Việt Nam – Nhật Bản: tương đồng và dị biệt trong không gian Khổng giáo (phần 2)

TRẢ LỜI PHỎNG VẤN TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN 

 

ĐoànLê Giang, PGS, TS

Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM

      

           1.    Thưa ông, chúng tôi muốn được tiếp tục câu chuyện phát triển hiện tại từ câu chuyện của hai nước ở TK.XIX. Tại sao Fukuzawa Yukichi thành công mà Nguyễn Trường Tộ thất bại? Có đúng không khi cho rằng vì Fukuzawa Yukichi có tầm tư tưởng cao hơn Nguyễn Trường Tộ? Và Nhật hoàng có quyết tâm chính trị mạnh mẽ hơn vua Tự Đức?

           Đây là một vấn đề lớn và thú vị. Fukuzawa thành công còn Nguyễn Trường Tộ thì thất bại, vấn đề không phải do hai ông, mà nguyên nhân của nó phải được nhìn rộng hơn và sâu hơn. Nói một cách giản dị về điều ấy thì có thể nói như Phan Bội Châu: Nước Nhật có hàng trăm người như Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi) nên mới thành công. Tôi nghĩ rằng NguyễnTrường Tộ thất bại không phải vì cách nghĩ không mới, chủ trương không đúng (dù trong hơn 60 điều trần của ông có không ít chủ trương ảo tưởng), mà cái chính là ông cô đơn trong thời đại của mình. Ông đi đến với tư tưởng canh tân từ cái học ở nhà thờ chứ không phải là từ một trường học thế tục, trong khi đó xung quanh ông các bộ óc thông minh nhất đều chú tâm vào cái học kinh viện với những Khổng, Mạnh, Chu, Trình từ hàng ngàn năm trước. Ông bị lạnh nhạt và chống đối từ chính những người yêu nước, “học rộng hiểu nhiều” ấy! Ông biết rằng không có ai chia sẻ được suy nghĩ và công việc với ông, nên trong các bản điều trần, khi đề nghị làm điều gì thì ông đều phải tự mình nhận lãnh nhiệm vụ: đề nghị mở trường kỹ thuật ở Huế, ông cũng xin đi liên hệ giáo sư và mua trang thiết bị; đề nghị vay tiền ngân hàng Anh ở Hương Cảng để canh tân đất nước, ông cũng xung phong đi vay vì biết đường đi nước bước; đề nghị mua tàu chiến để đánh Pháp, ông cũng xin đi vì ông từng nghiên cứu về điều này; đề nghị khai mỏ, ông cũng xin dẫn đoàn khảo sát; đề nghị chuẩn bị lực lượng nổi dậy ở Nam Kỳ, ông cũng xung phong đi; đề nghị đào kênh, ông cũng xin làm “tổng công trình sư”… Trong khi đó vua Tự Đức dù có thừa lòng yêu nước nhưng tầm nhìn và bản lĩnh chính trị yếu kém, nên không biết dùng Nguyễn Trường Tộ vào việc gì cho xứng đáng; không giải quyết nổi mâu thuẫn giữa ánh sáng canh tân của Nguyễn với bóng tối mênh mông của sự u mê và cuồng tín cái học Thánh Hiền; Tự Đức vừa muốn canh tân, lại vừa sợ mất cái học Thánh Hiền – một cái học đã trở thành lẽ sống của ông và đám quan lại bám sau lưng ông. Nói tóm lại, nếu so sánh thì đúng là Fukuzawa có tầm nhìn cao rộng hơn, có chủ trương thiết thực hơn Nguyễn Trường Tộ; đúng là Minh Trị và quần thần quanh ông có bản lĩnh chính trị mạnh mẽ, có hành động quyết đoán hơn Tự Đức; nhưng tiếc thay đó không phải là vấn đề tài năng cá nhân mà vấn đề cơ sở kinh tế xã hội quyết định chuyện ấy. Di sản mà Tự Đức nhận lấy và tiếp tục thống trị là một đất nước nghèo nàn, cổ hủ, theo mô hình Trung Hoa lạc hậu, bị thế giới văn minh bỏ rơi. Tự Đức đã yên tâm thực thi một chế độ “văn trị” cổ lỗ trên một đất nước như thế, mà không cần biết gì về thế giới xung quanh. Đến khi đại bác phương Tây bắn vào cửa ngõ mới sực tỉnh, lúc ấy thì đã muộn; nhưng ông lại không đủ tầm nhìn và sự quyết đoán để có thể xoay chuyển được tình thế. Nguyễn Trường Tộ là một cá nhân kiệt xuất xuất hiện sớm nhưng đơn lẻ. Đặng Huy Trứ, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch xuất hiện muộn hơn, nhưng cũng không đủ khả năng và điều kiện để xoay chuyển tình hình. Mất nước, căn nguyên của nó có từ lâu chứ phải đâu một hai ngày – đúng như Nguyễn Trãi đã nói: Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật (Hoạ phúc có nguồn đâu phải một lúc)! 

