Nhiều sinh viên tỏ ra thích thú khi lần đầu tiên được học, hoá thân thành "bác sĩ" phục chế sách cổ và tự tay sửa từng chi tiết bị hư hỏng trên trang giấy của sách Hán Nôm cổ.

Không giống như những lớp học thông thường khác ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, các sinh viên chuyên ngành Hán Nôm của Khoa Văn học được trải nghiệm phục chế những trang sách cổ ngay tại trường. 

Lớp học hơn 15 sinh viên. Ở đây, ngoài việc học lý thuyết, sinh viên còn được thực hành, hóa thân thành "bác sĩ" và tận tay phục chế những trang sách cổ hư hỏng. 

20230525

Thạc sĩ Bùi Tiến Phúc được xem là một trong những giảng viên đời đầu của bộ môn này - PHẠM HỮU

Học làm ‘bác sĩ’ phục chế sách cổ - Ảnh 3.

Lớp học phục chế sách cổ lần đầu được đưa vào dạy chính quy ở trường đại học - PHẠM HỮU

Võ Thị Mỹ Lợi, sinh viên chuyên ngành Hán Nôm là một trong số ít những người trẻ hiện nay chọn ngành không phải là xu hướng để theo đuổi. Sở dĩ Lợi chọn chuyên ngành Hán Nôm bởi vì bản thân rất thích môn lịch sử, và thích chữ Hán Nôm.

Theo Lợi, lần đầu tiên bộ môn phục chế sách cổ được đưa vào giảng dạy nên cảm thấy rất thú vị. Những kiến thức phục chế khá thực tiễn và sinh viên có thể làm thêm, kiếm được tiền từ môn học này.

Lợi cho biết: "Thực tế hiện nay rất ít người làm công việc này nên đây cũng là một hướng đi mới cho những sinh viên học ngành Hán Nôm. Ngoài việc biết thêm chữ Hán Nôm, sinh viên còn có thêm kỹ năng và cơ hội nghề nghiệp tốt hơn khi ra trường".

Cũng yêu thích chữ Hán Nôm, thư pháp nên Đào Thị Thảo Miên chọn chuyên ngành này để học. Với Miên, học phục chế được thực hành trực tiếp trong mỗi buổi học nên cảm thấy rất vui, khác xa với những môn học dịch thuật khác.

"Em nghĩ học Hán Nôm sau khi ra trường sẽ làm các công việc liên quan đến nghiên cứu, dịch thuật. Tuy nhiên, sau khi học môn phục chế sách cổ, em biết thêm một kỹ năng để sau này ra trường nếu không theo nghề dịch thuật thì cũng có thể làm công việc phục chế sách", Thảo Miên chia sẻ. 

Hầu hết những buổi học ở đây đều cho sinh viên thực hành tại chỗ - PHẠM HỮU

Học làm ‘bác sĩ’ phục chế sách cổ - Ảnh 5.

Sinh viên được làm tất cả mọi khâu của việc phục chế. Từ làm hồ, đánh hồ cho đến công đoạn sửa chữa cuối cùng - PHẠM HỮU

Trần Hữu Quốc Bảo cho biết khi học chuyên ngành Hán Nôm chỉ nghĩ sau này sẽ làm những công việc liên quan đến nghiên cứu chữ Hán Nôm trên văn bản. Tuy nhiên, khi theo học, Bảo cảm thấy rất mới lạ với việc phục chế sách vì đây là môn học được làm việc với thực tế, được tác động tới những trang sách cổ. Bảo nói: "Làm phục chế rất thú vị từ những trang giấy hư hỏng qua bàn tay của mình nó trở nên hoàn thiện hơn. Và mình xem đây cũng là môn học định hướng cho tương lai sau này".

Theo thạc sĩ Bùi Tiến Phúc (giảng viên bộ môn phục chế sách cổ), việc phục chế một quyển sách cổ rất khó, cần rất nhiều thời gian, kỹ thuật tỉ mỉ. Người thực hiện phải biết được tất cả nguyên vật liệu trong việc tu bổ.

Có 2 phương pháp chính trong việc phục chế hiện nay, đó là phương pháp vật lý thủ công kết hợp với phương pháp hóa học. Để phục chế một quyển sách cổ phải trải qua nhiều quy trình, tuy nhiên thông thường có từ 1-10 bước khác nhau.

Trước tiên cần ghi chép hiện trạng, giải thể, đánh số trang, vệ sinh khô và ướt, tháo gỡ băng keo trong và các vật lạ khác, kiểm tra độ PH của giấy, khử axit cho giấy, nấu hồ, tu bổ cục bộ (vá rách, bổ khuyết) cuối cùng là bồi nền.

Thạc sĩ Phúc cho biết đối với thư tịch Hán Nôm (sách đóng theo kiểu Trung Quốc) công đoạn phục chế bao gồm: gấp trang, ép sách, xếp trang, cố định ruột sách bằng đinh giấy, xén sách (đối với sách bồi nền), chuẩn bị bìa sách, đục lỗ, may sách. Còn với sách quốc ngữ, tiếng Pháp (sách đóng theo kiểu thông thường) công đoạn phục chế bao gồm: gấp trang, ép các tay sách, đục lỗ, may sách, phục hồi bìa, vào bìa, đóng bìa mới.

Cũng theo giảng viên này, khó nhất trong việc tu bổ là gặp phải sách qua tay tức các sách và tư liệu đã qua phục chế không đúng cách. Người tu bổ phải tiến hành tháo gỡ toàn bộ để đưa hiện vật về trạng thái ban đầu. Phổ biến là các trang sách cổ bị dán đầy băng keo trong, sử dụng keo con chó, keo dán sắt để dán... dẫn đến rất khó tháo gỡ.

Học làm ‘bác sĩ’ phục chế sách cổ - Ảnh 7.

Cần phải có tính kiên nhẫn và khéo léo khi phục chế - PHẠM HỮU

Sinh viên lần đầu được tự tay phục chế các trang sách cổ - PHẠM HỮU

Học làm ‘bác sĩ’ phục chế sách cổ - Ảnh 10.

Nhóm sinh viên cho biết khi học bộ môn này luôn cảm thấy có sự thú vị, không bị gò bó và cũng phù hợp với những người trẻ khi có đam mê - PHẠM HỮU

 

Học làm ‘bác sĩ’ phục chế sách cổ - Ảnh 12.

Ông Lê Quang Trường, Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG-HCM, cho biết trước đây công tác phục chế tư liệu Hán Nôm ở khoa cũng như khu vực phía nam hầu như chưa có nhân sự làm việc. Chỉ duy nhất ở Viện nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện tổng hợp đang thực hiện công tác tu bổ này.

Từ năm 2011, lãnh đạo nhà trường đã giao cho Khoa Văn học sưu tầm, lưu giữ các tư liệu Hán Nôm và việc phục chế tư liệu cũ cũng cần phải phát huy và triển khai trong tương lai. Do đó, Khoa Văn học đã thành lập môn kỹ thuật phục chế tư liệu Hán Nôm và chỉ mới đưa vào giảng dạy lần đầu trong năm 2023. Đây cũng là sự định hướng nhu cầu trong tương lai để có nguồn nhân sự làm công việc tu bổ sách. Ngoài ra, môn học tu bổ sách này cũng gắn liền với chương trình học, giúp sinh viên khi tiếp xúc với tư liệu được hiểu hơn và có thể tự tay phục chế lại tư liệu mà mình nghiên cứu. 

Phạm Hữu

Nguồn: Thanh niên, ngày 18.5.2023.

Sự nghiệp của anh hùng Lê Lợi với công dựng nước của minh quân Lê Thái Tổ được bậc kỳ tài Nguyễn Trãi, công thần số một triều Lê gom trọn trong 750 chữ trên bia đá. Thật là Rùa thần cõng Bia thánh.

Vua Lê Thái Tổ cho xây dựng Lam Kinh

Sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428) đánh đuổi giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long). Vua Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất, cho xây dựng kinh thành Lam Kinh (Tây Kinh) ở đất tổ Lam Sơn. Rộng khoảng 30 ha, gồm những lăng phần, đền miếu và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi lần về bái yết tổ tiên.

Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa 50km về phía Tây Bắc, địa bàn thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa. 

Tác giả trước bia Vĩnh Lăng - Rùa thần cõng Bia thánh.


Cứ đến ngày 21, 22 tháng 8 âm lịch, nhân dân khắp nơi về Lam Kinh dự lễ tưởng niệm công đức anh hùng Lê Lợi. Dân gian có câu: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.

Vĩnh Lăng, lăng vua Lê Thái Tổ

Thành điện Lam Kinh phía Bắc dựa vào núi Dầu, mặt Nam nhìn ra sông - núi Chúa làm tiền cảnh, bên tả rừng Phú Lâm, bên hữu núi Hương và núi Hàm Rồng phía Tây. Khu Hoàng thành, cung điện và Thái miếu xây dựng theo trục Nam - Bắc trên khoảng đồi gò hình chữ Vương. Bốn mặt thành dài 314m, ngang 254m.
Vĩnh Lăng đơn giản nhưng tôn nghiêm, tự nhiên và trang nhã. Được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng ở phía Nam chân núi Dầu gần sát điện Lam Kinh, thế đất rất đẹp. Lăng đắp đất hình lập phương, xung quanh xây chèn bằng đá đục ở bên ngoài. Trước lăng có hai hàng tượng quan hầu và các con giống tạc bằng đá. 

Bia Vĩnh Lăng (Vĩnh Lăng Bi)

Rùa thần cõng Bia thánh. Bia dựng vào đầu thế kỷ XV (Thuận Thiên năm thứ 6). Bia và rùa được làm bằng đá trầm tích, màu xám xanh có lẫn đốm trắng, bóng, trên bề mặt rùa và bia còn nhìn thấy nhiều vỏ của các loài nhuyễn thể. Thật đặc biệt, sao mà đẹp quá. Tôi biết các văn bia khác đều bằng đá Thanh. 

Lăng vua Lê Thái Tổ, đơn giản nhưng tôn nghiêm, tự nhiên và trang nhã. Ảnh: 2020


Rùa dài gần 4m, rộng độ 2m, trong tư thế đang bơi, đầu vươn cao, lưng nhô, lộ rõ 4 chân và 6 móng. Đuôi to vắt ngược lên lưng. Rùa đang cõng Bia. Bia hình chữ nhật, rộng chừng 2m, cao khoảng 3m. Mặt trước bia khắc khoảng 750 chữ Hán, nội dung văn bia viết chữ Chân, do Nguyễn Trãi soạn. Cô hướng dẫn thao thao giải thích từng chi tiết tôi không lưu tâm lắm, vì lòng lâng lâng với di vật thiêng liêng từ anh hùng áo vải đất Lam Sơn và công thần số một Nguyễn Trãi.

Trăm năm bia đá. Người hướng dẫn chỉ những dòng chữ Hán khắc ở mặt trước bia và nói trịnh trọng là Nguyễn Trãi soạn bia này. Người tôi run lên. Ôi cảm động vô vàn. Trước mắt tôi văn bia 750 chữ Hán do Đại phu nhập nội hành khiển Tam trị quân sư Nguyễn Trãi soạn. Các ngón tay tôi kính cẩn sờ lên các hàng chữ, lòng tôi dâng trào cảm xúc. Bậc danh thần công lao đệ nhất của người anh hùng áo vải Lê Lợi còn để dấu tích này sau họa sát thân nghiệt ngã oan uổng vì tội giết vua Lê Thái Tông. Các hàng chữ sao mà thiêng liêng.

Kỳ tuyệt văn bia. Nội dung văn bia do Nguyễn Trãi soạn ngắn gọn, cô đọng phản ánh đầy đủ thân thế, sự nghiệp công lao của vua Lê Thái Tổ. Hãy xem đoạn cuối văn bia: 

“Những giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến 10 vạn người đều tha cho về cả, đường thủy thì cấp cho 500 thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa. Răn cấm quân sĩ (của ta) không được xâm phạm mảy may (đến quân giặc). Hai nước từ đây giao hảo, Bắc Nam vô sự. Mường Lễ và Ai Lao dẫn vào bản đồ, Chiêm Thành và Chân Lạp vượt biển đến cống.

Vua thức khuya dậy sớm 6 năm mà nước thịnh trị, đến nay băng.

Thuận Thiên năm thứ 6, Quí Sửu, tháng 10, ngày tốt.

Vinh Lộc Đại phu Nhập nội hành khiển tri tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn”. 

(Trích Văn bia Vĩnh Lăng, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB. Khoa Học Xã Hội)

20210306 3

Mặt trước Bia Vĩnh Lăng khắc khoảng 750 chữ Hán, nội dung văn bia viết chữ Chân, do Nguyễn Trãi soạn.


Tuổi học trò đầy ắp Nguyễn Trãi trong tôi. Còn nhớ thầy cho học một đoạn Gia huấn ca. Có thầy say sưa cho các trò nhỏ nghe Bình Ngô Đại Cáo (bản dịch Bùi Kỷ), thầy khác bắt tôi đọc lớn Văn bia này (bản dịch của Trần Trọng Kim) để cả lớp thấy cách gói gọn tài tình trong 750 chữ sự nghiệp lừng lẫy của Lê Thái Tổ. Lớn lên có lúc lại thưởng thức được bài Côn Sơn ca: “Côn Sơn có suối nước trong. Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm...”.

Tri ân đấng minh quân Lê Thánh Tông đã giải oan và xóa tội công thần Nguyễn Trãi.

Tri ân đấng Minh quân

Lê Thánh Tông (1442-1497), hoàng đế thứ năm của nhà Lê Sơ, trị vì 38 năm từ 1460. Ngày 30 tháng giêng Đinh Tỵ (1497) vua băng hà, được rước về Lam Kinh, an táng tại Chiêu Lăng. 

Bia Chiêu Lăng được tạc dựng năm Mậu Ngọ (1498), đời vua Lê Hiến Tông rất gần lăng mộ, đi bộ là tới. 

Rùa lớn đầu ngẩng cao, lưng cõng bia hình chữ nhật. Bia rùa nặng khoảng 13 tấn, bằng đá xanh nguyên khối. Bia khắc chữ Hán cả hai mặt. Mặt trước có 58 dòng với hơn 3.000 chữ do Đông Các đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn, tri ân vị hoàng đế lỗi lạc. Đặc biệt mặt sau bia có bài thơ của vua Lê Hiến Tông và 35 bài thơ của các văn thần, ca ngợi công đức của vua.

Lê Thái Tổ có công lập vương triều dài nhất lịch sử. Lê Thánh Tông cháu nội của người đưa đất nước cực thịnh, giai đoạn hoàng kim rực rỡ. 

Rùa cõng bia. Thăm Văn miếu Quốc Tử Giám tôi dừng lâu nhất ở vườn bia tiến sĩ đủ 82 tấm bia. Các bia được dựng trong thời gian gần ba trăm năm đều bằng một loại đá Thanh (núi An Thạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Đá Thanh là đá vôi mịn, sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Vua Lê Thánh Tông cho ghi tên các tiến sĩ lên bia đá. Rùa là một trong tứ linh được chọn cõng bia.

Rùa thần cõng Bia thánh, thật là nhẹ nhàng phiêu phất. Thật thú vị, có dịp viếng Bảo tàng Rừng bia đá ở thành Tây An (Trường An xưa của Trung Quốc), tôi thấy các sách Tứ thư Ngũ kinh được khắc trên các tấm bia thật lớn được các con rùa lớn cõng. Bia và rùa đều bằng đá hoa cương. Bia khắc Hiếu Kinh do vua Đường Minh Hoàng viết theo kiểu chữ Vương Hi Chi đời Tùy, rồi cho nghệ nhân khắc chữ vào đá. 

Rùa chở bia đá kinh sách đạo Nho tại Bảo tàng Rừng bia đá Tây An, Trung Quốc. Ảnh: 2009

Tôi thích xem cặn kẽ tên của các tiến sĩ, vui nhất là tìm ra các vị đã trở thành danh nhân trong suốt chiều dài lịch sử. Bia niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) ghi Ngô Sĩ Liên đỗ phụ bảng. Còn đi học tôi đã biết Ngô Sĩ Liên là đại sử gia. Bia ký niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) thì thấy Triều liệt đại phu kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Tu soạn Tu thiện doãn Ngô Sĩ Liên. Lê Quý Đôn đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cấp đệ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 thì soạn bài ký cho ba bia tiến sĩ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, 24 và 30. Bao nhiêu điều tâm đắc không nói hết được.

Tôi đã đến thành phố Florence, ngất ngây trước tượng David khổng lồ trắng muốt được Michelangelo đẽo gọt từ tảng đá hoa cương khổng lồ mang từ mỏ đá Carraca miền Bắc nước Ý. Michelangelo thành nghệ sĩ điêu khắc số một của nhân loại. Nay đứng ngắm gác Khuê Văn lung linh soi bóng nước giếng Thiên Quang, tôi bồi hồi, nghẹn ngào và đầy tự hào.

Quần thể bia tiến sĩ này là công trình nghệ thuật văn học đạo học thật tuyệt vời. Tám mươi hai bia là tổng hợp nghệ thuật điêu khắc qua nhiều thời kỳ. Đá Thanh là đá vôi mịn, sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt. Thợ khắc bia nổi tiếng là thợ đá xã Kính Chủ, thợ khắc chữ ở hai làng Hồng Lạc, Liễu Chàng, gốc tỉnh Hải Dương. Phải chọn người viết chữ đẹp nhất.

Tôi đã sờ vào đá hoa cương và chữ khắc ở rừng bia đá Tây An, tôi càng thích lần theo các nét khắc rồng khắc chữ, sờ đi sờ lại các bia tiến sĩ và rùa trong Quốc Tử Giám. Một tấm bia cũng là công trình của bao nghệ sĩ, chứa nội dung văn học, đạo lý vô cùng quý báu. Văn miếu Quốc Tử Giám lại có cả một vườn bia.

Rùa thần cõng bia Thánh tại Văn miếu Quốc Tử Giám. Ảnh: 2009

Sông Chu núi Mục 

Trên đường về chúng tôi dừng nhanh trên cầu Mục Sơn bắc qua sông Chu, một nhánh của sông Mã. Cảnh trí thật hữu tình. Đã ghi lại có nhiều truyền thuyết.

Long thần ban gươm Thuận Thiên. Nhìn sang phía hữu ngạn sông Chu là núi Mục, hình dáng giống như một con cóc khổng lồ. Mục Sơn là quê của Lê Thận, em kết nghĩa của Lê Lợi, có lần thả lưới trên sông bắt được thanh gươm có đề hai chữ “Thuận Thiên”, ứng với điềm trời trao phó sứ mệnh phất cờ khởi nghĩa cho Lê Lợi. 

Chuyện về Lê Lai. Dưới chân núi Mục còn có bia Lê Lai dựng năm 1850, ghi lại việc Lê Lai liều mình cứu Lê Lợi trong trận Chí Linh, lãnh tụ thứ hai của nghĩa quân, một trong số mười tám người ở Hội thề Lũng Nhai, đổi áo bào, liều mình cứu chúa.

Truyền thuyết 

Trả lại gươm vàng. Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra Hồ Tả Vọng, thấy rùa nổi lên mặt nước. Vua thấy lưỡi gươm bên người tự nhiên động đậy. Vua nâng gươm hướng về phía Rùa vàng. Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. 

Vua phán: “Đức Long Quân cho ta mượn thanh gươm diệt trừ giặc Minh, nay Rùa vàng lên lấy lại”. 

Từ đó, Hồ Tả Vọng mang tên Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm. 

(Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nhà xuất bản Văn Học).

Nhớ tích Cồn Kiếm. Nhân dân địa phương đã lập đền Kiếp Bạc thờ Đức Thánh Trần. Phía trước là Lục Đầu Giang. Có một bãi đất nhỏ trên sông chắc là Cồn Kiếm. Nghe kể sau khi toàn thắng quân Nguyên, Hưng Đạo Vương ném thanh kiếm của mình xuống dòng Lục Đầu để rửa sạch máu quân thù. Từ đó Cồn Kiếm mọc lên.

***

Gần tuổi tám mươi thật là dịp may rong ruổi được thăm viếng Lam Kinh chiêm ngưỡng Bia thánh Rùa thần. Mong có dịp thăm lại, để được bái vọng bia mộ Vĩnh Linh, Chiêu Linh, viếng đền thờ Lê Lai, dự giỗ “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. 

Bài và ảnh: Nguyễn Chấn Hùng - Trần Kim Liên

Nguồn: Người đô thị, ngày 28.02.2021.

Theo thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, vào lúc 12 giờ 30 (10 giờ 30 giờ Việt Nam) ngày 26/11/2022 tại Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO (MOWCAP) diễn ra ở Thành phố Andong (Hàn Quốc), đã thông qua hai hồ sơ "Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng" và "Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943)" là Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO (MOWCAP) diễn ra ở Thành phố Andong (Hàn Quốc).
Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO (MOWCAP) diễn ra ở Thành phố Andong (Hàn Quốc).

Kỳ họp lần này được tổ chức dưới hai hình thức trực tuyến và trực tiếp, với 116 đại biểu đến từ 20/28 quốc gia thành viên. Đoàn Việt Nam tham dự có đại diện của Ủy ban UNESCO Việt Nam, Ủy ban quốc gia Chương trình Ký ức thế giới của Việt Nam, Cục Di sản văn hóa, Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Tĩnh.

Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO (MOWCAP) diễn ra ở Thành phố Andong (Hàn Quốc).

Nội dung của Hội nghị toàn thể tập trung đánh giá các hoạt động của MOWCAP đã triển khai từ năm 2018 đến 2022 thông qua báo cáo của Ban Thư ký và các quốc gia thành viên; góp ý và thông qua một số nội dung sửa đổi trong Quy chế hoạt động và Hướng dẫn bảo vệ di sản tư liệu của Chương trình; phần quan trọng nhất là xem xét và thông qua các hồ sơ đề cử ghi vào Danh mục Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương; tham quan Viện Nghiên cứu Hàn Quốc và dự lễ khai trương Văn phòng Ban Thư ký của MOWCAP đặt tại đây.

Sau 3 ngày làm việc liên tục, Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã thông qua 12/13 hồ sơ ghi vào Danh mục Di sản tư liệu châu Á - Thái Bình Dương thuộc các quốc gia: Singapore (1), Indonesia (1), Iran (1), Hàn Quốc (2), Trung Quốc (2) và Việt Nam (2).

Danh mục Di sản tư liệu châu Á - Thái Bình Dương của Việt Nam được ghi danh năm 2022, gồm:

Bia Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng: Là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm, với số lượng lớn, gồm 78 bia Ma nhai (trong đó có 76 bia chữ Hán và 2 bia chữ Nôm).

Nội dung, phong cách biểu hiện đa dạng, hình thức độc đáo, với nhiều thể loại như: ngự bút, bia ký, tán, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối… của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, cùng bao thế hệ tao nhân, mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, từ nửa đầu thế kỷ XVII đến thập niên 1960.

Bia ma nhai là những tư liệu cực kỳ giá trị, chân xác và đặc sắc, thể hiện rõ tính giao thoa, hòa điệu về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các quốc gia như Nhật Bản - Trung Hoa - Việt Nam tại Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Đây là các tác phẩm trên đá độc đáo ấn tượng, nhiều kiểu chữ viết như Chân, Hành, Thảo, Triện, Lệ…

20221127 3

Bia Ma nhai tại Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)

Bia Ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là tài liệu gốc duy nhất được vua Minh Mạng ngự bút và cho khắc lên các vách núi, hang động. Sự kiện này được ghi chép lại trong các tài liệu lịch sử như Đại Nam Nhất Thống chí, Đại Nam Thực lục, Đại Nam dư địa chí ước biên…

Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943): Là bộ sưu tập độc bản được viết bằng tay, gồm: 26 sắc phong gốc do các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng; 19 tờ văn bằng và 3 bức trướng bằng lụa, viết bằng chữ Hán và chữ Nôm từ năm 1689 đến năm 1943.

Việt Nam có thêm hai Di sản tư liệu được ghi vào Danh mục Di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương ảnh 2
Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh.

Với giá trị nguyên gốc, độc bản, các văn bản có nguồn gốc rõ ràng và các sự kiện liên quan… đã từng làm nguồn tư liệu để biên soạn sách, vì vậy nhiều thông tin có thể kiểm chứng, đối chiếu qua các tài liệu chính sử của Việt Nam như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; cũng như qua các sách khảo cứu như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch.

Chất liệu mang thông tin đa dạng: giấy dó, giấy dó đặc biệt và lụa, Chữ viết đẹp, rõ ràng. Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu là tư liệu quý hiếm về văn hóa và giáo dục của một làng quê ở miền Trung Việt Nam, trải qua nhiều biến cố, vẫn được lưu giữ. Đây là các tư liệu gốc giúp nghiên cứu quan hệ xã hội, lịch sử phát triển của làng thời xưa, đặc biệt trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX.

Trong bộ sưu tập có 6/48 tư liệu liên quan đến bình đẳng giới, trong đó có 5 sắc phong vinh danh phụ nữ, đã được Văn phòng UNESCO tại Bangkok đưa vào giới thiệu ở Triển lãm "Women in History - Telling HERstory through Memory of the World" từ ngày 8/3/2021.

Với việc có thêm 2 Di sản tư liệu được Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO ghi danh, đến nay Việt Nam đã có 9 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh (gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 6 di sản tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương).

Linh Khánh

(Ảnh: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Nguồn: Nhân dân, ngày 26.11.2022.

20210201

Vào thăm các đình miếu, thi thoảng chúng ta sẽ bắt gặp hai chữ “Long Phi 龍飛” được viết ở vị trí đề niên hiệu trên các tấm hoành phi và liễn đối. Nếu tìm trong sách vở, sẽ phát hiện “Long Phi” không phải niên hiệu của một vị vua nào, mà những nghiên cứu, giải thích về nó hiện cũng hiếm hoi, hạn hẹp, không đủ để giải thích rõ cho hiện tượng văn hóa này.

Từ chuyến khảo sát di sản Hán Nôm tại các đình miếu xưa tại An Khê (Gia Lai) gần đây, chúng tôi cho rằng nếu chữ “Long” tượng trưng cho vua chúa, cho triều đại; thì chữ “Phi” là để chỉ tình trạng của vua chúa, triều đại đó. Trong Kinh Dịch, “long” có 6 tình trạng: tiềm (ẩn) – hiện (ra) – dịch (sợ) – phi (bay) – kháng (cao), trong đó “phi” được xem là tình trạng tốt nhất của “long”.

Như vậy, nghĩa đầu tiên của “Long Phi” chúng ta có thể nói, là tượng trưng cho sự tốt đẹp của một thời vua, một triều đại nào nào đó, giống như “cát niên – 吉年” (năm tốt), tương ứng với “cát nguyệt – 吉月” (tháng tốt), “cát nhật – 吉日” (ngày tốt). Nó có tính tượng trưng, nên dù có khi đời vua chúa, triều đại nào đó thực sự không “thái bình thịnh trị” gì lắm, người ta vẫn đề “Long Phi”, như một ký hiệu về thời đại, niên đại.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 1

Ngoài ra, việc đi thực tế cũng giúp chúng tôi nhận thấy một ý nghĩa rất quan trọng khác, thậm chí là quan trọng nhất của hai chữ “Long Phi” mà các nghiên cứu trước chưa nói được, là ẩn ý chính trị. Một vài ví dụ:

– Đình Tân An – 新安亭: Nhà anh linh có hoành phi đề “Long Phi Bính Ngọ thu – 龍飛丙午秋” (mùa thu năm Bính Ngọ niên hiệu Long Phi).

– Miếu Tân Chánh – 新正(庙): Liễn đối ở chánh điện và dinh Ông Hổ đều ghi “Long Phi Kỷ Dậu niên thu tạo – 龍飛己酉年秋造” (làm năm Kỷ Dậu niên hiệu Long Phi).

– Miếu Tân Lai – 新来庙: Hoành và liễn đều ghi “Long Phi Mậu Dần niên thu – 龍飛茂寅年秋” (mùa thu năm Mậu Dần niên hiệu Long Phi).

– Miếu Thanh Minh (tức 清明寺 Thanh Minh Tự): Hoành phi đề “Long Phi Nhâm Tuất niên xuân – 龍飛壬戌年春” (mùa xuân năm Nhâm Tuất niên hiệu Long Phi).

Cách ghi này khiến người đời sau gặp nhiều khó khăn trong việc xác định niên đại của di vật, bởi không cho biết rõ triều đại, dẫn đến việc suy đoán niên đại cũng dễ dẫn đến sai lạc xa, do can chi trùng khớp cách nhau đến 60 năm. Chẳng hạn “Long Phi Kỷ Dậu niên” là 1909 hay 1969?, “Long Phi Nhâm Tuất niên xuân” là mùa xuân năm 1922 hay 1862 hoặc 1982? bởi di vật đã qua nhiều lần sơn sửa lại.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 3

Vì vậy, muốn biết đích xác niên đại của các di vật này, người khảo cứu phải tìm hiểu thêm từ nhiều phương diện khác như: người tặng và lai lịch người tặng, tình trạng và niên đại di vật cùng các thứ liên quan khác.

Còn “ẩn ý chính trị” ở đây là gì? Điều này cần căn cứ vào việc đối chiếu niên đại được ghi trên di vật và các mốc sự kiện lịch sử.

Trước hết, phải nói thêm rằng, An Khê hồi cuối thế kỷ 18 là căn cứ của nhà Tây Sơn, thường được biết đến với tên gọi “Tây Sơn Thượng Đạo”, nay thuộc Gia Lai nhưng xưa thuộc Bình Định. Và muộn nhất là từ thời Tây Sơn, An Khê trở thành miền đất mới của người Kinh, họ lên buôn bán làm ăn, xây dựng lực lượng, tạo nên bước ngoặt quan trọng trong quan hệ giao lưu văn hóa Kinh – Thượng.

Những chòi chợ, đình miễu, chùa chiền đầu tiên ở An Khê cũng ít nhiều gắn với nhà Tây Sơn, nổi tiếng hiện nay vẫn còn như: An Khê trường, Hòn Bình, Miếu Xà, Cánh đồng Cô Hầu, Kho tiền Ông Nhạc… Vì vậy, khi nhà Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn lên thay thế đã tìm cách xóa bỏ ảnh hưởng to lớn sâu sắc của Tây Sơn ở An Khê.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 4

Dân chúng An Khê đứng trước tình thế: một mặt không dám công khai chống lại chủ trương của chính quyền mới là nhà Nguyễn, một mặt vẫn muốn gìn giữ “gốc gác”, “liên hệ” với nhà Tây Sơn thuở xưa, nên trong một số trường hợp cho phép, họ đã tìm cách dung hòa “hiện tại” và “quá khứ”, như việc ghi niên hiệu “Long Phi” lên các hoành phi, liễn đối trong đình, miếu trong thời điểm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, khi tình hình chính trị rối ren, quyền cai trị của nhà Nguyễn bị thực dân Pháp tiếm chiếm.

Hoặc giai đoạn lịch sử sau đó, khi An Khê cũng trở thành “vùng xôi đậu” trong kháng chiến chống Mỹ vào những thập niên 1950-1970, niên hiệu “Long Phi” cũng xuất hiện trong đình miếu An Khê, như ở nhiều liễn đối tại phòng khách và chánh điện Miếu Thanh Minh có ghi: “Long Phi Tân Mão thu- 龍飛辛卯秋” (mùa thu năm Tân Mão) mà dân chúng thôn An Khê đã góp tiền cúng tặng năm 1951 nhân dịp trùng tu miếu; rồi hai cặp liễn đối và bảng Hồi tỵ trong Lỗ bộ đều đề “Long Phi Bính Ngọ trọng thu – 龍飛丙午秋” (tháng 8 năm Bính Ngọ niên hiệu Long Phi, ước đoán 1966) ở chánh điện đình Tân An.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 5

Trước đó, khi tình hình chính trị có vẻ ổn định hơn, vào thập niên 1930-1940, niên hiệu được ghi rõ ràng, như thấy ở hoành phi và liễn đối tại chánh điện đình Tân Lai: “Bảo Đại thập lục niên xuân – 保大十六年春” (mùa xuân năm Bảo Đại thứ 16, tức 1941) và “Bảo Đại thập nhị niên thu – 保大十二年秋” (mùa thu năm Bảo Đại thứ 12, tức 1937), người tặng là ông quan “Lý trưởng cửu phẩm”. Thế nhưng cũng trong khoảng thời gian này, hoành phi ở miếu Tân Lai lại ghi: “Long Phi Mậu Dần thu” (mùa thu năm Mậu Dần 1938).

Dù người tặng cũng có hàm “bát phẩm”, “cửu phẩm” tức là có mối quan hệ ít nhiều với triều đình, nhưng trên quà tặng, họ không niên hiệu “Bảo Đại”, mà đề “Long Phi”. Điều này, ít nhất cho chúng ta thấy có 2 khả năng đồng thời: thứ nhất, “Long Phi” ở đây có nghĩa là “cát niên – 吉年”, “thịnh thời” thật như họ thấy hoặc chỉ mang tính tượng trưng; thứ hai “Long Phi” ở đây được dùng như một sự tránh né tên triều đại. Như vậy, trường hợp này cũng cho phép chúng ta suy luận rằng, tình cảm hay thái độ của mỗi nhóm người không giống nhau sẽ dẫn đến văn hóa ứng xử khác nhau đối với cùng một vấn đề.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 6

Có thể thấy chuyện ghi niên hiệu “Long Phi” để tránh né tên triều đại rõ hơn khi nhìn vào các hội quán của người hoa Minh hương ở Việt Nam. Niên hiệu “Long Phi” ở những nơi này cũng mang ý nghĩa tương tự, tức họ là tự xem mình là con dân của nhà Minh, dòng giống của người Hán, không thần phục nhà Thanh và dòng giống Mãn Châu, vì thế khi nhà Minh mất, họ chạy sang Việt Nam “tị nạn chính trị”, xây dựng đền miếu, tạc tượng Ông Nhật Bà Nguyệt ghi nhớ gốc rễ của mình, ghi niên hiệu “Long Phi” trong các hoành phi, liễn đối để thể hiện “thái độ chính trị”, “tình cảm chính trị”. Điều này cũng phổ biến ở đền miếu tại Trung Quốc cuối thời Minh đầu thời Thanh và hội quán của người Minh hương ở nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, như ghi nhận của Yon Weng-woe trong bài Khảo chứng về động cơ sử dụng niên hiệu “Long phi” của di dân nhà Minh ở Đông Nam Á (2017).

Một điểm thú vị đáng lưu ý nữa là tự dạng (hình dạng chữ) của hai chữ “Long Phi” có khi được viết giống với các chữ còn lại trong dòng ghi niên hiệu niên đại, nhưng cũng nhiều khi được viết khác biệt so với các chữ khác, phổ biến là lối viết hành thảo bay bướm rất đẹp mà cũng rất khó nhận dạng, nếu người không quen sẽ khó đoán ra.

Về niên hiệu 'Long Phi' - 7

Ngoài “Long Phi”, người ta còn dùng hai chữ “Tuế Thứ – 歲次” để thay thế niên hiệu. Việc thay thế này khá phổ biến đối với những tặng vật có niên đại gần đây, ví dụ ở Miếu Thanh Minh có nhiều hoành, liễn Hán Nôm năm 1997 và 2008, nơi vị trí niên hiệu không ghi “Long Phi” như xưa, mà ghi “Tuế Thứ”. Có lẽ không phải vì tránh né những chuyện tế nhị như thấy ở các giai đoạn trước, mà vì dân chúng thấy thời kỳ lịch sử mới không còn niên hiệu, chỉ có tên nước, trong khi tên nước thời hiện đại lại gắn với thể chế chính trị, viết đầy đủ khá dài, đồng thời cũng muốn giữ một chút nét cổ kính, nên người ta ghi “Tuế Thứ” (nghĩa là: “vào năm…”). Đó là trên hoành phi, liễn đối, riêng trong vào các ngày lễ định kỳ tại đình miếu, khi mở đầu chúc văn dâng lên các vị thần linh, người ta vẫn ghi và đọc đầy đủ: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quốc” để cầu chúc cho quốc thái dân an.

Cổ Mộ

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 21.01.2021.

Chuyện này lâu nay không ai đề cập đến nữa bởi dường như các nhà nghiên cứu đều nhất trí với quan điểm phủ nhận bắt đầu từ cụ Vũ Tuân Sán: Chiêu Hổ không phải/ không thể là Phạm Đình Hổ(1). Kể cả cố PGS. Đào Thái Tôn, người có những nghiên cứu chuyên sâu về Hồ Xuân Hương cũng không có ý kiến khác.

Tôi nghiên cứu về Phạm Đình Hổ nên vẫn băn khoăn vấn đề này. Cũng như cụ Vũ Tuân Sán, ban đầu tôi cũng nghĩ, cái người đã tự bạch là “Dù có đem các tích truyện Nôm hoặc các trò cờ bạc ca múa rê ta thì ta cũng bịt tai lại chẳng muốn nghe. Ta đã học qua sử thư vậy mà chữ Nôm chẳng biết hết, câu ca bản đàn qua tai rồi lại chỉ nhớ láng máng…” (Vũ trung tùy bút) thì khó lòng mà thích được “cái kiểu” Hồ Xuân Hương.

Gần đây, tìm đọc được một số tài liệu liên quan đến Phạm Đình Hổ tôi lại có suy nghĩ khác.

Chân dung ngài Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ Phạm Đình Hổ (范廷琥, 1768 - 1839), quàn tại từ đường Phạm Đình tộc (thôn Hòa Ché, xã Hùng Thắng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, Việt Nam). Ảnh wikipedia

1. Phạm Đình Hổ được phép xưng là Chiêu Hổ

Cụ Vũ Tuân Sán cho rằng, chữ “Chiêu” chỉ dùng cho con của những người đỗ Tiến sĩ, mà thân phụ Phạm Đình Hổ không đỗ Tiến sĩ, nên Phạm Đình Hổ khó có thể được gọi là Chiêu. Thực ra, chính Phạm Đình Hổ trong sách Châu Phong tạp thảo có nói về chữ Chiêu này. Ông cho biết, điển chế thời Hồng Đức nhà Lê quy định, con trai của các quan ở ban văn từ hàm tam phẩm trở lên được bổ vào học ở Sùng Văn quán. Thời Trung hưng, đổi Sùng Văn quán làm Chiêu Văn quán, cho con các quan từ hàm ngũ phẩm vào học. Thời Lê mạt, chế độ thụ nghiệp ở Chiêu Văn quán bị bỏ bê, không được thực hiện nữa, nhưng người ta vẫn theo thói quen gọi con các quan hàm ngũ phẩm trở lên là Chiêu… Phạm Đình Hổ có cha là quan hàm Tam phẩm, theo điển chế, mẹ ông được gọi là Cung nhân, và ông - vốn là một người rất am hiểu điển lễ và thích chứng tỏ mình là loại con nhà nên đương nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội tự xưng là Chiêu - Chiêu Hổ.

2. Phạm Đình Hổ là bậc tài tử

Sách Quốc sử di biên (QSDB) (vừa rồi do nhóm Nguyễn Thị Oanh dịch chú và đã xuất bản), ở tờ 23b (trang 96, QSDB) chép: “Bấy giờ, Thành Quận công là người chuộng văn học, cho nên các văn sĩ ở Bắc Hà như Nguyễn Hồng ở Hải Dương, Phạm Hổ ở Đan Loan, Vũ Dĩnh ở Mộ Trạch, Phan Hoành Hải ở Sơn Nam… đều là khách thường xuyên trong phủ của Quận công, đều là bạn văn chương, được gọi là bậc tài tử”.

Tờ 57a (trang 307, QSDB) chép: “Vua triệu Phạm Hổ vào làm Thự Quốc tử giám Tế tửu. Phạm Hổ là tài tử của đất Đan Loan. Khoa thi năm Kỷ Mão ông đỗ Sinh đồ, đến năm Ất Dậu được đổi là Tú tài. Năm Tân Tỵ được vời vào bái yết nhà vua. Bề trên rất trọng người này, vì thế đem bạc lụa đến mời ra làm quan”.

Như vậy theo tài liệu này, đương thời, Phạm Đình Hổ được xem là bậc tài tử. Mà chữ tài tử thì từ xưa đến nay vẫn thường dùng để chỉ những người có tài, tính cách phóng túng, tự do. Từ điển cũng định nghĩa như vậy.

Cụ Vũ Tuân Sán cho rằng “Toàn bộ văn chương của Phạm Đình Hổ chứng minh rằng ông lúc nào cũng là một học giả chín chắn… không thể là một nhà nho có một đời tư bừa bãi hoặc một nhà nho ngông cuồng…”, cho nên “khó lòng hợp với tính cách của Hồ Xuân Hương, là một người muốn phá phách lễ giáo phong kiến”. Nhưng ở đây Phạm là một tài tử trong một nhóm tài tử nổi danh ở Bắc thành đương thời. Ông từng nhiều lần đi chơi, đi hát cùng bè bạn. Bài thơ Vấn Phan Hoành Hải kể việc ông hẹn Phan đến nghe hát ở đình Chèm nhân dịp tế thần nhưng Phạm không đến:

“Hoành Hải kim tiêu hà vãng

Thiên vương từ lý thính ca

Mặc khách hồng nhan tương đối

Đăng tiền nguyệt hạ như a”

[Hoành Hải đêm nay đi đâu

Trong đền Thiên vương nghe hát

Để khách thơ với người đẹp ngồi nhìn nhau

Trước đèn dưới trăng thế này ?]

Thơ ông còn có nhiều bài rất hay kể về các cuộc hát xướng, nhắc đến đào nương, vậy thì không thể nói là ông không thích hát xướng; ông lại từng làm cả cuốn tự điển chữ Nôm Nhật dụng thường đàm nên cũng không thể bảo là không biết nhiều chữ Nôm.

Với việc Phạm Đình Hổ được liệt vào hàng tài tử, nhận định Phạm Đình Hổ là một nhà nho nghiêm nghị chuẩn mực cần phải xem lại.

3. Phạm Đình Hổ là kẻ thị tài

Phạm Đình Hổ là người thị tài và cũng rất ngang ngược, sự thị tài của ông đã khiến ông bị đồng liêu ghét. Sách Quốc sử di biên chép: “Thự Tế tửu là Phạm Hổ xin từ chức, Hổ là người thẳng tính, giáo pháp rất nghiêm, các học trò từng theo học thầy khác ông không cho nhập môn. Bấy giờ ông đang ở Giám, có vị công tử ra học, ông rút guốc ra ném. Công tử vặn rằng: “Đánh roi là hình phạt trong dạy học, nay ông rút guốc ném tôi là thế nào”. Liền lấy guốc ném trả. Lại nói: “Không phải đại khoa thì không đủ làm khuôn mẫu cho người. Hổ thẹn quá dâng biểu xin về Bắc thành dưỡng bệnh, vua ban cho 100 quan tiền” tờ 64a (318).

Tờ 79b (377) chép: Tháng 8, lại triệu Phạm Hổ thực thụ Quốc tử giám Tế tửu. Trước đó năm Đinh Hợi, Hổ xin về Bắc thành dưỡng bệnh. Nhà vua trọng người ấy nên để trống vị trí đó đợi. Đến đây mệnh cho Quyền Tri phủ Diễm cùng thầy thuốc đến thăm khám. Thấy bệnh đỡ hạ chiếu triệu vào. Hổ từ chối, lấy cớ là chưa thấu suốt sách vở thánh hiền, chưa thỏa lòng mong mỏi của sĩ phu từ sông Gianh trở ra Bắc. Vua không cho, ông lại trở về kinh.

Khi Hổ ở Bắc thành gặp kì thi Hương, con ông làm văn hộ người khác, bị Giáo thụ Hoài Đức đánh roi. Hổ giận nói: “Ta hận không được làm đại quan thôi, chứ còn như đám giáo thụ thì môn đồ ta khối”. Người đời cho là ông quá quắt.

Lại có viên ở đội Cẩm y xin tiền không được, ra đường nói hỗn. Hổ đánh cho chảy máu. Viên Cẩm y ngã xoài ra, ông liền mang nồi đồng ra treo vào cổ anh ta, vu là ăn trộm giữa ban ngày, làm bản cáo trạng tố lên Hình tào Nghi. Nghi sai Quyền Tri phủ Diễm tra hỏi. Diễm đến xử, chỉ bắt tội khi quân và nói: “Hoàng thượng nhiều lần hạ chiếu triệu khanh, khanh lấy cớ dưỡng bệnh từ chối. Đang lúc dưỡng bệnh nặng mà có thể đánh ngã người khỏe mạnh thì ai khỏe đây?” Hổ giận quá đập đầu vào bàn. Diễm cười mà nói: “Cho dù khanh cởi khăn ra đập vỡ đầu cũng không thể vu cho ta tội bức tử khanh, huống hồ đầu vẫn còn quấn khăn thì có đập vào bàn cũng chẳng phương hại gì”. Rồi bắt trói viên Cẩm y cùng chứng cứ, lập án trạng xong bảo với Hổ rằng: “Khanh có quan phẩm, lại được hoàng thượng trọng dụng, Hình tào ở Bắc thành không dám xét xử, phải chờ làm bản sách tấu lên, sự thể phải như vậy”. Hổ sợ, cố xin giảng hòa nên được miễn tội.

Khi Hổ được phục chức thường qua lại Lục bộ đường, bị quan Ngự sử đề tấu lên mách với nhà vua. Nhà vua tha cho và nói: “Hiểu biết, rèn luyện, du chơi và nghỉ ngơi vốn là bản sắc của bậc Nho giả”. Rồi miễn nghị tội. Có viên nhậm tử nọ ở Bối Khê từng chê trách Hổ rằng: “Ông nổi tiếng về văn học, được hoàng thượng trọng dụng, thế mà xuất xử đều sai trái. Bị trong triều ngoài nội đàm tiếu, chỉ riêng ông là không hối chăng?”

4. Phạm Đình Hổ và Hồ Xuân Hương là cặp đôi tài tử - tài nữ

Phạm Đình Hổ và Xuân Hương thân nhau trong khoảng 20 năm đầu của thế kỷ XIX.

Qua một số tài liệu mới phát hiện gần đây, có thể phác ra đôi nét tiểu sử Hồ Xuân Hương như sau: Bà sinh vào cuối thế kỷ XVIII, khoảng từ năm 1770 - 1780, là con gái thuộc dòng họ Hồ nguyên quán làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Họ Hồ là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan ở thời Lê. Theo bài tựa tập thơ Lưu hương ký của Hồ Xuân Hương do Tốn Phong thị viết thì bà là em gái Hồ Sĩ Đống (1739 - 1785), một đại thần đầu triều thời Lê Hiển Tông - Trịnh Sâm. Nếu vậy thân phụ bà là Hồ Sĩ Danh (1706 - 1783). Hồ Sĩ Danh đỗ Hương cống năm 1732, ông không ra làm quan nhưng nhờ uy vọng của con mà được ban chức Hàn lâm viện Thừa chỉ(2), hàm Thái bảo, cuộc sống gia đình khá dư dả. Có thể khi Hồ Sĩ Đống làm quan to ở kinh, Hồ Sĩ Danh thường đi về giữa Nghệ An và Thăng Long, tại Thăng Long, ông lấy một người thiếp rồi sinh Hồ Xuân Hương, Xuân Hương là em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống. Năm 1783, ông Hồ Sĩ Danh mất. Năm 1785, Hồ Sĩ Đống bị trọng bệnh qua đời. Năm 1786, quân Tây Sơn vào Thăng Long phò Lê diệt Trịnh rồi không bao lâu nhà Lê sụp đổ. Gia đình Xuân Hương cũng như nhiều gia đình quan lại ở Thăng Long đang quen sống bằng bổng lộc nhà Lê, sau những biến động dữ dội, trở nên sa sút cơ cực. Từ thời kỳ này bà sống cùng mẹ trong nếp nhà cũ của họ Hồ là Cổ Nguyệt đường(3) ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (khu vực gần Hồ Tây Hà Nội), cha và anh đều đã mất, không còn chỗ dựa, cuộc sống của hai mẹ con khá chật vật, mẹ bà phải buôn bán ngoài chợ để sinh sống. Tuy nhiên, sinh ra trong một dòng họ quyền thế, có truyền thống Nho học, Hồ Xuân Hương lúc nhỏ được đi học và được thừa hưởng nhiều tri thức Nho học từ sách vở của cha anh để lại, vốn là bậc thông minh mẫn tiệp, bà dần có tiếng trong đám văn nhân tài tử đất kinh thành.

Đầu niên hiệu Gia Long nhà Nguyễn, Hồ Xuân Hương đã là một phụ nữ trên dưới 30 tuổi. Bài tựa tập thơ Lưu hương ký cho biết, trong con mắt kẻ sĩ đất cố kinh bấy giờ, Xuân Hương là một người “học rộng và giỏi văn, nhà nghèo mà đẹp, tư tưởng lạ mà diễm lệ, thơ đúng luật mà thanh thoát, xứng đáng là một tài nữ”. Sách Quốc sử di biên cũng chép: “Xuân Hương giỏi thơ văn, hiểu chính sự nên được người đời xưng tụng là bậc tài nữ”. Với tài năng như vậy, bà được nhiều văn nhân tài tử mến mộ. Cổ Nguyệt đường là nơi lui tới xướng họa thơ văn của họ.

Như vậy Phạm Đình Hổ hơn Hồ Xuân Hương chừng chục tuổi. Phạm Đình Hổ sinh năm 1768, Hồ Xuân Hương sinh khoảng năm 1775 - 1780. Một người là tài tử, một người là tài nữ, tuổi tác đủ để có thể chơi được với nhau, không có gì đáng để nghi ngờ nếu cho rằng Phạm Đình Hổ chính là người viết hai câu thơ chiết tự tài tình để đùa Xuân Hương:

“Người Cổ lại còn đeo thói Nguyệt

Vườn Xuân sao để lạnh mùi Hương”.

Hoặc làm những bài thơ trêu chọc nhau như kiểu Xuân Hương xướng:

“Sao nói là năm lại có ba

Trách người quân tử ở sai ngoa

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt

Nhớ hái cho xin nắm lá đa”.

Và Phạm Đình Hổ họa:

“Rằng gián thì năm quý có ba(4)

Trách người thục nữ tính không ra

Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt

Cho cả cành đa lẫn củ đa”.

Như vậy đương thời, Xuân Hương là bậc tài nữ, Phạm Đình Hổ là hàng tài tử. Việc hai người quen biết qua lại ngâm vịnh xướng họa với nhau ở Thăng Long cho đến trước khi Phạm vào Huế làm quan 1822 là điều hoàn toàn có thể xảy ra, và Phạm Đình Hổ chính là anh chàng Chiêu Hổ tinh quái trong thơ Hồ Xuân Hương.

 Chú thích:

(1) Xem Vũ Tuân Sán: Chiêu Hổ và Phạm Đình Hổ - Tập san Nghiên cứu Văn học số 3/1962.

(2) Là hư chức, không phải thực chức.

(3) Đặt tên theo lối triết tự cổ và nguyệt ghép lại thành chữ Hồ, chỉ nhà họ Hồ.

(4) Tiền thời cổ, năm quan tiền gián mới bằng ba quan tiền quý./.

 Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2011, tr.444-457.

20201213 18

I. Đặt vấn đề

Tác phẩm thời trung đại của các quốc gia đều có tính đa dị bản. Ở Việt Nam, hiện tượng đó càng phổ biến hơn. Điều này được quyết định bởi hai nguyên nhân sau:

Thứ nhất: Người trung đại chưa có ý thức bản quyền, họ coi việc sửa chữa văn bản là công việc bình thường trong khi sao chép, thưởng thức, nên đã “hồn nhiên” chọn từ, chọn nghĩa hay thay đổi chi tiết cho văn bản theo ý mình mà không cần trình bày lý do. Có thể nói, đây là thời kỳ mà tác phẩm không phải của một cá nhân và thời kỳ mà “quá trình sáng tác” đôi khi kéo dài đến mấy thế kỷ. Tham gia “quá trình sáng tác” đó gồm có những người biên tập, sao chép lại và đôi khi là chính những độc giả... Tác phẩm vẫn được tiếp tục sáng tác sau khi nó đã chào đời. Việc sáng tác phần lớn mang tính chất tập thể và sự sáng tác đó kéo dài hàng chục, hàng trăm năm.(1)

Thứ hai: Ở vào vùng khí hậu khắc nghiệt, lại luôn trong cảnh chiến tranh liên miên, nội chiến kéo dài, thư tịch nước ta có tỷ lệ được bảo tồn lâu dài rất thấp. Sau mỗi trận hỏa hoạn, lụt lội, binh đao…, việc phục chế lại chỉ được tiến hành bằng cách dựa vào phần sách còn sót lại, hoặc vào trí nhớ. Nếu may mắn gặp được những bản còn nguyên vẹn thì ý thích sửa chữa khá tùy tiện cũng khiến cho các cuốn sách hầu như không được sao lại một cách trung thành. Điều này đã làm cho tính thống nhất giữa các bản trở nên rất mong manh.

Những nguyên nhân trên đã dẫn tới sự đa dị bản của kho thư tịch trung đại nước ta. Trước tình hình đó, khi nghiên cứu văn bản thời kỳ này, công tác văn bản học có một vị trí vô cùng quan trọng. Để xác định được một bản đáng tin cậy, gần với gốc nhất, có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau. Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số cách khảo sát văn bản để tìm về một bản khả dĩ gần với nguyên tác hơn cả thông qua một tác phẩm cụ thể: Việt điện u linh tập 粵甸幽靈集 (VĐULT) của Lý Tế Xuyên 李濟川(thế kỷ XIV).

II. Điểm qua về văn bản VĐULT

Việt điện u linh tập(2) là tác phẩm văn học chức năng lễ nghi do Lý Tế Xuyên biên soạn, hoàn thành vào năm Khai Hựu開祐 nguyên niên 1329, thời Trần Hiến Tông 陳憲宗. Đây là cuốn thần tích ra đời sớm nhất mà ta còn lưu giữ được văn bản và có thể cũng chính là nền tảng cho người đời sau viết thần tích, thần phả.

VĐULT hiện được lưu trữ tại hai nguồn chủ yếu: Thư viện các viện nghiên cứu tại Việt Nam và thư viện nước ngoài. Cụ thể là, tại Việt Nam: 10 văn bản; tại Nhật Bản: 1 và tại Pháp: 2. Tổng cộng 13 văn bản, đều bằng chữ Hán:

1. Việt điện u linh A.1919

2. Việt điện u linh tập VHv.1503

3. Việt điện u linh tập A.751

4. Việt điện u linh tập HN.678. (Viện Văn học - trang đầu có dòng chữ Hán ghi rõ là được sao lại từ A.751 của Thư viện Khoa học xã hội(3) vào năm 1978)

5. Việt điện u linh tập lụcA.2879

6. Việt điện u linh tập lục VHv.1285/2

7. Việt điện u linh tập lục A.47

8. Việt điện u linh tập lục D-X-3-9 (tại Nhật Bản)

9. Việt điện u linh tập lục H.M.2119 (Bản ở Pháp, được chế bản lại trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san(4))

10. Việt điện u linh tập lục toàn biên VHv.1285/1

11. Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập A.335

12. Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập A.335 (tại Pháp, được chế bản lại trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san)

13. Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập HV.180 (Viện Sử học)

Trong 13 văn bản kể trên, thì 4 không được đưa vào diện khảo sát để tìm về bản có diện mạo gần gốc nhất. Đó là: HN.678 (vì chỉ là bản sao của A.751); 2 bản A.335 và HV.180 (vì đã biến đổi hoàn toàn so với gốc(5)). Như vậy, trong khi tìm về bản gần gốc nhất, sẽ còn 9 bản được nhắc đến là: . Việt điện u linh A.1919 (bản A); ‚. Việt điện u linh tập VHv.1503 (bản B); ƒ. Việt điện u linh tập A.751 (bản C); „. Việt điện u linh tập lụcA.2879 (bản D);…. Việt điện u linh tập lục VHv.1285/2 (bản E); †. Việt điện u linh tập lục A.47 (bản G); ‡. Việt điện u linh tập lục D-X-3-9 (bản H); ˆ. Việt điện u linh tập lục H.M.2119 (bản I); ‰. Việt điện u linh tập lục toàn biên VHv.1285/1 (bản K).

III. Phương pháp khảo sát văn bản áp dụng cho Việt điện u linh tập

Sau khi tìm hiểu tình hình văn bản, người viết thấy có thể dựa vào 8 tiêu chí sau đây để lựa chọn văn bản có diện mạo gần gốc nhất:

. Các ghi chép của người xưa về VĐULT;

‚. Nhan đề các thiên;

ƒ. Lời tựa của Lý Tế Xuyên;

„. Đặc trưng thể loại;

…. Tăng bổ của các tác giả đời sau;

†. Câu văn;

‡. So sánh các ghi chép trong văn bản;

ˆ. Cách dùng từ ngữ trong văn bản.

III.1. Các ghi chép của người xưa về VĐULT

Những ghi chép của người xưa về VĐULT giúp ta biết phần nào diện mạo ban đầu của tác phẩm, mà cụ thể ở đây là 2 vấn đề sau: . Mục đích biên soạn và tính chất tác phẩm; ‚. Số lượng các thiên.

III.1.1. Về mục đích biên soạn và tính chất của tác phẩm

Lý Tế Xuyên xác định việc soạn VĐULT là để ghi chép về những vị thần “thông minh chính trực... khí thế rừng rực lúc đương thời, anh linh tỏa rộng đến đời sau”(6). Trừ bản B viết quá vắn tắt, nên người đọc không thể nhận thấy điều này, các bản ACDEGHIK đều thể hiện được mục đích trên.

Mục đích biên soạn sẽ quy định tính chất của tác phẩm. VĐULT là một cuốn thần phả ghi chép lại hình tích các vị thần “công tích to lớn rõ rệt, cứu giúp sinh linh”(7). Trong 9 văn bản cần xét, trừ B, tính chất này nói chung được thể hiện đầy đủ và trung thành với mục đích biên soạn của tác giả. Bởi vậy, A, C, D, E, G, H, I, K là những bản có diện mạo gần gốc xét về mục đích biên soạn và tính chất tác phẩm.

III.1.2. Về số lượng các thiên

Điều này đã được ba công trình đề cập: ĐVTS và KVTL của Lê Quý Đôn (1726-1784), Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú (1782-1840). Tuy nhiên, ĐVTS không nhắc đến số thiên trong tác phẩm, chỉ nói chung chung rằng VĐULT có 1 quyển:越甸幽靈集一卷Việt điện u linh tập nhất quyển(8). KVTL thì chỉ đề cập 3 mục Đế vương lịch đạiNhân thần và Hạo khí linh tích, trong đó, mục thứ nhất có 8, mục thứ hai có 12(9), nhưng không cho biết số lượng ở mục thứ ba:陳開祐初奉御李濟川撰越甸幽靈集一卷,記諸神異祠廟,歷代帝王八,人臣十二,灝氣靈跡(10)- Trần Khai Hựu sơ, phụng ngự Lý Tế Xuyên soạn Việt điện u linh tập nhất quyển, ký chư thần dị từ miếu, Lịch đại đế vương bát, Nhân thần thập nhị, Hạo khí linh tích (Đầu niên hiệu Khai Hựu thời Trần, Phụng ngự Lý Tế Xuyên soạn Việt điện u linh tập một quyển ghi về các đền miếu thần dị, (gồm) Lịch đại đế vương tám; Nhân thần mười hai; Hạo khí linh tích). LTHCLC thì khẳng định: 陳時李濟川撰,記本國神祠靈異…歷代人君, 歷代人臣, 灝氣英靈, 凡二十八傳(11) - Trần thời Lý Tế Xuyên soạn, ký bản quốc thần từ linh dị... Lịch đại nhân quân, Lịch đại nhân thần, Hạo khí anh linh, phàm nhị thập bát truyện (Lý Tế Xuyên thời Trần soạn, ghi về sự linh dị của các đền thờ thần nước ta... Lịch đại nhân quânLịch đại nhân thầnHạo khí anh linh, tổng cộng 28 truyện).

Như vậy, theo tư liệu hiện còn, số lượng thiên của VĐULT chỉ được ghi đầy đủ trong LTHCLC. Do đó, chúng tôi tạm dựa vào con số do Phan Huy Chú đưa ra.

Để tìm hiểu xem bản nào gần với số thiên được nêu trong LTHCLC, chúng tôi đã lập một bảng tổng hợp về các thiên được cả 9 bản cùng chép như sau:

TT

Bản

Số thiên trong mục Lịch đại nhân quân Số thiên trong mục Lịch đại nhân thần Số thiên trong mục Hạo khí anh linh Tổng số
thiên
Ghi chú
1 A (A.1919) 6 11 10 27  

2

B (VHv.1503)

6 12 10 28 Riêng B tách thiên Trương Hống, Trương Hát thành 2, các bản khác gộp làm 1
3 (A.751) 6 11 10 27  
4 (A.2879) 6 11 10 27  
5 (VHv. 1285/2) 6 11 10 27  
6 G (A.47) 7 11 10 28 Riêng G, H, I tách hai thiên Triệu Việt Vương, Lý Nam đế thành 2, các bản khác gộp làm 1
7 (D-X-3-9) 7 11 10 28
8 I (H.M.2119) 7 11 10 28
9 K (VHv.1285/1) 6 11 10 27  

 

Trong số các thiên được cả 9 bản đều chép - những thiên nhiều khả năng là do chính Lý Tế Xuyên biên soạn từ đầu - có 4 bản BGHI khớp với con số do Phan Huy Chú đưa ra. Để xác định bản có diện mạo gần với nguyên tác nhất về số thiên, ngoài con số 28 thiên này, chúng tôi thấy còn cần phải tìm hiểu tổng số thiên của tất cả các bản, để xem bản nào có số thiên càng gần với con số 28, thì càng chứng tỏ chưa được bổ sung nhiều về sau này và sẽ là bản có diện mạo gần gốc nhất. Kết quả như sau:

 

T T Bản Phần chính văn Phần bổ sung Tổng số thiên
1 A (A.1919) 27 5 32
2 B (VHv.1503) 28 65 93
3 C (A.751) 27 8 35
4 D (A.2879) 27 6 33
5 E (VHv.1285/2) 27 7 34
6 G (A.47) 28 4 32
7 H (D-X-3-9) 28 4 32
8 I (H.M.2119) 28 4 32
9 K (VHv.1285/1) 27 9 36

 

Như vậy, ở tiêu chí thứ nhất: Các ghi chép của người xưa về VĐULT, 3 bản G, H và I có khả năng có diện mạo gần với nguyên tác hơn cả, vì nó đáp ứng được ba yếu tố:

. Giữ nguyên mục đích và tính chất ban đầu của tác phẩm

‚. Có số thiên ít nhất (32), mới chỉ kết thúc ở phần Tục bổ của Nguyễn Văn Chất (thế kỉ XV), không có những phần gia công sau đó;

ƒ. Số thiên ở phần Chính biên khớp với ghi chép của Phan Huy Chú: 28 thiên.

III.2. Nhan đề các thiên

Trong các văn bản được xét ở đây, không phải tên thiên nào tại Mục lục (ML) cũng đồng nhất với tên thiên trong chính văn (CV) và mỹ tự (MT). Sự khác biệt đó được chia làm 4 dạng: . nhiều âm tiết hơn; ‚. ít âm tiết hơn; ƒ. thay bằng tên húy hoặc đế hiệu; „. chép khác về tự dạng.

Khảo sát các bản VĐULT hiện còn, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các thiên trong đó đều được lấy tên theo MT - toàn bộ hoặc một phần - được phong. Những dạng tên khác (tên húy, đế hiệu, địa danh được thờ v.v...) khá hiếm gặp. Phần CV của Lý Tế Xuyên được chép trong 9 bản, trong đó, ABCDEK có 27 thiên; GHI có 28 thiên. Tên thiên tổng cộng xuất hiện 246 lần(12), trong đó, chỉ có 7 lần thay MT bằng đế hiệu (Triệu Việt Vương - Lý Nam Đế) và 3 lần thay bằng họ (Trưng thánh vương), tổng cộng 10/246 lần = 4%. Trong khi đó, ở các phần phát sinh về sau này là Tục biên và Trùng bổ, thì dạng tên thiên chính là MT không những không phổ biến như đối với phần CV, mà ngược lại còn trở thành hiện tượng cá biệt: Xét 37(13) lần xuất hiện tên thiên ở hai phần Tục biên và Trùng bổ trong 6 bản A, B, C, D, E, K, chỉ thấy 2 lần có dạng tên bằng MT. Đó là Quản Gia Đô Bác đại vương - bản A và Thanh Cẩm Tiết Nghĩa Trung Liệt tôn thần(14) - bản B, còn lại đều chép ở dạng khác như họ tên, địa danh đền thờ v.v., đưa tổng số tên không theo mô hình MT lên tới gần 94,6%. Điều này cho phép chúng ta đoán định rằng kiểu lấy MT làm nhan đề mỗi thiên là dạng ban đầu của VĐULT và rất có thể, thoạt tiên, các tên thiên đều mang đầy đủ toàn bộ MT của thần, nhưng về sau, để cho tiện, các MT chỉ được duy trì đầy đủ trong ba đợt sắc phong, còn ở phần CV và ML - nhất là ML - đã bị tỉnh lược một cách có ý thức, nhưng chẳng tuân theo một quy luật nghiêm nhặt nào. Điều này dẫn tới việc các văn bản đều có sự không thống nhất giữa tên thiên ở ML, tên thiên ở CV và tổng số MT được phong của thần. Sự sai khác ấy tuy có mức độ đậm nhạt khác nhau ở từng văn bản, nhưng có thể kết luận rằng, chẳng một bản nào sao chép nguyên văn tên thiên đúng như MT của các thần một cách tuyệt đối. Sau đây là tổng số lần giống nhau giữa tên thiên ở ML, tên thiên ở CV và MT trong các văn bản VĐULT. Trong đó,

a là tên thiên ở ML và tên thiên ở CV trùng với tổng số MT được phong.

b là tên thiên ở ML trùng với CV.

c là tên thiên ở ML trùng với tổng số MT được phong.

d là tên thiên ở CV trùng với tổng số MT được phong.

