09112024Sat
Last updateTue, 05 Nov 2024 9pm

Lối đi tâm linh trong thơ Hoàng Cầm

Chỉ có “Trường thơ Loạn” và nhóm “Xuân thu nhã tập” trước năm 1945 là hai thi phái hiện đại duy nhất ở Việt Nam có những quan tâm thật sự về tâm linh trong thơ, tâm linh theo nghĩa là một thứ “linh khí” của sáng tạo. Tâm linh trong thơ ca của người Việt vẫn còn là mảnh đất tiếp tục mới.

Tâm linh và văn học vốn được xem là một mối quan hệ phức tạp, đa nghĩa, “dễ phiền toái”, “gây hệ lụy” nên cả người viết lẫn người đọc đều không có khuynh hướng mổ xẻ, giãi bày nó làm gì. Hơn nữa, “tâm linh” (xét như một tính chất của tác phẩm văn học) là một trong số những từ ngữ khó xác định nội hàm nhất. Đức tin, hồn ma, mộng mị, thần thánh, ảo giác huyền hồ, ân oán trả đền, kiếp trước kiếp sau, tiên cảm tiên tri,… có phải tất cả đều là tâm linh, là cái mà lý trí thông thường khó chấp nhận? Sẽ giải thích thế nào trước một thực tế: Kinh Thánh Thiên Chúa giáo là suối nguồn vô tận cho những đỉnh cao văn học châu Âu, Kinh Thi, Đạo đức Kinh, Nam hoa Kinh của Trung Hoa đã làm nên biết bao tượng đài thơ ca châu Á, Kinh Veda của Ấn Độ, hệ thống Kinh điển Phật giáo Đại thừa Đông Á đã “hiến tế” cho nhân loại những nghệ sĩ thượng thặng. Trong sâu xa, cảm hứng “nói bằng sự kính tin” và “nói với đấng kính tin” có lẽ là cội nguồn miên mật của ngôn ngữ tôn giáo và cuộc sáng tạo bất tận của văn chương.

Bởi vậy, những thiên tài văn chương qua nhiều thế kỷ của nhân loại thường được ca tụng là “nhà tiên tri”, “kẻ thấu thị”, “người có con mắt trông thấu sáu cõi”, “tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”… Tâm linh là những phần suy tư sâu sắc nhất được chưng cất mãnh liệt của con người về những cảm nghiệm sống, vượt qua nhiều giới hạn không gian và thời gian. Tâm linh là một giá trị của văn học.

Để có thể nói được những điều sâu kín mà phổ quát nhất, tác phẩm chắc chắn cần đến một bệ đỡ là những suy tư tâm linh mà sau đó sẽ biến thành quả ngọt sáng tạo. Không thể có những tiếng nói đa thanh đa nghĩa đến cốt tủy nếu tác giả của những tiếng nói ấy lại là người sơ sài về “khả năng tâm linh”.

Đương nhiên, cũng không có nguyên tắc nào để khẳng định chỉ có văn học tâm linh mới là đáng giá. Nhưng tâm linh trong văn học và văn học tâm linh là hai chuyện khác nhau, và cũng thật khó tin rằng những tác phẩm đã bỏ mặc tiếng gọi của tâm linh sâu xa mà vẫn có thể đạt tới những giá trị lớn.

Honoré de Balzac, bậc thầy chủ nghĩa hiện thực châu Âu, cũng là tác giả của “Miếng da lừa” huyền hoặc – một phúng dụ cay đắng về giá trị con người trong thử thách của xã hội đồng tiền, một huyền thoại giàu ý nghĩa tâm linh bổ sung vào cái nền hiện thực tàn bạo và đáng chán.

Trở lại câu chuyện của thơ ca Việt, có quá nhiều lý do khách quan và chủ quan để nói rằng: “tâm linh” là một chủ đề nhạy cảm không thua kém bất kỳ sự nhạy cảm chính trị, tôn giáo nào. Nó từng được ủ men trong Trường thơ Loạn, bởi chủ soái Hàn Mặc Tử vốn cũng là người yêu mến và am hiểu Thiên Chúa giáo, người đã rọi một thứ ánh sáng khác biệt xuống khoái cảm nghệ thuật của độc giả đương thời, một thứ ánh sáng ẩn mật, đau đớn và giàu ý nghĩa thần học. Nhưng Trường thơ Loạn cũng sớm kết thúc sứ mệnh tâm linh ngắn ngủi cùng với sự ra đi của Hàn. Đoàn Phú Tứ của Xuân thu nhã tập viết: “Còn những bạn nào nữa đây, ở những bến trời xa lạ, cùng chúng ta “giũ áo lên Đền”, trong một điệu đàn thanh khí”[1]. Lần này, ở quãng cuối của trào lưu thơ mới, một tuyên ngôn đậm đặc yếu tính tâm linh lại xuất hiện. Nó không nhận mình là “điên”, là “loạn” mà nhận là “thanh khí”, là “nhã”. Thơ trở thành “Thi Đền”. Sang trọng biết bao! Nhưng rồi nhóm Xuân thu nhã tập cũng biến mất cùng tiếng chuông lịch sử năm 1945, “cáo chung” thời đại cũ. Thơ ca kháng chiến cuồn cuộn đưa con người vào cơn lốc chiến tranh, khó có chỗ cho tâm linh trú ngụ.