 

           2.    Có phải kể từ Minh trị Duy tân, với vai trò của Fukuzawa Yukichi, nhờ chấp nhận, lựa chọn các giá trị của phương Tây, từ bỏ các giá trị truyền thống của văn hóa Hán mà nước Nhật đã phát triển, trở thành một quốc gia – dân tộc hùng cường suốt hơn thế kỷ nay?

           Đúng là Nhật Bản thời Minh Trị đã tiếp thu văn minh phương Tây để xây dựng được quốc gia cường thịnh. Tuy nhiên cũng phải nói cho rõ, công cuộc duy tân thời Minh Trị được tiến hành không phải là chỉ do Fukuzawa mà là do ít nhất 4 nhóm duy tân sau:

   (1) nhóm lãnh chúa phương Nam – là nơi có quan hệ mật thiết với phương Tây;

   (2) các trí thức Tây học là thầy dạy của Thiên hoàng Minh Trị như: Nishimura Shigeki (Tây Thôn Mậu Thọ) – thầy về chính trị và luật pháp của nước Pháp, Fukuhane Mishizu (Phúc Vũ Mỹ Tịnh) – thầy về lịch sử và đạo đức phương Tây, Kato Hiroyuki (Gia Đằng Hoằng Chi) – thầy về luật pháp của Đức;

   (3) bên cạnh đó còn có vai trò của các chính khách duy tân lẫy lừng như: Kido Takayoshi (Mộc Hộ Hiếu Duẫn), Saigo Takamori (Tây Hương Long Thịnh), Okubo Toshimichi (Đại Cửu Bảo Lợi Thông) gọi chung là nhóm "Duy Tân tam kiệt";

   (4) các thủ tướng lớp sau: Ito Hirobumi (Y Đằng Bác Văn), Okuma Shigenobu (Đại Ôi Trọng Tín)…

           Nhật Bản có từ bỏ “các giá trị truyền thống của văn hoá Hán” – như câu hỏi, để phát triển không? Có thể trả lời là: Không! Cần phải nói chính xác là: Nhật Bản chỉ từ bỏ những cái “vô giá trị”, cái lạc hậu của Trung Quốc để phát triển mà thôi. Cái “vô giá trị” và lạc hậu đó là gì? Tôi nghĩ chủ yếu là 3 thứ: 

           Thứ nhất, nền giáo dục cổ hủ của Trung Quốc: vu khoát, sùng cổ, lạc hậu, xa rời thực tiễn, không chú trọng vào khoa học kỹ thuật và kinh tế;

           Thứ hai, mô hình chính trị của Trung Quốc với cơ cấu chính trị độc đoán, chuyên quyền ở trên, với sự phân biệt sĩ nông công thương bất bình đẳng ở dưới;

           Thứ ba, mô hình luật pháp của Trung Quốc: bao che cho kẻ có quyền, trừng phạt người dân một cách tuỳ tiện và dã man.

           Tất cả những điều ấy đã được Fukuzawa viết trong luận văn nổi tiếng của ông: Thoát Á luận. "Thoát Á" ở đây không phải là thoát khỏi châu Á về địa lý, mà là thoát khỏi cái lạc hậu và dã man của châu Á với trung tâm là Trung Quốc, chứ Nhật Bản không từ bỏ những giá trị truyền thống của nền văn hoá Hán – những giá trị đã tạo nên một phần văn hoá Nhật. Như chúng đã thấy: người Nhật vẫn học rất nhiều chữ Hán, vẫn học rất kỹ về lịch sử và tư tưởng Trung Quốc, vẫn tiếp thu tinh hoa của nền nghệ thuật và đạo đức Trung Quốc. Vào thời Minh Trị, người Nhật vẫn dùng Luận ngữ của Khổng Tử để giảng dạy trong nhà trường. 

 

           3.    Cách đây không lâu, có người nói, hiện nay nước Nhật ổn định và phát triển là một phần do quay lại các giá trị của Khổng giáo. Điều đó có đúng không? [Và nếu đúng thì] chúng ta cần giải thích như thế nào bởi vì trước đây đã từng nhờ thoát ly Khổng giáo mà phát triển, còn nay lại ngược lại?

