01062025Sun
Last updateTue, 20 May 2025 12am

Tiểu thuyết Bờ xám của Vũ Đình Giang: Cái nhìn “xám” và chất “hài hước đen”


Nguyễn Thành Thi*

1. Cái nhìn “xám” qua những thấu kính lồi

Viết về sex, nếu chạy nhà văn chiều theo thị hiếu không lành mạnh, anh ta dễ đi đường ngược chiều với thuần phong mĩ tục. Bờ Xám [1] không thế. Cho dù có những đoạn, những trang nói đến sex, đây không phải là tác phẩm văn học sex; trái lại, xét trong một ý nghĩa nào đó, là tác phẩm phản sex: cái nhìn của nhà văn và nhân vật làm cho các chuyện “sex”, trở thành các pha thô bạo, hợm hĩnh, dị mọ, đẩy người đọc tránh xa hoặc ít nhất, biết dè chừng, chứ không phải kéo họ lại gần cái gọi là sex dung tục.

 

 

Tác phẩm bàng bạc một cái nhìn có vẻ xám xịt về một nền giáo dục (tại một học viện mĩ thuật nào đó) và bối cảnh, không gian xã hội nào đó, tại một đất nước nào đó sản sinh ra nó. (Không có đủ cơ sở từ văn bản để  qui cho bối cảnh không gian ấy thuộc về hay ám chỉ một nền giáo dục, một đất nước cụ thể nào). Bởi rất đơn giản, mọi sự ám chỉ cụ thể, mọi ý đồ bôi nhọ đều nằm ngoài dụng ý và hệ quy chiếu của Vũ Đình Giang trong Bờ xám. Nhà văn trẻ này muốn vươn tới một sự khái quát vượt thời gian, không gian để hướng về một cái gì mang tính phổ quát hơn rất nhiều, hầu đưa ra một lời cảnh báo nặng đồng cân hơn nhiều: lời cảnh báo chung cho thời đại và nhân loại ngày nay.

Đọc tác phẩm, không thể, và không nên đồng nhất dễ dãi cái nhìn hiện thực của Vũ Đình Giang với cái nhìn của người kể chuyện và các nhân vật chính (một trí thức trung niên, một nữ sinh vị thành niên) trong tác phẩm.

Thực tại trong tác phẩm này không phải là một cái gì toàn vẹn, vốn có mà chỉ là những mảnh vỡ, những hình ảnh khúc xạ qua nhiều tầng thấu kính: thấu kính của nhân vật tôi, gã thầy; thấu kính của nhân vật đứa bé gái; và thấu kính của người kể chuyện. Cái nhìn của cả hai nhân vật chính đều mang tính chủ thể rõ rệt, cái nhìn của những người từng chịu những chấn động ghê gớm về tâm lí, tinh thần (chàng họa sĩ suốt một thời gian dài niên thiếu chứng kiến cuộc sống tình dục phóng túng của mẹ mình; đứa bé gái chín tuổi bị thằng anh lạm dụng thân xác). Cái nhìn và tâm lí của họ luôn bị ám ảnh bởi những cơn dư chấn nặng nề ấy.

 

Âm hưởng hoài nghi hiện sinh với chất “hài hước đen” [2] là có thật và khá đậm trong tiểu thuyết này.

Vũ Đình Giang, qua diễn ngôn của người kể chuyện và các nhân vật chính trong Bờ xám, dường như muốn thường xuyên đối thoại, phản biện các giá trị, các chân lí hiển nhiên được thừa nhận theo một lối mòn nhận thức: Liệu có phải rằng “con người” là khái niệm chỉ một loại sinh vật cao cấp, đặc tuyển và tốt đẹp nhất? Liệu có phải rằng mỗi cá nhân cá thể người chúng ta đang được sống trong một “xã hội” phù hợp và xứng đáng với mình? Mối quan hệ giữa cộng đồng và cá thể trong xã hội loài người thực chất là thế nào? Tình dục có phải luôn gắn liền với tình yêu hay không? Và – đây là một câu hỏi lớn – con người có thể hiểu và thật sự hiểu được nhau hay không? Cái đích của sự sống hay cái đích cần đến của con người là gì?

