Tìm hiểu khả năng “tự chiếu sáng nội tâm” bằng ngôn ngữ của nhân vật trong một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới

1. Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật mới về con người, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã xây dựng được những nhân vật có tính cách phức tạp, đầy bí ẩn. Những con người ấy chỉ thật sự “sống như đời sống” khi được đặt trong những mối quan hệ phức tạp, đan ken với người khác. Đó có thể là những quan hệ “đồng thuận” hoặc “nghịch chiều”. Nhưng dù “thuận” hay “nghịch”, đối tượng quan hệ cũng sẽ cho một “góc chiếu” nhất định về nhân vật. Tuy nhiên, theo Bakhtin: “Ở con người bao giờ cũng có một cái gì đó mà chỉ bản thân nó mới có thể khám phá bằng hành động tự do của sự tự ý thức và của lời nói, điều này không thể xác định được từ bên ngoài, từ “sau lưng” con người” (1). Vì vậy, các nhà văn đã để cho nhân vật tự “chiếu sáng từ bên trong” (3). Nhờ vậy, những bí ẩn trong tâm hồn nhân vật được thấu tỏ và nhân vật hiện lên trọn vẹn hơn, “người” hơn. Chúng tôi xem đây là một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết thời kỳ này.

 

2. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ khảo sát hai tác phẩm, mà theo chúng tôi, đã sử dụng ngôn ngữ khá linh hoạt trong việc soi sáng nội tâm nhân vật. Đó là An mày dĩ vãng của Chu Lai và Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà.

 

2.1. Trong Ăn mày dĩ vãng, để giúp người đọc hiểu được những ẩn khuất trong cuộc đời nhân vật Ba Sương và sự đổi thay “tâm tính” của bà, ngoài việc chiếu sáng nhân vật qua suy nghĩ, cảm nhận của Hai Hùng và ông Tường, nhà văn Chu Lai đã dành cho nhân vật khoảng yên tĩnh cuối cùng để nhân vật tự hoàn chỉnh chân dung của mình.

 

Thông thường, để nhân vật “tự chiếu sáng” những bí ẩn trong tâm hồn, tiểu thuyết hiện đại thường sử dụng thủ pháp “độc thoại” (monologue), “độc thoại nội tâm” (interior monologue) hay “dòng ý thức” (stream of consciousness). Nhưng ở đây, nhân vật Ba Sương lại “chiếu sáng” nội tâm bằng “đối thoại” (dialogue). Tại sao như vậy? Vì trước khi gặp Hai Hùng, Ba Sương cố vùi lấp quá khứ để yên tâm sống với hiện tại nên không dám đối diện với chính mình, không một lần độc thoại nội tâm. Khi bị Hai Hùng đột ngột xé toang bức màn bí ẩn ngay trong phòng làm việc của mình, Ba Sương muốn quay đầu (vì “quay đầu là bờ”) thì cô lại không còn thời gian nữa. Ba Sương chỉ có thể đối thoại “một lần cho mãi mãi” với những người mình tin cậy nhất (Hai Hùng hoặc ông Tường).

 

Cuộc đối thoại ngắn giữa Ba Sương và ông Tường cuối tác phẩm đã diễn ra rất vội vàng. Vì nhân vật có cảm giác thời gian không chờ mình nữa. Hơn một lần, nhân vật thốt ra lời: “Chậm mất rồi!” (tr.350), “Muộn rồi!” (tr.351). Quả thật, đó là cơ hội duy nhất để Ba Sương trở về với con người thật của mình, “khác hẳn với một Sương giám đốc, Sương tỉnh ủy, Sương phó chủ tịch ngày hôm qua” (tr.348). Nhưng lịch sử của cả một số phận, một cuộc đời không thể tái hiện đầy đủ chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi của hiện tại. Vì vậy, tác giả đã “dồn nén”, đã “cô đặc” thời gian một cách nghệ thuật. Và “đối thoại” chỉ còn là hình thức để nhân vật truyền trao thông tin. Theo dõi cuộc thoại, chúng ta sẽ thấy nhân vật vi phạm hầu hết các nguyên tắc đối thoại: Nguyên tắc luân phiên, nguyên tắc liên kết, nguyên tắc cộng tác*… Vì Ba Sương có hướng vào người nhận cụ thể (ông Tường) nhưng không chờ sự “hồi đáp tức khắc” ở nhân vật ấy. Thậm chí, nhiều lần cô “giành” quyền phát ngôn và gần như độc thoại: “Xin đừng ngắt lời tôi. Đây có thể là lần cuối cùng, cứ để cho tôi nói hết, nói một lần…” (tr.353). Vì vậy, lời thoại của Ba Sương thường rất dài, có khi chiếm đến ba trang (tr.357-359). Trong khi đó, lời thoại của ông Tường rất ngắn, có khi chỉ một câu nhưng dang dở: “Ý chị muốn nói là…” (tr.349), “Nhưng mọi người và cả tôi…” (tr.352), “Nhưng chị lại là…” (tr.355). Và nội dung lời thoại của ông thường không liên kết với câu chuyện của Ba Sương...