 

A (A.1919) C (A.751) D (A.2879) E (VHv.1285/2) G (A.47) H (D-X-3-9) I (H.M.2119) K (VHv.1285/1)
a b c d a b c d a b c d a b c d a b c d a b c d a b c d a b c d  
1 1 1 17 1 1 1 8 1 1 1 14 1 1 0 15 2 14 0 3 2 14 0 3 2 14 0 3 12 12 1 1  

 

Tổng cộng số lần giống nhau của a, b, c, d trong các bản, ta có kết quả sau:

Bản A C D E G H I K
Tổng số lần giống nhau 20 11 17 17 19 19 19 26

 

Bảng thống kê trên đã cho thấy K là bản có khả năng gần với gốc nhất.

III.3. Lời tựa

Lời tựa được Lý Tế Xuyên viết ra để nêu rõ mục đích biên soạn VĐULT. Vì vậy, dựa vào phần này, có thể biết được đâu là văn bản có diện mạo gần với gốc nhất qua việc xét xem chúng được sao chép cẩn thận hay không. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng cácLời tựa có xuất nhập nhất định, trừ GH và I ra, thì chẳng bản nào giống hoàn toàn với bản nào, nhưng nói chung, mọi khác biệt đó đều không làm sai lệch ý của tác giả hoặc khiến cho câu văn ở các bản trở nên khác nghĩa với nhau. Độ chênh lớn nhất về số chữ trong các bản nằm ở phần Lạc khoản. Tựu trung lại, có thể chia Lời tựa thành những loại sau:

. Loại ghi đủ cả năm, tháng, ngày, chức vụ và tên người biên soạn (A, G, H, I, K).

‚. Loại không ghi tháng (B).

ƒ. Loại không ghi tháng và ngày (C, E).

„. Loại không ghi tháng, chức vụ và tên người biên soạn (D).

Vậy đâu là Lời tựa gần với nguyên gốc hơn? Muốn xác định được điều này, cần trở lại tìm hiểu một chút về tác giả. Soạn giả của cuốn sách này là vị quan với chức vụ có lẽ khá quan trọng - "Thủ đại tạng thư Hỏa chính chưởng Trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ Chuyển vận sứ". Theo Lê Hữu Mục, thì Thư hỏa chính chưởng “là một chức phụng vụ vừa giữ sách vừa giữ lửa ở nơi đã để kinh Đại tạng”(15); còn theo Đinh Gia Khánh thì là “coi giữ việc tế lễ, tham gia vào việc quản giám bách thần”(16). Dù mang nghĩa nào đi nữa, thì người có được vị trí này hẳn phải tinh thông học vấn, được triều đình tín nhiệm, vì trong thời trung đại, tế lễ luôn là một trong những công việc được coi trọng hàng đầu của đất nước. Bởi vậy, khi Lý Tế Xuyên ghi lạc khoản, thì những yếu tố thuộc về công thức lần lượt là: năm - tháng - ngày - chức vụ - họ tên người viết phải được ghi rõ ràng, đầy đủ. Vì thế, theo chúng tôi, những bản có Lời tựa ghi đủ các yếu tố trên (AGHIK) sẽ thuộc loại có diện mạo gần với nguyên tác hơn cả.

III.4. Đặc trưng thể loại

Trong phần này, chúng tôi dựa vào đặc trưng loại hình văn học để khảo sát.

VĐULT là tác phẩm chức năng lễ nghi, chủ yếu thuộc về nghi lễ thờ thần ở đền miếu, tức là thứ mà Lê Quý Đôn gọi là "tự điển" - 祀典 (sách ghi chép về cúng tế)(17). Với đặc điểm đó, cấu trúc của tác phẩm sẽ thiên về ngợi ca, chỉ cốt làm nổi bật những linh hồn thiêng liêng (u linh). Tính chất này đã sinh ra các công thức sau đây:

- Là tự điển nên VĐULT phải quan tâm đến sự phong tặng mỹ tự. Việc đưa các đợt gia phong vào đây có hai ý nghĩa: thứ nhất là khẳng định uy quyền của vương triều, thứ hai là đảm bảo giá trị và tính xác thực, chính đáng của các vị thần được thờ. Bởi vậy, đó là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng. Đây chính là nguyên nhân khiến cho tác giả đã lấy toàn bộ mỹ tự của các đợt phong làm tên thần và tên thiên thần tích. Từ đó, công thức a: Tên gọi mỗi thiên là mỹ tự của các thần được sắc phong (mà ở đây là mỹ tự được sắc phong trong 3 đợt: Trùng Hưng nguyên niên (1285), Trùng Hưng thứ 4 (1288), Hưng Long thứ 21 (1313) đã ra đời.

- Là tự điển, nên tác giả luôn muốn chứng minh tính xác thực của thần cũng như sự công nhận rộng rãi trong dân chúng về sự tồn tại của các vị. Bởi vậy, mở đầu mỗi thiên bao giờ cũng chỉ ra xuất xứ nguồn tài liệu tham khảo... Những thiên không có nguồn trích dẫn cụ thể thì ghi là thế truyền世傳: đời truyền rằng. Công thức b: Câu văn mở đầu thiên (按…王(公, 神) 本…): theo tài liệu nào đó, vương (công, thần) vốn là... do đó hình thành.

- Với tư cách một tác phẩm văn học chức năng lễ nghi, lý do để những vị thần đáng được triều đình phong tặng là vì có công âm phù. Bởi vậy, các thiên thường được kết thúc bằng việc sắc phong. Công thức c: Kết thúc mỗi thiên là 3 đợt gia phong của vua Trùng Hưng và Hưng Long đi cùng câu kết: 以有陰相(助, 扶) 之功也 - vì có công ngầm giúp vậy đã ra đời.

- Vì các nhân vật trong VĐULT là những thần linh thiêng nên khi ghi chép lại hình tích của các vị, tác giả thường nhấn mạnh đến sự hiển linh. Nhưng vì phần lớn trong số họ là nhân vật lịch sử có công với dân tộc, nên ngoài hiển linh, còn có một yếu tố khác cần đề cập tới. Đó là quãng đời bình sinh. Bởi vậy, công thức d: Kết cấu mỗi thiên về nhân thần thường theo hai phần: Khí thế rừng rực lúc đương thời, anh linh tỏa rộng đến đời sau (tức dương phù - âm trợ) đã xuất hiện(18).

Bốn công thức trên, theo chúng tôi, có thể tin là được hình thành từ khi Lý Tế Xuyên biên soạn VĐULT, bởi vì: văn học chức năng bao giờ cũng có những công thức nghiêm nhặt nhất định. Tuy nhiên, mức độ tuân thủ trong các văn bản là khác nhau; sự thực hiện mỗi công thức cũng không đồng nhất. Ví dụ như, dương phù âm trợ được miêu tả tương đối đầy đủ, nhưng xuất xứ tài liệu lại có thể bị bỏ qua... Đây hẳn là những “rơi rụng” xảy ra trong quá trình truyền bản bởi cả nguyên nhân chủ quan từ người sao chép, biên tập lẫn nguyên nhân khách quan của điều kiện văn bản. Có thể xác định được bản có diện mạo gần với nguyên tác nhất dựa trên sự tuân thủ công thức này.

Sau đây là bảng thống kê những bản đứng đầu về độ tuân thủ trong từng mục của tác phẩm:

 

Mục Công thức a Công thức b Công thức c Công thức d
Lịch đại nhân quân A A GHI ACDEGHIK
Lịch đại nhân thần DEK A DGHI ACDEGHIK
Hạo khí anh linh CDEK A E Không xét(19)

 

Bảng thống kê trên đã giúp chúng ta tìm được số lần đứng đầu trong việc thực hiện công thức của các bản của theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau:

-A6 lần

-D, E5 lần

-GHI,K4 lần

-C3 lần

-B0 lần

Từ kết quả trên, A sẽ là bản gần gốc nhất nếu xét theo tiêu chuẩn thực hiện các công thức.

III.5. Tăng bổ của các tác giả đời sau

VĐULT được ra đời với tư cách là một cuốn sách chép thần tích, một tác phẩm mang chức năng lễ nghi. Trải qua thời gian gần 6 thế kỷ, tác phẩm đã không ngừng được các văn nhân thêm bớt, sửa chữa. Theo những ghi chép trong các văn bản còn lại, có thể thấy rằng, sau Lý Tế Xuyên, ít nhất, 8 văn nhân đã tham gia vào việc làm thay đổi văn bản. Trong đó, có 6 người mà công việc của họ còn để lại dấu vết rõ ràng trong văn bản. Đó là:

-Nguyễn Văn Chất thêm phần Tục bổ.

-Lê Tự Chi viết Càn Hải tứ vị thánh nương tịnh tự.

-Lê Thuần Phủ soạn Bạt.

-Gia Cát thị biên soạn lại tác phẩm.

-Cao Huy Diệu viết Tiếm bình, bổ chú.

-Ngô Giáp Đậu thêm Trùng bổ.

Với lý do đã nêu ở đầu bài viết, tác phẩm có sự gia công của Gia Cát thị sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết này. Sau đây là bảng tổng kết các mục còn lại được bổ sung trong các văn bản:

 

Tục bổ Càn Hải tứ vị thánh nương Bạt Tiếm bình Trùng bổ
Không có Không có Không có Không có Không có
Không bản nào A B C D E G H I K B C D E G H I K A A G H I B C D E K A B G H I C D E K A G H I B C D E K

 

Tính số lần các văn bản có những yếu tố phát sinh sau thời đại Lý Tế Xuyên để xem đâu là văn bản có diện mạo gần với nguyên tác nhất. Chúng ta có được kết quả sau:

- 1 lần: GH và I (Tục bổ).

- 2 lần: A (Tục bổCàn Hải tứ vị thánh nương tịnh tự).

- 3 lần: B (Tục bổBạtTrùng bổ).

- 4 lần: CDEK (Tục bổBạtTiếm bìnhTrùng bổ).

Như vậy là, ở phần này, với sự xuất hiện các phần bổ sung thấp nhất, 3 bản G, H, I có khả năng là những bản có diện mạo gần với nguyên tác hơn cả.

III.6. Câu văn

Đặc điểm của câu văn cũng là một tiêu chí để xác định văn bản có diện mạo gần với nguyên tác.

Với tính chất văn học chức năng lễ nghi, ở giai đoạn đầu, thần tích thường là những câu mang tính chất thông báo sự kiện. Phần đối thoại, tả cảnh, tả tâm lý nhân vật cùng những lời văn bóng bảy chưa trở thành mục đích trong những tác phẩm loại này. Phải đến thời kỳ sau, khi những quy chế của văn học chức năng ngày càng trở nên lỏng lẻo, thì sự gia công nghệ thuật mới được thêm vào. Vì vậy, phân tích tính chất câu văn cũng là một phương pháp đi tìm văn bản có diện mạo gần với nguyên tác. Trong các đối tượng được xét ở đây, thì B có câu văn ngắn gọn hơn cả. Tuy nhiên, vì được viết quá tóm lược, chỉ quan tâm đến ba điểm chính: tên gọi, niên đại sống của thần và mỹ hiệu các triều phong tặng, nên rõ ràng văn bản này không phù hợp với mục đích biên soạn mà Lý Tế Xuyên đã thể hiện trong Lời tựa “nếu không ghi chép lại sự thực, thì màu đỏ và màu tía khó rõ ràng”(20) hoặc trong nhận xét của Lê Quý Đôn: “lời văn trang nghiêm, sự việc xác thực, tỏ ra tài của nhà sử học lành nghề”(21). Vì thế, có thể nhận ra rằng, diện mạo của bản gốc đã bị xóa bỏ hoàn toàn ở B. Bởi vậy, chúng tôi sẽ chỉ khảo sát 8 văn bản còn lại, bằng cách chọn ngẫu nhiên mỗi mục thuộc phần Chính văn của Lý Tế Xuyên khoảng 30% số thiên liền nhau. Cụ thể là: Lịch đại nhân quân 6 thiên, chọn 2; Lịch đại nhân thần 11 thiên, chọn 4; Hạo khí anh linh 10 thiên, chọn 3. Các câu văn được đưa vào để so sánh tuân thủ theo quy ước: chỉ đưa vào những đoạn mà giữa các bản có độ chênh từ 10 chữ trở lên. Do giới hạn của 1 bài viết, chúng tôi không thể trình bày bảng so sánh câu văn được(22), mà chỉ đưa ra toàn bộ số chữ trong những đoạn được thống kê ở từng văn bản:

 

Bản (A.1919) (A.751) D (A.2879)

E

(VHv.1285/ 2)

(A.47)

H

(D-X-3-9)

I

(SA.HM.2119)

(VHv.1285/1)
Tổng số chữ 327 1222 346 355 265 265 265 1222

 

Xếp thứ tự xa dần nguyên tác theo số lượng chữ, chúng ta được kết quả sau:

G, H, I265

A327

D346

E355

C, K1222

Ở tiêu chí này, xét theo tính chất câu văn, GH và I được chọn vào vị trí có khả năng diện mạo gần với nguyên tác nhất(23).

III.7. Ghi chép trong các văn bản

Trong 8 văn bản được xét, chúng tôi thấy:

. Tại các bản CEK, 4 lần xuất hiện 2 chữ “cựu tác 舊作” (bản cũ viết là...).

‚. Tại bản D, 1 lần xuất hiện chữ “cổ bản 古本” (bản cổ).

ƒ. Tại bản E, 1 lần xuất hiện chữ “chính bản 正本” (bản chính).

Đây là những chữ được người sao chép dùng để thông báo về một loại văn bản VĐULT ra đời trước bản mà mình đang chép. Điều đó cho ta biết họ đã từng làm công việc “khảo dị”. Thông báo “cựu tác”, “cổ bản”, “chính bản”, người sao chép đã công khai thừa nhận với độc giả văn bản của mình không phải là “cựu”, “cổ bản” hay “chính bản”. Đó là những tín hiệu giúp chúng ta loại trừ 4 văn bản CDEK. Vậy còn lại AGHI là những bản gần với diện mạo cổ hơn cả. Bây giờ, hãy xét từng trường hợp:

 



 

Chữ chứng tỏ không phải là bản cổ

舊作

古本 正本

 

Bản

C E K D E

 

Nội dung

舊作人君, 后妃附Cựu tác nhân quân, Hậu phi phụ - Bản cũ chép là Nhân quân, Hậu phi phụ (tờ 3a) 舊作人君Cựu tác nhân quân - (Bản) cũ chép là Nhân quân (tờ 2a) 舊作人臣Cựu tác Nhân thần - Bản cũ chép là Nhân thần (tờ 2a) 舊作人君, 附后妃Cựu tác Nhân quân, phụ Hậu phi - Bản cũ chép là Nhân quân, phụ Hậu phi (tờ 3a) 舊作人臣Cựu tác Nhân thần - Bản cũ chép là Nhân thần (tờ 3b) 趙越王舊作明道開基聖烈神武皇帝; 李南帝舊作英烈仁孝欽明聖武皇帝Triệu Việt vương cựu tác Minh Đạo Khai Cơ Thánh Liệt Thần Vũ hoàng đế; Lý Nam đế cựu tác Anh Liệt Nhân Hiếu Khâm Minh Thánh Vũ hoàng đế - Triệu Việt vương bản cũ chép là Minh Đạo Khai Cơ Thánh Liệt Thần Vũ hoàng đế; Lý Nam đế bản cũ chép là Anh Liệt Nhân Hiếu Khâm Minh Thánh Vũ hoàng đế (tờ 19b) 制勝二徵夫人舊作徵聖王Chế Thắng nhị Trưng phu nhân cựu tác Trưng Thánh vương - Chế Thắng nhị Trưng phu nhân bản cũ chép là Trưng Thánh vương (tờ 26a) 古本三十錄增附三錄今三十三錄Cổ bản tam thập lục tăng phụ tam lục kim tam thập tam lục - bản cổ 30 lục, tăng phụ thêm 3 lục. Nay là 33 lục (tờ 3b). 正本三十錄增補三錄Chính bản tam thập lục tăng bổ tam lục - bản chính 30 lục, tăng bổ 3 lục (tờ 3b)
Bản có dấu hiệu phù hợp với bản cổ A x x x   x        
G   x x x x x x    
H   x x x x x x    
I   x x x x x x    

Qua đây, chúng ta biết được 4 thông tin sau:

. Tên mục chép về vua, bản cổ là Lịch đại nhân quân, Hậu phi phụ (hoặc Phụ hậu phi);

‚. Tên mục chép về bề tôi, bản cổ là Lịch đại nhân thần;

ƒ. Nhan đề của thiên về Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế, bản cổ là: Minh đạo Khai cơ Thánh liệt Thần vũ Hoàng đế, Anh liệt Nhân hiếu Khâm minh Thánh vũ Hoàng đế;

„. Nhan đề của thiên về Hai Bà Trưng, bản cổ là Trưng Thánh vương.

Trường hợp này, cả 4 bản AGH và I đều có thể coi là thuộc nhóm “cổ bản”, ”chính bản”, vì đều có những chữ phù hợp với phần khảo dị bản "cựu", "cổ", "chính". Tuy G, H, I có số lần phù hợp với chữ được khảo dị nhiều hơn A (6/4), nhưng đây không phải là điều quan trọng, vì sự nhiều hơn này chỉ chứng tỏ G, H, I được nhiều bản tham khảo hơn, chứ không có nghĩa là gần gốc hơn.

III.8. Việc dùng chữ trong văn bản

VĐULT được ra đời để phục vụ cho chức năng lễ nghi tôn giáo. Bởi vậy, thái độ tôn trọng các thần luôn là một trong những yêu cầu hàng đầu đối với người biên soạn thần tích. Sự tôn trọng được thể hiện qua nhiều cách, như viết đài, tránh tên húy, hay dùng các từ đặc biệt v.v... Trừ B, ở những văn bản còn lại, có một trường hợp cho thấy sự khác biệt về cách dùng chữ. Đó là đoạn nói về sự linh dị của Phùng Hưng tại thiên Bố Cái Phu Hựu Chương Tín Sùng Nghĩa đại vương:

 

Bản A C, DEK GHI
Nội dung 又初興卒能顯靈(Hựu sơ Hưng tốt năng hiển linh - Lại nói, xưa, Hưng chết có thể hiển linh) 興卒能顯靈(Sơ Hưng tốt năng hiển linh - Xưa, Hưng chết có thể hiển linh) 英靈顯赫(Sơ vương ký hoăng anh linh hiển hách - Xưa, vương đã mất, anh linh hiển hách)
       

Các chữ Hán được in to và đậm trong bảng này là những chữ thể hiện sự tôn trọng hay không đối với Bố Cái đại vương. Bảng thống kê cho thấy ACDE và K đều gọi thần bằng tên húy Hưng 興, riêng 3 bản GHI thì dùng chữ vương 王 để gọi. Ngoài ra, còn có hai chữ khác nhau về mức độ tôn trọng nữa là chữ tốt 卒 trong ACDEK và chữ hoăng 薨trong GHI. Hai chữ này được một số từ điển thông dụng và có uy tín giải thích như sau:

 

Khang Hi Từ nguyên Từ hải Hán ngữ đại tự điển

大夫死曰卒

Đại phu tử viết tốt - Bậc đại phu chết gọi là tốt(24)

公侯卒矣

Công hầutốt hĩ -Bậc công hầu chết(25)

Tử -chết (26)

周代天子死曰

崩諸侯曰薨

Chu đại thiên tử tử viết băng, chư hầu viết hoăng - Thời Chu, thiên tử chết gọi là băng, đại phu chết gọi là hoăng(27)

古指大夫死亡及年老壽終

Cổ chỉ đại phu tử vong cập niên lão thọ chung - Thời cổ chỉ bậc đại phu chết và người già chết thọ(28)

周代諸侯

死之稱

Chu đại chư hầu tử chi xưng - gọi bậc chư hầu đời Chu chết(29)

死亡

tử vong- tử vong(30)

周代諸侯死亡稱薨

Chu đại chư hầu tử vong xưng hoăng - Thời Chu, bậc chư hầu tử vong gọi là hoăng (31)

 

Có thể thấy rằng, cách giải thích về hai chữ tốt và hoăng trong 4 cuốn từ điển trên tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng có sự thống nhất về sự phân biệt sắc thái ngữ nghĩa: hoăng bao giờ cũng được dùng trong trường hợp trang trọng hơn tốt. Vậy là, với việc chứng tỏ thái độ tôn trọng qua kiêng tên húy và dùng từ đặc biệt để chỉ về thần, GHI đã trở thành những bản gần gốc hơn trong tiêu chí này.

Trở lên, quá trình tìm về một bản có khả năng có diện mạo gần với nguyên tác nhất đã được thực hiện qua 8 tiêu chí. Trong đó, mỗi tiêu chí đã chọn ra được bản đứng đầu như sau:

- Các ghi chép của người xưa về VĐULTG, H, I

- Nhan đề các thiên: K

- Lời tựa của Lý Tế Xuyên: AGH, I, K

- Đặc trưng thể loại: A

- Tăng bổ của các tác giả đời sau: G, H, I

- Câu văn: G, H, I

- Ghi chép trong các văn bản: A, G, H, I

- Việc dùng chữ trong văn bản: G, H, I

Xếp các bản có số lần đứng đầu tiêu chí từ theo thứ tự từ nhiều đến ít, ta sẽ có kết quả sau:

GHI6/8 lần (tiêu chí 1, 3, 5, 6, 7, 8)

A3/8 lần (tiêu chí 3, 4, 7)

K2/8 lần (tiêu chí 2, 3)

B, C, D, E0/8 lần

Như vậy, với số lần đứng đầu tiêu chí nhiều nhất, GH và I là những bản có khả năng mang diện mạo gần với nguyên tác hơn cả.

Tuy vậy, cũng phải nói thêm rằng, sự lựa chọn này cũng chỉ mang tính tương đối, vì tất cả các bản VĐULT hiện còn đều được sao lại vào thời Nguyễn(32), nên ngay đến văn bản được xếp vào loại có khả năng diện mạo gần với nguyên tác nhất cũng không thể tránh khỏi những yếu tố được thêm vào ở thời sau này và bản được cho là gần gốc nhất cũng không phải là tuyệt đối về mọi mặt so với các bản khác. Ví dụ như: ở nhiều chỗ, so với các bản GHI, thì A có những phần không được nguyên sơ bằng, nhưng về việc tuân thủ các công thức, thì A lại bảo lưu yếu tổ cổ hơn G.

Như vậy là, sau khi áp dụng một số phương pháp nghiên cứu văn bản, từ 8 bản VĐULT, chúng tôi đã chọn ra được 3 bản có khả năng gần với gốc nhất là A.47, D-X-3-9 và H.M.2119. Trên cơ sở đó, người viết sẽ tiếp tục nghiên cứu quá trình dịch chuyển của văn bản từ buổi đầu (thế kỷ XIV) đến đầu thế kỷ XX trong bài viết khác.

TS. Đào Phương Chi

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (109) 2011, trang 10-23.

-----------

Chú thích:

(1) Lêkhaxep: Những nhiệm vụ của văn bản học. Nguyễn Đức Hân dịch. Bản đánh máy. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VHN). DT.44.

(2) Tác phẩm này hiện có khá nhiều tên gọi, như: Việt điện u linhViệt điện u linh tậpViệt điện u linh tập lụcViệt điện u linh tập lục toàn biên v.v... Theo Đại Việt thông sử (ĐVTS) [A.1389, tờ 76a (VHN)] và Kiến văn tiểu lục (KVTL) [A.32, tờ 4a, VHN] của Lê Quý Đôn, những văn bản có ghi chép sớm nhất về tên gọi của tác phẩm này, thì sách có tên là Việt điện u linh tập. Bởi vậy, chúng tôi gọi theo Lê Quý Đôn. Những tên gọi khác sẽ chỉ được dùng trong trường hợp trích dẫn nguyên văn.

(3) Nay sách được giao cho VHN.

(4) 陳慶浩 , 鄭阿財 , 陳義主編 . 第二集 . 神話傳說類 . 臺灣學生書局印行 . 臺北 . 1992.

(5) Xin xem thêm Đào Phương Chi. Nghiên cứu văn bản VĐULT và quá trình dịch chuyển của văn bản. Luận án Tiến sỹ Ngữ văn, H. 2007. tr.57, 235-237.

(6) Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh tập. Trịnh Đình Dư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung, Nxb. Văn học, H. 1972, tr.31.

(7) VĐULT. Sđd (tr.31).

(8) 大越通史. A.1389, tờ 76a, VHN.

(9) Lê Quý Đôn không cho biết cụ thể đơn vị được tính ở đây là “thần” hay “thiên”, nhưng con số 8 và 12 được học giả họ Lê nêu lên ở mục Lịch đại nhân quân và Lịch đại nhân thần phù hợp với thống kê về số thần của chúng tôi (xin xem Đào Phương Chi, Luận án, đã dẫn, tr.58, 59).

(10) 見聞小錄.A.32, tờ 4a, VHN.

(11) 歷朝憲章類誌. A.1151, tờ 3b, VHN.

Trong kho sách của VHN hiện còn 14 văn bản LTHCLC: A.1551, A.50, A.1358, VHv.1502, A.2124, A.2061, VHv.181,VHv.1262, VHv.1541, VHv.982, VHv.983, A.1883, A.2445 và VHv.2666-2671 (1 bộ 6 ký hiệu). VĐULT được chép ở phần Văn tịch chíTruyện ký loại. Trong 14 văn bản trên, thì 6 bản không còn phần Văn tịch chí là: A.1358, A.2061,VHv.181, A.1883, A.2445 và VHv.2666-2671. 8 bản còn lại đều cho biết VĐULT có 28 thiên, riêng VHv.982 chép thiếu bốn chữ Lịch đại nhân quân, nhưng số thiên thì vẫn không thay đổi [tờ 68a].

(12) Số lần ở đây không kể ML, bởi bản có ML bản không.

(13) Nếu tính toàn bộ số thiên được xếp vào hai phần này thì sẽ có con số lớn hơn, nhưng chúng tôi chỉ xét những thiên có nhiều khả năng vốn nằm trong hai mục này, đó là 4 thiên trong Tục bổ và 4 trong Trùng bổ. Những thiên còn lại ở hai phần này sẽ bị loại vì được người sao chép ghép thêm vào (xin xem thêm: Đào Phương Chi. Luận án đã dẫn, tr.178-179).

(14) Thiên này tất cả các bản đều không chép các đợt phong, nên không biết được MT của thần là gì. Bốn chữ "Tiết Nghĩa Trung Liệt" phải chăng là MT của thần mà người sao chép đã tham khảo ở tài liệu nào đó rồi viết vào?

(15) Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh tập. Lê Hữu Mục dịch. Nxb. Khai trí. Sài Gòn 1961, tr.17.

(16) Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh tập. Trịnh Đình Dư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu đính và bổ sung. Nxb. Văn học, H. 1972, tr.5.

(17) 黎貴敦. 見聞小綠. A.32, tờ 118a, VHN.

(18) 4 công thức này được kế thừa từ bài viết Tìm hiểu quan điểm biên soạn và phương pháp biên soạn VĐULT của Lý Tế Xuyên. Tạp chí Văn học, số 1/1986 của Nguyễn Đăng Na.

(19) Không xét đến công thức d vì các thần được chép đều là thiên thần, nên không thể có “khí thế rừng rực lúc đương thời” được.

(20) 李濟川. 粵甸幽靈集 A.47, VHN, tờ 3a.

(21) Lê Quý Đôn. KVTL. Bộ Quốc gia giáo dục. 1964.

(22) Xin tham khảo bảng so sánh cụ thể trong Luận án của tôi (tr.100, tr.106).

(23) Trong luận án của chúng tôi, cả A cũng được chọn vào nhóm gần nguyên tác, nhưng nay xin đưa A ra khỏi nhóm này, vì ở các tiêu chí trên, chỉ những bản có ưu thế tuyệt đối mới được chọn và trong tiêu chí này thì GHI mới là những bản có số chữ ít nhất. Hơn nữa, độ chênh về số chữ ở GHI và A còn lớn hơn nhiều so với độ chênh ở A với các bản DE, bởi vậy, xếp A và nhóm chung với GHI là không hợp lý.

(24) 康熙. 中華書局出版. 年 (tr.156).

(25) 康熙. 中華書局出版. 年 (tr.1062).

(26) 辭源. 商務印書館. 北京 (tr.225).

(27)辭源.商務印書館. 北京(tr.1479).

(28) 辭海.上海辭書出版社1989 年 (tr.401).

(29) 辭海.上海辭書出版社1989年 (tr.696).

(30) 漢語大辭典.四川辭書出版社.湖北辭書出版社. 成都 (tr.63).

(31) 漢語大辭典 . 四川辭書出版社. 湖北辭書出版社. 成都. (tr.3302).

(32) Sở dĩ chúng tôi nhận xét như vậy là bởi: trong số các bản VĐULT thì trừ BCDEK rõ ràng được chép vào thời Nguyễn, vì có phần Trùng bổ vào đầu thế kỷ XX của Ngô Giáp Đậu thì, sau khi tìm hiểu các bản còn lại là A và GHI, chúng tôi cũng cho rằng chúng là sản phẩm của giai đoạn này, vì bản A có kiêng húy chữ 時, húy của triều Tự Đức (1848-1884), còn bản GH và I thì có một chứng cứ là ở thiên thứ 21: Khai nguyên Uy hiển Long trứ Trung vũ đại vương có câu: “唐玄宗開元中廣州刺史盧奐奉命巡越南國時...” [粵甸幽靈集. A.47 (tờ 15a), D-X-3-9 (tờ 17a), SA.HM.2119, (tờ 35)] (Trong niên hiệu Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông, khi Thứ sử Quảng Châu là Lư Hoán phụng mệnh thị sát nước Việt Nam...). Ở các bản khác, tên nước ta - Việt Nam “越南” - không hề xuất hiện, mà được ghi là Nam Giao - “南交”. Nước ta chỉ được đổi quốc hiệu thành Việt Nam năm Gia Long thứ 3 (1804). Vì vậy, có nhiều khả năng đây là bản được sao chép sau khi lệnh đổi quốc hiệu được ban ra. Và như thế thì, nó chỉ có thể ra đời sớm nhất vào thời Nguyễn./.

1. Lê Văn Đức 黎文德 (1793 - 1842) là danh thần đầu triều Nguyễn, phụng sự ba đời vua: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị. Quê ông ở cù lao Bảo thuộc tổng Tân An - châu Định Viễn - dinh Phiên Trấn (nay thuộc tỉnh Bến Tre)(1). Ông đỗ Cử nhân khoa Quý Dậu (Gia Long năm thứ 12 - 1813), sau đó được bổ làm Tri huyện ở Tri Viễn. Từ năm 1822 đến năm 1828 (Minh Mệnh năm thứ 3 đến năm thứ 9), ông lần lượt giữ nhiều chức vụ khác nhau: Lang trung Bộ Công, Thiêm sự, Ký lục trấn Bình Hòa sung Giám thị trường Nam Định, Hữu Thị lang Bộ Công, Hữu Thị lang Bộ Binh, Toản tu bách quan chức chế, Tham tri Bộ Binh, Thự Thượng thư Bộ Binh.

Sinh ra ở vùng đất Nam bộ, do sự đưa đẩy của thời cuộc, suốt cả cuộc đời, Lê Văn Đức bôn ba khắp mọi nẻo đường đất nước. Từ Nam ra Bắc, từ Bắc lại vào Nam, ông đã trải qua nhiều thăng trầm, gian khổ, thậm chí là nguy hiểm đến tính mạng(2). Tuy nhiên, ở cương vị nào, ông cũng cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình, lập được nhiều công trạng to lớn: trị thủy ở kinh đô Huế (1839), trấn áp các cuộc nổi dậy của người Chân Lạp (1840), hai lần đánh dẹp giặc Xiêm La (1840, 1842)… Nếu không qua đời sớm ở tuổi 49 (năm 1842) thì chắc chắn ông sẽ còn lập thêm nhiều công trạng(3).

Một trong những chiến công nổi bật của ông là hai lần dẹp tan được loạn Nông Văn Vân (1833 - 1835). Tháng 7 âm lịch năm 1833, một Thổ ty người Tày ở Bảo Lạc (Tuyên Quang) tên là Nông Văn Vân khởi binh chống lại sự cai trị của triều Minh Mạng(4), Lê Văn Đức liền được sung chức Tham tán quân vụ đại thần, lãnh nhiệm vụ tiễu trừ loạn tặc. Đánh giải vây được thành Tuyên Quang, vua Minh Mệnh sung ông làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (5), đồng thời cử Nguyễn Công Trứ làm Tham tán, để cùng dẫn đại binh đi đánh Vân Trung (Bảo Lạc), là nơi đặt đại bản doanh của Nông Văn VânTháng 6 năm Giáp Ngọ (1834), sau khi củng cố lại lực lượng,Nông Văn Vân cùng với các thuộc hạ dẫn cả ngàn quân đi đánh chiếm Cao Bằng. Hốt hoảng, các quan đầu tỉnh đều bỏ chạy. Hay tin, nhà vua lại cử Lê Văn Đức làm Tổng đốc đạo Tuyên Quang để cùng với các tướng lĩnh khác mang quân đi trấn áp. Thua trận, Nông Văn Vân trốn trong rừng Thẩm Pát ở Tuyên Quang, rồi bị quân triều đình phóng lửa đốt rừng. Theo sử nhà Nguyễn thì sau đó (tháng 3 âm lịch năm 1835), Nông Văn Vân bị chết cháy (6).

Xét công lao, Lê Văn Đức được phong là Ân Quang tử, thăng trật Hiệp biện Đại học sĩ, nhưng vẫn lĩnh chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, để tiếp tục truy bắt các thuộc hạ của Nông Văn Vân hiện vẫn còn đang lẩn trốn.

Với những công trạng trên, Lê Văn Đức nhiều lần được ban thưởng xứng đáng. Năm 1835, tên ông được cho khắc vào bia đá đặt trước sân Võ miếu Huế vừa thành lập. Cùng năm ấy, vua Minh Mệnh ban thưởng cho ông một phần thưởng đặc biệt: ôm gối vua (7). Đến năm Tự Đức thứ 10 (1857), sau khi mất 15 năm, Lê Văn Đức được thờ trong đền Hiền Lương.

20220508 7

Văn bản 周原雜詠 - Chu nguyên tạp vịnh

Tuy là một võ tướng, nhưng Lê Văn Đức cũng có tài làm thơ. Tác phẩm của ông còn truyền lại là tập Chu nguyên tạp vịnh và một bài văn tế các tướng sĩ trận vong và bệnh vong trong cuộc chiến chống bọn Nông Văn Vân, được chép trong Tế văn tập do một vị Cử nhân họ Hoàng ở Nhuế Giang biên soạn.

2. Sau khi bình được loạn Nông Văn Vân, vua Minh Mệnh vui mừng ban thưởng cho Lê Văn Đức và mở tiệc khao quân. Tuy cuộc bình loạn đại thắng, nhưng phía triều đình cũng tổn thất nhiều tướng sĩ, người thì tử trận, kẻ thì bệnh chết trong quân. Cho nên, vua sai Lê Văn Đức viết một bài văn tế để tỏ lòng tưởng nhớ, thương tiếc và ghi khắc công lao của các tướng sĩ đã anh dũng hi sinh vì đại cuộc. Bài văn tế có tên đầy đủ là Sơn Hưng Tuyên Đốc hiến Lê Văn Đức tuân chỉ tế trận vong bệnh cố tướng sĩ văn. Xét thấy đây là bài văn tế hay, có giá trị văn học và lịch sử, chúng tôi xin phiên dịch, chú thích để giới thiệu cùng quý độc giả xa gần.

Nguyên văn:

山興宣督憲黎文德遵旨祭陣亡病故將士文

某年月日官爵姓名,欽奉恩旨,軫及進征逆雲辰陣亡病故之將士兵勇等,準賜祭一坛,具牲酒庶饈之品,設坛為位以告于行陣病亡者之靈曰:

嗚呼!疆場敵愾,因盡節以成忠;覆載垂慈,無微而不燭。

雖蒙國恩死國事,臣心庸恤其他;然孤人子寡人妻,兵革本非所欲。

繄爾等之驕雄;為國家之容蓄。

奮身堅銳,以膂力而爪牙;矢念尊親,如手足於頭目。

許久虎皮包戟,譙楼之角吹方閒;何期狼燧傳鋒,戎壘之征轅乍促。

修尔戈同澤同袍;出我車于郊于牧。

三秋出入屡戰頻攻;萬状艱難重溪疊谷。

飛鳶跡跡,空驚壯士之魂;瘏馬行行,疇畫征夫之軸。

惟其想逆渠之犯順,孰不衝冠;是以[?](8)予勇以争先,人思八服。

踰嶺以臨泉;亦緣崖而攀木。

連峰似戰桓桓,臨玉帽以奚辭;薰雨如湯恍恍,指雲中而不縮。

霜林戰處,曷禁矢石之紛飛;霧磴躋餘,易惹烟嵐之誤觸。

吳將之金瘡列背,神醫何所旋丹;蜀泉之水瘴居肓,鬼伯豈須登籙。

故破竹走風之勢,則莫我承;而埋輪鷙馬之雄,返為尔毒。

嗟哉,衽不厭之金;忽乃,委俱焚之玉。

想尔之九泉齎志,有不勝於猿呌鵑啼;乃彼之一旦傾巢,亦窮技於驢鳴鼯伏。

是能雪尔恨于窈冥全伏我朝之威福。

且此三軍奏凱,正騰闕下之歌;寧絕塞含凄,尚滯天顏之哭。

仰高厚之普施;悉往存而涵肓。

千里封疆不遠,宸思乍動于磬聞;九重渥澤有加,卹典式周于矢後。

今則:以饗以奠欽自天恩;或肆或將治于庖祝。

庶精爽之有知;俾宠光之共沐。

嗚呼!太山比重,不孤馬革之難懷;天日向光,久慰泉臺之衷曲。

尚享!

Phiên âm

SƠN HƯNG TUYÊN ĐỐC HIẾN LÊ VĂN ĐỨC TUÂN CHỈ TẾ TRẬN VONG BỆNH CỐ TƯỚNG SĨ VĂN

Mỗ, niên nguyệt nhật, quan tước tính danh, khâm phụng ân chỉ, chẩn cập tiến chinh nghịch Vân thời trận vong bệnh cố chi tướng sĩ binh dũng đẳng, chuẩn tứ tế nhất đàn, cụ sinh tửu thứ tu chi phẩm, thiết đàn vi vị dĩ cáo vu hành trận bệnh vong giả chi linh viết:

Ô hô! Cương trường địch khái, nhân tận tiết dĩ thành trung; Phú tái(9) thùy từ, cái vô vi nhi bất chúc.

Tuy mông quốc ân tử quốc sự, thần tâm dong tuất kỳ tha; Nhiên cô nhân tử quả nhân thê, binh cách bản phi sở dục.

Ế nhĩ đẳng chi kiêu hùng, vi quốc gia chi dung súc.

Phấn thân kiên nhuệ, dĩ lữ lực nhi trảo nha(10); Thỉ niệm tôn thân, như thủ túc ư đầu mục(11).

Hứa cửu hổ bì bao kích, tiều lâu(12) chi giác xúy phương nhàn; Hà kỳ lang toại(13) truyền phong, nhung lũy chi chinh viên sạ xúc.

Tu nhĩ qua đồng trạch đồng bào(14); Xuất ngã xa vu giao vu mục.

Tam thu(15) xuất nhập, lũ chiến tần công; Vạn trạng gian nan, trùng khê điệp cốc.

Phi diên tích tích, không kinh tráng sĩ chi hồn; Đồ mã hàng hàng, trù họa chinh phu chi trục.

Duy kỳ tưởng nghịch cừ chi phạm thuận, thục bất xung quan; Thị dĩ ? dư dũng dĩ tranh tiên, nhân tư bát phục.

Ký du lĩnh dĩ lâm tuyền; Diệc duyên nhai nhi phàn mộc.

Liên phong tự chiến hoàn hoàn, lâm ngọc mạo(16) dĩ hề từ; Huân vũ như thang hoảng hoảng, chỉ vân trung nhi bất súc.

Sương lâm chiến xứ, hạt cấm thỉ thạch chi phân phi; Vụ đặng tễ dư, dị nhạ yên lam chi ngộ xúc.

Ngô tướng chi kim sang liệt bối, thần y hà sở toàn đan; Thục tuyền chi thủy chướng cư hoang, quỷ bá khởi tu đăng lục.

Cố phá trúc tẩu phong chi thế, tắc mạc ngã thừa(17); Nhi mai luân(18) chí mã chi hùng, phản vi nhĩ độc.

Ta tai, nhẫm bất yếm chi kim(19); Hốt nãi, ủy câu phần chi ngọc(20).

Tưởng nhĩ chi cửu tuyền tê chí(21), hữu bất thăng ư viên khiếu quyên đề; Nãi bỉ chi nhất đán khuynh sào, diệc cùng kỹ ư lư minh ngô phục(22).

Thị năng tuyết nhĩ hận vu yểu minh; Cái toàn phục ngã triều chi uy phúc.

Thả thử tam quân tấu khải, chính đằng khuyết hạ chi ca; Ninh giao tuyệt tái hàm thê, thượng trệ Thiên nhan chi khốc.

Ngưỡng cao hậu chi phổ thi; Tất vãng tồn nhi hàm dục.

Thiên lý phong cương bất viễn, thần tư sạ động vu khánh văn; Cửu trùng ác trạch hữu gia, tuất điển thức chu vu thỉ hậu.

Kim tắc: Dĩ hưởng dĩ điện khâm tự thiên ân; Hoặc thích hoặc tương trị vu bào chúc.

Thứ tinh sảng chi hữu tri, tỷ sủng quang chi cộng mộc.

Ô hô! Thái Sơn tỷ trọng, bất cô mã cách(23) chi nan hoài; Thiên nhật hướng quang, cửu úy tuyền đài chi trung khúc(24).

Thượng hưởng!

Dịch nghĩa:

BÀI VĂN TẾ DO ĐỐC HIẾN SƠN HƯNG TUYÊN LÊ VĂN ĐỨC TUÂN THEO LỆNH VUA VIẾT ĐỂ TẾ CÁC TƯỚNG SĨ TRẬN VONG VÀ BỆNH VONG

Mỗ, ngày tháng năm, chức tước và họ tên, kính vâng ân chỉ của vua, ban một đàn lễ tế, đầy đủ lễ vật, rượu thịt và thức ngon, tưởng nhớ các tướng sĩ đã anh dũng trận vong và bệnh vong trong cuộc tiến đánh bọn nghịch tặc Nông Văn Vân. Nay lập đàn tế cáo với linh hồn các tướng sĩ rằng:

Than ôi! Lòng địch khái nơi chiến địa, thà tử tiết để vẹn giữ lòng trung; Ân phú tái đấng hiền minh, dù đại tiểu cũng dày ban ân phúc.

Tuy đội ơn nước, chết vì việc nước, kẻ bề tôi đâu hối tiếc điều chi; Nhưng con xa cha, vợ phải xa chồng, cơn binh cách vốn trầm luân địa ngục.

Kia sĩ binh anh dũng kiêu hùng, chính quốc gia tài bồi hun đúc.

Rèn thân rắn sắc, mong thành gân cốt tướng trảo nha; Chặt dạ tôn thân, chẳng khác tay chân quan đầu mục.

Bấy lâu cung kiếm yên da hổ, tiếng tù chòi gác vắng thinh thinh; Bây giờ lang khói ngút trời xanh, trận địa trống đồn đang thôi thúc.

Sửa sang giáo mác, mặc cùng áo đắp cùng chăn; Chỉnh đốn ngựa xe, ruổi mọi đường xông mọi góc.

Ba thu dầu dãi, công phá nhiều phen; Vạn nỗi gian truân, san bằng hiểm hóc.

Quạ diều quần đảo, luống kinh hồn tướng sĩ mơ màng; Xe ngựa liêu xiêu, khéo họa bức chinh phu vũ khúc.

Riêng nghĩ đến tặc đồ phản nghịch, nộ khí xung thiên; Nên phát dương ý chí tranh hùng, tám phương úy phục.

Đã lội suối lại trèo non; Thêm thiên nhai rồi lâm cốc.

Từng đỉnh núi giống rừng gươm uy vũ, đầu mang mũ trụ chẳng lùi chân; Mỗi giọt mưa như dòng nước trào sôi, tay chỉ trời xanh không bỏ cuộc.

Chiến trường khói tỏa, đâu thoát vòng đá dội tên bay; Vách đá sương giăng, sao kham cảnh rừng thiêng khí trọc.

Ngô tướng kiếm đao xuyên áo giáp, thần y thúc thủ hoàn sinh; Thục tuyền nước độc ngấm tâm tì, quỷ bá nhanh bài chiêu phục.

Cho nên, khí thế tro bay trúc chẻ, loạn thần không thể giương oai, phách lạc hồn kinh; Thế nhưng, oai hùng chống giặc chôn xe, tướng sĩ đành cam nuốt hận, xương tan thịt róc.

Thương ôi, mệnh đương sống chết, khi ăn ngủ cũng chẳng rời gươm; Bỗng đâu, lửa đốt núi Côn, chí kiên trinh sẵn sàng nát ngọc.

Nghĩ rằng, các ngươi ngậm hờn nơi chín suối, chỉ tiếc lòng vượn hú quyên than; Thật ra, mỗi người tận lực thuở can qua, đã hết cách lừa kêu chuột rúc.

Như vậy cũng đủ: Sáng ngời tinh phách hồn thiêng; Khôi phục cơ đồ đại quốc.

Đây là lúc ba quân báo tiệp, khuyết môn nô nức khải hoàn ca; Kia là nơi biên tái thê lương, Thánh chúa âm thầm tuôn lệ khóc.

Ngưỡng ân sâu đức cả cao dày; Khắp kẻ mất người còn mãn túc.

Tâm khảm ai hoài trong tiếng khánh, đâu đây ngàn dặm sơn hà; Sự vong trịnh trọng buổi đăng đàn, trên dưới chín từng mưa móc.

Nay thì: Kính vâng vương mệnh, lễ tế đã an; Nhờ sức trù nhân, hương phần sung túc.

Hồn thiêng hầu đã chứng tri; Ân điển cùng nhau hưởng lộc.

Ôi thôi! Thái Sơn vĩ đại, dẫu rằng da ngựa khó bọc thây; Nhật nguyệt thường soi, mãi chiếu dạ đài cơn trung khúc.

Thương thay! Thượng hưởng!

3. Một bộ phận quan trọng của văn tế Hán Nôm là những bài văn tế tướng sĩ trận vong. Qua một số bài văn tế tiêu biểu thuộc bộ phận này đã được biết đến từ trước tới giờ, có thể chia thành hai loại:

3.1. Văn tế tướng sĩ trận vong trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm: Tiêu biểu là bài văn tế viết bằng chữ Hán Phụng nghĩ tứ tế tiết thứ chinh di trận vong tướng sĩ văn (Bài văn thay mặt vua tế các tướng sĩ hi sinh sau mấy trận đánh nhau với Pháp - Lê Khắc Cẩn). Sau mấy trận đánh nhau với Pháp ở Đà Nẵng và Cần Giờ, quân tướng ta hi sinh rất nhiều. Vua Tự Đức sai quan đặt tuần tế và giao cho Lê Khắc Cẩn (người tỉnh Nam Định, đỗ Hoàng giáp) soạn bài văn tế này để tưởng nhớ các tướng sĩ đã hi sinh. Ngoài bày tỏ lòng tiếc thương và biểu dương tinh thần anh dũng kiên cường của các tướng sĩ, bài văn tế với giọng điệu hùng hồn đã góp phần vào việc cổ vũ tinh thần chiến đấu của các tầng lớp nhân dân, tiếp tục chiến đấu đưa đến thắng lợi sau cùng.

3.2. Văn tế tướng sĩ trận vong trong các cuộc nội chiến: Tiêu biểu là bài văn tế viết bằng chữ Nôm Tế trận vong tướng sĩ (Nguyễn Văn Thành). Sau khi đánh thắng Tây Sơn và bình định xong toàn cõi, tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành. Nguyễn Văn Thành viết bài văn tế này để tưởng nhớ đến công ơn các chiến sĩ đã tử trận. Đây là một trong những bài văn tế xuất sắc, ngoài giá trị về văn học, lịch sử, nó còn nói lên những cảnh đau khổ, mất mát do chiến tranh gây nên, bày tỏ niềm cảm thông và lòng thương xót của tác giả trước cái chết của những người lính. Do đó, bài văn tế mang một giá trị nhân đạo rất sâu sắc.

Cùng với hai loại trên, đến nay, bài Sơn Hưng Tuyên Đốc hiến Lê Văn Đức tuân chỉ tế trận vong bệnh cố tướng sĩ văn sẽ góp phần làm phong phú thêm cho bộ phận văn tế tướng sĩ trận vong với loại thứ ba: Văn tế tướng sĩ trận vong trong các cuộc bình nội loạn. Ở đây không có giặc ngoại xâm, cũng không diễn ra cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến, nhưng các tướng sĩ phải chịu hi sinh vì sự nổi dậy của một Thổ ty vùng cao Tuyên Quang chống lại sự cai trị của triều đình. Bài văn tế một mặt nêu cao lòng tiết nghĩa, trung thành của các tướng sĩ, mặt khác, do tính chất và hoàn cảnh ra đời, nó còn ca ngợi triều đình, ca ngợi nền thống trị nhân hòa đức độ của người đứng đầu đất nước. Tuy không thể sánh với bài của Lê Khắc Cẩn và Nguyễn Văn Thành, nhưng đây cũng là một bài văn tế đáng được chú ý về nội dung và nghệ thuật, góp phần làm phong phú thêm cho thể loại văn tế Hán Nôm Việt Nam.

Nguyễn Đông Triều

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm; Số 4(113) 2012; Tr.69-76

Chú thích:

(1) Buổi đầu, châu Định Viễn thuộc dinh Long Hồ nên Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 19) ghi Lê Văn Đức là người Vĩnh Long.

(2) Theo Đại Nam chính biên liệt truyện(quyển 19, tr.394), sau khi dẹp được loạn Nông Văn Vân lần thứ nhất, Lê Văn Đức cùng Tham tán Nguyễn Công Trứ dẫn quân tiến đánh sào huyệt của Nông Văn Vân ở Vân Trung. Sau nhiều tháng hành quân gian lao và nguy hiểm, vì địa hình hiểm trở lại thường xuyên bị phục kích, nên đến cuối năm (1833), đại binh của ông mới vào phá được Vân Trung. Kết quả được tấu lên, Lê Văn Đức được thưởng quân công. Nhưng trên đường trở về thành Tuyên Quang, bị đối phương phục kích, làm chết và bị thương nhiều lính, khiến ông bị triều đình khép vào tội tử. Song nghĩ đến công lao của ông, vua Minh Mạng chỉ cho giáng bốn cấp, cắt hết lương bổng, tước bỏ mũ áo và buộc phải lấy công chuộc tội.

(3) Tháng 11 âm lịch năm 1842, vua Thiệu Trị cử Lê Văn Đức làm Kinh lược đại thần đi xem xét việc quân ở 6 tỉnh Nam kỳ. Tuy bị bệnh nhưng ông vẫn cố gắng lên đường, nhưng đến Quảng Nam thì qua đời ở tuổi 49.

(4) Về nguyên nhân cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân, GS. Nguyễn Phan Quang cho biết như sau: “Vào đời vua Minh Mạng, ở một số tỉnh miền núi như Tuyên QuangThái NguyênLạng SơnCao Bằng... nhà vua đặt chức Lưu quan do người Kinh nắm giữ bên cạnh các quan đứng đầu là người dân tộc. Do họ thường hay ức hiếp, nhũng nhiễu, nên các thổ quan và người dân rất căm ghét, chỉ chờ dịp nổi lên đánh đuổi.” (Lịch sử Việt Nam 1427-1858, quyển 2, tập 2, tr. 180). Sau cuộc khởi binh của em vợ Nông Văn Vân là Lê Văn Khôi (tháng 5 âm lịch năm Quý Tỵ, 1833) bị đánh dẹp, vua Minh Mệnh sai quan lính truy nã vợ con và họ hàng Lê Văn Khôi đang cư ngụ ở đó. “Viên Án sát Cao Bằng là Phạm Đình Trạc liền ra lệnh bắt 2 con, 1 người em ruột và 14 người thân của Lê Văn Khôi. Lại sai đào mả ông nội (Bế Văn Sĩ) và cha đẻ (Bế Văn Kiện/ Viên) của Lê Văn Khôi, đốt hài cốt ra tro. Nông Vân Vân lúc bấy giờ đang làm Tri châu Bảo Lạc cũng bị truy nã vì là anh vợ Khôi.” (Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên, tr.203). Sẵn lòng căm ghét, Nông Văn Vân liền vận động các tù trưởng bất mãn và những người dân bị áp bức cùng đứng lên chống lại triều đình. Xét ra sự việc có một phần lỗi của quan lại người Kinh và triều đình, có lẽ nhận ra điều đó nên sau này vua Tự Đức bãi bỏ chế độ Lưu quan.

(5) Sơn Hưng Tuyên là 3 tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang.

(6) Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển 19, tr.1051-1051. Xin nói thêm, theo gia phả họ Nông thì Nông Văn Vân không chết mà đi phiêu bạt vùng biên giới Việt - Trung. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng.

(7) Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, để ban thưởng cho các bề tôi có công, vua Minh Mạng đã ban một bản dụ trong đó nói rằng vua nghĩ ra một nghi lễ mới dành cho những người có công, qua đó bày tỏ lòng yêu mến trọng vọng. Bản dụ có đoạn viết: “…Trẫm lẽ nào quên đi mà không hậu đãi, ngoài việc ban thưởng, phong tước đã có chỉ dụ thi hành rồi, nay cho Bộ Lễ bày nghi lễ, chọn ngày tốt, trẫm ngự ở cửa Đại Cung, cho các quan đại thần vào chầu và cho Phạm Văn Điển, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức làm lễ ôm gối để tỏ ý trẫm coi như hoàng tử vui đùa dưới gối.”

(8) Chữ mờ, không đọc được, ở phần sau chúng tôi tạm dịch.

(9) Phú tái: Che chở. Tuân Tử - Tâm thuật hạ có câu: “Thị cố Thánh nhân nhược thiên nhiên, vô tư phú dã; nhược địa nhiên, vô tư tái dã.” (Cho nên, bậc Thánh nhân ví như trời vậy, vô tư che khắp vạn vật; ví như đất vậy, vô tư chở khắp vạn vật.) Về sau thường dùng chỉ ân đức của các bậc đế vương đối với dân chúng.

(10) Trảo nha: vuốt nanh. Loài cầm thú có vuốt nanh để tự vệ. Các võ thần cũng được gọi là trảo nha, hộ vệ nhà vua, bảo vệ đất nước.

(11) Đầu mục: đầu, mắt. Dùng chỉ người đứng đầu, thống soái.

(12) Tiều lâu: cái chòi cao dựng trên cổng thành để theo dõi thế trận của địch.

(13) Lang toại: dùng phân sói phơi khô trộn với chất đốt, khi có biến thì dùng đốt lửa lên để cấp báo.

(14) Tu nhĩ qua đồng trạch đồng bào: câu này lấy ý từ Thi kinh - Tần phong - Vô y “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào, vương vu hưng sư, tu ngã qua mâu, dữ tử đồng cừu” (Há bảo không áo, mặc chung áo bông, vua sắp dấy binh, tu chỉnh giáo mác, đánh kẻ thù chung) và “Khởi viết vô y, dữ tử đồng trạch, vương vu hưng sư, tu ngã mâu kích, dữ tử giai tác” (Há bảo không áo, mặc chung áo thô, vua sắp dấy binh, tu chỉnh cung tên, cùng xông lên trước). Sau dùng chỉ lòng vui thương lẫn nhau đủ khiến cho người ta cùng nhau xả thân vì nước.

(15) Tam thu: ba mùa thu, tức ba năm, khoảng thời gian dẹp loạn 1833 - 1835.

(16) Ngọc mạo: mũ trang sức bằng ngọc, ở đây chỉ loại mũ đội khi đi đánh trận.

(17) Tắc mạc ngã thừa: lấy từ Thi kinh - Lỗ tụng - Bí cung “Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng, tắc mạc ngã cảm thừa, tý nhĩ xương nhi xí, tý nhĩ thọ nhi phú” (Đánh rợ Nhung rợ Địch, trị nước Kinh nước Thư, thì ai dám chống lại ta, khiến ngài được tốt lành, hưng thịnh, sống lâu và giàu có).

(18) Mai luân: chôn chặt bánh xe, tỏ ý tử thủ không lùi bước.

(19) Nhẫm bất yếm chi kim: lấy ý từ câu “Nhẫm kim cách, tử nhi bất yếm” trong Trung dung, nghĩa là nằm ngủ cũng đeo gươm mặc giáp, vào chỗ chết cũng không nề chi. Ý nói các tướng sĩ vì đại cuộc sẵn sàng chiến đấu không sợ hi sinh.

(20) Ủy câu phiền chi ngọc: Lấy ý từ Thượng thư - Dận chinh: “Hỏa viêm Côn cương, thạch ngọc câu phiền” (Lửa đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy). Ở đây, ngọc chỉ các tướng sĩ, đá chỉ bọn phản loạn, ý nói các tướng sĩ kiên trung chấp nhận tử chiến cùng quân phiến loạn.

(21) Tê chí: chí hướng chưa thực hiện được nhưng đã chết, đem theo xuống cửu tuyền.

(22) Lư minh ngô phục: lừa hí chuột nấp, ý nói đã tìm đủ mọi cách để chống giặc nhưng sức cùng lực kiệt đành chịu hy sinh.

(23) Mã cách: da ngựa. Nói đầy đủ là “Mã cách khỏa thi” (Da ngựa bọc thây), xuất xứ từ câu nói của Mã Viện đời Đông Hán: “Nam nhi yếu đương tử ư biên dã, dĩ mã cách khỏa thi hoàn tang nhĩ…” (Làm trai nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn…” (Hậu Hán thư). Chỉ nghĩa vụ làm trai phải xông pha, sẵn sàng bỏ thân nơi chiến địa.

(24) Trung khúc: Tình tự, nỗi lòng.

Tài liệu tham khảo

1. Phong Châu - Nguyễn Văn Phú, Văn tế cổ và kim, Nxb. Văn hóa, 1960.

2. Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, 1993.

3. Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển 19, Nxb. Văn học, H. 2004.

4. Quốc sử quán triều Nguyễn Quốc triều sử toát yếu (phần Chính biên) Cao Xuân Dục tổng tài, Nxb. Văn học, 2002.

5. Nguyễn Phan Quang: Lịch sử Việt Nam (1427-1858), tập 2, Nxb. Giáo dục, 1977.

6. Tế văn tập, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.524.

7. Nguyễn Khắc Thuần: Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2001.

8. Danh công biểu tuyển, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.582./.

20201106 6

Ảnh: Chùa Yên Phú (huyện Thanh Trì, Hà Nội)

Sau khi nhà Triệu mất ngôi, nước Nam Việt đổi thành Giao Chỉ và được chia thành quận, huyện đặt dưới nền cai trị của các quan lại nhà Hán. Khi Thái thú Tô Định vâng mệnh vua Hán sang làm Thái thú quận Giao Chỉ đã thi hành chính sách hà khắc, bạo ngược nên lòng dân oán hận... Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã dấy binh khởi nghĩa (40-43 SCN). Cuộc khởi nghĩa này lan rộng, nhân dân bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố hưởng ứng và hết lòng ủng hộ..., nên rất nhanh chóng đập tan bộ máy thống trị của đế chế Hán ở phương Nam.

Theo thần tích ở đền Hát Môn (nay là xã Hát Môn huyện Phúc Thọ, Hà Nội) và thần phả các làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà thì Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống Hát Giang, hoá thân vào cõi vĩnh hằng, hôm đó nhằm ngày mùng 6 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43 SCN). Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo không chỉ lan tỏa từ Mê Linh ra một vùng không gian văn hoá xã hội rộng lớn mà còn là: "... kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, khi công khai của nhân dân Việt Nam. Đây là một phong trào nổi dậy của toàn dân vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ. Khởi nghĩa đã thắng lợi vì đó là một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi chứ không phải là một hành động tự phát của một tù trưởng, một bộ lạc riêng lẻ"(1).

Sau khi Hai Bà mất, bên cạnh chính sử viết về cuộc khởi nghĩa còn có rất nhiều truyền thuyết dân gian về Hai Bà và các bộ tướng của Bà. Mà thể loại truyền thuyết vốn là "một câu chuyện nói đi nói lại mà không được ghi trong sử sách, nó thường mang nhiều yếu tố thần kỳ"(2). Ngay trong chính sử, Sử gia Ngô Sỹ Liên khi viết về Hai Bà cũng mang những yếu tố này: "Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả Bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?"(3).

Thật khó phân biệt giữa truyền thuyết và lịch sử về các nhân vật tham gia khởi nghĩa, về từng trận đánh... khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lãnh đạo đã lùi xa gần 2000 năm. Cả chính sử nước ta lẫn Trung Quốc đều ít ghi chép về các bộ tướng của Hai Bà mà trong đó phần nhiều là nữ tướng. Cuộc khởi nghĩa này không chỉ đơn thuần là một cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, sự đối kháng của tầng lớp bị trị với tầng lớp thống trị, mà còn sâu sa hơn, đó là sự xung đột giữa hai hệ thống xã hội và văn hóa. Nó có sự khác biệt từ căn bản, đó là sự xung đột giữa tầng lớp thống trị - phụ quyền gia trưởng và tầng lớp bị trị - cộng đồng mẫu hệ và cũng chính đều này giải thích cho chúng ta biết tại sao cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo lại được quần chúng nhân dân bốn quận hưởng ứng nồng nhiệt đến thế, đặc biệt là phụ nữ tham gia với số lượng đông đảo nhất. Theo nhiều nguồn tài liệu(4), thì Hai Bà có đến hơn bảy chục tướng lĩnh mà danh đã Hán hóa, trong đó có nhiều thủ lĩnh - nữ tướng các nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ ở miền Bắc như Thánh Thiên công chúa; Lê Chân, Bát Nam Đại tướng Trinh Thục công chúa, Phương Dung công chúa....

Qua khảo sát một số bản thần tích của Hà Tây (cũ) thì các truyền thuyết về các nữ tướng có nét tương đồng đó là lai lịch các nữ tướng vốn thường thuộc dòng dõi trâm anh, có sắc đẹp "chim sa cá lặn" và Ni sư Phương Dung(5) cũng không ngoại lệ, bà "thuộc dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu", "mặt hoa da phấn, mày cong tựa vầng trăng khuyết, dáng vẻ yểu điệu thướt tha không ai sánh bằng...".

Truyền thuyết vốn là "một câu chuyện nói đi nói lại" nên việc mở rộng các sự kiện đã được các nghệ sỹ dân gian tô điểm, và phần nhiều các truyền thuyết về các vị tướng của Hai Bà Trưng cũng theo ý này, có nghĩa là hợp với từng địa phương. Nhưng với bản Thần tích Yên Phú tự thì rõ ràng trong thần tích, ta thấy có một sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa - tục thờ Thủy thần hay Sơn thần. Tục thời này xuất hiện từ rất lâu với người Việt cổ, nó khác với quan niệm Thổ địa mang tính chất Trung Quốc chỉ người bảo trợ thiêng liêng cho một vùng đất. Trong Thiền uyển tập anh cũng có sự thỏa hiệp, hỗn dung này. Đại sư Khuông Việt (933 - 1011): "... một lần đến chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm tới nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm cây thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ sa môn thiên vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho người biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng sư vào núi thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trái lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ..."(6). Vậy ở đây có phải là Đại sư Khuông Việt muốn dựng chùa trên núi mà vẫn phải lập đền thờ thần núi! Thiền sư lập đền thờ bên hữu chùa Kiến Sơ, mà truyền nói rằng "để làm nơi tụng niệm? để cho yên tĩnh". Đó phải chăng là bằng chứng tôn trọng tín ngưỡng cũ, thần làm người bảo vệ đất chùa hay làm chủ đất Phật...