Từ bấy đến nay, câu chuyện thơ ca và tâm linh vẫn còn là mối dở dang. May thay, có một người gợi cho tôi niềm tin mạnh mẽ về một thứ văn nghệ “biết đến tâm linh” và “biết đến cái đẹp của tâm linh”. Người ấy là nhà thơ Hoàng Cầm.

Một sớm du xuân về Thuận Thành, đứng ở chùa Dâu, rồi ngồi giữa đồng cạnh chùa Bút Tháp, tôi thấy hồn thơ Hoàng Cầm trở về không dứt. Quả không phải chỉ Hoàng Cầm “về Kinh Bắc”. Sẽ còn nhiều độc giả tiếp tục cuộc trở về ấy, không phải chỉ vì lời dụ gọi của những làn điệu quan họ mà hẳn còn vì họ muốn nhìn thấy muôn nghìn Kinh Bắc khác nữa, qua người dẫn đường kỳ lạ, người kể chuyện độc nhất vô nhị, người được Kinh Bắc sinh ra và sinh ra “Kinh Bắc”: Hoàng Cầm.

Nếu đem đặt chất thôn quê bình dị của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính với “hồn quê Việt” của Hoàng Cầm thì chẳng có gì sai, nhưng cách ấy không khéo rất dễ làm mờ tan ít nhiều phong vị ám ảnh từ âm ba cây đàn lia mà chàng hoàng tử bé xứ Bắc Ninh xưa gẩy lên mê hoặc. Vẫn cảnh quang và dải yếm quê mùa của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng, song, cốt cách Hoàng Cầm vẫn không thể chia sẻ với giọng quê truyền thống. Ông là một đối thoại rất khác biệt với truyền thống.

1. Cảm hứng hồi tưởng – tâm linh hóa ký ức

Thơ Hoàng Cầm là tiếng nói của hồi tưởng. Nhà thơ Hoàng Hưng có một bài viết lấy nhan đề Hoàng Cầm – Một đời nhớ tiếc, một đời “níu xuân xanh”. Nỗi nhớ tiếc trong thơ Hoàng Cầm nhiều đến mức tạo nên “điệu nhớ” dai dẳng, và cũng giúp ta cắt nghĩa được nhiều nỗi đa đoan trong nội tâm phong phú, u huyền của thi sĩ. Nhớ và tiếc triền miên – đó là điệu thơ của người không bao giờ chịu già nua trong cảm xúc và ước mong.

Nếu anh còn trẻ như năm ấy

Quyết đón em về sống với anh

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại

Anh đàn em hát níu xuân xanh

Nhưng thuyền em buộc sai duyên kiếp

Anh lụy đời quên bến khói sương

Năm tháng năm dây chùng phím nguyệt

Bao giờ em hết nợ Tầm Dương (…)[2]

Bài thơ được viết năm 1941. Câu chuyện một mối tình buồn ở những bước đầu của sự nghiệp thơ ca đã sớm ghi dấu một khả năng dẫn dắt trường từ ngữ đến gần cửa ngõ tâm linh, qua cách nói: khoảng chiều buồn phơ phất/ níu xuân xanh/ sai duyên kiếp/ bến khói sương/ nợ Tầm Dương.

Một vài bài thơ trước 1954 của Hoàng Cầm, dù đi giữa những quan tâm lớn lao về cuộc kháng chiến chống Pháp, vẫn hé lộ một hướng tư duy, một hứng thú viết, một thiên bẩm về sự kiến tạo chiều sâu tâm linh cho thơ, ví dụ như những câu: cõi đời nghiêng ngửa giấc u minh (Lại gặp), ngọn gió điên rồ trên đất lạ/ là mắt em hay thần mộng anh linh/ nước sâu gạn đục, ánh giăng nhiệm màu (Sám hối), từ trên nguồn thơ dại/ em chải tóc rừng xanh (Tiếng hát sông Lô).