Cái bờ xám [3] chông chênh mà con người đang bận rộn, mỏi mòn đứng chen chúc nhau nơi ấy (có kẻ may mắn hơn đứng về phía vùng sáng anh nhiên, nhưng lắm kẻ sẽ/sắp rơi tõm xuống vực tối, có kẻ đang ngoi ngóp từ vực tối leo lên,…), bản thân nó ám ảnh chúng ta như một dự cảm, một cảnh báo. Cuộc sống hiện đại, hậu hiện đại, lối sống tiêu thụ ở các đô thị ngày nay đúng là đang “sói hóa” con người. Ở đó, trong mắt của từng nhân vị, những “kẻ khác” (tha nhân) đều là con mồi. (Chữ “con mồi” trong Bờ xám là một từ khóa, một nhãn tự, láy đi láy lại ở nhiều đoạn, nhiều chương gợi nên một cặp đôi thù địch độc đáo: thợ săn/thú săn “con mồi”).

Đây thực ra không phải chỉ là vấn đề, tình trạng đáng báo động riêng của không gian xã hội ta đang sống, mà của chung thế giới nhiều thế kỉ gần đây. Có điều, mọi người quen nhìn thế giới này bình thản, còn Vũ Đình Giang không thể bình thản, thấy cần lên tiếng cảnh báo.

Người kể chuyện và hai nhân vật chính trong Bờ xám có cái nhìn đặc biệt tinh nhạy với những gì đáng ghê tởm của con người, xuất phát từ những góc nhìn riêng rất khác thường [4] của họ.

Bình thường ta nhìn thế giới là bề mặt, con người có mặc quần áo, còn người kể chuyện và nhân vật trong Bờ xám lại lột trần ra, lộn trái, ngụp vào tận bên trong để thấy cả những gì không mĩ miều cho lắm (như: phân, đờm, dãi... – cũng là của cơ thể con người cả). Họ “dùng một loại thấu kính lồi quá cỡ, soi vào đâu cũng thấy kích cỡ khổng lồ đến quái đản của hiện tượng” [5]. Để những lời cảnh báo càng trở nên ám ảnh, ấn tượng hơn. Cái tâm của Vũ Đình Giang vốn lành: nhân vật của anh dù tỏ ra cay độc, khó chịu, đỏng đảnh – cái cay độc khó chịu của một người từng trải và cái đỏng đảnh của một đứa trẻ ranh –  song thực ra họ là những người rất nhạy cảm trước muôn mặt của đời sống. Nhưng chính vì nhạy cảm thái quá – cái nhạy cảm của “thợ săn” trước những “con mồi” – họ quả nhiên không thể sống yên ổn, thản nhiên, hạnh phúc như người thường, trái lại sống rất khó, rất khổ. Cái khó, cái khổ thuộc về tâm lí, tinh thần với những dằn vặt ám ảnh ghê gớm của nó (nên nhớ: các nhân vật chính trong tác phẩm đều đang có một cuộc sống vật chất đầy đủ, có chỗ dựa hay vị thế xã hội vững chắc). Nói cái tâm tác giả vốn lành vì, Vũ Đình Giang rất nhạy cảm với nỗi đau của nhân vật, cũng là nỗi đau của con người. Sự nhạy cảm của anh dĩ nhiên phải lớn hơn sự  nhạy cảm của hết thảy các nhân vật nói trên gộp lại.

Không, tác phẩm không nhằm phỉ báng con người mà nhằm cảnh báo con người bằng cách đưa thêm một góc nhìn – góc nhìn này có thể rất chủ quan về con người mà càng chủ quan càng có hiệu quả cảnh báo.

Đọc tác phẩm, thấy Vũ Đình Giang đã thực sự đau xót cảm thương, lo ngại cho con người trước cái “bờ xám” cheo leo của họ. Như thế là nhân văn hay phản nhân văn? Câu trả lời đã rõ.

