06122024Fri
Last updateMon, 02 Dec 2024 10am

"Dữ", "Tương", "Cộng", "Hựu", "Tại" - những nhãn tự nghệ thuật trong thơ thiên nhiên đời Trần

20170802. thien nhien

1. Trong giáo trình Cơ sở ngữ văn Hán - Nôm (Tập 1), nhà nghiên cứu Hán Ngữ Đặng Đức Siêu đã quan niệm: "Hư từ nói chung là những từ chỉ có ý nghĩa ngữ pháp về đại thể bao gồm: giới từ, liên từ, trợ từ các loại". Trần Văn Chánh trong cuốn Sơ lược ngữ pháp Hán Văn đã phân loại hư từ gồm 5 loại: phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ, thán từ. Cổ văn xưa sử dụng hư từ rất nhiều bởi vì đó là những công cụ ngữ pháp quan trọng. Nó được dùng để diễn đạt tư duy phán đoán, suy lí, dùng để xác lập những quan hệ hoặc những tính hiệu ngắt câu (trong văn xuôi cổ ngày xưa người ta không dùng dấu chấm câu). Đó là những từ như: chi, hồ, giã, dã, hỉ, nhĩ, hựu, tương, dữ....Trong thơ cổ trước thời Đường số lượng hư từ cũng có hiện diện nhưng ít hơn so với văn xuôi:

Hỗ giang dữ tịch chi hề,

Nan thu lan vi bội,

Cốt dư nhược tương bất cập hề,

Khủng niên tuế chi bất ngô dữ.

(Ly tao - Khuất Nguyên)

(Hái giang ly và bạch chỉ a - Xâu lan mùa thu làm vòng đeo - Ta vội vàng như chẳng kịp a - Sợ tuổi tác chẳng chờ ta)

Do đặc điểm của thơ nói chung, thơ cần nói gọn, có vần, có nhịp, ngắt câu tương đối đều đặn... nên hư từ nhiều khi không cần thiết, nhất là đến thời Đường do đặc trưng nghệ thuật, do yêu cầu ngắn gọn hàm súc... nên hư từ càng giản lược đi rất nhiều.

2. Về quan niệm sử dụng hư từ trong thơ, các nhà lí luận cổ điển của Trung Quốc đã khá thống nhất với nhau ở một số điểm. Triệu Mạnh Phủ (đời Nguyên) cho rằng: "Thơ mà dùng hư từ thì yếu". Tạ Trăn, nhà bình luận đời Minh cũng nhấn mạnh: "Dùng nhiều thực từ thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hư từ thì ý phồn mà lời yếu". Như vậy trong quan niệm của các nhà lí luận cổ điển trên, việc vận dụng phổ biến thao tác tỉnh lược hư từ (đã trình bày cụ thể ở phần tỉnh lược) không giản đơn chỉ là vì yêu cầu kiệm lời mà chủ yếu xuất phát từ quan niệm về vẻ đẹp của lời nói hàm súc, cô đọng, giản dị. Trong thực tế, từ thơ Đường trở về sau và thơ chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam, hư từ được sử dụng rất hạn chế trong thơ. Hiếm lắm ta mới bắt gặp những chi, hồ, giả, dã trong Đường thi.:

Tá vấn bạch đầu ông

Thuỳ vân kỉ thế ?

                       (Vương Xương Linh)

(Nhắn hỏi ông đầu bạc - Buông câu đó mấy đời ?)

Tự quân chi xuất ,

Bất phục lí tân ki.

                                 (Tự quân chi xuất hĩ - Trương Cửu Linh)

(Từ ngày chàng bước ra đi - cái khung dệt cửi chưa hề dúng tay)