Bài thơ Bên kia sông Đuống (4-1948) của Hoàng Cầm là một trong những hồi tưởng lớn và thiêng liêng nhất của Hoàng Cầm. Điều lạ là cái cách nói của bài thơ này, nỗi nhớ của nó, không có nhiều nét chung với bức tranh thơ ca kháng chiến hồi ấy (thậm chí khó mà được lòng cái “đại chúng” mơ hồ và quyết liệt của một thời) nhưng nó vẫn được yêu mến, được truyền tụng, được “chính thức hóa” (từng được đưa vào chương trình sách giáo khoa trung học phổ thông, trở thành đề thi đại học nhiều năm). Được như thế có phải vì sức thuyết phục của một dòng chảy tâm thức thơ đạt tới mức “hoạt hóa cõi siêu thức”, đi thẳng vào tâm linh người đọc, bất chấp mọi “húy kị” chăng?

Chất giọng thanh tao pha lẫn nỗi mê sảng và cách đặc tả sang trọng đầy sức vẫy gọi đâu có dễ hiểu dễ cảm.

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Thần thái Bên kia sông Đuống có lẽ nằm ở những tia sáng ẩn khuất của tâm linh hiện ra trong bài thơ. Trong nỗi nhớ tiếc cuồng dại và thắm thiết, nhà thơ đã mở hoàn toàn cánh cửa tâm linh cho ký ức được trở về trong chiếc bóng khác. Nó không còn là cảm xúc, tâm lý. Nó vượt qua kỷ niệm để trở thành tưởng niệm, vượt qua hình ảnh để trở thành ám ảnh, vượt qua không gian địa lý để trở thành không gian tâm cảm. Ký ức trở thành tâm linh là một trong nhiều sở trường của tư duy nghệ thuật Hoàng Cầm.

Nỗi nhớ chỉ dừng ở cảm xúc cũng có thể sản sinh ra cái đẹp. Nhưng nỗi nhớ đã thành tâm linh thì chính nó là cái đẹp. Quang Dũng từng có câu thơ “thần sầu”:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

(Tây Tiến)

Đâu còn là nhớ Tây Tiến, đâu còn là chuyện một chiến sĩ nhớ một vùng đất, một nhiệm vụ, một thời. Đó là sự sống nhớ cái chết, thần hứng nhớ địa linh.

Nỗi nhớ có màu sắc tâm linh đã biến “tấm the đen” của thi sĩ Hoàng Cầm thành một dải lụa kì bí mở ra một trời quá khứ cố hương. Cụm từ “thấp thoáng mộng” không chỉ hô ứng với “tấm the đen” phía trước mà còn gọi được cả những thứ “linh phù” phía sau: Thiên Thai, Bút Tháp, áo, ai, chuông chùa, ở đâu. Nếu quả có một thế giới khác thực sự đã hiện ra sau tấm the đen mờ ảo kia thì tôi tin hồn vía đoạn thơ đã nhập cả vào không gian Thuận Thành xứ Dâu Keo. Đó không phải là tâm linh thì biết gọi là gì?

Hoàng Cầm kể lại cái thế giới sống trong hồi ức ấy: Con cò trắng bay vùn vụt/ Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu…; Lá đa lác đác trước lều/ vài ba vết máu loang chiều mùa đông/ Đêm buông xuống dòng sông Đuống / Con là ai – con ở đâu về; Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng/ ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể/ những chuyện muôn đời không nói năng; Em đi trảy hội non sông/ cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. “Viết như đang chiêm bao” thế này, “nói như tiếng mơ hồ” thế này, về sau, trong bài Đi tìm ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm (tìm hiểu tập Về Kinh Bắc), Đỗ Lai Thúy đã cắt nghĩa thành thủ pháp của “giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh rời rạc và rất nhiều khoảng trắng, các dấu lặng… Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên” và thế giới thơ ông là “một thực tại siêu thực trong vô thức”. Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, cái “khoảng trắng”, “dấu lặng” được nhắc đến đó chính là lối đi của một thứ tâm linh nhạy bén trong bản năng thơ của Hoàng Cầm. Một nhà thơ dân dã, bình dị, đầy chật những quan niệm Nho gia buổi giao thời như Nguyễn Đình Chiểu cũng có lúc buột ra một câu thơ sâu thẳm: “Ba nghìn thế giới ta là vô danh”. Thơ ca gắn với tâm linh như là bản mệnh. Một nhà thơ trong một đời thơ cũng ít nhiều “buột ra” những câu thơ đi vào vĩnh cửu bởi sự hội tụ tâm linh đạt tới mức lấp lánh. Nhưng Hoàng Cầm không thuộc kiểu thi sĩ đôi khi buột ra hiếm hoi theo cách ấy. Ông tư duy trên tâm linh. Bản năng thi sĩ của ông nằm ở đó. Thành tựu của thơ ông chảy từ nguồn đó.

