Nguyễn Cư Trinh và ba đạo sắc phong ở Công Thần miếu

In bài này

1. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Cư Trinh

Nguyễn Cư Trinh 阮居貞 (1716-1767) tự là Nghi, hiệu là Đạm Am, danh tướng và cũng là danh sĩ thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) và Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Tổ tiên vốn ở huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quảng, xứ Nghệ An, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sau dời đến làng An Hòa, huyện Hương Trà, nay thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Nguyễn Cư Trinh thuộc dòng dõi danh gia thế phiệt. Tổ tiên 8 đời của ông họ Trịnh, tên là Trịnh Cam, Binh bộ Thượng thư triều Lê (1428-1788). Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), Trịnh Cam trốn vào Thuận Hóa chiêu binh chống Mạc, việc chưa thành thì mất. Con cháu đến định cư tại xã An Hòa. Đến đời thứ 7 là Đệ nổi tiếng học giỏi, thông minh, đỗ Sinh đồ, được bổ làm Huấn đạo, rồi thăng Tri huyện Minh Linh (nay thuộc Quảng Trị). Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mến tài cho Đệ đổi sang Quốc tính, gọi là Nguyễn Đăng Đệ. Nguyễn Cư Trinh là con út của Nguyễn Đăng Đệ.

Bình sinh, Nguyễn Cư Trinh là người thông minh, hiếu học, văn võ song toàn, có chí mưu lược, giỏi việc doanh điền, có tài chính trị và ngoại giao, tính tình thanh liêm chính trực, “gặp việc dám nói, có phong độ là người tránh thần (bề tôi can ngăn)”([1]). Đỗ Hương cống năm 1740, tài năng của Nguyễn Cư Trinh cũng bắt đầu được phát huy từ đó.

Sự nghiệp chính trị, quân sự

Ngay từ năm 1735 (thời gian trị vì của chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Chú), lúc chưa tròn 20 tuổi, Nguyễn Cư Trinh đã được cử làm Tham mưu, cùng Thống suất Thiện Chánh hầu Nguyễn Văn Thiện điều khiển tướng sĩ 5 dinh Bình Khang (trước kia là Thái Khang), Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ đi kinh lược đất Cao Miên([2]).

Trong thời gian trị vì của chúa Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Cư Trinh lần lượt giữ nhiều chức quan và lập được nhiều công trạng.

Sau khi đỗ Hương cống, ông được bổ làm Tri phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, Nguyễn Cư Trinh được cử làm Văn chức, làm việc tại triều đình, coi việc soạn thảo công văn. Mọi điều luật đều do anh họ của ông là Nguyễn Đăng Thịnh đặt ra mà văn từ thì do ông thảo([3]).

Năm 1750, khi giữ chức Tuần phủ Quảng Ngãi, Nguyễn Cư Trinh đã dẹp tan loạn Đá Vách (Thạch Bích). Đá Vách là một tộc người thiểu số ở Quảng Ngãi. Nguyên nhân nổi loạn của tộc Đá Vách là do những năm thiên tai mất mùa đói kém, họ buộc phải làm như vậy để tìm cách sinh tồn. Chính vì hiểu rõ điều đó, ông đã không trấn áp họ bằng vũ lực mà thực hiện một sách lược mềm dẻo và nhân đạo: Cho lập Quảng Ngãi đồn dinh với 6 đạo lo nghiêm việc canh phòng, người Đá Vách thấy thế hoảng sợ ra đầu thú, bấy giờ ông mới vỗ về. Nhờ đó ông đã hoàn toàn thu phục được tộc người nổi loạn. Sau đó ông được cử chức Ký lục dinh Bố Chánh, bổ ra Quảng Bình chỉnh đốn công cuộc phòng thủ và ngăn cản thành công bước tiến của quân Trịnh.

Năm 1751, vua Chân Lạp (tức Cao Miên) là Nặc Nguyên thông đồng với chúa Trịnh chống phá chúa Nguyễn. Năm 1753, Nguyễn Cư Trinh được cử làm Tham mưu dẫn quân đánh Nặc Nguyên. Đến năm 1755, Nặc Nguyên bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, sau đó dâng hai phủ Tầm Đôn (nay thuộc Long An) và Lôi Lạp (hoặc Xuy Lạp, tức Soài Rạp, nay thuộc Tiền Giang) để chuộc tội và xin cho về nước([4]). Từ đó đến năm 1759, ông cũng được phái đi đánh Chân Lạp, đồng thời dùng kế “tàm thực” (tằm ăn dâu) thu đất đai nhập vào châu Định Viễn([5]) và khai mở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp công lớn vào công cuộc mở mang vùng lãnh thổ phía tây và vùng cực nam của đất nước.