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những ý kiến tỏ ra kín kẽ hơn như Nguyễn Khắc Phi đã có những nhận xét xác đáng: "Trong luật thi, vận dụng hư từ rất khó song nếu vận dụng thành công thì đó lại thường là những điểm sáng của bài thơ. Thực từ như máu thịt, như xương cốt, hư từ như gân khớp. Gân khớp linh động mới chuyển động nhanh được"(1). Hay nói như Nguyễn Sĩ Đại: “Ta thấy cái đặc sắc của sự tỉnh lược. Nhưng khi cố tình dùng các hư từ, các nhà thơ tứ tuyệt đã đem lại cho người đọc một hứng thú không kém phần thú vị” (2). Như vậy trong thơ Đường vẫn có sử dụng hư từ tuy ở mức hạn chế nhưng khi đã sử dụng thì những hư từ ấy có giá trị không nhỏ trong việc tạo dựng những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ, thậm chí chúng được xem như là “nhãn tự”. Trong bài viết Cái hay của thơ Đường, nhà nghiên cứu Phan Ngọc (Nhữ Thành) đã có nhận xét: “Vì mục đích của thơ Đường là nêu tính thống nhất cho nên tất cả những hư từ này có tác dụng giới thiệu sự đồng nhất đều được sử dụng” (3). Thế nên ta không thể phủ nhận có một hệ thống hư từ đã được sử dụng trong Đường thi đã đem lại cho người đọc một hứng thú không kém phần thú vị.

3. Thơ thiên nhiên đời Trần đã tiếp nhận hệ thống hư từ này với tư cách là những “nhãn tự” đặc biệt. Hệ thống hư từ mà người viết muốn đề cập ở đây trước tiên là những hư từ như: dữ (), tương (), cộng (). Có nghĩa đại khái là cùng nhau.

Trong bài thơ Xuân đán, Chu Văn An viết:

身與孤雲長戀岫,

心同古井不生瀾。

Thân dữ cô vân trường luyến tụ,

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.

 (Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi - Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng).

Câu thơ sử dụng dữ () nhằm thể hiện sự đồng nhất, hoà nhập giữa thi nhân và thiên nhiên. Nhà thơ muốn sống cảnh nhàn dật nơi thâm sơn, ở đấy chỉ có thiên nhiên và lòng người không còn vướng bận những nỗi lo toan của trần thế.

Một lần đến chùa Đông Sơn, Trần Minh Tông đã cảm tác bài Đề Đông Sơn Tự, trong  hai câu thơ đầu như sau:

雲似青山山似雲

雲山長與老僧親。

Vân tự thanh sơn sơn tự vân,

Vân sơn trường dữ lão tăng thân.

(Mây tựa núi xanh, núi tựa mây - Mây và núi mãi mãi gần gũi với nhà sư già)

Trong câu thơ này dữ có vai trò như một chất keo nối kết hai hình ảnh mây núi vào vị sư già nhằm khắc họa không gian Thiền, không gian ẩn dật tiêu biểu của Thiền nhân. Trong thơ Nguyễn Khuyến ta cũng bắt gặp hình ảnh này:

Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,

Sư cụ nằm chung với khói mây.

(Nhớ cảnh chùa Đọi)

Bên cạnh việc dùng dữ (), thơ thiên nhiên đời Trần còn dùng tương (), cộng, () để nêu lên quan hệ tương hỗ. Trong một bài thơ cảm tác trước cảnh xuân, bài Xuân Cảnh, Trần Nhân Tông đã viết:

楊柳花深鳥語池

花堂簷影暮雲飛

客來不問人間事

共倚欄杆看翠微

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,

Hoa đường thiềm ảnh mộ vân phi,

Khách lai bất vấn  nhân gian sự,

Cộng ỷ lan can khán thúy vi.

 (Sâu trong khóm hoa dương liễu, chim hót chậm rãi - Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay - Khách đến chơi không hỏi việc người đời - Cùng dựa lan can ngắm màu xanh của chân trời).

Con người vô ngôn là hình ảnh nổi bật trong thơ thiên nhiên đời Trần. Các thi nhân đề cao sự trực cảm, bác bỏ sự suy luận lí trí nên họ xem thường ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ hữu hạn không thể diễn đạt được chân lí vô cùng. Họ chủ trương con đường duy nhất đạt được chân lí là sự chứng nghiệm của bản thân chứ không thể thay thế bằng sự học hỏi qua những lời diễn giải, thuyết minh. Ở bài thơ này ta thấy khách và chủ vốn đều là những con người vô ngôn, họ không trò chuyện. Nhưng thực chất họ đã nói với nhau rất nhiều. Điều đó đã được thể hiện qua hư từ cộng. Cộng lúc này trở thành nhãn tự của cả bài thơ. Cộng thể hiện sự hoà nhập, hoà hợp giữa hai tâm hồn với nhau đồng thời giữa hai tâm hồn ấy với thiên nhiên tạo vật. Cả khách - chủ đều đã đạt được sự đại ngộ bởi khi họ đã cùng bình tâm, tâm đã tĩnh từ đó mà họ có thể chiêm nghiệm lẽ đời, những "nhân gian sự" từ thiên nhiên ngoại vật.

