Nam quốc sơn hà và Quốc tộ - Hai kiệt tác văn chương chữ Hán mở đầu trong lịch sử văn học ngang qua triều đại Lê Hoàn

Kiệt tác thứ hai là Quốc tộ – không còn phải bàn. Kiệt tác thứ nhất là Nam quốc sơn hà – cũng hiển nhiên đích thực, song vẫn cứ bàn thêm, xem như những giọt nước tràn ly. Cả hai đều xuất hiện ở thời Hoàng đế Lê Hoàn – một ông vua tiêu biểu cho mẫu hình hoàng đế thời Đại (Cồ) Việt.

 

Thời đại Lê Hoàn, dầu có ngược lên và xuôi xuống ít năm, cùng với triều đại mà ông trị vì (980 – 1005), cũng chỉ vài ba chục năm, khoảng một đời, một thế hệ. Cứ nghĩ thời gian ngắn ngủi thế, đã đủ tạo lập một diện mạo văn chương ? Lâu nay, theo quán tính, người ta thường gọi Thơ văn Lý Trần hoặc Văn học thế kỷ X - XIV, gồm cả trước tác của ba triều đại Ngô Đinh Lê. Nhưng cả ba triều đại này, ngoài những vần sấm thi ngang qua, thì triều Ngô đã có gì, ngoài lời bàn của Ngô Quyền và kế sách Hoằng Thao, chưa đủ tiêu chí là môt tác phẩm văn học thành văn ; triều Đinh cũng chưa thấy gì thêm, ngoài lời sấm chấm hết : Đỗ Thích thí Đình Đinh… Chỉ còn triều Tiền Lê, thời Lê Hoàn, với tìm tòi mới, có thể mạnh dạn khẳng định : đây là một triều đại khai sáng văn học dân tộc bằng hai kiệt tác thi ca. Thơ văn thời này, ngoài một số bài thơ – kệ của các Thiền sư, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật : Thứ nhất là thơ sấm, thứ hai là văn chương bang giao, thứ ba là văn học yêu nước.

Thời này được xem là "vỡ tổ sấm ký" (Nguyễn Đổng Chi). Người xưa quan niệm sấm là những điềm hiện ra, bày ra trước (Sẩm giả – triệu dã) ; sấm lấy quỷ quyệt khéo lẽo làm lờinói kín, dự đoán lành dữ (Sấm giả, quỷ vi ẩn ngữ dự quyết cát hung). Sấm thời này là sản phẩm của Thiền sư, Đạo sĩ, Nho giả, mỗi người đều có ý đồ riêng khi tung ra những lời sấm, mỗi người đều có phần hiếu sự khi mượn lời thần bí báo trược sự cố cho rằng có nghĩa đổi dời sẽ xảy ra, nhưng phần chắc lại là khẳng định những biến cố đã xuất hiện. Nói thế vì sấm có thể có những câu báo trước, nhưng hầu hết lại được đặt ra khi đã xuất hiện các nhân vật và sự kiện lịch sử hữu quan. Câu sấm vào loại sớm nhất thời này là :

Đỗ thích thí Đinh Đinh

Lê gia xuất thánh minh

Cạnh tranh đa hoạnh tử

Đạo lộ tuyệt nhân hành.

Dịch là :

Đỗ Thích giết hai Đinh

Nhà Lê sinh thánh minh

Ganh đua bao kẻ chết

Đường đi người vắng tanh.

(Trần Quốc Vượng dịch)

Việt sử lược ghi lời sấm xuất hiện vào năm 974, để báo trước sự kiện sẽ diễn ra vào năm 979, nhưng lấy gì để chứng minh lời sấm đã đi trước sự cố đến 5 năm ? Huống chi đến Đại Việt sử ký còn thêm cả chuyện 12 sứ quân và triều Lý xuất hiện bằng một khổ thơ sấm 4 câu ? Về mặt văn học, có thể xem lời sấm trên đây là sự phản ánh xung đột chết chóc, và điều tiên tri hoàng đế anh minh sẽ xuất hiện. Thiền sư Vạn Hạnh "hễ nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như sấm" (Thiền uyển tập anh), đã hơn một lần báo trước Lý sẽ thay Lê :

Tật lê trầm Bắc thuỷ

Lý tử thụ Nam thiên

Tứ phương can qua tĩnh

Bát biểu hạ bình yên.

Dịch là :

Cây tật lê (tức nhà Lê) chìm biển Bắc

Cây lý (tức nhà Lý) mọc trời Nam

Bốn phương binh đao lặng

Tám cõi được bình an.

Sấm cho ta biết một nét sinh hoạt văn hoá tâm linh độc đáo của cộng đồng, lý tưởng muôn đời của dân tộc : muốn có thánh đế minh vương để an nguy trị loạn. Sự phồn thịnh của sấm thi, sấm ngữ, ở caí thời còn tao loạn và lắm thần linh, ma quỷ này, là nét đặc biệt của tinh thần thời đại.

Với tinh thần tự chủ, tự cường, triều đại Lê Đại Hành còn có danh tác của Văn chương bang giao. Văn học bang giao thời này mở đầu bằng một giai thoại : Lý Giác, sứ thần nhà Tống sang ta năm 987, bẻ hai câu thơ trong bài Vịnh nga của Lạc Tân Vương, để đùa anh lái đò Pháp Thuận :

Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Dịch là :

Ngỗng ngỗng hai con ngỗng

Chân trời nghển cổ trông.

Không ngờ, anh lái đò ung dung ngâm tiếp, cũng cải biên đôi chữ, cho trọn vẹn áng thơ hay của Lạc Tân Vương thần đồng Đường thi, khi mười tuổi :

Bạch mao phô lục thuỷ

Hồng trạo bãi thanh ba

Dịch là :

Lông trắng phơi nước biếc

Sóng xanh quậy chèo hồng.

