những biểu hiện phức tạp của đời sống văn hóa bao gồm cả sự thay đổi nhiều chiều trong "nếp sống", "nếp tư tưởng", của nhà văn, thái độ chống đối lại văn hóa "truyền thống" quả thực gây trở ngại cho việc hệ thống nên mô hình phát triển của văn xuôi giống như Vũ Ngọc Phan đã làm cho giai đoạn trước.

 

Nhìn thẳng vào thực tiễn tồn tại của tác phẩm, tức là qua thị trường báo chí và sự tiếp nhận phổ biến của độc giả, còn có thể thấy văn xuôi miền Nam thể hiện qua các nhóm viết khác nhau, do các nhà văn cộng tác chung trong một tờ báo, tạp chí nào đó hay do gần gũi nhau về tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng chính trị - xã hội...

 

Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh là người đầu tiên chia văn xuôi đô thị miền Nam ra thành những nhóm bút như: Nhóm Người Việt (và sau là Sáng Tạo) gồm Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền...; nhóm Quan Điểm có Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ...; nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Nhật Tiến...; nhóm Nhân Loại gồm Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy...; nhóm Bách Khoa có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du... Thập niên 60 trở đi còn có thêm một số nhóm mới như Văn Nghệ, Khởi Hành, Thời Tập có Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Cung Tích Biền...; nhóm Văn có Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Ngụy Ngữ...; nhóm Trình Bày, Đất Nước, Đối Diện... gồm Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Thế Vũ, Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn...; nhóm Tuổi Ngọc có Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện...(24).

 

Mỗi nhóm văn lại có những khuynh hướng biểu hiện khác biệt về tư tưởng hay về nghệ thuật. Các thành viên của nhóm Sáng Tạo chủ trương đổi mới văn học theo hướng hiện đại hóa - đổi mới về tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và nhất là cách thể hiện nhân vật. Trong khi đó, nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh vẫn tiếp tục kiểu viết của Phong Hóa ngày xưa, nhưng khuynh hướng miêu tả tâm lý xã hội cổ điển ấy không gây được ấn tượng cho người đọc nữa. Nhóm Bách Khoa gồm các thành viên khác biệt nhau hoàn toàn về quan điểm chính trị - xã hội và phong cách viết, trong khi nhóm Nhân Loại (bao gồm cả tờ Vui Sống và nhà xuất bản Phù Sa) lại rất thống nhất trong đường lối quảng bá về con người và đặc điểm văn hóa miền Nam. Nhóm Sáng Tạo qui tụ phần lớn các nhà văn chống đối Cộng sản, công kích chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; còn những thành viên của nhóm Việt (cũng như các tờ Trình Bày, Đất Nước, Đối Diện) luôn tỏ rõ thái độ kiên quyết chống Mỹ, chống lại chính quyền Sài Gòn. Có nhóm, có nhà xuất bản mang tính tôn giáo, như Tạp chí Vạn Hạnh của viện Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Phật giáo), Tạp chí Đối Diện của Linh mục Chân Tín và Linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Công giáo)... Các nhóm như Văn Nghệ, Khởi Hành, Tuổi Ngọc... có nhiều nhà văn trẻ và tác phẩm của họ cũng chủ yếu nói về lớp trẻ, xoay quanh những đề tài như tình yêu, tâm trạng cô đơn, thất vọng...

 

Trong Hồi ký của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê nhận xét khái quát: "Trong hai chục năm sau Hiệp đinh Genève, văn học miền Nam phát triển khá mạnh. Về lượng, chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là kém, nhưng có điểm đặc biệt này là không một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh hưởng khá lớn trong dân chúng như nhóm Nam Phong những năm hai mươi (1920-1929) và nhóm Tự Lực những năm ba mươi (1932-1939)..."(25).

 

Khác với ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, trong Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969), tác giả Cao Huy Khanh nhận xét: "Tiểu thuyết miền Nam trong 15 năm qua đã thực sự vượt qua bên kia ranh giới của một thời văn chương đã từng huy hoàng trong quá khứ, thời văn chương gọi là văn chương Tiền Chiến..." (26).