Những mảng hồi ức hóa tâm linh còn len lỏi tinh tế trong những bài thơ cắm sâu vào lòng người đọc như Lá diêu bông, Chùa Hương, Cây tam cúc, Cỏ Bồng Thi, Hội yếm bay… Đó là những: Buồn pha lê thiên không nức nở/ mù xanh thủng đáy chúa tiên rơi; Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ Diêu Bông hời…; ù ù gió thổi/ e vọng ai đâu mà hóa đá; thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi/ Em đứng nhìn theo Em gọi đôi… Đã có nhiều bút mực của công chúng yêu thơ cho thế giới “siêu nghiệm” của Hoàng Cầm. Điều làm người đọc phải suy tư nhiều chính là ở khả năng tâm linh hóa những biến cố tinh thần, tình cảm ở nhà thơ. Có phải vì khả năng ấy mà những câu chuyện tình dị thường, diễm lệ, buồn đau riêng của ông cũng trở thành “điển cố” cho chính ông, ở lại trong lòng người đọc một cách lâu bền bởi những ngôn từ “tha tâm thông” (thấu lòng người) một cách tự nhiên.

2. Lằn ranh nhục cảm và tâm linh

Niềm sung sướng không cưỡng được của người đọc khi nhẩn nha những câu thơ “đầm đìa sắc dục” của Hoàng Cầm xuất phát từ chỗ nó vẫn không ngừng dính líu với vẻ đẹp nguyên sơ của tinh thần. Đó là một thứ khoái cảm chính đáng và hiếm hoi.

Thuở ấy Chị chưa về thơ Anh

Áo tơ dính chặt bó khuôn hình

Đến khi xé lụa bừng da thịt

Ngửa mặt phù du khép gió xanh

 

Rung suốt dây si nhịp quá mê

Nghe nghìn thế giới trượt ghềnh V

Lung liêng hồn liệng quỳ khe núi

Van suối trần tâm khép nép về

(Dâng thơ)

Dòng thơ “dềnh dàng” giữa cảm thức thánh thiện và cảm giác nhục dục được tạo thành từ nữ sĩ thiên tài Hồ Xuân Hương. Dòng thơ ấy được nối tiếp bằng Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng và Hoàng Cầm. Ở mỗi thi sĩ, nhục cảm và tâm linh chi phối lẫn nhau bằng một cấu trúc khác biệt. Nếu thơ Hồ Xuân Hương được cảm nhận từ phía “cổ mẫu”, từ những “hoài niệm phồn thực”[3] thì thơ Bích Khê là tiếng nói tân kỳ về cái đẹp tĩnh tại của xác thân. Phong cách tượng trưng và yếu tố tương giao cảm giác ở nhà thơ này chiếm ưu thế hơn ấn tượng tâm linh. Hàn Mặc Tử thì gắn triết lý thần học về thánh giá với nỗi đau riêng, chuyển hóa cảm xúc tình dục thành những ảo giác tâm linh về sự chết. Bùi Giáng với “tài năng rồ dại” đã trộn lẫn hoàn toàn phần tâm linh và phần nhục cảm đến độ tự nhiên, thuần thục khó ngờ, với thú chơi chữ và lối cấu tứ không thể lặp lại ở bất kỳ một cây bút nào khác. Tâm linh và nhục cảm không quí ở chủ đề. Nó quí vì sự thử thách. Bởi hầu hết những tài năng thiên phú về văn chương đều ít nhiều để lại tầm vóc họ qua những cái bẫy nghiệt của đẳng cấp chữ nghĩa, nơi cái thanh và cái tục giải mã được cho nhau.