Thần tích vốn là việc nói đến cõi thiêng liêng do các nhà Nho chép lai lịch về thần thì ít nhiều còn dè dặt về những điều nghi hoặc, nhưng những nội dung Thần tích Yên Phú tự là bằng chứng của sự hỗn dung giữa Phật giáo sơ khai với tín ngưỡng đa thần giáo của người Việt cổ, mà ở đây là tín ngưỡng Thủy thần. Sau đây là toàn bộ bản Thần tích chùa Yên Phú, do Thạc sỹ Hoàng Thị Thu Hường, Nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu Tôn giáo phiên âm và dịch nghĩa:

Dịch nghĩa

Thần phả chép về:

Một vị âm thần Thái hậu, hai vị dương thần Đại vương triều Trưng Nữ vương.

Chính bản Bộ Lễ, quốc triều, thượng đẳng, thuộc Bắc Bộ.

Xưa trời Nam mở vận, núi sông thẳng hướng sao Dực, sao Chẩn; phương Bắc mới phong, phân dã thẳng hướng sao Đẩu, sao Ngưu. Triều Hùng vương, từ Kinh Dương vương nối nghiệp vua cha, phong nối dõi làm đế vương nước Việt. Hoan Châu thắng địa, đóng làm kinh đô; trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, sửa sang miếu điện. Truyền nước đời sau cho Lạc Long Quân, vợ là tiên nữ Động Đình. Sống trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, nơi này có mây lành ngũ sắc tỏa ánh sáng soi. Âu Cơ mang thai, sinh ra bọc trứng, nở ra trăm người con trai. Đó đều là những chàng trai khôi ngô tuấn tú, đức độ hơn người. Đến tuổi trưởng thành, vua phong cho tước hầu, cắt cử cai trị 15 bộ trong nước.

Đầu tiên Long Quân gọi Âu Cơ lại nói: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, tuy khí ngũ hành hòa hợp mà sinh được con cái nhưng Thủy, Hỏa vốn hai giống khắc nhau, không thể ở cùng một nơi nên phải chia ra”. Bèn chia 50 con theo cha xuống biển là Thủy Thần, cai quản nguồn sông, góc biển; 50 con theo mẹ về núi làm Sơn Thần, cai quản các ngọn núi và ruộng đồng. Trong thời gian đó nếu ai có chuyện xảy ra thì các anh em cùng nhau đến giúp đỡ, không để diệt vong. Nhà Hùng kể từ đó khắp núi sông đều có thần. Các thần có thể đầu thai làm con cái các gia đình phàm trần để giúp đỡ cho đất nước, nhà nào có phúc tất sẽ được hưởng.

Lại nói: cuối thời Hùng Vương thứ 18, ý trời đã định, lúc đó vào thời Đông Hán, ở làng Lưu Hàm, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam Hạ có Trương Công Điều (tên húy là Điều) là người được kế thừa tập ấm, lấy vợ là Phùng Thị, tên húy là Huệ, vốn là người cùng quận, dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu, cũng là chỗ môn đăng hậu đối. (Ông bà) đã sinh mấy người con trai, sau này sinh thêm con gái đặt tên là Phương Dung. Nàng có sắc đẹp “chim sa cá lặn”, mặt hoa da phấn, mày cong tựa vầng trăng khuyết, dáng vẻ yểu điệu thướt tha không ai sánh bằng. Năm vừa tròn 16 tuổi, duyên lành chưa định, nguyện không lấy chồng, một lòng mộ theo đạo Phật. Một ngày nọ (nàng) đến huyện Thanh Trì (xưa gọi là Thanh Đàm), châu Thường Tín, thành Thăng Long (tên xưa là phủ Phụng Thiên), khi đến đầu làng Yên Phú thấy một ngôi chùa, ngoảnh trông bốn bề thấy phóng khoáng đẹp đẽ, cảnh vật như thắng cảnh nơi nào, bèn đặt tên là Thanh Vân cổ tự và nguyện ở lại nơi đây sớm khuya hương khói. Ở đó vừa tròn một năm, ngày nọ, bà đến bến sông Kim Ngưu tắm, lúc này mặt trời chưa đứng bóng, ngước mắt nhìn lên thì thấy một đám mây lành sà xuống cuốn lấy thân thể. Kinh hãi bà chạy về chùa, đêm hôm đó nằm mộng thấy một tướng quân mặc áo gấm, đeo ngọc châu, thân thể kỳ dị từ dưới nước đi lên, tự xưng là quan Thủy thần và nói với bà rằng: “Nhà ngươi đức dày, trời đã soi tỏ, lệnh cho hai vị Thủy thần đầu thai xuống làm con nên chớ có lo lắng về điều đó”. Nói rồi vị thần lên thuyền rồng, bay trên không mà biến mất, tỉnh lại chỉ cho là một giấc mộng kỳ lạ. Ngày hôm sau, trong khi đi qua miếu, thấy trước miếu có hai quả trứng rất lớn, bèn mang về chùa, bỗng từ hai trứng phát ra tiếng vang như sấm dậy (đó là ngày 22 tháng 4 năm Quý Tỵ), trứng tách vỏ và xuất hiện hai vị đầu người, mình rắn, tướng mạo kỳ lạ, thiên tư to lớn, biết đó là Thủy thần xuất thế. Các cụ phụ lão và dân làng Yên Phú nghe về sự việc kỳ lạ ấy thì cùng nhau kéo đến chùa. Hai vị thần liền nói với các phụ lão rằng: “Anh em chúng ta vốn là Thủy thần mà các ông thờ phụng lâu nay, một người tên là Trung Vũ, một người tên là Đài Liệu. Nay phụng mệnh Thiên đình giáng sinh để giúp đỡ cho đất nước”. Các vị phụ lão và nhân dân đều tỏ ra cung kính hành lễ và tấu lên rằng:

- “Làng chúng tôi quả là có thờ các vị Thủy thần có tên như vậy!”

Bèn hành lễ bái tạ và xin nhận làm bề tôi. Thế là hai ông được Thái bà(7) nuôi dưỡng, khi các ông lên bảy tuổi, thiên tư càng tỏ rõ, học lực tinh thông, đọc Binh thư mà trưởng thành về võ lược. Thời gian đó trời hành hạn hán, cây cối đều chết khô, lập tức hai ông truyền dân làng lập đàn để cầu âm dương trời đất. Vừa cầu được một lúc, bỗng thấy trời đất u ám, giữa ban ngày mà tựa như đêm, mưa to gió lớn nổi lên khắp cả một vùng rộng, ruộng đồng đầy nước, năm đó được mùa lớn. Từ đó nhân dân đều yên ổn làm ăn, dùng đức để phục vụ hai ông. Thời đó, Tô Định đem binh xâm chiếm trung nguyên, họ Triệu tan thương không người cứu giúp. Khi đó có người cháu gái họ Hùng trước đây tên là Trắc, vốn bậc nữ trung hào kiệt, với vẻ oai hùng của bậc đại thánh thần đã dấy binh khởi nghĩa. Đương thời, nam nhi tài thao lược không có nên người con gái đó đứng đầu làm tướng. Trưng Nữ nổi chuông linh mật báo tới thánh núi Tản Viên, họp hội đồng các thần tại cửa sông Hát Môn (tức vùng Sơn Tây), lập đàn tế, tấu lên thần linh. Lời khấn rằng:

“Trời sinh ra một người, đó chính là dòng dõi của vạn vật trời đất, làm chủ mối quan hệ của các sinh linh và cỏ cây muôn loài. Thiên tử, đế vương của các triều đại trước đều là những bậc thánh minh, triều đình có đạo, yêu nước, thương dân, đức hóa rộng khắp, thiên hạ thanh bình, nước nhà yên ổn. Nay có phường dê chó họ Tô, tên Định thường ngông nghênh làm loạn, thi hành chính trị hà khắc, muôn dân điêu đứng, thiên địa thần nhân(8) đều oán giận. Thiếp dùng thân phận người cháu gái của Hùng Vương xưa để tỏ bày cùng muôn vật. Ngày nay, trời cao rơi lệ, nhân dân đau lòng, có bậc trượng nghĩa trừ tàn, nguyện mong thần linh tề tựu về đàn để chứng giám lời thề và thêm sức che chở. Thiếp Trưng Nữ xin thề dấy binh dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Thiếp (thề) khôi phục lại vật xưa tổ tông, đưa muôn dân thoát khỏi vòng lửa nước bước lên nệm lên chiếu, ngõ hầu không trái lại sự mong chờ của trời cao, thỏa sự linh thiêng của tông miếu tiên hoàng, an ủi tổ tiên cha mẹ ở nơi chín suối”.

Khấn xong hô xuất âm binh nghìn hàng vạn đội, lại truyền hịch khắp thần dân tại các châu, huyện, đạo ở Nam bang, nơi nào có người anh minh tài trí hơn người thì lập tức trong ngày đến tòng quân để hỏi tội kẻ nghịch tặc. Thế là mẹ con bà Phương Dung đồng tâm đứng lên trợ giúp nước nhà. Vừa nghe nữ tướng chiêu binh khắp chốn, Vũ thần lập tức trong ngày đứng lên triệu tập được mấy ngàn người trong làng, tập trung dưới trướng được 25 trai tráng khỏe mạnh ở làng Yên Phú. Trong ngày, Thái bà cùng hai ông cử binh lên đường, cờ rong, trống mở âm vang đến ngàn dặm núi cao. Một ngày đã đến nơi đóng quân của Trưng Nữ vương. (Trưng vương) vừa trông thấy hai ông văn võ toàn tài, toát lên vẻ thần lực bèn nói:

- Người trời giáng sinh nơi trần thế ắt chẳng phải kẻ tầm thường!

Bèn cho hai ông làm tướng chỉ huy hai bên tả hữu, phong mẹ nuôi là Phương Dung công chúa. Từ đó mẹ con được hưởng ân mưa móc thánh hoàng, được phụng thờ hương hỏa, đó âu cũng là duyên số. Trong ngày lại lệnh cho binh sĩ cùng nhân dân trong làng tu sửa ngôi miếu là nơi mà hai ông từng sinh sống. Hai ông ứng khẩu thành thơ rằng:

“Từ xưa đế vương ướm lòng dân,

Theo thần thì phải định tinh thần.

Trước truyền chưa từng phân Chân, Ảo

Nhớ về tên núi Phật tức Chân”

Rồi một ngày nọ thiết yến mời các phụ lão và nhân dân đến dự, hai ông nói với các phụ lão và gia thần rằng: “Anh em chúng tôi theo lệnh hiển hiện thành hai vị thần mà dân làng thờ phụng từ trước, chúng tôi có mẹ nuôi là Thái bà, nay để lại 10 thoi vàng, nếu ngày sau có chuyện gì xảy ra thì mong các ngài hãy phối thờ cả ba mẹ con chúng tôi”. Các cụ phụ lão nghe vậy đều theo lệnh mà vái lạy. Thế là cùng phụng dưỡng Thái bà và để lại 10 thoi vàng dùng cho việc cúng tế vào ngày sau. Ngày hôm sau có sứ giả mang chiếu thư đến yêu cầu mẹ con ngay trong ngày dấy binh hỏi tội Định. Trong một ngày, quân đội của hai ông cùng Trưng Nữ thẳng tiến đến doanh trại của Tô Định, chia thành 5 đạo cùng lúc tiến đánh. Quân Định bỏ chạy toán loạn, ta bắt được đại tướng giặc, thu phục được 65 thành về Nam bang, Trưng Nữ lên ngôi vua. Đương trung tuần mùa hạ năm đó, ngày 18 tháng 5, có sứ giả đến tuyên chiếu rằng đã dẹp yên giặc Tô Định, mời hai ông về triều để nhà vua mở tiệc mừng phong chức cho các tướng sĩ, ban cho mẹ con họ được trở về hưởng ấp Thanh Trì(9). Thế là bái lạy tạ ơn và quay về nhiệm sở, hai ông cùng mẹ lên thuyền rồng trở về đến giữa sông Kim Ngưu thì thấy một đám mây vàng như dải lụa xà thẳng xuống thuyền rồng. Thấy vậy ba mẹ con vô cùng kinh hãi, chạy lên đứng ở bãi đất đầu sông bên làng Yên Phú, bỗng chốc thấy trời đất tối xầm, mưa to gió lớn nổi lên, rồi thấy Thái bà mình mặc áo gấm, ngồi trên kiệu hoa cưỡi mây mà đi, rồi hai ông tự bay lên lao xuống lòng sông mất hút, lúc đó vào ngày mùng 7 tháng 11. Trong khoảnh khắc, sóng nước vụt cao, giao long, xà giải(10) cùng sắp hàng dẫn lối. Quân sĩ và nhân dân đều vô cùng kinh hãi bèn làm biểu tấu lên triều đình, nữ vương sai quân đến nơi hành lễ tế và truyền rằng đây là nơi đất tốt, đặt tên là xứ Đồng Lăng, chuẩn cho phù hộ làng Yên Phú và được nhân dân ở đây thờ phụng.

Đến năm Thiên Phúc thời vua Lê Đại Hành, khi thống kê về các thần thấy (các vị trên) hiển linh bèn phong tặng một vị là Hoàng thái hậu Tuệ Tĩnh phu nhân, hai vị là Bản cảnh Thành hoàng Linh phù chi thần. Khi hành lễ cấm dùng các trang phục màu đỏ, vàng và trắng.

Một phong Thánh mẫu Phương Dung Trinh thục Chí đức Đoan trang Cẩn tiết Hoàng thái hậu.

Một phong Trung Vũ Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Dực thánh Bảo cảnh Hiểu hữu Trợ thuận Linh ứng đại vương

Một phong Đài Liệu Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Dực bảo cảnh Hiểu hữu Trợ thuận Linh ứng đại vương.

Lại nói: từ đó về sau các thần có nhiều lần hiển ứng rõ ràng trong khoảng 314 năm vào các thời thuộc Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Đến Nam bang ta, 4 dòng họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở cơ đồ, qua các thời đại thường thần thông biến hóa, hiển hữu anh linh, che chở cho đất nước, sắc ban cho làng Yên Phú sửa sang miếu điện để thờ phụng, hãy kính cẩn tuân theo!

Kê ra ngày sinh, ngày hóa, các khoản lễ bàn; các chữ húy cấm dùng là Phương Dung, Trung Vũ, Đài Liệu.

Chuẩn cho làng Yên Phú thờ phụng

- Ngày sinh các thần: 22 tháng 4. Lễ chính, mâm trên dùng lễ chay, mâu dưới dùng lợn đen, xôi, rượu, bánh dày; ca hát.

- Ngày hóa các thần: 07 tháng 11. Lễ chính như trên; cấm ca hát

- Khánh hạ, cầu phúc: 18 tháng 5. Lễ chính như trên, ca hát.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất [1572], ngày tốt, tháng Giêng, Đông các Đại học sĩ Hàn lâm viện, thần Nguyễn Bính vâng mệnh soạn thảo.

Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 6 [1740], ngày tốt, tháng 8, Nội các Bộ Lại vâng mệnh sao y bản chính.

Hoàng triều Thành Thái, năm thứ 17 [1905], ngày tốt, tháng 4, đạo sĩ trong xã kính cẩn sao y bản chính./.

 

Phạm Thị Lan Anh, Nguyễn Văn Quý

Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hà Nội

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.26-36.

 

Chú thích:

(1) Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb. KHXH, H. 1971.

(2) Hán Việt từ điển, Thiều Chửu, Nxb. TP. HCM, 2000.

(3) Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH.

(4) Trong sách Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội, theo ông Nguyễn Vinh Phúc thì ở Hà Tây (cũ) và Hà Nội đã có trên 50 điểm làng, xã mang dấu vết của 67 vị tướng lĩnh của Hai Bà.

(5) Yên Phú tự, Đông các Đại học sỹ Hàn lâm viện, thần Nguyễn Bính vâng mệnh soạn, niên hiệu Hồng Đức thứ 1 (1572); Nội các Bộ Lại vâng mệnh sao y bản chính, Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 6 (1740); Đạo sỹ trong xã kính cẩn sao y bản chính, Hoàng triều Thành Thái 17 (1905). Hiện cuốn thần tích này còn lưu giữ tại chùa Yên Phú, thôn Yên Phú xã Liên Ninh huyện Thanh Trì, Hà Nội.

(6) Đại sư Khuông Việt: Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Lê Mạnh Thát, Nxb. Tp. HCM, tr.180.

(7) Thái bà: tức bà Phương Dung.

(8) Thiên địa thần nhân: chỉ Trời, Đất, Thần linh và con người.

(9) Câu này có nghĩa là mẹ con bà Phương Dung được hưởng những lợi tức ở ấp Thanh Trì.

(10) Giao long, xà giải: những thủy quái dưới nước thường được ví là binh lính của các vị thủy thần./.

Biên soạn tự điển theo môn loại giải nghĩa chữ Hán bằng chữ Nôm là một lĩnh vực đạt nhiều thành tựu của ngữ văn Việt Nam truyền thống, nhất là vào giai đoạn những thập niên cuối thế kỷ XIX. Trong đó có Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca嗣德聖製字學解義歌(Diễn ca giải nghĩa cho việc học chữ Hán do vua Tự Đức sáng suốt làm ra - TĐTCTHGNC) của vua Tự Đức. Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca từ tên gọi, kết cấu nội tại theo môn loại và tính thánh chế trong sự ban hành, phổ biến quả là như là một bách khoa thư Hán học song ngữ Hán Nôm. Qua bộ từ điển này chúng ta có thể thấy những tri thức Hán học theo định hướng chính thống, nhà nước do chính vua Tự Đức chế cho thần dân của ông cũng như con đường phổ biến những tri thức ấy qua tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm.

20220206 6

1. Giới thiệu tổng quát về bộ sách Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca

Vua Tự Đức (1829-1883) tên là Nguyễn Phúc Thì, làm vua từ năm 1848 đến 1883. Ông luôn đề cao Nho học, nên đã đem các sách nho học và hướng dẫn chính học nho giáo như Luận ngữ và Huấn địch thập điều ra diễn Nôm, theo văn vần để hy vọng có thể mang đạo lý thánh hiền đến với dân qua truyền khẩu thơ ca. TĐTCTHGNC cũng là bộ sách học chữ Hán nhằm truyền tải đạo đức thánh hiền, tri thức mang tính chất tam tài cho dân chúng đã được ông biên soạn trong hoàn cảnh và tinh thần như thế.

Bộ sách này khá đồ sộ gồm 13 quyển, sách in ván gỗ, giấy bản, gồm 295 tờ, mỗi tờ 2 mặt thành 590 trang, khổ 26x15cm. Đơn vị chữ Hán được mang ra diễn ca là tự (từ) tới 9.028 mục. Một mục tự (từ) thường bao gồm thứ tự như sau: mục tự (từ) chữ Hán - chữ Nôm - chú thích (nếu có). Chữ Hán được viết to, chính giữa dòng. Chữ Nôm diễn nghĩa cho chữ Hán được viết nhỏ bằng nửa chữ Hán về kích cỡ. (Do vậy trong bản viết này, mục từ chữ Hán được chúng tôi viết bằng chữ in).

Dưới cùng là phần giải nghĩa cho chữ Hán đó bằng Hán văn. Âm đọc của chữ Hán có thể được ghi bằng chữ Hán theo lối phiên thiết hay sử dụng đồng âm. Mục tự (từ) chữ Hán nối với phần diễn nghĩa bằng chữ Nôm được diễn theo thơ lục bát với tổng số là 4.572 câu.

Nếu so sánh về dung lượng mục tự (từ) so với các bộ tự điển song ngữ Hán Nôm khác thì TĐTCTHGNC là bộ sách có dung lượng đồ sộ nhất. Nó được vua Tự Đức tự mình thực hiện nhưng chưa được tổ chức khắc in khi ông còn sống. Đến năm Thành Thái thứ 8 (1896), Phủ Phụ chính mới giao cho Quốc sử quán kiểm chính lại. Năm sau (Thành Thái thứ 9, 1897), Tu Thư cục của Quốc sử quán tổ chức khắc ván cho in. Bản in này hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm mang số hiệu VHv.626/1-4 và một số số hiệu khác.

Toàn bộ vốn chữ của 9032 mục tự (từ) trong TĐTCTHGNC được chia thành 7 môn loại, phân bố trong các quyển như sau:

1. Kham dư loại (thượng, hạ): quyển 1 - 2, gồm 1379 mục tự (từ)

2. Nhân sự loại (thượng, trung, hạ): quyển 3 - 5, gồm 2162 mục tự

3. Chính hóa loại (thượng, hạ): quyển 6 - 7, gồm 1587 mục tự

4. Khí dụng loại (thượng, hạ): quyển 8 - 9, gồm 1474 mục tự

5. Thảo mộc loại (thượng, hạ): quyển 10-11, gồm 1114 mục tự

6. Cầm thú loại: quyển 12, gồm 770 mục tự

7. Trùng ngư loại:quyển 13 gồm 546 mục tự

Nếu so sánh với những bộ tự điển song ngữ Hán Nôm biên soạn theo môn loại thì số lượng môn loại ở đây rút gọn hơn. Ở các bộ từ điển song ngữ Hán Nôm theo chủ đề khác, số môn loại thường nhiều hơn.

Chẳng hạn, 指南玉音解義Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, bộ từ điển Hán Nôm sớm nhất có 40 môn loại cả thảy (1. Thiên văn / Phong vũ loại/ Vân vụ loại/ Tinh thần loại; 2. Địa lý bộ; 3. Nhân luân bộ; 4. Thân thể bộ; 5. Tạng phủ bộ; 6. Thực bộ;7. Ẩm bộ; 8. Bính bộ; 9. Y quan; 10. Cẩm tú bộ; 11. Cung thất bộ; 12. Chu xa bộ;13. Nông canh loại; 14. Hoà cốc bộ; 15. Tàm thất; 16. Chức nhiễm; 17. Chú dã bộ; 18. Mộc công bộ; 19. Kim ngọc bộ; 20. Tản võng loại; 21. Khí dụng loại; 22. Văn tự bộ; 23. Hôn nhân bộ; 24. Báo hiếu tế khí; 25. Tang lễ bộ; 26. Nhạc khí bộ; 27. Công khí bộ;28. Binh khí bộ; 29. Pháp khí bộ; 30. Tạp khí bộ; 31. Vũ trùng loại; 32. Mao trùng loại; 33. Lân trùng loại; 34. Giáp trùng loại; 35. Mộc loại; 36. Hoa loại; 37. Quả loại; 38. Căn đằng loại; 39. Bì đằng loại; 40. Nam dược loại).

Tương tự như vậy, các sách khác cũng chia nhiều môn loại hơn như 日用常談Nhật dụng thường đàm do Phạm Đình Hổ soạn vào khoảng nửa đầu thế kỉ XIX có 32 môn loại; 大南國語 Đại Nam quốc ngữ do Hải Châu tử Nguyễn Văn San, Văn Sơn đường tàng bản, Thành Thái Kỷ Hợi (1899) có 50 môn loại; hay 南方名物備攷Nam phương danh vật bị khảo do Đặng Xuân Bảng soạn, Thiện Đình tàng bản, Thành Thái Nhâm Dần (1902), gồm 30 môn loại.

Đa phần các bộ sách học chữ Hán dạng tự điển song ngữ Hán Nôm đều là những bộ sách biên soạn theo môn loại, phản ánh nội dung học vấn theo quan điểm tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đang ngự trị trong học giới đương thời. Sự khác biệt về số lượng môn loại trên đây phản ánh mức độ phân loại chi ly, chi tiết hóa mang tính bài học cho từng bộ sách. Càng nhiều môn loại thì càng chi ly, chi tiết, tính bài giảng, bài học càng cao. Còn trong trường hợp ngược lại, số môn loại ít thì mức độ tổng hợp bao quát cao hơn. TĐTCTHGNC trình bày số môn loại ít hơn các bộ sách khác chỉ thể hiện sự khác biệt trong quan điểm và cách làm của chính vua Tự Đức so với các tác giả khác đối với việc chi ly, chi tiết hóa cái học tam tài mà thôi.

Dưới đây chúng tôi sẽ đề cập đến từng môn loại cụ thể. Trong mọi ví dụ minh họa dưới đây, mục tự chữ Hán sẽ được trình bày bằng chữ in. Còn phần giải nghĩa tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm phiên ra quốc ngữ in nghiêng.

2. Môn loại và chủ đề vốn từ của môn loại

2.1. Môn loại KHAM DƯ (堪輿類KHAM DƯ LOẠI)

“Kham” theo thuật ngữ của phong thủy là chỗ cao; “dư” là chỗ thấp. Theo sách Hoài Nam tử, “Kham tức là đạo trời, dư là đạo của đất. 堪天道也輿地道也kham thiên đạo dãdư địa đạo dã). Kham dư loại là môn loại bao gồm những sự trỏ về trời đất nói chung với 1379 đơn vị mục tự. Mở đầu là những chữ nói về đặc tính chung của trời đất.

“THIÊN trời ĐỊA đất VỊ ngôi. PHÚ che TÁI chở LƯU trôi MÃN đầy. CAO cao BÁC rộng HẬU dày. THẦN mai MỘ tối CHUYỂN xoay DI dời”.

Từ sự bao quát chung về trời đất như thế, tiếp theo là sự cụ thể hoá về những sự vật, hiện tượng như: NGUYỆT, NHẬT, ÂM, DƯƠNG, PHONG, VŨ, VÂN, TUYẾT, SƯƠNG, LÔI…. Các phạm trù thời gian, không gian (TUẾ, CAN, CHI; XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG; ĐÔNG, TÂY, NAM, BẮC; các sự vật cụ thể có trên mặt đất: SA, LỊCH, NÊ,… KHÂU, TRẠCH, TUYỀN, KHÊ, SƠN, XUYÊN…

Các địa danh sơn xuyên thành quách cụ thể và đặc trưng của chúng có quá nhiều không thể liệt kê hết được.

Các sự vật, hiện tượng này lại mang trong mình những đặc tính, hay biểu hiện của mình. Những đặc tính đó rất chi ly, cụ thể, mang đặc trưng phân tích tính cao. Chẳng hạn: PHONG là gió nhưng lại có rất nhiều biểu hiện cụ thể của gió cũng như các đặc tính phân tích hay đặc trưng chi tiết chi ly của những biểu hiện cụ thể đó như sau: “VŨ mưa, PHONG gió, TINH sao, LỘ mù… PHIÊU PHIÊU gió thổi, LƯU LƯU gió hòa…THUYÊN gió động, ÂM mây che… CHIÊM là gió thổi sóng dồi… CỤ là gió bão khắp vòng bốn phương…SIÊU gió lạnh, HÁCH gió nồng…QUÁT gió dữ, SẦM mưa dầm… TIÊU gió bắc, SẮT gió thu. PHI PHI phơi phới, SƯU SƯU ào ào. ÔI gió thấp, ẢNH gió cao. BỒNG gió dậy, ĐỀ mưa tan…LY trời gió bụi tối ngày. YẾN trời trong sáng, Ế trời gió mây. LIỆT gió dữ, TƯ mưa bay….CHÚ mưa thuận, HIỆP gió đều. TÚC là gió lớn tiếng kêu ù ù. HỒNG tiếng gió, PHÂN khí mù. THÊ THÊ mưa gió hơi thu lạnh lùng… HOÀNH gió mạnh, TỪ mưa giong. NỖI gió lất, PHIÊU gió bay. VĨ VĨ gió bão rạp cây ầm ầm. LƯƠNG gió bắc, KHẢI gió nam…

Có thể nói, quyển 1 của môn loại KHAM DƯ là sự bao quát về trời đất và nhiều đặc tính cụ thể của trời đất cũng như các sự vật, hiện tượng tự nhiên có trong khoảng trời đất. Quyển 2 của KHAM DƯ chủ yếu nói về các địa danh nhưng các địa danh này chủ yếu ở Trung Quốc, gắn liền với các sách cổ, các sự kiện lịch sử xa xưa.

2.2. Môn loại NHÂN SỰ (人事類NHÂN SỰ LOẠI)

Nhân sự (việc người) là môn loại có mục tự lớn nhất (2162 mục), bố trí thành 3 quyển thành 3 tên gọi xác định: Nhân sự loại thượng, Nhân sự loại trung, Nhân sự loại hạ. Mở đầu mỗi loại nhân sự là sự bao quát về con người như sau: “PHỤ cha MẪU mẹ SẢN sinh. PHU da PHÁT tóc THÂN mình KIÊN vai”

Câu mở đầu về con người như thế đã gợi lên cho ta thấy đây là một sự diễn nghĩa theo sách Hiếu kinh (Thân thể phát phu. Thụ chi phụ mẫu. Bất cảm huỷ thương. Hiếu chi đại dã - Thân thể tóc da. Nhận từ cha mẹ. Chẳng dám hủy thương. Đấy điều hiếu lớn).

Nhân sự loại thượng (quyển 3) là một danh mục chứa những mục tự trỏ về giải phẫu sinh lý con người bằng Hán văn kèm lời dịch nghĩa như sau: “ĐẦU đầu, TỊ mũi, NHĨ tai. NGẠCH trán, MỤC mắt, ĐỒNG ngươi, MI mày. XỈ răng, THIỆT lưỡi, THẦN môi. BỐI lưng, DIỆN mặt, YÊM tai, TÌNH tròng. NÃO óc, HUYẾT máu, MAO long. YÊU lưng, DỊCH nách, DƯƠNG trong trang mày. TÚC chân, KHOANG bụng, THỦ tay. KHẨU miệng, CẢNH cổ, MÂU ngươi, THỦ đầu. THÙY tai rủ, LỤC mắt sâu. CỐT xương, NHỤC thịt, TU râu, HÀM cằm.

Nhân sự loại trung (quyển 4) lại là danh mục về các hoạt động cơ bản của con người như: nói năng, suy nghĩ, nhiều hoạt động mang tính bản năng của con người. Các hoạt động ấy được diễn tả và biểu hiện cụ thể đến mức chi ly, chi tiết. Chẳng hạn, trở về “nói” có đến hàng trăm từ diễn đạt hành động “nói” và các sắc thái nói năng: “CHIÊM nhìn, THUYẾT nói, THAI cười. BIỂN lời nói khéo, NGẠN lời nói quê. LŨY nói đón, BỘC nói che. DỰ khen, THÍ ví, SAN chê, ĐÀM bàn. TRỌNG nói khích, HU nói càn. KHÁ trách, MẠ mắng, TÁ than, ĐÊ . MIẾN nói dỗ, TẤN nói lừa. DU dua trước mặt; DUYỆT ưa trong lòng. MỴ nói dối, THIỀM nói không. TỐ kêu oan uổng, ÁI cùng âm tư. KHÔI diễu cợt, TÚY gièm chê. BIỆT lời nói lý phân chia rõ ràng…

Các động tác biểu thị các hoạt động cảm xúc vốn có của con người cũng có đến vài chục cách nói, thể hiện ở mức độ chi ly, chi tiết: “AI thương, TẮNG ghét, ÁI ưng. ƯU lo, CỤ sợ, HÂN mừng, CẤM ham. THÔI lo, NỘ giận, MÂU tham. HAO hờn, BẠO nhớ, HIỆU lầm, DU lo. ĐỘT TỐT là dáng thẹn thùng. ĐỊNH HUỲNH buồn giận, BIỆT PHU vội vàng

Nhân sự loại hạ (quyển 5) lại chứa đựng những mục từ diễn tả các danh từ trỏ tên gọi những người có khả năng biết các hoạt động chế tác mang tính tài năng khéo léo, được hình thành trong quá trình lao động của con người, các động tác của con người và những danh từ chỉ các quan hệ xã hội của con người. Nhờ tham gia quá trình lao động nên con người biết cải tạo tự nhiên, biết biến những vật còn thô sơ của tự nhiên thành đồ dùng tinh xảo, biết tổ chức, tạo nên một xã hội có tôn ty, trật tự, thoát cảnh bầy đàn, quần hôn nguyên thủy. Sống trong xã hội nên con người có chức vụ, địa vị, phẩm chất. Con người lại biết đến bệnh tật và khắc phục bệnh tật. Đó quả là những gì mang đặc trưng cho phẩm chất tính cách của con người trong các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, chẳng hạn:“TÚC thợ ngọc, HUỲNH thiếp vàng. MA mài, TRÁC chạm,VIÊN mang, BẢ cầm. SOẠN tắm ngựa, NGHĨ dời tằm. DUNG là người mướn, CỐ làm việc thuê. VÃN là dắt ở trước xe. LAO mò dưới nước, phu bè đưa qua. TẠM khắc đá, KIỆT thuộc da. TRUY là đẽo ngọc, SỐT là tôi dao”… “DUỆ dòng, TÍNH họ, TRÙ loài. NAM trai, NỮ gái, NHÂN người, NGÃ ta. TỔ tổ, BÁ bác, KHẢO cha. Tỉ mẹ, THÚC chú, BÀ bà, ÔNG ông. HUYNH anh, THÊ vợ, PHU chồng. TRỤC LÝ là bạn dâu cùng gọi nhau. NGHIỆT con thứ, ĐÍCH con đầu. ĐỆ em, TỶ chị, THIẾP hầu, TỨC dâu. TRĨ con trẻ, THỦ con so. MỤ mẹ, THẨM thím, CÔ cô, DÌ dì”.

2.3. Môn loại CHÍNH HÓA (政化類CHÍNH HÓA LOẠI)

Chính hóa là môn loại gồm 1587 đơn vị mục tự, như là một danh mục hệ thống hoá các vấn đề của chính trị giáo hoá theo tinh thần nho học. Môn loại Chính hoá có các nội dung chủ yếu như sau: Những vị thánh nhân theo như huyền thoại như Chuyên Húc, Phục Hy. Các sự kiện về văn hóa nhận thức buổi sơ khai có tính chất thần bí như số đếm, Hà đồ, Lạc thư, Bát quái, Thương Hiệt tạo nên chữ viết. Các việc chế tác lịch số, luật lệ, văn tự, thư khế, dùng thuốc chữa bệnh, vấn đề viết chữ, các thể chữ. Các loại văn bản viết và thuật ngữ về viết, thể văn, Thi, Thư. Các vấn đề về văn hóa tổ chức chính quyền (các vua thời Nhị đế, Tam vương: Đế Cốc, vua Nghiêu, vua Thuấn, các phẩm chất của Đế Nghiêu, Đế Thuấn (ôn, nhâm, tư, cương, kỷ, quỹ, bình, đạo, chính trung). Những sự kiện và nhân vật thời Tam Đại Hạ - Thương - Chu: Hiền quân (Vũ Thang, Văn Vương, Vũ Vương), tư tưởng cách mạng (Thành Thang cách mệnh), điếu dân phạt tội, cứu phần chửng nịch. Tôi hiền (Y Doãn, Lã Vọng). Đàn bà làm hỏng sự nghiệp của quân vương (Đát Kỷ, Bao Tự). Chế độ lễ nhạc thời Tam đại; Sự nghiệp của Khổng Tử. Văn hóa chính trị sắp xếp thứ quan. Tổ chức chính quyền các cấp. Tổ chức chế độ học hành. Chế độ thuế. Chế độ hình luật… Xin dẫn ra đây trích đoạn mở đầu môn loại làm minh họa:

“TỰ từ, TIỀN trước, VIỄN xa. ĐẾ vua, HOÀNG cả, THI ra, TRIỆU gầy. TRIẾP bèn, TRẠCH chọn, AI bày.CAN gốc, CHI nhánh, ĐIỆT thay, LŨY chồng. Y nương, DI để, HỖ thông. HẬU sau, TIÊN trước, TƯƠNG cùng, GIÁM soi. TỒN còn, CỬ cất, DUẬT noi.QUÂN vua, THÁNH thánh, THẦN tôi, HIỀN hiền. ĐẠI đời, THỊ họ, DANH tên.HIỆU hiệu, THẾ thế, QUYỀN quyền, OAI uy. HÚC vua Húc, HY vua Hy. THỤC đầu, ỨNG ứng, KỲ kỳ, ĐẢN sinh. LINH linh, ĐỐC hậu, THIỆN lành. ĐỒ đồ, THƯ sách, TRÌNH chiềng, XUẤT ra. NHẤT một, NHỊ hai, TAM ba. TỨ bốn, LỤC sáu, SỔ vài, NGŨ năm. THẬP mười, CỬU chín, BÁCH trăm. THẤT bảy, BÁT tám, ÁC cầm, THỪA nhân. GIA thêm, BỘI gấp, XÂM dần. THIÊN nghìn, VẠN vạn, XỨNG cân, ĐIỀU đều. TRÙNG trùng, QUÁI quẻ, HÀO hào. NGẪU đôi, KỲ lẻ, DIỆU mầu, HỖ ghi. KHẢM quẻ Khảm, LY quẻ Ly. CẤN là quẻ Cấn, KHOÁI chia, TỶ liền. CHẤN là quẻ Chấn, TẤN lên. TỐN quẻ Tốn, CÀN quẻ Càn, TÔN tôn. ĐOÀI quẻ Đoài, KHÔN quẻ Khôn. BIẾN biến, HÓA hóa, VIÊN tròn DUNG thông. TUY tuy, DỊ khác, ĐỒNG đồng. TÁC làm, CHẾ sửa, TINH ròng, LỰ lo. TU KHU là ngươi Tu Khu. HIỆT ngươi Thương Hiệt, SƯU cầu, HOÁN thay. LỊCH là sách lịch xem ngày. LUẬT ống hậu khí, TỀ tày, THÍCH bưa. BẢNG thiếp, TỰ chữ, KHẾ tờ…HỖ là giao hỗ, TIỄN đưa, TRÌ cầm. DƯỢC thuốc, CHÍCH cứu, CHÂM đâm”…

Như vậy, CHÍNH HÓA loại là giáo trình trình bày các mục từ hệ cổ về tổ chức chính trị, Tôn Nho sùng chính học của vua Tự Đức.

2.4. Môn loại KHÍ DỤNG (器用類KHÍ DỤNG LOẠI)

Môn loại KHÍ DỤNG gồm 1474 mục tự (từ) là danh mục sưu tập danh xưng của các đồ dùng, vật dụng như nhà cửa cung thất đền đài… Mở đầu các môn loại là mấy câu có tính bao quát cho cả môn loại như sau: “KHÍ là giống DỤNG là dùng. CƠ máy, XẢO khéo, CUNG cung, THẤT nhà. MIẾU tôn miếu, ĐIỆN đền tòa. THỰ nhà quan thự, SẢNH nhà công sảnh. ĐÀI đài, CÁC các, ĐÌNH đình. VIỆN viện, PHỦ phủ, THÀNH thành, LÂU lầu

Từ danh mục đồ vật này có thể phân loại ra các nhóm như sau:

Danh mục vật dụng, đồ dùng thuộc phạm trù nhà cửa, và liên quan tới nhà cửa. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù thuyền bè và liên quan với thuyền bè. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù nhạc khí (dụng cụ âm nhạc) và liên quan đến âm nhạc. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù xe cộ và liên quan đến xe cộ. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù cờ, quạt, tán, lọng và liên quan đến cờ, quạt, tán, lọng. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù ấn túi. Danh mục vật dụng thuộc phạm trù cung tên, binh khí và liên quan đến cung tên binh khí. Danh mục tên vật kim loại. Danh mục tên các vật dụng về ngọc và liên quan đến ngọc. Danh mục tên các loại vải lụa và liên quan đến vải lụa. Danh mục tên các loại dép, guốc và thuộc về dép, guốc. Danh mục tên các loại bàn ghế và liên quan đến bàn ghế. Danh mục các vật dụng gia đình.

2.5. Môn loại THẢO MỘC (草木類THẢO MỘC LOẠI)

Môn loại THẢO MỘC gồm 1114 mục tự (từ) nhằm liệt kê danh mục tên các loài cây cỏ cũng như các thuộc tính, công dụng của chúng. Câu mở đầu của môn loại này đã cho ta một sự khái quát chung về nó: “THỤ cây THẢO cỏ HOA hoa. CỐC trăm giống lúa ấy là tên chung”.

Từ danh mục các loài thảo mộc này có thể chia ra các nhóm loài nhỏ như: Danh mục các loại lúa và các đặc tính công năng của lúa. Danh mục các loại đậu và thuộc tính công năng của đậu. Danh mục các loại rau, dưa và thuộc tính của rau, dưa. Danh mục các loài cây khác (…)

2.6. Môn loại CẦM THÚ (禽獸類CẦM THÚ LOẠI)

Môn loại này gồm 770 mục tự (từ), liệt kê và hệ thống hóa tên gọi của các loại cầm thú cũng như một vài đặc trưng tiêu biểu cho từng loài về mặt hình dáng, màu sắc, sinh hoạt. Câu mở đầu cho môn loại này là đã bao quát tên và các bộ phận đặc trưng cho loài cầm như: “CẦM chim ĐỘC nghê THÚ muông. VĨ đuôi LINH cánh VŨ lông TỐ diều”. Sau đó là một danh sách dài các loài chim về các phương diện: hình dáng, màu sắc, đặc tính sinh hoạt của các loài cầm này. Còn phần thú thì ở nửa phía cuối với sự bao quát như sau: “KỲ muông kỳ LÂN muông lân. NGƯU trâu MÃ ngựa THUẦN thuần SÚC nuôi”.

2.7. Môn loại TRÙNG NGƯ (蟲魚類TRÙNG NGƯ LOẠI)

Môn loại này có 546 mục tự (từ) nhằm hệ thống lại các loài côn trùng, cá tôm theo tên gọi bằng chữ Hán, cắt nghĩa sang tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm các loại.

Côn trùng cá tôm này về mặt tên gọi cũng như những đặc điểm chủ yếu dễ nhận ra. Mở đầu môn loại này được diễn đạt bằng câu như sự định nghĩa vậy: “TRÙNG sâu NGƯ cá LONG rồng. QUY rùa XÀ rắn LY dòng rồng con”.

Qua sự giới thiệu tóm lược trên đây về 7 môn loại của TĐTCTHGNC cho thấy, Diễn ca giải nghĩa học chữ Hán do vua Tự Đức soạn là một bộ tự (từ) điển song ngữ Hán Nôm theo môn loại, có tính chất bách khoa thư, thể hiện những kiến thức về các lĩnh vực chủ yếu của Hán học đương thời. Sự giới thiệu và mô tả đó sẽ là cơ sở cho chúng tôi đi vào tìm hiểu cách thức xây dựng và những định hướng nội dung của bộ sách.

3. Quy mô và cách thức xây dựng, tính phân tích của vốn tự (từ), chủ nghĩa lịch sử trong định hướng thông tin của bộ sách

3.1. Quy mô của bộ sách

Do chỗ TĐTCTHGNC vừa là một bộ từ điển song ngữ Hán Nôm vừa là một bộ sách học chữ Hán và các kiến thức Hán học nên quy mô của bộ sách cần được xem từ góc nhìn của một bộ từ điển và một bộ sách học chữ Hán. Nếu từ góc nhìn một bộ từ điển, với 9.028 mục tự cũng như so sánh nó với các bộ từ điển song ngữ Hán Nôm khác, có thể nói, TĐTCTHGNC là một bộ sách có quy mô lớn. Quy mô lớn của nó về mục tự so với các bộ từ điển song ngữ Hán Nôm khác được thể hiện qua bảng đối chiếu dưới đây:

 

TT Tên sách Kí hiệu(1) Số mục tự
大南國語Đại Nam quốc ngữ(2) AB.106 4.779
南方名物備攷Nam phương danh vật bị khảo(3) A.155/VHb.288 4.461
指南玉音解義Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa giải nghĩa(4) AB.372/VNv.201 3.394
三千字解音Tam thiên tự giải âm(5) AB.19 2.988
日用常談Nhật dụng thường đàm(6) AB.511 2.560
難字解音Nan tự giải âm(7) A.1542 1.066
千字文解音Thiên tự văn giải âm(8) AB.227/AB.91 1.000
嗣德聖製字學解義歌Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca VHv.626/1-4 9.028

Nếu như so sánh nó với các bộ tự điển chữ Hán của Trung Quốc trong lịch sử thì nó ngang với說文解字Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, thế kỉ I (9.353 chữ). Như chúng ta đã biết, lượng chữ Hán ngày càng nhiều lên theo tiến trình thời gian. Do vậy, theo thời gian lượng chữ Hán được sưu tập trong các tự điển cũng tăng lên. 說文解字Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, biên soạn vào thế kỉ I, sưu tập 9.353 chữ; 康熙字典Khang Hy tự điển biên soạn xong vào năm 1710, sưu tập 47.035 chữ Hán.

Còn như nếu so sánh với các bộ sách học chữ Hán song ngữ Hán Nôm khác, qua bảng trên cũng có thể nói, TĐTCTHGNC là một bộ sách có quy mô lớn. Các bộ sách học chữ Hán nói chung trong lịch sử do người Trung Quốc và người Việt Nam do yêu cầu về mặt sư phạm chỉ nhằm vào vốn chữ thông dụng. Lượng chữ Hán thông dụng mang ra dạy và học luôn chỉ là một phần trong tổng số chữ Hán nói chung. Thiên tự văn của Chu Hưng Tự thời Lương dạy 1000 chữ thông dụng. Lượng chữ trong Khang Hy tự điển tuy lớn (47.035 chữ) nhưng chỉ khoảng 3000 chữ thông dụng. Ngay cả ở thời hiện đại, lượng chữ thông dụng cũng có tình hình tương tự.

Ta biết rằng truyền thống tự điển học, tự thư học, văn thư học chữ Hán từ buổi sơ khai bắt đầu bằng sự sưu tập chữ Hán thành các bảng chữ như Sử Trựu thiên, Thương Hiệt thiên… Bộ Tam Thương của Lý Tư, Triệu Cao, Hồ Vô Kính ở thời Tần sưu tập trên 3 ngàn chữ cũng là một bảng sưu tập chữ. Khi chú giải các kinh điển Nho học ở thời Hán, giới ngữ văn học Trung Hoa truyền thống đã biên soạn nên Nhĩ nhã - bộ tự điển chữ Hán, chữ Hán được sắp xếp theo môn loại mà bảng hiện còn gồm 19 môn loại. Đến thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Thuyết văn giải tự của Hứa Thận biên soạn theo bộ thủ (540 bộ). Từ đây sắp xếp chữ Hán theo bộ thủ trở thành phương thức chủ yếu. Từ thế kỷ thứ III trở đi, ở Trung Quốc lại nảy sinh biên soạn vận thư, một loại tự điển chữ Hán sắp xếp theo vần, kéo dài vài thế kỷ với các bộ vận thư lớn như Thiết vận do nhóm Lục Pháp Ngôn thực hiện vào đầu thế kỷ VII, Đường vận, Quảng vận. Sang đến thời Minh Thanh, việc biên soạn tự điển thành điển chế phục vụ cho chuẩn chính tả trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và dân gian. Tính pháp định, tính điển chế về văn tự đã được đánh dấu bằng uy quyền của vua ngay trong tên sách. Khang Hy tự điển là một bộ sách được một tập thể các nhà bác học biên soạn khi mang tên thì theo niên hiệu của triều vua Khang Hy (1662-1721), triều vua thứ 3 của nhà Thanh. Ta có thể thấy TĐTCTHGNC đã tiếp thu những điểm cơ bản của truyền thống biên soạn tự thư, tự điển, sách học chữ Hán Trung Quốc nói chung cả về nội dung, cách thức biên soạn, đặt tên cũng như truyền thống biên soạn tự điển và sách học chữ Hán song ngữ Hán Nôm Việt Nam nói riêng.

Có lẽ vua Tự Đức cũng muốn theo gương vua Khang Hy xác định tính pháp định cho thần dân của mình trong việc học chữ Hán. Nhà vua đã tự mình biên soạn bộ sách học chữ Hán dạng tự điển có tính chất bảng chữ, sắp xếp chúng theo môn loại, kèm giải nghĩa theo lời ca vần điệu. Cách làm đó vừa thể hiện một cách triết trung các phương pháp biên soạn sách học và tự điển chữ Hán nói chung và thể hiện tính biến thể Việt Nam của loại sách này. Do chỗ bộ sách tuân thủ theo tiêu chuẩn kép vừa là tự điển vừa là sách học chữ Hán và truyền tải các tri thức Hán học cho nên một loạt vấn đề đã nảy sinh. Để đáp ứng yêu cầu của tự điển thì phải thu thập nhiều chữ Hán. Song nhiều chữ Hán quá thì lại khó học và khó dạy và khó lưu truyền. Chính điều này đã làm cho vốn chữ Hán của TĐTCTHGNC mang tính phân tích tính mà dưới đây chúng tôi sẽ đề cập tới.

3.2. Tính phân tích của vốn tự (từ) trong TĐTCTHGNC

Như trên đây đã nói, về qui mô tự điển chữ Hán nói chung thì đây là bộ tự điển chữ Hán vào loại trung bình. Lượng chữ thường dùng ở đây cũng tuân theo quy luật chung về lượng chữ thường dùng của chữ Hán lúc bấy giờ nói chung. Điều này có nghĩa là lượng chữ Hán thuộc vào số thường dùng chỉ chiếm khoảng một phần ba, phần tư là cùng. Do vậy, quá nửa ở đây là những chữ ít dùng hay rất ít dùng. Có hiện tượng này là do trong chữ Hán, số chữ đồng nghĩa hơi nhiều và cũng do tích đọng của nhân tố thời gian nữa. Điều này tạo nên tính phân tích tính của vốn chữ.

Phân tích tính của vốn từ là một sự vật, hiện tượng được chi ly theo nhiều nét nghĩa mà mỗi một nét nghĩa ấy lại được diễn đạt bằng nhiều từ, còn trên văn tự thì được ghi bằng nhiều chữ khác nhau. Điều này ta có thể thấy qua một số ví dụ mang ra minh họa ở mục 2 của bài viết này. Ở đây, chúng tôi xin minh họa thêm về tính phân tích tính của vốn chữ qua trường hợp những chữ biểu thị “núi”. Trong chữ Hán để biểu thị “núi” với nhiều sắc thái và nghĩa khác nhau thì có những chữ khác nhau thể hiện qua những câu như: “XUYÊN sông, SƠN núi, HẠN ngăn… SUNG khe dưới núi, ĐÊ cồn giữa sông… MẬT dáng núi như nền nhà… ĐỒNG núi trọc, YẾT núi quanh. TIỆT hình núi cắt, QUY hình núi giăng… LỘC nơi chân núi, QUYNH nơi ngoài rừng. BÌ là núi có hai tầng. BIỆT núi Biệt, HÀO núi Hào. PHONG đầu chót vót, ĐIÊN đầu thôi ngôi. CHƯƠNG là núi giống bình phong. ĐÀ là núi đứng như chồng cối xay. DĨ là núi không cỏ cây. HỖ là núi có cỏ cây rườm rà. TIÊU dốc đứng, LIỄU rộng xa. CƯƠNG là sống núi, NHAI là mép sông. HIẾN là núi giống nồi hông. TOANH hòn đất đỏ, AO dòng nước đen… THÁP đất thấp, NAO núi bằng. KHANG LANG núi trống, LĂNG TẰNG núi cao. TRÁCH núi Trách, THAO núi Thao. KIÊM HIỂM núi dốc, LIÊU TÀO núi không. NGUNG DI núi ở cõi đông. PHỈ là lớp núi như trồng như xây. YÊM TƯ núi ở cõi tây. TỤ nơi hang núi, PHẤT nơi đường đèo. CỰ núi lớn, HOÃN núi nhiều. LINH DINH núi thẳm, LIÊU SÀO đỉnh cao. TRỞ núi đá lộn đất vào. ÔI LỖI dạng núi thấp cao nhiều tầng. OAI HOÀI hang núi chẳng bằng. TÙNG rằng núi lớn, nhạc rằng núi tôn. SẦM đỉnh nhỏ, LOAN đỉnh tròn. ĐẢO non giữa biển, châu cồn giữa sông. CÔN LUÂN núi ở địa trung. CÂU LÂU là đỉnh cao phong núi Hành. KỲ KHU đường núi gập ghềnh. TOÀN NGOAN lởm chởm, TRANH VINH chon von. LANG núi Lang, KHIÊN núi Khiên. TIỆP LIỆP dạng núi liên diên kéo dài. HIỆN núi Hiện, LAI núi Lai. NHAM hang đá hiểm, LĨNH vai núi bằng. Ủ núi Ủ, DƯƠNG núi Dương. LỰC dạng lớn, NGANG TÀNG dạng cao. ĐIỆN núi Điện, CAO núi Cao. THÔI NGÔI đất trộn đá vào lô xô. VẬN núi Vận, NGÔ núi Ngô (…). Ngoài những danh từ riêng chỉ tên núi, chúng tôi đã thống kê được hơn một trăm mục tự có ý nghĩa chỉ về núi và các nét đặc trưng của núi. Tình hình với nhiều danh từ khác cũng tương tự. Điều này cho phép chúng ta nói đến tính phân tích tính của vốn tự chữ Hán như là một điểm dễ nhận ra trong TĐTCTHGNC.

Tính phân tích của vốn tự (từ) Hán học trong TĐTCTHGNC cần phải được đề cập trong một nghiên cứu chuyên sâu. Ở đây chúng tôi chỉ mới đặt vấn đề mang tính minh họa mà thôi.

4. Tiếng Việt và chữ Nôm trong khả năng truyền tải tri thức Hán học

Qua sự trình bày các môn loại, các chủ đề vốn từ của từng môn loại, các định hướng nội dung của toàn bộ sách, tính phân tích tính của vốn từ đã cho thấy Tự học giải nghĩa ca của vua Tự Đức là một bộ sách mang tính bách khoa về Hán học theo định hướng chính thống và nệ cổ. Một bộ sách học chữ Hán và các kiến thức Hán học như thế thật khó đến với thần dân của hoàng đế. Điều này đã được vua Tự Đức nhận ra và khắc phục bằng cách đặt lời ca giải nghĩa cho chúng. Lời ca giải nghĩa Việt ngữ đã trở thành điểm sáng đặc biệt cho toàn bộ bộ sách. 9.028 mục tự (với 9827 chữ Hán vì có những mục tự gồm 2 hay 3 chữ Hán) đã được giải nghĩa. Độ dài giải nghĩa với tổng số 21.334 lượt chữ Nôm. Hầu hết phần giải nghĩa cho các mục tự đã đóng vai trò là vị ngữ có hệ từ trong các cụm chủ vị hay các câu (cả lục lẫn bát). Phân xuất 21.334 lượt chữ Nôm giải nghĩa ấy, chúng tôi đã lập được danh mục 4.458 chữ Nôm của toàn văn bản. Lượng chữ Nôm đó chỉ bằng nửa lượng chữ Hán nhưng đã giải thích được toàn bộ mục tự chữ Hán theo cách đối dịch hay diễn dịch. Chúng ta có thể thấy lối văn giải nghĩa của cả bộ sách qua một số ví dụ mà chúng tôi đã dẫn ra trong chính bài viết này. Vốn từ tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm ở đây đã diễn đạt được toàn bộ các tri thức Hán học mang tính bách khoa tương ứng của 9.028 mục tự trong 7 môn loại. Đây là một trong số những minh trưng quý giá cho vốn từ tiếng Việt thế kỷ XIX ở dạng từ điển ghi bằng chữ Nôm.

Với độ dài phần giải nghĩa cũng như lượng chữ Nôm có trong văn giải nghĩa đã làm cho TĐTCTHGNC trở thành một bộ từ điển Hán Nôm chứa đựng nhiều chữ Nôm nhất, nhiều từ vựng tiếng Việt nhất và cũng là một trong số không nhiều những bộ sách Hán Nôm nói chung, Hán Nôm cuối thế kỷ XIX nói riêng, chứa đựng nhiều từ vựng tiếng Việt ứng với các vấn đề Hán học mang tính học thuật nhất.

Do vậy, phần giải nghĩa Nôm của từ điển cần phải được trình bày trong những nghiên cứu riêng cả về mặt ngôn ngữ cũng như văn tự.

Qua sự trình bày trên đây cho phép chúng ta có một nhận thức chung rằng, TĐTCTHGNC từ tên gọi, kết cấu nội tại theo môn loại và tính thánh chế trong sự ban hành, phổ biến như là một bách khoa thư Hán học song ngữ Hán Nôm. Qua bộ từ điển này chúng ta có thể thấy những tri thức Hán học theo định hướng chính thống, nhà nước do chính vua Tự Đức chế cho thần dân của ông cũng như con đường phổ biến những tri thức ấy qua tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm. Bộ từ điển song ngữ Hán Nôm này đã phản ánh những vấn đề học thuật chứa đựng trong chữ Hán của nhà nho và xã hội lúc bấy giờ. Đó là cái học tam tài THIÊN - ĐỊA - NHÂN mang dấu ấn lịch sử cả về thực trạng cũng như hạn chế mà cái học ấy do đích thân vua phổ biến.

Từ điển song ngữ Hán Nôm cuối thế kỉ XIX nói chung, TĐTCTHGNC nói riêng đã nảy sinh, tồn tại, phổ biến và phản ánh chính bối cảnh ngôn ngữ - xã hội Việt Nam và những đặc trưng của cấu trúc văn hóa của Việt Nam những thập niên cuối cùng của thời trung đại. Trong bối cảnh ngôn ngữ - xã hội đó, một mặt, Hán văn, chữ Hán là ngôn ngữ chữ viết của thánh hiền, cao quý, thượng đẳng, quyền uy đến độc tôn. Nhưng mặt khác, muốn cái thượng đẳng, độc tôn ấy đến với đông đảo thần dân thì phải dùng phương ngữ phương ngôn, quốc ngữ, quốc âm, chữ Nôm như cái cầu chuyển ngữ. Do vậy, nó cũng là một trong những nhân tố có ý nghĩa cho sự nhận thức về khả năng và tiếng mẹ đẻ, của quốc âm, quốc ngữ Nôm trong việc diễn đạt những vấn đề học thuật Nho học mang tính bách khoa, chính học và thánh chế cả đối với tác giả soạn nó cách đây hơn một thế kỷ cũng như cả với chúng ta, những người đọc nó bây giờ.

Phạm Văn Khoái 

PGS..TS. Đại học KHXH & Nhân văn Hà Nội

Hà Đăng Việt

NCS. Khoa Việt Nam học Đại học Sư phạm Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 1 (116) 2013, tr.17-28.

 

Chú thích:

(1) Theo kí hiệu sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(2) Cuốn sách do Nguyễn Văn San biên tập, Văn Sơn đường tàng bản khắc in năm 1899. Sách được chia ra 50 mục-bộ, như Nhân luân mônTàm tang môn, Tục ngữ môn...

(3) Đặng Xuân Bảng: Từ điển Hán - Nôm, Thiện Đình khắc in năm 1902. Các chữ trong cuốn sách được xếp theo 32 mục, như Thiên văn, Địa lí, Thời tiết, Nhân phẩm, Quan chức…; có đặc điểm là tập hợp nhiều tên gọi các sản vật nước Nam.

(4) Cuốn sách còn có tên là Chỉ Nam phẩm vựng, tác giả là Hương Chân pháp tính. Sách được chia làm 40 bộ môn loại và trình bày theo thể văn vần, chủ yếu là lục bát.

(5) Do Ngô Thì Nhậm soạn, Phú Văn đường tàng bản khắc in năm 1831. Đây được xem là cuốn sách dạy chữ cho người mới học chữ Hán.

(6) Sách do Phạm Đình Hổ soạn năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), Đồng Văn trai tàng bản khắc in năm Tự Đức thứ 4 (1851). Đây là một bộ tự điển Hán - Nôm, xếp theo 32 môn loại như: Thiên văn, Đại lí, Nho giáo,…

(7) Sách chép tay, không ghi tên người soạn. Các chữ trong sách không sắp xếp theo môn loại, tập hợp những chữ khó để giải nghĩa.

(8) Cuốn sách do Quan Văn đường tàng bản khắc in năm 1890, không ghi tên người soạn. Chữ trong cuốn sách sắp xếp theo mục, có giải nghĩa và chú âm, trình bày theo lối lục bát.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1.Thiều Chửu: Hán Việt tự điển, Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1999.

2.Thơ văn Tự Đức. Phan Đăng chủ biên, (tập 3 - Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca), Nxb. Thuận Hóa, 1996.

3.Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, Nxb. KHXH, H. 1990.

4.Phạm Văn Khoái: Một số vấn đề chữ Hán thế kỉ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

5.Phạm Văn Khoái: Từ “Tứ thư ước giải” đến “Tự Đức Thánh chế Luận ngữ thích nghĩa ca” suy nghĩ về bước vận động xây dựng chính tả chữ Nôm, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Hà Nội 2004.

6.Phương Thủ Nguyễn Hữu Quì:Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca (phiên âm), Ủy ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn cũ xuất bản, 1971.

7.Lạc Thiện: Tự điển Hán Việt thông dụng, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1996.

8.Hà Đăng Việt: “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca” và vấn đề chuẩn hóa chữ Nôm thời Nguyễn, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2008.

II. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG QUỐC

9.Khang Hi tự điển, Trương Ngọc Thư chủ biên, Thượng Hải thư điếm xuất bản xã, Thượng Hải, 2000.

10. Khang Hi tự điển thông giải, Thời đại văn nghệ xuất bản xã.

11. Từ nguyên, Trung Hoa thư cục phát hành, 1956.

12. Thư Tân Thành, Từ Nguyên Cật, Thẩm Di, Trương Tương, Từ Hải, Trung Hoa thư cục phát hành, 1966.

III. TÀI LIỆU HÁN NÔM (theo kí hiệu của Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

1.指南玉音解義Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa giải nghĩa, AB.372/ VNv.201.

2.大南國語Đại Nam quốc ngữ, AB.106.

3.南方名物備攷Nam phương danh vật bị khảo, A.155/ VHb.288.

4.日用常談Nhật dụng thường đàm, AB.511.

5.難字解音Nan tự giải âm, A.1542.

6.三千字解音Tam thiên tự giải âm, AB.19.

7.千字文解音Thiên tự văn giải âm, AB.227/AB.91.

8.嗣德聖製字學解義歌Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca, VHv.626/1-4./.

20200823 2

Ảnh: Núi Tử Trầm (nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội)

1. Xuất xứ tấm bia và vài nét về tác giả

Tại xóm San, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện còn lưu giữ được tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Bia có chiều cao 1,22m, rộng 1,20m, trong đó trán bia cao 0,24m, chạm hoa văn rồng chầu mặt nguyệt cách điệu, hai diềm bia chạm hoa, dây leo. Bia được dựng trong một am nhỏ có mái che, chữ còn khá rõ nét, viết chân phương, dễ đọc. Bia gồm 22 dòng, mỗi dòng khoảng 50 chữ, tổng cộng hơn 1200 chữ, một bài tựa và một bài minh dài hơn 70 câu (mỗi câu 4 từ). Phần cuối bia là dòng lạc khoản ghi: “Hồng Thuận nhị niên, tuế thứ Canh Ngọ trọng thu, cát nhật, Tiến thận quang lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử giám Tế tửu(1) Tri kinh diên sự thần Lê Tung đẳng phụng sắc soạn”. Nghĩa là: (Ngày tốt, tháng giữa thu [tháng 8] năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 [1510] do Tiến thận Quang Lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn soạn sắc)

Đây là tấm bia mà soạn giả là một nhà sử học nổi tiếng sống cách chúng ta khoảng 500 năm. Nội dung tấm bia cho biết nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI, xung quanh việc Lê Tương Dực (1509 - 1516) lên ngôi. Ngoài ra, nội dung tấm bia còn mô tả về quang cảnh khu di tích núi Trầm thời Lê(2).

Ngoài tấm bia ở núi Trầm do Lê Tung soạn. Nội dung tấm bia tại đình Kim Liên về cơ bản cũng tương tự như tấm bia ở chân núi Tử Trầm nhưng có thay đổi thêm bớt một số từ. Bia ở đình Kim Liên có chiều cao 2,20m, rộng 1,40m, dày 0,22m, hoa văn rồng chầu mặt nguyệt, khắc đẹp rõ nét. Bia không có tên, dòng đầu ghi: “Cao Sơn Đại vương thần từ minh tịnh tự” (Bài tựa và bài minh bia ở đền thờ Cao Sơn Đại vương). Mặt sau ghi: “Cảnh Hưng tam thập tam niên, tuế tại Nhâm Thìn, trọng thu, sơ nhất nhật, phụng lập bi. Nguyên bi tại Phụng Hóa huyện tự cổ truyền lai, phù vu Bồ Đề giang tân. Ư Hoằng Định niên gian, bản phường duệ đắc nghênh hồi trí vu tự địa, trí tư huyền trưng lũ thử nhân phụng nghênh lập bản Từ tả biên dĩ thị tôn nghiêm, truyền vĩnh cửu nhưng tả dĩ vi chí vân”. Nghĩa là: (Bia dựng ngày mồng một, tháng giữa thu [tháng 8], năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 [1772]. Bia nguyên ở huyện Phụng Hóa(3). Từ xưa truyền lại trôi đến Bồ Đề(4). Khoảng niên hiệu Hoằng Định [1602 - 1619] bản phường kéo lên đặt ở đất chùa, bày ở bên trái của đình để cho thêm phần tôn nghiêm, bèn viết vào để truyền mãi mãi).

Như vậy, xuất xứ của tấm bia này đã rõ ràng. Chúng tôi không biết ở huyện Phụng Hóa (xưa) có còn tấm bia nào của Lê Tung không, nhưng khi đối chiếu chúng tôi cho rằng tấm bia đình Kim Liên này đã chép lại gần như hoàn toàn nội dung tấm bia ở chân núi Tử Trầm. Điều đó chứng tỏ uy tín cũng như sử bút của nhà sử học Lê Tung được người đời sau trân trọng(5). Mặt khác xét về vị trí địa lý và địa hình thì tấm bia ở chân núi Tử Trầm đã phản ánh đúng cảnh quan như "núi rừng rậm rạp, cành lá giao nhau, có vực sâu...".