Năm 1765, Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi, Nguyễn Cư Trinh được triệu hồi phò tá nhằm giúp ấu chúa trị dân, kế tục và phát triển cơ nghiệp lâu dài. Chức vụ cao nhất của Nguyễn Cư Trinh là Lại bộ kiêm Tào vận sứ, tước Nghi Biểu hầu. Tuy nhiên, ông chỉ thực hiện vai trò của mình được 2 năm thì qua đời.

Có thể thấy với tài năng về chính trị, quân sự, Nguyễn Cư Trinh đã lập công lớn trong nhiều lĩnh vực: ổn định nội chính, củng cố quốc phòng, trừ nội loạn, dẹp ngoại xâm, khai cương mở cõi. Đây đều là những lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển lâu dài của triều Nguyễn và tương lai của đất nước.

Sự nghiệp văn chương

Nguyễn Cư Trinh cũng là một nhà văn học lỗi lạc, để lại một số tác phẩm viết bằng chữ Nôm và chữ Hán có giá trị như bài vè Sãi vãi (340 câu), Quảng Ngãi thập nhị cảnh, Đạm Am thi tập([6]) (hiện chưa tìm thấy), thơ hoạ lại mười bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích, các thư từ gửi cho cha con họ Mạc và điều trần gửi cho chúa Nguyễn. Toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông “gắn với tâm sự và chí khí kinh bang tế thế, gắn với cuộc đời hoạt động của ông. Những tác phẩm viết trong hàng chục năm giữ trọng trách ở miền cực Nam, thể hiện tinh thần hăng hái tiến lên phía trước, độ lượng rộng rãi của người lãnh đạo và yêu cầu nghiêm khắc đối với bản thân để đạt đến sự nghiệp lớn”([7]).

2. Công Thần miếu và ba đạo sắc phong cho Nguyễn Cư Trinh

Công Thần miếu (vốn tiền thân là Hội Đồng miếu, được xây dựng vào đời Minh Mạng tại thôn Thanh M Đông huyện Vĩnh Bình, sau khi xây dựng lại vào năm 1918 đổi tên thành Công Thần linh miếu) ở Vĩnh Long thờ các thần linh gồm 34 vị Nhiên thần và Nhân thần. Các thần có nguồn gốc tự nhiên (nhiên thần) được những người đi khai hoang mở cõi đem từ cố hương (Miền Bắc, Miền Trung) vào. Đó là những vị thần trong huyền thoại của người Việt cổ, những vị thần ở duyên hải Miền Bắc, Miền Trung, những vị thần tiếp thu từ văn hóa Champa (Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng đẳng Thần), những vị thần là biểu tượng của núi sông, sơn hà xã tắc (Cao Các Thượng đẳng Thần, Bổn Cảnh Sơn Thần, Thủy Thần Thượng đẳng Thần, Hà Bá Trung đẳng Thần…). Các thần có nguồn gốc con người (nhân thần) là những vị lúc còn tại thế đã có công khai phá Miền Trung, Miền Nam ngày nay hay gắn với quá trình chinh phục vùng Long Hồ dinh (Thượng đẳng Thần: Bùi Tá Hán, Lương Văn Chánh, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cửu Vân, Trần Thượng Xuyên; Trung đẳng Thần: Nguyễn Phục, Nguyễn Cư Trinh, Tống Phước Hiệp, Trần Đại Định...). Hệ thống thần linh vừa nêu được nhân dân thờ tự và triều đình nhà Nguyễn sắc phong qua các thời k.

Bức hoành ghi tên “Công Thần linh miếu”

Về quá trình phong tặng, sau khi mất, Nguyễn Cư Trinh được truy tặng Tá lý công thần, Vinh Lộc Đại phu, thụy Văn Định. Đến đời Minh Mạng, ông lại được truy tặng Khai quốc công thần, Hiệp biện Đại học sĩ, truy phong tước Tân Minh hầu, đổi tên thụy là Văn Khác, được tòng tự ở Thái miếu([8]).