           Nước Nhật phát triển đúng là có nhờ chứ không phải quay lại những giá trị Khổng giáo. Sự phát triển của một quốc gia không phải do ý chí của một vài cá nhân mà từ những điều kiện cụ thể, trong đó có truyền thống. Nhiều học giả trên thế giới đã chỉ ra rằng: Nhật Bản đã hiện đại hoá thành công bằng mô hình chủ nghĩa tư bản Nho giáo thay vì chủ nghĩa tư bản Tin lành như Phương Tây. Người Nhật đã không bài trừ Nho giáo một cách mù quáng mà biết rút tỉa những tinh hoa của nó để phát triển. Nho giáo đã giúp ích gì cho công cuộc duy tân của Nhật Bản? Người ta cho rằng đó là: lòng trung thành, tín nghĩa, liêm sỉ, hiếu học, cần kiệm. Từ lòng trung quân, người Nhật chuyển thành lòng trung thành với công ty; từ tín nghĩa của Nho gia, người Nhật chuyển thành chữ tín trong kinh doanh và kinh doanh vì nghĩa; từ liêm sỉ của kẻ sĩ quân tử, người Nhật chuyển thành liêm sỉ trong đạo đức kinh doanh và đạo đức chính trị; từ hiếu học theo kiểu cũ, người Nhật chuyển thành ham thích thực học, học tập suốt đời; từ cần kiệm trong đời tư, người Nhật chuyển thành tiết kiệm trong kinh doanh, tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm nguồn lực quốc gia. Như vậy người Nhật vừa thoát khỏi cái lạc hậu của mô hình Trung Quốc, vừa phát huy những giá trị truyền thống trong đó có truyền thống Nho giáo của Trung Quốc để phát triển. 

 

           4.    Chúng tôi được biết, nước Nhật hiện nay có một nền văn hóa phát triển, vừa hòa nhập với thế giới hiện đại nhưng vẫn bảo tồn rất tốt bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc. Ông có thể cho biết một vài kinh nghiệm của họ?

Đúng như ông nói, nước Nhật vừa hiện đại lại vừa rất truyền thống. Tại sao? Có thể tìm nguyên nhân ở những điều sau:

-        Có thể người Nhật không có truyền thống cách mạng chăng? Vì nước Nhật chỉ có một dòng Thiên hoàng từ khi lập quốc đến nay; và suốt hàng nghìn năm họ không có cuộc cách mạng nào đào tận gốc trốc tận rễ cái cũ; họ chỉ thêm vào chứ không vứt đi.

-        Có thể giới lãnh đạo của Nhật có văn hoá cao, họ biết tìm thấy giá trị và sức mạnh từ truyền thống chăng? Tôi chưa thấy một người lãnh đạo nào của Nhật Bản không có một “phông” văn hoá cao cần thiết. Có thể vì thế mà họ biết đối xử đúng mực với truyền thống chăng? Quá khứ nào ngăn cản sự phát triển của đất nước thì họ kiên quyết loại bỏ, truyền thống nào có thể giúp cho hiện tại thì họ phát huy. Họ biết trân quý truyền thống đạo đức, văn hoá, nghệ thuật của cha ông, hiện đại hoá nó để phục vụ cho cuộc sống.

-        Có thể người Nhật tìm thấy bầu khí quyển trong lành từ truyền thống để bảo vệ mình khỏi cơn lốc của kỹ thuật hiện đại chăng?  Người ta có thể dễ dàng thấy những đền thờ Thần đạo thâm u, những ngôi chùa trầm mặc, những vườn hoa anh đào rực rỡ giữa những đô thị ồn ào, náo nhiệt và hiện đại. Nếu không có những không gian tâm linh và tĩnh lặng ấy, người ta có thể cảm thấy hạnh phúc trong những khối bê tông, những động cơ ngược xuôi đến chóng mặt không?

 

           5.    Ông có thể lý giải vì sao Nhật Bản đã có 2 giải Nobel văn học còn Việt Nam chúng ta thì có thể nói là chưa dám nghĩ tới?

Công bằng mà nói Nhật Bản hiện đại hoá, quốc tế hoá sâu sắc hơn ta, vì vậy nền văn hoá của họ có một vị trí cao trong bậc thang văn hoá thế giới. Kawabata (giải Nobel 1968) có thể đem nền văn hoá của dân tộc mình ra giới thiệu với thế giới, vì ông biết viết về cái truyền thống qua cái nhìn hiện đại, nên vừa gây thú vị, ngỡ ngàng lại vừa dễ chấp nhận đối với thế giới. Oe Kenzaburo (giải Nobel 1994) thì lại phản ánh nỗi thống khổ của con người hiện đại và phê phán nghiêm khắc xã hội Nhật Bản từ tiêu chuẩn dân chủ của phương Tây. Những vấn đề ấy có giá trị toàn nhân loại chứ không phải là riêng biệt của một quốc gia. Kinh nghiệm cho thấy một nền văn học lớn chỉ có thể được hình thành từ một truyền thống văn hoá-văn học dày dặn, được hiện đại hoá để hoà vào dòng chảy trung tâm của nhân loại, và nhất là được điều hành theo những tiêu chuẩn chung của thế giới văn minh. Giải Nobel chỉ có thể được sinh từ một nền văn học hay rộng hơn, một quốc gia như thế./.

 

 

(Tạp chí Văn hoá Nghệ An số 280 ngày 10 tháng 11 năm 2014)

 

Danh mục website