 

Chính sự xử lý linh hoạt tình huống giao tiếp của tác giả đã giúp nhân vật có cơ hội bộc lộ thế giới bên trong đầy bí ẩn, cũng như có dịp “sám hối” tội lỗi của mình: “Tôi có lỗi với anh, với chị Hai, với tất cả bạn bè trong rừng. Chính vì điều đó, vì hương hồn chỉ ám ảnh mà tôi phải bỏ xứ ra đi, phải ráng quên đi hết thảy…” (tr.352). “Tôi không thể xúc phạm các anh, càng không thể động chạm đến vong linh chị Hai, người chị đã chết thay cho tôi. Tôi không thể… Chính vì lẽ đó mà tôi phải chạy trốn, phải chối bỏ tất cả, chối bỏ bạn bè, chối bỏ quê hương, chối bỏ cả người đàn ông mà cho đến nay, sau bao nhiêu vui buồn, ngang ngửa, tôi vẫn không sao nguôi được những kỷ niệm đã có…” (tr.353-354). Lời lẽ tuy chân thành nhưng vẫn còn là ngôn ngữ của lý trí. Về cuối, nhân vật mới thực sự “sám hối’ bằng ngôn ngữ của “con tim” để có bản lĩnh “lột mặt” chính mình: “Tôi đã hèn nhát chọn nhẽ thứ hai (tiếp tục ỉm đi để có tất cả, cả cuộc sống và cả niềm vinh quang của người chết) bằng cách giạt hẳn về quê cũ, về cái nơi không một người nào biết tôi là ai để đầu thai làm một người khác” (tr.354). Tội lỗi trong quá khứ sẽ dẫn đến những sai lầm trong hiện tại. Ba Sương đã dần dần soi sáng cái phần lâu nay còn ẩn khuất trong mình để đi đến quyết định sáng suốt cuối cùng cho hiện tại: “… tôi đã khóc và thấy mình không thể sống như cũ được nữa. Tôi quyết định trở về con người thật của mình vào ngay buổi trưa mai, dù cho có phải trả giá thế nào” (tr.360).  

 

Quả thật, với một nhân vật có “lịch sử” phức tạp như Ba Sương, nếu chỉ qua điểm nhìn của nhân vật khác thì khó có thể thấu tỏ mọi bề. Vì vậy, nhà văn đã sử dụng có hiệu quả thủ pháp “chiếu sáng từ bên trong” khi xây dựng nhân vật.  

 

2.2. Thủ pháp này cũng được Nguyễn Việt Hà sử dụng khá thành công trong Cơ hội của Chúa. Hầu như các nhân vật trong tác phẩm đều được “soi chiếu” từ nhiều góc độ. Theo cách nói của M. Kundera thì mỗi nhân vật đã được chiếu sáng bởi những “cường độ ánh sáng” khác nhau và theo những cách khác nhau. Trong đó, có những nhân vật được “chiếu sáng” từ nhiều nguồn nhưng đều là những nguồn sáng bên ngoài (Bình, Lâm, Sáng). Đó là những nhân vật có đời sống tinh thần đơn giản. Với những nhân vật có đời sống tinh thần phong phú và phức tạp, nhà văn đặc biệt chú trọng đến khả năng chiếu sáng từ bên trong qua nhật ký, qua độc thoại. Có thể nói, trong văn học hiện đại Việt Nam, đây là một trong những cuốn tiểu thuyết sử dụng nhật ký, độc thoại với một số lượng đáng kể để phát hiện “cái tôi” nhân vật. Bắt đầu từ chương bốn trở về sau, bốn nhân vật: Hoàng, Nhã, Thủy, Tâm đều được “soi sáng” nội tâm bằng nhật ký, tự bạch. Nhật ký của ai cũng dài, dày đặc những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời và về bản thân mình. Trong đó, nhật ký của Hoàng chiếm 67 trang (chương bốn và chương tám); của Nhã chiếm 50 trang (chương bốn, chương sáu và chương chín); của Thủy chiếm 46 trang (chương năm và chương bảy); của Tâm chiếm 27 trang (chương bảy).