Cách riêng của Hoàng Cầm là trút hết cái nhấn nhá tài hoa của xứ sở “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” vào dáng vẻ nhục cảm. Trong ngòi bút của nhà thơ, hồn đất hồn người hồn quê hồn nước nhập hết làm một, tràn vào mỗi hình tượng, cảm xúc, biến tất cả những trạng thái tính giao thành những cuộc cung hiến nồng nhiệt ở cõi thanh cao. Trong tâm điểm cung hiến, Hoàng Cầm đã “thiên thai hóa” mọi niềm vui của cuộc đời hạn hẹp, kéo nó thành vô hạn và cao sang: sau “xé lụa bừng da thịt” thì sẽ là “ngửa mặt”, “khép gió xanh”, “nghìn thế giới”, “trượt ghềnh V”, “hồn liệng”, “quỳ khe núi”, “van”, “suối trần”, “khép”. Những từ ngữ này càng mang vẻ thiêng liêng bao nhiêu thì càng “lồ lộ” một cuộc “mây mưa” bấy nhiêu. Đó là bức tranh cuộn vẽ thiên nhiên đang cơn lạc thú, một thiên nhiên có thần thức của con người.

Nếu lọc ra những từ ngữ “kì dị” của thi sĩ xứ Kinh Bắc, người ta càng sửng sốt, ví dụ từ “chắp” trong câu: Hai người chợt tiếc mùa xuân/ Vội chắp lại đêm xuân thứ nhất/ Nhờ đó tôi ra đời (Tôi người làng quan họ); “sấp ngửa”, “ổ rơm thơm” trong câu: Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa/ Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì (Cây tam cúc); “tính”, “nhẵn nhụi”, “tròn lăn” trong câu: Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc/ Mấy ngón tay tính nước vào ra/ Vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà/ Tròn lăn cung cấm trẻ con chơi (Hội đền Tám vua triều Lý); “chảy”, “nhún” trong câu:  Luồn tay ôm say/ Giấc bay lay đỉnh núi/ Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành/ Đùi chảy búp dài thon nhún vội/ Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh (Thi đánh đu). Thật chẳng thua gì bà chúa thơ Nôm ngày trước, những là “giọt nước hữu tình”, “con thuyền vô trạo”, “nhảy ngựa”, “vén phứa”, “đầy phè”…

Thơ Hoàng Cầm ở những khúc đoạn “nhạy cảm” thường không tinh nghịch đến cùng. Điều ấy giữ cho thơ ông một màu sắc ẩn nhã dù chẳng xa niềm chăn gối. Tâm linh đã làm công việc đó, xoay xở cho những thú vui nghìn đời kia của loài người trở thành những lời khấn bằng thể xác. Mỗi cử động, mỗi xúc động là một khấn nguyện trước hư vô. Bởi vậy mới có những câu thơ:

Yếm may ba ngày mẹ vá lại

Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm

(Đêm Mộc)

Chuông chiều cởi yếm

Chuông sớm đội khăn

Gió ra hồng da trinh nữ

Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm

(Đêm Thủy)

Hỗn mang mê vô cùng

Địa đàng say tới tấp

Không giờ không

Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng

(Hội chen Nga Hoàng)

Hỗn mang, địa đàng, thăm thẳm, “không”, đó là những tên gọi khác của cuộc giao hòa cùng tận.

Đỗ Lai Thúy bình: “Mưa là một phiếm thể, dễ thay hình đổi dạng (mưa ngâu, mưa xuân, đi lối mưa, thềm hong mưa, lun phun mưa, mưa hoa nhài, mưa nằm, mưa ngồi, ao mưa nhòe nắng, mắt nhìn như mưa trắng…). Mưa là biểu tượng của tinh dịch Trời ban xuống cho Đất. Mưa trong thơ Hoàng Cầm, bởi vậy, mang màu sắc tính dục đậm”[4]. Nền tảng mỹ học và triết học phương Tây cho phép người đọc thấm thía đến mức ấy những câu thơ mơ sảng của Hoàng Cầm. Đọc lại mấy Mưa Thuận Thành mới thấy quả đúng thế:

Nhớ mưa Thuận Thành

long lanh mắt ướt

là mưa ái phi

tơ tằm óng chuốt

Ngón tay trắng nuột

nâng bồng Thiên Thai

(…)

Phủ Chúa mưa lơi

Cung Vua mưa chơi

lên ngôi hoàng hậu

… Lách qua cửa hẹp

Mưa càng chứa chan

mưa nằm lẳng lặng

hỏi gì xin thưa

nhớ lụa mưa lùa

sồi non yếm tơ

……………….