Thâm ý của Lý sứ thần "điển nhã" đến vậy, mà vẫn bị chú lái đò ngang "bắt tài" bằng tinh thần vô tốn (không thua kém) tri thức văn hoá chung ở các nước đồng văn trong vùng. Khác với vẻ đẹp nên thơ của một thi thoại, bài thơ lưu biệt của Lý Giác tặng Pháp Thuận (lần này thì với tư cách pháp sư cố vấn của triều đình) đã có sắc thái chính trị. Pháp Thuận đem thơ này dâng vua. Vua cho Thiền sư Khuông Việt xem. Khuông Việt nói : "Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống". (Đại Việt sử ký toàn thư). Đó chính là lời thơ ở hai câu kết :

Thiện ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu

Khê đàm ba tĩnh kiến thiền thu

Dịch là :

Ngoài trời lại có trời nên chiếu

Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu.

Đến khi Giác ra về cùng năm 987, Khuông Việt làm bài từ theo điệu Vương lang quy để đưa tiễn, theo lệnh Lê Hoàn. Khuông Việt tức Ngô Chân Lưu (933 - 1011), theo sử sách là hậu duệ của Ngô Quyền, thời Đinh Tiên Hoàng được lĩnh chức Tăng thống và được ban hiệu là Khuông Việt đại sư (nhà sư lớn khuông phò nước Việt). Dưới triều Lê Đại Hành, sư được vua kính trọng "phàm các viêc quân quốc của triều đình, sư đều được tham dự". Khi giặc Tống xâm lược, vua sai sư đến cầu đảo thần linh phù hộ, giặc sợ hãi tan chạy". Sư cùng Pháp Thuận được cử ra tiếp sứ, dùng tài ứng đối ngoại giao khiến Giác kính phục. Bài Vương lang quy dưới đây, thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ thân mật, với giọng điệu trữ tình, vừa đằm thắm, hồn hậu, vừa cứng cáp, sáng trong, vượt qua lối thơ bang giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương :

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương

Dao vọng thần tiên phục đế hương.

Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang,

Cửu thiên quy lộ trường.

Tình thảm thiết,

Đối ly trường,

Phan luyến sứ tinh lang

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương

Phân minh tấu ngã hoàng.

Dịch là :

Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương,

Xa ngóng thần tiên lại đế hương.

Muôn dặm sóng xanh vượt trùng dương,

Trời xa trông về đường trường.

Tình thảm thiết

Chén đưa đường

Vin xe sứ giả vấn vương

Xin đem thâm ý vì Nam cương

Tâu rõ cùng thánh hoàng.

(Bùi Duy Tân dịch)

Lời văn của bài từ từng được bàn luận nhiều. Chữ ngã hoàng chẳng hạn, một số độc giả hiểu theo nghĩa là vua ta, tức hoàng đế nước Việt. Nhưng toi và cũng không ít học giả thì lại cho rằng phải hiểu ngã hoàng là hoàng đế của chúng ta, tức hoàng đế của nhà Tống mới phù hợp với từ đế hương ở câu thứ hai. Tôn xưng vua Tống là đế, là hoàng, hay hoàng đế, về sau sẽ trở thành thông lệ trong quan hệ bang giao giữa ta và các đế chế phương Bắc. Bấy giờ, Lê Hoàn, tước vương cũng chưa được phong, thì Khuông Việt sao dám gọi vua minìh là hoàng trước mặt đại diện của thiên triều. Phải gọi ngã hoàng là hoàng đế của chúng ta mới phù hợp với ngữ nghĩa, với từ chương giao tế, với sách lược bang giao của người xưa.

Bài từ, ngoài cảm xúc chân tinìh, làm nên giá trị như đã nói trên, còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quytác phẩm mở đầu cho thể tài từ khúc trong văn học cổ, một thể tài đang thăng hoa để trở thành danh ngữ Tống từ, tiếp nối Đường thi, Hán phú,... nước Việt ngâm Tống từ tiễn Tống sứ của nước Đại Tống, lẽ nào chỉ là chuyện ngẫu hứng ? Huống nữa "bài từ tiễn sư Ly Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được" (Lê Quý Đôn). Tác phẩm quả thực có nhiều chữ hay, tứ đẹp, vừa lụa là gấm vóc, vừa tao nhã điển chương. Tất cả nhằm thể hiện ý hướng : Dùng ngôn từ nghệ thuật chuyển tải đường lối bang giao hoà hợp Nam Bắc, một cách thân tình lịch lãm. Đường lối bang giao ấy là thừa nhận vai trò bá quyển chủ tể của Bắc triều Đại Tống (Đế hương, ngã hoàng) và vị trí chư hầu, phiên quốc của nước Nam (vị Nam cương). Bảo vệ chính quyền tự chủ là bất di bất dịch, còn thần phục thiên triều thì có thể uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo, cập nhật, thậm chí giả vờ. Sứ mệnh chính trị bang giao của bài ca tiễn sứ đã được đại gia Khuông Việt thể hiện thành công.

Song, dầu Vương lang quy có là danh tác văn chương giàu ý nghĩa lịch sử đi nữa, thì người ta cũng khó đồng tình với Nhà văn – Giáo sư Trần Thanh Đạm, khi ông lấy bài này, sóng đôi với bài Quốc tộ, xem đó là hai tuyệt tác mở đầu lịch sử văn học Việt Nam thời cổ của hai Thiền sư thi sĩ thời này. (Xem Hai Thiền sư thi sĩ mở đầu văn học cổ điển Việt Nam – Hồn Việt – NXB Văn học). Dựa vào tư liệu mà giới nghiên cứu cổ Việt Nam học, trong mươi năm gần đây phát hiện, tôi cho rằng Quốc tộ (QT) và Nam quốc sơn hà (NQSH) mới là hai kiệt tác ngang qua một đời vua : Lê Đại Hành.