Lê Tung tên thật là Dương Bang Bản (1452 - 1514) người xã An Cừ, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là một vị công thần sống vào cuối triều Lê sơ, được ban quốc tính, sau đổi là Lê Tung. Năm 23 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức (1484) đời Lê Thánh Tông. Ông từng được cử đi sứ, làm quan thăng đến chức Lễ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, tước Đôn Thư bá, thọ 63 tuổi(6). Tác phẩm của ông hiện nay được biết đến không nhiều(7), quan trọng nhất là Việt sử thông giám tổng luận (8).

Dưới triều vua Lê Uy Mục và đặc biệt dưới triều Lê Tương Dực, Lê Tung được giao nhiều trọng trách quan trọng. Năm Hồng Thuận thứ 5 (1513) ông được cử soạn tấm bia: Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Khoa thi Tiến sĩ năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 [1511](9)). Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Mùa thu, tháng 9 năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), sai Thiếu Bảo, Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, Đôn Thư bá(10) Lê Tung soạn bài Đại Việt thông giám tổng luận. Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết: năm 1514, Lê Tung cùng các nhân vật nổi tiếng khác như Lê Phụ, Đàm Thận Huy, Nguyễn Bá Thuyên, Đỗ Nhạc trông coi việc thi(11)... Được triều đình giao cho nhiều công việc quan trọng như thế, chứng tỏ tài năng mẫn tiệp và sự tín nhiệm của triều đình đối với ông.

 

2. Bối cảnh lịch sử khi Lê Tung soạn Cổ tích linh từ bi ký

Có thể nói rằng, nhà sử học Lê Tung là người đã từng chứng kiến nhiều đổi thay của xã hội Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI. Cuộc đời làm quan của ông trải qua 5 đời vua: Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1469 - 1497), Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống (1498 - 1504). Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục niên hiệu Đoan Khánh (1505 - 1509), Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận (1509 - 1516).

Kể từ khi thi đậu Hoàng giáp (1484) cho đến khi qua đời, ông may mắn tận mắt thấy được thời kỳ thịnh trị vào bậc nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam (dưới triều Lê Thánh Tông) và cũng chính ông đã chứng kiến sự khủng hoảng trầm trọng của triều Lê Uy Mục và Lê Tương Dực.

Lúc này nhiều công thần, hiền tài bị giết hại như Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử đài Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật... Chính vào thời điểm này, Lê Tung được giao nhiều việc quan trọng như: Thừa tuyên xứ Thanh Hoa(12), Hàn lâm viện Kiểm thảo...

Tuy được tin dùng, được giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng sống và làm việc dưới quyền một ông vua bạo ngược, gian ác, Lê Tung cùng nhiều văn thần khác phải lựa chọn hành động khởi binh chống lại. Sử chép: "Tháng 11 năm 1509, bấy giờ vua giết hại tông thất, Giản Tu Công còn bị giam ở ngục mới đem của đút lót người canh giữ thoát ra được, chưa kịp chào mẹ, anh em và vợ mình, một mình trốn vào Tây Đô. Đến cửa biển Thần Phù được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn đúc giáo dài, cùng bọn văn thần Nguyễn Diễm, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Lê Thanh Hoa, Tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung khởi nghĩa, sai Lương Đắc Bằng viết hịch dụ đại thần và các quan. Đại ý nói: Bạo chúa Lê Tuấn phận làm con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn"(13)...

Có thể nói những sự kiện nổi bật dưới thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã được sử sách chép lại khá kĩ. Điều đặc biệt là những sự kiện lịch sử ấy đã được nhà sử học Lê Tung - người đã từng trực tiếp tham gia làm nên lịch sử giai đoạn này ghi lại gần như đồng thời qua tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Nội dung tấm bia không những cho chúng ta biết sự mâu thuẫn gay gắt trong triều đình Lê Uy Mục, quá trình giúp Lê Tương Dực lên ngôi mà còn giúp cho chúng ta hiểu thêm lịch sử cũng như quang cảnh khu di tích núi Trầm - một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Hà Tây cách chúng ta ngày nay 5 thế kỷ. Cả hai tấm bia ở núi Trầm và ở đình Kim Liên như đã đề cập ở trên đã được một số sách giới thiệu nhưng còn sơ sài, thậm chí viết sai và chưa nghiên cứu kỹ về văn bản. Sau đây chúng tôi xin phiên âm, dịch lại cho sát nghĩa hơn đặc biệt là tiến hành khảo sát kĩ về văn bản (chúng tôi chọn văn bia ở núi Tử Trầm làm bản chính).

. Nội dung tấm bia

Phiên âm:

Cổ tích linh từ bi ký

Cao Sơn đại vương thần từ minh tịnh tự.

Cái văn:

Đế vương hưng nhân nghĩa chi binh, cứu sinh dân chi mệnh. Kỳ quy khôi hoành toán hạp tịch hùng khuých(14), dĩ thành mạc đại chi công, sáng mạc đại chi nghiệp giả. Cái hữu mạc đại chi đức, nhi cùng thiên(15) vi chi hiệp ứng, thần minh vi chi tán trợ phi ngẫu nhiên dã. Thị Chu Vũ triệu tạo Thương cơ, tất lại sơn xuyên linh thần chi khắc tướng, Hán Quang trùng hưng xích tộ, diệc lại bạch y phụ lão chi nhiên phù ư Hoàng Đại Việt.

Thánh tổ Cao hoàng đế, khởi nghĩa chi sơ, tắc hữu hoằng hựu chí linh chư danh thần vi chi âm chất khởi phi. Thiên địa quyến vu chí nhân, quỷ thần hưởng vu hữu đức giả da. Khuyết hậu miếu từ sáng lập, ân lễ triệu xưng tự điển, chiêu thùy xuân thu chí tế, giai sở dĩ báo thần tứ nhi kỳ(16) hồng hưu dã. Linh ứng chương minh, cổ kim phù khế. Khoảnh giả, Lệ Mẫn thất đức, hung bạo tứ hành, ngoại thích chuyên quyền, nội triều can chinh, đồ độc triệu thứ, ngư nhục tông phiên, thiên oán dân nộ nhi bất chi tri, chúng bạn thân(17) li nhi bất chi giác. Kỷ Tỵ niên, thập nhất cực, ức triệu chi dân. Thời tắc hữu Trường Lạc điện thân thuộc, dương vũ hiệp mưu, đồng đức hiệu trung, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghị đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc Thừa tướng thượng tể, Thái phó Uy quốc công Nguyễn Bá Lân; Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Tả đô đốc Kim Ngô vệ đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ; Quang tiến Trấn quốc Đại tướng quân(18), Tả kiểm điểm tham đốc hiệu lực, Tứ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ đẳng, phụng mệnh tồ chinh, đồng tâm dực tán củ hợp hào kiệt, phúng tập(19) dân binh, tá bạch mao hoàng việt chi hành, đại cực nịch hanh truân(20) chi cử, Văn Lữ đẳng hành chí Ninh Sơn huyện(21). Kỳ sơn lâm linh úy, diên mậu quảng mạc, hữu uyên danh Lầm đương nhất mẫu, hứa tĩnh thâm bất trắc, thụ mộc giao gia. Thượng hữu nhất từ, cái dĩ thảo mao(22). Từ trung lập thạch đề viết: “Cao Sơn Đại vương”, Văn Lữ đẳng đổ(23) chi kinh dị, nãi khẩn chúc viết: “Đoan Khánh tàn ngược, dân bất liêu sinh. Thiên mệnh nhân tâm, quy vu hữu đức. Kim Thánh thượng dĩ Thánh Tông chi tôn, Kiến Hoàng chi tử. Tư tổ tông sáng nghiệp chi nan, mẫn(24) triệu tính đảo huyển chi khổ, vị xã tắc kế hưng, trừ tàn khử bạo chi binh. Văn Lữ đẳng cộng tá minh quân dĩ an thiên hạ. Thần như hữu linh, âm phù mặc tương, dĩ tế đại nghiệp. Sự thành chi nhật, Văn Lữ đẳng tất thỉnh mệnh vu triều tôn hiển chi dĩ chiêu thần chúc”.

Ngôn tất, nghiêm chỉnh bộ ngũ túc đội nhi hành, tứ phương thần dân bất kỳ nhi hội hồ tương đan thực dĩ nghênh vương sư. Binh vô huyết đao chi lao, dân toại vân nghê chi vọng, hùng đồ đãng địch cung cấp túc thanh, ức niên chi chung đỉnh. Cái miên(25) cửu miếu chi quang linh, vĩnh thỏa tam cương, cửu trù dĩ chi nhi phục yên(26).

Hoàng đồ quốc tộ do thị nhi tái an, tăng bất tuần nhật nhi thành công chi tốc như thử. Cái do, thánh đức tố phù, thiên nhân hiệp ứng, nhi qủy thần hữu dĩ tương chi dư. Bản niên, thập nhị nguyệt(27), sơ nhị nhật, Hoàng thượng quang đăng bảo vị, Đản phủ đa phương(28) phát chính thi nhân, dĩ sủng thỏa hồ, triệu tính(29) xưng lễ hàm trật, dĩ hoài nhu hồ. Bách thần Văn Lữ đẳng ngưỡng đại huân chi khắc tập tư thần huống chi, khổng chương dĩ kỳ sự, văn ngọc âm, tứ khả sắc Ninh Sơn huyện, Tử Trần xã(30), doãn đốc áp quân dân, cấu tác từ vũ. Mệnh Công bộ tác bi, nhưng mệnh thần đẳng soạn minh(31) dĩ thùy vĩnh cửu. Cố thần đẳng ngu lậu, xương thúc dĩ tán dương thánh hoàng công nghiệp chi long, phát huy(32) thần lý cảm thông chi diệu. Nhiên ký thao phụng. Minh chiếu cảm bất đối dương hưu mệnh hồ. Thần đẳng thiết duy: đức tất thụ mệnh, cổ kim chi(33) định lý dã, vi chi năng hiển, quỷ thần chi thịnh đức dã. Cái kỳ triệu phi thường chi nghiệp. Tuy bản đế vương chi đức, nhi tán thành phi thường chi nghiệp, diệc do thần minh chi trợ. U minh nhất lý, cảm ứng nhất cơ, thiên nhân tương dữ chi tế, hữu như thử giả, nghi kỳ luân hoán. Từ vũ, thần hôn hương hỏa báo thần tứ dã. Trật chi tự điển, lặc chi trinh mân, chiêu linh ứng dã. Duy thần tố lẫm, càn khôn chi chính khí, chung quang nhạc chi tinh linh, nhiên tương hoàng đồ, vĩnh phù bảo tộ, phù hồng hưu ư hữu vinh, giới cảnh phúc ư vô cùng, tắc tư sơn dã dữ thiên địa đồng, kỳ du hĩ(34). Y ư hưu tai.

Minh viết:

Úy bỉ sầm cương
Yên phụ thương thương(35)
Chung kỳ dựng tú
Tốt thắng dục tường
Hồi uyên(36) trừng bích
Lục thủy phù quang
Tĩnh thâm mạc trắc
Bàn vô phương dân(37)
Lương trùng khảm lập
Thần bí linh tàng
Liêu tai tứ cố
Hiên khoát vũ trụ
Xác thị (38) thử gian
Hữu nhất từ vũ
Mao cái trúc dạng
Phần đề thạch chủ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi khổng phụ
Hữu cảm giai thông
Khuyết thi tư phổ
Thời thuộc cấu truân(39)
Thiên khải minh quân
Tây Đô phấn thi(40)
Mao việt cung thân
Hoàn toàn danh tướng
Củ củ nghĩa dân
Tiễu trừ chí nhuệ
Khẩn chúc tư cần
Đại sự khắc tế
Tương lễ thị ban
Dương dương như tại
Linh giám hoằng khải
Trợ ngã uy thanh
Tiêu trì điện mại
Dân úy vọng nghê
Phong truyền(41) quải bái
Tăng bất du tuần
Báo tứ khổng khánh
Khẩn khoản vân tiên
Cụ trần linh huống
Nhật đốc phất huyên
Cửu trùng(42) du cửu
Thịnh ý quyền quyền
Tưu quy viện khế
Cốc nhật tải quyên
Chiêu đáp bất sảng
Cử hành thị tiên
Nãi giới tể ấp
Hưng tu duy cấp
Cưu công trợ tài(43)
Hoa tự (44) du lập
Giác suy đống lương
Luân hoán nguy ngập
Miếu mạo tôn nghiêm
Quang linh diệp dập(45)
Hương hỏa minh yên(46)
Tuế thời viên cập
Thẩn thị kí công
Duy thạch khung lung
Thu tự xuân phúc
Triện Lý, Lệ Chung
Lưu phương ích hiển(47)
Hữu(48) quốc tăng long
ức niên tích phúc
Càn khôn thanh thái
Y thùy lực dư
Duy thần thị lại
Quảng bá hưu phong
Từ tiền vĩnh trấn
Chiêu vĩnh vô cùng.

Hồng Thuận nhị niên(49), tuế thứ Canh Ngọ, trọng thu, cát nhật.

Tiến Thận Quang lộc đại phu(50), Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần, Lê Tung đẳng phụng sắc soạn.

Hiển cung đại phu Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi phụng tả.

Thí An bí danh tạo cơ san thư tượng tượng phó, thần Bùi Nhữ Dịch phụng san.

Dịch nghĩa:

Văn bia đền thiêng cổ tích

Bài tựa và bài minh đền thờ Cao Sơn đại vương

Thường nghe: Bậc đế vương lấy binh để hưng nhân nghĩa, cứu dân, khôi phục lại công nghiệp, không gì lớn lao bằng. Đại để là do sự giúp đỡ của thần linh không phải là ngẫu nhiên vậy. Vì thế Vũ Vương đã gây dựng nên công nghiệp họ Chu(51) ắt nhờ cậy vào thần linh sông núi. Quang Vũ trùng hưng công việc nhà Hán(52) cũng phải nhờ vào các bậc phụ lão áo trắng giúp đỡ(53).

Thánh tổ Cao Hoàng đế buổi đầu khởi nghĩa, tất có sự phù hộ lớn lao, họa phúc đều bởi do các bậc thần linh nổi tiếng, trời đất chí nhân, quỷ thần có đức. Về sau đền miếu được dựng xây, triều đình ban ơn lớn lao, để xuân thu tế lễ, đều là báo đáp công ơn của thần, nổi tiếng linh ứng, phù hộ xưa nay. Bỗng chốc Lệ Mẫn(54) thất đức hung bạo, ngoại thích chuyên quyền, trong triều can gián, chà đạp dân chúng, giết hại tông thần. Trời oán dân giận mà không biết, dân chúng chống lại rời bỏ mà không hay.

Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509) Hoàng thượng tránh loạn ở Tây Đô, tập trung nghĩa binh để khôi phục công nghiệp lớn lao của Cao Tổ, của muôn triệu dân. Lúc ấy, ở điện Trường Lạc(55), người thân thuộc cùng nhau bàn bạc, dốc lòng trung thành, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc thừa tướng, Thượng tể Thái phó Uy Quốc công Nguyễn Bá Lân(56); Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tả Đô đốc Kim Ngô vệ, Đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ(57). Quang tiến trấn quốc, Đại tướng quân, Tả kiểm điểm, Tham đốc hiệu lực, Tứ vệ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ(58) cùng kính cẩn vâng mệnh đi đánh dẹp. Cùng nhau tập hợp hào kiệt, nhóm họp dân binh, giúp cho cờ quạt đao binh đi làm việc lớn. Vượt qua khó khăn, Văn Lữ hành quân đến huyện Ninh Sơn(60). Núi rừng rậm rạp, hoang vắng, có vực sâu, khoảng một mẫu yên tĩnh ngập nước, sâu không lường được, cây cối cành lá giao nhau, trên có một đền thờ lợp bằng cỏ tranh, trong đền dựng cột đá đề chữ: "Cao Sơn Đại Vương". Văn Lữ nhìn thấy, sợ hãi mà khấn rằng: “Đoan Khánh(61) tàn ngược dân không sao sống nổi. Lòng người, mệnh trời đều trở về với người có đức. Nay Thánh thượng lấy con của Kiến Hoàng(62) cháu của Thánh Tông lên làm vua. Nghĩ rằng tổ tông gian nan dựng nghiệp, thương muôn họ phải chịu cảnh đọa đầy. Vì sự duy trì của xã tắc mà dấy binh để trừ tàn khử bạo. Văn Lữ giúp nhà vua giữ yên thiên hạ. Thần như linh thiêng, phù hộ cùng cứu giúp nghiệp lớn. Công việc thành công, Văn Lữ tâu với triều đình để tôn vinh công lao của thần”.

Cầu xong, hàng ngũ chỉnh tề kéo đi, bề tôi và dân chúng không hẹn nhau mà mọi người đều tập trung đi theo, chuẩn bị giỏ cơm, túi nước để đi đón quân của nhà vua. Binh không phải khổ máu dây mũi gươm đao, dân thỏa nguyện mong chờ, như nắng hạn gặp mưa rào, giặc bị tiêu diệt, cung cấm sạch làu, muôn năm bền vững. Đại để, do sự linh thiêng của miếu mạo, Tam cương, Cửu trù(63) được bền vững dài lâu, sự nghiệp lớn lao lại được khôi phục.

Vận nước do đó lại được an, chưa đến một tuần mà đã thành công nhanh chóng. Được như thế, là do đức thánh phù hộ, đạo trời và lòng người giúp sức, quỷ thần cùng tương trợ chăng ?

Ngày 2 tháng 12 năm ấy (1509), Hoàng thượng lên ngôi(64). Nhà vua vỗ về, thi hành nhân nghĩa để thể hiện sự sùng chuộng, muôn họ được ban hàm phẩm trật để tỏ rõ lòng mến mộ. Văn Lữ cùng trăm thần được thưởng công lớn. Nghĩ rằng, công của thần thật lớn lao. Nghe lời ngọc, ban sắc cho xã Tử Trầm, huyện Ninh Sơn. Sai quân dân xây dựng đền thờ, mệnh cho Bộ Công dựng bia, sai thần soạn bài minh để lại mãi mãi. Nhưng thần vốn nông cạn, sao đủ để ca ngợi công đức lớn lao của Hoàng đế, phát huy cái kỳ diệu của thần thánh, bèn đội ơn trọng đãi, kính cẩn vâng theo mà không dám chối từ. Thần trộm nghĩ, đức vốn thụ bẩm ở trời vốn là lẽ xưa nay, do đó mà được vinh hiển là cái đức lớn của quỷ thần vậy. Đại để, mở ra sự nghiệp phi thường cũng là do cái đức đế vương, làm nên nghiệp lớn cũng là do thần sáng suốt giúp sức, sự biến hóa linh diệu, đạo trời lòng người cùng nhau giúp đỡ. Như thế, phải sửa sang đền miếu để sớm tối hương hỏa, báo đáp công ơn của thần. Triều đình ban cho ân điển, khắc vào đá quý để tỏ rõ sự linh ứng vậy. Nghĩ rằng thần lớn lao vĩ đại tập trung cả trời đất, kết tinh linh thiêng của núi sông, cùng bảo hộ cơ đồ bền vững, phù giúp sự nghiệp đến vô cùng, phúc lớn vô tận, tức là núi này vậy. Cùng tồn tại mãi mãi với trời đất. Than ôi ! Tốt đẹp thay!

Minh rằng:

Núi cao rậm rạp
Cây cối tốt xanh
Linh thiêng kết tụ
Chứa chất điềm lành
Dòng sông uốn lượn
Nước biếc lung linh
Thẳm sâu khó lường
Mênh mông rừng núi
Non cao nước sâu
Dấu ấn thần linh
Bốn phương vắng lặng
Vũ trụ bao la
Nơi đây đất phúc
Có một ngôi đền
Lợp bằng cỏ tranh
Cột đá đề chữ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi gò lớn
Có cảm đều thông
Thi hành rộng khắp
Khi gặp gian truân
Trời sinh minh quân
Tây Đô giết giặc
Cùng mang cờ kiếm
Tướng giỏi hăng say
Tập hợp nghĩa dân
Một lòng diệt giặc
Kính cẩn cầu khẩn
Giúp đỡ lớn lao
Tướng lễ ban gia
Bao la như thế
Mọi chốn linh thiêng
Giúp ta tăm tiếng
Hơn bão hơn chớp
Dân mong ngóng tin
Treo cờ thắng trận
Chưa quá một tuần
Đất trời trong sáng
Bởi dựa vào đâu
Dựa vào thần thánh
Báo công thắng lớn
Khẩn khoản tâu bày
Quả được ứng ngay
Hết lòng phù giúp
Cửu trùng đáp lại
ý thánh thiết tha
Xin chọn giao ước
Ngày đẹp trai giới
Rõ rệt không sai
Cử hành trước hết
Khuyên bảo ấp này
Tu sửa liền ngay
Góp công góp của
Nhanh chóng dựng xây
Trụ cột xà rui
Nguy nga lộng lẫy
Miếu mạo tôn nghiêm
Linh thiêng ngời sáng
Nghi ngút khói hương
Suốt năm dân kính
Ghi việc ghi công
Viết vào đá quý
Xuân cúng thu thờ
Dựa vào khí tốt
Tiếng tăm lẫy lừng
Giúp nước thịnh hưng
Muôn năm tích phúc
Quảng bá tốt lành
Trước đền trấn yểm
Chiếu mãi vô cùng.

Ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8), năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 (1510).

Tiến thận Quang lộc đại phu, Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn vâng soạn.

Hiển cung đại phu, Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi kính cẩn viết. Thí An bí doanh tạo sở san thư tượng thạch phó, thần Bùi Nhữ Dịch kính cẩn khắc chữ(17).

 

Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Quang Ngọc

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 2(69) năm 2005

 

Chú thích:

(1) Quốc tử giám Tế tửu là một chức quan đời xưa. trong bia khắc là “Kiêm Quốc tử giám Tế Tri kinh diên sự”: thiếu chữ “tửu” (酒).

(2) Có thể xem bản thần tích, thần sắc của thôn Miếu, xã Long Châu thờ Cao Sơn đại vương của tổng Tiên Lữ, Hà Đông, ký hiệu Viện Thông tin khoa học xã hội Q418/1125 và của thôn San, ký hiệu Q4 18/II 24.

(3) Huyện Phụng Hóa trong sách Hồng Đức bản đồ (bản chữ Hán) lưu trữ tại Đông Dương văn khố Tokyo (Nhật Bản) ký hiệu X-2-24 tờ 6 viết: Huyện Phụng Hóa (phủ Thiên Quan, xứ Thanh Hoa) có 27 xã, 1 trang, 1 trại.

(4) Bến Bồ Đề nay thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội.

(5) Chúng tôi gọi tấm bia ở xóm San, xã Phụng Châu dưới chân núi Tử Trầm là bản (A) - ký hiệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm N0 1954. Bản ở đình Kim Liên là bản (B) - N0 1025-1026. Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một quyển sách chữ Hán, ký hiệu VHT.42 chép lại bản (A) có sửa chữa bằng bút chì, (đây là một cuốn sách mới chép gần đây). Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1992, tr. 61 giới thiệu bản (B) là do Bùi Nhữ Trạch khắc bia, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 23 (1762). Tên bia là Cao Sơn Đại vương thần từ bi minh. Khi dịch bản (A), sách Chương Mỹ xưa và nay, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây, 2003, tr.678 lại viết là Bùi Văn Dịch khắc. Đúng ra là Bùi Nhữ Dịch khắc, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772) và bia không có tên, bản (B) dòng đầu ghi Cao Sơn Đại vương từ minh tịnh tự.

(6) Xem Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoãn năm Cảnh Hưng 40 (1779) ký hiệu VHv.650 - 1 quyển tờ 30a hoặc xem Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ chủ biên), Nxb. Văn học, H. 1993, tr.182.

(7) Hiện nay, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một số sách chép lại tác phẩm của Lê Tung:

- Sách chép tay bài văn bia đền Cao Sơn đại vương ở ứng Hòa rồi sửa chữa bằng bút chì, kí hiệu VHt.42.

Đại Nam bi ký thi trướng bảo tập: A.222.

Nhàn ái thần từ lục: một bản viết 32 tr, 32x22,5cm, A.710. Viết về sự tích của Đỗ Kính Tu có lời bình của Ngô Sĩ Liên, Lê Tung. Ngoài ra còn một số bản thần phả mang tên Lê Tung soạn. Song về về niên đại của những bản thần này có nhiều nghi vấn. (Xem thêm bài Nhà sử học Lê Tung và lạc khoản trong một số bản thần phả hiện có của Nguyễn Quang Trung, Lê Kim Thuyên, Thông báo Hán Nôm học năm 1997, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.664-670.

(8) Việt sử thông giám tổng luận do Lê Tung soạn. Theo Phan Huy Chú, khi Vũ Quỳnh làm xong sách Đại Việt thông giám thông khảo, dâng lên vua, Tương Dực muốn tóm tắt những điều quan trọng trong bộ sử ấy và có phê phán làm thành bài tổng luận để đọc cho tiện, bèn sai Lê Tung soạn (chú thích của Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Nxb. KHXH, H. 1993, tập III, tr.173. Bản chữ Hán, Bản kỷ (BK) quyển XV - tờ 24b.

(9) Bia mang số 11 ở Văn Miếu Hà Nội hoặc thác bản văn bia Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, NO 1369.

(10) Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB), Nxb. KHXH, H. 1997, tr.28 (bản chữ Hán tờ 111b) ghi là “Đôn Hòa bá”. Theo ĐVSKTT và hai tấm bia (A), (B) đều ghi là “Đôn Thư bá”.

(11) ĐVSKTT - BK, q. XV, tờ 24b, bản tiếng Việt Sđd., tr.72. Xem thêm: Hồng Thuận lục niên Giáp Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, N0 1356.

(12) ĐVSKTT - BK, q. XIV tờ 24b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.40.

(13) ĐVSKTT - BK, q. XIV, tờ 50b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.97-98.

(14) Tuyển tập văn bia Hà Nội (TTVBHN), Nxb. KHXH, H. 1978, tr.16-23; tr.118-123 chép nhầm là “Hùng đồ” (雄 圖).

(15) Bản (B) viết nhầm thành chữ “thị” (示) vì chữ “thị” (示) và chữ “thiên (天) tự dạng giống nhau.

(16) TTVBHN ghi là chữ “kỳ” (期) theo bản gốc đúng ra phải là (祈).

(17) Bản (A) viết là “dân” (民), bản (B) viết là “thân” (親) cả hai chữ này đều thông nghĩa.

(18) TTVBHN thiếu chữ “quân” (軍).

(19) TTVBHN thiếu chữ “tập” (集).

(20) Bản (A) viết là

, bản (B) viết là (屯). Riêng chữ (屯) có 2 âm đọc “truân” và “đồn”. Ở đây, chữ (屯) phải đọc là “truân” (nghĩa là khó khăn) mới thông nghĩa. Có lẽ bản (A) viết lộn chữ “truân” (屯) thành chữ “đồn”().

(21) Bản (B) thay 3 chữ “Ninh Sơn huyện” (寧 山 縣) bằng chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣) (xem thêm chú thích 3).

(22) Bản (B) viết: “cái dĩ mao thảo” (蓋 以 茅 草) bản (A) thiếu chữ “dĩ” (以).

(23) TTVBHN viết nhầm chữ “đổ” () thành chữ “thị” (視).

(24) Bản (B) viết chữ “Đồng” (同) (cả câu là: cùng muôn họ chịu cảnh đọa đầy); Bản (A) viết là chữ “mẫn” (憫), (cả câu là : thương muôn họ chịu cảnh đọa đầy) đều có nghĩa.

(25) TTVBHN ghi “ích diên” (益 延). Theo bản (B) viết là “ích miên” (益 綿). Bản (A) viết là “ích cẩm” (益 錦) có lẽ bản (A) khắc nhầm.

(26) Bản (A) khắc là “yên” (焉), bản (B) khắc là “chính” (正) ở đây phải là “yên” (焉) mới đúng. Bản (B) khắc nhầm.

(27) TTVBHN viết là “thập nguyệt” (十 月). Xin sửa lại là “thập nhị nguyệt” (十 二 月) .

(28) Bản (A) viết là “linh phương” ( 方). Bản (B) khắc là “đa phương” (多 方), chúng tôi theo bản (B),

(29) Bản (A), (B) đều ghi là “vu triệu tính” (于 兆 姓), “vu bách thần” (于 百 神). TTVBHN ghi là “vu bách tính (于 百 姓), “vu bách thần” (于 百 神).

(30) Bản (B) thay 6 chữ “Ninh Sơn huyện, Tử Trầm xã” (寧 山 縣, 紫 沉 社) bằng 3 chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣).

(31) Bản (A) đều viết là “thần đẳng soạn minh” (臣 等 撰 銘). TTVBHN ghi nhầm là “thần đẳng soạn bi” (臣 等 撰 碑).

(32) TTVBHN thiếu 2 chữ “phát huy” (發 揮).

(33) TTVBHN viết “cổ kim định lý” (古 今 定 理). Theo Bản (A), (B) phải là “cổ kim chi định lý” (古 今 之 定 理).

(34) Bản (B) khắc là “kỳ du cửu hĩ” (其 愈 久 矣) thêm chữ “cửu” (久).

(35) Chữ “thương” (蒼) không kiêng húy. Xem Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, H. 1997, tr.70-72.

(36) TTVBHN ghi là “uyên hồi” (淵 洄) xin sửa lại theo đúng nguyên bản là “hồi uyên” (洄 淵).

(37) Bản (A) là : “bàn vô phương dân” (磅 無 方 民) bản (B) viết là “bàn bạc vô phương” (磅 礡 無 方), chúng tôi theo bản (B).

(38) TTVBHN ghi là “hùng thị” (雄 視), không có nghĩa. Xin sửa theo bản gốc là “xác thị” (確 視).

(39) Bản (A) viết là chữ “đồn” () Bản (B) viết nhầm “truân” (屯). Vì 2 chữ này tự dạng giống nhau. Theo chúng tôi bản (A) khắc nhầm, phải là “truân” mới đúng âm vận và thông nghĩa hơn.

(40) TTVBHN chép nhầm là “lưỡng đô chấn thi” (兩 都 振 施) đúng ra phải là “tây đô phấn thi” (西 都 奮 施). (Tây Đô giết giặc)

(41) TTVBHN chép nhầm là “phong tiền” (風 前), nguyên bản là “phong truyền” (風 傳).

(42) Bản (B) khắc là “cửu trùng trùng du cửu” (九 重 重 愈 久) thừa chữ “trùng” (重) (chữ này bị xóa nhưng còn khá rõ).

(43) Bản (A) là “cưu công trợ tài” (鳩 功 助 材), Bản (B) là “cưu công sức tài” (鳩 功 飭 材).

(44) Bản (A) viết là “hoa tự” (華 字) , Bản (B) là “hoa vũ” (華 宇).

(45) TTVBHN chép nhầm là “diệu tập” (耀 習) đúng ra phải là “diệu tập” (耀 熠).

(46) Bản (A) là “hương hỏa minh yên” (香 火 明 煙), bản (B) là “hương hỏa minh nhân” (香 火 明 ) vì bản (B) viết nhầm bộ “hỏa” (火) thành bộ “thị” (示) (cùng giống nhau về nghĩa).

(47) Bản (A) viết là “liệt phương ích hiển” (列 芳 益 顯), bản (B) viết là “lưu phương ích hiển” (流 芳 益 顯), chúng tôi theo bản (B).

(48) Bản )A) viết chữ “cổ” (估) (nghĩa là đánh giá). Bản (B) khắc chữ “hữu” (佑) (chữ “hữu” nghĩa là giúp đỡ). ở đây phải là “hữu”, Bản (A) khắc nhầm, vì tự dạng hai chữ gần giống nhau.

(49) TTVBHN viết nhầm là “Hồng Đức tam niên” (洪 德 三 年), đúng ra phải là “Hồng Đức nhị niên” (洪 德 二 年) .

(50) Bản (A) viết là “tiến thận quang lộc đại phu” (進 慎 光 祿 大 夫) bản (B) viết là “quang tiến thận lộc đại phu” (光 進 慎 祿 大 夫), chúng tôi theo bản (A).

(51) Nguyên văn chữ “thương cơ” (蒼 姬). Chữ “Thương” (蒼) là họ của Chu Vũ Vương, còn chữ “cơ” (姬) chưa rõ nghĩa.

(52) Lưu Bang sáng lập nhà Hán, theo truyền thuyết là con của Xích Đế đã chém chết con rắn trắng trước khởi nghĩa.

(53) Nguyên văn: “bạch y phụ lão” (白 衣 父 老) có lẽ là nhắc lại điển tích Thái tử Đan và đoàn quân tiễn Kinh Kha qua sông Dịch sang đất Tần, đầu đội khăn trắng, áo trắng tiễn đưa và ca bài hát: “Gió thổi sông Dịch lạnh tái tê - Tráng sĩ một đi không trở về” (Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn - Tráng sĩ nhất khứ, bất phục hoàn) ( Chiến Quốc sách - Yên sách ).

(54) Lệ Mẫn tức Lê Uy Mục. Theo các sách Việt sử cương mục tiết yếu (VSCMTY) Hồng Thuận trung hưng thực lục và ĐVSKTT (đều chép là “Mẫn Lệ công”. Nhưng ở hai bia (A), (B) đều viết là “Lệ Mẫn”.

(55) Điện Trường Lạc (thời Lê) được nhắc đến trong ĐVSKTT, BK, q. XVI, tờ 40a; Đại Việt Lam Sơn kính lăng bi N0 19724; VSCMTY, Sđd., tr.382. Trường Lạc còn là tên gọi của mẹ vua Hiến Tông. Năm 1504, khi Uy Mục lên ngôi giết bà Trường Lạc, duồng đuổi người họ tông thất và công thần về địa phương Thanh Hóa. Năm 2003, tiến hành khai quật tại Hội trường Ba Đình cũng phát hiện nhiều hiện vật khắc chữ “Trường Lạc điện”, “Trường Lạc khố”.

(56) Nguyễn Bá Lân sau được ban quốc tính là Lê Bá Lân. Nhưng bia này vẫn ghi họ của là Nguyễn Bá Lân. Xem ĐVSKTT, q. XIV, tờ 1b; q. XV, tờ 1a. Bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(57) Nguyễn Hoằng Dụ là con của Nguyễn Văn Lang - một vị khai quốc công thần vào bậc nhất dưới thời Lê Tương Dực (xem chú thích 16).

(58) Nguyễn Văn Lữ là một vị khai quốc công thần cùng với Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Bá Lân, Lê Tung... giúp Lê Tương Dực lên ngôi.

(59) Nguyên văn “bạch mao hoàng việt” chữ trong thiên Mục thệ của Kinh Thư: “Vương tá trượng hoàng việt, hữu bỉnh bạch mao” (Nghĩa là: vua Vũ Vương tay trái chống búa dát vàng, tay phải cầm cờ tiết mao trắng). Thiên Mục thệ viết về việc vua Vũ Vương cùng tướng sĩ làm lễ tuyên thệ ở đất Mục trước khi đi chinh phạt vua Trụ.

(60) Huyện Ninh Sơn đến năm 1533 (Lê Trang Tông lên ngôi - húy là Ninh) đổi thành huyện Yên Sơn. Đến thế kỷ XIX, trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: "Chúc Sơn ở bên hữu núi Ninh Sơn, có ngọn núi tròn nổi lên, xung quanh có nhiều rừng vây bọc" (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. KHXH, H. 1992, T 1, tr.89.

(61) Đoan Khánh tức niên hiệu của vua Uy Mục, tên húy là Tuấn (1479-1509), ở ngôi 5 năm (1505-1509).

(62) Sử chép: "Khi Dinh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Hồng Thuận, truy tôn cha là Kiến Vương Tân làm Kiến Hoàng đế", ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1a; VSCMTY, Sđd., tr.387.

(63) Tam cương, Cửu trù: theo học thuyết Nho giáo, "Tam cương" là ba mối quan hệ: quân thần, phụ tử, phu phụ (đạo vua tôi, cha con, vợ chồng). “Cửu trù”: chín phép lớn trị thiên hạ của thời cổ ghi trong Kinh Thư thiên Hồng Phạm.

(64) Xem ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1b, 2a, bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(65) Triện Lý, Lệ Chung: Lý Tư, đời Tấn đổi kiểu chữ Đại triện thành chữ Tiểu triện. Chung Do, đời Tam Quốc là người nổi tiếng viết chữ Lệ đẹp. Cả câu này ý nói kén chọn người viết chữ đẹp để khắc vào bia đá./.

Bài văn bia của vua Lê Thái Tổ khắc trên vách đá Pú Huổi Chõ ở Điện Biên – Lai Châu là một di tích lịch sử có nội dung phong phú và có giá trị về mặt lịch sử, địa lí, văn học. Từ bài văn bia này, chúng ta hiểu thêm công lao của Lê Lợi và có thêm thông tin chính xác khẳng định ý chí quyết tâm giữ vững biên cương, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của người anh hùng đất Lam Sơn. Đây là một Di sản Văn hóa của dân tộc, góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam ở thế kỷ XV.

Bài văn bia của Lê Lợi (vua Lê Thái Tổ) được khắc vào vách đá Pú Huồi Chõ thuộc địa phận bản Chang, phường Lê Lợi, thị xã Lai Châu (nay là xã Lê Lợi, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu). Bia cách thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên chừng 7km về phía Tây Bắc, theo đường từ Mường Lay đi Mường Tè, ngược lên phía trên 2km là thác Lai của sông Đà. Bia cao so với mặt nước sông là 50m, thành đá khắc văn bia dựng đứng. Đường đi đến di tích có thể đi thuyền hay cano theo đường thuỷ, cũng có thể đi theo đường bộ bằng ô tô, xe máy đều được.

Bài văn bia Lê Lợi làm tháng Chạp năm Tân Hợi (tháng 1/1432) ở Điện Biên – Lai Châu được viết theo thể loại ma nhai khắc trên vách đá Pú Huổi Chõ, văn bia được viết bằng chữ Hán gồm 132 chữ, viết theo chữ khải chân và tạc trong khuôn khổ hình chữ nhật có kích thước 1,2m x 0,8m.

20211125 2

Bài văn bia của Lê Lợi khắc trên vách đá Pú Huổi Chỏ, xã Lay Tở (nay là xã Lê Lợi), huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu

 

Dưới đây là phiên âm và bản dịch của bài thơ do nhà thơ Trần Lê Văn dịch. PGS, TS Nguyễn Tá Nhí (Viện Hán - Nôm) sưu tầm bổ sung:  

Phiên âm:

Di địch chi vi biên hoạn tự cổ hữu chi, Hán chi Hung Nô, Đường chi Đột Quyết, ngã Tây Việt chi mường  Lễ chư man thị dã. Khoảnh do Trần, Hồ suy chính, phiên thần bạt hỗ, Cát Hãn nữu ư cựu tập, phụ cố phất tuẫn, dư kim suất vãng chinh thủy lục tịnh tiến, nhất cử tựu binh, nhân tả nhất luật, khắc chi vu thạch, dĩ giới hậu thế man tù chi ngạnh hóa giả, vân:

                                                             Cuồng tặc cảm bô chu,

                                                             Biên manh cửu hễ tô.

                                                             Bạn thần tòng cổ hữu,

                                                             Hiểm địa tự kim vô.

                                                             Thảo mộc kinh phong hạc,

                                                             Sơn xuyên nhập bản đồ,

                                                             Đề thi khắc nham thạch,

                                                            Trấn ngã Việt Tây ngu.

                                            Tân Hợi quý đông cát nhật

Ngọc Hoa Động Chủ đề.

Dịch nghĩa:

Dân di địch là mối họa ở vùng biên giới, từ cổ đã có, như Hung Nô đời Hán, Đột Quyết đời Đường và các tộc người man ở miền Tây nước Việt ta. Ít lâu do chính sự cuối đời Trần, Hồ suy yếu, bọn phiên thần hung hăng táo tợn, Cát Hãn khư khư giữ tật cũ, ngoan cố không sửa đổi. Nay ta đem quân tiến đánh, hai quân thủy bộ cùng tiến. Đánh một trận là dẹp yên ngay. Nhân làm một bài thơ luật, khắc vào đá núi để răn các tù trưởng đời sau ngang ngạnh phải tuân theo đức hóa.

Thơ rằng:

                                                         Giặc điên cuồng tránh sao khỏi sự trừng phạt,

                                                         Dân biên thùy từ lâu mong đợi được cứu sống.

                                                         Bề tôi làm phản từ xưa vẫn có

                                                         Đất hiểm trở từ nay chẳng còn

                                                         Gió thổi, hạc kêu, cũng làm cho giặc sợ hãi

                                                         Sông núi đất này vào chung một bản đồ.

                                                         Đề thơ khắc vào đá núi

                                                         Trấn giữ miền Tây nước Việt ta.

 Ngày lành tháng cuối đông năm Tân Hợi (1/1432)

Ngọc Hoa Động Chủ đề

Dịch thơ:

                                                        Bọn giặc dữ tránh sao trừng phạt

                                                        Dân biên thùy khao khát chờ ta

                                                        Lạ chi thói kẻ gian tà

                                                        Từ nay đất hiểm hóa ra yên lành

                                                        Tiếng gió, hạc đủ kinh hồn giặc

                                                         Núi sông ta vào một bản đồ

                                                         Khắc trên đá núi bài thơ

                                                         Miền Tây nước Việt muôn thu vững vàng.

Ngày lành, tháng 1 năm 1432

Ngọc Hoa Động Chủ đề

Về xuất sứ của bài văn bia trên, sử cũ của nước ta đã ghi rõ: Từ thời Hùng Vương, vùng Tây Bắc sông Đà còn in đậm dấu ấn của Nhà nước Văn Lang. Thời Lý - Trần thuộc lộ Đà Giang, miền đất Điện Biên – Lai Châu gọi là châu Ninh Viễn. Theo sách “Hưng Hoá lục” của Hoàng Trọng Chính, họ Đèo ở châu Ninh Viễn, đời này qua đời khác làm phụ đạo miền đất biên cương này.

Khi quân Minh sang xâm lược nước ta (1407), đèo Cát Hãn theo nhà Minh, được nhà Minh cho giữ đặc quyền cai quản vùng đất rộng lớn và quan trọng này. Đèo Cát Hãn trở thành một tên tay sai đắc lực, đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của các dân tộc thiểu số vùng sông Thao và Sông Đà.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo lớn mạnh, phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân và đang ở thế tấn công bao vây quân Minh. Sau khi tiêu diệt viện binh chủ lực của giặc Minh và bao vây thành Đông Quan, tháng 11 năm 1427, Bình Định Vương Lê Lợi phái Chủ thư thị sử là Trần Hổ đi tuyên dụ vỗ về châu Ninh Viễn, chiêu dụ Đèo Cát Hãn. Thổ tù Ninh Viễn Đèo Cát Hãn đem quân và voi đến quy thuận nhà Lê. Với lượng hải hà, Bình Định Vương tha và vẫn cho Đèo Cát Hãn tiếp tục cai quản vùng đất này.

Sau 10 năm chiến đấu gian khổ (1418 - 1428) Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt, bắt tay vào xây dựng một triều đại phong kiến hưng thịnh.

Lê Lợi rất chú trọng việc lập pháp và chủ trương việc phòng thủ quốc gia một cách tích cực. Chủ trương quốc phòng và ý chí bảo vệ biên cương được khẳng định qua lời thơ của Lê Lợi:

                                                      “Biên phòng cần có phương lược tốt

                                                        Đất nước nên lo kế dài lâu…”

Nhà nước Lê sơ đã xác định miền Tây Bắc thực sự là vùng biên ải quan trọng của lãnh thổ Đại Việt. Tù trưởng Đèo Cát Hãn trở mặt, không lại triều cống, mặc dù Lê Lợi đã nhiều lần đem lời tín nghĩa, giảng dụ ân cần, hứa sẽ phong cho tước cao, được hưởng lộc hậu. Nhưng y quên ân bội nghĩa, bất chấp với chính sách mềm dẻo của triều đình, làm phản liên kết với Kha Đốn (Kha Lại), một bề tôi phản nghịch của Ai Lao quấy nhiễu nhân dân nơi biên ải đánh chiếm vùng đất Mường Muỗi (nay là Thuận Châu – Sơn La) và mưu toan cát cứ một vùng Tây Bắc nước ta. Do hành động phản nghịch của Đèo Cát Hãn, nhằm bảo vệ vùng biên giới của đất nước, năm 1431 vua Lê Thái Tổ đã phái Quốc Vương Từ Tề và Quan Tư Khấu Lê Sát đem quân tiến đánh. Sau đó vua Lê Thái Tổ thân chinh đem quân lên châu Phục Lễ (châu Ninh Viễn).

Đại quân của triều đình tiến theo đường sông Hồng rồi ngược sông Đà. Thời đó sông Đà có nhiều thác ghềnh hiểm trở, nhân dân vùng này còn truyền lại câu ca dao:

                                                        “Đường lên Mường Lễ bao xa

                                                         Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh

                                                         Ấy ai nào chẳng hững hờ

                                                        Chống thuyền ngược nước sông Đà mà lên.”

Qua câu ca dao trên có thể hình dung được sự truân chuyên, vất vả của đoàn quân tiến lên ngược sông Đà bằng đường thuỷ và đường bộ, đâu phải chỉ có sự hiểm trở của thác ghềnh mà còn trăm thứ bất trắc, sự hoang rậm của rừng núi, lại còn vấn đề quân nhu, quân lương trong một cuộc chiến lâu dài trên vùng đất rộng lớn. Những ngày sau đó đại quân Lê Lợi đã vượt qua tất cả và đánh tan quân phản nghịch Đèo Cát Hãn.

Tháng Giêng năm Nhâm Tý (1432), bình được Mường Lễ (châu Phục Lễ), vua Lê Thái Tổ kéo quân về bèn ban tờ chiếu rằng: “…Mường Lễ vốn là một xứ lẻ của nước ta thời xa xưa. Chỉ vì thời vua trước đây, triều đình suy bại, chính quyền tồi tàn, nhà vua mất kỷ cương, biên thuỳ bỏ sơ khoán, bởi thế xứ ấy mới dám cậy hiểm, cậy xa, không tuân mệnh, không nộp thuế, lại cướp biên thuỳ, tàn hại dân ta…”. Tù trưởng Đèo Cát Hãn vẫn quen thói cũ nổi loạn, liên kết với tù trưởng Mường Bô là Đinh Quế cùng phản nghịch Hối Khanh kéo quân thẳng vào xứ Gia Hưng và Đà Giang nhũng nhiễu nhân dân và triều đình.

Để tiêu diệt hết mầm mống hoạ loạn, Lê Lợi sai Tư đồ Lê Sát dẫn quân theo đường Đà Giang tiến đánh trước, Quốc Vương Tư Tề thống binh đường Bắc Quan tiến chậm phía sau, lại sai Hành quân Tổng quan Hoá Châu Lê Khôi hiệp binh tiếp ứng. Lê Lợi đích thân đốc 6 đội quân đi đường Gia Hưng kế tiến, bắt giết bọn Hối Khanh, Đinh Quế. Sau đó cả 2 cánh quân thuỷ, bộ tiến thẳng tới châu Ninh Viễn, nghịch thần Kha Lại chạy bị giết chết, Đèo Cát Hãn và con là Đèo Mạnh Vượng chạy trốn, sau đó cha con xin hàng, nhà vua tha tội cho Cát Hãn và phong làm Tư mã.

Sau khi dẹp yên phản loạn năm 1431, để răn các tù trưởng cai quản nơi biên giới của Tổ quốc, tháng Chạp năm Tân Hợi (tức tháng 1/1432) Lê Lợi đã cho khắc lên vách đá Pú Huổi Chõ bài văn bia ghi nhớ sự kiện này.

Khi xây công trình thuỷ điện Sơn La, để ngăn dòng, quả núi nơi khắc bài thơ sẽ nằm trong lòng hồ và bị ngập sâu trong nước. Nhà nước đã cho di dời tấm bia lên vị trí cao gần nơi nó đã tồn tại gần 600 năm.

Với mong muốn đem đến cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế biết đến một áng thiên cổ hùng văn của vị Hoàng đế lỗi lạc. Công ty cổ phần Pusamcap và gia đình ông Lê Thanh Hùng - Chủ tịch HĐQT Công ty, đã tiến hành khai thác phiến đá từ chính phần thân của bia Lê Lợi để lập nên phiên bản bài thơ từ nguyên gốc. Với tài hoa của các nghệ nhân, sự giúp đỡ của các Giáo sư, chuyên gia của viện Hán – Nôm, Ba phiên bản bia đã được hoàn thành.

Phiên bản bia Lê Lợi do tỉnh Lai Châu trao tặng Thanh Hóa, ngày 16/9/2011

(nguồn: http://www.nhandan.com.vn/)

Phiên bản đầu tiên đã gửi tặng nhân dân Thủ đô đúng vào dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Những phiên bản còn lại, được gửi tặng cho tỉnh Lai Châu và đặc biệt là dâng tặng Khu di tích lịch sử Lam Kinh-Thanh Hoá nơi khởi phát cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nơi thờ đức Thái Tổ Lê Lợi và các Hoàng đế nhà Lê.

Bài văn bia của vua Lê Thái Tổ khắc trên vách đá Pú Huổi Chõ ở Điện Biên – Lai Châu tháng Chạp năm Tân Hợi (1/1432) là một di tích lịch sử có nội dung phong phú và có giá trị về mặt lịch sử, địa lí, văn học. Từ bài văn bia này, chúng ta hiểu thêm công lao của Lê Lợi và có thêm thông tin chính xác khẳng định ý chí quyết tâm giữ vững biên cương, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của người anh hùng đất Lam Sơn. Đây là một Di sản Văn hóa của dân tộc, góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam ở thế kỷ XV. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 1981, được gìn giữ và phát huy gia trị./.

Thanh Hiền

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.

------

Tài liệu tham khảo:

- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Đại Việt sử kí toàn thư. NXB KHXH. Hà Nội 1998

- Quốc sử quan triều Nguyễn. Khâm định Việt sử Thông Giám cương mục. NXB GD 1998.

- Phạm Ngô Minh – Lê Duy Anh. Nhân vật họ Lê trong lịch sử Việt Nam. NXB Đà Nẵng. 2001.

20200823

Ảnh: Mộ Vũ Duy Thanh ở xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình

Vũ Duy Thanh 武惟清 (1807-1859), tự là Trừng Phủ 澄甫, hiệu là Mai Khê 梅溪 và Bồng Châu 蓬洲…, người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh (nay là thôn Vân Bồng, xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Duy Thanh đã tỏ ra là người thông minh, cẩn trọng và có văn tài. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép tiểu sử của ông, có nhận xét: “Vũ Duy Thanh, tự là Trừng Phủ, người Yên Khánh, thuộc Ninh Bình. Lúc trẻ thông tuệ, xem đâu nhớ đấy, 14, 15 tuổi biết làm văn. Anh là Đề, là học trò giỏi, mà Duy Thanh lại còn học giỏi hơn…”(1). Tuy vậy, mãi tới năm 37 tuổi, Vũ Duy Thanh mới đi thi Hương, khoa Quý Mão (1843), trường Nam Định và đỗ Cử nhân(2). Năm sau, khoa Giáp Thìn (1844), ông dự kỳ thi Hội, nhưng không đỗ. Bẩy năm sau, tới khoa thi Hội năm Tân Hợi (1851), ông đi thi và đỗ Phó bảng. Cùng năm Tân Hợi ấy, vua Tự Đức mở khoa thi Cát sĩ (hay Chế khoa), ông đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (tức Bảng nhãn)(3).

Sau khi thi đỗ, Vũ Duy Thanh được bổ chức Hàn lâm viện Thị độc, rồi chuyển sang Tập hiền viện. Năm 1853, ông được thăng lên chức Triều liệt Đại phu Quốc tử giám Tư nghiệp. Năm 1855, ông được bổ chức thự Quốc tử giám Tế tửu. Tháng 9 năm Tự Đức thứ 10 (1857), ông được chính thức bổ chức Trung Thuận Đại phu Quốc tử giám Tế tửu.

Trong thời gian giữ chức Tế tửu ở Quốc tử giám, trường Nho học cao cấp bậc nhất của quốc gia Đại Nam ngày đó, Vũ Duy Thanh tỏ rõ là một bậc thầy đạo cao đức trọng, có vốn kiến thức uyên bác và đặc biệt luôn hết lòng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo lớp hậu tiến.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, nhận xét về ông như sau: “Duy Thanh tính chất phác ngay thẳng, đối với mọi người vui vẻ giản dị, không cạnh tranh. Nhưng đến khi luận về sự sai lầm của tục học và cái tai hại của dị đoan thì tất ra sức nói…”(4).

Theo Nhà thư tịch học Trần Văn Giáp, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam thì tác phẩm của Vũ Duy Thanh có:

- “Bồng Châu Vũ Tiên sinh thí văn - 蓬洲武先生試文 (Văn) ký hiệu VHv.442.

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集 (Văn)”(5).

Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), các tác giả cho biết, Vũ Duy Thanh có các tác phẩm sau:

- “Bồng Châu thi văn tập 

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集

Bồng Châu tạp thảo 蓬洲雜草, v.v…”(6).

Tác phẩm Bồng Châu thi văn tập hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1043. Văn bản Bồng Châu thi văn tập là một tập sách chép tay, trên giấy dó, gồm có 222 trang, khổ 27x15cm, mỗi trang có 8 hàng, mỗi hàng trung bình, 22, 23 chữ Hán, nét bút khá già dặn, theo lối Hành thư rõ ràng, dễ đọc.

Bồng Châu thi văn tập được chia làm 3 quyển:

1. Quyển thứ nhất - Thi tập:

+ Thơ Ngũ ngôn cổ phong: 8 bài

+ Thơ Thất ngônTứ tuyệt 23 bài, Trường thiên 8 bài, Bát cú 85 bài.

Như vậy, Quyển thứ nhất có tất cả 124 bài thơ: tiễn tặng bạn bè, mừng thi đỗ, mừng thọ, vịnh cảnh thiên nhiên, vịnh di tích lịch sử, v.v...

2. Quyển thứ hai - Văn tập, gồm có 21 bài trướng: mừng bạn thăng quan, mừng được về hưu, mừng thượng thọ, v.v...

Trong Quyển 2 này, sau bài Nghĩ Hàn Xương Lê cầm, có chép 10 bài thơ thể Sở từ của Vũ Duy Thanh.

3. Quyển thứ ba - Tạp tập, là phần chép các bài Thuyết Luận , Ký Bình Thư Tế văn , v.v… gồm có 18 bài như: Mộng thuyết, ca ngợi Quản Trọng đời Xuân Thu; phê bình bài Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu; phê phán đạo Giatô; bác bỏ thuyết thần tiên; phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Dũ… Ngoài ra, Quyển 3 còn có 19 bài Văn tế thần, cầu mưa, cầu phúc, v.v…

Bồng Châu thi văn tập chia thành 3 quyển như trên, gồm có 2 nội dung: thơ và văn xuôi, cho nên chúng tôi cũng xin tách ra làm 2 phần để phân tích và bình luận:

I. Thơ Vũ Duy Thanh - tiếng thơ của một nhà Nho quân tử

Bao trùm lên toàn bộ tập Bồng Châu thi văn tập là một đạo lý nhân nghĩa của đạo Nho và tấm lòng yêu nước, thương dân của một bậc chính nhân quân tử.

Hầu như ở bài thơ nào, từ thơ thù phụng gửi cho bạn bè, đến thơ tả cảnh, vịnh vật…, tác giả Vũ Duy Thanh đều ý thức mình là một nhà Nho chân chính, một nhà giáo mẫu mực. Trong bài Hạ Áng Ngũ Nguyễn Phó bảng(7)賀盎伍阮副榜(Mừng ông Nguyễn Phó bảng người Áng Ngũ), Vũ Duy Thanh nói về bạn mình, nhưng thực ra là ông tự bạch về con người mình:

Phiên âm:

Ngô hữu Nguyễn Tuấn phủ

Phú chất tối thanh thuần.

Vi học thậm khắc khổ

Thanh tùng nại tuế hàn

Hoàng cúc nghi thu phố…

Dịch nghĩa:

Bạn ta là Nguyễn Tuấn phủ

Tư chất rất trong sạch, thuần nhã

Học tập cực khắc khổ

Giống như cây tùng xanh tốt chịu được năm rét buốt.

Giống như hoa cúc vàng thích nghi với tiết trời thu…

Vũ Duy Thanh ví người bạn của ông là Phó bảng Nguyễn Ngạn với cây tùng, hoa cúc, bởi lẽ hai loài cây ấy đều tượng trưng cho người quân tử mà văn chương cổ điển xưa thường nói tới.

Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử từng nói: “” - Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã (Nghĩa là: Mỗi năm rét đến, mới biết cây tùng, cây bách rụng lá cuối cùng [sau mọi loài cây khác] (Luận Ngữ - Tử Hãn).

Trong cuộc đời làm quan ngắn ngủi, chưa đầy 10 năm, Vũ Duy Thanh chỉ giữ các chức vụ về văn hóa, giáo dục như: Hàn lâm viện Thị độc, Tập hiền viện, Quốc tử giám Tế tửu. Trong đó, chức vụ lâu nhất là Tế tửu Quốc tử giám tại Kinh đô Phú Xuân - Huế, do vậy, Vũ Duy Thanh luôn luôn ý thức được trách nhiệm của một bậc thầy mô phạm đối với bạn đồng liêu và học trò.

Trong bài Thứ Lưu Đông nguyên vận tiễn Ngô Trợ giáo lĩnh Bắc Ninh Đốc học - (Họa vần thơ của Lưu Đông và tiễn Ngô Trợ giáo đi lĩnh chức Đốc học Bắc Ninh), Vũ Duy Thanh có những suy nghĩ khá sâu sắc về nghề làm thầy của mình:

Phiên âm:

Cổ xưng giáo chức lãnh

Ngã hỷ giáo chức thanh…

Kinh điển như uyên hải

Nghĩa lý vị Dịch tinh.

Khóa tập hữu trình hạn

Nhật nguyệt nan vi tranh

Nguyện tử thể thường thái

Nguyện tử tâm thường tỉnh

Nguyện tử thủ thường ngạnh

Nguyện tử mục thường minh

Dịch nghĩa:

Thời xưa cho nghề thầy giáo là chức quan lạnh,

Chúng ta vui lòng vì nghề thầy giáo là nghề thanh bạch.

Kinh điển nhà Nho thì sâu sắc như biển cả,

Còn nghĩa lý thì không chỉ có Kinh Dịch là tinh túy.

Việc dạy học thì có quy trình thời hạn,

Đến mặt trời, mặt trăng cũng khó tranh giành [sự vận hành ấy].

Mong Bác giữ cho thân thể lúc nào cũng thư thái,

Mong Bác giữ cho tâm hồn lúc nào cũng sáng suốt.

Mong Bác giữ cho tay chân lúc nào cũng mạnh cứng,

Mong Bác giữ cho đôi mắt lúc nào cũng tinh tường…

Cuối bài thơ, Vũ Duy Thanh khẳng định giáo chức là một nghề rất cao quý và đầy vinh dự:

Phiên âm:

Định vô ngâm Mục túc

Khởi tất tiển thuần canh

Phạt Đàn năng bất tố

Nhất chức hữu dư vinh.

Dịch nghĩa:

Nhất định không phải ngâm câu thơ Mục túc.

Há lại chẳng thừa món canh rau dút, cá vược?

Nhớ bài thơ Phạt Đàn, chẳng phải ăn không ngồi rồi.

Nghề nhà giáo có thừa sự vinh dự!

Vũ Duy Thanh nói đùa với bạn mình là “Không phải ngâm câu thơ Mục túc” (Vô ngâm Mục túc) là có ý nhắc tới câu thơ trong bài Ký hữu 寄友 (Gửi bạn) của Nguyễn Trãi dưới đây:

Phiên âm:

Thập tải độc thư bần đáo cốt

Bàn vô mục túc, tọa vô chiên.

Dịch nghĩa:

Mười năm đọc sách nghèo đến tận xương,

Mâm cơm không có rau mục túc, chỗ ngồi không có đệm.

Còn nói “Khởi tất tiển thuần canh” là tác giả sử dụng điển tích văn chương cổ điển mà nhà Nho xưa, không ai là không biết, đó là “Thuần canh lô khoái” 蓴羹纑膾 (tức Canh rau dút, gỏi cá vược).

Theo Tấn thư, Trương Hàn, người đất Ngô Quận, tính tình phóng khoáng, làm quan ở Kinh đô, nhân buổi gió thu nổi, chạnh lòng nhớ nhà, nhớ món rau thuần, gỏi cá vược ở quê, bèn than rằng: “Người ta ở đời quý nhất là được thỏa chí, sao lại có thể buộc mình vào con đường làm quan ở xa ngàn dặm để cầu lấy tiếng tăm tước vị!”. Sau đó, ông bèn từ quan, về quê nhà. Ở đây, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh chỉ dùng với ý nơi bạn ông làm chức Đốc học là tỉnh Bắc Ninh, cũng không thiếu gì những món ăn đậm đà phong vị quê hương, nên cứ yên tâm với chức vụ triều đình giao phó.

Bảng nhãn Vũ Duy Thanh và bạn ông, trong bài thơ này, đều là những bậc đỗ đại khoa, hết sức thiệp liệp kinh điển, sử sách Nho gia, cho nên hầu như ở đâu cũng thấy các vị sử dụng các điển tích từ Tứ thư(8)Ngũ kinh(9). Vũ Duy Thanh viết để nhắc nhở bạn mình:  - Phạt đàn năng bất tố (Tiếng đốn cây bạch đàn, khiến cho không phải ăn không ngồi rồi!).

Đó là xuất xứ từ bài thơ Phạt đàn, phần Ngụy Phong trong Kinh Thi. Bài thơ Phạt đàn nguyên tác có tất cả 27 câu thơ, từ 4 chữ cho đến 8 chữ. Tôi xin trích 4 câu trong chương I dưới đây:

Phiên âm:

Khảm khảm phạt đàn hề

Trí chi hà chi can hề

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề.

Dịch nghĩa:

Tiếng chặt cây bạch đàn, tiếng nghe khảm khảm

Rồi đặt cây ấy ở bên bờ sông…

Người quân tử kia!

Không hề ngồi không mà ăn!

Bài thơ Phạt đàn là để khen người quân tử không chịu ngồi không mà ăn, mà hưởng thành quả lao động của người khác.

Bài Trường trung dạ ngâm, đồng bộc hôn thụy cảm tác - 場中夜吟童僕昏睡感作 (Trong trường, đêm đọc thơ bên cạnh đứa tiểu đồng đang ngủ) càng cho thấy tài học của Vũ Duy Thanh:

Phiên âm:

Xảo chuyết sơ lai phận bất đồng

Đại quân phú vật lý hà cùng

Tĩnh tư Âu lão(10) Thu thanh tác

Hạt nhược thùy đầu hãn thụy đồng?

Dịch nghĩa:

Khéo và vụng từ xưa đến nay, phận từng người không giống nhau

Tạo hóa sinh ra muôn vật, cái lý thật vô cùng

Trong lúc yên tĩnh nhớ đến bài Thu Thanh phú của ông già Âu Dương Tu

Sao giống với cảnh đứa tiểu đồng đang gục đầu mà ngủ lúc này?

Trong các bài phú sáng tác vào thời Bắc Tống (960 - 1126), sau hai bài Tiền Xích Bích phúHậu Xích Bích phú của danh sĩ Tô Đông Pha (1036 - 1101), thì người ta hay nhắc đến nhất là bài Thu Thanh phú của Âu Dương Tu. Bài phú này của Âu Dương Tu vừa hay về nội dung, vừa hay về nghệ thuật ngôn từ. Trong Thu Thanh phú, ông tả màu sắc của thu, hình dáng của thu, cả tới cái ý, cái khí của thu, để độc giả cảm nhận được cái thê lương trong tiếng thu. Cuối bài Âu Duy Tu lại liên tưởng tới kiếp người: “Bách ưu cảm kỳ tâm, vạn vật lao kỳ hình” (Trăm mối lo làm xúc động trong lòng, vạn việc đời làm lao khổ thân hình), gây cho ta một mối cảm thán vô hạn… Câu kết của bài Thu Thanh phú, đã được Vũ Dương Thanh nhắc đến ở trên: “Đồng tử mạc đối, thùy đầu nhi thụy. Đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức, như trợ dư nhi thán tức” (Đồng tử không đáp, gục đầu mà ngủ. Chỉ nghe bốn phía vách có tiếng dế ri rỉ kêu, như thể góp thêm tiếng than thở với ta vậy!).

Sử thần triều Nguyễn từng nhận xét về Vũ Duy Thanh là người bản tính chất phác, ngay thẳng, giản dị. Tôi đọc khá kỹ thơ của ông trong Bồng Châu thi văn tập, nhận thấy thơ Vũ Duy Thanh quả đúng là phần nhiều đều bình dị. Tất cả lời thơ của ông đều rất ôn tồn, thuần hậu và phác thực có phong vị thơ của Đào Tiềm (365 - 427), nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lục Triều của Trung Quốc. Đào Tiềm là một thi nhân danh tiếng của Trung Quốc, rất yêu hoa cúc.