Thiền sư Huyền Quang viết trong Hoá châu tác:

海天草木共愁吟

Hải thiên thảo mộc cộng sầu ngâm

(Cây cỏ trời biển cùng ta ngâm nga nỗi buồn).

Nguyên tắc tìm kiếm mối giao hoà giữa con người và thiên nhiên là cấu tứ phổ biến trong thơ thiên nhiên đời Trần. Ở câu thơ này, con người và thiên nhiên có sự đồng cảm sâu sắc cùng vui, cùng buồn, cùng hòa điệu. Hư từ cộng đã làm nổi bật mối giao cảm đặc biệt giữa người và cảnh. Đến đây ta lại nhớ đến câu thơ trong bài Sơ nguyệt của Nguyễn Du :

一庭霜露共愁眠

Nhất đình sương lộ cộng sầu miên

Trước khi Nguyễn Trãi viết những câu thơ như: "Núi láng giềng, chim bầu bạn - Mây khách khứa, nguyệt anh tam" (Thuật hứng XIX) thì trước đó hơn trăm năm năm Trần Anh Tông đã viết:

  絕峰更有學仙者

  清風明月相為鄰    

   Tuyệt phong cánh hữu học tiên giả

   Thanh phong minh nguyệt tương vi lân (4)

 (Trên đỉnh núi cao nhất lại có người học đạo tiên - Cùng gió mát trăng trong kết bạn láng giềng).

Hư từ tương trong câu thơ trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác lập nghĩa cho cả hai câu thơ. Lúc này chữ tương đóng vai trò như là "một sợi dây liên hệ" nối câu trên và câu dưới. Bên cạnh ý nghĩa ngữ pháp, nó còn có sự liên kết về mặt ngữ nghĩa: con người (tiên giả) hoà hợp với thiên nhiên (thanh phong minh nguyệt) trở thành tri âm tri kỉ.

Trong  một câu thơ khác trong bài Đăng Bảo Đài sơn, Trần Nhân Tông viết:

雲山相遠近

Vân sơn tương viễn cận

                                                (Núi như mây, ngọn xa ngọn gần).

Hư từ tương ở trường hợp này, đã liên kết hai tính chất của vân sơn là gần xa góp phần tạo dựng một không gian trải dài từ gần cho đến xa.

Bên cạnh các hệ hư từ nêu trên thơ thiên nhiên đời Trần còn sử dụng các hư từ  như: hựu (), tại (). Nguyễn Trung Ngạn, một đêm đậu thuyền ở Kim Lăng Thành đã cảm tác viết bài Dạ bạc Kim Lăng Thành trong đó có câu:

人在扁舟月在河

Nhân tại biển chu nguyệt tại

(Người thì ở trong chiếc thuyền hẹp, trăng thì ở trên sông).

Cùng với việc sử dụng hư từ tại () và vận dụng phép lặp trên chính hư từ ấy, thi nhân muốn nhấn mạnh những điểm tương đồng giữa chủ thể trữ tình với vầng trăng: người cô đơn lạnh lẽo trên sông và trăng cũng vậy. Cảm khái về thân phận cô đơn, hoàn cảnh tha hương được khơi gợi từ chính tương quan giữa các hình ảnh được tạo dựng từ biện pháp lặp hư từ tại. Trong Xuân nhật khê thượng vãn hành Nguyễn Tử Thành viết:

月在松梢水在頭

Nguyệt tại tùng sao thuỷ tại đầu

(Trăng trên ngọn tùng, suối đầu nguồn).

Ở câu thơ này, phép lặp hư từ tại đã "cố định vị trí" hai không gian mang tính đối lập. Tuy nhiên với sự liên kết nội tại (do hiệu quả của phép đối, phép lặp mà hư từ tại đóng vai trò quan trọng) giữa các hình ảnh người đọc vẫn hình dung ra được bức tranh thiên nhiên có tính chỉnh thể rất cao.