Ở thời này, đề tài tập trung vẫn là những tác phẩm viết về tâm tư, tình cảm của thế hệ Lê Hoàn đối với vận mệnh của đất nước, vận hội của non sông. Bác Hồ, trong Lịch sử nước ta đã viết :

Lê Đại Hành nối lên ngôi

Đánh tan quân Tống, đánh lui Chiêm Thành.

Chiến tích anh hùng của cộng đồng quốc gia Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn thật tuyệt vời lại gắn với sự xuất hiện của một bài thơ huyền thoại : NQSH. Và điều này, với tư cách là người phát hiện, xin được trình bày cho rõ ngọn ngành.

Đầu những năm 90, nhân đi tìm tác phẩm đầu tiên của văn học dân tộc, để phản bác một ngộ nhận : Bạch vân chiếu xuân hải – bài phú khoa Tiến sĩ thời Đường của Khương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi đỗ lại trở về đất tổ, làm quan to, có lúc ngang Tể tướng đời Đường) là tác phẩm đầu tiên của văn học Việt, tôi đã chú ý đến xuất xứ của bài thơ NQSH. Vào cuộc tìm kiếm đầy hứng thú chưa lâu, thì được GS Trần Quốc Vượng mách cho những dòng viết của GS Hà Văn Tấn, trong bài Lịch sử, sự thật và sử học (Tổ quốc – số 401, thỏng 1 - 1988) "Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đến thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay mọi người dường như đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật".

Tạm quên ấn tượng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ để vô tư thâm nhập vào kho sách Hán Nôm, tìm kiếm những tư liệu ghi chép bài thơ, tên bài thơ, các tình tiết có liên quan đến bài thơ. Nhờ viện trợ của đồng nghiệp, thân hữu, trong một thời gian ngắn, tôi đã có được khoảng ba chục văn bản hữu quan, thuộc các loại sách lịch sử, địa lý, truyện ký, thơ ca,… và nhiều thần tích, thần phả truyền thuyết dân gian. Quan sát các văn bản này, thấy rõ nhiều điều :

1. Không có một văn bản nào ghi nhận Lý Thường Kiệt là tác giả, hoặc tương truyền là tác giả bài thơ.

2. Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của thần. Thần đây là Trương Hống, Trương Hát, tướng lĩnh của Triệu Quang Phục, bị Lý Phật Tử ép hàng, không chịu khuất phục, nên tự tử, trở thành phúc thần, được thờ phụng ở gần 300 ngôi đền ven các triền sông Cầu, sông Thương,…

3. Thần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ tai hoạn, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai lần thần trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống (981), lần thứ hai giúp Lý Thường Kiệt chống Tống (1076). Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau, và cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại. Xin mở ngoặc : bài Nam quốc sơn hà hiện hành, ở cả sách giáo khoa, thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, Trương Tôn thần sự tích – khuyết danh, v.v… chỉ khác Đại Việt sử ký toàn thư : đảo phận định thành định phận (Xem Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam,NXB Giáo dục, 2004).

4. Bài thơ không hề được tuyển vào các tuyển tập thơ ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành phần cơ hữu trong truyền thuyết dân gian. Nam quốc sơn hà chắc là do nhân sĩ thời tự chủ sáng tác, song đã được dân gian hoá, được hoàn thiện dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng. Rồi sau được cố định trong thần tích, thần phả, truyện ký nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho nên, phải coi đó là bài THƠ THẦN, tác giả là khuyết danh cũng được, nhưng là vô danh, hoặc vô danh thị thì khoa học hơn.

5. Từ trong những văn bản đáng tin cậy trên đây, có thể thấy : ngộ nhận Lý Thường Kiệt là tác giả NQSH của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược xuất bản từ 1919 – 1920, là do tự ý, chứ không dựa vào bất kỳ một tư liệu Hán Nôm nào. Đáng tiếc là sau đó, hầu hết các học giả đều sai theo, cho mãi đến thế kỷ XX, hoạ hoằn lắm, một Hoàng Xuân Hãn, một Đặng Thai Mai, mà cũng chỉ chút hoài nghi bất chợt mà thôi !

Các nội dung trên đây đã được viết thành dăm bảy bài bản, đăng tải trên hàng chục sách báo, tạp chí (Xưa & nay, Tạp chí Văn học, Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí văn hoá dân gian, Thế giới mới, Văn nghệ, Văn hiến Hà Nội, Lý Công Uẩn và Vương triều Lý, Khảo và luận, Từ điển tác gia – tác phẩm, Hợp tuyển văn học trung đại, Sách giáo khoa Văn học 9, Tư liệu văn học 10, v.v…), soạn thành giáo án giảng giải ở hàng trăm giảng đường đại học và cao học, cấu tạo thành lời cho nhiều hội thảo, nhiều cuộc chuyện trò, trao đổi… Tất cả đều một kết luận : NQSH là bài thơ thần, vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt như đã ngộ nhận. Kết luận này tuy khoa học, và không kém phần thuyết phục, nhưng ngược lại một định luật, tuy không đúng nhưng từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức đại chúng, nhất là thời gian chống Mỹ cứu nước, vì thế không dễ có ngay sự đồng thuận rộng rãi. Đành chờ đợi, chắc cũng chẳng bao xa, khi mà toàn bộ sách giáo khoa trung học bộ mới, cả sách Lịch sử và Ngữ văn đều đã khẳng định : NQSH là bài thơ thần, Lý Thường Kiệt có thể chỉ là người sử dụng bài thơ thần, để động viên quân sĩ xung trận mà thôi.