Vũ Duy Thanh cũng làm khá nhiều bài thơ về hoa cúc: Vịnh cúcTrùng Dương vô cúcĐình tiền mẫu đơn, tuế tứ khai, Hoàng cúc kinh thu bất phát, hý vấn

Bài Vịnh cúc  (Vịnh hoa cúc) là một bài thơ hay mà tôi đọc thấy phảng phất phong vị thơ của Đào Tiềm:

Phiên âm:

Ngọc nhụy kim anh sắc sắc tân

Hòa yên, đới lộ cánh thiêm thần

Thùy tri Đào Lệnh sơ ly hạ

Cử thế giai thu, ngã độc xuân.

Dịch nghĩa:

Nhụy như ngọc, cánh như vàng, sắc tươi tốt lúc nào cũng như mới nở.

Tắm gội trong sương sớm, mây chiều, lại càng tôn thêm vẻ thần thái.

Có ai biết ông quan Lệnh họ Đào từng hái cúc dưới hàng giậu thưa?

Mọi người đang trong cảnh mùa thu, chỉ có Ta (chỉ hoa Cúc) giữ riêng vẻ xuân tươi tốt!

Vũ Duy Thanh nói “Đào Lệnh”, là vì Đào Tiềm từng giữ chức quan Lệnh (tức Tri huyện) ở huyện Bành Trạch. Còn “Sơ ly hạ” là có ý nhắc tới 2 câu thơ rất nổi tiếng của thi sĩ họ Đào, trong bài Ẩm tửu (Uống rượu) dưới đây:

Phiên âm:

Thái cúc Đông ly hạ

Du nhiên kiến Nam sơn.

Dịch nghĩa:

Hái cúc dưới hàng giậu phía Đông

Phơi phới thấy núi Nam.

Tôi đã trích một vài bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú của Vũ Duy Thanh trên đây, nhưng ông còn sáng tác nhiều bài thơ Thất ngôn trường thiên nữa. Hầu như ở thể loại nào, thơ Vũ Duy Thanh cũng có những câu thơ hay. Thí dụ một số câu thơ dưới đây:

Phiên âm:

Thê tâm sương lộ kinh thu tự

Cực mục vân sơn cảm hạo tư.

(Trường trung ngộ tiên khảo kỵ)

Dịch nghĩa:

Tấm lòng thương đau lạnh lẽo như sương móc, ở trong trường thêm lo sợ mùa thu.

Đôi mắt đăm đăm dõi nhìn áng mây trên núi, càng nhớ tới ơn lớn của cha.

(Trong trường gặp ngày giỗ của cha)

Hoặc câu:

Phiên âm:

Vụ tỏa tằng Man không mạc mạc

Đào phi vạn khoảnh tự sàn sàn.

(Hoành Sơn quan hoài cổ)

Dịch nghĩa:

Sương mù tựa như thể giam giữ nhà của dân tộc thiểu số ở trong, không gian thật yên tĩnh.

Hàng vạn con sóng lớn chồm lên vỗ dồn dập vào bờ tiếng ào ào.

(Qua Đèo Ngang hoài cổ)

Hay câu: 

宿

Phiên âm:

Lạc bút ba đào kinh biến thái,

La hung tinh tú động hàn hương.

(Ức Hàn Văn công)

Dịch nghĩa:

Mỗi khi hạ bút xuống, lời văn như sóng lớn thật đáng kinh sợ, không thể tính trước được,

Giãi bày ý tứ trong lòng như có hàng tinh tú bày ra la liệt, chấn động cả bầu trời lạnh.

(Nhớ Hàn Văn công(11))

Từ khi Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đi vào cõi vĩnh hằng đến nay đã hơn một thế kỷ rưỡi (1859-2013). Với một độ lùi thời gian dài hơn 150 năm ấy, đủ cho hậu thế thẩm định giá trị văn chương, thi ca của Vũ Duy Thanh. Thực ra, ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã đánh giá cao giá trị nghệ thuật cũng như nội dung thi ca của ông.

Trần Trung Viên (1890-1947), soạn giả bộ tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám (gồm 3 tập), xuất bản lần đầu năm 1926, đến năm 1938 mới trọn bộ, là một trong những người đầu tiên công bố thơ ca của Vũ Duy Thanh. Trong tập thi tuyển nói trên, soạn giả Trần Trung Viên, đã tuyển 7 bài thơ Thất ngôn bát cú(12) của Vũ Duy Thanh là: Thơ túng, Thăm cảnh Nhiệt Đàm, Nhớ thầy học cũ, Đề nhà học cũ, Tiễn đưa Nguyễn Tri Phương vào Nam chống giặc, Qua đèo Hải Vân, Qua suối Bạch Đàn.

Trong bộ hợp tuyển thi ca này, tên tuổi của Vũ Duy Thanh được đứng tề danh với các nhà thơ nổi tiếng khác đương thời như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, v.v…

Ở trên tôi có nói thơ của Vũ Duy Thanh bình dị, thuần hậu và phác thực. Vì thế, nếu cần trích thêm những câu thơ hay trong bộ Bồng Châu thi văn tập, thì không có gì là khó. Tuy nhiên, loại thơ bình dị ấy không phải ai cũng có thể làm được. Về vấn đề này, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học đời Thanh là Viên Mai (1716-1798) đã nhận xét rất chí lý như sau:

“Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng tất phải là cái mộc mạc từ trong khéo lớn mà ra; thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng tất phải là cái nhạt theo sau cái nồng mà có. Cũng ví như ông quan to, công thành danh toại, rồi xõa tóc, cởi dây ấn, tức là danh sĩ phong lưu, nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng bắt chước thái độ ấy, thì sẽ nên đánh roi…”(13).

II. Văn Vũ Duy Thanh - sự uyên bác của bậc sư biểu học cao hiểu rộng

Tản văn của Vũ Duy Thanh, phần lớn được ghi chép lại trong 2 quyển (Quyển 2 và Quyển 3) của Bồng Châu thi văn tập.

Vào tháng 12 năm 2012, trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất “Về thân thế, cuộc đời Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, tôi đã viết bài Mấy cảm nghĩ nhân đọc bài Văn sách khoa thi Cát sĩ của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Trong đó, tôi đã trích lời nhận xét của Học giả Cao Xuân Dục (1843-1923) về khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), mà Vũ Duy Thanh đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn) là “Khoa đặc biệt phi thường để đãi tài phi thường” (14).

Khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi (1851) này, người phúc duyệt cuối cùng và trực tiếp lấy đỗ bao nhiêu người, ai được đỗ đầu chính là vua Tự Đức (1848-1883). Tự Đức là một ông vua thông minh, chăm học từ nhỏ và là một nhà văn hóa, nhà thơ khá nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XIX. Chúng ta biết một chút về thi tài của vua Tự Đức, để thấy rằng khi ông lựa chọn Vũ Duy Thanh làm người đỗ đầu “Khoa thi đặc biệt phi thường” là không phải chuyện đơn giản chút nào. Tôi cho rằng cái điều mà Vũ Duy Thanh để lại ấn tượng mạnh trong lòng vua Tự Đức không phải chỉ là tài về thi ca, mà chắc chắn ở cả sự uyên bác, thể hiện trong các bài tản văn nghị luận của vị Bảng nhãn họ Vũ này.

Trong số các bài tản văn của Vũ Duy Thanh được tuyển trong Bồng Châu thi văn tập, có khá nhiều bài thể hiện sức học quảng bác của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh, như: Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải (Phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Xương Lê); Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay)); Thượng Hình bộ Thượng thư Trương công từ hạ thư (Thư mừng gửi lên Hình bộ Thượng thư họ Trương), v.v… Trong đó, tôi đặc biệt chú ý tới bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải của Vũ Duy Thanh. Tôi thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà người biên tập bộ Bồng Châu thi văn tập, lại xếp bài này lên đầu Quyển 2, tức bài đầu tiên trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh. Vì bày này, tác giả họ Vũ của chúng ta, Nghĩ  (tức phỏng theo, bắt chước) bài Tiến học giải  của Hàn Xương Lê (tức Hàn Dũ), một trong số Đường - Tống bát đại gia(15), do vậy, chúng ta cần biết nội dung tác phẩm của họ Hàn nói về vấn đề gì?

Bài Tiến học giải của Hàn Dũ được ông sáng tác với mục đích chính để cổ xúy phong trào Cổ văn, mà ông được coi là người lãnh đạo. “Cổ văn” là khái niệm đối lập với Biền văn. Đặc trưng của “Cổ văn” là câu văn xuôi riêng rẽ, không gò bó theo một công thức nhất định, khác với “Biền văn” rất chú trọng đối ngẫu, văn vẻ, âm luật và điển cố. Về thể văn, nó khôi phục truyền thống văn chương Tiên Tần(16), Lưỡng Hán(17), cho nên gọi là Cổ văn 古文. Thời kỳ Trung Đường (765-836), Hàn Dũ và những nhà văn khác đề xướng thể văn này, để phản đối văn phong phù hoa, diễm lệ từ đời Lục triều (thế kỷ thứ V-VI) về sau. Phong trào Cổ văn dựa vào ngọn cờ phục hồi Nho học mà phát triển.

Trong bài Tiến học giải, Hàn Dũ phát biểu chủ trương của mình trong công cuộc vận động phục hưng cổ văn. Trong đó, có đoạn ông viết:

調”.

Phiên âm:

Thượng quy Diêu Tự(18), hồn hồn vô nhai, Chu Cáo(19), Ân Bàn(20), cật khuất ngạo nha, Xuân Thu cẩn nghiêm, Tả thị phù khoa, Dịch kỳ nhi pháp, Thi chính nhi nhập ba, hạ đãi Trang, Tao, Thái sử(21) sở lục, Tử Vân(22), Tương Như(23) đồng công dị khúc, tiên sinh chi vu văn, khả điều hoành kỳ trung nhi tứ kỳ ngoại hỹ”.

Dịch nghĩa:

“Trên thì theo quy củ của vua Thuấn, vua Hạ Vũ mênh mông vô bờ bến; bốn thiên Chu Cáo, ba thiên Bàn Canh văn chương rất khó, sáu thiên Xuân Thu(24) thì cẩn nghiêm; Tả thị(25) giải thích kinh [Xuân Thu] thì phù hoa, khoe khoang; Kinh Dịch thì biến hóa khôn lường; nhưng lại đáng làm phép tắc; Kinh Thi thì nghĩa lý chính đính, còn từ cú thì hoa lệ; tiếp đến là sách của Trang Chu(26), sách Ly Tao(27) và những điều mà Thái sử Công ghi lại(28); Tử Vân, Tương Như tuy cùng tạo những khúc điệu khác nhau, nhưng nét khéo léo thì tương đồng. Tiên sinh(29) về mặt văn chương có thể nói là một túi kinh luân để rồi có thể phóng tứ ra ngoài vậy”.

Cổ văn của Hàn Dũ đều được đặt nền tảng trên văn chương của những nhà văn và những tác phẩm mà ông lược kể trên. Hàn Dũ tuyên bố dứt khoát rằng:  “Phi Tam đại, Lưỡng Hán chi thư, bất cảm quan” (Không phải là văn chương thời Tam đại (Hạ - Thương - Chu) và Lưỡng Hán (Tiền Hán, hậu Hán), thì không dám xem).

Qua đó, ta thấy chủ trương của vị đại Nho thời Đường, Hàn Dũ trong bài Tiến học giải rất hợp với mong muốn chấn chỉnh việc học đương thời của vị Quốc Tử giám Tế tửu, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết về vấn đề ấy như sau: “[Vũ Duy] Thanh từng dâng sớ [lên vua Tự Đức], nói rằng: Muốn được thực tài tất phải khôi phục phép dạy, phép thi của cổ nhân và liệt ra 8 mục:

1. Cẩn thận phép dạy ở trường tư các làng.

2. Kén chọn tổng lý và tá lại.

3. Dựng xã thương.

4. Giữ nghiêm phép dạy ở các trường phủ, huyện.

5. Nghị đổi lại phép thi Hương.

6. Mở rộng phép dạy ở các nhà Quốc học.

7. Chọn thầy bạn cho Tôn sinh(30).

8. Sửa định lại việc ban phát kinh sách”(31).

Trong bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh cũng mở đầu bằng nỗi băn khoăn cho việc học của sinh viên Quốc tử giám thời bấy giờ. Ông viết: “Quốc tử [giám] Tiên sinh cổ khiếp chi hạ dữ luận văn ư đường thượng, ngữ chi viết: “Học dục kỳ bác, vô thiển, dĩ tạc thức dục kỳ trác, dĩ bác phương kim. Minh thánh viễn lãm, xiển lãng nhân văn, cột dương Phong Nhã(32), đào chú Điển Phần(33); hóa tương long ư Thái thượng. Đạo lưu nhất hồ thánh chân…” - Dịch nghĩa: “Trong một buổi nhàn hạ, vị Tiên sinh ở Quốc tử giám, bên cạnh có mấy bài luận văn, đang ngồi chơi ở giảng đường, ông nói với học trò rằng: “Sự học là muốn có kiến thức uyên bác, chớ nông cạn, cần phải đào sâu suy nghĩ để có được hiểu biết cao xa, chớ hẹp hòi hoặc bác tạp. Phàm bậc thánh minh luôn nhìn xa, để xiển dương, sáng tỏ nhân văn, phát huy Phong Nhã, đào chú Điển Phần, để cải hóa và có dầy dặn kiến thức ở trước nhà vua. Đạo học phải thông tỏ, thống nhất ở nơi đích thực của các bậc thánh…”. Đó là điều, ta thấy Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đã có cái nhìn về sự học giống với bậc đại Nho Hàn Dũ vừa nói ở trên.

Bài Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (Đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương(34) được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay), cũng có nhà nhiều câu văn hay, sử dụng hình ảnh đẹp, như:

 - Long Hưng vân chí, đồng sinh phượng minh, phù cố hữu thiên giả, tồn yên”. Dịch nghĩa: Rồng có bay lên, thì mây mới có chỗ tụ lại, cây ngô đồng có sinh ra, thì phượng hoàng mới có chỗ để kêu hót. Phàm mọi sự vật trên muốn vững bền và tồn tại được là vì có trời vậy!

Bài Đề Tam hữu đồ tịnh tự thuyết chí  (Đề bức tranh “Ba người bạn”, cùng bài tự) là một bài tạp văn khá hay và ngắn gọn. Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết: “Dư ngẫu nhàn tọa, cố đông bích gian, đa điểm ô tích, nhân dĩ ngốc bút nhu mặc, hý tùy ô tích vi họa, sậu thành sổ phong, dĩ vi hữu “Sơn”; bất khả vô thụ. Toại thành “Mai” nhất; hựu dĩ vi thụ; bất khả độc; kế thành “Tùng”, “Trúc”, vi “Tam hữu”(35).

Hữu Sơn, hữu Thụ, bất khả vô Cầm; nhân tả hạc, lập phong đầu; mi du cốc khẩu, các thành song yên. Nhân chiếm nhất tuyệt; dĩ kỷ kỳ thực. Hốt ức Phan, Lê lưỡng quân tử, hựu vi thuyết dĩ quảng chi, tịnh chí kỳ hậu vân:

Mai cù, trúc sấu hợp tùng trinh

Đạm bạc tương tao ngẫu nhĩ thành

Nhất hác gian tình, mi cộng viễn

Sổ phong dật trí, hạc đồng thanh”.

Dịch nghĩa:

Ta ngẫu nhiên có một buổi nhàn hạ, ngồi ngắm bờ tường phía Đông, thấy khá nhiều những vết ố, nhân đó, bèn lấy chiếc bút lông cùn thấm vào đĩa mực, cứ theo những vết ố mà vẽ đùa, chẳng mấy chốc, thành dăm ngọn núi. Ta cho rằng đã có núi, thì không thể không có cây cối. Lại vẽ một cây Mai. Ta lại cho rằng đã có cây, thì không thể đứng một mình. Tiếp đó, vẽ luôn Tùng, Trúc [để cùng với Mai] làm thành ba người bạn.

Nhưng có núi, có cây rồi không thể không có bầy cầm thú, vì thế vẽ một con hạc đậu trên đầu ngọn núi, và một con Nai lững thững trước cửa hang núi, để cho thành một đôi vậy! Nhân đó khẩu chiếm một bài thơ tứ tuyệt để ghi lại sự việc. Rồi bỗng nhớ đến hai bậc quân tử họ Phan, họ Lê, lại làm thêm một bài Thuyết để mở rộng nghĩa, cũng ghi chép lại có cuối bài. Thơ rằng:

Mai gầy trúc võ, với tùng trinh.

Đạm bạc ngẫu nhiên hóa bạn lành.

Ngòi nước mát trong nai thấp thoáng

Đỉnh non nhàn nhã hạc cao thanh.

Ngoài một vài bài, tôi vừa trích dẫn ở trên, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh còn nhiều bài tản văn khá hay, nội dung vừa hàm súc vừa uyên bác, như bài: Đông song mộng thuyết, trình Vũ Đông Dương (Nói về giấc mộng bên cửa sổ phía Đông, gửi Vũ Đông Dương(36)); Đề Linh Tế tháp ký hậu (Đề ở dưới bài Linh Tế tháp ký(37)); Linh Tế tháp ký giải (Giải thích rõ về bài ký tháp Linh Tế [của Trương Hán Siêu]); Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký phê bình (Phê bình bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), v.v… Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài tạp chí, chúng tôi không thể viết dài hơn được. Do vậy, hy vọng trong một tương lai gần, được trở lại vấn đề này, chúng tôi xin bàn kỹ, để bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật thơ ca cũng như sự uyên bác, hàm súc trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh.

Để tạm kết bài này, tôi xin rút ra một vài nhận xét dưới đây:

1. Vũ Duy Thanh là một danh nhân lịch sử, một nhà thơ tài năng sống và hoạt động vào nửa đầu thế kỷ XIX. Ông là nhà khoa bảng lớn, là người đỗ vào hàng cao nhất trong lịch sử khoa cử Nho học (1807-1919), dưới triều Nguyễn. Lịch sử khoa cử Nho học triều Nguyễn, không lấy Trạng nguyên, chỉ lấy đỗ 2 vị Bảng nhãn (tức Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh) là: Phạm Thanh (1821-?) đỗ Bảng nhãn, Chính khoa Tân Hợi (1851) và Vũ Duy Thanh đỗ Bảng nhãn, Chế khoa Cát sĩ Tân Hợi (1851), cùng dưới triều vua Tự Đức (1848-1883).

Người đời tiếc cho tài năng của Vũ Duy Thanh, cho rằng tài của ông đáng Trạng nguyên, nên đương thời gọi ông là “Trạng Bồng” (Ông Trạng nguyên làng Bồng).

Như chúng ta đều biết, hoạn lộ của Vũ Duy Thanh không dài, các chức quan mà ông phụ trách đều thiên về công việc giáo dục, văn hóa như: Hàn lâm viện Thị độc, Quốc lử giám Tế tửu, tuy nhiên, không vì thế mà ông tỏ ra xao nhãng với các công việc chính trị trọng đại thời bấy giờ. Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn, phần lớn muốn nghị hòa, Vũ Duy Thanh và một số người cùng chí hướng với ông, đều cho rằng “Phải đánh mới định được đại cục”. Vũ Duy Thanh dâng sớ lên vua Tự Đức xin tăng cường lực lượng quốc phòng, chấn chỉnh việc nội trị, cải cách học thuật, văn hóa, kinh tế. Sớ dâng lên, không được vua Tự Đức chấp thuận, Vũ Duy Thanh ngày đêm nghiên cứu Binh thư, rồi viết Bình Tây thất sách (Bẩy sách lược bình giặc Pháp), và còn trích tiền lương của mình để mua sắm vật liệu, với ý định đóng thuyền thủy chiến có hỏa pháo để chống lại tàu chiến của Pháp. Nhưng công việc chưa xong, thì Vũ Duy Thanh đột ngột đi vào cõi vĩnh hằng…

2. Cuộc đời làm quan của Vũ Duy Thanh, tuy có một vài trắc trở, nhưng như ông tự nhận xét, cũng có nhiều vinh dự… Có được điều đó, là vì Vũ Duy Thanh luôn luôn là một vị quan thanh liêm, mẫu mực. Trên cương vị là Tế tửu Quốc tử giám, vị Hiệu trưởng của Trường cao cấp Nho học đứng đầu cả nước thời bấy giờ, ông là bậc thầy đạo cao, đức trọng luôn tận tụy với việc đào luyện nhân tài cho đất nước.

Trên cương vị là một nhà trước thư, lập ngôn, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh để lại cho hậu thế một số tác phẩm, trong đó có giá trị hơn cả là: Bồng Châu thi văn tập, mà chúng tôi vừa giới thiệu sơ lược nội dung ở trên.

Tôi thật lấy làm tiếc rằng: Hiện nay giới nghiên cứu văn hóa nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng chưa biết nhiều về các tác phẩm thi văn của Vũ Duy Thanh. Ở trên, tôi đã nhắc đến bộ thi tuyển Văn Đàn bảo giám của Trần Trung Viên, có tuyển chọn 7 bài thơ Thất ngôn bát cú của ông. Thế mà, vào tháng 10 năm 2004, trong Từ điển Văn học (Bộ mới), do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành, khổ 19x27cm, dày 2182 trang, không có tên Vũ Duy Thanh! Trong số 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ có tên trong bộ Từ điển Văn học này, thì mở đầu là Nhà thơ, nhà văn Vũ Anh Khanh (1926 -1956) và kết thúc là Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939). Tôi đã đọc tất cả tiểu sử và sự nghiệp thi ca, tản văn của 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ nói trên, thấy rằng đều rất xứng đáng được vinh danh trong bộ từ điển dày dặn này! Nhưng tôi nghĩ thầm trong bụng rằng: “Giá như hỏi một vài vị nhà thơ, nhà văn họ Vũ ấy, thử so sánh thi tài, văn tài của mình với cụ “Trạng Bồng - Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, thì không biết họ sẽ nghĩ sao đây?!”.

Điều đó, đặt ra cho giới nghiên cứu Sử học, Văn học hiện nay một trách nhiệm thiết thực cần tiến hành ngay là: Dịch những tác phẩm chữ Hán, đặc biệt là bộ Bồng Châu thi văn tập(38)của Vũ Duy Thanh, và cho xuất bản để công bố rộng rãi.

Tôi thiết nghĩ, nếu làm được như vậy, không chỉ là việc tôn vinh một danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa của Việt Nam ở thế kỷ XIX, mà còn quan trọng hơn, chúng ta đã góp phần giới thiệu một tác gia tầm cỡ, còn ít người biết tới cho độc giả hiện tại.

3. Có thể khẳng định Vũ Duy Thanh là một danh nhân văn hóa, có những đóng góp rất đáng ghi nhận đối với tiến trình lịch sử văn hóa của nước nhà. Với những trước tác của mình, nhất là tác phẩm Bồng Châu thi văn tập, Vũ Duy Thanh xứng đáng được coi là một tác gia tên tuổi của nền văn học Việt Nam vào thế kỷ XIX.

Tôi hoàn toàn tin rằng: Nếu làm được các điều trên đây, một cách trọn vẹn, thì nhân dân mọi miền đất nước, trong đó có nhân dân Yên Khánh - Ninh Bình sẽ tin yêu cuộc sống hơn, trân trọng những gì thuộc về quá khứ vẻ vang của dân tộc hơn. Và, tại cõi vĩnh hằng kia, cụ “Bảng Bồng - Vũ Duy Thanh” chắc sẽ hài lòng và mãn nguyện đôi phần.

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường

Viện Sử học

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121), tr.29-42, phiên bản trực tuyến ngày 28.12.2014.

Chú thích:

(1Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tập 4, tr.304.

(2Cao Xuân Dục: Quốc triều Hương khoa lục. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 1993, tr.243.

(3Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm Học liệu xb, Sài Gòn. 1961, tr.121.

(4Đại Nam chính biên liệt truyện. tập 4, Sđd, tr.305.

(5Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, tập 1, Nxb. Sử học, H. 1962, tr.437.

(6Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.839.

(7Nguyễn Phó bảng: tức Nguyễn Ngạn , người xã Áng Ngũ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Sau đổi tên là Nguyễn Tiến Khanh. Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849). Làm quan đến Đốc học.

(8Tứ thư là Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh tử.

(9Ngũ Kinh là Thi - Thư - Lễ - Dịch - Xuân Thu.

(10Âu lão: Ông già họ Âu, tức Âu Dương Tu  (1007-1072), tự là Vĩnh Thúc , hiệu là Lục Nhất  và Túy Ông , quê ở Lô Lăng (nay là tỉnh Giang Tây). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1030, làm chức Quán các Hiệu khám ở triều. Mười năm sau mới được làm chức Hàn lâm viện Học sĩ và được giao soạn bộ Tân Đường thư, 222 quyển. Soạn xong bộ sách trên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị độc, rồi Khu mật Phó sứ, cuối cùng làm tới chức Binh bộ Thượng thư. Ông trước tác nhiều, ngoài bộ Tân Đường thư, ông còn tự soạn bộ Tân Ngũ đại sử, 75 quyển.

(11Hàn Văn công tức Hàn Dũ  (768 - 824): tự làThoái Chi退, đỗ Tiến sĩ năm 792. Năm 796, ông làm chức Quán sát, sau được làm chức Giám sát Ngự sử, rồi Sứ quán Tu soạn, cuối cùng được thăng tới Hình bộ Thị lang. Hàn Dũ có danh vọng trên văn đàn nhờ có tài về cổ văn và nhiệt thành bênh vực đạo Nho.

(12Trong Văn đàn bảo giám, ngoài 7 bài thơ Thất ngôn bát cú nói trên, soạn giả Trần Trung Viên còn tuyển bài Cổ Kinh danh thắng, một bài Biền phú, hạn vận, ca ngợi cảnh đẹp của Cổ Kinh đô Hoa Lư.

(13Viên Mai: Tùy Viên thi thoại. Nxb. Giáo dục, H. 1999. Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, tr.59.

(14Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm học liệu xb, Sài Gòn 1961, tr.121-122.

(15Đường - Tống bát đại gia: Tám đại gia thời Đường - Tống, gồm có:

Thời Đường: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên

Thời Tống: Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tô Triệt.

(16Tiên Tần: tức trước đời Tần (221 TCN - 206 TCN). Chủ yếu chỉ thời kỳ: Xuân Thu (770 TCN - 480 TCN) và Chiến Quốc (480 TCN - 221 TCN).

(17Lưỡng Hán: Hai đời Hán, tức: Tiền Hán (206 TCN-8 SCN) và Hậu Hán (24-220).

(18Diêu: họ của vua Thuấn; Tự: họ của vua Vũ.

(19Chu Cáo, gồm có: Đại Cáo, Tửu Cáo, Khang Cáo, Lạc Cáo, Thang Cáo.

(20Ân Bàn, gồm 3 thiên Bàn Canh: Thượng, Trung, Hạ.

(21Thái sử công, tức Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng.

(22Tử Vân: là tên tự của Dương Hùng (53 TCN - 18 SCN), nhà tư tưởng nổi tiếng thời Tiền Hán. Tác phẩm có: Thái Huyền, Pháp Ngôn

(23Tương Như: tức Tư Mã Tương Như (179 - 117 TCN), người Thành Đô, tự Tràng Khanh, rất đa tài, văn hay đàn giỏi. Ông là một tác giả nổi tiếng nhất về phú, có các tác phẩm: Tử hư phú, Đại nhân phú, Mỹ nhân phú, Trường môn phú

(24Xuân Thu: tức Kinh Xuân Thu, bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử (551 - 479 TCN) soạn.

(25Tả thị: tức Tả truyện của Tả Khâu Minh, giải thích nội dung Kinh Xuân Thu, vì vậy còn được gọi là Xuân Thu Tả truyện.

(26Sách của Trang Chu: chỉ bộ Nam Hoa kinh của Trang Tử.

(27Ly Tao: bài thơ theo thể Sở từ của Khuất Nguyên (343 - 277 TCN), một bài thơ trường thiên, có 370 câu tả tâm sự của ông.

(28Chỉ bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.

(29Tiên sinh: chỉ Tư Mã Tương Như.

(30Tôn sinh: tức số con em trong tôn thất nhà Nguyễn học tại Quốc tử giám.

(31Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 4, tr.305.

(32Phong Nhã: chỉ Kinh Thi. Kinh Thi có 3 phần: Phong - Nhã - Tụng. Ở đây dùng để phiếm chỉ thi ca cổ điển của Trung Hoa.

(33Điển Phần: chỉ Tam phần - Ngũ điển.

Tam phần: chỉ thư tịch cổ của các đời Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế, để nói về Đại đạo.

Ngũ điển: chỉ thư tịch cổ của các đời Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

(34Ông họ Trương: tức Trương Quốc Dụng (1797-1864), người xã Phong Phú, huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, thăng Lang trung Bộ Hình. Phạm lỗi phải đi hiệu lực. Sau được phục dụng điều đi Án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, về Kinh sung làm Kinh diên Giảng quan. Sau thăng Hình bộ Thượng thư, kiêm Quốc sử quán Tổng tài, được điều làm Thống đốc Hải An quân thứ (Hải Dương - Quảng Yên). Ông tử trận trong khi dẹp cuộc phiếm loạn của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên năm 1864.

(35Tam hữu: Văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam… thường lấy hình tượng tùng, trúc, mai làm biểu tượng cho sự can đảm, khí tiết, chịu đựng được cái rét và sương tuyết của mùa Đông, gọi là “Đông hàn tam hữu” (Ba người bạn chịu được cái rét mùa Đông). Ở đây ám chỉ bậc kẻ sĩ quân tử có khí phách trượng phu “Uy vũ bất năng khuất” (Mạnh Tử).

(36Vũ Đông Dương: tức Vũ Phạm Khải (1807-1872), tự là Đông Dương, hiệu là Ngu Sơn và Dưỡng Trai, quê xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm quan tới chức Hàn lâm Trực học sĩ, quyền biện Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người đứng đầu phái chủ chiến trong triều đình Tự Đức. Tác phẩm có: Ngu Sơn toàn tập, gồm 3 quyển thơ, 15 quyển văn.

(37Linh Tế tháp ký: tên cả bài là Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) của Trương Hán Siêu (? - 1354) là một danh Nho học vấn sâu rộng vào nửa đầu thế kỷ XIV đời Trần.

(38Tôi được nhà nghiên cứu Phạm Như Thơm (Viện Sử học), photocopy cho 1 bản dịch ra tiếng Việt bộ Bồng Châu thi văn tập, không thấy ghi tên người dịch!. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ bản dịch này và đối chiếu với nguyên tác chữ Hán, tôi nhận thấy bản dịch chất lượng thấp, không thể đem ra xuất bản được./.

Vũ Duy Thanh 武惟清 (1807-1859), tự là Trừng Phủ 澄甫, hiệu là Mai Khê 梅溪 và Bồng Châu 蓬洲…, người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh (nay là thôn Vân Bồng, xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Duy Thanh đã tỏ ra là người thông minh, cẩn trọng và có văn tài. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép tiểu sử của ông, có nhận xét: “Vũ Duy Thanh, tự là Trừng Phủ, người Yên Khánh, thuộc Ninh Bình. Lúc trẻ thông tuệ, xem đâu nhớ đấy, 14, 15 tuổi biết làm văn. Anh là Đề, là học trò giỏi, mà Duy Thanh lại còn học giỏi hơn…”(1). Tuy vậy, mãi tới năm 37 tuổi, Vũ Duy Thanh mới đi thi Hương, khoa Quý Mão (1843), trường Nam Định và đỗ Cử nhân(2). Năm sau, khoa Giáp Thìn (1844), ông dự kỳ thi Hội, nhưng không đỗ. Bẩy năm sau, tới khoa thi Hội năm Tân Hợi (1851), ông đi thi và đỗ Phó bảng. Cùng năm Tân Hợi ấy, vua Tự Đức mở khoa thi Cát sĩ (hay Chế khoa), ông đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (tức Bảng nhãn)(3).

Sau khi thi đỗ, Vũ Duy Thanh được bổ chức Hàn lâm viện Thị độc, rồi chuyển sang Tập hiền viện. Năm 1853, ông được thăng lên chức Triều liệt Đại phu Quốc tử giám Tư nghiệp. Năm 1855, ông được bổ chức thự Quốc tử giám Tế tửu. Tháng 9 năm Tự Đức thứ 10 (1857), ông được chính thức bổ chức Trung Thuận Đại phu Quốc tử giám Tế tửu.

Trong thời gian giữ chức Tế tửu ở Quốc tử giám, trường Nho học cao cấp bậc nhất của quốc gia Đại Nam ngày đó, Vũ Duy Thanh tỏ rõ là một bậc thầy đạo cao đức trọng, có vốn kiến thức uyên bác và đặc biệt luôn hết lòng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo lớp hậu tiến.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, nhận xét về ông như sau: “Duy Thanh tính chất phác ngay thẳng, đối với mọi người vui vẻ giản dị, không cạnh tranh. Nhưng đến khi luận về sự sai lầm của tục học và cái tai hại của dị đoan thì tất ra sức nói…”(4).

Theo Nhà thư tịch học Trần Văn Giáp, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam thì tác phẩm của Vũ Duy Thanh có:

- “Bồng Châu Vũ Tiên sinh thí văn - 蓬洲武先生試文 (Văn) ký hiệu VHv.442.

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集 (Văn)”(5).

Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), các tác giả cho biết, Vũ Duy Thanh có các tác phẩm sau:

- “Bồng Châu thi văn tập 

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集

Bồng Châu tạp thảo 蓬洲雜草, v.v…”(6).

Tác phẩm Bồng Châu thi văn tập hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1043. Văn bản Bồng Châu thi văn tập là một tập sách chép tay, trên giấy dó, gồm có 222 trang, khổ 27x15cm, mỗi trang có 8 hàng, mỗi hàng trung bình, 22, 23 chữ Hán, nét bút khá già dặn, theo lối Hành thư rõ ràng, dễ đọc.

Bồng Châu thi văn tập được chia làm 3 quyển:

1. Quyển thứ nhất - Thi tập:

+ Thơ Ngũ ngôn cổ phong: 8 bài

+ Thơ Thất ngônTứ tuyệt 23 bài, Trường thiên 8 bài, Bát cú 85 bài.

Như vậy, Quyển thứ nhất có tất cả 124 bài thơ: tiễn tặng bạn bè, mừng thi đỗ, mừng thọ, vịnh cảnh thiên nhiên, vịnh di tích lịch sử, v.v...

2. Quyển thứ hai - Văn tập, gồm có 21 bài trướng: mừng bạn thăng quan, mừng được về hưu, mừng thượng thọ, v.v...

Trong Quyển 2 này, sau bài Nghĩ Hàn Xương Lê cầm, có chép 10 bài thơ thể Sở từ của Vũ Duy Thanh.

3. Quyển thứ ba - Tạp tập, là phần chép các bài Thuyết Luận , Ký Bình Thư Tế văn , v.v… gồm có 18 bài như: Mộng thuyết, ca ngợi Quản Trọng đời Xuân Thu; phê bình bài Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu; phê phán đạo Giatô; bác bỏ thuyết thần tiên; phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Dũ… Ngoài ra, Quyển 3 còn có 19 bài Văn tế thần, cầu mưa, cầu phúc, v.v…

Bồng Châu thi văn tập chia thành 3 quyển như trên, gồm có 2 nội dung: thơ và văn xuôi, cho nên chúng tôi cũng xin tách ra làm 2 phần để phân tích và bình luận:

I. Thơ Vũ Duy Thanh - tiếng thơ của một nhà Nho quân tử

Bao trùm lên toàn bộ tập Bồng Châu thi văn tập là một đạo lý nhân nghĩa của đạo Nho và tấm lòng yêu nước, thương dân của một bậc chính nhân quân tử.

Hầu như ở bài thơ nào, từ thơ thù phụng gửi cho bạn bè, đến thơ tả cảnh, vịnh vật…, tác giả Vũ Duy Thanh đều ý thức mình là một nhà Nho chân chính, một nhà giáo mẫu mực. Trong bài Hạ Áng Ngũ Nguyễn Phó bảng(7)賀盎伍阮副榜(Mừng ông Nguyễn Phó bảng người Áng Ngũ), Vũ Duy Thanh nói về bạn mình, nhưng thực ra là ông tự bạch về con người mình:

Phiên âm:

Ngô hữu Nguyễn Tuấn phủ

Phú chất tối thanh thuần.

Vi học thậm khắc khổ

Thanh tùng nại tuế hàn

Hoàng cúc nghi thu phố…

Dịch nghĩa:

Bạn ta là Nguyễn Tuấn phủ

Tư chất rất trong sạch, thuần nhã

Học tập cực khắc khổ

Giống như cây tùng xanh tốt chịu được năm rét buốt.

Giống như hoa cúc vàng thích nghi với tiết trời thu…

Vũ Duy Thanh ví người bạn của ông là Phó bảng Nguyễn Ngạn với cây tùng, hoa cúc, bởi lẽ hai loài cây ấy đều tượng trưng cho người quân tử mà văn chương cổ điển xưa thường nói tới.

Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử từng nói: “” - Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã (Nghĩa là: Mỗi năm rét đến, mới biết cây tùng, cây bách rụng lá cuối cùng [sau mọi loài cây khác] (Luận Ngữ - Tử Hãn).

Trong cuộc đời làm quan ngắn ngủi, chưa đầy 10 năm, Vũ Duy Thanh chỉ giữ các chức vụ về văn hóa, giáo dục như: Hàn lâm viện Thị độc, Tập hiền viện, Quốc tử giám Tế tửu. Trong đó, chức vụ lâu nhất là Tế tửu Quốc tử giám tại Kinh đô Phú Xuân - Huế, do vậy, Vũ Duy Thanh luôn luôn ý thức được trách nhiệm của một bậc thầy mô phạm đối với bạn đồng liêu và học trò.

Trong bài Thứ Lưu Đông nguyên vận tiễn Ngô Trợ giáo lĩnh Bắc Ninh Đốc học - (Họa vần thơ của Lưu Đông và tiễn Ngô Trợ giáo đi lĩnh chức Đốc học Bắc Ninh), Vũ Duy Thanh có những suy nghĩ khá sâu sắc về nghề làm thầy của mình:

Phiên âm:

Cổ xưng giáo chức lãnh

Ngã hỷ giáo chức thanh…

Kinh điển như uyên hải

Nghĩa lý vị Dịch tinh.

Khóa tập hữu trình hạn

Nhật nguyệt nan vi tranh

Nguyện tử thể thường thái

Nguyện tử tâm thường tỉnh

Nguyện tử thủ thường ngạnh

Nguyện tử mục thường minh

Dịch nghĩa:

Thời xưa cho nghề thầy giáo là chức quan lạnh,

Chúng ta vui lòng vì nghề thầy giáo là nghề thanh bạch.

Kinh điển nhà Nho thì sâu sắc như biển cả,

Còn nghĩa lý thì không chỉ có Kinh Dịch là tinh túy.

Việc dạy học thì có quy trình thời hạn,

Đến mặt trời, mặt trăng cũng khó tranh giành [sự vận hành ấy].

Mong Bác giữ cho thân thể lúc nào cũng thư thái,

Mong Bác giữ cho tâm hồn lúc nào cũng sáng suốt.

Mong Bác giữ cho tay chân lúc nào cũng mạnh cứng,

Mong Bác giữ cho đôi mắt lúc nào cũng tinh tường…

Cuối bài thơ, Vũ Duy Thanh khẳng định giáo chức là một nghề rất cao quý và đầy vinh dự:

Phiên âm:

Định vô ngâm Mục túc

Khởi tất tiển thuần canh

Phạt Đàn năng bất tố

Nhất chức hữu dư vinh.

Dịch nghĩa:

Nhất định không phải ngâm câu thơ Mục túc.

Há lại chẳng thừa món canh rau dút, cá vược?

Nhớ bài thơ Phạt Đàn, chẳng phải ăn không ngồi rồi.

Nghề nhà giáo có thừa sự vinh dự!

Vũ Duy Thanh nói đùa với bạn mình là “Không phải ngâm câu thơ Mục túc” (Vô ngâm Mục túc) là có ý nhắc tới câu thơ trong bài Ký hữu 寄友 (Gửi bạn) của Nguyễn Trãi dưới đây:

Phiên âm:

Thập tải độc thư bần đáo cốt

Bàn vô mục túc, tọa vô chiên.

Dịch nghĩa:

Mười năm đọc sách nghèo đến tận xương,

Mâm cơm không có rau mục túc, chỗ ngồi không có đệm.

Còn nói “Khởi tất tiển thuần canh” là tác giả sử dụng điển tích văn chương cổ điển mà nhà Nho xưa, không ai là không biết, đó là “Thuần canh lô khoái” 蓴羹纑膾 (tức Canh rau dút, gỏi cá vược).

Theo Tấn thư, Trương Hàn, người đất Ngô Quận, tính tình phóng khoáng, làm quan ở Kinh đô, nhân buổi gió thu nổi, chạnh lòng nhớ nhà, nhớ món rau thuần, gỏi cá vược ở quê, bèn than rằng: “Người ta ở đời quý nhất là được thỏa chí, sao lại có thể buộc mình vào con đường làm quan ở xa ngàn dặm để cầu lấy tiếng tăm tước vị!”. Sau đó, ông bèn từ quan, về quê nhà. Ở đây, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh chỉ dùng với ý nơi bạn ông làm chức Đốc học là tỉnh Bắc Ninh, cũng không thiếu gì những món ăn đậm đà phong vị quê hương, nên cứ yên tâm với chức vụ triều đình giao phó.

Bảng nhãn Vũ Duy Thanh và bạn ông, trong bài thơ này, đều là những bậc đỗ đại khoa, hết sức thiệp liệp kinh điển, sử sách Nho gia, cho nên hầu như ở đâu cũng thấy các vị sử dụng các điển tích từ Tứ thư(8)Ngũ kinh(9). Vũ Duy Thanh viết để nhắc nhở bạn mình:  - Phạt đàn năng bất tố (Tiếng đốn cây bạch đàn, khiến cho không phải ăn không ngồi rồi!).

Đó là xuất xứ từ bài thơ Phạt đàn, phần Ngụy Phong trong Kinh Thi. Bài thơ Phạt đàn nguyên tác có tất cả 27 câu thơ, từ 4 chữ cho đến 8 chữ. Tôi xin trích 4 câu trong chương I dưới đây:

Phiên âm:

Khảm khảm phạt đàn hề

Trí chi hà chi can hề

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề.

Dịch nghĩa:

Tiếng chặt cây bạch đàn, tiếng nghe khảm khảm

Rồi đặt cây ấy ở bên bờ sông…

Người quân tử kia!

Không hề ngồi không mà ăn!

Bài thơ Phạt đàn là để khen người quân tử không chịu ngồi không mà ăn, mà hưởng thành quả lao động của người khác.

Bài Trường trung dạ ngâm, đồng bộc hôn thụy cảm tác - 場中夜吟童僕昏睡感作 (Trong trường, đêm đọc thơ bên cạnh đứa tiểu đồng đang ngủ) càng cho thấy tài học của Vũ Duy Thanh:

Phiên âm:

Xảo chuyết sơ lai phận bất đồng

Đại quân phú vật lý hà cùng

Tĩnh tư Âu lão(10) Thu thanh tác

Hạt nhược thùy đầu hãn thụy đồng?

Dịch nghĩa:

Khéo và vụng từ xưa đến nay, phận từng người không giống nhau

Tạo hóa sinh ra muôn vật, cái lý thật vô cùng

Trong lúc yên tĩnh nhớ đến bài Thu Thanh phú của ông già Âu Dương Tu

Sao giống với cảnh đứa tiểu đồng đang gục đầu mà ngủ lúc này?

Trong các bài phú sáng tác vào thời Bắc Tống (960 - 1126), sau hai bài Tiền Xích Bích phúHậu Xích Bích phú của danh sĩ Tô Đông Pha (1036 - 1101), thì người ta hay nhắc đến nhất là bài Thu Thanh phú của Âu Dương Tu. Bài phú này của Âu Dương Tu vừa hay về nội dung, vừa hay về nghệ thuật ngôn từ. Trong Thu Thanh phú, ông tả màu sắc của thu, hình dáng của thu, cả tới cái ý, cái khí của thu, để độc giả cảm nhận được cái thê lương trong tiếng thu. Cuối bài Âu Duy Tu lại liên tưởng tới kiếp người: “Bách ưu cảm kỳ tâm, vạn vật lao kỳ hình” (Trăm mối lo làm xúc động trong lòng, vạn việc đời làm lao khổ thân hình), gây cho ta một mối cảm thán vô hạn… Câu kết của bài Thu Thanh phú, đã được Vũ Dương Thanh nhắc đến ở trên: “Đồng tử mạc đối, thùy đầu nhi thụy. Đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức, như trợ dư nhi thán tức” (Đồng tử không đáp, gục đầu mà ngủ. Chỉ nghe bốn phía vách có tiếng dế ri rỉ kêu, như thể góp thêm tiếng than thở với ta vậy!).

Sử thần triều Nguyễn từng nhận xét về Vũ Duy Thanh là người bản tính chất phác, ngay thẳng, giản dị. Tôi đọc khá kỹ thơ của ông trong Bồng Châu thi văn tập, nhận thấy thơ Vũ Duy Thanh quả đúng là phần nhiều đều bình dị. Tất cả lời thơ của ông đều rất ôn tồn, thuần hậu và phác thực có phong vị thơ của Đào Tiềm (365 - 427), nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lục Triều của Trung Quốc. Đào Tiềm là một thi nhân danh tiếng của Trung Quốc, rất yêu hoa cúc.

Vũ Duy Thanh cũng làm khá nhiều bài thơ về hoa cúc: Vịnh cúcTrùng Dương vô cúcĐình tiền mẫu đơn, tuế tứ khai, Hoàng cúc kinh thu bất phát, hý vấn

Bài Vịnh cúc  (Vịnh hoa cúc) là một bài thơ hay mà tôi đọc thấy phảng phất phong vị thơ của Đào Tiềm:

Phiên âm:

Ngọc nhụy kim anh sắc sắc tân

Hòa yên, đới lộ cánh thiêm thần

Thùy tri Đào Lệnh sơ ly hạ

Cử thế giai thu, ngã độc xuân.

Dịch nghĩa:

Nhụy như ngọc, cánh như vàng, sắc tươi tốt lúc nào cũng như mới nở.

Tắm gội trong sương sớm, mây chiều, lại càng tôn thêm vẻ thần thái.

Có ai biết ông quan Lệnh họ Đào từng hái cúc dưới hàng giậu thưa?

Mọi người đang trong cảnh mùa thu, chỉ có Ta (chỉ hoa Cúc) giữ riêng vẻ xuân tươi tốt!

Vũ Duy Thanh nói “Đào Lệnh”, là vì Đào Tiềm từng giữ chức quan Lệnh (tức Tri huyện) ở huyện Bành Trạch. Còn “Sơ ly hạ” là có ý nhắc tới 2 câu thơ rất nổi tiếng của thi sĩ họ Đào, trong bài Ẩm tửu (Uống rượu) dưới đây:

Phiên âm:

Thái cúc Đông ly hạ

Du nhiên kiến Nam sơn.

Dịch nghĩa:

Hái cúc dưới hàng giậu phía Đông

Phơi phới thấy núi Nam.

Tôi đã trích một vài bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú của Vũ Duy Thanh trên đây, nhưng ông còn sáng tác nhiều bài thơ Thất ngôn trường thiên nữa. Hầu như ở thể loại nào, thơ Vũ Duy Thanh cũng có những câu thơ hay. Thí dụ một số câu thơ dưới đây:

Phiên âm:

Thê tâm sương lộ kinh thu tự

Cực mục vân sơn cảm hạo tư.

(Trường trung ngộ tiên khảo kỵ)

Dịch nghĩa:

Tấm lòng thương đau lạnh lẽo như sương móc, ở trong trường thêm lo sợ mùa thu.

Đôi mắt đăm đăm dõi nhìn áng mây trên núi, càng nhớ tới ơn lớn của cha.

(Trong trường gặp ngày giỗ của cha)

Hoặc câu:

Phiên âm:

Vụ tỏa tằng Man không mạc mạc

Đào phi vạn khoảnh tự sàn sàn.

(Hoành Sơn quan hoài cổ)

Dịch nghĩa:

Sương mù tựa như thể giam giữ nhà của dân tộc thiểu số ở trong, không gian thật yên tĩnh.

Hàng vạn con sóng lớn chồm lên vỗ dồn dập vào bờ tiếng ào ào.

(Qua Đèo Ngang hoài cổ)

Hay câu: 

宿

Phiên âm:

Lạc bút ba đào kinh biến thái,

La hung tinh tú động hàn hương.

(Ức Hàn Văn công)

Dịch nghĩa:

Mỗi khi hạ bút xuống, lời văn như sóng lớn thật đáng kinh sợ, không thể tính trước được,

Giãi bày ý tứ trong lòng như có hàng tinh tú bày ra la liệt, chấn động cả bầu trời lạnh.

(Nhớ Hàn Văn công(11))

Từ khi Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đi vào cõi vĩnh hằng đến nay đã hơn một thế kỷ rưỡi (1859-2013). Với một độ lùi thời gian dài hơn 150 năm ấy, đủ cho hậu thế thẩm định giá trị văn chương, thi ca của Vũ Duy Thanh. Thực ra, ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã đánh giá cao giá trị nghệ thuật cũng như nội dung thi ca của ông.

Trần Trung Viên (1890-1947), soạn giả bộ tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám (gồm 3 tập), xuất bản lần đầu năm 1926, đến năm 1938 mới trọn bộ, là một trong những người đầu tiên công bố thơ ca của Vũ Duy Thanh. Trong tập thi tuyển nói trên, soạn giả Trần Trung Viên, đã tuyển 7 bài thơ Thất ngôn bát cú(12) của Vũ Duy Thanh là: Thơ túng, Thăm cảnh Nhiệt Đàm, Nhớ thầy học cũ, Đề nhà học cũ, Tiễn đưa Nguyễn Tri Phương vào Nam chống giặc, Qua đèo Hải Vân, Qua suối Bạch Đàn.

Trong bộ hợp tuyển thi ca này, tên tuổi của Vũ Duy Thanh được đứng tề danh với các nhà thơ nổi tiếng khác đương thời như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, v.v…

Ở trên tôi có nói thơ của Vũ Duy Thanh bình dị, thuần hậu và phác thực. Vì thế, nếu cần trích thêm những câu thơ hay trong bộ Bồng Châu thi văn tập, thì không có gì là khó. Tuy nhiên, loại thơ bình dị ấy không phải ai cũng có thể làm được. Về vấn đề này, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học đời Thanh là Viên Mai (1716-1798) đã nhận xét rất chí lý như sau:

“Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng tất phải là cái mộc mạc từ trong khéo lớn mà ra; thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng tất phải là cái nhạt theo sau cái nồng mà có. Cũng ví như ông quan to, công thành danh toại, rồi xõa tóc, cởi dây ấn, tức là danh sĩ phong lưu, nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng bắt chước thái độ ấy, thì sẽ nên đánh roi…”(13).

II. Văn Vũ Duy Thanh - sự uyên bác của bậc sư biểu học cao hiểu rộng

Tản văn của Vũ Duy Thanh, phần lớn được ghi chép lại trong 2 quyển (Quyển 2 và Quyển 3) của Bồng Châu thi văn tập.

Vào tháng 12 năm 2012, trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất “Về thân thế, cuộc đời Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, tôi đã viết bài Mấy cảm nghĩ nhân đọc bài Văn sách khoa thi Cát sĩ của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Trong đó, tôi đã trích lời nhận xét của Học giả Cao Xuân Dục (1843-1923) về khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), mà Vũ Duy Thanh đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn) là “Khoa đặc biệt phi thường để đãi tài phi thường” (14).

Khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi (1851) này, người phúc duyệt cuối cùng và trực tiếp lấy đỗ bao nhiêu người, ai được đỗ đầu chính là vua Tự Đức (1848-1883). Tự Đức là một ông vua thông minh, chăm học từ nhỏ và là một nhà văn hóa, nhà thơ khá nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XIX. Chúng ta biết một chút về thi tài của vua Tự Đức, để thấy rằng khi ông lựa chọn Vũ Duy Thanh làm người đỗ đầu “Khoa thi đặc biệt phi thường” là không phải chuyện đơn giản chút nào. Tôi cho rằng cái điều mà Vũ Duy Thanh để lại ấn tượng mạnh trong lòng vua Tự Đức không phải chỉ là tài về thi ca, mà chắc chắn ở cả sự uyên bác, thể hiện trong các bài tản văn nghị luận của vị Bảng nhãn họ Vũ này.

Trong số các bài tản văn của Vũ Duy Thanh được tuyển trong Bồng Châu thi văn tập, có khá nhiều bài thể hiện sức học quảng bác của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh, như: Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải (Phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Xương Lê); Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay)); Thượng Hình bộ Thượng thư Trương công từ hạ thư (Thư mừng gửi lên Hình bộ Thượng thư họ Trương), v.v… Trong đó, tôi đặc biệt chú ý tới bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải của Vũ Duy Thanh. Tôi thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà người biên tập bộ Bồng Châu thi văn tập, lại xếp bài này lên đầu Quyển 2, tức bài đầu tiên trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh. Vì bày này, tác giả họ Vũ của chúng ta, Nghĩ  (tức phỏng theo, bắt chước) bài Tiến học giải  của Hàn Xương Lê (tức Hàn Dũ), một trong số Đường - Tống bát đại gia(15), do vậy, chúng ta cần biết nội dung tác phẩm của họ Hàn nói về vấn đề gì?

Bài Tiến học giải của Hàn Dũ được ông sáng tác với mục đích chính để cổ xúy phong trào Cổ văn, mà ông được coi là người lãnh đạo. “Cổ văn” là khái niệm đối lập với Biền văn. Đặc trưng của “Cổ văn” là câu văn xuôi riêng rẽ, không gò bó theo một công thức nhất định, khác với “Biền văn” rất chú trọng đối ngẫu, văn vẻ, âm luật và điển cố. Về thể văn, nó khôi phục truyền thống văn chương Tiên Tần(16), Lưỡng Hán(17), cho nên gọi là Cổ văn 古文. Thời kỳ Trung Đường (765-836), Hàn Dũ và những nhà văn khác đề xướng thể văn này, để phản đối văn phong phù hoa, diễm lệ từ đời Lục triều (thế kỷ thứ V-VI) về sau. Phong trào Cổ văn dựa vào ngọn cờ phục hồi Nho học mà phát triển.

Trong bài Tiến học giải, Hàn Dũ phát biểu chủ trương của mình trong công cuộc vận động phục hưng cổ văn. Trong đó, có đoạn ông viết:

調”.

Phiên âm:

Thượng quy Diêu Tự(18), hồn hồn vô nhai, Chu Cáo(19), Ân Bàn(20), cật khuất ngạo nha, Xuân Thu cẩn nghiêm, Tả thị phù khoa, Dịch kỳ nhi pháp, Thi chính nhi nhập ba, hạ đãi Trang, Tao, Thái sử(21) sở lục, Tử Vân(22), Tương Như(23) đồng công dị khúc, tiên sinh chi vu văn, khả điều hoành kỳ trung nhi tứ kỳ ngoại hỹ”.

Dịch nghĩa:

“Trên thì theo quy củ của vua Thuấn, vua Hạ Vũ mênh mông vô bờ bến; bốn thiên Chu Cáo, ba thiên Bàn Canh văn chương rất khó, sáu thiên Xuân Thu(24) thì cẩn nghiêm; Tả thị(25) giải thích kinh [Xuân Thu] thì phù hoa, khoe khoang; Kinh Dịch thì biến hóa khôn lường; nhưng lại đáng làm phép tắc; Kinh Thi thì nghĩa lý chính đính, còn từ cú thì hoa lệ; tiếp đến là sách của Trang Chu(26), sách Ly Tao(27) và những điều mà Thái sử Công ghi lại(28); Tử Vân, Tương Như tuy cùng tạo những khúc điệu khác nhau, nhưng nét khéo léo thì tương đồng. Tiên sinh(29) về mặt văn chương có thể nói là một túi kinh luân để rồi có thể phóng tứ ra ngoài vậy”.

Cổ văn của Hàn Dũ đều được đặt nền tảng trên văn chương của những nhà văn và những tác phẩm mà ông lược kể trên. Hàn Dũ tuyên bố dứt khoát rằng:  “Phi Tam đại, Lưỡng Hán chi thư, bất cảm quan” (Không phải là văn chương thời Tam đại (Hạ - Thương - Chu) và Lưỡng Hán (Tiền Hán, hậu Hán), thì không dám xem).

Qua đó, ta thấy chủ trương của vị đại Nho thời Đường, Hàn Dũ trong bài Tiến học giải rất hợp với mong muốn chấn chỉnh việc học đương thời của vị Quốc Tử giám Tế tửu, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết về vấn đề ấy như sau: “[Vũ Duy] Thanh từng dâng sớ [lên vua Tự Đức], nói rằng: Muốn được thực tài tất phải khôi phục phép dạy, phép thi của cổ nhân và liệt ra 8 mục:

1. Cẩn thận phép dạy ở trường tư các làng.

2. Kén chọn tổng lý và tá lại.

3. Dựng xã thương.

4. Giữ nghiêm phép dạy ở các trường phủ, huyện.

5. Nghị đổi lại phép thi Hương.

6. Mở rộng phép dạy ở các nhà Quốc học.

7. Chọn thầy bạn cho Tôn sinh(30).

8. Sửa định lại việc ban phát kinh sách”(31).

Trong bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh cũng mở đầu bằng nỗi băn khoăn cho việc học của sinh viên Quốc tử giám thời bấy giờ. Ông viết: “Quốc tử [giám] Tiên sinh cổ khiếp chi hạ dữ luận văn ư đường thượng, ngữ chi viết: “Học dục kỳ bác, vô thiển, dĩ tạc thức dục kỳ trác, dĩ bác phương kim. Minh thánh viễn lãm, xiển lãng nhân văn, cột dương Phong Nhã(32), đào chú Điển Phần(33); hóa tương long ư Thái thượng. Đạo lưu nhất hồ thánh chân…” - Dịch nghĩa: “Trong một buổi nhàn hạ, vị Tiên sinh ở Quốc tử giám, bên cạnh có mấy bài luận văn, đang ngồi chơi ở giảng đường, ông nói với học trò rằng: “Sự học là muốn có kiến thức uyên bác, chớ nông cạn, cần phải đào sâu suy nghĩ để có được hiểu biết cao xa, chớ hẹp hòi hoặc bác tạp. Phàm bậc thánh minh luôn nhìn xa, để xiển dương, sáng tỏ nhân văn, phát huy Phong Nhã, đào chú Điển Phần, để cải hóa và có dầy dặn kiến thức ở trước nhà vua. Đạo học phải thông tỏ, thống nhất ở nơi đích thực của các bậc thánh…”. Đó là điều, ta thấy Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đã có cái nhìn về sự học giống với bậc đại Nho Hàn Dũ vừa nói ở trên.

Bài Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (Đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương(34) được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay), cũng có nhà nhiều câu văn hay, sử dụng hình ảnh đẹp, như:

 - Long Hưng vân chí, đồng sinh phượng minh, phù cố hữu thiên giả, tồn yên”. Dịch nghĩa: Rồng có bay lên, thì mây mới có chỗ tụ lại, cây ngô đồng có sinh ra, thì phượng hoàng mới có chỗ để kêu hót. Phàm mọi sự vật trên muốn vững bền và tồn tại được là vì có trời vậy!

Bài Đề Tam hữu đồ tịnh tự thuyết chí  (Đề bức tranh “Ba người bạn”, cùng bài tự) là một bài tạp văn khá hay và ngắn gọn. Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết: “Dư ngẫu nhàn tọa, cố đông bích gian, đa điểm ô tích, nhân dĩ ngốc bút nhu mặc, hý tùy ô tích vi họa, sậu thành sổ phong, dĩ vi hữu “Sơn”; bất khả vô thụ. Toại thành “Mai” nhất; hựu dĩ vi thụ; bất khả độc; kế thành “Tùng”, “Trúc”, vi “Tam hữu”(35).

Hữu Sơn, hữu Thụ, bất khả vô Cầm; nhân tả hạc, lập phong đầu; mi du cốc khẩu, các thành song yên. Nhân chiếm nhất tuyệt; dĩ kỷ kỳ thực. Hốt ức Phan, Lê lưỡng quân tử, hựu vi thuyết dĩ quảng chi, tịnh chí kỳ hậu vân:

Mai cù, trúc sấu hợp tùng trinh

Đạm bạc tương tao ngẫu nhĩ thành

Nhất hác gian tình, mi cộng viễn

Sổ phong dật trí, hạc đồng thanh”.

Dịch nghĩa:

Ta ngẫu nhiên có một buổi nhàn hạ, ngồi ngắm bờ tường phía Đông, thấy khá nhiều những vết ố, nhân đó, bèn lấy chiếc bút lông cùn thấm vào đĩa mực, cứ theo những vết ố mà vẽ đùa, chẳng mấy chốc, thành dăm ngọn núi. Ta cho rằng đã có núi, thì không thể không có cây cối. Lại vẽ một cây Mai. Ta lại cho rằng đã có cây, thì không thể đứng một mình. Tiếp đó, vẽ luôn Tùng, Trúc [để cùng với Mai] làm thành ba người bạn.

Nhưng có núi, có cây rồi không thể không có bầy cầm thú, vì thế vẽ một con hạc đậu trên đầu ngọn núi, và một con Nai lững thững trước cửa hang núi, để cho thành một đôi vậy! Nhân đó khẩu chiếm một bài thơ tứ tuyệt để ghi lại sự việc. Rồi bỗng nhớ đến hai bậc quân tử họ Phan, họ Lê, lại làm thêm một bài Thuyết để mở rộng nghĩa, cũng ghi chép lại có cuối bài. Thơ rằng:

Mai gầy trúc võ, với tùng trinh.

Đạm bạc ngẫu nhiên hóa bạn lành.

Ngòi nước mát trong nai thấp thoáng

Đỉnh non nhàn nhã hạc cao thanh.

Ngoài một vài bài, tôi vừa trích dẫn ở trên, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh còn nhiều bài tản văn khá hay, nội dung vừa hàm súc vừa uyên bác, như bài: Đông song mộng thuyết, trình Vũ Đông Dương (Nói về giấc mộng bên cửa sổ phía Đông, gửi Vũ Đông Dương(36)); Đề Linh Tế tháp ký hậu (Đề ở dưới bài Linh Tế tháp ký(37)); Linh Tế tháp ký giải (Giải thích rõ về bài ký tháp Linh Tế [của Trương Hán Siêu]); Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký phê bình (Phê bình bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), v.v… Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài tạp chí, chúng tôi không thể viết dài hơn được. Do vậy, hy vọng trong một tương lai gần, được trở lại vấn đề này, chúng tôi xin bàn kỹ, để bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật thơ ca cũng như sự uyên bác, hàm súc trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh.

Để tạm kết bài này, tôi xin rút ra một vài nhận xét dưới đây:

1. Vũ Duy Thanh là một danh nhân lịch sử, một nhà thơ tài năng sống và hoạt động vào nửa đầu thế kỷ XIX. Ông là nhà khoa bảng lớn, là người đỗ vào hàng cao nhất trong lịch sử khoa cử Nho học (1807-1919), dưới triều Nguyễn. Lịch sử khoa cử Nho học triều Nguyễn, không lấy Trạng nguyên, chỉ lấy đỗ 2 vị Bảng nhãn (tức Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh) là: Phạm Thanh (1821-?) đỗ Bảng nhãn, Chính khoa Tân Hợi (1851) và Vũ Duy Thanh đỗ Bảng nhãn, Chế khoa Cát sĩ Tân Hợi (1851), cùng dưới triều vua Tự Đức (1848-1883).

Người đời tiếc cho tài năng của Vũ Duy Thanh, cho rằng tài của ông đáng Trạng nguyên, nên đương thời gọi ông là “Trạng Bồng” (Ông Trạng nguyên làng Bồng).

Như chúng ta đều biết, hoạn lộ của Vũ Duy Thanh không dài, các chức quan mà ông phụ trách đều thiên về công việc giáo dục, văn hóa như: Hàn lâm viện Thị độc, Quốc lử giám Tế tửu, tuy nhiên, không vì thế mà ông tỏ ra xao nhãng với các công việc chính trị trọng đại thời bấy giờ. Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn, phần lớn muốn nghị hòa, Vũ Duy Thanh và một số người cùng chí hướng với ông, đều cho rằng “Phải đánh mới định được đại cục”. Vũ Duy Thanh dâng sớ lên vua Tự Đức xin tăng cường lực lượng quốc phòng, chấn chỉnh việc nội trị, cải cách học thuật, văn hóa, kinh tế. Sớ dâng lên, không được vua Tự Đức chấp thuận, Vũ Duy Thanh ngày đêm nghiên cứu Binh thư, rồi viết Bình Tây thất sách (Bẩy sách lược bình giặc Pháp), và còn trích tiền lương của mình để mua sắm vật liệu, với ý định đóng thuyền thủy chiến có hỏa pháo để chống lại tàu chiến của Pháp. Nhưng công việc chưa xong, thì Vũ Duy Thanh đột ngột đi vào cõi vĩnh hằng…

2. Cuộc đời làm quan của Vũ Duy Thanh, tuy có một vài trắc trở, nhưng như ông tự nhận xét, cũng có nhiều vinh dự… Có được điều đó, là vì Vũ Duy Thanh luôn luôn là một vị quan thanh liêm, mẫu mực. Trên cương vị là Tế tửu Quốc tử giám, vị Hiệu trưởng của Trường cao cấp Nho học đứng đầu cả nước thời bấy giờ, ông là bậc thầy đạo cao, đức trọng luôn tận tụy với việc đào luyện nhân tài cho đất nước.