 

Vai trò của báo chí, của các nhóm bút đối với đời sống văn học miền Nam thập niên 50, 60 rất lớn và không chỉ dừng lại ở chỗ tạo nên sự phong phú "nhiều hình, nhiều vẻ". So với thời kỳ "huy hoàng" (1932-1945) trước đó; sự cách tân, đổi mới trong văn học không tập trung tạo thành những cuộc Cách mạng rầm rộ hay những dòng chảy mạnh lôi kéo nhiều người tham gia; nhưng sự thay đổi trong ngôn ngữ văn chương, giọng điệu, nhân vật... theo chiều hướng hiện đại, tiến bộ hơn là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, dường như cái mốc 1954 đã đưa văn chương miền Nam vốn nặng về "tải đạo" từ thời "Lục Vân Tiên", chuyển dần sang văn chương mang tính "thực dụng" theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực của từ này.

 

Diễn trình văn xuôi đô thị miền Nam trong hai mươi năm không thẳng một đường, hướng tới một đích như văn học Cách mạng mà quanh co, biến hóa khác thường...

 

Trong thời kỳ đầu từ 1954 đến 1963, còn gọi là thời "Đệ nhất Cộng hòa" hay thời Ngô Đình Diệm, văn học mới hình thành có vẻ rất hào hứng, tràn trề hy vọng nhưng rồi nhanh chóng thất vọng. Mai Thảo và một số nhà văn từ miền Bắc vào từng rất tin vào khí thế "lên đường" của văn học mới và tưởng rằng họ sẽ gặt hái toàn những mùa "sáng tạo" bội thu:  "... Ta từng đi chật đất. Ta từng có, lớp lớp. Ta từng đến, hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học; từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp" (27). Nhưng hiện thực xã hội bi đát và hiện thực sáng tạo của Mai Thảo đã không chạy theo kịp với ý tưởng "tuyệt đẹp, tuyệt đúng" của Mai Thảo và "... Hai chữ "sáng tạo"... nghe như đượm một mùi tiếc thương dĩ vãng" (28). Không chỉ Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền mà cả Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Khắc Khoan... đều có tâm trạng chua chát ấy. Họ vẫn hoạt động, vẫn đi trên con đường văn chương nhưng đã làm rơi mất niềm tin tích cực về nó ngay sau khi khởi hành. Vấn đề còn lại là viết để mưu sinh và theo quan niệm cá nhân của mỗi người...

 

Từ 1963 trở đi, nhất là khi Mỹ đổ quân vào miền Nam thì cả đời sống chính trị và đời sống văn chương đều biến đổi dữ dội. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh nhận xét: "Sau 1963, văn chương miền Nam biến thái cùng với một mối ám ảnh thường xuyên, khốc liệt: ám ảnh chiến tranh và tất cả những gì xung quanh chiến tranh" (29). Một số nhà văn quay về quá khứ, hoài niệm cảnh sống bình yên của nông thôn ngày trước hoặc quay lưng lẩn tránh thực tại. Một số nhà văn khác lại phản ứng với hiện thực bằng cách thể hiện nhân vật trong tác phẩm có thái độ thách thức, hành động ngược lại với những qui ước đạo đức vốn sẵn có. Hàng loạt tác phẩm viết về chiến tranh ra đời. Nhưng vẫn chưa thấy có tác phẩm nào đủ tầm, đủ sức khái quát toàn bộ cuộc chiến, nhất là nói cho đúng nguyên nhân sâu xa và tác động của nó đối với người dân Việt hai miền.

 

Giai đoạn 1968 đến 1975 là thời kỳ bi quan, khủng hoảng. Trên văn đàn hầu như chỉ thể hiện rõ hai khuynh hướng tư tưởng: một là chán nản, tuyệt vọng, phá phách; hai là chống Mỹ, đề cao dân tộc. Các báo và tạp chí thay nhau giải thể, tan rã, rồi thành lập mới, nhiều nhà văn ngừng viết, nhiều người mới nhập cuộc... Diện mạo văn xuôi nhìn chung không thay đổi nhưng đã có sự hoán vị âm thầm về đề tài, thể loại và vị trí nhà văn. Bình Nguyên Lộc từ tiểu thuyết, truyện ngắn chuyển sang biên khảo. Sơn Nam cũng vậy. Võ Phiến từ truyện đi qua tùy bút, tạp bút. Vũ Hạnh lấn hẳn sang lý luận, phê bình. Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Trần Hoài Thư... vào "quân ngũ" và chủ yếu viết về đề tài chiến tranh. Nhã Ca từ thơ chuyển sang nổi tiếng ở lãnh địa văn xuôi với những tác phẩm như Đêm nghe tiếng đại bác, Dải khăn sô cho Huế, Tình ca cho Huế đổ nát... Lê Xuyên, Chu Tử... thu hút độc giả trẻ bằng những tiểu thuyết trộn lẫn tình yêu bản năng, trụy lạc với lối sống hiện sinh...