Theo sách 85 sắc phong ở miếu Công Thần tại Vĩnh Long, tước vị của 34 vị thần được thờ tại miếu Hội Đồng (thường gọi là Công Thần miếu, miếu Công Thần) ở tỉnh Vĩnh Long, trong đó có Nguyễn Cư Trinh, được vua Minh Mạng ban chiếu phong tặng hoặc gia tặng vào năm 1840, nhân đại lễ mừng vua năm mươi tuổi. Đến niên hiệu Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), vua Thiệu Trị ban cấp sắc phong cho các vị thần theo tước vị do vua Minh Mạng ban tặng trước đó, sau đó lại tiếp tục ban sắc gia tặng. Nhưng chưa biết chính xác vì sao toàn bộ sắc phong đợt năm 1843 đều đã mất (một số bô lão địa phương nói do bị hỏa hoạn). Ngày mồng 10/12/1847, theo đề nghị của các quan đầu tỉnh Vĩnh Long, vua Tự Đức([9]) cấp lại cho miếu Hội Đồng 34 đạo sắc và gia tặng 34 đạo sắc khác([10]). Về các sắc cấp lại, vua Tự Đức chỉ cấp lại 34 sắc do vua Thiệu Trị gia tặng chứ không cấp lại 34 sắc ghi tước vị do vua Minh Mạng ban tặng (tước vị này được ghi chung trong đạo sắc cấp lại). Đến năm 1850, vua Tự Đức lại gia phong cho miếu Hội Đồng 17 đạo sắc([11]).

Hiện nay, miếu Công Thần còn lưu giữ ba đạo sắc phong cho Nguyễn Cư Trinh, nội dung như sau:

Sắc thứ nhất:

敕濟文匡武開國功臣荣祿大夫協辨大學士,領吏部尚書,謚文恪,新明侯阮府君中等神,護國庇民,稔著靈應。明命貳拾壹年,値我聖祖仁皇帝五旬大慶節,欽奉寶詔覃恩禮隆登秩。紹治參年柒月日經給敕文,加贈濟文匡武嘉猷中等神,準許奉事。近因緣故,經準依永隆省臣議請重給,仍準該省會同廟依舊奉事。神其相佑保我黎民。欽哉!

紹治柒年拾貳月初拾日。

Sắc Tế Văn Khuông Võ Khai Quốc công thần Vinh Lộc Đại phu Hiệp biện Đại học sĩ, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân Trung đẳng Thần, hộ quốc tí dân, nhẫm trứ linh ứng. Minh Mệnh nhị thập nhất niên, trị ngã Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ngũ tuần đại khánh tiết, khâm phụng bảo chiếu đàm ân lễ long đăng trật. Thiệu Trị tam niên thất nguyệt nhật kinh ban sắc văn, gia tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Du Trung đẳng Thần, chuẩn hứa phụng sự. Cận nhân duyên cố, kinh chuẩn y Vĩnh Long tỉnh thần nghị thỉnh trùng cấp, nhưng chuẩn cai tỉnh Hội Đồng miếu y cựu phụng sự. Thần k tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Thiệu Trị thất niên thập nhị nguyệt sơ thập nhật.

Sắc cho Tế Văn Khuông Võ, Khai Quốc công thần, Vinh Lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ Thượng thư, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân Trung đẳng Thần, có công giữ nước giúp dân, từ lâu linh ứng rõ rệt. Minh Mạng năm thứ 21 (1840), nhân đại lễ mừng Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ta năm mươi tuổi, ban chiếu báu ra ơn và long trọng thăng trật. Vào ngày tháng 7 Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), từng ban sắc phong tặng thêm Tế Văn Khuông Võ Gia Du Trung đẳng Thần, cho phép thờ phụng. Gần đây do biến cố, [Trẫm] chấp thuận thỉnh cầu của các quan tỉnh Vĩnh Long cấp lại sắc, vẫn cho phép miếu Hội Đồng tỉnh ấy thờ phụng như cũ. Thần hãy phò hộ bảo vệ dân ta. Hãy vâng theo!

Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), ngày mồng 10 tháng 12.

[Đóng ấn] SẮC MỆNH CHI BẢO.

Sắc thứ hai:

敕濟文匡武嘉謨開國功臣榮祿大夫協辨大學士,領吏部尚書,謚文恪,新明侯阮府君中等神,護國庇民,稔著靈應,奉我憲祖章皇帝。丕膺耿命,緬念神庥,紹治參年閏柒月日,經給敕文,加贈濟文匡武嘉謨偉績中等神。近因緣故,經準依永隆省臣議請重給,仍準該省會同廟依舊奉事。神其相佑保我黎民。欽哉!