Đặc biệt trong thơ thiên nhiên đời Trần sử dụng rất nhiều hư từ hựu (): lại. Trong bài tứ tuyệt Hoàng Giang dạ vũ , Nguyễn Phi Khanh viết:

孤燈明又滅

Cô đăng minh hựu diệt

(Ngọn đèn hiu hắt sáng rồi lại tắt)

Hư từ hựu trong câu thơ này được sử dụng độc đáo. Nó thể hiện sự lặp lại của hai trạng thái sáng - mờ của ánh đèn cô đơn. Như đã nói ở trước hình ảnh "cô đăng" biểu trưng cho hình ảnh thi nhân. Qua đó giúp cho người đọc có thể hình dung ra được hình ảnh của một cô nhân đang thao thức suốt canh trường vì những trăn trở về giấc mộng hải hồ chưa thoả chí. Đây chẳng phải là thủ pháp "hoạ vân xuất nguyệt" quen thuộc trong Đường thi đó sao?

Bên cạnh đó, hư từ hựu còn nằm trong cấu trúc đối xứng ở các ngữ đoạn trong nội bộ câu thể hiện sự thừa tiếp. Có khi đó là sự thừa tiếp các hình ảnh không gian:

山青水綠又秋光

Sơn thanh / thủy lục / (hựu) thu quang.

(Phiếm chu - Huyền Quang)

Hình ảnh không gian nằm phía sau hư từ hựu đã bổ sung làm cho bức tranh thiên nhiên với non xanh nước biếc trở nên rộng lớn, khoáng đạt hơn. Từ đó càng đối lập với hình ảnh của con người nhỏ bé, cô đơn (tiểu đỉnh).

Cùng có những tác dụng đó hư từ hựu trong câu kết của bài Hoá Thành thần chung của Nguyễn Phi Khanh càng độc đáo hơn khi nó tạo sự thừa tiếp ở hai hình ảnh nhằm nối kết hai không gian: ở trên cao, ở dưới thấp từ đó tạo dựng không gian mang tính thống nhất:

月白又江空

Nguyệt bạch / (hựu) / giang không.

Hơn thế nữa ngoài việc thể hiện sự thừa tiếp của các hình ảnh không gian, hư từ hựu còn thể hiện sự thừa tiếp trong hành động:

Khan Sơn / khan thuỷ / (hựu) khan vân.

4. Như đã nói ở trên tuy hư từ được dùng hết sức hạn chế trong thơ thiên nhiên đời Trần, tuy nhiên khi tác giả đã dùng thì những hư từ ấy đều có giá trị biểu đạt rất cao. Đồng thời qua việc sử dụng hư từ trong thơ cũng góp phần khẳng định tài năng của thi nhân thời Trần. Đó là điều mà Phan Ngọc cũng đã khẳng định: "Giỏi thơ Đường là giỏi dụng hệ hư từ này chứ không phải giỏi điển tích, giỏi đối chọi"(5).

Chú thích

  1. Nhiều tác giả (1997),Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng.
  2. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt thời Đường, NXB Văn học, Hà Nội.
  3. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TPHCM.
  4. Vân Tiêu am.
  5. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TPHCM.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trần Văn Chánh (1997), Sơ lược ngữ pháp Hán văn, NXB Đà Nẵng.
  2. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt thời Đường, NXB Văn học, Hà Nội
  3. Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật Ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
  4. Nhiều tác giả (1997), Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng.
  5. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TPHCM.
  6. Ngô Văn Phú (dịch) (2008), Đường thi tam bách thủ (唐詩三百首) do Hoành Đường Thoái Sĩ (蘅塘退士) soạn, NXB Văn học, Hà Nội.
  7. Đặng Đức Siêu (2004), Ngữ văn Hán Nôm, NXB Đại học Sư Phạm Hà Nội.
  8. Viện Văn học (1987), Thơ văn Lý Trần (tập 2), Uỷ ban KHXHNV - NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
  9. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
  10. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần (tập 2- quyển thượng), Uỷ ban KHXHNV - NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
  11. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam từ thế kỉ thứ X - thế kỉ thứ XIV, Trung tâm nghiên cứu quốc học - NXB Văn học, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2016