 

Văn xuôi đã biến đổi, đã đi qua các đoạn đường thăng trầm của thời cuộc, thay đổi từ đội ngũ tác giả đến những tác phẩm truyện, ký sự, tiểu luận... Võ Phiến cho rằng sự thay đổi này "... không phải là sự thay thế những cái tên suông, mà là sự thay thế cả một chiều hướng tinh thần..."(30). Lữ Phương gọi đó là hệ quả tất yếu từ "cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam" (31).

 

Căn cứ vào mục đích sáng tác và thực tiễn tiếp nhận tác phẩm của người đọc, có thể phân biệt văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 ra làm ba thành phần: Thứ nhất - loại tác phẩm giải trí đơn giản (thường dành cho độc giả bình dân); thứ hai - loại tác phẩm hướng đến các giá trị tư tưởng hay đạo lý truyền thống; thứ ba là những tác phẩm mang tính trào lưu hướng đến những cách tân, đổi mới về nghệ thuật. Sự phân chia này dĩ nhiên không phải là những nhát cắt rạch ròi, xác định bởi văn chương nghệ thuật vốn phức tạp và một tác phẩm vẫn có thể đi theo nhiều mục tiêu khác nhau. Bản thân đời sống văn chương phong phú cũng đã phản ảnh nhu cầu thưởng thức và cảm thụ văn chương rất đa dạng của người đọc.

 

Tuy nhiên nếu đặt tác phẩm văn học trong dòng chảy lịch sử có kế thừa và đổi mới; chúng ta cũng có thể nhận ra sự thay đổi của văn xuôi theo các xuất xứ văn hóa: Nhóm các nhà văn di cư, vào Nam vẫn mang theo cách viết truyền thống trước đó (văn xuôi giai đoạn 1932-1945) gồm có Nhất Linh, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Doãn Quốc Sĩ, Lê Tất Điều, Phan Văn Tạo, Tạ Tỵ... Nhóm các nhà văn di cư chủ trương đổi mới văn nghệ cả nội dung tư tưởng lẫn thủ pháp nghệ thuật như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh... Hai nhóm nhà văn mang đặc điểm văn hóa xứ Bắc, dù có chung ngôn ngữ giọng Bắc và bối cảnh quê nhà nhưng quan niệm về con người và những đặc trưng thi pháp rất khác biệt nhau. Đối với các nhà văn Nam Bộ như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Trang Thế Hy... việc đi theo đường hướng miêu tả chân thực phong tục, cuộc sống con người miền Nam từ thế hệ Hồ Biểu Chánh trước đó là khá rõ ràng. Một số nhà văn khác, tuy không chủ trương viết về đất và người ở một vùng không gian xác định nhưng vẫn thể hiện đặc điểm và sắc thái văn hóa địa phương trong mỗi tác phẩm như một thói quen của hành động ghi nhận và phản ảnh hiện thực.

 

*

Nhìn nhận về "một chặng đường văn học" đã qua(32), có thể mỗi người có một ý kiến đánh giá khác nhau. Từ góc độ lý luận, có thể phân chia văn xuôi ra thành khuynh hướng này, khuynh hướng khác, nhưng từ thực tiễn đời sống của tác phẩm qua tiếp nhận của công chúng, còn thấy rằng thời gian mới là thước đo khách quan nhất. Tác phẩm nào thực sự có giá trị sẽ còn ở lại lâu dài với người đọc, truyện nào dở tất nhiên cũng bị đào thải nhanh.