Đến đây, cần tìm thời điểm xuất hiện của bài thơ NQSH cũng như truyền thuyết Trương Hống – Trương Hát, như một tác phẩm nhân gian truyền miệng. Tư liệu còn lại cho ta biết Thần phù trợ người trừ tai ngữ hoạn nhiều lần, ở nhiều nơi vào những năm tháng khác nhau từ Ngô Đinh Lê xuống đến Lý Trần. Song, Thần trực tiếp đọc thơ âm phù đánh giặc ngoại xâm, thì chỉ có hai lần. Lần giúp Lý Thường Kiệt , nhiều người đã biết, lần giúp Lê Hoàn được kể như sau : Năm Thiên Phúc nguyên niên ( 980) đời Lê Đại Hanh, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cầm đạo đạo quân xâm lược nước Nam. Đến sông Đại Than, hai bên đối luỹ, cầm cự với nhau. Lê Đại Hành được mộng báo của Thần Trương Hống – Trương Hát : "Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh". Canh ba đêm sau, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng… hai đạo âm binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc mà đánh. Quân Tống kinh hoàng. "Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư

Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm

Bạch nhẫn phiên thành phá trúc dư

Dịch là :

Núi sông nước Nam, vua nước Nam ngự trị

Điều ấy trời đã định rõ trong sách trời

Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm

Bay sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre

Dịch thơ :

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự

Sách trời định phận rõ non sông

Cớ sao giặc Bắc sang xâm phạm,

Bay hãy chờ gươm chém tả tơi.

(Ngô Linh Ngọc dịch)

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chaỵ tan… Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thơ, huyết thực hưởng đời đời (Lĩnh Nam chích quái – Trần Thế Pháp – Vũ Quỳnh – Kiều Phú).

Dựa vào tư liệu trên và nhiều truyền thuyết thần tích khác, có thể dự đoán : bài thơ còn lại xuất hiện dưới một hình thức nào đó từ thế kỷ VI thời Lý Nam Đế (hầu hết văn bản bài thơ còn lại đều có chữ Nam đế cư ở dòng thơ đầu). Rồi cứ tiếp tục lưu truyền, nhập thân vào truyền thuyết Trương Hống – Trương Hát. Đến đời tự chủ thì bài thơ mới đủ điều kiện xuất hiện như một quốc thi chính thống. Nhưng đầu thời tự chủ, cũng gần một thế kỷ, thời điểm nào cho bài thơ đắc dụng ? Chắc không phải là thời đã giành được chính quyền, nhưng vẫn tự xưng và tự phong là Tiết độ sứ từ Khúc Thừa Dụ (905 - 907) đến Dương Đình Nghệ (931 - 937). Chắc chưa phải triều Ngô Quyền (938 - 907) đã xưng vương (939), thể hiện ý thức tự chủ, sánh ngang với các chư hầu của thiên triều, như dự đoán của cố GS Bùi Văn Nguyên : "Bài thơ này có sắc thái dân gian, xuất hiện thời Ngô Quyền với trận Bạch Đằng thứ nhất. Về sau, Ngô Tuấn (tức Lý Thường Kiệt), dòng dõi Ngô Quyền nhắc lại bài đó ở trận sông Như Nguyệt. Ngô Sĩ Liên chép bài thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau tưởng là thơ Lý Thường Kiệt. Nếu cần có cái tên cho bài thơ khuyết danh này, thì để Ngô Quyền, ông tổ của Ngô Tuấn ló lẽ đúng hơn" (Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học xã hội, 1995, tr. 22). Thậm chí cũng khó có thể là triều Đinh, dầu cho thời này, vua đã dám xưng là Đinh Tiên Hoàng, sánh so ngang ngửa với Tần Thuỷ Hoàng ngày xưa và Hoàng – Đế Trung Hoa cùng thời. Hơn nữa, thời này chưa có ngoại xâm lăm le ngoài cõi, chưa cần lời lẽ "tuyên ngôn". Mà là ở thời Hoàng đế Lê Hoàn, như PGS – TS. Trần Bá Chí khẳng định : Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định Xem : Tạp chí Hán Nôm, số 4 - 2003. Bài Về mấy bài Tuyên ngôn độc lập). Nguyễn Thị Oanh trong một công trình nghiên cứu công phu, trên Tạp chí Hán Nôm, số 1 - 2002. Bài Về thời điểm ra đời của bài thơ "Nam quốc sơn hà") cũng chỉ ra rằng : bài thơ Nam quốc sơn hà vốn xuất hiện thời Lê Hoàn, như nhiều sách Lĩnh Nam chích quái đã ghi chép, nhưng nhà sử học Ngô Sĩ Liên, theo quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của Lê Hoàn, ưa lòng trung nghĩa của Lý Thường Kiệt, nên đã đem thơ thần phù trợ vua Lê gán cho phù trợ tướng Lý ; nay nên trả bài thơ về cho sĩ dân thời đại Lê Hoàn.