Thầy Mai Cao Chương và thầy Nguyễn Khuê

Tối 19.11 đến thăm thầy Mai Cao Chương. Buổi sáng Khoa Văn học và Ngôn ngữ có tổ chức mừng ngày Nhà giáo và mừng sinh nhật thầy Nguyễn Khuê, mời tất cả các thầy cô cao niên, các thầy cô đã về hưu và toàn thể thầy cô trong Khoa đến chung vui, nhưng thầy Chương không đến được. Nói chung thầy Chương đã lâu không đến trường được nữa. Đến thăm thầy, thấy thầy còn khỏe, thầy nói ăn thấy ngon miệng, đêm ngủ yên giấc. Vậy là mừng rồi, năm nay thầy đã 86 rồi còn gì! Tuy nhiên thầy đau chân không đi bộ ra ngoài được nữa, chỉ đi quanh quanh trong nhà. Hồi này thầy cũng có niềm vui là anh con trai thầy sau nhiều năm ở Trung Quốc và Mỹ, đã trở về Việt Nam, hàng ngày vẫn đưa cháu đến chơi với ông bà, 2 cô cháu gái rất dễ thương. Thầy nói dạo này thầy quên gần hết rồi...Nói vậy thôi, thầy vẫn nhớ. Biết Khoa có tổ chức mừng thọ cho thầy Nguyễn Khuê, thầy nói 11 năm trước, thầy cũng có làm bài thơ tặng thầy Khuê vào dịp thầy Khuê 70 tuổi. Tôi lấy giấy bút chép vội, và tiện thể cũng ghi luôn cả lời dịch vụng về của mình ra đây.

Đại Nam quốc sử diễn ca (Bản chữ Nôm mới phát hiện)

Lời dẫn

Đại Nam Quốc sử diễn ca là một trong các bộ sử ca của lịch sử sử học Việt Nam mà cũng là của văn học sử cổ cận đại Việt Nam. Bộ sử ca này nguyên là một tác phẩm văn chương được trước tác và khắc in vào những năm giữa thế kỉ thứ XIX (1860, 1870, 1874) ở trong nước và nước ngoài (Trung Quốc).

Giới thiệu thêm một số sách Hán Nôm Việt Nam đang tàng trữ tại Tokyo

Trên Tạp chí Hán Nôm số 1-1999, chúng tôi đã giới thiệu sách Hán Nôm Việt Nam tại 4 tàng thư lớn của Nhật Bản, gồm Đông Dương văn khố, Quốc lập Quốc hội đồ Thư quán, Thư viện Đại học Khánh Ứng, và Thư viện Nghiên cứu văn hóa Đông Dương thuộc Đại học Tokyo. Ở cuối bài viết lần đó, chúng tôi có chú thích: “Riêng thư viện Đại học Khánh Ứng hãy còn một số sách do E. Gaspardone hiến tặng, đang chờ kiểm kê, chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu và giới thiệu với bạn đọc trong dịp này”(1).

Giáo sư Bửu Cầm - học giả Hán Nôm

1- Vài dòng tiểu sử

Giáo Sư Bửu Cầm (1920- ): Là một học giả, giáo sư Đại học Văn khoa, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1920 tại Huế, tằng tôn của thi hào Tuy Lí Vương.

Thuở nhỏ ông sống và học tại Huế, xuất thân là viên chức bộ Lễ ở Huế từ năm 1943-1945. Từ năm 1950 là giáo sư trường Quốc học Huế, năm 1954 làm trưởng phòng Tu thư Viện Văn hóa Trung Việt.

Thử xác lập văn bản bài thơ "Nam quốc sơn hà"

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” (NQSH) tuy vẻn vẹn có 4 câu, mỗi câu 7 chữ nhưng trước nay vẫn được nhiều người đánh giá cao và xem như là một tài liệu quan trọng để tìm hiểu chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam sau khi khôi phục nền độc lập tự chủ.

Một bài Văn tế của một nhân vật tiểu thuyết cho một nhân vật tiểu thuyết: Văn Kim Trọng tế Thúy Kiều…

Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu 2015.