Trên cương vị là một nhà trước thư, lập ngôn, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh để lại cho hậu thế một số tác phẩm, trong đó có giá trị hơn cả là: Bồng Châu thi văn tập, mà chúng tôi vừa giới thiệu sơ lược nội dung ở trên.

Tôi thật lấy làm tiếc rằng: Hiện nay giới nghiên cứu văn hóa nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng chưa biết nhiều về các tác phẩm thi văn của Vũ Duy Thanh. Ở trên, tôi đã nhắc đến bộ thi tuyển Văn Đàn bảo giám của Trần Trung Viên, có tuyển chọn 7 bài thơ Thất ngôn bát cú của ông. Thế mà, vào tháng 10 năm 2004, trong Từ điển Văn học (Bộ mới), do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành, khổ 19x27cm, dày 2182 trang, không có tên Vũ Duy Thanh! Trong số 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ có tên trong bộ Từ điển Văn học này, thì mở đầu là Nhà thơ, nhà văn Vũ Anh Khanh (1926 -1956) và kết thúc là Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939). Tôi đã đọc tất cả tiểu sử và sự nghiệp thi ca, tản văn của 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ nói trên, thấy rằng đều rất xứng đáng được vinh danh trong bộ từ điển dày dặn này! Nhưng tôi nghĩ thầm trong bụng rằng: “Giá như hỏi một vài vị nhà thơ, nhà văn họ Vũ ấy, thử so sánh thi tài, văn tài của mình với cụ “Trạng Bồng - Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, thì không biết họ sẽ nghĩ sao đây?!”.

Điều đó, đặt ra cho giới nghiên cứu Sử học, Văn học hiện nay một trách nhiệm thiết thực cần tiến hành ngay là: Dịch những tác phẩm chữ Hán, đặc biệt là bộ Bồng Châu thi văn tập(38)của Vũ Duy Thanh, và cho xuất bản để công bố rộng rãi.

Tôi thiết nghĩ, nếu làm được như vậy, không chỉ là việc tôn vinh một danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa của Việt Nam ở thế kỷ XIX, mà còn quan trọng hơn, chúng ta đã góp phần giới thiệu một tác gia tầm cỡ, còn ít người biết tới cho độc giả hiện tại.

3. Có thể khẳng định Vũ Duy Thanh là một danh nhân văn hóa, có những đóng góp rất đáng ghi nhận đối với tiến trình lịch sử văn hóa của nước nhà. Với những trước tác của mình, nhất là tác phẩm Bồng Châu thi văn tập, Vũ Duy Thanh xứng đáng được coi là một tác gia tên tuổi của nền văn học Việt Nam vào thế kỷ XIX.

Tôi hoàn toàn tin rằng: Nếu làm được các điều trên đây, một cách trọn vẹn, thì nhân dân mọi miền đất nước, trong đó có nhân dân Yên Khánh - Ninh Bình sẽ tin yêu cuộc sống hơn, trân trọng những gì thuộc về quá khứ vẻ vang của dân tộc hơn. Và, tại cõi vĩnh hằng kia, cụ “Bảng Bồng - Vũ Duy Thanh” chắc sẽ hài lòng và mãn nguyện đôi phần.

Chú thích:

(1Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tập 4, tr.304.

(2Cao Xuân Dục: Quốc triều Hương khoa lục. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 1993, tr.243.

(3Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm Học liệu xb, Sài Gòn. 1961, tr.121.

(4Đại Nam chính biên liệt truyện. tập 4, Sđd, tr.305.

(5Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, tập 1, Nxb. Sử học, H. 1962, tr.437.

(6Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.839.

(7Nguyễn Phó bảng: tức Nguyễn Ngạn , người xã Áng Ngũ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Sau đổi tên là Nguyễn Tiến Khanh. Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849). Làm quan đến Đốc học.

(8Tứ thư là Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh tử.

(9Ngũ Kinh là Thi - Thư - Lễ - Dịch - Xuân Thu.

(10Âu lão: Ông già họ Âu, tức Âu Dương Tu  (1007-1072), tự là Vĩnh Thúc , hiệu là Lục Nhất  và Túy Ông , quê ở Lô Lăng (nay là tỉnh Giang Tây). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1030, làm chức Quán các Hiệu khám ở triều. Mười năm sau mới được làm chức Hàn lâm viện Học sĩ và được giao soạn bộ Tân Đường thư, 222 quyển. Soạn xong bộ sách trên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị độc, rồi Khu mật Phó sứ, cuối cùng làm tới chức Binh bộ Thượng thư. Ông trước tác nhiều, ngoài bộ Tân Đường thư, ông còn tự soạn bộ Tân Ngũ đại sử, 75 quyển.

(11Hàn Văn công tức Hàn Dũ  (768 - 824): tự làThoái Chi退, đỗ Tiến sĩ năm 792. Năm 796, ông làm chức Quán sát, sau được làm chức Giám sát Ngự sử, rồi Sứ quán Tu soạn, cuối cùng được thăng tới Hình bộ Thị lang. Hàn Dũ có danh vọng trên văn đàn nhờ có tài về cổ văn và nhiệt thành bênh vực đạo Nho.

(12Trong Văn đàn bảo giám, ngoài 7 bài thơ Thất ngôn bát cú nói trên, soạn giả Trần Trung Viên còn tuyển bài Cổ Kinh danh thắng, một bài Biền phú, hạn vận, ca ngợi cảnh đẹp của Cổ Kinh đô Hoa Lư.

(13Viên Mai: Tùy Viên thi thoại. Nxb. Giáo dục, H. 1999. Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, tr.59.

(14Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm học liệu xb, Sài Gòn 1961, tr.121-122.

(15Đường - Tống bát đại gia: Tám đại gia thời Đường - Tống, gồm có:

Thời Đường: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên

Thời Tống: Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tô Triệt.

(16Tiên Tần: tức trước đời Tần (221 TCN - 206 TCN). Chủ yếu chỉ thời kỳ: Xuân Thu (770 TCN - 480 TCN) và Chiến Quốc (480 TCN - 221 TCN).

(17Lưỡng Hán: Hai đời Hán, tức: Tiền Hán (206 TCN-8 SCN) và Hậu Hán (24-220).

(18Diêu: họ của vua Thuấn; Tự: họ của vua Vũ.

(19Chu Cáo, gồm có: Đại Cáo, Tửu Cáo, Khang Cáo, Lạc Cáo, Thang Cáo.

(20Ân Bàn, gồm 3 thiên Bàn Canh: Thượng, Trung, Hạ.

(21Thái sử công, tức Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng.

(22Tử Vân: là tên tự của Dương Hùng (53 TCN - 18 SCN), nhà tư tưởng nổi tiếng thời Tiền Hán. Tác phẩm có: Thái Huyền, Pháp Ngôn

(23Tương Như: tức Tư Mã Tương Như (179 - 117 TCN), người Thành Đô, tự Tràng Khanh, rất đa tài, văn hay đàn giỏi. Ông là một tác giả nổi tiếng nhất về phú, có các tác phẩm: Tử hư phú, Đại nhân phú, Mỹ nhân phú, Trường môn phú

(24Xuân Thu: tức Kinh Xuân Thu, bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử (551 - 479 TCN) soạn.

(25Tả thị: tức Tả truyện của Tả Khâu Minh, giải thích nội dung Kinh Xuân Thu, vì vậy còn được gọi là Xuân Thu Tả truyện.

(26Sách của Trang Chu: chỉ bộ Nam Hoa kinh của Trang Tử.

(27Ly Tao: bài thơ theo thể Sở từ của Khuất Nguyên (343 - 277 TCN), một bài thơ trường thiên, có 370 câu tả tâm sự của ông.

(28Chỉ bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.

(29Tiên sinh: chỉ Tư Mã Tương Như.

(30Tôn sinh: tức số con em trong tôn thất nhà Nguyễn học tại Quốc tử giám.

(31Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 4, tr.305.

(32Phong Nhã: chỉ Kinh Thi. Kinh Thi có 3 phần: Phong - Nhã - Tụng. Ở đây dùng để phiếm chỉ thi ca cổ điển của Trung Hoa.

(33Điển Phần: chỉ Tam phần - Ngũ điển.

Tam phần: chỉ thư tịch cổ của các đời Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế, để nói về Đại đạo.

Ngũ điển: chỉ thư tịch cổ của các đời Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

(34Ông họ Trương: tức Trương Quốc Dụng (1797-1864), người xã Phong Phú, huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, thăng Lang trung Bộ Hình. Phạm lỗi phải đi hiệu lực. Sau được phục dụng điều đi Án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, về Kinh sung làm Kinh diên Giảng quan. Sau thăng Hình bộ Thượng thư, kiêm Quốc sử quán Tổng tài, được điều làm Thống đốc Hải An quân thứ (Hải Dương - Quảng Yên). Ông tử trận trong khi dẹp cuộc phiếm loạn của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên năm 1864.

(35Tam hữu: Văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam… thường lấy hình tượng tùng, trúc, mai làm biểu tượng cho sự can đảm, khí tiết, chịu đựng được cái rét và sương tuyết của mùa Đông, gọi là “Đông hàn tam hữu” (Ba người bạn chịu được cái rét mùa Đông). Ở đây ám chỉ bậc kẻ sĩ quân tử có khí phách trượng phu “Uy vũ bất năng khuất” (Mạnh Tử).

(36Vũ Đông Dương: tức Vũ Phạm Khải (1807-1872), tự là Đông Dương, hiệu là Ngu Sơn và Dưỡng Trai, quê xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm quan tới chức Hàn lâm Trực học sĩ, quyền biện Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người đứng đầu phái chủ chiến trong triều đình Tự Đức. Tác phẩm có: Ngu Sơn toàn tập, gồm 3 quyển thơ, 15 quyển văn.

(37Linh Tế tháp ký: tên cả bài là Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) của Trương Hán Siêu (? - 1354) là một danh Nho học vấn sâu rộng vào nửa đầu thế kỷ XIV đời Trần.

(38Tôi được nhà nghiên cứu Phạm Như Thơm (Viện Sử học), photocopy cho 1 bản dịch ra tiếng Việt bộ Bồng Châu thi văn tập, không thấy ghi tên người dịch!. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ bản dịch này và đối chiếu với nguyên tác chữ Hán, tôi nhận thấy bản dịch chất lượng thấp, không thể đem ra xuất bản được./.

(Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121), tr.29-42)

Tải về:  
 In
Lượt truy cập: 

20211023 4

Năm 2016, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu Thế giới

1. Giới thiệu thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế
Vùng đất Huế vốn có lịch sử lâu đời và là nơi giao thoa, hội tụ của nhiều luồng văn hóa, văn minh, mà nổi bật là văn minh Nho giáo từ phương bắc xuống, văn minh Phật giáo từ phương nam lên, kết hợp với các yếu tố bản địa Đông Nam Á... Từ năm 1636, Huế đã được lựa chọn để xây dựng làm thủ phủ - kinh đô của Đàng Trong, và từ đó dần dần trở thành một trung tâm văn hóa, chính trị mới ở phía nam Đại Việt. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, Huế đã trở thành kinh đô nổi tiếng phồn hoa đô hội của vương quốc Đàng Trong với một hệ thống công trình kiến trúc gỗ phong phú. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XIX, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, xây dựng Huế trở thành kinh đô của nước Việt Nam độc lập, việc quy hoạch và xây dựng kinh đô Huế mới trở nên hoàn chỉnh. Việc xây dựng các công trình kiến trúc tại kinh đô Huế diễn ra chủ yếu dưới thời hai vị hoàng đế đầu triều là Gia Long (1802-1820) và Minh Mạng (1820-1841), sau đó được hoàn chỉnh dưới thời Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883). Đây là thời kỳ của các công trình kiến trúc sử dụng các loại vật liệu truyền thống như gạch, ngói, gỗ, trong đó chủ yếu là kiến trúc gỗ. Nhưng từ thời Đồng Khánh (1886-1889) trở đi, Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn minh phương Tây, trong hệ thống kiến trúc cung đình cũng xuất hiện một loại hình kiến trúc mới, sử dụng vật liệu bê-tông, sắt thép và trang trí chủ yếu bằng đắp nổi sành sứ. Chính vì vậy, bên cạnh hệ thống kiến trúc gỗ chiếm số lượng chủ yếu, trong kiến trúc cung đình Huế còn có các công trình kiến trúc xây dựng bằng vật liệu cứng theo phong cách kiến trúc tân-cổ điển, đặc biệt là ở thời kỳ hai vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn là Khải Định (1916-1925) và Bảo Đại (1925-1945). Có thể nói, kinh đô Huế thời Nguyễn là sự tích hợp và phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam với một quy hoạch hoàn chỉnh và một hệ thống công trình kiến trúc đồ sộ, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, chùa quán... được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, tuyệt đẹp với sông Hương, núi Ngự, đồi Vọng Cảnh, phá Tam Giang...

Năm 1803, vua Gia Long bắt đầu xây dựng Hoàng Thành Huế mà mở đầu là những công trình kiến trúc quan trọng nhất: Triệu Miếu, Thái Miếu và Hoàng Khảo Miếu để thờ tổ tiên, điện Cần Chánh làm nơi nhà vua thiết triều và cung Diên Thọ dành cho Hoàng thái hậu. Sau đó, các công trình kiến trúc khác trong Hoàng Thành và Cung Thành (sau gọi là Tử Cấm Thành) lần lượt được xây dựng. Tuy nhiên, phải sau khi vua Minh Mạng lên ngôi và tiến hành quy hoạch lại toàn bộ Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, cho xây dựng Thế Tổ Miếu, sắp đặt lại vị trí của Hoàng Khảo Miếu (sau đổi là Hưng Tổ Miếu), dời vị trí điện Thái Hòa về phía nam, xây dựng Ngọ Môn (thay cho Đoan Môn)… thì bố cục, diện mạo của Hoàng cung triều Nguyễn mới trở nên cân đối và hoàn chỉnh. Các công trình kiến trúc từ Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Triệu Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, chùa Thiên Mụ… đều sử dụng văn thơ để trang trí trên liên ba, đố bản, cổ diềm ở cả nội và ngoại thất công trình. Và cách trang trí 1 ô thơ hoặc 1 đại tự đi liền với 1 bức họa tạo nên kiểu thức "nhất thi nhất họa" hoặc "nhất tự nhất họa" gần như đã trở thành một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Đây là một hình thức trang trí được thực hiện trên các liên ba sơn son thếp vàng, dùng kiểu ô hộc lớn nhỏ xen nhau, thể hiện nhiều đề tài, nhiều biểu tượng kèm theo, được lắp đặt khéo léo tại phần trên của các bức tường. Trong giai đoạn này, chất liệu chế tác để tạo nên văn thơ là từ gỗ quý hoặc có độ bền vững cao (lim, kiền kiền, thị, dỗi rừng…) hoặc xà cừ, xương hay cao cấp hơn là ngà voi, hoặc đồ pháp lam (đồ đồng tráng men), bê-tông đắp ngõa sành sứ. Nghệ nhân sẽ khắc, chạm hoặc khảm trực tiếp lên những tấm gỗ đã định sẵn kích cỡ rồi sau đó gắn trực tiếp lên công trình (sau đó có thể sơn son thếp vàng hay sơn quang), tạo thành những liên ba, đố bản, cổ diềm, vách ván của cung điện, đình tạ, lầu các. Đối với pháp lam thì nghệ nhân sẽ viết chữ rồi tráng men trên những tấm đồng, tạo nên những bức thơ, họa pháp lam nhiều màu sắc, chủ yếu dùng để trang trí ở ngoại thất công trình, trên cổ diềm cung điện, trán cổng… Nhưng điều đáng chú ý nhất là từ thời Minh Mạng, việc sử dụng thơ văn để trang trí trên các công trình mới trở nên phổ biến và trở thành điển chế mà tiêu biểu là ở Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng). Đặc biệt thời vua Thiệu Trị, là vị hoàng đế nổi tiếng uyên thâm về Nho học và giỏi thi phú, lối trang trí "nhất thi nhất họa", "nhất tự nhất họa" càng được áp dụng phổ biến, tiêu biểu là điện Biểu Đức ở lăng vua Thiệu Trị; điện Long An (vào năm 1923 đổi tên Bảo tàng Khải Định)… Thậm chí ở các quốc tự tại kinh đô cũng sử dụng lối trang trí này. Đặc biệt ngôi chùa Thiên Mụ được xây dựng dưới thời chúa Nguyễn Hoàng nhưng dưới thời vua Thiệu Trị được trùng kiến. Kiến trúc của chùa lộng lẫy huy hoàng với nghệ thuật trang trí ô hộc, một hình thức trang trí theo quy cách "nhất thi nhất họa" mà điển hình nhất là ở đình Hương Nguyện (thuộc chùa Thiên Mụ). Thời vua Tự Đức (1848-1883), do điều kiện đất nước khó khăn, và có lẽ cũng do lấy chữ "Khiêm" để tự răn mình nên vị hoàng đế giỏi thơ ca bậc nhất của triều Nguyễn lại không dùng văn thơ để trang trí cho các công trình kiến trúc của riêng ông, mà chỉ sử dụng lối trang trí "nhất thi nhất họa" cho một số công trình trong lăng tẩm của vua cha, tức tại Xương Lăng (lăng vua Thiệu Trị). Truyền thống trang trí "nhất thi nhất họa" chỉ được nối mạch lại từ thời vua Đồng Khánh (1885-1888) tại lăng tẩm của chính vị vua này (Tư Lăng), rồi được các vua Khải Định, Bảo Đại về sau tiếp tục kế thừa, dù cách thức thể hiện và vật liệu sử dụng đã thay đổi. Đó chính là việc sử dụng mảnh sành sứ đắp ngõa để trang trí trên công trình kiến trúc xây bằng bê-tông, sắt thép. Phần lớn các công trình kiến trúc được xây dựng dưới thời vua Nguyễn (1802-1945) có thơ văn được trang trí "nhất thi nhất họa" và "nhất tự nhất họa" được hình thành cùng thời xây dựng công trình. Thơ văn này thể hiện sự phong phú đa dạng về cả nội dung cho đến hình thức. Một ô thơ đi kèm với một ô họa khắc những đề tài truyền thống thuần túy Việt Nam như bát bửu, hoa lá, trái cây, rồng, hạc, đầu rồng, dây lá… Nội dung của những ô họa chỉ mang tính chất trang trí, không minh họa cho nội dung của những ô thơ đi kèm với nó. Trải qua một thời gian dài, sự tàn phá của chiến tranh, các thảm họa thiên nhiên và con người, Cố đô Huế còn bảo lưu được một khối lượng rất lớn thơ văn trên các di tích kiến trúc này. Theo thống kê hiện nay, trên các di tích kiến trúc cung đình có tổng số 2679 ô thơ văn và cũng có chừng đó ô họa được chạm khắc, sơn thếp, cẩn xà cừ trên gỗ, trên pháp lam và đắp ngõa sành sứ. Đây thật sự là một bảo tàng sống động về văn chương của triều Nguyễn.
 

2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản và một số kinh nghiệm
2.1.Quá trình thực hiện hồ sơ di sản
Sau khi tìm hiểu, xem xét các tiêu chí của UNESCO về việc vinh danh các di sản mang tầm nhân loại, chính quyền, nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và những người làm công tác nghiên cứu bảo tồn di sản nhận thấy Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế có khả năng đáp ứng được các tiêu chí đặt ra, đồng thuận đề nghị Chính phủ cho phép xây dựng hồ sơ “Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (1802-1945) theo mẫu đăng ký đệ trình Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP).

Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức nhiều cuộc họp để bàn bạc và có sự thống nhất cao về chủ trương và hành động, đã giao cho Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam khẩn trương triển khai những thủ tục cần thiết để xây dựng hồ sơ, vừa tiến hành các thủ tục văn bản, vừa thực hiện các bước thuộc nội dung như: mời các chuyên gia nghiên cứu, thực hiện các bước khảo sát thực tế; tổ chức tọa đàm khoa học tại địa phương nhằm nhận diện giá trị và đánh giá sơ bộ thực trạng thơ văn trên kiến trúc cung đình. Tiếp tục triển khai công tác nghiên cứu, dịch thuật, đối chiếu thơ văn trên các công trình kiến trúc với thơ văn Ngự chế, chụp ảnh và xây dựng các bộ phim tư liệu về di sản thơ văn. Đẩy mạnh việc đưa di sản này vào giới thiệu trong các hội thảo liên quan đến di sản Huế, đến các viện nghiên cứu, trường học và phát trên các sóng phát thanh truyền hình, thành lập thêm nhiều nhóm dịch thuật và thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm ở di tích Huế. Tháng 5/2015, tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế”. Đây là bước quan trọng và là một trong những tiền đề để các cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia góp ý và đánh giá giá trị của tư liệu để có thêm niềm tin, căn cứ để lập hồ sơ. Những hoạt động trên đã giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng và góp phần trực tiếp vào việc bảo vệ di sản thơ văn tạo cơ sở dữ liệu quan trọng cho việc xây dựng hồ sơ.

Để hoàn thiện được bộ Hồ sơ theo tiêu chí của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) thuộc UNESCO, việc tổ chức kiểm kê di sản là nhiệm vụ bắt buộc đối với các chủ thể văn hóa. Từ tháng 2/2013, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai công tác khảo sát, chụp hình, số hóa, dịch thuật tất cả các thơ văn ở các di tích trên kiến trúc cung đình Huế. Với sự vào cuộc của các cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên ngành cùng với sự phối hợp nhiệt tình của các ban ngành liên quan, các chuyên gia và các nhà nghiên cứu nên nội dung và số lượng thơ văn trên di tích đã được thống kê và phân loại đầy đủ, các thủ tục hành chính, pháp lý về hồ sơ, tư liệu kiểm kê, lấy ý kiến đồng thuận của cộng đồng được hoàn thành trong tháng 11/2014.
Song song với việc thống kê thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, nhiều nội dung quan trọng khác của hồ sơ cũng được khẩn trương triển khai như: Tiến hành công tác điền dã, chụp ảnh, đối chiếu thơ văn trên kiến trúc cung đình với thơ văn Ngự chế để tìm ra tác giả của những bài thơ trên kiến trúc cung đình, xây dựng phim tư liệu về di sản (với thời lượng 50 phút và 10 phút); sưu tầm, nghiên cứu, tập hợp tư liệu, viết và hoàn thiện bản viết hồ sơ; xây dựng chương trình hành động... Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã được các cán bộ nghiên cứu lịch sử văn hóa quan tâm nghiên cứu từ lâu, nhưng tập trung nhất phải được đánh dấu bằng mốc thời gian tiến hành xây dựng hồ sơ khoa học đề cử. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo (bao gồm Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Di sản Văn hóa, Chủ tịch Hội đồng Di sản Quốc gia, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam; UBND tỉnh Thừa Thiên Huế…), với tinh thần trách nhiệm cao, khẩn trương của Ban Xây dựng hồ sơ, sự vào cuộc nhiệt tình, hiệu quả của các cấp, các ngành, các địa phương liên quan, chỉ trong thời gian ngắn, bộ hồ sơ đã được hoàn thành trước ngày 15/10/2015 theo yêu cầu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trước khi trình Hội đồng Di sản Quốc gia và Thủ tướng Chính phủ để chuyển tới Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) thuộc UNESCO, Hồ sơ được nhiều lần tổ chức tọa đàm, trao đổi để lấy ý kiến của các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà chuyên môn, các nhà lãnh đạo, quản lý, các cơ quan liên quan ở trung ương và địa phương.
Tuy quỹ thời gian làm hồ sơ rất eo hẹp nhưng bù lại chúng tôi đã nhiều năm quan tâm và trực tiếp tham gia điều tra, kiểm kê, mã hóa, số hóa, phiên âm - dịch nghĩa (một số tác phẩm thơ văn) cũng như công bố một số bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành, báo chí… cho nên vẫn có nhiều thuận lợi. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc đó là vận dụng kiến thức để viết hồ sơ theo mẫu quy định của tổ chức Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) thuộc UNESCO. Đây là công việc đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và kiến thức thực tế.
Bản thảo bộ hồ sơ tiếng Việt được hoàn thành lần 1 vào ngày 30/3/2015. Sau đó, chúng tôi đã nhờ các chuyên gia, các giáo sư đầu ngành ở Trung ương (Viện Văn hóa Nghệ thuật, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, Trường Đại học KHXH & NV thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội…) xem lại, biên tập và bổ sung. Đến ngày 24/4/2015, bản thảo tiếng Việt được chỉnh sửa lần thứ 6 hoàn thành. Sau Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế”, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học tiếp tục bổ sung chỉnh sửa hồ sơ với sự đóng góp của các chuyên gia quốc tế và chuyên gia đầu ngành của Việt Nam, và một lần nữa hồ sơ được chỉnh sửa một cách hoàn hảo nhất và chuyển dịch sang tiếng Anh để hoàn thiện vào ngày 25/9/2015. Việc dịch thuật hồ sơ Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế ra tiếng Anh cũng là một vấn đề khá phức tạp, vì hồ sơ sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành, nhiều từ khó giải thích, cho nên ngay cả nhiều chuyên gia tiếng Anh cũng khó chuyển ngữ chuẩn xác; bên cạnh đó, thời gian dành cho công việc này cũng khá hạn chế, dẫu vậy, công việc vẫn hoàn thành đúng hạn. Bản dịch tiếng Anh cuối cùng của hồ sơ nhận được sự biên tập trực tiếp của TS.Trương Bạch Lê và ThS. Đặng Ngọc Hiếu (Trường Đại học Ngoại ngữ Huế).

Trong thời gian chờ đợi các chuyên gia biên tập, bổ sung, chúng tôi đồng thời tiến hành thực hiện hồ sơ ảnh, tài liệu phụ lục liên quan và hoàn thiện hồ sơ vào ngày 10/10. Sáng ngày 15/10/2015, hồ sơ được nộp cho Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam thẩm định, sau đó chuyển sang trụ sở Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) tại Thái Lan. Đến ngày 30/3/2016, chúng tôi nhận được thông tin từ Ủy ban Di sản Ký ức Việt Nam (đơn vị trực tiếp gửi) nhắn tin hồ sơ đã gửi đến trụ sở MOWCAP tại Thái Lan đúng trình tự, đủ thủ tục và trước thời hạn 10 ngày.

2.2. Một vài kinh nghiệm xây dựng hồ sơ di sản tư liệu
Kinh nghiệm đầu tiên từ việc xây dựng hồ sơ của Huế là cần nắm chắc để làm rõ các tiêu chí mà di sản đề cử phải đáp ứng được, đặc biệt là tính độc đáo và tính quốc tế của di sản ấy.
Qua đợt khảo sát thực tế tại cố đô Huế, ngài Rujaya Abhakorn (người Thái Lan), Đại sứ thiện chí, thành viên Hội đồng, Giám đốc Tổ chức văn hóa, giáo dục, khảo cổ học, nghệ thuật của ASEAN có đặt ra những vấn đề ông băn khoăn và đề nghị đơn vị đề cử cần bổ sung giải trình trước khi đệ trình hồ sơ. Trong đó, ngài đặc biệt quan tâm đến hai vấn đề lớn: Thứ nhất là ảnh hưởng của Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế ra nước ngoài, hay nói cách khác là tính quốc tế của di sản này được lan tỏa như thế nào; và thứ hai là vấn đề liên quan đến tính độc đáo, tính xác thực và tính duy nhất của di sản thơ văn này. Hai vấn đề ngài Rujaya Abhakorn nêu lên, thực chất trong hồ sơ đã có đề cập nhưng chưa rõ, chưa có số liệu xác thực để chứng minh thuyết phục hơn, vì vậy chúng tôi buộc phải tập trung nghiên cứu, và nhờ chuyên gia hỗ trợ để hồ sơ đầy đủ hơn, làm rõ được các tiêu chí mà di sản được đề cử cần đáp ứng.
Một vấn đề khác về việc lập hồ sơ, theo đánh giá của lãnh đạo Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, thì những hạn chế lớn của Việt Nam trong việc xây dựng và đệ trình hồ sơ ở chỗ các hồ sơ chưa nhấn mạnh, khai thác, nêu bật được các tiêu chí có tính chất đặc thù riêng của tài liệu lưu trữ. Bên cạnh đó, cách làm của chúng ta còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa có hội đồng tư vấn để tập trung các nhà khoa học, các chuyên gia, do đó mỗi lần xây dựng hay sửa chữa hồ sơ thì phải đưa hồ sơ đến để tham khảo từng nhà khoa học, chuyên gia. Khi có Hội đồng tư vấn, việc phân tích, đánh giá các bộ hồ sơ sẽ tốt hơn. Trong khi các di sản đang ngày một xuống cấp và chưa được xã hội đánh giá đúng giá trị của nó, với những kinh nghiệm xây dựng, đệ trình hồ sơ đề cử được các đại biểu trong nước và quốc tế chia sẻ, các tổ chức, cá nhân sẽ hiểu rõ hơn về giá trị của tư liệu để cùng chương trình MOW của Việt Nam xây dựng bộ hồ sơ theo các cấp khác nhau từ khu vực đến thế giới một cách hệ thống, đáp ứng đúng tiêu chí của UNESCO.
Nhìn nhận lại những thuận lợi, khó khăn trong quá trình lập hồ sơ về “Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế” trình Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (MOWCAP) để rút ra các bài học kinh nghiệm cũng không hề đơn giản do tính đặc thù của di sản này. Những dạng di sản tư liệu tương tự như vậy chưa hề có ở Việt nam, và có lẽ trên phạm vi toàn thế giới. Hơn nữa, thơ văn được khắc, chạm, vẽ, đắp trên liên ba, đố bản, bờ nóc, bờ quyết công trình, đa số là ở những vị trí không mấy thuận tiện cho người tiếp xúc trực tiếp; thêm nữa, số người có khả năng nghiên cứu chuyên sâu về tài liệu “Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế” thì lại rất ít. Bản thân Trung tâm BTDTCĐ Huế cũng có không nhiều người biết chữ Hán Nôm, và chỉ có rất ít người có khả năng nghiên cứu chuyên sâu về loại hình tư liệu đặc thù này trong khi khối lượng tài liệu thơ văn lại rất lớn với gần 3.000 đơn vị, phân bố trên nhiều vị trí khác nhau của công trình di tích. Việc thuyết minh làm toát lên giá trị khối tài liệu này bằng tiếng Việt đã khó, nay phải phiên âm, dịch nghĩa, chuyển tải những thông tin này sang tiếng Anh chuyên ngành lại càng khó hơn.
Theo ông Raymond Edmondson, Chủ tịch Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tài liệu lưu trữ cần có rất nhiều tiêu chí về thời gian, địa điểm, con người, tầm ảnh hưởng, giá trị của bộ tài liệu… Tài liệu này phải được xác nhận có đáp ứng đầy đủ tất cả các tiêu chí đó thì hồ sơ tham gia mới đạt được yêu cầu của chương trình.
Qua tài liệu của 2 đợt Hội thảo - Tập huấn quốc tế “Chia sẻ kinh nghiệm tham gia chương trình MOW của UNESCO” được Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước tổ chức tại Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh, các đại biểu đến từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia và các báo cáo viên của Việt Nam đã cùng chia sẻ những kinh nghiệm liên quan đến việc triển khai chương trình MOW ở Việt Nam, việc xây dựng hồ sơ và đệ trình hồ sơ đề cử danh mục Di sản tư liệu thế giới… Đây là dịp tạo cơ hội cho cán bộ công tác tại các cơ quan lưu trữ, thư viện, bảo tàng, các cơ sở văn hóa khác có cơ hội lắng nghe và chia sẻ kinh nghiệm của các chuyên gia trong nước và quốc tế về chương trình MOW, đồng thời được hướng dẫn kỹ năng xây dựng hồ sơ đề cử danh mục Di sản tư liệu cấp khu vực và quốc tế cho những tư liệu có giá trị của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

 

3. Kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế

Ngay sau khi Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tỉnh Thừa Thiên Huế và Trung tâm đã nỗ lực quảng bá, giới thiệu giá trị di sản tư liệu quý hiếm và độc đáo đến với đông đảo công chúng trong và ngoài nước trên các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng, in ấn brochure và xuất bản sách để làm quà tặng… Trung tâm cũng tìm cách phát huy giá trị thơ văn thông qua việc đổi mới và mở rộng các hình thức quảng bá, tuyên truyền nhằm giới thiệu đến với công chúng trong nước và ngoài nước tiếp cận, hiểu được giá trị nội dung, ý nghĩa của nguồn tài liệu thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục… đồng thời góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam về vai trò của công tác lưu trữ, giá trị của tư liệu lưu trữ thông qua các khối lượng tư liệu lưu trữ của triều Nguyễn đã được công nhận như Mộc bản, Châu bản…
Đối với công tác trùng tu công trình di tích, Trung tâm đã xây dựng kế hoạch và định hướng bảo quản an toàn thơ văn trên các liên ba, đố bản bờ nóc, hạn chế sự hư hỏng của tài liệu nhằm gìn giữ nguồn tư liệu được bền lâu và nguyên vẹn. Bên cạnh đó, tập trung khảo sát đánh giá hiện trạng thơ văn chạm khắc, khảm, cẩn, tráng men… trên cấu kiện gỗ, bê-tông, pháp lam; tiếp tục nghiên cứu phục hồi kỹ thuật pháp lam truyền thống, kỹ thuật chạm, khảm để phục hồi các bài thơ, các chữ đã mất trên các liên ba, các ô cổ diềm của các di tích; tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học nhằm tập hợp các ý kiến của các nhà quản lý văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa Hán Nôm liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế; đẩy mạnh công tác triển khai áp dụng công nghệ số để bảo tồn di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế…
Dưới đây là một số nội dung cụ thể:
3.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, làm nổi bật giá trị to lớn, đa dạng của di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế và đưa những giá trị đó đến cộng đồng
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một hệ thống văn tự chữ Hán sáng tác dưới dạng các bài văn thơ được chạm cẩn chủ yếu trên các liên ba đố bản hoặc vách ván, những bản gốc duy nhất hiện còn ở công trình kiến trúc thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế giai đoạn 1802-1945, cũng như ở Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, khối lượng thơ văn này là một di sản tư liệu chân xác, hàm chứa nhiều nội dung có giá trị, được lưu giữ thông qua những tác phẩm nghệ thuật mà chưa thấy di tích nào trên thế giới có và thơ văn này được trình bày theo lối "nhất thi nhất họa" và “nhất tự nhất họa” gần như trở thành một lề lối phép tắc quy chuẩn của triều đình Nguyễn. Các tác phẩm này là sự kết tinh của nhiều yếu tố khác nhau, từ mỹ thuật, kỹ xảo trang trí, thư pháp, nghệ nhân nghề mộc cổ truyền cung đình tạo nên một phong cách mang đậm truyền thống của riêng Huế - Việt Nam.
Với những giá trị độc đáo và quý hiếm đó, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế sau khi được công nhận là Di sản ký ức thế giới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đã công bố giá trị nội dung di sản của thơ văn trên nhiều phương tiện thông tin như: báo chí, truyền hình, trang thông tin điện tử... gây được sự chú ý của công chúng và các nhà nghiên cứu. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế sẽ tổ chức tọa đàm và nhiều cuộc hội thảo về khối tư liệu này để rộng đường nghiên cứu và thưởng lãm cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về bảo quản thơ văn trên các kiến trúc cung đình, tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá về giá trị của thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế trên nhiều kênh thông tin. Bên cạnh những đề xuất phương án bảo tồn khối lượng lớn di sản thơ văn trên phương diện kỹ thuật, vật lý thì những giải pháp bảo tồn phát huy giá trị thơ văn trên phương diện văn hóa giáo dục và trí thức cũng được quan tâm. Giá trị thơ văn di sản thế giới sẽ được giới thiệu rộng rãi đến đại bộ phận công chúng, đặc biệt tầng lớp thanh thiếu nhi đang ngồi trên ghế nhà trường, nhằm tôn vinh và lưu truyền những giá trị lịch sử vô giá này.

3.2. Dựng phim, phóng sự giới thiệu, quảng bá về thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế trên truyền hình
Trung tâm sẽ tiến hành xây dựng kịch bản và phối hợp với đài truyền hình để dựng lại bộ phim về bảo tồn di sản tư liệu thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Đồng thời sau khi được công nhận Di sản ký ức thế giới, Trung tâm đã triển khai dựng phim: “Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế - Hành trình đi đến di sản” nhằm lưu giữ lại một cách toàn diện nhất về giá trị di sản mà tổ tiên đã để lại cho ngày nay và mai sau.
Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, giới thiệu di sản tư liệu Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế với công chúng trong và ngoài nước trên đài phát thanh, truyền hình qua các kênh truyền hình quốc gia VTV1, VTV4, VTV8, thực hiện nhiều phóng sự phát trên chuyên mục Câu chuyện văn hóa, Cuộc sống thường ngày trên kênh VTV1… Kế hoạch đẩy mạnh giới thiệu thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vào các chương trình: “Kiến thức xã hội” trên VTV2 và VTV4; Phóng sự trong chương trình “Điểm hẹn văn hóa”; Phóng sự về thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế trong chương trình “Gõ cửa ngày mới” trên VTV1; phóng sự trên chương trình “Khám phá Việt Nam” trên kênh truyền hình VTV1 và VTV4…
Có thể nói rằng các phương tiện thông tin đại chúng chính là cầu nối đưa Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đến gần với đời sống xã hội và con người Việt Nam. Hình thức quảng bá này đã góp phần tích cực giới thiệu đến công chúng những giá trị di sản độc đáo và tài năng của các vị vua nhà Nguyễn và sự tài hoa khéo léo của con người Việt Nam vào thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.

3.3. Tổ chức trưng bày, triển lãm thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là khối tài liệu duy nhất lưu trữ các tác phẩm thơ văn hàm chứa nhiều thông tin có giá trị, phần nào giúp nghiên cứu hình ảnh của hệ thống chính trị, văn hóa, xã hội, con người của một quốc gia trong một giai đoạn lịch sử. Các tài liệu này ngoài giá trị nội dung thông tin, bản thân tài liệu trải qua thời gian 2 thế kỷ đã trở thành bộ sưu tập cổ vật vô cùng phong phú và vô cùng quý giá. Bên cạnh đó, đây còn là một bộ sưu tập tranh, một bộ sưu tập thư pháp, một bộ sưu tập tác phẩm mỹ thuật công nghệ vô cùng đa dạng, vô cùng phong phú và có giá trị cao.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế một cách thường xuyên và rộng rãi thông qua các hoạt động tổ chức trưng bày, triển lãm các di sản Hán Nôm tại các kỳ lễ hội, mở các cuộc thi viết thư pháp Hán Nôm, lập trang web, thư mục giới thiệu, quảng bá di sản chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế.
Tuyển chọn đưa vào trường học những tác phẩm tiêu biểu trong hệ thống thơ văn chữ Hán trên di tích kiến trúc cung đình Huế, qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nâng cao nhận thức trong thế hệ trẻ về giá trị và ý thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Hình thức triển lãm trưng bày Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một hình thức tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi cho quần chúng được tiếp cận trực tiếp với khối lượng tài liệu này thông qua các phiên bản từ bản gốc mà họ chưa có điều kiện tiếp cận, vì phần lớn hệ thống thơ văn này ở vị trí cao trên kiến trúc cung điện nên du khách không thể nhìn thấy rõ và không chiêm ngưỡng kỹ những giá trị nghệ thuật ở đó. Vì vậy, hình thức tổ chức sử dụng bản sao này có tính tuyên truyền và thuyết phục cao. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ có kế hoạch trưng bày triển lãm về thơ văn tại các di tích có thơ văn để du khách đến tham quan được tiếp cận thực tế và hiểu thêm về giá trị độc đáo và duy nhất của di sản tư liệu này.
Kế hoạch trong ngày Di sản Việt Nam, chúng tôi tiếp tục phối hợp tổ chức tọa đàm nhằm tôn vinh giá trị di sản Thơ văn cùng với các di sản tư liệu Mộc bản, Châu bản của triều Nguyễn tại Huế mà các tỉnh thành đang lưu trữ và bảo quản.

3.4. Tổ chức biên soạn, xuất bản ấn phẩm
Trung tâm đã nghiên cứu, tổ chức nhiều hoạt động nhằm đặt ra kế hoạch quản lý tốt nguồn tư liệu quý giá này, cụ thể như phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm hay Trường Đại học KHXH và NV (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát huy thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Tổ chức dịch thuật, xuất bản sách để nội dung của thơ văn đến với công chúng. Trung tâm sẽ phối hợp trực tiếp hoặc tạo điều kiện hỗ trợ cho một số nhà nghiên cứu công bố các tác phẩm, luận văn có đề cập đến thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Phối hợp với các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử, nhà nghiên cứu Hán Nôm, nhà thư pháp trong lĩnh vực bảo tồn thơ văn trên di tích thông qua việc trùng tu, bảo quản và nghiên cứu. Tập trung công tác nghiên cứu khoa học, chọn lọc và xuất bản các ấn phẩm liên quan đến di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế và qua đó nhằm giáo dục các thế hệ trẻ về văn hóa truyền thống của đất nước và bảo tồn gìn giữ tài sản quý giá của ông cha để lại.
Kế hoạch trong thời gian tới toàn bộ Thơ văn sẽ được Trung tâm phối hợp với các chuyên gia Hán Nôm biên mục nội dung thông tin và biên dịch ra tiếng Việt. Tất cả được tập hợp thanh thư mục và đóng thành cuốn và có kế hoạch dich thuật để phục vụ cho bạn đọc và các nhà nghiên cứu về văn hóa Huế có thêm nguồn tài liệu để tham khảo.

3.5. Tổ chức sử dụng và giới thiệu tài liệu ở các lễ hội, các cuộc hội nghị, hội thảo liên quan đến văn hóa Nguyễn với cộng đồng
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến di sản thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế một cách thường xuyên và rộng rãi thông qua các hoạt động trưng bày, triển lãm các di sản Hán Nôm tại các kỳ lễ hội, đặc biệt là các kỳ festival Huế; mở các cuộc thi viết thư pháp Hán Nôm, trưng bày triển lãm, thi thơ, bình thơ tại Huế nhân các ngày lễ truyền thống và tại các hội nghị, hội thảo khoa học…;  lập trang web, thư mục giới thiệu, quảng bá di sản chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế và kết nối với các cơ sở nghiên cứu, các trường đại học để đẩy mạnh việc quản bá về di sản này.

3.6. Tổ chức hội thảo, triển lãm liên kết các di sản tư liệu (Mộc bản, Châu bản, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế) liên quan đến triều Nguyễn để có cái nhìn tổng thể về nguồn tư liệu quý giá này
Kết nối chuỗi di tích – di sản tư liệu liên quan đến triều Nguyễn là hình thức quan trọng trong công tác nghiên cứu và công tác giữ gìn phát huy giá trị di tích, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, du lịch và quảng bá hình ảnh địa phương.

Tổ chức triển lãm, trưng bày các di sản tư liệu liên quan đến triều Nguyễn như Mộc bản, Châu bản, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là hình thức hoạt động công bố nhằm tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi cho quảng đại quần chúng được tiếp cận trực tiếp với khối lượng tài liệu này thông qua các phiên bản từ bản gốc, bản chính tiêu biểu mà họ chưa có điều kiện nghiên cứu tìm hiểu ở các nơi lưu giữ. Bởi thế, hình thức tổ chức hội thảo, triển lãm có tính tuyên truyền và thuyết phục cao và qua đó có sự trao đổi và tiếp cận nhiều thông tin mới mà nguồn tư liệu cung cấp. Hội thảo và triển lãm sẽ liên kết và cung cấp các tư liệu, có ý nghĩa sâu sắc và có tác dụng quảng bá rộng rãi đối với các di sản của dân tộc.
 

4. Một số giải pháp để thúc đẩy nâng cao giá trị di sản tư liệu trong thời gian tới
Nhận thức được tầm quan trọng của di sản, các nhà quản lý di sản tư liệu luôn nỗ lực trong công tác bảo tồn và nâng cao giá trị di sản của mình, đồng thời xác định di sản là báu vật quốc gia cần được bảo tồn và gìn giữ, bởi một khi di sản bị mất đi thì không thể khôi phục, nếu điều này xảy ra sẽ là một tổn thất vô cùng to lớn cho cả nhân loại.
Kế hoạch bảo tồn di sản tư liệu phù hợp không chỉ giúp chúng ta giữ gìn được giá trị di sản mà còn đưa được di sản đó đến với cộng đồng, qua đó góp phần nâng cao hình ảnh quốc gia đối với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình bảo tồn vẫn có nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải giải quyết nhằm gìn giữ và phát huy giá trị di sản ký ức của nhân loại. Vì vậy cần có những giải pháp kịp thời để giải quyết vấn đề này. Định hướng của Trung tâm là:
- Về công tác bảo quản
Đây là nguồn tài liệu chữ Hán, vì vậy cần phải đào tạo một đội ngũ những người giỏi chữ Hán và biết yêu quý, trân trọng giá trị di sản; bên cạnh đó cần đầu tư cho công tác bảo quản, đảm bảo an toàn cho di sản tư liệu trên những vật mang tin có tính đặc thù.
Cần nâng cấp trang thiết bị, có kế hoạch bảo vệ di sản tư liệu, đồng thời mở lớp đào tạo kỹ thuật về công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi, gia cố tư liệu, vệ sinh tư liệu…
Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, tìm kiếm kỹ thuật tiên tiến của thế giới, kết hợp với kỹ thuật truyền thống để áp dụng bảo tồn tuyệt đối an toàn di sản Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Hiện nay Trung tâm cũng đã và đang phối hợp với Viện Bảo tồn di tích (thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) lựa chọn một công trình thí điểm để xây dựng phương án bảo tồn bền vững di sản thơ văn trên công trình kiến trúc.
- Về công tác phát huy giá trị di sản:
Hỗ trợ cử chuyên gia tập huấn kỹ năng trưng bày, giới thiệu tài liệu, đào tạo cán bộ làm công tác công bố tài liệu như quay phim, dựng phim chuyên đề theo từng di tích, dịch thuật, biên soạn sách, thực hiện một số nghiệp vụ khác nhằm quảng bá, công bố giới thiệu thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế và các di sản khác.
Xây dựng trang thông tin điện tử, từng bước giới thiệu Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế bằng song ngữ Việt – Anh, nhằm thu hút các giới nghiên cứu trong và ngoài nước, đồng thời đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu về thơ văn của công chúng một cách chủ động.
Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện tu bổ phục chế các thơ văn bị hư hỏng hoặc bị mất đi do thời gian và chiến tranh. Trung tâm có kế hoạch cử các đoàn đi học tập, nghiên cứu hoặc mời các chuyên gia về công tác bảo tồn tài liệu ở các nước tiên tiến để có thể áp dụng công nghệ hợp lý nhất cho việc tu bổ, phục chế một số thơ văn đã mất hoặc hư hỏng nặng. Tạo điều kiện cho các di sản khác phối hợp với nhau tổ chức trưng bày triển lãm, để trao đổi kinh nghiệm về công tác bảo quản và phát huy giá trị tư liệu./.

Phan Thanh Hải

Nguồn: Nguồn Việt (Trung tâm UNESCO Phát Triển Văn Hóa và Thể Thao).

20200711 8

Ảnh: Một buổi cầu tiên giáng bút ngày trước ở đền Bích Câu. (Nguồn: http://vnca.cand.com.vn/)

Vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược, khai thác thuộc địa, vơ vét của cải, tài nguyên, ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của dân tộc ta, thuần phong mỹ tục, giá trị cương thường của ta theo đó ít nhiều đã bị ảnh hưởng, đảo lộn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận nhà Nho có lòng yêu nước bất đắc chí về quê mở trường dạy học hoặc dựng Thiện đàn để mong làm được điều gì đó cho dân tộc ta. Trong bối cảnh xã hội ấy, một phong trào yêu nước dấy lên ở nhiều nơi trong cả nước như: Nam Định, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ… có tên gọi là Thiện đàn.

Thiện đàn trong suốt quá trình tồn tại và phát triển với những tên gọi khác nhau như: Chính Tâm đàn, Lạc Đạo đàn, Hội Thiện đồng, Phổ Thiện đường, Khuyến Thiện đàn, Thất Diệu đàn… được thiết lập bởi một nhóm người đứng lên. Thành phần tham gia bao gồm nhiều tầng lớp từ thân hào, nông dân cho đến các tầng lớp nho sĩ, trí thức. Tất cả tham gia cuộc giáng bút đều có chung một mục đích đó chính là thông qua việc tổ chức Thiện đàn, cầu cơ, giáng bút nhằm tiếp tục tuyên truyền những tư tưởng ái quốc; khuyến thiện, phục dựng đạo lý luân thường đang bị đảo lộn; gắn chặt tinh thần đoàn kết dân tộc… Phong trào này mỗi lúc một rầm rộ ở Bắc kỳ cho đến vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng như tầm ảnh hưởng của nội dung các bản kinh giáng bút qua phong trào Thiện đàn đã khiến thực dân Pháp thời kỳ này bắt đầu bất an.

Nhằm phục vụ nhiều tầng lớp, thế nên ngôn ngữ trong kinh giáng bút theo đó được sử dụng chủ yếu là Quốc âm, Nam âm. Tuy nhiên cũng không loại trừ một số tác phẩm có sử dụng xen kẽ Quốc âm và Hán tự. Đặc biệt, ẩn sau hoạt động tín ngưỡng - phong trào Thiện đàn này chính là lòng yêu nước, đoàn kết dân tộc trước thời khắc kẻ địch đang đặt “đế giầy” xâm lược lên nước ta. Theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ 166 bản kinh giáng bút có niên đại vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tinh thần yêu nước quật cường là một trong những nội dung xuyên suốt trong các áng thơ, văn kinh giáng bút ở vào thời đoạn này.

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu qua về 3 bản kinh giáng bút tiêu biểu của phong trào Thiện đàn trong giai đoạn trên, đó là bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經(1904); Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經(1906) và Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經(1910).

I. Giới thiệu và mô tả ba bản kinh đại diện

1. Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh (1904) 曾廣明善國音真經

Văn bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經 được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.143. Văn bản này có kích thước 27x15cm và dày 228 trang. Toàn bộ nội dung của văn bản được in trên nền giấy dó mỏng loại tốt. Sách còn khá đẹp, bìa cứng được gập đôi, đã rách gáy tuy nhiên nó được khâu bằng chỉ thừng tương đối chắc chắn. Ngay tờ đầu tiên, tên sách được nhà chế bản cho in bằng nét mực đen. Năm tờ kế tiếp được sử dụng mực đỏ để làm nổi lên hình ảnh 4 bức ảnh của Quan Âm 觀音 và Thánh Mẫu 聖母 khá đẹp. Những trang còn lại của văn bản thì đều sử dụng một màu mực đen bình thường.

+ Mặt 1 của văn bản được trang trí hoa văn với con chim phượng đang uốn lượn ngậm phong thư. Xung quanh là đám mây uốn lượn.

  • Thân giữa có đề dòng chữ Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經

+ Mặt 2 được chia làm 3 ô:

  • Ô giữa đề: Hoàng triều Thành Thái Giáp Thìn niên tứ nguyệt vọng trùng san 皇朝成泰甲辰年四月望重刊 [Trùng san vào ngày rằm tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Thành Thái].
  • Ô phải đề: Nam Định Đồng Lạc Khuyến Thiện đàn tàng nguyên bản 南定同樂勸善壇藏原本[Nguyên bản lưu giữ tại đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, tỉnh Nam Định].
  • Ô trái đề: Mộc ân tín nữ Phan thị cẩn phụng thuyên khắc 沐恩信女潘氏謹奉鐫刻 [Tín nữ họ Phan đội ơn kính cẩn phụng khắc].

Kế đó là 4 bức tranh Quán Thế Âm Bồ Tát 觀世音菩薩, Vân Hương đệ nhất Thánh Mẫu 雲鄉第一聖母, đệ nhị Thánh Mẫu第二聖母, đệ tam Thánh Mẫu 第三聖母.

Văn bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經 đã được biên tập vào năm Canh Tý niên hiệu Thành Thái (tức năm 1900) do các tín chủ phụng san. Đó là tập hợp thi văn giáng bút của Đệ nhất công chúa Liễu Hạnh cũng như của Đệ nhị, Đệ tam Thánh Mẫu, khuyên mọi người lấy thiện làm gốc, vợ kính chồng, trẻ giúp già, con kính thờ cha mẹ, em tôn trọng anh, trong nhà ngoài làng phải đối xử theo đúng đạo lý. Bản kinh được đàn Khuyến thiện Đồng Lạc (Nam Định) in, dày 144 trang. Bản kinh Minh Thiện này hiện đang được lưu giữ tại Pháp mà theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, có ghi ký hiệu là Paris SA.PD 2343. Còn văn bản mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang giữ là bộ kinh Minh Thiện 明善 đã được tăng quảng, có ký hiệu AB.143, có niên đại Hoàng triều Thành Thái Giáp Thìn niên tứ nguyệt vọng trùng san 皇朝成泰甲辰年四月望重刊[Trùng san vào ngày rằm tháng tư năm Giáp Thìn niên hiệu Thành Thái triều ta (1904)] cũng do đàn Khuyến thiện Đồng Lạc (Nam Định) in nhưng độ dày lên tới 228 tr.

2. Tam bảo quốc âm chân kinh (1906) 國音真經

Văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNv.529. Văn bản gồm 72 tờ, in hai mặt khổ 28x16cm. Mỗi trang gồm 7 dòng, mỗi dòng có 221 chữ xuất hiện. Qua thống kê thủ công bằng phương pháp đếm thấy được trong văn bản xuất hiện 21.462 lượt chữ. Toàn bộ chữ được khắc in theo lối chân phương khá rõ nét.

Ở trang bìa của văn bản được chia làm 3 ô rõ rệt:

  • Ô giữa đề: Tam bảo quốc âm 三宝國音真經
  • Ô bên phải đề: Thành Thái, Bính Ngọ niên, trọng đông, thượng hoán tân thuyên 成泰丙午年仲冬上浣新鐫 [San khắc mới vào tiết Thượng nguyên (thượng tuần) tháng trọng đông (tháng một) năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái (1906)].
  • Ô bên trái đề: Đông Đồ xã Thiên Hoa đường tàng bản 東塗社天花堂藏板[Bản cất giữ ở Thiên Hoa đường, xã Đông Đồ (nay thuộc huyện Đông Anh - Hà Nội)].

Văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經 không có kết cấu các chương mục một cách rõ ràng. Nó được thể hiện theo lối chữ viết có kiêng húy và viết đài. Điều này được thể hiện ở chữ kiêng húy thời 時 thành thìn Và tên của các quần chân giáng bút đều được viết cao hơn so với những chữ thể hiện nội dung thông thường khác. Ngay tại lời TựaTam Cung thánh cứu, Tam Chúa tiên thương 三宮聖救, 三主仙愴để có mừng nay Tam bảo nên kinh, lời in cẩm tú, rót trước tam tào yêu chỉ, thể rõ chương tương 明呢三宝年經唎印錦繡,捽著三曹腰只,体爐章襄… rồi đến Tam giáo dạy khuyên đà thống thiết 三教?勸它痛設đã cho thấy phần nào hoàn cảnh ra đời cũng như mục đích của văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經Và sau khi đã khái lược qua nội dung và ý nghĩa cơ bản của kinh, Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經 đề cập ngay đến quần chân giáng bút.

3. Hồi xuân Nam âm chân kinh (1910) 回春南音真經

Là một bộ kinh giáng bút tàng bản tại đàn Phổ Thiện đường, xã Xuân Kỳ huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên (nay là xã Đông Xuân huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội). Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經 gồm “nội tập” và “ngoại tập”. Nội tập của bộ kinh này hiện nay còn được ông Đào Văn Cốt lưu giữ ở dạng ván khắc (không đủ cả bộ) tại Phổ Thiện đường trên khuôn viên mảnh đất nhà ông ở xã Đông Xuân - Sóc Sơn - Hà Nội. Văn bản mà chúng tôi mô tả ở đây là bản “Ngoại tập” hiện đang được lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu là AB.237, dày 107 trang. Bộ kinh giáng bút này được giáng trước vào ngày tốt tháng ba năm Canh Tuất (1910).

+ Mặt 1: trán được trang trí họa tiết hoa văn (giống hình thức trang trí của một tấm bia), bên dưới trán là hình chữ nhật chia làm 3 ô. Ở giữa có dòng chữ Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經. Ở 2 bên có in hình con rồng đang uốn lượn. Bốn góc của hình chữ nhật là biểu tượng 4 bông hoa giống nhau.

+ Mặt 2: trán có hình hoa văn giống như mặt 1, phía bên dưới cũng là hình chữ nhật và được chia làm 3 ô.

  • Ô bên phải đề dòng chữ Phúc Yên, Kim Anh, Xuân Kỳ 福安金英春棋 [Xuân Kỳ, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên].
  • Ô giữa đề Canh Tuất niên, tam nguyệt, cát nhật giáng trứ 庚戌年三月吉日降著 [Ngày lành, tháng ba năm Canh Tuất giáng bút].
  • Ô bên trái đề Phổ Thiện đàn tàng bản 普善壇藏板 [Bản lưu trữ tại đàn Phổ Thiện].

Văn bản được chia ra làm hai phần chính:

Phần đầu: Gồm từ trang bìa đến trang (2b). Trong phần này nói đến địa điểm, thời gian và nơi cất giữ văn bản. Đồng thời gồm có một bài tựa do Phật tổ Quán Thế Âm động Hương Sơn giáng 佛祖觀世音洞香山降.

+ Phần thứ hai: Là phần nội dung của văn bản bao gồm các bài thơ ca, phú, dụ, v.v… do các vị tiên nữ liệt thánh giáng bút.

Về niên đại: Được ấn hành vào năm Duy Tân, tức ngày vào ngày lành, tháng 3 năm 1910 (Duy Tân thứ 4).

II. Lược điểm giá trị nội dung, tư tưởng

Dẫu được thể hiện, ra đời trong thời điểm khác nhau, thế nhưng có một điều dễ nhận thấy ở 3 tập kinh giáng bút trong thời kỳ này: Tăng quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh (1904), Tam bảo Quốc âm chân kinh (1906) và Hồi xuân Nam âm chân kinh (1910); đó chính là việc, các bản kinh đều ra đời từ trong phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX. Nội dung của nó không nằm ngoài hệ thống tư tưởng mà phong trào Thiện đàn đã phản ánh. Ba tập kinh đều thể hiện sâu sắc các vấn đề có liên quan đến cuộc vận động ái quốc, chấn hưng văn hóa dân tộc.

1. Thúc giục lòng yêu nước

Trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ, khi mà thực dân Pháp tiến hành xâm lược, khai thác thuộc địa, vơ vét của cải, tài nguyên thiên nhiên. Những cuộc đàn áp, đầu độc người dân nước ta bằng rượu cồn, thuốc phiện…đòi hỏi nhân dân phải đứng lên đấu tranh, đoàn kết giành chính quyền. Để rồi quá trình tập hợp lực lượng cũng như định hướng cho phong trào đấu tranh theo đó được hình thành và chú trọng. Ngay từ đầu tập kinh Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經 (1910), đã có những vần thơ giáng bút ám chỉ một xã hội đương thời đang bị lệ thuộc:

Ba núi đá rêu in dấu ngựa,

Bốn sông cát lở lấp mình voi.

Buồn khi thánh thót chim chào khách,

Ngán nỗi vu vơ cóc đớp ruồi

Quán Âm Phật tổ. Thi

(Hồi xuân Nam âm chân kinh)

Hình ảnh “Ba núi đá”, “Bốn sông cát”, đó chính là hình bóng của non sông dân tộc ta, những hình ảnh gắn liền với một nước nông nghiệp với 3/4 diện tích là đồi núi. “ba, bốn” là những con số nhiều, nó ngầm định cho ta hiểu rằng vùng in bóng kẻ thù không phải là một vùng hay hai vùng mà nó là rất nhiều. Sự kết hợp hài hòa giữa số từ “ba”, “bốn” với danh từ “núi đá”, “sông cát” đã làm cho bức tranh “cóc đớp ruồi” thêm sống động hơn.

Rước voi về dày mả

Ai chết mặc ai

Mặc sức nay bàn mai cuộc

Khi cấp nạn chân le chân vịt

Ẩy chó vào bụi rậm

Chú chết mặc chú

Tìm đường cao chạy xa bay

Hoàng Mai Doãn công chúa. Tỉnh mê phú

(Tăng Quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh)

2. Khuyên con người ta hướng thiện, yêu thương đùm bọc lẫn nhau

Có thể nói rằng, nội dung tu đức hướng thiện, khuyên con người ta luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau là một trong những giá trị nội dung, tư tưởng xuyên suốt trong các tác phẩm Kinh giáng bút của phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX.

Lời dụ của Quốc Vương công chúa muốn nói tới việc mọi người phải bớt xa hoa tu tâm tích đức, thành kính thần chẳng xa, thánh chẳng xa. Có như vậy mới tránh được cảnh “hậu táng bại gia”. Tương tự trong lời phú của Hoàng Mai Doãn công chúa (Tăng Quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh) cũng nêu rõ về việc không nên ăn gian nói dối, chớ đem lòng gian tham mà hại người. Bởi khi đó gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy, ác giả ác báo:

Trời cao đất dầy

Con tạo vần xoay

Ơn trời nhờ thánh

Sinh được hội này

Ai là chẳng nức lòng nức dạ

Ai chẳng mong mở mặt mở mày

Hậu giả hậu lai

Ở hiền lại gặp lành

Mới biết tre già măng mọc

Ác giả ác báo

Ăn mặn thì khát nước

Khác nào cây yếu gió lay

Trong cuộc sống, ta cần nhận thức rõ gia đình là một tế bào của xã hội. Gia đình có ấm no, hạnh phúc, mọi thành viên trong gia đình biết yêu thương đoàn kết với nhau thì mới mong xã hội theo đó phồn vinh, thịnh vượng được. Căn nguyên cũng bởi, con người ta luôn có tổ, có tông, ta phải luôn chú trọng truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã tồn tại từ ngàn đời nay.

Những lời ca, tiếng hát của Quần chân trong 3 tập kinh trên về việc khuyên con người ta phải tu thân, hướng thiện, đùm bọc yêu thương lẫn nhau dẫu được thể hiện dưới những thái cực khác nhau, song nó rất thích hợp với thời thế bấy giờ - thời điểm mà giá trị nhân luân, đạo đức của một bộ phận người dân đang bị lực lượng thù địch đầu độc, phá vỡ bởi tệ nạn xã hội.

3. Vãn hồi đạo cương thường

Để chà đạp lên giá trị đạo đức, nô dịch dân tộc ta, ngay từ những ngày đầu đặt chân xâm lược nước ta, thực dân Pháp, một trong những “vũ khí” được chúng sử dụng triệt để đó chính là văn hóa nô dịch, chúng núp dưới danh chủ nghĩa khai sáng để đồng hóa, biến dân tộc ta trở thành một nước thuộc địa của chúng về mọi mặt. Chúng muốn mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp vốn tồn tại từ lâu đời ở ta bị mai một, sớm đảo lộn mọi giá trị, làm băng hoại đạo đức nhân luân.

Những kẻ xâm lược dùng chính sách văn hóa nô dịch đã khiến một bộ phận người sống trong xã hội bị đảo lộn nhân tâm, không còn nhớ đến ơn sinh thành, đạo phụ, phu - tử nữa. Chuyện xằng bậy thì diễn ra ở nhiều nơi:

Rồi trong cuộc sống xuất hiện những hiện tượng như: không giữ chữ trinh nhu, đạo luân thường:

Rằng hiền không phải rằng ngu,

Sao mà chẳng giữ trinh nhu đạo thường.

Thiện môn nay cũng biết đường,

Biết đường con phải biết phương tu trì.

Khuyên con chớ lãng hào ly

Quốc Vương công chúa. Ca. (Tăng quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh)

Thậm chí, dù đã môi ấp, gối kề chung sống với nhau gần cả đời người, song một số cá nhân đã không quan tâm những lời phê phán, oán trách rồi tự đắc với cái mác lấy chồng, bỏ mặc chồng đau ốm sưng tấy mà cầu thác đi, thậm chí sau khi người chồng chết liền “bước thêm bước nữa”:

Trước những gì đã và đang tồn tại trong thời cuộc có liên quan đến văn hóa dân tộc, đạo đức nhân cách, lời ca, tứ thơ, dẫn dụ… của các Quần chân đã gióng lên hồi chuông báo động, thức tỉnh những người đang bị đánh mất mình hãy ngoảnh đầu lại, chung tay đoàn kết đẩy lùi kẻ thù.