Thuận Thành đang mưa…

…………………

(Mưa Thuận Thành)

Có cái gì đó như là tất yếu khi đất chùa Dâu sinh ra thi sĩ Hoàng Cầm. Từ đầu công nguyên, Bắc Ninh đã là một xứ Phật, được biết đến với cái tên “trung tâm Phật giáo Luy Lâu”. Mọi câu chuyện kỳ diệu của huyền sử, lịch sử, không khí thiền đạo, tinh túy văn nghệ, các bậc tầng văn hóa cổ truyền… đều xoay xung quanh mảnh đất này. Bởi vậy, viết về Kinh Bắc mà thiếu tâm linh thì làm cách nào để người ta cảm nhận được Kinh Bắc? Khí chất tâm linh, khả năng “siêu cảm” là vốn trời cho ở Hoàng Cầm. Tâm linh ở đây không chỉ là câu chuyện của tôn giáo, tín ngưỡng. Tâm linh gắn với một nền tảng “vô thức tập thể” mà những nghệ sĩ lớn đời nào cũng tìm ra con đường để “hoạt hóa”. Hoàng Cầm được sinh ra và làm thơ để làm sống dậy hình hài Kinh Bắc trong tất cả những thăng trầm của nó. Cái dáng nằm “nghiêng nghiêng” của sông Đuống là kỳ quan tinh thần của nhà thơ để lại cho đời hơn là một phát hiện mang tính địa lý. Chiếc yếm bay không có mấy chiều sâu nếu nó không được khắc vào trong những câu thơ “nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy/ một chiều hoảng sợ mấy chiều say”; “Hương ngát em lồng kín cõi – anh/ Yếm đào trút lại phía vô linh/ đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy/ đôi núm hồng em nở hết mình” (Hội yếm bay).

Không khí tâm linh trong thơ Hoàng Cầm mang hơi hướng “cứu chuộc” những cái bị cho là thô xấu, tội lỗi. “Dâng hiến” và “cứu chuộc” là bản chất sâu xa của mọi niềm tin tôn giáo. Đó là những khái niệm không còn là khái niệm. Dâng hiến và yêu thương là một. Làm cho đẹp cũng là cứu chuộc. Hình ảnh nhục cảm mà gợi nên những sự đẹp đẽ thì chính nó đã cứu chuộc cho những ý nghĩ thấp tối về nó. Bài Cầu Phật của Hoàng Cầm chứng tỏ kiểu thơ tâm linh ấy:

Ngủ quỳ chân Phật thức thâu đêm

Nghìn mắt không soi tỏ nỗi niềm

Mảnh lá run xanh khe suối nép

Nghìn tay sao nỡ thắt y xiêm

Chế Lan Viên, một đối chọi về phong cách với Hoàng Cầm, từng viết: “Phật trăm tay anh giấu mình vào cánh tay thứ mấy/ Nhiều tay chi thêm bối rối trước đời”. Lời than vãn thông minh này là một triết lý nho nhỏ nhưng rất sâu, gợi ra hình ảnh một con người suy tưởng. Còn vị Bồ Tát Chuẩn đề của Hoàng Cầm lại hiện lên theo cách khác, không phải trong hình dung của lý trí bảo ban, mà như một lời thốt, lời van đa đoan: “sao nỡ thắt y xiêm”; điều đó có nghĩa rằng: những cánh tay cứu chuộc kia có thể nào đóng lại vĩnh viễn những khát khao cùng tận thể xác của con người? khép lại mọi nhục dục của con người? Có thể nào như thế không? …

Xứ Phật nghìn năm vẫn làm rơi ra những câu thơ táo bạo và “liều lĩnh” bực ấy. Nhà thơ của những sợi cỏ Bồng Thi vẫn tiếp tục liều lĩnh với đám thơ nửa tiên nửa tục:

Cởi xiêm y mà thành cởi cả bóng chiều:

Trăng đêm qua chẳng nhớ về

Áo mong manh cởi chiều mê mải sầu

(Đi bên em)

Những “chạm”, “đau”, “khát”, “phun” đa nghĩa:

Ngón tay chạm hờ

Sợi cỏ đau điếng

Khát em đầy miệng

Bập bồng phun mưa

(Mưa chiều nắng chếch)

Những “vùng khe sâu”, “ngồi”, “đứng”, “chìm”, “nổi” vừa tạo hình thủy mặc thanh nhã vừa gợi những ẩn tình…

Em lấy cõi mưa nhung

Miên miên tơ óng xuôi vùng khe sâu

Em ngồi đâu chị đứng đâu

bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không…

Em chìm chưa Chị nổi chưa

bỗng dưng hai đứa hai bờ tháng năm

 (Gọi đôi)

Trộn lẫn “đỉnh”, “ngực” vào tiếng chuông xuất thế:

Ôm em đỉnh núi sao buông thấp

hai ngực hòa tan một tiếng chuông

(Chùa Hương)

Đẩy những trụi trần vào chốn âm dương huyền vi:

Tình cờ đâu triệu triệu năm

Bỗng nằm

               bỗng thắm

                                bỗng chằm hai thân

Bỗng âm dương toát mình trần

Để sinh chi chit mắt ngần chớp mi

Để thành em của huyền vi

Âm vang khối sét cành si khuấy trời

Vỡ anh bừng tiếng kêu thầm

Vũng mê nũng gối nguyệt cầm gọi đôi

Đứng lên tiếng

gợn anh linh

suối mê động cửa khép mình thương sao

(Thèm)

Hoàng Cầm đánh bẫy người đọc bằng kiểu viết hoa của ông. Nhất là hai nhân vật trữ tình thuộc loại đáo để nhất là Chị và Em, khiến người ta hay có xu hướng cảm nhận đó là ám ảnh duy nhất của thơ ông. Nhưng ông còn viết hoa cả chữ Anh nữa. Vậy đâu phải trong ông chỉ có niềm ám ảnh tình “chị chị em em” sến sẩm. Trong thế giới được tâm linh hóa đến từng cử chỉ, từng ước vọng đa tình, mỗi đại biểu đa tình ấy đều được nhà thơ viết hoa. Con người hiện ra như một sinh thể linh thiêng, thế giới hiện ra như một khối linh thiêng, cuộc giao hoan hiện ra như một nghi lễ linh thiêng. Đó là sự cô đặc đến kiệt cùng một lối tư duy chọn tâm linh làm nơi giải mã mọi bi hoan của đời.

3. Nghĩ về một “mỹ cảm linh hóa” trong thơ Hoàng Cầm

Rất nhiều nhà thơ vẫn là đỉnh cao dù họ chỉ xuất hiện một vài lần với một vài bài thơ hoặc một vài câu thơ trứ danh. Một vài lần đáng giá ấy cho thấy họ được sinh ra từ một nền mỹ học nào đó, kết quả của một đợt “kết tụ” thầm lặng nào đó những giá trị mỹ học mà họ đã dung hóa được. Còn một số ít nhà thơ khác thì ngược lại, chính họ sinh ra mỹ học bởi khối trước tác khổng lồ về nhiều mặt của họ. Nguyễn Du là một thi hào đẻ ra mỹ học cho truyện thơ Nôm, cho lục bát, cũng như Hồ Xuân Hương đẻ ra mỹ học cho một kiểu thơ Nôm dạn dày phồn thực . Ở thời hiện đại, những nhà thơ biết đẻ ra một mỹ học cho mình không phải nhiều. Tất nhiên “mỹ học” ấy là một cách nói đứng từ góc độ thưởng thức hơn là từ quan niệm khoa học.  Trong con số ít ỏi đó có Hoàng Cầm.

Thơ Hoàng Cầm gợi cho tôi ý nghĩ về một “mỹ cảm linh hóa”.

Tránh từ “thiêng hóa” vì trong thế đối trọng sẽ có từ “giải thiêng”. Hoàng Cầm không phải là người thiêng hóa rồi giải thiêng. Không có cuộc lật đổ nào trong thơ ông cả. Thế giới đó linh thiêng từ đầu đến cuối.

Nụ cười của nàng hàng xén phải là “mùa thu tỏa nắng”, chiếc yếm cổ truyền dù bị “phanh” ra, “quăng” hết nhưng phải là “yếm đào trút lại phía vô linh”, lá rơi thì không phải “vèo qua” mà phải là “rơi trên bờ lạnh thuở hồng hoang”, còn ngày gặp lại em thì “Bao giờ Anh xế về Em/ Ôm cây cỏ đắng ủ men cuối đời/ Cung đàn hoàng tử ngậm ngùi/ nghĩ sao thuở ấy hé cười ánh trăng”, lên chùa Hương chẳng giản đơn mà “Em trẩy chùa Hương phía giải oan”, “Anh trẩy chùa Hương phía xót thương” để rồi “Cầm tay em lạnh đưa đi mãi/ mê mải rừng mai thấp thoáng hương”… Không nỡ để bất kỳ một hiện hữu nào thiếu đi bóng tâm linh, thơ Hoàng Cầm khiến người đọc không yên, hiểu ít hiểu nhiều cũng đều không yên, bởi những phấp phỏng rất thật và rất lạ trong mỗi bài thơ. Cũng vì thế, mỗi câu thơ đắc địa của Hoàng Cầm đều mở ra những chân trời thăm thẳm. Suy cho cùng, tâm linh cũng là một quyền lực. Trong một bài phỏng vấn, Hoàng Cầm trả lời rất trong sáng: “Thần linh đọc Diêu Bông, tôi chép Diêu Bông”. Không, có lẽ không phải thần tiên giáng bút đâu. Ông nâng niu cảm hứng của mình, đặt cho nó cái tên là Thần linh. Linh hóa chính cảm hứng của mình, điều ấy sẽ dắt đưa ông đến những bờ thơ ít người lai vãng, nhưng âm vang của nó lại xuyên biết bao không gian thời gian. Dịch thơ Hoàng Cầm ra tiếng nước ngoài hẳn là rất khó, vì phần hồn ảo diệu mơ hồ trong đó quá nhiều. Dịch ngôn từ thì sao khó bằng dịch hồn. Mà hồn thì có cách nào dịch được?