 

Thúy Kiều, dầu là nhân vật thiệt sự ngoài đời, được Thanh Tâm Tài Nhân cấu tạo thành nhân vật tiểu thuyết, đối với người Việt Nam nói chung hay đối với người đọc Đoạn Trường Tân Thanh nói riêng cũng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết. Do đó những gì người ta viết thêm về Kiều - hay những nhân vật trong Đoạn Trường Tân Thanh - đều chỉ là hình thức bày tỏ lòng cảm phục Nguyễn Du qua sự lân mẫn hay oán ghét nhân vật của ông mà thôi… (Thúy Kiều Án chẳng hạn)

Vấn đề học chữ Hán và đọc hiểu văn bản Hán Nôm

          Do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam từ xa xưa đã có sự tiếp xúc giao lưu với văn hoá Hán. Có thể thấy rõ dấu ấn của sự tiếp xúc giao lưu này trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực ngôn ngữ và chữ viết, dấu ấn này lại càng đậm nét, thể hiện ra ở lớp từ Hán Việt rất phong phú trong tiếng Việt. Sự vận dụng chữ Hán và dựa trên chữ Hán để tạo ra chữ Nôm đã đem lại cho Việt Nam một nền “văn minh chữ viết” khá độc đáo mà chứng tích cụ thể là kho tàng di sản văn hoá thành văn rất đồ sộ bao gồm gần 17.000 cuốn sách và khoảng 30.000 đơn vị văn bản tư liệu, biên soạn và ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm thuộc đủ mọi loaị thể, lưu trữ và bảo tồn những thành quả sáng tạo văn hoá của ông cha chúng ta trên các lĩnh vực: văn học, sử học, triết học, dân tộc học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, quân sự học, nghệ thuật học, ngôn ngữ học,...

Vàng thau lẫn lộn: Phiên dịch học văn hóa và trường hợp Kim Bình Mai ở Việt Nam

Hoàn cảnh xã hội, môi trường văn hoá bản địa và phiên dịch quan hệ với nhau vô cùng mật thiết. Phiên dịch là loại hình giao lưu văn hoá vượt ngoài ranh giới quốc gia, vì thế nó là hành vi giao tiếp văn hoá mang tính liên quốc gia, là hoạt động truyền bá liên văn hoá và cũng là nhịp cầu giao lưu văn hoá giữa các quốc gia.

Một số phát hiện mới về bài từ của thiền sư Khuông Việt

 

Ngọc lang quy玉郎歸(còn có quan điểm cho rằng nên đọc là Vương lang quy王郎歸, hoặc Nguyễn lang quy阮郎歸) của thiền sư Khuông Việt cho đến nay vẫn được coi là một trong những điểm nóng gây tranh luận trong giới nghiên cứu văn học tại Việt Nam và trên thế giới.

Thể lục bát với tính cách là phương tiện biểu đạt đa chức năng thể loại

Thể thơ ca vốn thiên trọng về loại văn trữ tình. Sự phân định như thế: người sáng tác cổ đại chưa dễ chấp nhận. Vì vậy, nhân loại mới có những thiên trường ca, sử thi bất hủ. Thế nhưng các tác giả truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII – XIX không thể sáng tạo những trường ca, sử thi. Họ sử dụng thể thơ để sáng tác loại truyện, khá gần gũi với truyện hiện đại. Họ là người của thời trung và cận đại. Họ buộc phải có cách thế xử lý đặc thù, trong một phương thức tiếp biến văn hóa đặc thù của dân tộc Việt, một dân tộc ngồn ngộn sức sống vươn lên tự chủ, mà cơ tầng văn hóa điểm tựa của họ vốn rất mong manh, so với văn hóa ngoại lai phương Bắc và với văn hóa bản địa cộng đồng già cỗi.

Cội nguồn triết học của tinh thần thiền nhập thế Trần Nhân Tông ( 陈 仁 宗)

Nguyễn Kim Sơn[1]

Từ then chốt: Phật tính; tam giáo; bất nhị; hòa quang đồng trần; lạc đạo, nhập thế. ( 佛性; 三 教; 不二; 和光 同 尘; 乐道; 入 世)

Tư tưởng Thiền của Trần Nhân Tông là tư tưởng Thiền nhập thế. Đây cũng là đặc điểm chung của tư tưởng các vị tiền bối của ông  như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung.  Điều này đã được học giới cơ bản thống nhất công nhận. Tinh thần nhập thế đó thể hiện rõ ràng trong cả hành trạng, ứng xử, các lời thuyết giảng, thảo luận và trong thơ văn của Trần Nhân Tông. Điều này cũng  từng được nhiều người nói tới và đề cập trong các công trình nghiên cứu. Người  viết bài này tán thành với các nhận định về khuynh hướng nhập thế trong tư tưởng Thiền Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm ở đây là, hầu như chưa có công trình nào tập trung lý giải một cách tường tận về nguồn gốc tư tưởng, những lý do thực tiễn, những căn nguyên hay nói theo cách của Phật học là những duyên khởi của tinh thần nhập thế  trong tư tưởng Trần Nhân Tông. Cũng có một vài ý kiến động chạm tới vấn đề này, thì  lại quá nhấn mạnh tới yếu tố tinh thần thời đại, khí thế dân tộc và cho đó là căn nguyên của tinh thần nhập thế. Vấn đề hầu còn bỏ ngỏ đó là đối tượng và hứng thú cho người viết thực hiện sự thảo luận nhỏ này.