Bổ sung vào cách nhìn trên, trộm nghĩ nên là cách nhìn dưới góc độ văn hoá, nhất là văn hoá tâm linh của thời Lê Hoàn, có phần đã khác với thời đại Lý Thường Kiệt sau hàng trăm năm. Nam quốc sơn hà trong truyền thuyết Trương Hống – Trương Hát là tác phẩm có tính chất tập thể, truyền miệng. Sự hình thành tác phẩm là một quá trình, dõi theo hướng thời gian tiệm tiến. Quá trình ấy đi từ huyền đến thực, từ mộng đến thực tiễn, qua cả người ghi chép. Quá trình ấy cũng thể hiện rõ, qua cách thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt. Thần ở cõi hư tiếp xúc với Người (Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt) ở cõi thực, đã giảm dần chất siêu nhiên, linh dị, sắc thái huyền ảo, trước mung lung, nồng đượm, sau nổi nênh, ngoà nhạt, hư thực dường phân. Có cảm giác cả thiên truyền thuyết trong Lĩnh Nam chích quái chỉ để viết về huyền thoại thần điều âm binh, đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc. Trong truyền thuyết, không khí thần kỳ linh dị mung lung, huyền bí, thấm đậm bao trùm, hư thực ảo huyền, âm dương hỗn độn, thần người ứng chiến, thế trận ầm trời dậy đất, mưa to gió lớn đùng đùng,… Còn truyền thuyết trong Việt điện u linh Đại Việt sử ký toàn thư thì tình thiết thần đọc thơ âm phù Lý Thường Kiệt chỉ còn là một phiến đoạn, bị đẩy xuống đáy truyện, hoặc để ở cước chú, với chỉ vài câu rằng : đến đời Lý Nhân Tông, quân Tống sang xâm lược, Lý Thường Kiệt lập trại ven sông chống giữ. Một đêm quân sĩ trong đền nghe được tiếng thần ngâm thơ : Nam quốc sơn hà… Rồi quả nhiên quân Tống bị thua phải rút về nước… Tình tiết linh dị, thần kỳ của truyền thuyết bị tước bỏ, không khí huyền thoại loãng nhạt. Nếu nói như F. Hêghen : "Huyền thoại như là một giàn giáo nâng đỡ lịch sử. Nếu chúng ta cốt tình gỡ bỏ giàn giáo đó, thì toàn bộ lịch sử sẽ sụp đổ". (Dẫn lại bài : Tư tưởng, Thế giới mới,557, 22 - 3 – 2005, tr. 108), thì giàn giáo huyền thoại thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc còn rõ dạng hình, đến Lý Thường Kiệt đã bị gỡ bỏ dần, theo tư duy duy lý của Nho gia ; không nói đến : "quái, lực, loạn, thần". Coi Nam quốc sơn hà ươm ủ tử lâu, sau nhập vào truyền thuết lịch sử Trương Hống – Trương Hát để xuất hiện đích thực vào thời Lê Hoàn, là một dự đoán giàu sức thuyết phục. Với tư liệu hiện nay, một kết luận như thế là tối ưu. Nam quốc sơn hà được coi như bản tuyên ngôn độc lập, vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ, ngôi vị Nam đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua,… dựa vào thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc thời diệt Tống bình Chiêm của triều đại Lê Đại Hành. Nhận định như thế là phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển của văn hoá, văn học, của lịch sử dân tộc.

Kiệt tác thứ hai, ở triều đại hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà pháp sư Pháp Thuận, danh gia đã đề cập tới ở phần trên, khi tiếp sứ Lý Giác. Theo Thiền uyển tập anh, tác phẩm duy nhất còn giữ lại được văn bản bài thơ, thì Đỗ Pháp Thuận (915 - 900) học rộng, có tài văn thơ, lời nói phần nhiều hợp với sấm ngữ : "Trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn, hoặch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên mà gọi Đỗ Pháp sư, thường uỷ thác cho sư các công việc văn hàn… Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài, sư đáp :

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh

Dịch nghĩa :

 Vận nước dài lâu như dây leo quấn quýt

Ở trời Nam phải dựng mở thái bình

Nhà vua sống vô vi ở trong cung điện

Thì khắp nước sẽ tắt hết chiến tranh.

Dịch thơ :

Vận nước bền vững mãi

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trong điện gác

Chốn chốn hết đao binh.

(Bùi Duy Tân dịch)

Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. Thơ văn Lý Trần I có lẽ là tập sác giới thiệu bài thơ đầu tiên, với nhan đề : Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (Trả lời nhà thơ hỏi về vận nước). Tổng tập văn học Việt Nam, tập 1, xuất bản năm 1980 đặt tên bài thơ là Quốc tộ (Vận nước, hoặc Ngôi nước). Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được các sách văn học sử, tổng tập, tuyển tập và cả sách giáo khoa văn học đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc. Một số sấm thi, sấm ngữ và cả Nam quốc sơn hà thường là khuyết danh hoặc vô danh, nên chưa thể xác định được năm tháng tác phẩm ra đời. Thơ kệ của một số thiền sư nặng về thuyết giáo, giá trị văn học có phần hạn chế và hầu hết ra đời còn sau cả Quốc tộ, nên tính chất cột mốc của tác phẩm là điều cần khẳng định.