紹治柒年拾貳月初拾日。

Sắc Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Khai Quốc công thần Vinh Lộc Đại phu Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lại bộ Thượng thư, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân Trung đẳng Thần, hộ quốc tí dân, nhẫm trứ linh ứng, phụng ngã Hiến Tổ Chương Hoàng đế. Phi ưng cảnh mệnh, miến niệm Thần hưu, Thiệu Trị tam niên nhuận thất nguyệt nhật, kinh cấp sắc văn, gia tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Trung đẳng Thần. Cận nhân duyên cố, kinh chuẩn y Vĩnh Long tỉnh thần nghị thỉnh trùng cấp, nhưng chuẩn cai tỉnh Hội Đồng miếu y cựu phụng sự. Thần kì tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Thiệu Trị thất niên thập nhị nguyệt sơ thất nhật.

Sắc cho Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Khai Quốc công thần, Vinh Lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ Thượng thư, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân Trung đẳng Thần, có công giữ nước giúp dân, từ lâu linh ứng rõ rệt, theo phò Hiến Tổ Chương Hoàng đế ta. Cho nên kính vâng mệnh lớn, mãi nhớ ơn Thần, Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) ngày tháng 7 nhuận, từng ban sắc phong tặng thêm Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Trung đẳng Thần. Gần đây do biến cố, [Trẫm] chấp thuận thỉnh cầu của các quan tỉnh Vĩnh Long cấp lại sắc, vẫn cho phép miếu Hội Đồng tỉnh ấy thờ phụng như cũ. Thần hãy phò hộ bảo vệ dân ta. Hãy vâng theo!

Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), ngày mồng 10 tháng 12.

[Đóng ấn] SẮC MỆNH CHI BẢO.

 

Sắc thứ ba:

敕開國功臣榮祿大夫協辨大學士,領吏部尚書,謚文恪,新明侯阮府君,原贈濟文匡武嘉謨偉績中等神,護國庇民,稔著靈應。節蒙頒給贈敕,準許奉事。肆今丕膺耿命,緬念神庥,可加贈濟文匡武嘉謨偉績光懿中等神,仍準永隆省會同廟依舊奉事。神其相佑保我黎民。欽哉!

嗣德參年柒月初參日。

Sắc Khai quốc công thần Vinh Lộc Đại phu Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Lại bộ Thượng thư, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân, nguyên tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Trung đẳng Thần, hộ quốc tí dân, nhẫm trứ linh ứng. Tiết mông ban cấp tặng sắc, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm Thần hưu, khả gia tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Quang Ý Trung đẳng Thần, nhưng chuẩn Vĩnh Long tỉnh Hội Đồng miếu y cựu phụng sự. Thần k tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Tự Đức tam niên thất nguyệt sơ tam nhật.

Sắc cho Khai quốc công thần, Vinh Lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Lại bộ Thượng thư, thụy Văn Khác, Tân Minh hầu Nguyễn phủ quân, vốn được tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Trung đẳng Thần, có công giữ nước giúp dân, từ lâu linh ứng rõ rệt. Theo nghi lễ từng được ban sắc phong tặng, cho phép thờ phụng. Cho nên nay vâng theo mệnh lớn, mãi nhớ ơn Thần, đáng tặng thêm Tế Văn Khương Võ Gia Mô Vĩ Tích Quang Ý Trung đẳng Thần, vẫn cho phép miếu Hội Đồng tỉnh ấy thờ phụng như cũ. Thần hãy phò hộ bảo vệ dân ta. Hãy vâng theo!

Tự Đức năm thứ 3 (1850), ngày mồng 3 tháng 7.

[Đóng ấn] SẮC MỆNH CHI BẢO.

 

Ngoài tước vị được truy tặng sau khi mất, theo nội dung ba đạo sắc phong trên, năm 1840, Nguyễn Cư Trinh được vua Minh Mạng ban chiếu tặng Tế Văn Khuông Võ Trung đẳng Thần, chưa có sắc phong. Tháng 7 năm 1843, vua Thiệu Trị ban sắc phong cho tước vị này, đồng thời ban thêm sắc gia tặng Tế Văn Khuông Võ Gia Du Trung đẳng Thần. Sang tháng 7 nhuận cùng năm (tức khoảng 1 tháng sau khi gia tặng lần thứ nhất), vua Thiệu Trị gia tặng lần thứ hai cho Nguyễn Cư Trinh là Tế Văn Khuông Võ Gia Mô([12])Tích Trung đẳng Thần. Sau khi hai sắc phong của vua Thiệu Trị mất, vua Tự Đức cấp lại hai sắc trên (sắc thứ nhất và sắc thứ hai). Đến năm 1850, vua Tự Đức lại ban sắc gia tặng Nguyễn Cư Trinh là Tế Văn Khuông Võ Gia Mô Vĩ Tích Quang Ý Trung đẳng Thần (sắc thứ ba). Như vậy trong ba sắc phong cho Nguyễn Cư Trinh, có hai sắc của vua Thiệu Trị do vua Tự Đức cấp lại vào tháng 12 năm 1847 và một sắc do vua Tự Đức gia tặng vào năm 1850. Chúng tôi chưa tìm được sắc phong của vua Tự Đức gia tặng cho Nguyễn Cư Trinh vào ngày 10 tháng 12 năm 1847 như sách 85 sắc phong ở miếu Công Thần tại Vĩnh Long đã nói.