Lịch sử nghiên cứu điển cố văn học Việt Nam và Trung Hoa

Điển cố đóng vai trò khá quan trọng trong văn học Việt Nam và Trung Hoa thời kỳ trung đại. Dùng điển cố, người sáng tác xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, xã hội, văn hóa, kinh nghiệm sống của người xưa. Tuy không còn đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tác như xưa, nhưng nhìn lại nền văn học quá khứ, điển cố thực sự chiếm lĩnh một vai trò và thể hiện một chức năng mạnh mẽ trong sáng tác. Có giai đoạn, điển cố là phương tiện hàng đầu và hữu hiệu cho người cầm viết, từ tác giả của những bài thơ, bài văn, đến nhà ngoại giao, chính khách, thậm chí kẻ đi học cũng tự trang bị cho mình vốn kiến thức trong mười năm đèn sách và thể hiện điển cố trong bài thi.

Giáo sư Bửu Cầm trong công trình “Các nhà Trung Quốc học thế giới”

Lời dẫn: Năm 2009-2010 Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH và NV-ĐHQG TP.HCM có thực hiện một công trình giới thiệu 5 nhà Trung Quốc học ở Việt Nam (tiêu chuẩn: đó là những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp và là người đương thời) trong chương trình nghiên cứu Những nhà Trung Quốc học thế giới do Đại học Quốc gia Taipei thực hiện. 5 nhà Trung Quốc học ấy là GS.Bửu Cầm và các nhà nghiên cứu Nguyễn Khuê, Phạm Thị Hảo, Cao Tự Thanh, Nguyễn Tôn Nhan. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu phần viết về GS.Bửu Cầm trong công trình ấy. Người thực hiện là ThS.Lê Quang Trường, người dịch ra tiếng Anh là ThS.Lê Thuỵ Tường Vy, cả hai đều là giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ. 

Thi phẩm (trích)

 

Tổng bình:

近日劉勰《文心》,鍾嶸《詩評》,異議蜂起,高談不息。

(盧照鄰《南陽公集序》)

 

Gần đây, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Thi bình (tức Thi phẩm) của Chung Vinh ra đời, nghị bình nổi lên, tranh luận không dứt.

(Lư Chiếu Lân, Nam Dương công tập tự)

 

Thử giải quyết vấn đề dịch giả Chinh phụ ngâm - TS. Nguyễn Văn Dương

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dương là tác giả, dịch giả của hàng chục công trình có giá trị. Thập niên 60-70 người ta đã biết đến công trình dịch thuật nổi tiếng của ông: Đại cương triết học sử Trung Quốc (tác giả: Phùng Hữu Lan, Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh xb.1968), Khuất Nguyên, cuộc đời và tác phẩm (Trường Đại học Văn khoa SG xb, 1971)…, nhưng công trình có giá trị hơn cả là Thử giải quyết vấn đề dịch giả chinh phụ ngâm (NXB. Đại học Huế 1964). Sau 45 năm theo đuổi vấn đề này, lại nhận được nhiều tài liệu quý do GS.Hoàng Xuân Hãn, học giả Nguyễn Văn Xuân gửi tặng, TS.Nguyễn Văn Dương trở lại vấn đề này. Ông đã tiến hành bổ sung, sửa chữa, cập nhật hoá thông tin, cho tái bản công trình trên (NXB.Văn hoá thông tin, 2008). Trong sách có in phụ lục hầu hết các bản nôm quan trọng của Chinh phụ ngâm: bản Đoàn Thị Điểm, bản Nguyễn Khản, bản Phan Huy Ích…Qua công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc này, vấn đề dịch giả Chinh phụ ngâm là Phan Huy Ích, theo tôi, đã có lời giải đáp thoả đáng.