2. Nhân vật “sói hóa” và những “đối thoại ngầm”

Viết Bờ xám, có thể Vũ Đình Giang đã chịu ảnh hưởng nhiều từ các sáng tác hiện đại, hậu hiện đại nổi tiếng. Chẳng hạn cái nhìn vào cõi thầm kín của kiểu nhân vật “sói hóa” [6] ở đây, ít nhiều chịu ảnh hưởng gián tiếp hoặc trực tiếp của Tô-tem Sói (Khương Nhung). Cặp đôi nhân vật chính và kết cấu song song trong Bờ xám có dáng dấp cặp đôi trong Rừng Nauy (Haruki Murakami) và, đặc biệt, trong Linh Sơn (Cao Hành Kiện), thậm chí, mang cả dáng dấp nhân vật trữ tình trong những bài thơ thời “hậu sói” của các nhà thơ trẻ. Ảnh hưởng, tác động của một trường thẩm mĩ như vậy lên tác phẩm này cần được nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ.

Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh một vài phương diện thể nghiệm nghệ thuật thành công dễ thấy nhất.

Thứ nhất, cách trần thuật, cách chọn, sử dụng phối hợp dịch chuyển các điểm nhìn, góc nhìn trong tác phẩm đã tạo được một hiệu quả nghệ thuật rất đáng kể. Người kể chuyện trần thuật bằng một giọng điệu sắc lạnh và ẩn chứa đau đớn.

Cái nhìn của Vũ Đình Giang được thể hiện qua điểm nhìn người kể chuyện bằng kiểu diễn ngôn trần thuật diễn giải; điểm nhìn của và của , cùng một số điểm nhìn bổ sung tham chiếu khác (bà mẹ của và phần nào mẹ của , lão trưởng khoa và nhà chức trách).

Cái nhìn của người kể chuyện hòa vào cái nhìn và dòng ý thức của nhân vật “sói hóa”, tự sự bằng thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp nên cái nhìn và diễn ngôn đều “sói hóa”: đối tượng của cái nhìn trở thành một thứ con mồi. Là chủ thể quan sát, nghiên cứu đối phương – con mồi – nhân vật (gã, ả) phải mài sắc giác quan và tư duy để phân tích, liên tưởng, suy luận, nhằm đánh giá, khống chế, tiêu diệt hoặc chi ít, chế ngự hay làm tổn thương “con mồi” ấy.

Thứ hai, lời văn nghệ thuật của tác phẩm được sáng tạo rất phù hợp với kĩ thuật trần thuật, yêu cầu dịch chuyển và sử dụng điểm nhìn nói trên. “Bờ xám” cho thấy một sức sáng tạo, làm mới, làm giàu, lạ hóa ngôn từ tiểu thuyết đáng kinh ngạc của Vũ Đình Giang.

Kéo theo cái nhìn xám của tác phẩm là một tập hợp các diễn ngôn với hình ảnh biểu tượng ngôn từ đậm chất hài hước đen.

Thân xác và tâm hồn của các nhân vật, chủ thể quan sát (gã, ả) đều đầy thương tích. Và vì đầy thương tích như vậy, họ càng lạnh lùng, tàn nhẫn phán xét kẻ khác, đối thủ, đối phương của mình. Thế giới đồ vật, phương tiện theo đó cũng “sói hóa”; hành động cơ bắp của thân xác hay hành động của tâm hồn đều là vồ, chụp, tấn công; lao, vút, phóng, phun,… Cuộc sống đô thị làm cho con người bị “sói hóa” như vậy. Họ quyết liệt bảo vệ cái tôi và bản thể cá nhân, đồng thời, cũng khư khư ôm lấy định kiến, không dễ dàng tha thứ, cảm thông, giao hòa cùng đồng loại; sự khác biệt về giống và giới, sự nhớp nhúa, dung tục về nhu cầu bản năng, tình dục càng làm cho họ gần với sinh vật và càng cách biệt nhau hơn. Họ đặc biệt nhạy cảm với tất cả những gì khác biệt với mình (về giống, giới, tuổi tác, quan niệm), và nỗ lực duy trì sự cách biệt. Giữa họ – một/những bờ xám cách biệt tinh thần và thân xác được dựng lên, các bên đều cố thủ, thật khó xóa bỏ, thật khó làm cho họ gần nhau hơn. Cuối tác phẩm xuất hiện nơi bờ xám hai “bàn tay lạ” (tên phần 5), nhưng hai “bàn tay lạ” này chìa ra, vừa chạm đến nhau, định kéo nhau vượt qua bờ xám thì liền bị ngăn trở bởi một “bàn tay lạ” khác.