 

Đi qua những thành kiến cực đoan cá nhân, những xung đột về chính trị, những cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề truyền thống và hiện đại, những biến hóa nhiều chiều của văn chương đương thời..., tác phẩm của nhiều nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân... viết ở thập niên 50, 60 trong lòng đô thị miền Nam vẫn còn được nhiều người yêu thích. Điểm chung nhất và là chỗ dựa vững bền của nó là hướng đến những giá trị văn hóa dân tộc, là bản sắc văn hóa mỗi vùng miền và tình yêu quê hương chân thành, tha thiết. Họ làm thành một dòng chảy riêng, không tách biệt nhưng cũng không nhập cuộc vào những trào lưu khác vẫn thường được coi là thịnh hành đương thời như "hiện sinh", "phân tâm", "ý thức"... Từ tác phẩm của những nhà văn có kiểu viết rất "truyền thống" và "cổ điển" này, người đọc có thể nhìn thấy bức tranh đa dạng của văn hóa miền Nam những năm trước 1975, những sự kiện làm đổi thay đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tinh thần của người dân.

 

_______________

(1), (23) Doãn Quốc Sỹ: Văn học và Tiểu thuyết; Sáng Tạo xuất bản; Sài Gòn, 1973; tr.348.

(2), (5), (10), (22), (30) Võ Phiến: Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 (Phần Tổng quan); Nxb. Văn nghệ; USA, 1986, tr.89, 47, 266, 267, 89.

(3), (18), (21), (32) Trần Hữu Tá: Nhìn lại một chặng đường văn học; Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.125.

(4) Cao Huy Khanh: Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973; Tập san Thời Tập, số IV, ra ngày 14-4-1974.

(6) Tạ Tỵ: Mười khuôn mặt văn nghệ, Tập 1. Kim Lai xuất bản, Sài Gòn, 1970;

- Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Tập 2. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1971.

(7), (8) Từ điển văn học bộ mới (Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên); Nxb. Thế giới, 2004; tr.133 phần viết về nhà văn Bình Nguyên Lộc; tr.1143, phần viết về Nguyễn Hiến Lê.

(9) Vũ Bằng: Tuyển tập Vũ Bằng (Triệu Xuân giới thiệu sưu tầm và tuyển chọn), Tập III; Nxb. Văn học, H, 2000; tr.537.

(11), (15) Nguyễn Nam Anh: Nhà văn Bình Nguyên Lộc (Phỏng vấn); Tập san Văn, số 199, ra ngày 1-4-1972.

(12) Cao Huy Khanh: Các thế hệ tiểu thuyết gia miền Nam thời hiện đại; Tập san Thời Tập, số III, ra ngày 14-3-1974.

(13) Cao Huy Khanh: Ngọc Linh, tình cảm miền Nam; Tập san Thời Tập, số XIV, ra ngày 10-11-1974.

(14) Nguyễn Ngu Í: Tổng kết cuộc phỏng vấn văn nghệ sĩ về truyện ngắn Việt và ngoại quốc được yêu thích nhất. Tạp chí Bách Khoa, số 73, năm 1960.

(16), (19) Phạm Văn Sĩ: Văn học giải phóng miền Nam, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1976, 377.

(17), (20) Trần Trọng Đăng Đàn: Văn hóa Văn nghệ... Nam Việt Nam 1954-1975; Tái bản. Nxb. Văn hóa Thông tin, H, 2000.

(24) Cao Huy Khanh: Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973; Tập san Thời Tập, số IV, ra ngày 14-4-1974.

(25) Nguyễn Hiến Lê: Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn học, H, 1993, tr.428.

(26), (29) Cao Huy Khanh: Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969); Tuần báo Khởi Hành, số 74, năm 1970.

(27) Nguyễn Mộng Giác: Nhìn lại 15 năm văn nghệ miền Nam; Tạp chí Bách Khoa, số 361-362, ra ngày 15-01-1972.

(28) Nguyễn: "Chờ sáng của Nguyễn Sỹ Tế" (phê bình tập đoản tác của Nguyễn Sỹ Tế, Sáng Tạo xuất bản; Tạp chí Tin sách, số 1-1963.

(31) Lữ Phương: Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam; Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1981.

 

Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/2007

Danh mục website