Qua những lần phong tặng và gia tặng này có thể thấy rõ công trạng của Nguyễn Cư Trinh và thái độ trọng thị, biết ơn của các vị hoàng đế triều Nguyễn đối với ông.

Nguồn: Xưa và Nay, số 455, tháng 1 năm 2015

 


[1] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, Nxb. Đồng Tháp, 1997, tr.264. Về tính cách “gặp việc dám nói” của Nguyễn Cư Trinh, Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5, tr.5) có chép: “Năm Ất Dậu (1765), chúa Duệ Tông (Nguyễn Phúc Thuần) nối ngôi, quyền thần Trương Phúc Loan ỷ thế cậy quyền thường bảo các quan đến nhà mình bàn việc. Nguyễn Cư Trinh nghiêm mặt nói rằng: Triều đình có định chế làm việc, Trương Phúc Loan sao dám trái lễ như thế, định chuyên quyền chăng? Nước mà sinh loạn ắt là người ấy. Trương Phúc Loan giận lắm nhưng vẫn e sợ không dám làm gì.”

[2] Trịnh Hoài Đức (Lý Việt Dũng dịch và chú giải), Gia Định thành thông chí, quyển 3 “Cương vực chí”, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2006, tr.112.

[3] Phạm Thế Ngũ, sđd., tr. 264.

[4] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, Trung tâm học liệu, Sài Gòn, 1971 chép về việc này: “(…) Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khai thác nên dùng kế "tàm thực" nghĩa là lấy dần dần như tm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.” (tr.83)

[5] Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép về châu Định Viễn: “Đầu đời Long Đức, Hiếu Minh hoàng đế (Nguyễn Phúc Chu) sai tướng đi đánh Cao-mên; lấy đất Sài Gòn, lập làm châu Định Viễn, đặt dinh Long Hồ. Đầu đời Cảnh Hưng, Hiếu Vũ hoàng đế (Nguyễn Phúc Khoát) lại sai Nguyễn Cư Trinh cùng Thiện Chánh hầu (tức Nguyễn Thiện Chánh, hoặc Nguyễn Hữu Doãn?) lại đánh Cao-mên, ròng rã 3 năm, mới chiêu an được những dân Côn-man, Thuận Thành ra đầu hàng. Chúa Cao-mên là [Nặc] Ông Nguyên chạy sang La-bích đem dâng hai phủ Tầm-đôn và Lôi-lạp. Cư Trinh tiếp nhận, chia quân ra đóng giữ, chia định bờ cõi, bắt dân đầu hàng cùng đến ở châu Định Viễn. Địa giới châu này lại nở thêm rộng ra.” (Bản dịch của Viện Sử học Việt Nam, tập 1, Dư địa chí, Nxb. KHXH, 1992, tr.171).

[6] Nguyễn Huyền Anh, Việt Nam danh nhân tự điển, Hội Văn hóa bình dân, 1960 ghi là Đạm Am văn tập (tr.170).

[7] Bùi Duy Tân, mục Nguyễn Cư Trinh, trong Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế Giới, 2004, tr.1118.

[8] Nguyễn Q. Thắng, Nguyến Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tái bản, Nxb. Văn hóa, 1994.

[9] Bùi Xuân Đức (chủ biên), 85 sắc phong ở miếu Công Thần tại Vĩnh Long, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, BQL di tích tỉnh Vĩnh Long, Bảo tàng tỉnh Vinh Long phối hợp biên soạn, năm 2013, vẫn ghi là “vua Thiệu Trị” (tr.8) là nhầm, vì vua Thiệu Trị đã mất vào tháng 9 năm 1847. Đây là năm đầu tiên vua Tự Đức lên ngôi nhưng chưa đổi niên hiệu nên vẫn dùng niên hiệu của vua cha.

[10] Bùi Xuân Đức (chủ biên), sđd., tr.8.

[11] Bùi Xuân Đức (chủ biên), sđd., tr.8.

[12] Gia mô: Đồng nghĩa với “gia du”