4. Đề cao vị thế người phụ nữ

Qua 3 tập kinh đại diện trên cho chúng ta thấy đối tượng được nhắc đến trong văn bản chiếm đa phần là phụ nữ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng với các vị thần tiên như Đệ nhị Thánh Mẫu, Đệ tam Thánh Mẫu, Đông Ngạc Tiết phụ, Thượng Ngàn công chúa, Tam giang Trương công chúa, Quế Hoa công chúa… đã dốc tâm, đem những lời khuyên, tán dương chân thành mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc đối với chị em phụ nữ. Từ thuở xưa, người phụ nữ trong xã hội đều thể hiện rõ thiên chức làm mẹ, làm vợ cao cả của mình. Không có chị em phụ nữ, thế giới sẽ không còn tồn tại. Đây cũng chính là lý do chứng minh vì sao tần suất, lời văn giáng được dành nhiều cho phụ nữ.

Họ luôn thẹn mình không đem được sức ra giúp ích cho dân tộc, đất nước khi mà xung quanh đầy rẫy những bất công rình rập, nô dịch. Nhiều khi họ đã phải thốt lên muốn được đem thân liệt nữ đọ gan anh hùng:

Thẹn mình phấn bạc son phai,

Những người tài sắc ấy trời hay ghen.

Canh khuya chong một ngọn đèn,

Trách mình chịu phận bạc đen thế mà.

Thân bèo bao quản nước xa,

Một thuyền một lái một nhà một sông.

Tam giang Trương công chúa. Ca. (Hồi xuân Nam âm chân kinh)

Có lẽ chính vì thiên chức của người phụ nữ như vậy nên bên cạnh việc đề cao nhân cách, đức tính, nhiều bài giáng toát lên những câu từ, lời văn khuyên nhủ chị em phụ nữ. Ví như, khi người con gái về nhà chồng thì phải luôn coi cha mẹ chồng là cha mẹ của mình, hiếu kính với cha mẹ chồng sao cho phải đạo làm con dâu, không để người đời chê trách.

Những vần thơ, mạch văn khuyên răn, đề cao vị thế của người phụ nữ đã được các vị thần tiên đề cập trên nhiều bình diện. Từ cuộc sống đời thường cho đến ý chí quật khởi muốn cùng đọ gan với anh hùng, đánh đuổi kẻ thù. Chấn hưng văn hóa dân tộc. Đây cũng chính là những lời khuyên răn quý báu có giá trị để lại cho muôn đời sau. Ngoài những nội dung tư tưởng chính ở trên ra, 3 tập kinh trên còn đề cập đến một số lĩnh vực khác như: suy tôn đạo phật, đề cao dân trí, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên đất nước, diễn đạt về đạo lý gia đình…

Như vậy, với việc nghiên cứu những giá trị về văn bản cũng như nội dung các bản kinh giáng bút trong phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX, được thể hiện đa phần bằng Quốc âm, sẽ góp phần hiểu rõ hơn về đời sống Quốc văn Nôm Việt Nam ở một thời điểm đặc biệt của lịch sử - thời điểm cho sự giao thời Âu - Á, cho bước chuyển của truyền thống và hiện đại.

ThS. Trần Quang Huy

(Báo Công an nhân dân)

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (115). 2012, tr.35-42.

----

Tài liệu tham khảo

[1] Henri Maspero: Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Lê Diên dịch, Nxb. KHXH, H. 2000, 834 tr.

[2] Kinh Đạo Nam - Thơ văn giáng bút của Vân Hương đệ nhất thánh mẫu (Liễu Hạnh) và các vị thánh nữ. Đào Duy Anh khảo chứng, Nguyễn Thị Thanh Xuân phiên âm và chú thích, Nxb. Lao động, H. 2007, 390 tr.

[3] Đào Duy Anh: Nhớ nghĩ chiều hôm, Hồi ký, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1989, tr.217-218.

[4] Toan Ánh: Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1997, 420 tr.

[5] Điển cố Trung Hoa, Võ Ngọc Châu dịch, Nxb trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1994, 419 tr.

[6] Nguyễn Xuân Diện: Văn thơ Nôm giáng bút với việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu chữ Nôm (Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm), Nxb. KHXH, H. 2006, tr.218-230.

[7] Nguyễn Xuân Diện: Về các tác phẩm thơ văn giáng bút hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán NômThông báo Hán Nôm học năm 2000, Nxb. KHXH, H. 2001, tr.96-104.

[8] Phạm Đức Duật: Thơ ca giáng bút và Hồi thuần chân kinh hạ tậpThông báo Hán Nôm học năm 1997, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.85-90.

[9] Nguyễn Đăng Duy: Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội, H. 2001, 502 tr.

[10] Trần Quang Huy: Phổ Thiện đường và văn bản Hồi xuân Nam âm bảo kinh ngoại tập, Khóa luận tốt nghiệp, khóa 49, 2008, 119 tr.

[11] Nguyễn Văn Huyên: Tục thờ cúng thần tiên ở Việt NamGóp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam(tập 2), Nxb. KHXH, H. 1996, tr.135-250.

[12] Đinh Thị Lệ Huyền: Tìm hiểu đạo mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm, Luận văn Thạc sĩ, H. 2007, 153 tr.

[13] Vũ Đình Ngạn, Triệu Triệu: Mượn việc “giáng bút” để lưu hành thơ văn yêu nướcTạp chí Hán Nôm, Số 2 (19) - 1994, tr.65-66.

[14] Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa và François.Gros đồng chủ biên, 3 tập, Nxb. KHXH, H. 1993.

[15] Nguyễn Thị Nguyệt: Văn giáng bút của Trạng Trình ở các đền thờ các vua Trần tại xã Tức Mặc, Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 1996, Nxb. KHXH, H. 1997, tr.297-304./.

20210429 5

Văn bia chùa Cảnh Phúc là một trong những văn bia đặc trưng cho phong cách mỹ thuật thời Lê Trung hưng. Chính bởi lẽ đó, văn bia này đã được các cán bộ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sưu tầm về từ những thập niên cuối của thế kỷ XX. Văn bia hiện để ngoài trời tại sân Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Qua ba chục năm bảo quản trong khuông viên ngoài trời, dưới nắng gió, bụi bặm, khói xăng chì và mưa axit của Hà Nội, bia Cảnh Phúc hiện chỉ còn là một di vật tàn khuyết. Các hình điêu khắc trang trí đã bị phong hóa nặng, các chữ viết cũng đã mài mòn, rất khó đọc. Mặt khác, bia được sưu tầm trước khi Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện công tác sưu tầm tại địa phương, nên bia cũng không hề có thác bản trong kho của Viện.

Nhận thức được tầm quan trọng của văn bia này, chúng tôi đã tiến hành đến khảo sát và nghiên cứu văn bia tại Bảo tàng Mỹ thuật, chụp ảnh, ghi chép, và in rập lại toàn bộ văn bản.

Về hình thức, bia hình hộp 4 mặt, chữ viết chân phương. Mặt thứ nhất ghi tên bia là Cảnh Phúc tự bi ký景福寺碑記. Bi ngạch được trang trí hình kỷ hà chữ vạn, giật cấp lên trên là các hình ô vuông hoa lá. Chóp bia thót dần và vun cao lên trên. Trên gần đỉnh chóp mặt này là hình khắc chim phượng với đôi giò khỏe khoắn và đôi cánh đang vỗ mạnh. Hệ thống chóp bốn cạnh của bia này trên thực tế là mái chảy thoát nước, che nắng và che mưa. Diềm bia vẫn tiếp tục các hình kỷ hà chữ vạn liên hoàn chảy dọc từ trán bia xuống tận dưới chân bia. Dưới chân bia là một ô diềm trang trí, những hiện đã quá mờ nên không rõ là trang trí hình linh thú gì. Diềm và mặt dưới của bia đã bị vỡ lớp mặt trên. Dưới diềm ô trang trí là các cánh sen ngược mềm mại chảy xuống chân bia. Chân bia có khắc ba ô trang trí các loại vật đồng quê thôn dã, nhưng hiện chỉ còn nhìn rõ, hình con cua. Mặt thứ hai, trang trí diềm bia là hình chữ vạn và hoa cúc, trán bia và chóp bia khắc rồng, ô diềm bia hình trâu, và chân bia hình một đàn thú, nội dung là tiếp bài ký của mặt một. Mặt thứ ba, trán bia khắc hình rồng uốn theo chiều ngang, chóp bia khắc hình phượng bay ngang từ phải sang trái, ô diềm là hình song lân chầu hoa lá, chân bia đã vỡ mất hết các họa tiết điêu khắc. Nội dung mặt này ghi thập phương công đức. Mặt thứ tư của bia cũng tiếp nối phong cách trang trí kiểu chữ vạn liên hoàn từ trán diềm đến chân bia. Tuy nhiên, trán bia mặt hai không có chữ, chỉ có hình đôi chim đang chầu một bông sen cắt trắc diện khá hiện đại. Chóp bia khắc hình một con rồng trong tư thế cuộn tròn hồi đầu vào giữa. Ô diềm trang trí là hình rùa và linh thú đang tranh một dải lụa. Chân bia có khắc hình voi và mãng xà. Mặt 4 ghi nội dung bài minh và phần lạc khoản.

Về niên đại, văn bia được soạn vào ngày lành tháng giêng năm Chính Hoà thứ 16 (1695) bởi Sinh đồ Nguyễn Dã Đạt người xã Đồng Nhất. Ngoài ra, trợ giúp và chứng giám còn có Quan viên hương lão trưởng thôn trên dưới xã Đồng Kính huyện Duy Tiên phủ Lị Nhân. Nguyên nhân dựng bia được ghi như sau: “Tỉ khưu tăng Đại đạo Nguyễn Tiên Chân Pháp Tính là người thôn Nham Cát, xã Châu Xuyết, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, Thừa tuyên Thanh Hóa nước Đại Việt đã nhân Hải Tạng Linh Không Thiền sư trụ trì Cảnh Phúc bồi luyện nền nhân nghĩa mà cũng còn chưa đủ trọn, nên đến ngày tháng năm Giáp Dần mới tu tạo nền móng tiền đường đã thành nhân duyên tốt đẹp. Lại đến ngày tháng năm Ất Mão lập bia đá chất phác, khắc thành rất mỹ lệ. Đến ngày tháng năm năm Kỉ Tị, mắt thấy tiền đường đã hư hỏng, nên Tiểu tăng Nguyễn Tiên mới mua gỗ lim để trùng tu lại tiền đường năm gian. Công quả trùm trời đất, để làm sáng tỏ chùa Cảnh Phúc. Giờ Canh Thìn ngày Canh Dần ngày 16 tháng Quý Sửu năm Nhâm Thân thứ 12 (1692) thụ trụ thượng lương toàn một màu sắc gỗ lim cùng ngói sáng lợp. Nay vào ngày tháng năm Giáp Tuất, hợp cùng trời đất, lại qua ngày lành tháng Giêng năm Kỉ Hợi thì hoàn thành, cưu công hoàn hảo để lại cho người đời sau, cho nên cấu tác”.

Nguyên văn:

大越國清華承宣靖嘉府農貢縣珠綴社嵓葛村比丘僧大道阮先真法性因海藏靈空禪師住持景福寺培補仁基少有未足至甲寅年月日修造前堂基址既成因緣作好來乙卯年月日始立石碑質朴用成陶冶麗美至己巳年月日目見前堂益已頹弊茲小僧阮先始買铁林重修更作前堂五間功塞乾坤用昭景福於壬申年十二癸丑十六庚寅庚辰時豎柱上梁全色铁林並行蓋瓦茲甲戌年月日挺 [...] [...] [...] [...] 天地粵己亥年正月穀日頗有圓成鳩功完好[...] [...]後人茲構)

Trên đây là đoạn cuối của bài văn bia, có ghi một số thông tin đến niên đại, người viết và việc hưng công, tạo bi. Tuy nhiên, theo chúng tôi, giá trị của bài văn bia còn thể hiện ở nhiều mặt khác, như nội dung phản ánh tinh thần hỗn dung Nho - Phật, đạo - đời. Đoạn đầu văn bia ca ngợi hồng đồ của vua Lê chúa Trịnh, tán dương cái thể và dụng của đạo Trung Hòa, lại vừa tụng niệm đạo thiền, ví dụ như: “Nối sáng mối xưa, trải trăm đời kính ngưỡng cao sơn; đoái dạy rừng thiền, soi thiên cổ chủ trì kinh kệ”. Mặt khác bài văn bia còn có những câu văn rất hay ca ngợi vẻ đẹp của non nước, như: “Lẫy lừng kẻ chợ sáng trong; hòa hài trời Nam tục đẹp. Huyện Duy Tiên nước chầu cuồn cuộn, mé trái rồng vờn cuộn quanh co; làng Đồng Kính núi ấp trùng trùng, đầy đặn tạo ba gò hổ phục. Thực Cảnh Phúc chùa dựng nguy nga, đúng nước Nam khí thiêng ngùn ngụt.” Về mặt ngôn ngữ, bài văn bia có thể coi là một biểu hiện cho cái đẹp hoàn mỹ của văn chương cổ. Câu chữ điển nhã, điển cố uyên áo thâm trầm. Lời văn như gấm thêu hoa dệt, các cặp câu đối ngẫu cứ liên hoàn bất tận, khiến cho người đọc có cảm giác “quái chá nhân khẩu”. Tuy nhiên, vì giới hạn bài viết chúng tôi xin đề cập vấn đề này sâu hơn trong một dịp khác.

 

Phạm Văn Tuấn, Trần Trọng Dương

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2010, tr.400-404 

Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧 中 上 士, 1230 - 1291), tên là Trần Tung (陳 嵩), tước hiệu Hưng Ninh Vương (興 寧 王) là Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam. Ông là người hướng Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị Tổ sư sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trước tác của Trần Tung chủ yếu được tập hợp trong cuốn Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Trong bài Tựa viết về việc trùng san năm Chính Hòa, Tì kheo Tuệ Nguyên viết: “Những ghi chép này là do Đại đức Tiêu Dao nói với Tuệ Trung Thượng sĩ, Thượng sĩ nói với Trúc Lâm đệ nhất tổ Điều ngự Giác hoàng. Điều ngự Giác hoàng nói với Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa đại sư. Pháp Loa đại sư nói với Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang Tôn giả.Huyền Quang Tôn giả nói cho tông phái Trúc Lâm và Thiền tông khắp Thiên hạ. Xưa nay việc truyền thụ vẫn như vậy. Quyển sách này là phương thuốc hay đối với các chứng bệnh, nhanh chóng đốn ngộ thành Phật, thẳng suốt nguồn tâm, vượt qua bể giác, giết chết vọng thức, phá sạch danh tướng. Là nguồn cội của đạo Không. Vượt Tam thừa, vượt Phật thừa, là yếu chỉ thượng thượng”(1). Khi giảng giải Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thích Thanh Từ đã nhận định: “Quyển Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm trác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chương thanh thoát”(2). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ và cấp độ như vấn đề tư tưởng Phật giáo, giá trị văn học, tác phẩm cụ thể, toàn bộ phần thơ… Tuy nhiên, vấn đề văn bản học của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục chưa được đề cập đến một cách thấu đáo. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng khảo sát những văn bản hiện còn và đưa ra những nhận định về bố cục văn bản, quá trình lưu truyền của văn bản, văn bản cơ sở của tác phẩm này.

20200610 2

1. Tình hình văn bản

Hiện tại, tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục còn 2 văn bản là Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục (竹 林 慧 忠 上 士 語 籙)kí hiệu A.1932 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (TVVNCHN) và Tam tổ thực lục (三 祖 寔 籙)kí hiệu A.2048 tại TVVNCHN. Sau đây là phần giới thiệu về từng cuốn sách.

1.1. Văn bản Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, kí hiệu A.1932, giấy dó, bốn trang đầu bị rách góc mép phải dưới, bìa màu nâu cũ. Khổ sách 16cm x 28cm, khung chữ 14cm x 21 cm. Rốn sách có phần trên ghi上 士 語 籙 còn phần dưới là số trang. Sách gồm 44 trang, mỗi trang 8 cột, mỗi cột 15 chữ (có khi là 14 chữ, có khi là 16 chữ), nếu viết đài là 16 chữ (có khi là 17, 18 chữ). Sách này gồm các phần sau:

a) Lời Tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên về việc Trùng san Thượng sĩ ngữ lục vào thời Lê niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).

Phần mở đầu của bài tựa ghi: Trúc Lâm hội thượng Yên Tử sơn Long Động tự Đồng tử Tì kheo Tuệ Nguyên trùng san Trúc Lâm tổ sư Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, phần hương cẩn tự (竹 林 會 上 安 子 龍 峒 寺童 子 比 丘 慧 源 重 刊 竹 林 祖 師 慧 忠 上 士 語 籙 焚 香 謹序 - Trên hội Trúc Lâm, núi Yên Tử, chùa Long Động, đồng tử Tì kheo Tuệ Nguyên khắc bản lại ngữ lục của Trúc Lâm tổ sư Tuệ Trung Thượng sĩ, thắp hương và kính cẩn viết tựa). Trong lời đề tựa, Tì kheo Tuệ Nguyên có viết: tôi khắc bản để lại, truyền lâu ức kiếp gương xưa sáng mãi, tiếp nối sáng không cùng, khiến chúng sinh khắp thế giới đại thiên, cùng rõ thấu pháp môn bất nhị, truyền bá trong nước được muôn đời, đồng chứng Phật quả nhất thừa. Phần cuối bài tựa cho biết thời gian khắc in lại : Lê Triều Chính Hòa tứ niên tuế thứ Quý Hợi đông tiết cốc nhật trùng san (黎 朝 正 和 四 年 歲 次 癸亥 冬 節 穀 日 重 刊 - Triều Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 năm Quý Hợi, tiết đông, ngày tốt khắc bản in lại - 1683)

b) Lược dẫn Thiền phái đồ (略 引 禪 派 圖) do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

c) Trần Triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn. Chính văn ghi: Trúc Lâm Đại đầu đà đệ nhất tổ Tịnh tuệ Điều ngự Giác hoàng khảo đính, Trúc Lâm Hương đàn Tự pháp đệ tử Tiểu đầu đà Pháp Loa phổ huệ biên (竹林 大 頭 陀 第一祖 淨 慧 調 御 覺 皇 考 訂, 竹 林 香 壇 嗣 法 弟 子 小頭 陀 法 螺 普 慧 編 - Trúc Lâm Đại đầu đà đệ nhất Tổ tịnh tuệ Điều ngự giác hoàng khảo đính, Trúc Lâm Hương đàn tự pháp đệ tử Tiểu đầu đà Pháp Loa phổ huệ biên soạn thành sách). Nội dung gồm các phần sau:

Đối cơ (對機)(3).

Tụng cổ (頌 古)(4).

Thơ gồm các bài : 1. Phật tâm ca (佛 心 歌 ). 2. Phóng cuồng ngâm (放 狂 吟 ). 3. Sinh tử nhàn nhi dĩ (生 死 閑 而 已 ). 4. Phàm thánh bất dị (凡 聖 不 異 ). 5. Mê ngộ bất dị (迷悟 不 異 ). 6. Trừu thần ngâm (抽 脣 吟 ). 7. Trữ từ tự cảnh văn (抒 辭 自 警 文 ). 8. An định thời tiết (安 定時 節 ). 9. Dưỡng chân (養 真 ). 10. Nhập trần (入塵 ). 11. Vạn sự quy như (萬 事 歸 如 ). 12. Thế thái hư huyễn (世 態 虛 幻 ). 13. Họa huyện lệnh (和 縣 令). 14. (thiếu nhan đề) Tịnh bang cảnh vật (淨 邦境 物 ). 15. Họa Hưng Trí thượng vị hầu (和 興 智 上 位 侯 ). 16. Tụng Thánh Tông đạo học (頌 聖 宗 道 學 ). 17. Thủ nê ngưu (守 泥 牛). 18. Giang hồ tự thích (江湖 自 適 ). 19. Vật bất năng dung (物 不 能 容 ). 20. Phỏng Tăng Điền đại sư (訪 僧 田 大 師 ). 21. Vấn Phúc Đường đại sư tật (問 福 堂 大 師 疾). 22. Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư (上 福 堂 逍遙 禪 師 ). 23. Phúc Đường cảnh vật (福 堂 境 物). 24. Tặng Thuần Nhất pháp sư (贈 純一 法 師). 25. Hí Trí Viễn Thiền sư khan kinh tả nghĩa (戲 智 遠 禪 師 看 經 寫 義). 26. Điệu Tiên sư (悼先 師 ). 27. Khuyến thế tiến đạo (勸 世 進 道 ). 28. Thị chúng (示 眾 ). 29. Thị chúng (示眾). 30. Thị học (示 學 ). 31. Ngẫu tác (偶作 ). 32. Giản để tùng (澗底 松 ). 33. Xuất trần (出 塵 ). 34. Chí đạo vô nan (至 道 無 難 ). 35. Tâm vương (心王 ). 36. Phóng ngưu (放 牛 ). 37. Đề tinh xá (題 精 舍 ). 38. Ngẫu tác (偶 作 ). 39. Tứ sơn khả hại (四山 可 害 ). 40. Trụ trượng tử (柱 杖子). 41. Chiếu thân (照身 ). 42. Tự đề (自題 ). 43. Đốn tỉnh (頓 惺 ). 44. Tự tại (自 在 ). 45. Thoái cư (退 居 ). 46. Thị đồ (示 徒 ). 47. Thị tu Tây phương bối (示 修 西 方 輩). 48. Thoát thế (脫世 ). 49. Giang hồ tự thích (江湖 自 適).

Thượng sĩ hành trạng (上 士 行 狀- Hành trạng của Thượng sĩ).

Chư nhân Tán tụng (諸人贊訟 – Mọi người ca tụng).

Thượng sĩ (hậu bạt) (上 士 (後 跋)).

Câu Trần triều Thượng sĩ ngữ lục chung (陳 朝 慧 忠 上 士 語 錄 終- Thượng sĩ ngữ lục triều Trần kết thúc) có chữ Trần kiêng húy, gồm bộ xuyên bên trên, bộ phụ bên phải, chữ đông bên trái. Việc kiêng húy này cũng phù hợp với đặc điểm chung của văn bản thời Lê. “Văn bản thời Lê Trung hưng không bắt buộc kiêng húy. (…) Do tính chất tự nguyện không bắt buộc, các văn bản thời Lê Trung hưng thể hiện những cách lựa chọn khác nhau trong việc kiêng húy. Sự lựa chọn đó trong nhiều trường hợp là do thói quen, người này chịu ảnh hưởng của người khác”(5). “Chữ Trần nguyên là một chữ húy quan trọng thời Lê sơ, được ban bố từ thời Lê Thái Tổ. Theo danh nghĩa chính thức. Trần là tên húy của Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần, bà vợ cả của Lê Lợi, đi theo chồng trong cuộc hành quân của nghĩa quân Lam Sơn vào Nghệ An tháng Chạp năm Ất Tị (tháng 1 năm 1425). Gương hi sinh cao cả của bà có nhiều người biết, nhất là việc bà tự nguyện hi sinh để làm vật tế thần Phổ Hộ mang màu sắc huyền thoại càng làm cho sự tích của bà được truyền tụng lâu dài. Do đó, mặc dù triều Lê Trung hưng không quy định về việc viết húy nhưng vẫn có một bộ phận nhân dân chọn cách viết kiêng húy chữ Trần để thể hiện lòng kính mộ công lao đức nghiệp thiên triều”(6).

Cuối văn bản ghi: Bản lưu tại Yên Tử sơn động Long Động tự dĩ hiểu hậu lai ấn học thức kì xứ (板 留 在 安 子 山 龍 峒 寺 以 曉 後 來 印學 識 其 處 - Ván khắc lưu tại chùa Long Động trên núi Yên Tử để đời sau có thể in để học và biết được chỗ này).

1.2. Văn bản Tam tổ thực lục

Tam tổ thực lục, kí hiệu A.2048 có 47 trang đầu (trong tổng số 64 trang) là Thượng sĩ ngữ lục. Mỗi trang 8 cột, mỗi cột 14 chữ, viết đài là 15 chữ. Sách gồm các phần sau:

a) Lời tiểu dẫn về việc Trùng san Thượng sĩ ngữ lục (Trùng san Thượng sĩ ngữ lục tiểu dẫn) vào thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 15 do Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh viết. Toàn bộ phần Tiểu dẫn như sau:

我 越 於 陳 朝, 屢 有 王 公士庶 神 留 內 典. 道 悟 禪 機, 而 得 見 於 方 冊. 其 來 尚 矣. 蓋 觀, 上 祖 逍 遙及 至 玄 光 尊 者, 出 處 躬 行, 為 他 作 則. 考 斯 二 錄 而 概 知 一 二 焉. 上 年 丁 酉 季 秋, 住 持 法 雨 妙 湛 覺 靈, 重 刊 竹 林 三 祖 錄 流 通竣工. 今 癸 卯, 繼 住 持 法 雨 比 丘 清 渠 得 上 士 語 錄 古 版於 清 磷 長 老 以 為 遺 寶, 願 續 刊 之. 夾 在竹 林 錄上, 合 成 一 帙. 蓋 因 睹 此, 則 知 禪 譜 承 繩. 世 次 有 自 乃 徵 予 言. 略 記, 是 引. 時皇 朝 成 泰 十五 年 歲 次 癸 卯 十 月 吉 日. 後 學 菩 薩 比 丘 清 亨 檢 校 敬 引(Ngã Việt ư Trần triều, lũ hữu Vương công sĩ thứ. Thần lưu nội điển, đạo ngộ Thiền cơ nhi đắc kiến ư phương sách. Kì lai thượng hĩ. Cái quan Thượng tổ Tiêu Dao cập chí Huyền Quang tôn giả xuất xử cung hành vi tha tác tắc. Khảo tư nhị lục nhi khái tri kì nhất nhị yên. Thượng niên Đinh Đậu quý thu Trụ trì Pháp Vũ diệu trạm giác linh. Trùng san Trúc Lâm Tam Tổ lục lưu thông thuyên công. Kim Quý Mão kế trụ trì Pháp Vũ Tì kheo Thanh Cừ đắc Thượng sĩ ngữ lục cổ bản ư Thanh Lân Trưởng lão. Dĩ vi di bảo nguyện tục san chi, giáp tại Trúc Lâm lục thượng, hợp thành nhất trật. Cái nhân đổ thử tắc tri thiền phả thừa thằng. Thế thứ hữu tự, nãi trưng dư ngôn, lược kí thị dẫn. Thời Hoàng Triều Thành Thái thập ngũ niên tuế thứ Quý Mão thập nguyệt cát nhật. Hậu học Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh kiểm hiệu kính dẫn - Nước Việt ta vào thời Trần thường có vương công sĩ thứ lưu dấu ấn trong điển tịch. Về tư tưởng họ giác ngộ tinh thần Thiền tông mà có thể thấy được trong cách sách vở. Những việc đó đến nay vẫn rất đáng ngưỡng mộ. Xem xét chung, từ Thượng tổ Tiêu Dao đến Huyền Quang Tôn giả thì việc xuất xử cung hành đều vì người khác mà tạo phép tắc. Đọc hết phần ghi chép về hai con người này có thể lĩnh hội được một hai điều. Ngày trước, vào mùa thu năm Đinh Dậu, Trụ tì chùa Pháp Vũ đã thấu hiểu giá trị của những điển tịch như vậy. Ngài tiến hành trùng san Trúc Lâm tam tổ và công việc được hoàn tất. Năm nay, năm Quý Mão, người kế tục trụ trì Pháp Vũ là Tì kheo Thanh Cừ may mắn được một cuốn Thượng sĩ ngữ lục bản cổ tại nhà Trưởng lão Thanh Lân. Tì kheo nhận thấy đây là sách quý nên có ý nguyện khắc in nó. Rồi gộp vào trước cuốn Trúc Lâm lục thành một quyển. Vì thế mà xem quyển sách này cũng là biết được về sợi dây của Thiền phả. Thế thứ các đời có nguồn gốc của nó đã chứng rõ lời của tôi. Tôi lược ghi để làm lời dẫn vậy. Thời Nguyễn, niên hiệu Thành Thái thứ 15 năm Quý Mão, tháng mười, ngày tốt (1903). Kẻ hậu học là Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh kiểm hiệu và kính cẩn dẫn lời.

Như vậy, Lời dẫn cho biết năm Quý Mão (1902) quyển Trần triều Thượng sĩ ngữ lục được khắc in rồi đính kèm trước Trúc Lâm lục. Quyển để khắc in lại này là một văn bản cổ mà Tì kheo Thanh Cừ có được từ Trưởng lão Thanh Lân. Tác giả Thanh Hanh không nói gì cụ thể về bản cổ này. Tuy nhiên, sau phần lời tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên trong cuốn sách này có ghi năm khắc in: Cảnh Hưng nhị thập tứ niên tuế thứ Quý Mùi đông tiết cốc nhật trùng san. (景 興 二 十 四 年 歲 次 癸 未 冬 節 穀 日重 刊 - Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 năm Quý Mùi, tiết đông, ngày tốt khắc bản in lại). Có lẽ, cổ bản nói đến trong lời dẫn chính là bản được khắc in thời Cảnh Hưng thứ 24 (1763). Bản khắc in năm 1902 và bản khắc in năm 1683 không có sự khác biệt lớn, chỉ khác biệt ở cấp độ một vài văn tự. Cuốn in năm 1902 khắc lại cuốn in năm 1768, nên có thể nhận định cuốn khắc in năm 1768 không khác nhiều so với cuốn khắc in năm 1683.

b) Lời tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên và ghi năm trùng san vào thời Cảnh Hưng (1763). Phần lời dẫn này có nội dung cơ bản trùng khớp với Lời dẫn của bản trùng san năm Chính Hòa 1683, chỉ thêm khảo dị(7) 1 trường hợp, hiệu chính(8) 1 trường hợp.

c) Lược dẫn Thiền phái đồ của Tì kheo Tuệ Nguyên, giống như bản A.1932.

d) Trần triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Phần này cũng được ghi do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn. Nội dung cơ bản như bản khắc in năm 1683 và có một số trường hợp khảo dị và hiệu chính. Cụ thể gồm các phần:

Đối cơ (對機), hiệu chính 1 trường hợp.

Tụng cổ (訟古), khảo dị 3 trường hợp, hiệu chính 2 trường hợp.

Thơ gồm 49 bài như bản khắc in năm 1683. Tuy nhiên, văn bản này không bị khuyết nhan đề bài Tịnh bang cảnh vật. Phần khảo dị gồm: Phật tâm ca (1 trường hợp), Phóng cuồng ca (1 trường hợp), Sinh tử nhàn nhi dĩ (1 trường hợp), Tụng Thánh Tông đạo học (1 trường hợp), Vấn Phúc Đường Đại sư tật (1 trường hợp), Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Đại sư (1 trường hợp). Phần hiệu chính gồm: Vật bất năng dung (2 trường hợp), Xuất trần (1 trường hợp), Thị tu Tây phương bối (1 trường hợp).

Thượng sĩ hành trạng (上 士 行 狀- Hành trạng của Thượng sĩ), hiệu chính 1 trường hợp.

Chư nhân Tán tụng (諸 人 贊 訟- Mọi người tán tụng), khảo dị 2 trường hợp, hiệu chính 1 trường hợp.

Thượng sĩ (hậu bạt) (後 跋), khảo dị 1 trường hợp, hiệu chính 3 trường hợp.

Cuối sách ghi : Cựu bản lưu tại Đông Triều huyện, An Lâm xã, Đoan Nghiêm tự (舊 板 留 在 東 潮 縣 安 林社 端 嚴 寺 - Ván khắc cũ lưu tại chùa Đoan Nghiêm, xã An Lâm, huyện Đông Triều).

2. Một vài nhận định về văn bản tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

2.1. Quá trình truyền bản của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Từ việc khảo sát hai văn bản hiện còn, chúng tôi nhận định về quá trình truyền bản của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục như sau:

Bản gốc Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn hiện đang bị thất lạc.

Năm 1683 (thời Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 4), văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Việc trùng san này do Tì kheo Tuệ Nguyên thực hiện. Tì kheo Tuệ Nguyên có bổ sung thêm Lời Tựa và Lược dẫn Thiền phái đồ. Văn bản hiện mang kí hiệu A. 1932 tại TVVNCHN, được chụp lại với kí hiệu VHc2584, VHc2585.

Năm 1763 (Thời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24) văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Văn bản này đã mất. Việc xác định năm 1763 trùng san dựa vào phần khắc in thời gian sau lời tựa Tì kheo Tuệ Nguyên trong bản Tam tổ thực lục khắc in năm 1902.

Năm 1902 (thời Nguyễn, niên hiệu Thành Thái thứ 15) văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Việc trùng san này do Tì kheo Thanh Hanh thực hiện. Nguyên do bởi Tì kheo Thanh Cừ may mắn tìm được một cuốn Thượng sĩ ngữ lục bản cổ tại nhà trưởng lão Thanh Lâm và nhận thấy đây là cuốn sách quý nên có ý nguyện được khắc ván in. Vì vậy, Tì kheo Thanh Hanh đã khắc in lại cuốn Thượng sĩ ngữ lục mà Tì kheo Thanh Cừ tìm thấy và gộp nó vào trước Trúc Lâm lục thành một quyển.

2.2. Bố cục văn bản: bao gồm trước tác của Trần Tung và những trước tác có liên quan

Trước tác của Tuệ Trung Thượng sĩ gồm:

Đối cơ

Tụng cổ

- 49 bài thơ

Những trước tác có liên quan (phụ thuộc vào năm khắc in)

Tiểu dẫn về việc trùng san Thượng sĩ ngữ lục năm 1683 do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

Lược dẫn Thiền phái đồ do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

Tiểu dẫn về việc trùng san Thượng sĩ ngữ lục năm 1902 do Tì kheo Thanh Hanh viết.

Thượng sĩ hành trạng (Hành trạng của Thượng sĩ), do Trần Nhân Tông viết.

Chư nhân tán tụng (Chư nhân ca tụng), do 8 người viết gồm: Tự Pháp đệ tử Trúc Lâm Đại đầu đà, Trúc Lâm thị hạ tự pháp đệ tử Pháp Loa, Trúc Lâm thị hạ đệ tử Bão Phác, Môn đệ tử Tông Kính, Môn đệ tử Thiên Nhiên cư sĩ Vương Như Pháp, Trúc Lâm thị giả đệ tử Pháp Cổ, Trúc Lâm thị giả Tuệ Nghiêm, Trúc Lâm thị giả tiểu đệ tử Pháp Đăng.

Thượng sĩ (hậu bạt) (Bài bạt của Thượng sĩ ngữ lục), do Trần Khắc Chung viết.

2.3. Kết luận về văn bản cơ sở của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Văn bản đầu tiên của Thượng sĩ ngữ lục hiện đang thất lạc. Cuốn sách này được trùng san ít nhất ba lần. Tuy nhiên, hiện nay chúng tôi mới chỉ tìm được hai cuốn sách còn lưu trữ tại TVVNCHN. Theo nhận định của chúng tôi, văn bản được khắc in năm 1902 hoàn thiện hơn vì những lý do sau:

Về mặt hình thức văn bản, bản khắc in năm 1683 có bố cục chữ không đều. Nét chữ của các trang chưa thống nhất, ví dụ trang 41 nét chữ mảnh hơn toàn văn bản, trang 43 kiểu chữ nghiêng, xô lệch. Văn bản này cũng có hiện tượng viết chèn chữ để bổ sung chữ thiếu hoặc sửa chữ sai, ví dụ các trang 10, 12, 17, 32, 37, 42. Văn bản này cũng dùng chữ viết tắt, chữ giản thể. Chữ trong văn bản 1902 thể hiện tính ưu việt so với bản 1683. Số chữ trong 1 cột luôn là 14 chữ, nếu viết đài là 15 chữ. Văn bản này không có hiện tượng viết chèn chữ để bổ sung chữ thiếu hoặc sửa chữ sai, cũng không viết tắt và không dùng giản thể.

Mặt khác, bản khắc in năm 1902 có nội dung phong phú hơn. Về cơ bản, bản khắc in năm 1902 và bản khắc in năm 1683 tương đối giống nhau, chỉ khác nhau ở một vài chữ, không ảnh hưởng đến tổng thể văn bản. Tuy nhiên, bản khắc in năm Thành Thái có thêm lời tiểu dẫn của Tì kheo Thanh Hanh. Lời tiểu dẫn này cho người đọc hiểu hơn về lịch sử văn bản.

Bản khắc in năm 1902 có cả phần khảo dị và phần hiệu chính, cụ thể là 13 trường hợp khảo dị và 13 trường hợp hiệu chính. Phần khảo dị và hiệu chính này giúp cho người đọc có cái nhìn thấu đáo, chính xác hơn khi tiếp cận văn bản. Ở đây, chúng tôi xin dẫn chứng một trường hợp khảo dị và một trường hợp hiệu chính của bản khắc in năm 1902. Trong bản khắc in năm 1683, tại phần Tụng Cổ, trang 13a cột 2 là: 若 也 不 因 迷 萩 岸, 胡 為 得 到 武陵 溪 (Nhược dã bất nhân mê thu ngạn, hồ vi đắc đáo Vũ Lăng khê -Nếu không có chuyện lầm đường ở bờ cỏ thì làm sao đến được suối Vũ Lăng ). Tại bản khắc in năm 1902, câu này ở trang 15a dòng 2, dưới chữ thu có ghi 2 chữ: 恐荻 (khủng địch - e là chữ địch). Nguồn suối Vũ Lăng là tích được nhắc đến trong Đào hoa nguyên kí của Đào Uyên Minh. Suối ở Vũ Lăng có hoa đào, có rừng đào và dẫn đến một thế giới “người già con trẻ đều vui vẻ, thư thái, mãn nguyện” (黃 髮 垂 髫 並 怡 然 自 樂 - hoàng phát thùy thiều tịnh di nhiên tự lạc). Nguyên tác Đào hoa nguyên kí không nhắc gì đến bờ lau hay bờ cỏ mà chỉ tả cảnh rừng hoa đào “hai bên rộng vài trăm bước, trong không có loài cây nào khác, cỏ thơm tươi tốt, hoa rơi rực rỡ” (夾 岸 數 百 步, 中 無 雜 樹, 芳 草 鮮 美, 落 英 賓 紛 - giáp ngạn sổ bách bộ, trung vô tạp thụ, phương thảo tiên mĩ, lạc anh tân phân). Trong câu này, Vũ Lăng khê là thế giới lý tưởng mà con người đặt chân đến khi vượt qua được bến mê. Bởi vậy, từ được hiệu chính trong bản 1902 sẽ khiến người đọc đi tìm câu trả lời: thu ngạn (bờ cỏ) hay địch ngạn (bờ lau) là từ chính xác để đối lập với hình tượng suối Vũ Lăng?. Tóm lại, phần khảo dị sẽ cho chúng ta xác định được một văn bản hiện đang thất lạc, phần hiệu chính sẽ giúp người đọc hiểu văn bản một cách thấu đáo hơn.

Như vậy, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm có giá trị về tư tưởng Phật giáo, lịch sử, văn học… Bố cục nội dung của văn bản gồm trước tác của Trần Tung (Đối cơ, Tụng cổ, thơ) và những trước tác có liên quan khác (Lời tựa, lời dẫn, Lược dẫn Thiền phái đồ, Thượng sĩ hành trạng, Chư nhân tán tụng, bạt). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn đã bị thất lạc. Tác phẩm trùng san ít nhất ba lần vào các năm 1683, 1768, 1902 và hiện còn 2 đầu sách được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Khảo sát 2 văn bản hiện còn cho thấy bản khắc in thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 15 là văn bản cơ sở của tác phẩm này.

 

Nguyễn Thị Thanh Chung

Đại học Sư phạm Hà Nội

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012, tr.141-155, phiên bản trực tuyến ngày 23.02.2015.

-------

Chú thích:

(1). Nguyên văn chữ Hán: 此 錄, 逍 遙 大 德 說 與 慧 中 上 士, 上 士 說 與 竹 林 第 一 祖 調 御 覺 皇, 調 御 覺 皇 說 與 竹 林 第二 祖 法 螺 大 師, 法 螺 大 師 說 與 玄 光 尊 者, 玄 光 尊 者 說 與 竹 林 宗 派, 天 下 禪 宗. 古 往 今 來 相 傳 授 受. 這 此 錄 的 巧 對 證 之 良 樂, 太 速 成 佛 之 頓 悟, 直 徹 心 源, 騰 超 覺 海, 殺 死 識, 破 名 相, 空 空 之 心 宗, 超 三 乘, 越 佛 乘, 上 上 之 旨 (Thử lục Tiêu Dao đại đức thuyết dữ Tuệ Trung thượng sĩ. Thượng sĩ thuyết dữ Trúc Lâm đệ nhất tổ Điều ngự Giác hoàng. Điều ngự Giác hoàng thuyết dữ Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa đại sư. Pháp Loa đại sư thuyết dữ Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang Tôn giả. Huyền Quang Tôn giả thuyết dữ Trúc Lâm tông phái. Cổ vãng kim lai tương truyền thụ thụ. Giá thử lục đích xảo đối chứng chi lương lạc, thái tốc thành Phật chi đốn ngộ. Trực triệt tâm nguyên, đằng siêu giác hải, sát tử thức, phá danh tướng, không không chi tông, siêu Tam thừa, việt Phật thừa, thượng thượng chi chỉ).

(2). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Thích Thanh Từ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TpHCM, 1996, tr. 6.

(3). Đối cơ: thuật ngữ nhà Phật, Phật Đà đối với căn cội của chúng sinh có cách thức thực thi giúp đỡ phù hợp. Thuật ngữ này cũng là chỉ những người tài giỏi trong Thiền gia trả lời câu hỏi của người học. (Theo Phật học đại từ điển, Đinh Phúc Bảo biên, Thượng Hải thư điếm, Thượng Hải, 1991, tr.2528).

(4). Tụng cổ: thuật ngữ nhà Phật chỉ việc làm sáng rõ nghĩa việc cổ. Nêu lên việc cổ thì gọi là Ngữ vận. (Theo Từ điển Phật học, tập 2, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 1710).

(5). Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, LATSNV, Trung tâm KHXH và NVQG, Hà Nội, 1995, tr.170.

(6). Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, LATSNV, Trung tâm KHXH và NVQG, Hà Nội, 1995, tr.174.

(7). Các trường hợp khảo dị trong văn bản này được viết chữ nhỏ bên cạnh: 舊cựu … - Chữ này trong bản cũ là…

(8). Các trường hợp hiệu chính được viết chữ nhỏ bên cạnh: 恐khủng… - Chữ này e là chữ…

Tài liệu tham khảo:

1.竹林 慧 忠 上 士 語 籙kí hiệu A.1932 tại TVVNCHN.

2.三祖 寔 籙kí hiệu A.2048 tại TVVNCHN.

3.Nguyễn Duy Hinh, Trần Tung Thượng sĩ Nhân sĩ Thi sĩ, Nxb. KHXH, H, 1997.

4.Phật học đại từ điển, Đinh Phúc Bảo biên, Thượng Hải thư điếm, Thượng Hải, 1991.

5.Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, 1996.

6.Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Trung tâm KHXH và NVQG, H. 1995.

7.Thơ văn Lý Trần, tập II, Nxb. KHXH, H. 1989.

8.Tổng tập Văn học Việt Nam, Nxb. Văn học, H. 1998.

9.Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Viện KHXH TPHCM, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, Tp Hồ Chí Minh, 1993.

10.Từ điển Phật học, tập 2, Kim Cương Tử (Chủ biên), Giáo hội Phật giáo Việt Nam, H. 1994.

20210429 4

Việc nghiên cứu văn học đời Lý - Trần - Hồ trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có thể dễ dàng nhận ra điều này bởi hàng loạt các công trình được công bố đặc biệt là bộ Thơ văn Lý - Trần của nhóm Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, chứng tỏ các nhà nghiên cứu đã có một sự quan tâm sâu sắc đối với thơ văn dân tộc. Tuy nhiên các công trình chủ yếu là tuyển dịch thơ văn, hợp tuyển thơ văn Lý - Trần mà thấy thiếu vắng các công trình nghiên cứu về văn bản các bộ thi tuyển dân tộc. Điều này là một lỗ hổng lớn cần phải suy nghĩ.

越音詩集Việt âm thi tập là một bộ sách chép những bài thơ đời Trần - Hồ do Phan Phu Tiên và Chu Xa kế tục biên soạn, Lí Tử Tấn phê điểm vinh dự được đứng ở vị trí đầu tiên trong hệ thống thi tuyển của nước nhà bởi đây chính là tác phẩm đã “khai sinh ra ngành biên soạn thơ văn dân tộc”(1), là tác phẩm mở đầu cho thời kì biên soạn thi tuyển sôi động về sau với hàng loạt các bộ thi tuyển như 摘艷詩集Trích diễm thi tập, 精選諸家律詩 Tinh tuyển chư gia luật thi, 全越詩錄 Toàn Việt thi lục, 皇越詩選Hoàng Việt thi tuyển, 明都詩彙 Minh đô thi vựng, 越詩續編Việt thi tục biên.

Về mặt văn bản 越音詩集Việt âm thi tập đã được một số các nhà nghiên cứu đi trước quan tâm tìm hiểu như học giả Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Việt Nam, hay Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong phần Khảo luận văn bản cho bộ sách Thơ văn Lý - Trần đều đã dành những phần nhất định của cuốn sách để giới thiệu về bộ sách này. Gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tùng cũng đã phát hiện được một văn bản mang tên Việt âm thi tập tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, và có một bài nghiên cứu về văn bản này được in trong Thông báo Hán Nôm học 2004. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đi trước mới chỉ dừng lại ở việc phác họa lại một cách cơ bản nhất về một văn bản Việt âm thi tập nhất định nào đó, mà chưa có sự nghiên cứu một cách tổng hợp các bản Việt âm thi tập hiện còn được biết đến. Đứng trước tình hình thực tế như vậy chúng tôi nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách tổng thể về văn bản này. Bài viết này sẽ giới thiệu một cách khái quát về các văn bản Việt âm thi tập hiện tồn tại các thư viện ở Hà Nội mà chúng tôi có cơ hội được tiếp xúc.

Hiện nay còn 4 văn bản mang tên Việt âm thi tập mà chúng tôi được tiếp xúc, trong đó có hai văn bản A.1925 và A.3038 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) và hai văn bản R.603 và R.1629 (Thư viện Quốc gia Việt Nam).

Thứ nhất: Văn bản A.1925: Sách được in ván gỗ, giấy dó (24x16cm), tổng cộng có 68 tờ, tờ 2 trang, trang 10 dòng, dòng trên dưới 22 chữ.

Về cấu trúc văn bản:

Trang đầu tiên (theo số thứ tự của các nhà nghiên cứu đời sau mới đánh): in riêng một dòng vào chính giữa trang: “皇朝保泰十年歲在己酉仲春榖旦重刊 - Hoàng triều Bảo Thái thập niên tuế tại Kỉ Dậu trọng xuân cốc đán trùng san” (Khắc lại vào ngày lành, tháng hai, năm Kỉ Dậu niên hiệu Bảo Thái thứ 10 (1729) đời Lê).

Trang thứ hai: in to bốn chữ 越音詩集Việt âm thi tập ở chính giữa trang.

Trang thứ 3: Ở chính giữa của trang, 6 chữ được in to: 新刊越音詩集Tân san Việt âm thi tập. Phía trên sáu chữ ấy là bốn chữ được in ngang 敕賜刊行Sắc tứ san hành (Đã được nhà vua cho phép khắc in). Phía dưới của bốn chữ được in ngang ấy ghi tên người phê điểm 拙庵批點Chuyết Am phê điểm (Chuyết Am là tên hiệu của Lí Tử Tấn)

Trang thứ tư: có dòng chữ 皇朝保泰十年歲在己酉仲春榖旦重刻Hoàng triều Bảo Thái thập niên tuế tại Kỉ Dậu trọng xuân cốc đán trùng khắc ở phía bên trái của trang giấy.

Từ trang 5-7: Là bài tựa 新刊越音詩集序Tân san Việt âm thi tập tự do Phan Phu Tiên biên soạn vào năm Quý Sửu 1433 niên hiệu Thuận Thiên (Lê Thái Tổ). Có thể dễ dàng nhận thấy trong bài tựa này có bốn dòng bị bỏ trống, “có lẽ đó là những chữ bị rách nát trong di cảo, hoặc bị mòn mờ trong bản in lần thứ nhất mà về sau không khôi phục được”(2), cũng “có lẽ vì giấy bị rách mà thiếu mấy đoạn, người in cũng tôn trọng để cách ra từng dòng”(3).

Từ trang 9-12: Là bài tựa 新選越音詩集序Tân tuyển Việt âm thi tập tự do Lí Tử Tấn biên soạn được viết vào năm Diên Ninh thứ sáu (1459). Phía cuối bài tựa có ghi ngày tháng và tên người viết, ngoài ra chúng tôi còn thấy xuất hiện hai con dấu, một con dấu hình chữ nhật ghi là: 敉陵阮子Mi Lăng Nguyễn Tử được viết bằng chữ Lệ. Còn một con dấu hình tròn, tuy nhiên chúng tôi chưa minh giải được.

Từ trang 13-18: là mục lục của sách.

Từ trang 19-24: là bài biểu dâng sách Việt âm thi tập, “bài này không ghi ngày tháng năm, nhưng có lẽ viết cùng năm với bài tựa của Lí Tử Tấn, tức là năm Diên Ninh thứ 6 (1459)”(4). Phía cuối bài biểu dâng sách này có một lệnh chỉ của vua ra lệnh cho khắc in sách Việt âm thi tập.

Từ trang 25-136: là phần chính văn chép từ quyển I đến quyển III. Trong đó Quyển I từ trang 25-51. Quyển II từ trang 53-88. Quyển III từ trang 89-132, và phần Bổ di của quyển III từ trang 133-138.

“Nếu xét cách in của bản trùng san, sẽ thấy người in lại đã cố trung thành với bản in của thế kỷ XV. Sách không có một bài tựa nào mới mà chỉ có một đoạn tiểu dẫn đề năm Kỷ Dậu, Bảo Thái thứ 10 (1729), hơn nữa, không có tên người nào để ở dưới. Chứng tỏ người viết tiểu dẫn tự xét mình chỉ đơn thuần đóng vai trò "in lại" chứ không bổ sung thêm thắt được gì hơn. Trật tự sắp xếp trong sách cũng cho ta ấn tượng bản trùng san không phá hoại kết cấu vốn có. Thậm chí ở bài Tựa đầu sách của Phan Phu Tiên, có lẽ vì giấy bị rách mà thiếu mấy đoạn, người in cũng tôn trọng để cách ra từng dòng. Từ đó, có thể nói, mục lục 617 bài của bản trùng san không khác với mục lục bản in lần đầu”(5).

Thứ hai: Văn bản A.3038: là bản sách chép tay, trên chất liệu giấy dó, khổ 26x15cm, sách dày 148 trang, trang 9 dòng, dòng từ 18-21 chữ. Chữ viết khá thảo.

Về nội dung và quy cách trình bày khá giống với văn bản A.1925. Sách cũng có hai bài tựa một của Phan Phu Tiên, một của Lí Tử Tấn và một bài biểu dâng sách của Chu Xa. Sách cũng có mục lục gồm 6 quyển, tuy nhiên trong phần nội dung cũng chỉ có 3 quyển và một phần bổ di của quyển 3.

Về cấu trúc văn bản: Văn bản A.3038 không có bốn trang đầu tiên giống như trong A.1925 đó là trang có khắc niên đại trùng san, cũng như trang khắc to bốn chữ Việt âm thi tập.

Trang thứ nhất chỉ thấy ghi kí hiệu A.3038 vào giữa trang sách.

Trang thứ 2 của văn bản này có chép dòng chữ: 嗣德三十四年季冬月書Tự Đức tam thập tứ niên quý đông nguyệt thư (Bản sách này [chép vào] tháng 11 năm Tự Đức thứ 34 (1881).

Từ trang thứ 3 đến trang 148 cấu trúc cơ bản giống với bản A.1925.

Thứ ba: Văn bản R.603: đây là bản chụp lại từ bản A.1925 bằng máy pilorit trên chất liệu giấy thường, khổ rộng 30x16cm. Vì là bản chụp từ bản A.1925 vì vậy về cấu trúc, chữ viết, nội dung không có sự sai biệt so với bản A.1925. Duy chỉ có điều có một vài trang chữ khá mờ, có lẽ là do bản chụp lại và do quá trình bảo quản lâu ngày nên có khá nhiều trang, nhiều chữ bị mờ.

Thứ tư: Văn bản R.1629: đây là bản sách chép tay, trên giấy dó cũ đã ngả màu, hai trang gộp làm một, chữ viết khải thảo. Sách gồm 49 tờ, tờ hai trang, trang 9 dòng (có trang 8 dòng), dòng trung bình từ 19-21 chữ. Vẫn có hiện tượng chép sai, chép xót tuy nhiên không nhiều.

Tình trạng sách: Trang bìa màu nâu, sau đó đến trang bìa lót màu đen đã bị mối mọt ăn mất phần mép. Trang thứ hai ở phía trên trong phần nội dung có bị rách, nhưng chỗ bị rách không có chữ. Nói chung tình trạng sách còn tốt.

Về kết cấu văn bản: Bản này không chép hai bài tựa của Phan Phu Tiên và Lí Tử Tấn mà chỉ có bài biểu dâng sách của Chu Xa. Cũng không có mục lục. Văn bản này không chia quyển. Các bài thơ được chép liền mạch. Về cơ bản tên bài thơ được chép đài lên một chữ, hoặc cách ra một hai chữ ở trong mỗi dòng của trang sách. Thử đối chiếu với mục lục trong bản A.1925 có thể thấy, về cấu trúc các bài thơ, về nội dung các bài thơ khá thống nhất. Tuy nhiên trong văn bản này không có phần Bổ di của quyển III. Và điều đặc biệt là văn bản này có chép thêm một số thơ của Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Tử Tấn, tức là chép thêm một phần của quyển IV đã bị mất.

Với bốn văn bản Việt âm thi tập hiện còn, trong đó có một bản in (A.1925), hai bản chép tay (R.1629 và A.3038), và một bản chụp lại từ bản in (R.603). Như vậy có thể gộp bản R.603 và A.1925 vào một nhóm vì bản chụp lại R.603 so với bản A.1925 không có gì khác biệt, do đó thực chất chỉ có ba văn bản mà thôi. Với ba văn bản Việt âm thi tập này cần thiết có một sự nghiên cứu tỉ mỉ, kĩ lưỡng về mặt văn bản học, trên cơ sở đó có những kết luận khách quan nhất. Về vấn đề văn bản học của văn bản Việt âm thi tập, chúng tôi sẽ để sang chuyên luận sau.

Nguyễn Mạnh Sơn

Thông báo Hán Nôm hoc, 2010, tr.312-317.

 

Chú thích:

(1) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.67.

(2) (4) Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - Nguồn tư liệu văn học sử học Việt Nam, Tập 2, Nxb. KHXH, H. 1989, tr.27.

(3) (5) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.65./.

20200518 3

Bản in Cổ duệ từ (Nguyễn Quang Duy dịch), Nxb Hội nhà văn năm 2020

Trong số các từ tập ít ỏi hiện còn có một từ tập khá đặc biệt bởi nó toàn vẹn nhất, dung lượng lớn nhất, lại có một quá trình lưu lạc khá lâu tại nước ngoài, đó là Cổ duệ từ của Tùng Thiện vương Miên Thẩm (從善王綿審, 1819-1870).

Liên quan đến sáng tác từ của Miên Thẩm, nhà Thư mục học Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam và Tìm hiểu kho sách Hán Nôm cho biết Miên Thẩm có Thương Sơn từ tập. Tuy nhiên, không rõ Trần Văn Giáp dựa vào đâu để đưa ra những thông tin này bởi ở trong nước hiện nay không hề có Thương Sơn từ tập. Phan Văn Các trong phần đầu sách Cổ duệ từ - Khúc hát gõ mái chèo thì cho rằng ngoài Thương Sơn thi tập gồm 54 quyển, Miên Thẩm “còn có những tập từ”(1). Trên thực tế, sáng tác từ của Miên Thẩm hiện còn chỉ có một từ tập duy nhất mang tên Cổ duệ từCổ duệ từ sở dĩ còn lại đến hôm nay là vì vào năm Giáp Dần niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh [1854], một sứ đoàn nước ta khi đi sứ Trung Quốc đã mang theo từ tập này để giới thiệu với các sĩ phu ở Trung Quốc. Nhân đó nó được một nhà nho Trung Quốc là Lương Sằn Dư (梁莘畬)(2) chép lại. Rồi từ đó, qua những con đường khác nhau lan truyền khá rộng ở Trung Quốc.

Ở trong nước, người đầu tiên nhắc đến từ tập này là Phan Văn Các. Trên Tạp chí văn học số 3 năm 1998, trong bài “Về một chùm từ của Miên Thẩm”, Phan Văn Các dịch giới thiệu một chùm từ gồm 3 bài trong Cổ duệ từ. Đến năm 1999, trong sách Cổ duệ từ - Khúc hát gõ mái chèo, Phan Văn Các dịch công bố 14 bài trong Cổ duệ từ, đồng thời ông cũng cho biết một số thông tin về các bài từ mà ông đã dịch(3). Theo đó, có thể biết rằng Phan Văn Các thực ra không nắm được diện mạo toàn vẹn của Cổ duệ từ, phần mà ông tiếp xúc, phiên dịch chỉ là 14 bài được nhà nghiên cứu từ học Trung Quốc là Hạ Thừa Đảo (夏承燾, 1900-1986) trích tuyển từ Cổ duệ từ, in trong sách Vực ngoại từ tuyển (域外詞選), xuất bản năm 1934(4).

Hạ Thừa Đảo cùng Du Bình Bá (俞平伯, 1900-1990), Đường Khuê Chương (唐圭璋, 1901-1990), Long Du Sinh (龍榆生, 1902-1966)… đều là các nhà từ học nổi tiếng đương thời. Vực ngoại từ tuyển là tuyển tập từ ngoài cõi Trung Hoa do Hạ Thừa Đảo tuyển chọn, gồm tác phẩm của: 8 tác giả Nhật Bản (74 bài), 1 tác giả Triều Tiên (Lí Tề Hiền 李齊賢, 1287-1367, 53 bài)(5), 1 tác giả Việt Nam (Miên Thẩm, 14 bài). Phần cuối phụ lục 54 bài từ của Lí Tuân (李珣, sinh mất vào khoảng năm 855-0930), người gốc Ba Tư, sống tại Trung Quốc. Tổng cộng tuyển tập này gồm 11 tác giả với 195 bài từ.

Tuy nhiên, bản Phan Văn Các tiếp xúc cũng không phải bản in năm 1934, mà là bản do nhà xuất bản Thư mục văn hiến in lại vào năm 1981(6).

Để độc giả trong nước có cái nhìn đầy đủ hơn về Cổ duệ từ, trong Thông báo Hán Nôm năm 2001, Trần Nghĩa có bài “Cổ duệ từ của Miên Thẩm dưới dạng toàn vẹn của nó”. Về văn bản Cổ duệ từ Phan Văn Các đã giới thiệu, Trần Nghĩa cho biết thêm: “Tập từ chép tay sau đó được Lương Tụy Xa(7) đem tặng lại cho học trò yêu của mình là Kính Duy công, rồi người con trai của Kính Duy công lại đem tập từ chép tay nhân bản lần nữa, và viết thêm lời Bạt để gửi cho tòa soạn Từ học quý san ở Thượng Hải. Kết quả là Cổ duệ từ được tòa soạn Từ học quý san chọn ra 14 bài, ghép với một số bài từ của các tác giả Triều Tiên, Nhật Bản để in chung dưới tiêu đề Vực ngoại từ tuyển công bố năm 1934. Khúc hát gõ mái chèo do Phan Văn Các dịch và giới thiệu chính là dựa vào phần Cổ duệ từ "tuyển" in trong Vực ngoại từ tuyển, được Nxb. Thư mục văn hiến Bắc Kinh in lại vào năm 1981”. Sau đó Trần Nghĩa thông tin một số nét về bản Cổ duệ từ do Lương Tụy Xa sao lục mà ông đã chép lại được toàn bộ. “Bìa sách, bên trên có dòng chữ "Thuý thuỷ thảo xá từ độc 翠水艸舍詞讀" viết theo hàng ngang từ phải sang trái. Giữa bìa sách có 3 chữ "Cổ duệ từ 鼓枻詞" viết theo hàng dọc từ trên xuống. Bên phải, có 5 chữ "Việt Nam Bạch Hào Tử trứ 越南白豪子著” viết theo hàng dọc từ trên xuống. Bên trái có 8 chữ "Tương Thủy Hồ Nhai Thuý Thủy thủ sao 湘水胡街翠水手抄" cũng viết theo hàng dọc từ trên xuống”. Ông cho biết thêm: bên trong sách, tờ đầu dành cho lời Bạt của Dư Đức Nguyên soạn năm Trung Hoa dân quốc 23 [1934]. Lời Bạt này, trong bản in năm 1981 của Nxb. Thư mục văn hiến Bắc Kinh đã bị lược đoạn cuối. “Tiếp sau lời Bạt là phần chính văn, gồm cả thảy 104 bài từ”. Cuối bài viết, Trần Nghĩa có bảng liệt kê 104 bài từ trong Cổ duệ từ(8).

Thực ra muốn biết Cổ duệ từ đã truyền sang Trung Quốc, lưu truyền ra sao, chỉ cần đọc lời Bạt của Dư Đức Nguyên thì sáng tỏ về cơ bản. Toàn văn lời bạt như sau:

“Trên đây là một quyển Cổ duệ từ, do Bạch Hào Tử người Việt Nam sáng tác. Bạch Hào Tử là người trong tông thất ở Việt Nam, được tập phong là Tùng Quốc công, tên là Miên Thẩm, tự Trọng Uyên, hiệu Thúc Viên, ở khoảng lông mày có lông trắng nên lấy hiệu như vậy. Ông lại trước tác 4 quyển Thương Sơn thi sao. Thương Sơn là tên phủ đệ của ông vậy.

Tháng Ba năm thứ 4 niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh [1854], đoàn cống sứ Việt Nam đến kinh, trên đường qua đất Việt [粵-Quảng Đông], có mang theo Thương Sơn thi sao và tập từ này. Bấy giờ ông cậu tôi là Tiên sinh Lương Sằn Dư người ở Thiện Hóa đang ở mạc phủ của quan Đốc trấn Quảng Đông, thấy vậy thì rất thích thú, liền chép lại toàn bộ cất vào trong tráp, đem về liền tặng cho tiên phụ tôi là Kính Dung công (敬鏞公) vì coi tiên phụ tôi như học trò đắc ý của mình vậy. Tôi từ lâu đã muốn san khắc lưu hành mà chưa làm được. Nay may thay tòa soạn Từ học quý san ở Hỗ Thượng [滬上-Thượng Hải] đang sưu tập trước tác của các danh gia để công bố với đời bèn chép ra một bản gửi đến, đặng có thể in thành sách để khiến tác phẩm từ lâu u ẩn sẽ được rạng tỏ.

Ôi! Việt Nam chỉ là một nước nhỏ ở đất phương Nam xa xôi, cũng có người tinh thông từ học, nghiễm nhiên trở thành một nhà, vốn là do linh tú của núi sông, tuy là ở nơi tuyệt vực vẫn không sao hết được. Vậy đủ thấy đương thời thanh giáo Trung Hoa lan truyền đến các nước đồng văn rất mạnh mẽ. Gần đây bản đồ Việt Nam đổi thuộc vào Pháp đã ba mươi năm, học thuật từ lâu đắm chìm vào Âu hóa, chẳng hay có còn ai nghiên cứu văn học Hoa ta như Bạch Hào Tử nữa không? Nghĩ đến đây, tôi khôn ngăn sùi sụt nhìn về phương Nam mà cảm khái vô cùng vậy.

Trung Hoa dân quốc năm thứ 23 [1934], ngày Kinh chập [ngày 6 tháng Ba], Lục Đình - Dư Đức Nguyên (陸亭-余德沅(9)) ở huyện Du viết lời bạt khi 70 tuổi”(10).

Trong Vực ngoại từ tuyển, cuối phần tuyển từ của Miên Thẩm có chép lời Bạt này, song đã lược bỏ đi đoạn “Ôi! Việt Nam chỉ là một nước nhỏ ở đất phương Nam xa xôi… Nghĩ đến đây, tôi khôn ngăn sùi sụt nhìn về phương Nam mà cảm khái vô cùng vậy”(11).

Theo lời Bạt nói trên, Cổ duệ từ được sứ giả nước ta mang sang Trung Quốc năm 1854, đến Quảng Đông, được Lương Sằn Dư sao chép, sau đó Lương Sằn Dư giao lại cho Kính Dung công, rồi Kính Dung công truyền lại cho con trai là Dư Đức Nguyên. Năm 1934, khi đó Dư Đức Nguyên đã 70 tuổi, ông chép lại một bản Cổ duệ từ, viết lời Bạt gửi cho Từ học quý san ở Thượng Hải. Từ học quý san là tạp chí chuyên về từ học do Long Du Sinh Chủ biên, hoạt động từ tháng 4 năm 1933 đến tháng 9 năm 1936. Bản do Trần Nghĩa chép lại cũng có lời Bạt nói trên, theo đó, có nhiều khả năng chỉ là bản sao lại từ bản mà Dư Đức Nguyên đã sao lục để gửi cho Từ học quý san.