 

Đặc biệt, trong tác phẩm, chân dung nhân vật Hoàng được vẽ “đậm nét” hơn cả; tính cách, tâm hồn cũng được “lột tả” tinh tế và sâu sắc hơn cả. Vì nhân vật như “đứng giữa nguồn sáng”, được chiếu sáng từ nhiều hướng. Từ bên ngoài, Hoàng hiện lên qua suy nghĩ, nhận xét, cảm nhận (có khi nghiêm túc, có lúc vu vơ) của nhiều nhân vật: Nhã, Thủy, Tâm, Bình, Lâm, những nhân vật đám đông, những nhân vật “không tên” (người kể chuyện) và qua những tác phẩm văn học của anh. Từ bên trong, Hoàng được soi chiếu qua những lời tự bạch, qua các trang nhật ký của chính mình.    

 

  Khác với “nhân vật ẩn lậu” của Dostoievski, nhân vật Hoàng không “lắng nghe” từng lời của người khác nói về mình, không “soi mình” trong “mặt gương của ý thức người khác”. Vì vậy, nhân vật không biết (cũng không cần biết) mọi khả năng hình ảnh của mình có bị khúc xạ qua các tấm gương đó hay không. Nhân vật cứ tồn tại, chiêm nghịêm lẽ đời, lẽ đạo trong cái khề khà của rượu; cứ tự nhiên phô bày tất cả những tốt xấu mẹ cho, từ lâu đã ngấm vào máu thịt. Vì vậy, nhân vật tồn tại rất tự nhiên và cũng rất “người”: thông minh, nhân hậu và rất mực chân thành…

 

Cũng như Ba Sương trong Ăn mày dĩ vãng, chân dung nhân vật Hoàng chỉ có thể hoàn chỉnh hơn, rõ nét hơn khi được “chiếu sáng từ bên trong”. Nhưng khác với Ba Sương, Hoàng dẫn dắt người đọc đi vào thế giới nội tâm của mình bằng con đường “độc thoại”. Trong tác phẩm, nhà văn đã dành cho Hoàng 67 trang để Hoàng “tự bạch” (độc thoại). Trong 18 trang “tự bạch” ở chương bốn, Hoàng chủ yếu kể về quan hệ giữa anh với Mai Linh (em gái Du) và cuộc gặp gỡ tình cờ dẫn đến tình yêu giữa anh và Thủy. Lúc này, Hoàng hiện ra “đích thị” là một chàng thanh niên đa sầu, đa cảm. Dấu hiệu “mặc cảm”, “sám hối” bắt đầu xuất hiện trong mớ ký ức lộn xộn của anh: “Tôi đã qua cái tuổi tự an ủi mình bằng ảo ảnh. Tôi thấy mình lố bịch, tôi chẳng là cái gì cả…” (tr.152). Nhưng đó vẫn là lời lẽ của một con người nhân hậu và luôn tự nhận thức được bản thân mình: “Tôi đã được hưởng khá nhiều, kể cả sự mất mát. Tôi đã làm nhiều điều tồi tệ nhưng cuộc đời vẫn độ lượng với tôi” (tr.152).

 