Trường hợp Hoàng Cầm là cả một sự mâu thuẫn: viết như ông ít người hiểu, ít người bắt chước được, nhưng viết như ông thì được công chúng yêu mến “điên cuồng”. Những ý thơ như: “Anh đàn em hát níu xuân xanh”, “yếm rách còn ngăn được gió – tình em dang dở yếm nào che”, “diêu bông hỡi diêu bông”… đều đã sống tươi tắn trong những giai điệu đẹp của nền nhạc nhẹ Việt Nam.

Hoàng Cầm là nhà thơ được nhiều độc giả yêu mến và “lựa” được người đọc mình. Bài viết “Hoàng Cầm – một đời nhớ tiếc, một đời níu xuân xanh” của Hoàng Hưng, người đồng hương, người cùng hội cùng thuyền thơ ca, chứa đựng rất nhiều ý tưởng quan trọng trong việc định hướng tiếp cận giá trị thơ Hoàng Cầm: “Trong suốt hai thập niên trở thành gương mặt văn học “ăn khách” bậc nhất, ông luôn xuất hiện như một khách thơ tài hoa đa tình quanh quẩn với hai loại tình: tình quê hương quan họ và tình “chị - em” độc đáo, ông như bị chế biến thành món giải trí dễ dãi cho một số đông tò mò hơn là thực sự thưởng thức văn chương”, và “Rất ít người để ý đến một Hoàng Cầm mới lạ của tổ khúc thơ rock siêu thực – xuất biểu có một không hai trong thơ Việt Nam”, rằng tập thơ Về Kinh Bắc là “thế giới hoài niệm với thơ là nơi bấu víu, là nguồn sống, là năng lượng giải thoát độc nhất”, rằng nhạc điệu thơ Hoàng Cầm là thứ nhạc “dặt dìu, đón đưa, dan díu, buông bắt”. Những ý tưởng này không phải của một người đọc bình thường, mà là sản phẩm của một niềm yêu vô kể và đớn đau vô kể, sản phẩm của một người đọc tri kỷ và nhẫn chịu nhiều phiền lụy từ tình yêu thơ. Tiểu luận Hoàng Cầm, gã phù du Kinh Bắc của Chu Văn Sơn là bức phù điêu tạc tượng thơ Hoàng Cầm. Nhãn tự của bài viết là chữ “phù du” – một thứ nhãn tự nói được quá nhiều khí chất, tư dung, ám gợi và cảm nghiệm của nhà thơ Hoàng Cầm. Và rất đáng chú ý, bài viết Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy nhận được “một đảm bảo vàng” từ Hoàng Cầm với lời bình luận rằng người viết đã “bóc ra đúng cái con người thầm kín ở trong ông”.

Bấy nhiêu tên tuổi ở ngay buổi đương đại này cũng là những “đảm bảo” đáng giá cho sức sống của một tài thơ. Thơ khó đọc mà chọn được cả người đọc, chọn được cả công phu và sở trường của người đọc là rất hiếm. Hoàng Cầm, người thơ xứ Thuận Thành, người mãi ham mê “vớt mắt em về bến hóa sinh” đã làm được việc ấy. Hoàng Cầm đánh thức tinh hoa của những người chịu đọc ông. Tôi cho rằng đó là vinh dự lớn hơn hết của một đời thơ; dường như hơn cả niềm vinh dự “được tuổi trẻ hoan nghênh” như chàng Xuân Diệu năm xưa.

 

Hà Nội, ngõ Trần Cao Vân, 2. 2014



[1] Nhiều tác giả, Xuân thu nhã tập, NXB Văn học, HN, 1991, trang 20.

[2] Toàn bộ thơ Hoàng Cầm được trích dẫn trong bài viết này đều lấy từ nguồn: Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (2003), Hoàng Cầm tác phẩm – Thơ, NXB Hội Nhà văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

[3] Chữ dùng của Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương, Hoài niệm phồn thực, NXB Văn học, Hà Nội, 2010.