Cũng như Nam quốc sơn hà, Quốc tộ là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua "hỏi về vận nước ngắn dài", nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thuý, bày tỏ chính kiến của mình : "Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách "vô vi nhi trị". Ba nhãn tự : quốc tộ, thái bình, vô vi vừa là điều kiện vừa là nhân quả cho nhau. Quốc tộcó nhiều nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mện quốc gia. Thái bình theo chữ Hán Việt từ điển của GS Đào Duy Anh : rất bình yên, thịnh trị, tức một xã hội thanh bình, yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. Vô vi là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão Tử, nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị trói buộc trong khuông phép đạo đức nhân vi. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ mới, khi đặt bài này ở vị trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho "vô vi" nghĩa trong "vô vi pháp" của sách Phật : từ bi, bác ái, vị tha. Thậm chí có thể nghĩ rằng, với tư cách một Thiền sư, một cố vấn chính sự, Pháp Thuận đã thể hiện quan niệm tam giáo trong lời thơ. Vô vi ở đây gồm "vô vi" của Đạo giáo, "vô vi pháp" của Phật giáo, song chủ yếu là "vô vi nhi trị" của Nho gia. Sách Luận ngữ, thiên Vệ Linh Công, có chương : "Tử viết : Vô vi nhi trị, kỳ Thuấn dã dư ? Phù hà vi tai ? Cung kỷ chính nam diện nhi dĩ hĩ". Nghĩa là : cái kẻ tự cho mình ung dung yên tĩnh, mà khiến thiên hạ bình trị, có lẽ là Thuấn đấy ư ? Ông ta có làm gì đâu ? Nghiêm trang đoan chính quay mặt về phía Nam [ý nói làm vua] mà thôi. GS. Cao Xuân Huy giảng rằng : "Vô vi của Khổng Tử là không bày đặt ra, không khai sáng ra, không tổ chức cái gì cả. Đây cũng là thiên nhân hợp nhất, có đức thì trị được, thì người ta hoá theo". Vô vi ở bài thơ chủ yếu thể hiện phương châm đức trị, đó là hàm ý uyên áo của nhà sư. Như vậy là, với Quốc tộ, Pháp Thuận đã khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình muôn thủa, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời nhà vua, bằng bốn câu thơ, với nội dung như thế, Pháp Thuận là Thiền sư – Thi sĩ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái bình muôn thủa của cộng đồng Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn.

Như vậy, triều vua Lê Hoàn, ngoài chến tích lẫy lừng, còn có thành tựu lớn về văn chương. Hai áng thơ chính luận, hai kiệt tác không tiền khoáng hậu Nam quốc sơn hàQuốc tộ đều là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những truyền thống lớn của văn hoá, văn học dân tộc. Từ lâu, từng khẳng định Nam quốc sơn hà có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì nay phải khẳng định thêm Quốc tộ có giá trị như một bản tuyên ngôn hoà bình. Hai kiệt tác ngang qua một đời vua – quang vinh – sang trọng và hoành tráng biết bao.

Tháng 5 - 2005

(Nhân dân cuối tuần, ra ngày 11-9-2005;

Tạp chí Hán Nôm,số 5 – 2005;

Tạp chí Văn hiến Việt Nam, số 8 – 2005;

Xưa nay, số 243 – 9 – 2005;

Thăng Long Hà Nội ngàn năm, số 30 – 2005;

Tạp chí sông Châu (Hà Nam), số 53 – 2005;

Bùi Duy Tân tuyển tập. NXB Giỏo dục, H., 200

 

 

 

Giới thiệu bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ

  •   Bùi Duy Tân
  • Thứ hai, 21 Tháng 11 2011 16:29
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ

Cho đến nay, tôi đã viết đến bốn năm bài khác nhau, về tác giả, tác phẩm bài thơ Nam quốc sơn hà, ấn hành trên các Tạp chí Hán Nôm (2 - 1993), Tạp chí Văn học (10 - 1996), Tạp chí Văn hoá dân gian (4 - 2000), Xưa và Nay (1 - 2001), Văn hiến Hà Nội – Văn nghệ Vĩnh Phúc (2 - 2001), Thế giới mới (3 - 2001),…

Các bài viết đều nhằm sửa chữa một ngộ nhận đã từ lâu của nhiều độc giả, và cũng là để cải chính một lầm lẫn đã ít nhiều đi vào tâm thức đại chúng, về tác giả và tác phẩm Nam quốc sơn hà.

I – VĂN BẢN

Phiên âm :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,

Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm ?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Theo nguyên bản chữ Hán Việt sử tiêu án – Ngô Thì Sĩ – A11; Trương tôn thần sự tích. VHv 1286.)

Dịch nghĩa :

NÚI SÔNG NƯỚC NAM([1])

Tác giả : Không họ tên([2])

Núi sông nước Nam thì vua Nam ngự trị ([3]),

Cương giới đã phân định rạch ròi tại sách trời.

Sao bọn giặc nghịch lẽ trời dám đến xâm phạm,

Chúng bay hãy chờ xem, sẽ chuốc lấy bại vong ([4])

Dịch thơ :

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,

Sách trời định phận rõ non sông.

Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm ?

Bay hãy chờ coi, chuốc bại vong !

(Ngô Linh Ngọc dịch)

II – TƯ LIỆU VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1. Về tác giả

1.1. Đã từ lâu, bài thơ Nam quốc sơn hà được nhiều học giả cho là của Lý Thường Kiệt (1019 - 1105). Nay theo sử sách, địa chí, truyền thuyết, truyện ký, thần tích,… còn được tàng trữ ở các kho sách Hán Nôm, thì bài thơ này là do thần Trương Hống, Trương Hát ngâm vang giữa trời đêm, âm phù Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống xâm lược, vào năm 981 và 1076. Không có một tư liệu nào trong khoảng 30 văn bản Hán Nôm hiện còn, in ấn hoặc ghi chép bài thơ là do Lý Thường Kiệt hoặc tương truyền Lý Thường Kiệt viết ra. Lý Thường Kiệt có lẽ sai người nấp trong đền Thần ngâm to bài thơ đã có sẵn trong thần tích, để khích lệ tướng sĩ. Việc làm đó rất phù hợp với tín ngưỡng và tâm lý sĩ dân lúc đương thời. Bài thơ đã là của thần thì có thể gọi là thơ thần, thực chất cũng do con người (chắc là trí thức dân tộc : thiền sư, cư sĩ, nho sĩ, đạo sĩ) ở đầu thời tự chủ (thế kỷ X, XII,…) sáng tác, lưu truyền rồi đưa vào truyền thuyết, thần tích về Trương Hống, Trương Hát. Đã là thơ thần, nằm trog một truyền thuyết, huyền tích, thần phả, thì bài thơ rõ ràng mang tính chất tập thể, truyền miệng, tính chất của một tác phẩm văn học dân gian, và tác giả của bài thơ, giống như các tác phẩm dân gian khác, là : Vô danh thị, tức không họ không tên, Vô danh thị chứ không phải khuyết danh thị (còn khuyết họ tên) hay Khuyết danh như ta thường nói và viết. Bởi lẽ, Khuyết danh thị thì còn hy vọng tìm ra họ tên tác giả, chứ Vô danh thị như tác phẩm văn học dân gian, thì không bao giờ có thể tìm ra tác giả được nữa.