Thế nhưng, ở đoạn tự bạch dài đến 49 trang (chương tám), Hoàng bộc lộ gần như đầy đủ những mặt cơ bản “cấu tạo” nên con người mình: trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng, trạng thái tinh thần… Về trí tue, Hoàng chỉ kể lại cuộc gặp gỡ giữa anh với ba nhân vật trí thức (Sáng, một Phó tiến sĩ Tài chính và một Phó tiến sĩ sinh học). Qua họ, Hoàng thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của mình: uyên bác nhưng hết sức khiêm tốn. Anh tỏ ra khâm phục Sáng – “mẫu người văn hóa kết hợp tinh hoa Đông Tây” (tr.452). Về tư tưởng, Hoàng bộc lộ tư tưởng bi quan, “yếm thế” khi nghĩ về tương lai: “Đã nhiều lần tôi không biết ngày mai tôi sẽ làm gì. Cái thời hăm hở của tôi sẽ chẳng bao giờ vòng lại. Nghĩ như thế là mình đã già. Tôi trẻ hay già…” (tr.470). Tại sao như vậy? Có lẽ do nỗi mặc cảm cứ lớn dần lên từ sự “bất đắc chí” trong cuộc đời: “Tôi bạc nhược, không neo dính vào bất cứ chỗ nào” (tr.450). “Người tôi lem nhem một nỗi buồn chán. Tôi loay hoay và làm phiền nhiều người” (tr.470). Điều đau khổ nhất ở Hoàng là anh luôn ý thức được bản thân mình (ý thức về những điều tệ hại). Chính sự tự ý thức đó đã không ngừng dằn vặt Hoàng: “Thiên tài là những người dị thường hoặc phi thường. Còn tôi là một kẻ bình thường đang tha hóa thành tầm thường. Những đam mê và khát vọng lớn dần dần thui chột khi liên tục bị vây bởi những điều tủn mủn” (tr.471). Hoàng vốn thiên về đời sống tinh thần, tình cảm nên sự đổ vỡ trong tình yêu đã làm anh “chao đảo”, “mất thăng bằng”. Vì vậy, những vòng sóng của nghĩ suy cứ đuổi nhau chạy về quá khứ. Ta gặp trong phần độc thoại này những mốc thời gian ngày một xa bờ hiện tại. Bắt đầu là “hôm Thủy đi xa”, sau đó thời gian lùi về “hai tháng trước”, Hoàng vào Huế (tr.425). Rồi Hoàng lại kể về những sự kiện xảy ra “cách đây chừng sáu bẩy tháng cho đến trước hôm tôi đi Huế” (tr.439). Rồi ký ức trở về ngày Hoàng “đèo Nhã sang thăm cô bạn ở Châu Quỳ, ba năm sau khi vừa xong tốt nghiệp” (tr.440). Rồi sự kiện gặp thầy Lâm “năm ngoái” trước khi thầy đi Pháp (tr.455)… Cứ như thế, khi Hoàng quay trở về với hiện tại thì hai mốc thời gian lại “chập” làm một trong sự thất vọng não nề: “Người tôi lấp lửng một sự loay hoay của bẩy năm về trước. Bẩy năm trước tôi đi tìm công danh sự nghiệp. Giờ đây tôi vớt vát đi tìm tình yêu. Có lẽ suốt đời tôi phải lê lết vác cây thập giá thất bại” (tr.474).

 

Nguyễn Việt Hà không xây dựng Hoàng như một “nhân vật tư tưởng”.   Nhưng Hoàng lại gánh trên vai mình rất nhiều vấn đề của thời đại: học vấn, mưu sinh – lập nghiệp, tình bạn, tình yêu, tôn giáo, sáng tạo nghệ thuật… Vì vậy, nếu không “chiếu sáng” từ nhiều phía, nhất là từ bên trong, nhà văn khó xây dựng được chân dung nhân vật vừa mang ý nghĩa thời đại vừa như “thách thức” với các kiểu nhân vật truyền thống như Hoàng.

 

3. Tóm lại, sống trong nhiều mối quan hệ, trải qua nhiều tình huống, có những điều xảy ra với nhân vật, người này hiểu rất rõ nhưng với người kia, nó mãi mãi là một bí mật. Nếu để nhân vật trải cuộc đời mình ra trong cái nhìn “thông tuệ”, biết “tất tần tật” của nhân vật - người kể chuyện (theo kiểu truyền thống), thì nhân vật lại hiện lên quá đơn điệu. Điều này không phù hợp với quan niệm mới về thế giới (đa nguyên, không thuần nhất) và về con người (đa diện, không nhất phiến) của tiểu thuyết hôm nay. Vì vậy, các nhà tiểu thuyết đã để nhân vật tự soi sáng nội tâm bằng ngôn ngữ (độc thoại và đối thoại). Đây cũng là một trong những đổi mới có ý nghĩa của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này. 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

 

1.      M. Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003, tr.290.

 

2.      Nguyễn Việt Hà – Cơ hội của Chúa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.

 

3.      Milan Kundera - Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà Nẵng, 1998, tr.92-93.

 

4.      Chu Lai – Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 1992.

 

5.      John Lyons - Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch),  Nxb Giáo dục, 2006. Hà Nội.

 

6.      Nguyễn  Trung Tánh, An introduction to Literary Study, Tp. Hồ Chí Minh, 1997.

 

 

 

Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 150, năm 2008.

 

 

 

 

 

 


* Theo quan điểm của Grice, nguyên tắc này được phân tích thành bốn phương châm: Phương châm về lượng (quantity), về chất (quanlity),  phương châm quan hệ (relation) và phương châm cách thức (manner). Nếu xét kỹ đọan hội thoại, chúng ta sẽ thấy tác giả cố ý để nhân vật vi phạm tất cả những phương châm này.

Thông tin truy cập

60533761
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
15254
10018
60533761

Thành viên trực tuyến

Đang có 375 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website