Có một bờ xám cách biệt khiến họ – các nhân vật chính cũng như phụ – dường như không có ngôn ngữ chung, họ hầu như không đối thoại. Đối thoại trong tác phẩm thực chất là hành động được người kể chuyện kể lại, bị biến thành lời gián tiếp, lời nửa trực tiếp. Các ý nghĩ, lời thoại đều bị “câm hóa” thành hành động qua lời kể (lui vào địa hạt kể, diễn giải; mọi diễn ngôn do người kể chuyện nắm giữ, điều phối, tiết chế; cổng phát ngôn duy nhất – người kể chuyện).  Đó là một thể nghiệm, có thể không mới với nhiều nền văn học, nhưng mới với sáng tác tiểu thuyết ở Việt Nam: xu hướng tự sự hóa, phi đối thoại hóa các diễn ngôn nhân vật, diễn ngôn người kể chuyện.

Theo lời người kể chuyện, nhân vật cách biệt nhau và cách biệt với người đọc một khoảng cách tương đương với “bờ xám”. Nhân vật được xưng gọi là gã, gã thầy, vị thầy, ả, cô con gái, nhúm xương tàn, bông hoa không chịu nở, con cá, con chim cẳng dài,…; thằng heo rừng đồi bại, con cá mập,… Còn các bộ phận của thân xác thì đều được đặt tên lại bằng những cái tên trần trụi, dung tục, đến ghê tởm.

Ví dụ, bộ phận sinh dục nam: được gọi tên là cái vòi nguy hiểm với thể xốp, thể nang,…; khối thịt, cục thịt, thỏi xúc xích,…; bộ phận sinh dục nữ được gọi là cái bao nilon, cái lỗ phía dưới bụng, kẽ nứt,... cái đầu được gọi là “quả đầu”, cái mông được gọi là “hai bờ lục địa”; người chết đuối được gọi là “sinh vật người chết đuối”,.... Tình yêu, tình dục thường được nhìn từ góc độ tiêu xài, được thân xác hóa: những cặp đôi sinh viên; bà mẹ của gã thầy, thằng bạn, thằng anh của ả nhí,… Không gian môi trường: nhà cửa, đường sá…, tất thảy đều vật hóa, thân xác hóa. Đập vào nhãn quan cảm giác nặng nề xám xịt, nhàm chán: cái “nhà mồ” chôn sống các sinh vật người; cái “tổ nhện” giăng bẫy con người. Con người bị công cụ hóa, thực dụng hóa.

Rõ ràng, từ cái nhìn nghệ thuật cho đến ngôn từ trần thuật đều có một định hướng sáng tạo nhất quán. Nội dung được thể hiện qua hình thức, hình thức kĩ thuật mang tính nội dung. Nội dung thành cái lý của hình thức, hình thức mang cái nghĩa của nội dung. Tóm lại: một sự sáng tạo có nghĩa-lý.