Sau đây trích dẫn bốn tư liệu ở bốn thể tài liệu biểu : Sử ký, địa chí, truyền thuyết, thần tích,… viết về "Tác giả" bài thơ thần và hiện tượng âm phù.

 1.2. + "Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân cũng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng : Nam quốc sơn hà Nam đế cư… quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà chạy tan… Lê Đại Hanh trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân,… sai dân phụng thờ,… nay vẫn còn là phúc thần"([5]).

+ "Người đời truyền rằng Lý Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương Tướng quân có tiếng ngâm to rằng : Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư. Sau đó quả nhiên như thế…"([6]).

+ "Sông Như Nguyệt ở địa phận huyện Đông Ngàn và huyện Tiên Du, có đền Trương Tướng quân. Đời Lý Nhân Tông, người nhà Tống sang xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt đến đấy, nghe thấy trong đền có ngâm thơ răng : Nam quốc sơn hà… thủ bại thư.

Thế rồi giặc quả nhiên thua. Lý Nhân Tông mới sai lập đền thờ thần ở sông Như Nguyệt"[7].

+ "Đến thời vua Lý Nhân Tông, quân Tống sang lấn, tiến vào trong cõi. Vua sai Thái uý Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm quân sĩ nghe trong đền có tiếng thần ngâm thơ : Nam quốc sơn hà Nam đế cư… thủ bại hư.

Rồi quả nhiên quân Tống bị thua, phải rút về nước"([8]).

2. Về tác phẩm

2.1. Về văn bản bài thơ

Nam quốc sơn hà còn khoảng 30 văn bản, trong đó chỉ vài văn bản gần như hoàn toàn giống nhau, còn lại là những văn bản có chữ khác nhau ở cả bậc từ ngữ và câu cú. Có học giả đã lập thành một văn bản chuẩn với kiến giải khá thuyết phục. Nhưng do văn bản đang dùng trong trường học và ngoài xã hội đã trở nên quan thuộc hàng dăm bảy thập niên, hơn nữa văn bản đang dùng cũng được các học giả trích xuất nguyên văn từ Trương tôn thần sự tích, so với văn bản trong quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư đã trích dẫn ở trên, chỉ đảo có một từ (phân định định phân, nên "văn bản chuẩn" đưa ra chưa mấy ai chấp nhận. Vì vậy, bản thường dùng trong và ngoài nhà trường hiện nay vẫn cứ là bản đã lưu hành ổn định đã từ lâu. (Những đoạn không có "…" là phần viết của Bùi Duy Tân).

2.2. Về giá trị bài thơ

Từ lâu Nam quốc sơn hà vẫn được xem là một trong mấy tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của nước ta từ xưa đến nay. Bây giờ, trả bài thơ về cho tác giả đích thực của nó. Vô danh thì, cùng với việc bài thơ được thần đọc giúp Lê Hoàn đánh giặc năm 981, thì bài thơ có thêm giá trị mới : cổ kính nhất, trước cả Quốc tộ (Vận nước) của Đỗ Pháp Thuận, mãi sau chiến thắng chống Tống năm 981 mới ra đời. Như vậy Nam quốc sơn hà là bài thơ thuộc loại hay nhất và cổ nhất của dòng văn học viết khi nền văn học dân tộc chính thức chào đời. Tuy nhiên, giá trị của Nam quốc sơn hà trước hết phải vị thế bản tuyên ngôn – Tuyên ngôn độc lập đầu tiên – của nền tự chủ Đại Việt.

2.3. "Bài thơ đã được ghi vào lịch sử như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta sau hơn một nghìn năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ"([9]).

Đại Việt sử ký toàn thư ghi : "Một hôm quân sĩ (của ta) chợt nghe ở trong đền Trương Tướng quân có tiếng đọc to rằng : Nam quốc sơn hà Nam đế cư… thủ bại hư. Đây chính là bài thơ thần kích động tinh thần yêu nước thành sức mạnh chiến đấu trực tiếp diệt thù"([10]).

"Dưới hình thức những mách bảo của thần linh (của hai vị thần Trương Hống, Trương Hát), bốn câu thơ trang trọng khẳng định sự tồn tại khách quan của nước Nam, một quốc gia hoàn toàn độc lập và cảnh cáo những kẻ cố tình không thừa nhận sự tồn tại thiêng liêng ấy… Kết tinh từ lòng yêu nước và căm thù giặc chất chứa hàng ngàn năm, bài thơ như một sức nến của ngôn từ, đã có một âm vang đặc biệt, dội vào tâm hồn nhiều thế hệ, có các khí thế đứng trên mà đè bẹp kẻ thù"([11]).

"Bốn câu thơ trang trọng, đanh thép, hai mươi tám chữ vàng, đã khẳng định sự tồn tại khách quan của nước Việt với tư cách là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ riêng biệt… Bài thơ còn chống lại tư tưởng kỳ thị Hoa Di, vừa ngu xuẩn vừa phản động của bọn phong kiến phương Bắc, phủ nhận vai trò độc tôn của hoàng đế Trung Hoa, khi ngầm đối sánh Nam và Bắc, vua Nam và vua Bắc, núi sông nước Nam và núi sông nước Bắc. Bài thơ có tính chiến đấu cao, xứng đáng được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt tự chủ"([12]).

"Nam quốc sơn hà là bài thơ ngắn, chỉ gồm 28 chữ nhưng đã tuyên bố rõ tính chất "pháp lý" về chủ quyền nước Đại Việt của người Đại Việt. Tiêu chuẩn cho người Đại Việt – người nước Nam – bấy giờ là hoàng đế nước Nam. "Hoàng đế nước Nam ở nước Nam" điều đó đã được sách trời ghi rõ. Hoàng đế nước Nam không "tiếm vị", không"nghịch mệnh trời". Đó là lý do xác đáng để nếu kẻ địch hung dữ nào dám xâm phạm tới ắt sẽ bị bại vong. Bài thơ vừa tuyên bố chủ quyền đất nước, vừa tuyên bố quyết tâm giữ vững chủ quyền đất nước củă dân tộc Đại Việt"[13].

III – GỢI Ý TÌM HIỂU GIÁ TRỊ BÀI THƠ

Nam quốc sơn hà là một kiệt tác văn chương, thể hiện chân thực nhất, tâm huyết và ý chí của người Việt ở cái thuở ban đầu thời tự chủ.

1. Khẳng định sự tồn tại khách quan, thiêng liêng của chủ quyền, lãnh thổ nước Nam.

2. Chống lại tư tưởng bá quyên, thái độ kỳ thị Hoa Di, vai trò độc tôn của Hoàng đế Trung Hoa.

3. Cảnh cáo quân giặc sẽ thất bại và thể hiện niềm tin chiến thắng của quân ta.

4. Đây là một bài thơ chính luận, thơ hịch, với ngôn từ nghêm trang, đĩnh đạc, với kết cấu chặt chẽ, hợp lý. Cái hay của bài thơ là cái hay của một bản Tuyên ngôn, tuyên chiến, với lập uận giản dị mà hàm súc, đanh thép mà cập nhật : Nước Nam là của vua Nam, điều thiêng liêng ấy đã ghi ở sách trời, kẻ nào vi phạm, kẻ ấy bại vong.

 

(Tư liệu văn học,Tập I. NXB Giáo dục, 2001;

In lại trong Bùi Duy Tân tuyển tập.

NXB Giáo dục, H., 2007)


 



([1]) Bài thơ nằm trong một văn bản dưới dạng truyền thuyết, thần phả, huyền tích, truyện ký, sự tích… nên không có đầu đề. Các học giả thời nay bèn lấy bốn chữ ở đầu câu thơ thứ nhất, đặt đề cho bài thơ là Nam quốc sơn hà.

([2]) Trước đây, tác giả bài thơ này thường được ghi là Lý Thường Kiệt. Sự thực Lý Thường Kiệt có thể là người sử dụng một cách sáng tạo bài thơ đã lưu truyền từ lâu, để cổ vũ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, chứ chắc chắn không phải là tác giả bài thơ. Cho nên ở đây đề là Vô danh thị (Không có họ tên tác giả) là để trả bài thơ về cho tác giả đích thực của nó : Nhân sĩ buổi đầu thời tự chủ.

([3]) Ngự trị : Dịch chữ cư ra ngự trị, để rõ được cái nghĩa bao hàm vua nước nam vừa quản lý vừa cai trị đất nước của mình, theo thể chế vương quyền. Dịch là ở ("Núi sông nước Nam thì vua Nam ở". Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1977, tr. 321) như động từ ở vẫn quen dùng, thì hơi thông tục, quá giản đơn và có phần nhẹ nghĩa, lại thiếu một chuý gì như là sự trang trọng. Dịch là làm chủ ("Núi sông nước Nam, Nám đế làm chủ". Tổng tập văn học Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H., 1980, tr. 251) như vẫn thường nói : "Tinh thần làm chủ", "làm chủ tập thể" thì hơi cứng cỏi, có phần cập nhật và cũng nghiêm chỉnh, song chưa thật đầy đặn những gì như là sự bình dị, cổ kính.

([4])Ngôn từ dịch chú bài thơ này từng được nhiều học giả đi sâu bàn kỹ, làm cho 28 chữ vàng ngày càng được hiểu tường tận. Chúng tôi, trong phạm vi có thể, cũng có phần dựa vào tìm tòi giày sức thuyết phục của người đi trước, để dịch nghĩa, chú giải bài thơ ở sách này cho thật tốt.

([5]) Lĩnh Nam chích quái,Vũ Quỳnh – Kiều Phú, Bản dịch, NXB Văn học, H., 1990, tr. 83 - 84.

([6]) Đại Việt sử ký toàn thư,tập I. Bản dịch, NXB Khoa học xã hội, H., 1983, tr. 291.

([7]) Dư địa chí, Lịch triều hiến chương loại chí,Phan Huy Chú, tập I, NXB Sử học, H., 1960, tr. 89.

([8]) Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên. Bản dịch, NXB Văn học, H., 1972, tr. 70 - 71.

([9]) Lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1971, tr. 182.

([10]) Đại cương lịch sử Việt Nam,tập I, Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, NXB Giáo dục, 1998, tr. 161 - 162.

[11] (Từ điển văn học, tập I, Nguyễn Huệ Chi. NXB Khoa học Xã hội, H., tr. 428)

([12]) Văn học Việt Nam (Từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII),Bùi Duy Tân, NXB Giáo dục, 1998, tr. 45.

([13]) Văn hiến Thăng Long, Trần Thị Băng Thanh, NXB Văn hoá – Thông tin, H., 2000, tr. 166.

 

Danh mục website