Tuy nhiên, thỉnh thoảng, tác giả đã “để lộ việc chú trọng vào kĩ thuật quá, nên hơi phô, hơi nặng, có vẻ chưa thật ‘tiêu hóa’ các món nghề mình học được”. Hạn chế này của Bờ xám bao gồm cả hạn chế về kĩ thuật kết cấu, trần thuật, kiến tạo hình tượng, sử dụng chi tiết, cũng như lĩnh vực sáng tạo ngôn từ (câu, từ, hình ảnh). Không ít đoạn dài, rườm lời, quá say sưa với trò chơi chữ nghĩa, ẩn dụ, mải mê kiếm tìm và xây dựng các biểu tượng ví von làm loãng ý văn. Văn Vũ Đình Giang đôi khi như cô gái ưa làm duyên, quá quan tâm trau chuốt trang phục, thích sự lấp lánh mĩ miều bề ngoài trở nên đỏm dáng một cách hơi lộ liễu. Đọc anh, nhiều lúc thấy mệt như đọc Nguyễn Tuân. Cũng khề khà khệnh khạng. Nhịp điệu văn có biến hóa, thậm chí đột biến nhưng nhìn chung là nhịp chậm, đôi lúc quá chậm.

Về mặt mĩ cảm, cái nhìn của người kể chuyện và nhân vật về sex, có phần kì thị, thái quá. Đó không hẳn là cái nhìn của Vũ Đình Giang, nhưng Giang đã để cho người kể chuyện và nhân vật nhúng bạn đọc vào “bể dung dịch” “đục ngầu” của cái nhìn ấy, ngâm họ mãi, nấn ná không chịu vớt họ lên. Giang thừa biết rằng con người thế tục lành mạnh cũng có những cơn đói sex rất lành mạnh. Cứ ngâm lâu như thế làm sao con người có thể thoát khỏi ám ảnh “bờ xám” của Giang để trở về thế tục mà sống với đời sống hài hòa, cường tráng về thể xác và lành mạnh về tinh thần được.

3. Bờ xám và  “cơ chế tự bảo hiểm”

Tính hàm ngôn của tác phẩm là một “cơ chế tự bảo hiểm” chống cái nhìn áp đặt đầy hiệu lực của Bờ xám.

Tác phẩm toát lên một tinh thần, một cảm hứng chung là khẳng định quyền tự do của con người với tư cách một cá nhân, một khả thể  – tự do sống, tự do trong trải nghiệm và tự do trong nhận thức – chống mọi áp đặt của bầy đàn hay áp đặt của đám đông, dù dưới bất kì hình thức nào. Trong tác phẩm, mọi sự áp đặt đều làm cho hành động con người thành vô nghĩa, bị vô hiệu hóa, thậm chí phải trả giá đắt.

Nhân vật “gã đàn ông”, “vị thầy mĩ thuật” áp đặt cái nhìn của mình lên đám đông sinh viên, lên cô gái, “nàng công chúa”, con cá, con chim chân dài (với mỗi góc nhìn, mỗi trạng thái, nhân vật được tạm thời định danh bằng các ẩn dụ, biểu tượng nhất định) và, lên mọi người xung quanh. (Tất nhiên đến lượt mình các nhân vật này lại áp đặt cái nhìn của họ lên “gã đàn ông” và những kẻ khác). Anh ta được sự tự đắc nhưng mất sự cảm thông, đồng thuận của đối tượng và của người khác, luôn phải trả giá. Chừng nào sự áp đặt còn tồn tại thì cái bờ xám kia vẫn cứ bền vững như thành đồng.

Khi thể hiện điều này Vũ Đình Giang dĩ nhiên cũng mở ra một tinh thần chống áp đặt của bất kì ai lên tác phẩm của anh trong quá trình tiếp nhận. Tác phẩm, với cả thành công và hạn chế của nó, dường như được cài đặt sẵn một “cơ chế tự bảo hiểm”. Bờ xám không cho phép người ta bước vào rồi dửng dưng bước ra, hay đứng bên trên, bên ngoài mà “nhìn xuống”, “trông vào” một cách dễ dãi, biếng lười, thô bạo. Vũ Đình Giang dẫn dụ độc giả vào một thế giới riêng khá âm u và đầy bí hiểm: trước mặt họ là cả một rừng biểu tượng rậm rạp ở trên hai cấp độ – hình tượng và lời văn. Người đọc phải tự trang bị cho mình một vốn kiến thức, kĩ năng đọc nhất định nào đó mới mong nhập được vào cõi xám bí hiểm, âm u của Giang mà khen chê, bắt bẻ.

Cuốn tiểu thuyết rõ ràng là không dễ đọc, thậm chí, còn có chút thách đố, giễu cợt độc giả, nhất là những ai lười biếng, dễ dãi, thô bạo.

Hy vọng rằng, Bờ xám, với một “cơ chế tự bảo hiểm” riêng, sẽ tuyển mộ được đông đảo độc giả của mình – những người đọc sành điệu thuộc những không gian, thời gian tiếp nhận văn học khác nhau.

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 11/2010

NTT

 

Chú thích

[1] Nhà xuất bản Trẻ, 2010.

Tác phẩm gồm 5 phần, 29 chương:

Phần 1: Những đường úa tàn: 4 chương

Phần 2: Hơi thở xám: 6 chương

Phần 3: Nước tối: 6 chương

Phần 4: Buổi chiều trong rừng dương xỉ: 4 chương

Phần 5: Bàn tay lạ: 9 chương.

In xong, bắt đầu bày bán, thì có “lệnh” tạm ngừng phát hành để thẩm định lại. Một Hội đồng thẩm định gồm một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, nhà báo, biên tập viên và nhà quản lý trong lĩnh vực kinh doanh xuất bản phát hành sách được thành lập và làm việc tại NXB Trẻ. Ý kiến chung: phủ định lý do đình bản, ủng hộ việc tiếp tục phát hành cuốn sách này.

[2] “Hài hước đen” (black humor): khái niệm mĩ học chỉ cái hài gắn với cái phi lí, mang ý nghĩa phản tỉnh, có khả năng mang lại những nhận thức mới mẻ, dựa trên thang bậc giá trị mới mẻ, khác biệt nhiều với truyền thống, có giá trị phủ định cao những cái ngụy tạo, ngụy tín, những ảo tưởng bền vững, vĩnh hằng. Hài hước (humor), khác Châm biếm (satire)thường dùng các thủ pháp lột mặt nạbiếm họa. Hài hước là tiếng cười (mà M.Bakhtin và Octavio Paz quan niệm rằng) nó gắn liền với sự ra đời của tiểu thuyết, tiếng cười “khiến bất cứ cái gì nó chạm đến đều trở thành nhập nhằng nước đôi”, tiếng cười thể hiện “tính toàn vẹn của bình diện trào tỉếu của thế giới”, cái “chỉnh thể luôn biến đổi, mà con người cười cũng là một bộ phận trong đó”.

[3] “Bờ xám”:  nghĩa thứ nhất là “cái ranh giới mong manh giữa ánh sáng và bóng tối”,  sự cận kề cõi “vô minh”; nghĩa thứ hai là “sự cách biệt khó hiểu, khó rút ngắn”.

[4] Hai nhân vật chính đều có những chấn động ghê gớm về tâm lí, tinh thần (chàng họa sĩ suốt một thời gian dài niên thiếu chứng kiến cuộc sống tình dục phóng túng của mẹ minh; đứa bé gái chín tuổi bị thằng anh lạm dụng thân xác). Cái nhìn và tâm lí của họ luôn bị ám ảnh bởi những cơn dư chấn nặng nề ấy.

[5] PTP, Vài cảm nhận khi đọc Bờ xám (trích thư gửi Nguyễn Thành Thi đề ngày 19/4/2010).

[6] Nguyễn Hữu Hồng Minh khi viết Đặng Ngọc Khoa và thơ thời 'hậu sói' đã khá tinh tế khi nhận ra dư vị văn chương nghệ thuật của một không gian sáng tạo và tiếp nhận văn học thời “hậu sói”. Có một trường văn học hiện đại với môtip “sói hóa” khá thịnh hành cả trong thơ và văn xuôi. Viết Bờ xám, Vũ Đình Giang đã chịu chi phối của trường thẩm mĩ, không gian văn học này.

 

Nguồn: Bình luận văn học - Niên giám 2011, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số chuyên đề (2011) 

* PGS.TS., Khoa Ngữ văn – Trường ĐHSP TPHCM.