Vực ngoại từ tuyển in lần đầu năm 1934, cùng năm Dư Đức Nguyên viết lời Bạt trên nhưng trong Lời nói đầu sách này không thấy Hạ Thừa Đảo ghi rõ ông tuyển từ bản nào, tuy vậy sách có in lời Bạt của Dư Đức Nguyên (tuy đã lược bỏ một đoạn), rất có thể ông đã tuyển 14 bài từ của Miên Thẩm từ bản Cổ duệ từ do Dư Đức Nguyên sao chép gửi cho Từ học quý san. Không chỉ vậy, hai năm sau, vào 30 tháng Sáu năm Dân quốc thứ 25 [1936], Cổ duệ từ đã được in toàn văn trên tạp chí Từ học quý san, bao gồm trọn vẹn cả lời Bạt của Dư Đức Nguyên (Từ học quý san, số 2, quyển 3, tr.102-123). Như vậy, từ năm 1936, thông qua Từ học quý sanCổ duệ từ của Miên Thẩm đã được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc.

Theo ghi chép trong các thư tịch, từ năm 1854, khi Cổ duệ từ truyền sang Trung Quốc, nó không phải chỉ nằm trong tráp của Lương Sằn Dư, Kính Dung công hay Dư Đức Nguyên, vì năm 1890, nhà từ học Huống Chu Di (況周頤, 1859-1926), một trong bốn danh gia từ học cuối triều Thanh, cũng từng tiếp xúc với từ tập này. Trong cuốn Huệ Phong từ thoại (蕙風詞話) nổi tiếng, Huống Chu Di từng viết: “Năm Canh Dần [1890], tôi làm khách ở Hộ Giang [Thượng Hải], mượn được một quyển Cổ duệ từ của Nguyễn Miên Thẩm, người Việt Nam, các bài từ ngắn (đoản điệu) trong trẻo đẹp đẽ, đáng để đọc, các bài từ dài (trường điệu) cũng có khí cách”(12).

Từ tập này ở Việt Nam hiện không thấy trong các kho tư liệu Hán Nôm, có phần chắc là đã mất. Tuy nhiên, bài tựa Cổ duệ từ hiện vẫn còn được lưu trong sách Thương Sơn ngoại tập (kí hiệu A.781/1, quyển IV, tờ 40-42), chúng tôi đã công bố toàn văn trên Tạp chí Hán Nôm(13). Trong Cổ duệ từ và lời Tựa đều không ghi niên đại, do đó không rõ đích xác thời gian hoàn thành của Cổ duệ từ, chỉ biết rằng tập từ này được các sứ giả Việt Nam mang sang Trung Quốc năm 1854. Như vậy, nó được hoàn thành trước, hoặc muộn nhất là năm 1854.

Về số lượng tác phẩm trong Cổ duệ từ, Huống Chu Di chỉ cho biết Cổ duệ từ gồm một quyển nhưng không nói rõ cụ thể số bài. Vực ngoại từ tuyển cho biết “Bạch Hào Tử tên là Miên Thẩm, hiệu là Tiêu Viên, người trong tông thất nước Việt Nam, có một quyển Cổ duệ từ, cả thảy 104 bài”(14). Trần Nghĩa cho là 104 bài(15). Hà Thiên Niên cũng cho biết tương tự(16).

Xét kĩ, Cổ duệ từ gồm 104 đề mục, mỗi đề mục thông thường tương ứng với một bài từ; nhan đề của mỗi đề mục có khi chỉ có tên từ điệu, có khi có cả từ điệu và từ đề, thảng hoặc còn có lời dẫn ngắn. Ở đề mục thứ 50 là điệu Vọng Giang Nam - Điệu vong (望江南-悼亡) thực chất là một chùm từ theo điệu Vọng Giang Nam gồm tất cả 10 bài. Huống Chu Di trong Huệ Phong từ thoại cũng từng ghi rằng điệu Giang Nam Hảo có 10 bài, ông chỉ trích hai bài trong số đó (Huệ Phong từ thoại, quyển V). Đề mục thứ 89 là điệu Giảm tự mộc lan hoa - Đại nhân đáp nữ bạn họa vận (減字木蘭花-代人答女伴和韻) thực chất gồm 02 bài cùng điệu. Như vậy, tổng số tác phẩm trong Cổ duệ từ của Miên Thẩm không phải 104 mà là 114 bài. Các bài này viết theo 82 điệu, các điệu được sử dụng nhiều nhất gồm: Vọng Giang Nam (11 lần), Hành hương tửCán khê sa (4 lần), Giảm tự mộc lan hoaLâm giang tiênTây giang nguyệt (3 lần), Xú nô nhi lệnhSơ liêm đạm nguyệtBồ tát manLãng đào saLiễu sao thanhMô ngư nhiThâu thanh mộc lan hoaDương châu mạnNgu mĩ nhânGiá cô thiênTúy xuân phong (2 lần), các điệu khác đều chỉ được sử dụng một lần duy nhất.

Xét các điệu thức được sử dụng, về phân phiến gồm 2 loại đơn phiến và song phiến, không có loại tam điệp và tứ điệp. Về dung lượng có tiểu lệnh, trung điệu và trường điệu, tuy nhiên loại tiểu lệnh vẫn chiếm một tỉ lệ khá lớn.

Cổ duệ từ là một trong hai từ tập hiếm hoi hiện còn(17). Đây cũng là từ tập có số lượng tác phẩm lớn nhất trong từ sử Việt Nam. Số lượng tác phẩm cũng như các từ điệu được sử dụng trong từ tập này lớn số lượng tác phẩm, số lượng các từ điệu đã được các tác giả Việt Nam sử dụng từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII(18). Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thể loại từ ở Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX.

Về phong cách từ học và nguồn ảnh hưởng của Cổ duệ từ, trong phần mở đầu sách Vực ngoại từ tuyển, Hạ Thừa Đảo có các bài thơ luận về tác phẩm từ của các tác giả Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Về Miên Thẩm ông viết:

Nguyên văn:

前身鐵腳吟紅萼,

垂老蛾眉伴綠缸.

喚起玉田商夢境,

深燈寫泪欲枯江.

Phiên âm:

Tiền thân Thiết Cước” ngâm hồng ngạc,

Thùy lão nga mi bạn lục cang.

Hoán khởi Ngọc Điền thương mộng cảnh,

Thâm đăng tả lệ dục khô giang.

Tạm dịch:

“Tiền thân Chân Sắt”(19) ngâm mai thắm(20),

Già rủ mi cùng ang nước xanh.

Cõi mộng Ngọc Điền khơi dậy bán,

Trước đèn nhỏ lệ viết thâu canh.

Lại cho rằng Cổ duệ từ của Miên Thẩm “phong cách rơi vào khoảng Bạch Thạch, Ngọc Điền, tả diễm tình mà không tổn hại đến nét lả lướt kiều mị” (…風格在白石玉田間, 寫艷情不傷軟媚). Hạ Thừa Đảo có trích dẫn một số câu trong bài từ điệu Sơ liêm đạm nguyệt (疏簾淡月) và bài Chúc lệ điệu Tiểu đào hồng của Miên Thẩm, cho rằng các câu đó “đều rất ý vị” (皆堪玩味)(21).

Bạch Thạch tức Bạch Thạch Đạo Nhân Khương Quỳ (姜夔, 1155-1221?). Khương Quỳ tự Nghiêu Chương, sau lại lấy hiệu là Bạch Thạch Đạo Nhân, là một trong những từ gia lớn nhất thời Nam Tống, được các từ nhân đương thời xưng tụng, gây ảnh hưởng quan trọng đến các từ nhân từ thời Nam Tống đến tận thời Thanh.

Ngọc Điền là tên hiệu của từ gia Trương Viêm (張炎, 1248-1320?). Trương Viêm tự là Thúc Hạ, hiệu là Ngọc Điền và Lạc Tiếu Ông, là một từ gia lớn thời Tống - Nguyên. Ngoài ra ông còn có sách Từ nguyên, là một bộ sách lí luận từ học hết sức quan trọng. Trương Viêm đặc biệt hâm mộ tác phẩm từ của Khương Quỳ, do đó Từ nguyên chuyên luận về từ của Khương Quỳ, suy tôn từ của Khương Quỳ “Như mây nội lẻ bay, qua lại không dấu” (如野鶴孤飛, 去留無跡), “chẳng những thanh không mà còn tao nhã, đọc lên khiến người ta tinh thần bay xa” (不惟清空, 又且騷雅, 讀之使人神觀飛越), vì thế được hậu nhân gọi chung là “Khương - Trương”. Một số từ nhân đời Thanh hâm mộ tác phẩm của Khương Quỳ và Trương Viêm, coi tông chỉ làm từ của mình là “Lấy Khương Quỳ làm nhà, lấy Trương Viêm làm cửa” (家白石而户玉田). Các khái niệm như “thanh không”, “tao nhã”, “ý thú”, “chất thực”… do Trương Viêm đưa ra trong Từ nguyên dần trở thành các khái niệm công cụ trong nghiên cứu và phê bình tác phẩm từ.

Như vậy, theo cách nói của Hạ Thừa Đảo, Miên Thẩm chịu ảnh hưởng của các từ gia Khương Quỳ, Trương Viêm thời Nam Tống, hoặc chí ít phong cánh từ học của ông gần gũi với hai từ gia trên. Còn Huống Chu Di chỉ khen “các bài từ ngắn (đoản điệu) trong trẻo đẹp đẽ đáng để đọc, các bài từ dài (trường điệu) cũng có khí cách”, sau đó dẫn các bài Quy tự dao (歸自遙), 2 bài trong chùm mười bài từ điệu Vọng Giang Nam (望江南), điệu Tấm viên xuân (沁園春), bài từ điệu Ngọc lậu trì - Trở vũ dạ bạc (玉漏遲-阻雨夜泊) làm lệ chứng; cuối cùng ghi: “Miên Thẩm tự là Trọng Uyên, tước Công”, ngoài ra không bình luận gì thêm.

Trong các tác gia cung đình triều Nguyễn, Tự Đức, Miên Trinh, Miên Khoan, Mai Am… đều quan tâm đến thể loại từ ở những mức độ khác nhau, song có lẽ chỉ có Miên Thẩm và người dụng công sâu sắc nhất vào thể loại văn học này. Trong lời tựa Cổ duệ từ, ông nhắc đến hàng loạt các từ gia nổi tiếng từ thời Ngũ đại đến thời Thanh và một số tác phẩm của họ, đồng thời cũng cho biết sự quan tâm sưu tập sách về từ của mình:

“Khách có kẻ nói: Nga Hoàng xét nhạc phổ, còn tìm về được dư thanh của thời Thiên Bảo(22); Tống Duyện nghe tiếng chuông, vẫn tìm được nhạc khí cổ của Thái thường tự(23). Huống nữa sách Âm vận của Chu Đức Thanh(24), gốc ở sách Từ nguyên của Trương Thúc Hạ(25). Chú từ phổ cậy ở Khương Quỳ(26), sáng yếu chỉ nhờ vào Lục Phụ(27). Trước do Thảo Đường biên tập(28), sau thì Trúc Tra chép sao(29). Ngoài ra còn, mấy trăm nhà ngữ nghiệp(30) thời Tống - Nguyên; vài chục pho Túy biên(31) thời Minh - Thanh, không năm nào tôi không sưu tập, ngày ngày ngâm nga, tuy kĩ nữ Hà Gian cũng chưa đủ để thổi sáo đánh đàn(32), như rương nhỏ của Hành Dương, chứa đầy sách vở”(33) (Thương Sơn ngoại tập: A.781/1, quyển IV, tờ 40-42).

Về động cơ sáng tác và nguồn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tác từ, Miên Thẩm cho biết:

“Nay thiên tử: sửa sang lại lễ nhạc, giáo hóa bằng nền văn trị rực rỡ, há chỉ có cương vực mở rộng(34), mà riêng từ học(35) chẳng nhiều như như cây vực sum suê(36), còn âm nhạc cổ không nối lại được nữa chăng? Bởi thế thần đây tuy vốn biết tài năng chẳng theo kịp [người xưa], xét lời Cố quân nói cũng có chỗ phải lẽ(37). Thủy nhạc thuyết của Nguyên Thứ Sơn, không có Cung có Chủy thì cũng có hại gì đâu(38); tập Khuê Đường của Hứa Hữu Phu, đặt tên là “Khoản nãi” rất hợp(39). Cảm tạ Chân Trường hiểu lòng ta(40), tin rằng Tử Hạ phát khởi được ý ta(41). Vội phạt một chén lớn(42), đưa chân gõ mạn thuyền(43), khách gọi Tiểu Hồng(44), đáp lời khua chèo. Liền án theo 28 điệu(45) nhạc chương(46) thời Tống - Nguyên, điệu đều là bài hát của Ngư phủ(47); đọc lớn mấy ngàn lời tiểu thuyết mua vui(48), chẳng đoái đến mắt nhìn của người trời vậy” (Thương Sơn ngoại tập: A.781/1, quyển IV, tờ 40-42).

Theo cách nói đó, Miên Thẩm là người có ý hướng phát huy thể loại từ. Riêng về Tiểu Hồng (小紅), vốn là ca kĩ tài sắc của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193). Phạm Thành Đại rất yêu quý tài năng của Khương Quỳ, từng khen Khương Quỳ “văn chương nhân phẩm đều giống như các kẻ sĩ tao nhã thời Tấn-Tống” (翰墨人品皆似晉宋之雅士), do đó trở thành bạn vong niên. Mùa đông năm Thiệu Hi nguyên niên [1190], Khương Quỳ đội tuyết đến Thạch Hồ trao cho Phạm Thành Đại hai bài từ vịnh hoa mai là Ám hương (暗香) và Sơ ảnh (疏影) mới làm, Phạm Thành Đại rất yêu thích, liền tặng Tiểu Hồng cho Khương Quỳ. Trong bài thơ tứ tuyệt Quá Thùy Hồng (過垂虹, Qua cầu Thùy Hồng) của Khương Quỳ viết trong đêm trừ tịch trên đường trở về Hồ Châu có câu: “Tự trác tân từ vận tối kiều / Tiểu Hồng đê xướng ngã xuy tiêu” (自琢新詞韻最嬌 / 小紅低唱我吹簫 - Mới chuốt bài từ vần tuyệt đẹp/ Tiểu Hồng ca khẽ, ta thổi tiêu).

Trong lời tựa Cổ duệ từ, Miên Thẩm có nhắc đến sách Từ nguyên của Trương Thúc Hạ (tức Trương Viêm) cùng việc chú giải từ phổ của Khương Quỳ, cũng từng đề cập đến khái niệm “thanh không”: “Bởi bắc nam vốn xa cách, mà giọng hát bổng trầm, vốn chẳng khác đường; nhã tục năng phân, mà bút ý thanh không(49), tự nhiên cao giá”. Thêm vào đó cuối bài lại nhắc đến Tiểu Hồng, ý hướng mong muốn như Khương Quỳ thuở nào. Hạ Thừa Chú vốn là nhà từ học, khảo cứu rất sâu về Khương Quỳ và Trương Viêm, do đó khi cho rằng Cổ duệ từ của Miên Thẩm phong cách gần gũi với Khương Quỳ và Trương Viêm hiển nhiên là một nhận định đầy quyền uy. Lại như, trong lời tựa Cổ duệ từ, Miên Thẩm cũng tự nhận Cổ duệ từ của ông “án theo 28 điệu nhạc chương thời Tống - Nguyên”. Thêm nữa trong tác phẩm, ở bài từ điệu Quế chi hương để “Cảm tạ Chuyết Viên huynh nhân tặng một cành mai” (桂枝香-謝拙園兄惠梅花一枝) Miên Thẩm cũng nhắc đến hai bài từ Sơ ảnh và Ám hương của Khương Quỳ, đủ thấy sáng tác của ông chịu ảnh hưởng của Khương Quỳ và Trương Viêm là điều hết sức rõ ràng.

Phạm Văn Ánh

Viện Văn học

Chú thích:

(1). Phan Văn Các: Cổ duệ từ - khúc hát gõ mái chèo, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 1999, tr.3.

(2). Lương Sằn Dư (梁莘畬): chữ “畬” có hai âm là “Dư” và “Xa”, khi đi với chữ “Sằn莘” thì phiên là “Dư” hợp lí hơn. Tuy nhiên, cũng tên nhân vật này trong Vực ngoại từ tuyển in là “梁萃畬”, theo đó có thể phiên là “Lương Tụy Dư” và “Lương Tụy Xa” (Xem các bộ vận thư: Đường vậnTập vận).

(3). Bản dịch này công phu, nhưng tiếc là chưa được toàn mĩ vì một số bài từ ngắt câu chưa thực chuẩn.

(4). Phan Văn Các, sđd, tr.17-19.

(5). Lí Tề Hiền là người Triều Tiên, có thể coi là danh gia từ học Triều Tiên, sáng tác dưới ảnh hưởng từ phong của Tô Đông Pha và Nguyên Hiếu Vấn. Tuy nhiên do ông ta sống nhiều năm ở Trung Quốc nên trong một số sách của Trung Quốc, nhất là các sách về thể loại từ thường coi ông là tác giả từ Trung Quốc.

(6). Phan Văn Các, sđd, tr.19.

(7). Xem chú thích 2 ở trên.

(8). Trần Nghĩa: “Cổ duệ từ của Miên Thẩm dưới dạng toàn vẹn của nó”, in trong Thông báo Hán Nôm năm 2001, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 2002, tr.385-392.

(9). Tên nhân vật này ở bản Vực ngoại từ tuyển in là Dư Đức Nguyên (余德源)

(10). Dịch từ Từ học quý san, số 2, quyển 3, tr.102-123.

(11). Hạ Thừa Đảo: Vực ngoại từ tuyển, Thư mục văn hiến xuất bản xã, 1981, tr.155.

(12). Huống Chu Di: Huệ Phong từ thoại (quyển 5), Nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1960, tr.124.

(13). Phạm Văn Ánh: “Bài tựa Cổ duệ từ của Miên Thẩm”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, năm 2010.

(14). Hạ Thừa Đảo, sđd, tr.1.

(15). Trần Nghĩa: Bđd, tr.385-392.

(16). Hà Thiên Niên (何仟年, Trung Quốc): “Điền từ  từ học ở Việt Nam - Một [nghiên cứu] trường hợp về thể loại văn học trong bối cảnh di thực của văn hóa Hán (越南的填詞及詞學- 漢文學移植背景下的文体案例), đăng trên Học báo Đại học Quảng Tây (廣西大學學報), số tháng 6 năm 2008, tr.109.

(17). Từ tập còn lại là Mộng Mai từ lục của Đào Tấn. Từ tập này chép lẫn nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, theo giám định, nhiều nhất chỉ có 17/60 tác phẩm trong từ tập này là của Đào Tấn (Xem: Phạm Văn Ánh: “Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục”Tạp chí Văn học, số 9 năm 2009 và “Thêm một số lưu ý về Mộng Mai từ lục của Đào Tấn”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (106) - 2011).

(18). Theo khảo sát của chúng tôi đến thời điểm hiện nay, các tác giả từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII hiện còn khoảng 91 tác phẩm từ, viết theo 58 điệu.

(19). Mấy chữ “Tiền thân có bàn chân sắt” trong bài thơ của Hạ Thừa Đảo, vốn lấy ý từ bài Sơ liêm đạm nguyệt vịnh hoa mai của Miên Thẩm: “…Bản lai diện mục / Quân ưng tri ngã / Tiền thân thiết cước” (Bản lai diện mục / Người nên biết tớ / Tiền thân chân sắt). “Chân sắt” (Thiết cước) tức Thiết Cước đạo nhân, tương truyền là một vị đạo sĩ thời cổ, thích ăn hoa mai với tuyết, có người hỏi lí do, ông nói: “Ta thích cái lạnh của tuyết và hương thơm của hoa mai ngấm vào tận phế phổi”.

(20). Mai thắm: dịch từ chữ “hồng ngạc”. Theo logic bài thơ, trước nó đến Thiết Cước đạo nhân là người thích ăn hoa mai, nên “Hồng ngạc” ở đây chỉ hoa mai. Bài từ điệu Nhất ngạc hồng của Khương Quỳ có câu: “Cổ thành âm / Hữu quan mai kỉ hứa / Hồng ngạc vị nghi trâm” (Dưới bóng thành cổ, có mấy cây mai trong phủ quan / Nụ thắm chưa thích hợp để cài lên mái tóc).

(21). Hạ Thừa Đảo, sđd, tr.4.

(22). Thiên Bảo: niên hiệu của Đường Huyền Tông (từ 742 đến 756). Nga Hoàng là vợ của Nam Đường hậu chủ Lí Dực (từ gia kiệt xuất thời Ngũ đại). Trước đó, Đường Huyền Tông từng chế ra khúc Nghê Thường vũ y, song trải thời gian, đến thời Ngũ đại thì mai một. Nhạc phổ tàn khuyết của bản Nghê Thường vũ y rơi vào tay Lí Dực, sau được Nga Hoàng bổ sung, chỉnh lí và cho diễn tấu.

(23). Tống Duyện: người thời Đường. Theo Thái Bình quảng kí: Thái thường lệnh Tống Duyện những người rành âm nhạc, đời gần đây không ai sánh bằng. Thái thường tự bị mất điệu “Chủy”, Thẩm Duyện tra cứu âm luật của chuông mà tìm lại được.

(24). Chu Đức Thanh (1277- 1365): người thời Nguyên, tác giả của sách Trung nguyên âm vận.

(25). Trương Thúc Hạ: tức Trương Viêm (1248-1319?), từ gia thời Tống - Nguyên, tác giả sách Từ nguyên (gồm 2 quyển, 29 mục, khảo về lã luật, từ nhạc; bàn về phong cách, đặc trưng thể loại…).

(26). Khương Quỳ (1155-1221): từ gia nổi tiếng thời Nam Tống. Nhà từ luận Vương Quốc Duy trong Nhân gian từ thoại đánh giá rất cao về Khương Quỳ, cho là: từ nhân xưa nay giỏi về cách điệu không ai bằng Bạch Thạch đạo nhân - Khương Quỳ.

(27). Lục Phụ: từ nhân thời Nguyên, tác giả sách Từ chỉ, tương tự như thầy mình là Trương Viêm, ông cũng đánh giá rất cao về tác phẩm từ của Khương Quỳ. Từ chỉ là sách chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi bộ Từ nguyên của Trương Viêm.

(28). Thảo Đường: tên hiệu của từ gia Chu Mật (1232-1298) thời Nam Tống, tác giả sách Thảo Đường vận ngữ, 6 quyển.

(29). Trúc Tra: tên hiệu của Chu Di Tôn (1629-1709), từ gia nổi tiếng thời Thanh.

(30). Nhà ngữ nghiệp: tức các từ gia. Ngữ nghiệp là một tên gọi khác của thể loại từ. Theo Vương Chước trong Bích kê mạn chí (quyển II), “Trần Vô Kỉ (tức từ gia Trần Sư Đạo) sáng tác mấy chục bài [từ], gọi là ngữ nghiệp”.

(31). Túy biên: tức Hoa Đường túy biên, là một tuyển tập từ do Trần Diệu Văn thời Minh tuyển chọn và biên tập, gồm 12 quyển, chủ yếu tuyển tác phẩm từ thời Đường - Tống, thảng hoặc có chọn thêm một số ít tác phẩm từ thời Nguyên.

(32). Theo Lạc Dương thành tây Già lam kí của Dương Huyễn Chi, Hà Gian vương là Sâm có đến 3 trăm kĩ nữ, thảy đều là hạng sắc nước hương trời.

(33). Hành Dương vương tên là Quân ở nước Tề thường tự tay viết bộ Ngũ kinh nhỏ, cho vào rương nhỏ, để tiện cho việc đọc sách.

(34). Cương vực: nguyên văn là “Bức viên 幅隕”. Chữ “viên 隕”, nguyên bản khắc nhầm bộ “phụ 阜” thành bộ “cân 巾”. Hai chữ “Bức viên” lấy chữ từ thơ Trường phát trong phần Thương tụng của Kinh Thi: “Ngoại đại quốc thị cương / Bức viên kí trường 外大國是疆 / 幅隕既長”, nghĩa là: Lấy các nước chư hầu bên ngoài làm biên giới / Cương vực đã rộng lớn.

(35). Từ học: ban đầu chỉ sự học về từ chương nói chung, đến thời Minh - Thanh mới chuyên chỉ việc điền từ. Điền Đồng Chi thời Thanh trong tác phẩm Tây phố từ thuyết cho rằng cái đạo ỷ thanh (điền từ), nhân “cung điệu thất truyền, từ học cũng dần rối loạn vậy”. Các học giả Trung Quốc từ thời cận đại trở đi còn coi từ học là một lĩnh vực học thuật chuyên biệt, lấy từ và các vấn đề hữu quan của nó làm đối tượng nghiên cứu.

(36). Cây vực sum suê: nguyên là “Vực bốc”, nghĩa là cây vực mọc thành bụi đan xen vào nhau, cũng là tên một bài trong phần Đại nhã của Kinh Thi, ca ngợi thịnh đức của vua Văn Vương nhà Chu; cũng có khi dùng chỉ hiền tài đông đúc.

(37). Cố quân: chỉ Cố Ung, người thời Tam quốc. Mục Cố Ung truyện, trong phần Ngô chí sách Tam quốc chí ghi: “Cố quân không nói [thì thôi], đã nói ắt là trúng”. Bùi Tùng Chi chú dẫn Giang Biểu truyện của Ngu Phổ thời Tấn rằng: “Tôn Quyền nói: Cố công vui mừng, việc này hợp lẽ vậy; như ông ta không nói thì việc này chưa ổn thỏa, quả nhân cần xem xét lại đã.

(38). Nguyên Thứ Sơn: tức Nguyên Kết (919-772), người thời Đường, tự là Thứ Sơn, hiệu là Mạn Tẩu. Tác phẩm có Thủy nhạc thuyết. Nhận xét về tác phẩm này, từ gia Nguyên Hiếu Vấn thời Kim cho là: “Thử xem Thủy nhạc thuyết của Nguyên Kết thời Đường: vốn chẳng có âm hưởng của Cung, Chủy, nhưng cũng tự thành thứ nhã nhạc tự nhiên giữa khoảng mây núi”.

(39). Hứa Hữu Phu: từ gia thời Nguyên, cùng Hứa Hữu Nhâm soạn sách Khuê Đường Khoản nãi tập (2 quyển).

(40). Chân Trường: tức Lưu Chân Trường. Thế thuyết Tân ngữ dẫn lời của Vương Trọng Tổ nói: “Chân trường hiểu ta, còn hơn ta tự hiểu về mình”.

(41). Thiên Bát dật sách Luận ngữ ghi: Tử Hạ hỏi [Khổng Tử]: “Nét cười tươi quyến rũ, cặp mắt đẹp rạng ngời, trên nền trắng vẽ nên bức họa nhiều màu sặc sỡ, là nghĩa thế nào? Khổng Tử đáp: phải có nền trắng rồi sau mới vẽ nên bức tranh. Thưa: [Ý nói] lễ là cái có sau chăng? Khổng Tử khen: Phát khởi được ý ta chính là trò Thương vậy. Thương có thể bắt đầu cùng ta nói về Thi rồi đó”.

(42). Nguyên văn là “phù đại bạch”. Theo Thuyết uyển của Lưu Hướng, Nguỵ Văn hầu cùng các đại thần uống rượu, có đưa ra quy định, ai không cạn chén thì bị phạt một chén lớn. “Phạt một chén lớn”, nguyên phải nói là “phạt nhất đại bôi 罰一大杯”, nhưng vì rượu đã ngà ngà nên nói nhịu thành “phù nhất đại bạch 浮一大白”.

(43). Lấy ý từ Li tao của Khuất Nguyên, ngư phủ gõ mạn thuyền hát: Sông Thương Lang trong xanh chừ, ta giặt dải mũ; sông Thương Lang ngầu đục chừ, ta rửa chân.

(44). Tiểu Hồng: ca kĩ của Phạm Thành Đại, sau Phạm Thành Đại tặng lại cho Khương Quỳ.

(45). 28 điệu: Các cung điệu âm nhạc, như: chính cung, cao cung, trung lã cung, đạo điệu cung, nam lã cung, tiên lã cung, hoàng chung cung… Nguyên chú ghi: “phàm cái gọi là ‘tục nhạc’ gồm 28 điệu”.

(46). Nhạc chương: đây dùng với nghĩa là thể loại từ.

(47). Bài hát của Ngư phủ: từ tập này của Miên Thẩm mang tên là “Cổ duệ từ”, nghĩa là tập từ của người gõ mái chèo, lấy ý từ Li tao của Khuất Nguyên. Trong từ cũng có điệu Ngư phủ, là điệu từ rất nổi tiếng, được sáng tác từ thời Đường (như chùm từ điệu Ngư phủ của Trương Chí Hòa thời Đường ảnh hưởng lan tỏa sang cả Nhật Bản), thường dùng viết về cuộc sống ẩn dật.

(48). Tiểu thuyết mua vui: nguyên văn là “bài ưu tiểu thuyết”, một thể loại văn học có tính chất hài hước. Qua cách nói này, có thể thấy cho dù rất dụng công trong việc điền từ song Miên Thẩm vẫn coi từ là thể loại văn học giải trí, không có vị trí trang trọng như thơ ca nói chung.

(49). “Bút ý thanh không” được thể hiện trong Cổ duệ từ như thế nào đòi hỏi những phân tích sâu, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.62-79, phiên bản trực tuyến, ngày 24.2.2015.

Cách Chùa Cầu Hội An về phía Bắc chừng hơn 100m, trên trục đường Phan Châu Trinh, dưới một gốc đa cổ thụ, tán lá sum sê, xanh nghít có một tấm bia bùa. Gọi là bia bùa vì nó là một tấm bia đá, trên có khắc một đạo bùa hay gọi là một đạo thần phù. Tấm bia bùa là phát hiện của các nhà nghiên cứu Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp. Tấm bia và công trình Chùa Cầu Hội An có những mối quan hệ nào không?

Chùa Cầu – lịch sử và truyền thuyết

Khi nhắc đến Chùa Cầu thì dường như người Hội An nào cũng nhớ đến một tương truyền về mối bang giao hữu hảo lâu đời giữa xứ sở Phù Tang xa xôi với xứ Đàng Trong của các chúa Nguyễn từ thế kỷ 16; nhớ đến mối lương duyên của chàng thương nhân Nhật Bản Araki (Hoàng Mộc Tông Thái Lang ở Nagasaki) và công nương Ngọc Hoa, con gái nuôi của chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635); và nhớ đến truyền thuyết về một con thuỷ quái (Linh Cù) rất to lớn, nằm sâu trong lòng đất; đầu ở Ấn Độ, lưng ở Việt Nam, đuôi ở Nhật Bản, mỗi khi con linh Cù khó ở, cựa mình, quẫy đuôi thì Nhật Bản bị động đất, sóng thần…

Những câu chuyện ấy đã thêu dệt nên truyền thuyết về sự ra đời của Chùa Cầu Hội An – (người ta cho rằng) Chùa Cầu Hội An là nơi thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ, trông như một thanh gươm của ngài Bắc Đế Trấn Vũ cắm sâu vào lưng con thủy quái để trấn yểm không cho nó cựa quậy mà gây họa cho nhân gian. Nếu chỉ nhìn phần nổi lên trên mặt nước của Chùa Cầu từ xa, ta có thể thấy Chùa Cầu như phần chuôi của một thanh gươm đang cắm sâu vào lòng đất. Nhưng khi đọc những bi ký trùng tu, liễn đối hoành phi và xà cò của Chùa Cầu ta không hề tìm thấy dấu hiệu nào nói về sự trấn yểm này.

Chùa Cầu và tấm bia bùa ở Hội An - 6

Chùa Cầu Hội An còn có tên gọi khác là cầu Nhật Bản, nhưng nó có phải là kiến trúc của người Nhật không thì chưa rõ. Chỉ biết trong tấm bia đá “Trùng tu Lai Viễn Kiều” ghi lại công việc sửa chữa vào năm Đinh Sửu (1817) đời Gia Long như sau: “Minh Hương Hội An phố giới ư Cẩm Phô hữu (một số chữ bị mất) khê hữu kiều cổ dã tương truyền Nhật Bản nhân sở tác, kinh phụng” (Địa giới phố Minh Hương Hội An ở Cẩm Phô có (một số chữ bị mất) khe, có cầu, ngày xưa cũng tương truyền rằng người ở nước Nhật Bản đã phụng cúng kinh tài để dựng nên – Huỳnh Dõng dịch).

Chùa Cầu là một công trình kiến trúc cổ trên chùa dưới cầu. Chùa Cầu được xây dựng khoảng thế kỷ thứ 17 trong 3 năm từ năm Thân đến năm Tuất (người ta nói như thế là vì ở hai mố cầu Đông – Tây có đặt hai cặp linh thú bằng gỗ Khỉ – Chó), Chùa Cầu còn có tên Lai Viễn Kiều, do chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đặt từ năm 1719. Theo niên đại ghi ở xà cò và văn bia, thì Chùa Cầu đã được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986, vì thế, mà dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, và đậm phong cách Việt, Hoa hơn.

Chùa Cầu Hội An là một công trình kiến trúc cổ rất độc đáo. Gọi là chùa nhưng không thờ Phật mà thờ thần. Điều này khá phổ biến ở Hội An. Ngoài các chùa thờ Phật có lâu đời của thiền phái Phật giáo Lâm Tế, thì hầu hết các hội quán của người Hoa, nơi thờ các vị thần đều được gọi là chùa như chùa Phúc Kiến (Kim Sơn tự), chùa Hải Nam, chùa Ông…

Chùa Cầu và tấm bia bùa ở Hội An - 1

Thác bản của tấm bia bùa

Tấm bia bùa và Chùa Cầu Hội An là 2 di tích nằm cách xa nhau, không cùng nằm trong một quần thể. Giữa 2 di tích này có mối quan hệ nào không? Và Chùa Cầu có trước bia bùa hay cùng niên đại? Và mỗi di tích ấy có ý nghĩa gì? Và có mối quan hệ gì đến cấu trúc tâm lý và văn hóa tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa và ngoại kiều cư trú tại thương cảng cổ Hội An trong thời đại này? Trả lời và nhận thức được những vấn đề trên quả thật là một điều lý thú.

Bia bùa – mô tả và phân tích

Bia là một tấm đá có kích thước khoảng 0,5m x 1,0m. Không ghi niên hiệu.

Bên trái bia là hình vẽ của chòm sao Bắc Đẩu, một chòm sao sáng nhất trong chòm Đại Hùng (phương Bắc) ngư dân gọi là sao Bánh Lái, nông dân gọi là sao Cái Gàu (hình giống gàu sòng) chòm có 7 ngôi sao:

  1. Thiên Xu (Tham Lang)
  2. Thiên Tuyền (Cự Môn)
  3. Thiên Cơ (Lộc Tồn)
  4. Thiên Quyền (Văn Khúc)
  5. Ngọc Hoành/ Thiên Hành (Liêm Trinh)
  6. Khai Dương (Vũ Khúc)
  7. Dao Quang (Phá Quân)

Giữa bia có hàng chữ Hán lớn: Bắc Đế sắc lệnh lập cực ngự phong yểm thuỷ đạo (Bắc Đế sắc lệnh lập điểm này để chống gió bão và chặn dòng nước dữ).

Bên phải bia là câu thần chú của đạo Phật Mật tông, dịch ra Hán ngữ: ÁN MA NI BÁT MÊ HỒNG – Tiếng gầm thét làm kinh hồn yêu quái (Câu thần chú này rất phổ biến).

Dưới cùng, tấm bia có 3 chữ Hán “Thái Nhạc Sơn” (hay còn gọi là Thái Nhạc, Thái Sơn, Chung Nam Sơn là hòn núi lớn nhất trong Ngũ nhạc của Trung Hoa (năm ngọn núi), là tổ địa của Toàn Chân giáo, Võ Đương phái, một phái võ truyền thừa của Đạo giáo Trung Hoa). Học thuyết của Đạo gia là “hành vô vi”, quan niệm về vũ trụ là theo thuyết Thái cực, Ngũ hành (tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ), tu luyện thuận theo lẽ tự nhiên, các đạo sĩ thường quan tâm đến luyện linh đơn để giúp con người trường sinh, luyện bùa chú để hàng trừ tà ma, yêu quái.

Nền văn hóa tâm linh như bốc quẻ, coi ngày, chiêm tinh, bói toán, tính ngày tháng tuổi tác, xung khắc âm dương, ngũ hành của Việt Nam phần lớn ảnh hưởng từ nền văn hóa Đạo giáo này. Hiện nay ở Hội An, nền văn hóa này chỉ tồn tại qua các hoạt động tâm linh như: xin xăm, xin bùa, coi ngày cưới gả, xây nhà, xây mộ, tục đốt vàng mả, cúng ông Táo, dựng cây nêu,… chứ không tồn tại đầy đủ một nền văn hóa tín ngưỡng như Phật giáo hay Khổng giáo.


20210322 7

Tấm bia bùa rất nhỏ nằm khuất kín dưới một gốc cây đa cổ thụ, được các nhà nghiên cứu Viện Viễn Đông Bác Cổ thu rập lưu trữ thác bản, chưa lý giải gì về mối quan hệ giữa tấm bia bùa với Chùa Cầu Hội An. Nội dung và hình vẽ bùa chú trên tấm bia nói lên điều gì về mối quan hệ giữa nó với Chùa Cầu Hội An, về quan niệm tâm linh và văn hóa tín ngưỡng của những cư dân Việt bản xứ và các ngoại kiều Hoa, Nhật ở Hội An xưa. Nói như nhà Tâm lý học trí khôn Piaget (Thụy Sĩ): “Chiếc bình cổ chứa đựng một nền văn minh”, qua tấm bia bùa này và Chùa Cầu Hội An, ta sẽ nhận thức được gì về nền văn hóa tâm linh của người Hội An xưa.

Theo tương truyền, mùa lũ lụt, phía Bắc Hội An có nhiều dòng nước xoáy theo con lạch nhỏ cứ đổ ra sông Thu Bồn, làm sụt lở đôi bờ của 2 phố Hoa và Nhật, giống như có con thuỷ quái (Linh Cù) hay giao long quậy phá làm ảnh hưởng đến sự giao thương qua lại giữa 2 bờ, nên phải xây dựng chiếc cầu bắc qua, đắp đê be bờ và làm thêm biện pháp tâm linh là trấn yểm thuỷ quái.

Tấm bia và nội dung của nó bao gồm những hình vẽ phù chú, bí ẩn; sắc lệnh của Bắc Đế và một câu thần chú của Phật giáo Mật tông dùng sức mạnh của hành thổ để khắc chế hành thuỷ, còn vẽ các đạo thần phù (bùa) trấn yểm yêu quái của đạo Lão. Trên những tấm đạo phù có viết các chữ nói về ngũ hành như mộc, hỏa, thổ (mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thuỷ, các chữ nhật, nguyệt, tinh để chỉ về các hiện tượng mưa gió…).

Chùa Cầu và tấm bia bùa ở Hội An - 5

Một hiện tượng văn hóa cần được nghiên cứu

Như chúng ta biết, một hiện tượng văn hóa thường hay được gắn liền với một truyền thuyết hay một tương truyền lịch sử nào đó về xuất xứ của nó. Đó cũng là phương thức định danh cho các hiện tượng văn hóa. Khi người ta chưa biết rõ nguồn gốc xuất xứ của một hiện tượng văn hóa, một di tích lịch sử, một phong tục tập quán,… thì một truyền thuyết, một tương truyền, một câu chuyện cổ tích ra đời để lý giải về điều đó.

Truyền thuyết về Chùa Cầu Hội An và thanh gươm yểm trừ thủy quái Linh Cù của Bắc Đế Trấn Vũ không nằm ngoại lệ. Bằng phương pháp khoa học nào mà con người biết được Linh Cù to lớn nằm vắt qua 3 quốc gia Ấn, Việt, Nhật? Hay đó là cách giải thích cho lý do xây dựng một chiếc cầu bắc qua con kênh lộ giới giữa phố Minh Hương, Hội An – Cẩm Phô và dựng một tấm bia bùa trên một gò đất đầu dòng khe nhỏ nơi cửa ngõ đổ nước của những cái hồ rộng lớn phía Tây Bắc của Chùa Cầu, cũng là nơi mà tập trung nhiều nhất những thương khách người Chà Và (Ấn Độ), Nhật Bản, Khách trú (Trung Hoa) đang làm ăn buôn bán giao thương với cộng đồng người Việt bản xứ.

Chùa Cầu và tấm bia bùa ở Hội An - 3Lai Viễn Kiều

Phía Tây Bắc của phố cổ Hội An là một vùng trũng, có nhiều hồ, đầm, nước từ những nơi cao đổ về các vùng trũng này rồi chảy theo dòng khe ra sông Hội An. Chính vì thế, việc lưu thông, giao thương giữa Minh Hương và Cẩm Phô bị chia cắt bởi dòng khe này. Các thương dịch từ bến Cẩm Phô, Điện Bàn, Duy Xuyên, Trà My, Phước Sơn… đến phố cảng Hội An gặp nhiều trở ngại. Cho nên nó chính là nguyên do để xây dựng Chùa Cầu Hội An, Lai Viễn Kiều (Cầu đi lại, dành cho khách viễn lai, qua lại giao thương, mậu dịch). Đó mới là mục đích chính để xây dựng Chùa Cầu.

Từ ban sơ, Chùa Cầu được xây dựng không nhằm mục đích trừ yểm thủy quái Linh Cù. Bia bùa trên gò bờ Tây Bắc dòng khe và tẩm thờ Bắc Đế Trấn Vũ là 2 công trình xây dựng sau khi Chùa Cầu đã hoàn thành. Điều này cũng lý giải, người xưa đã bắt đầu xây dựng Chùa Cầu từ hướng Tây, phía bờ Cẩm Phô trước vì đó là nơi tập kết, vận chuyển vật liệu đá gỗ thuận tiện hơn. Cầu bắt đầu xây từ đầu năm Thân (khỉ) đến cuối năm Tuất (chó) mới hoàn thành. Nhìn hướng đặt 2 cặp linh vật khỉ – chó trên 2 đầu cầu, ta cũng dễ dàng lý giải được điều đó.

Tấm bia bùa phải chăng là kịch bản tâm linh để giải quyết câu chuyện truyền thuyết về con thủy quái Linh Cù, trấn an tâm lý, cũng là một biện pháp giải thích lý do của việc trấn yểm với nhân dân và quan lại ở địa phương (người xưa rất sợ phong thủy và trấn yểm). Nó hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết về Bắc Đế Trấn Vũ.

Bắc Đế Trấn Vũ còn gọi là Bắc Đế Tinh Quân, huý danh là Chấp Minh là vị thần cai quản chòm sao Bắc cực, thống trị phương Bắc, Ngài là vị thần của Đạo giáo, kiêm quản lý các loài thuỷ tộc, theo hầu ngài là 2 tướng quy, xà (rùa, rắn) và Ngũ long thần tướng, tượng trưng cho sự trường tồn và sức mạnh siêu nhiên.

Nó cũng phù hợp trong cách lý giải của chúng ta về một Hội An, một thương cảng quốc tế sầm uất từ thế kỷ 16, nơi hội tụ và giao lưu, tiếp nhận nhiều nền văn hóa trên thế giới, nhất là nói về vấn đề Tam giáo đồng nguyên Phật, Lão, Nho đồng nhất trong quan niệm tín ngưỡng của người Việt xưa.

Qua những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng ta đã có thể nhận thức được một đời sống rất phong phú của người Hội An. Không chỉ là một giai đoạn văn minh trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, mà phong phú cả trong đời sống văn hóa, tâm linh.

Truyền thuyết về Chùa Cầu và tấm bia bùa, dân gian gọi là “Ông Bùa”, ta có thể thấy cư dân Hội An từ rất lâu đời đã có niềm tin rất lớn vào phong thuỷ, về tâm linh, thậm chí ngay cả cách đặt tên cho một vùng đất, gởi tâm niệm cầu nguyện cho một đời sống bình yên như cái tên Hội An rất thân thương.

Chùa Cầu và tấm bia bùa ở Hội An - 4Tẩm thờ Bắc Đế Trấn Vũ

Tẩm thờ Bắc Đế Trấn Vũ ở Chùa Cầu, tấm bia bùa cùng với truyền thuyết về nó là những dấu vết của văn hóa tâm linh này còn lưu lại ở Hội An, một thành phố cổ đã được công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, đáng được trân quý và bảo tồn bền vững. Các cấp quản lý cũng nên quan tâm đến một không gian trân trọng dành riêng cho tấm bia bùa, đừng để lu lấp như hiện nay và cũng nên có nhiều nghiên cứu kết nối hai địa chỉ văn hóa trên trong tổng thể của công tác bảo tồn di sản văn hóa của Hội An.

Huỳnh Dũng

Nguồn: Doanh Nhân Plus, ngày 03.3.2021.

20200426 3

Cuốn từ điển song ngữ Hán Việt cổ nhất hiện còn là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa 指南玉音解義 (CNNAGN)lâu nay vẫn được coi là một nguồn tài liệu quý hiếm để khai thác tư liệu cho các lĩnh vực nghiên cứu về khoa học xã hội. Mặc dù đã được nhiều người quan tâm khai thác, nghiên cứu nhưng đến nay thấy vẫn còn những vấn đề về văn bản và giá trị của cuốn từ điển cần phải làm sáng tỏ thêm. Những vấn đề chúng tôi muốn trình bày trong bài viết này là về niên đại và thể thơ lục bát trong cuốn từ điển CNNAGN.

1. Về văn bản của CNNAGN

Chúng tôi muốn trình bày thêm về văn bản của CNNAGN vì nó liên quan đến sự xuất hiện của thể thơ lục bát cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV.

Cho đến nay, số lượng dị bản CNNAGN hiện còn vẫn là 7 văn bản trong đó có 5 bản khắc in và 2 bản chép tay. Các bản in gồm:

- Bản lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.372.

- Bản tại tư gia PGS.TS Ngô Đức Thọ

- Bản tại tư gia GS. Nguyễn Tài Cẩn

- Bản tại tư gia ông Phùng Uông

- Bản tại Thư viện Société Asiatique (Hội Á châu, Paris), ký hiệu HM.2225.

Hai bản chép tay là: bản ký hiệu AB.163 do Viện Viễn đông Bác cổ thuê chép; bản ký hiệu VNv.201 tiếp thu từ thư viện Long Cương của Cao Xuân Dục. Đã có nhiều nhà nghiên cứu xưa, nay đề cập đến văn bản CNNAGN như: Nguyễn Văn San (1880), Sở Cuồng Lê Dư (1932), Trần Văn Giáp (năm 1968), Đào Duy Anh (1985), Trần Xuân Ngọc Lan (1985), Lê Văn Quán, Ngô Đức Thọ (2006),... Mỗi người đề cập đến CNNAGN ở một góc độ khác nhau và ai cũng có đề cập đến vấn đề niên đại văn bản. Điều mà mọi người cùng quan tâm là vấn đề năm "năm Tân Tỵ" ở dòng cuối cùng của bài tựa chữ Hán. Ý kiến gần đây nhất, năm 2006, cho rằng CNNAGNcó niên đại năm Tân Tỵ 1401. Chúng tôi cũng có một số bài tạp chí và tham luận Hội nghị Thông báo Hán Nôm học có nội dung xung quanh vấn đề văn bản của CNNAGN(1). Gần đây, trong bản tham luận Một chứng tích về sự xuất hiện của thể thơ lục bát thời kỳ đầu, kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2011 (tr.796-804), chúng tôi mới chỉ trình bày thông báo một cách tóm lược ý kiến của mình về văn bản CNNAGNliên quan đến thể thơ lục bát.

2. Tên sách Chỉ nam phẩm vựng 指南品彙 (CNPV) và CNNAGNlà tên của một bộ sách qua các lần truyền bản khác nhau. Ở bộ sách từ điển này cần có sự phân biệt rạch ròi về mặt niên đại và tính chất văn bản khi nó mang tên gì. Có như vậy mới thấy hết được những giá trị tiềm ẩn trong văn bản tác phẩm.

Trong các bài tham luận đăng tải trên Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học chúng tôi đã trình bày khá rõ ý kiến của mình về mối quan hệ giữa tên sách ngoài bìa CNNAGNvà tên sách ghi trong 2 bài tựa đầu sách Chỉ nam 指南, CNPV. Bài tựa Nôm gọi quyển Chỉ nam 指南(Bèn dọn quyển Chỉ nam này) là nói tắt tên sách CNPV, tên này được ghi rõ trong bài tựa chữ Hán. Tên sách CNNAGNlà tên gọi sau khi nhà sư nào đó đã từ sách CNPV "lựa lọc từng chữ, chua âm đọc, giải nghĩa đen từng chữ, tay viết thành quyển sách". Bởi vậy niên đại của sách CNPV và CNNAGNlà ở hai thời điểm khác nhau. Hơn nữa nếu đọc qua 2 bài tựa sẽ thấy tiếp theo là phần mục lục đề CNNAGNvà hết phần mục lục đến phần nội dung từ điển thì thấy ngay dòng chữ Trùng thuyên Chỉ nam phẩm vựng dã đàm tịnh bổ di đại toàn 重鐫指南品彙野談并補遺大全. Thiết tưởng dòng chữ này đã nói rõ sự trùng thuyên và bổ di của CNNAGN.

3. CNPV có phải có từ thời Sĩ Vương ?

Trong bài tựa chữ Hán có đoạn nói về quyển CNPV: "... Chí ư Sĩ Vương chi thời, di xa tựu quốc, tứ thập dư niên, đại hành giáo hóa, giải nghĩa Nam tục, dĩ thông chương cú, tập thành quốc ngữ thi ca, dĩ chí hiệu danh, vận tác Chỉ nam phẩm vựng, thượng hạ hai quyển, học giả nan tường... 至於士王之時移車就國四十餘年大行教化解義南俗以通章句 tập 成國語詩歌以成號名韻作指南品彙上下二卷學者難詳 ..." (Đến mãi thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta, trong khoảng hơn 40 năm, đem giáo hóa phổ biến khắp nơi, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, để ghi tên gọi, ghép vần làm thành sách CNPV, chia ra thượng hạ hai quyển, nhưng người học khó hiểu rõ được... - Trần Văn Giáp dịch)(2). Ở đoạn này, bài tựa chữ Hán cho thông tin: sách Chỉ nam phẩm vựng được làm từ thời Sĩ Vương. Mà ta biết Sĩ Vương là tên gọi tôn xưng của Sĩ Nhiếp, người thời Đông Hán sang làm Thái thú quận Giao Chỉ từ năm 187. Vì có công khai hóa, mở mang, mở trường dạy chữ Hán cho dân nên được dân yêu quý tôn gọi là Sĩ Vương, là "Nam Giao học tổ". Cũng chính từ thông tin này, một số người cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp. Đó là Nguyễn Văn San (1880), Sở cuồng Lê Dư (1932) rồi sau này là Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Hoàng Trọng Miên, Nghiêm Toản... Hiện nay với nhiều thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm và tiếng Việt cổ đã cho phép phủ nhận điều đó. Chữ Nôm có thể được hình thành sớm hơn nhưng chỉ có thể thành một hệ thống văn tự ở thế kỷ XII. Bởi vậy theo chúng tôi, nếu CNPV có từ thời Sĩ Nhiếp thì đó cũng chỉ là một công trình giống như sách An Nam dịch ngữ 安南譯語và phải đến thế kỷ XIII-XIV, CNPV mới có khả năng có phần giải nghĩa bằng chữ Nôm. Chữ Nôm lúc này sẽ có tự dạng của chữ Nôm thời sơ kỳ, ghi tiếng Việt cổ khi còn rất đậm yếu tố tiền âm tiết và thành tố thứ nhất của tổ hợp phụ âm đầu, đó là dạng chữ Nôm dùng 2 mã chữ Hán riêng biệt để ghi một tiếng Việt, loại chữ này xuất hiện ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển chữ Nôm(3). Bản CNNAGNđã được một nhà sư "dọn", "lựa lọc" từng chữ và hoàn thành vào khoảng cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII. Chúng tôi cho đó là một cuộc "cách mạng" về văn tự, tức là có sự loại bỏ những yếu tố rườm rà không còn chức năng văn tự trong chữ Nôm (ở đây là quá trình loại bỏ mã chữ thứ nhất trong loại chữ Nôm cổ dùng 2 mã chữ tách rời để ghi một tiếng Việt). Cứ theo như trong bài tựa chữ Hán thì CNPV có từ thời Sĩ Vương, điều có cũng có thể bởi vì dấu vết của chữ Hán cổ còn lại rất đậm trong văn bản. Có lẽ chưa thấy một văn bản nào có hiện tượng này. Chúng tôi cho rằng vì mãi đến giữa thế kỷ XVIII người ta mới "dọn" quyển CNPVthời đó nhìn vào thứ chữ lạ cách hàng 4, 5 thế kỷ sẽ không khỏi cảm nhận là sách có từ thời rất xa xưa, từ thời Sĩ Nhiếp. Nhưng những dấu vết còn lại của chữ Nôm và tiếng Việt cổ trong bản CNNAGNlà những chứng tích của truyền bản CNPV ở thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV như chúng tôi đã trình bày trước đây. Cho đến nay, đã có thêm cứ liệu do Ngô Đức Thọ cung cấp để có thể đi đến nhận định rằng CNNAGNlà kết quả của việc "dọn", "lựa lọc"... từng chữ từ một truyền bản CNPV ở thời nhà Hồ, đời Hồ Hán Thương. Chúng tôi sẽ trình bày rõ điều này ở phần sau.

4. Về dòng niên đại ghi ở cuối bài tựa chữ Hán và vấn đề "năm Tân Tỵ"

Ở đầu sách CNNAGNcó 2 bài tựa: bài đầu tiên viết bằng chữ Nôm theo thể thơ song thất lục bát và lục bát. Bài thứ 2 tiếp sau bài thứ nhất là bài tựa viết bằng chữ Hán. Cuối bài tựa chữ Hán là dòng ghi niên đại. Dòng ghi niên đại này không có sự nhất quán trong các bản in. Các bản chỉ ghi Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 年次辛巳孟春穀日(Ngày tốt, tháng Giêng, năm Tân Tỵ) là: bản Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản của Ngô Đức Thọ, bản của Nguyễn Tài Cẩn. Các bản có ghi rõ Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 皇朝景興二十二年歲次辛巳孟春穀日(Hoàng triều niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, năm Tân Tỵ, tháng Giêng, ngày tốt) là bản của Hội Á châu và bản của ông Phùng Uông. Năm Tân Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 là năm 1761. Từ 2 dòng ghi niên đại trên đã có những ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề năm Tân Tỵ. Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp cho năm 1761 là năm hoàn thành việc sửa chữa CNPV thành CNNAGN. Trần Xuân Ngọc Lan thống kê một loạt các năm Tân Tỵ và cho một cái mốc giới hạn về năm Tân Tỵ sớm nhất là năm Tân Tỵ 1461 và muộn nhất là năm Tân Tỵ 1761(4). Lê Văn Quán cho CNNAGN xuất hiện "phải sau thế kỷ XVI"... Gần đây nhất, năm 2006, Ngô Đức Thọ cho rằng năm Tân Tỵ là năm 1401, "năm khắc in Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa"(5). Về vấn đề năm Tân Tỵ chúng tôi thấy như sau:

Trong CNNAGN, Trần Xuân Ngọc Lan đã khảo sát, mô tả rất rõ tình hình đặc điểm của tất cả các truyền bản CNNAGNhiện còn. Sau khi thống kê sự khác nhau giữa các tờ trong các bản, tác giả đã căn cứ vào sự giống nhau và tính kế thừa thể hiện rõ trong các trang không có sự khác nhau (tr.15 Sđd) để cho rằng: bản Thư viện AB.372 được khắc in trước, sau đó bộ ván bị hỏng 3 tấm, người ta khắc 3 tấm mới thay vào rồi in bản Nguyễn Tài Cẩn. Sau lượt này lại có 43 tấm ván nữa bị hỏng, người ta lại khắc 43 tấm mới thay vào rồi in bản Hội Á Châu. Chúng tôi đã rà soát lại và thấy nhận định đó là thuyết phục. Theo thiển ý của chúng tôi thì năm Tân Tỵ ở tất cả các truyền bản đều vẫn chỉ là năm Tân Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 mà thôi. Bởi vì các lý do sau:

+ Chỉ có một bộ ván khắc in, bộ ván đó được in lại nhiều lần, mỗi lần lại có sự loại bỏ những tấm hỏng, bổ sung những tấm mới.

+ Ngay sau khi hoàn thành việc sửa chữa dạng chữ, soạn giả đã cho khắc in bản CNNAGNđầu tiên, bản này có bài tựa được viết theo thể song thất lục bát và lục bát theo phong khí thơ lục bát của cuốn từ điển. Trong bài tựa bằng thơ này, soạn giả nói rõ lý do làm sách vì:

Trời sinh thánh chúa vạn niên

Cắp tay xem trị bốn bên thuận hòa

Vương phi Thái tử hoàng gia

Nam Sơn chúc tuổi chúa Bà nghìn xuân...

Sau đó, soạn giả tự giới thiệu về mình và công việc làm sách:

Trẻ từng vả đấng khoa danh

Già lên cõi thọ tìm doành bụt tiên

Tụng kinh đọc sách thánh hiền

Tải thông ba giáo dự trên sánh bày

Bèn dọn quyển Chỉ nam này...

Hồng Phúc danh Hương Chân pháp tính

Bút hoa bèn mới đính nên thiên

Soạn làm chữ cái chữ con

San bản lưu truyền ai được thì thông

Sau đó, soạn giả nói rõ lý do làm sách và kết quả công việc là:

Vốn xưa làm Nôm xa chữ kép

Người thiểu học khôn biết khôn xem

Bây giờ Nôm dạy chữ đơn

Cho người mới học nghỉ xem nghỉ nhuần...

Cuối cùng, soạn giả nói rõ ích lợi của việc đọc quyển sách "xem bằng ngọc vàng" này. Bài tựa bằng thơ giống như lời tự sự, tâm sự của soạn giả sau khi hoàn thành một công việc đầy khó khăn nhưng có ý nghĩa lớn lao. Sau bài tựa Nôm bằng thơ, soạn giả lại viết tiếp một bài tựa nữa bằng chữ Hán. Bài này được viết với nội dung như thông lệ của một bài tựa khi khắc in một quyển sách. Nội dung bài tựa chủ yếu nói về việc làm sách, nói rõ những điều mà bài tựa chữ Nôm chưa nói hết ý. Cuối cùng là dòng ghi niên đại của cả hai bài tựa Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 年次辛巳孟春穀日(Ngày tốt tháng Giêng năm Tân Tỵ). Vì sách được làm để cho người đương thời học nên không cần ghi cụ thể, chỉ cần ghi như thế ai cũng biết là năm Tân Tỵ nào, thuộc thời nào rồi. Hiện tượng gọi là "thánh, chúa", "chúa Bà" trong bài tựa Nôm là cách gọi suy tôn những người đang còn sống ở thời vua Lê chúa Trịnh. Ví dụ như trong Thiên Nam minh giám天南明鑑, Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh安子山竹林陳朝禪宗本行, Đông Tác Nguyễn Đại vương bản truyện diễn âm 東作阮大王本傳演音...

Ta biết trong vòng 60 năm mới có một năm Tân Tỵ. Do nhu cầu sách cho người học nên cần phải in lại sách nhiều lần. Ván in lại được chứa ở một nơi, mỗi lần đem in thấy tấm ván nào hỏng thì chỉ việc khắc lại tấm mới thay vào bởi vậy mới có hiện tượng các bản in có số tờ khác nhau. Phần không hỏng, trong đó có tờ in dòng niên đại cứ thế tồn tại. Cho đến khi bộ ván hỏng quá nhiều, tới 43 rồi 45 tấm trong đó có cả tấm ghi niên đại, lúc này thì năm Tân Tỵ cũng đã xa dần và có thể sắp hết vòng 60 năm nên cần phải ghi rõ để truyền bản cho đời sau khỏi nhầm. Có lẽ vậy nên đến khi khắc in bản Hội Á Châu và bản của ông Phùng Uông, người ta đã cho khắc thêm cho rõ thành Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 皇朝景興二十二年歲次辛巳孟春穀日.

Trong bài Thông tin mới nhất về CNNAGN(Sđd), Ngô Đức Thọ đã đưa ra chữ húy Hỏa là húy tên cũ của Hồ Hán Thương để chứng minh CNNAGNcó niên đại vào năm Tân Tỵ (1401). Điều đó rất có giá trị ở chỗ đã chỉ ra dấu vết của một văn bản tồn tại ở đầu thế kỷ XV, đời Hồ Hán Thương. Chữ huý Hỏa lại nằm trong phần chữ Hán của mục từ nên chỉ có mục từ chữ Hán là còn bảo lưu dấu vết của văn bản Chỉ nam phẩm vựng ở thế kỷ XV. Vì Hồ Hán Thương ở ngôi 6 năm nên truyền bản CNPV mà soạn giả dùng để sửa chữa dạng chữ thành CNNAGNcó niên đại vào khoảng những năm từ 1401 đến 1406, đời Hồ Hán Thương. Như vậy năm Tân Tỵ được ghi một cách "tắt" là Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật cũng chính là năm 1761, niên đại của "Minh giám bản" CNNAGN.

5. Cấu trúc của cuốn từ điển

Về cơ cấu và nội dung cuốn từ điển, Trần Xuân Ngọc Lan đã trình bày khá rõ trong công trình CNNAGN (tr.17-33 Sđd), chúng tôi xin phép không nhắc lại. Ở đây chỉ xin lưu ý trong nội dung của từ điển gồm có 2 phần: phần chính văn và phần Bổ di. Theo thống kê của Trần Xuân Ngọc Lan, tất cả có 3394 mục từ.

Phần chính văn: phần chính văn của từ điển là phần vốn có từ CNPV, gồm 41 chương, bộ. Trong đó có 38 chương bộ giải nghĩa từ theo lối văn vần lục bát.

Ngoài phần chính văn có phần Bổ di. Tổng số có 35 Bổ di. Hầu như các chương, bộ đều có phần Bổ di để bổ sung cho các mục từ còn thiếu sót trong CNPV. Các Bổ di là do người sau bổ sung thêm vào nên được trình bày bằng văn xuôi Nôm.

Như vậy phần chính văn bằng lục bát trong CNNAGNgiữ lại nguyên diện mạo thơ lục bát của CNPV đầu thế kỷ XV. Người biên soạn chỉ sửa dạng chữ Nôm để người đương thời đọc hiểu còn lời thơ, vần thơ, nhịp điệu và nội dung của các câu thơ vẫn được bảo lưu một cách trung thực. Điều này, dòng chữ dọc, phía bên phải của trang bìa Thuật thánh hiền chi thược vận 述聖賢之龠韻đã nói rõ, chính là thuật lại sách CNPV bằng thơ ca gồm 2 quyển thượng hạ.

Như vậy, có thể thấy thể thơ lục bát đã xuất hiện trong CNPV từ đầu thế kỷ XV, đời Hồ Hán Thương (1401-1406), sớm hơn bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao (1462-1529) khoảng 1 thế kỷ. Đó cũng là một giá trị đáng kể của văn bản từ điển CNNAGN.

6. Sơ bộ về diện mạo thể thơ lục bát đầu thế kỷ XV qua văn bản CNNAGN

Các mục từ trong phần chính của từ điển CNNAGNbao gồm cả mục từ Hán và phần giải nghĩa Nôm đều được trình bày dưới hình thức thơ lục bát. Ví dụ:

Thiên văn trước nói cho hay

Hồng quân trời cả cao thay trùng trùng

Kim ô mặt trời sáng hồng

Thiềm luân nguyệt sáng trên không làu làu (Thiên văn chương đệ nhất)

Đại địa đất cả rộng dầy

Đại Lỗ rét rày phèn nổi đất chua

Thổ khối hòn đất rắn khô

Đại phụ là đống tô mô giữa đồng

(Địa lý bộ đệ nhị)

Để rõ hơn về diện mạo của thơ lục bát cổ cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV qua dấu tích còn lại trong CNNAGN, chúng tôi đã sơ bộ khảo sát và thấy như sau:

Trong phần giải nghĩa có rất nhiều câu thơ lủng củng, cách gieo vần và phối điệu lỏng lẻo, gượng ép, chưa nhuần nhuyễn. Hiện tượng phổ biến là câu thơ được gieo vần lưng, tiếng thứ 6 của câu lục được gieo vần với tiếng thứ 4 câu bát. Câu lục có khi 7 tiếng; câu bát có khi 9, 10 tiếng. Có thể thấy những điều đó qua một số đoạn thơ sau :

- Hoàng già là hột cà vàng,

Lang đãng danh rằng cà độc dược độc song.

- Thác lô câu kỷ hột ngâu

Hột cải lú bú hiệu là hồ lô ba thuở này...

Thạch liên nhục hiệu là hột sen

Gương khô lại có rằng cựu liên

(Nam dược loại đệ tứ thập)

- Ô cẩm gấm đen bằng mây

Trầm hương gấm này là mùi khói hương

Đâu la gấm tốt dịu dàng

Kẻ xưa truyền rằng là gấm trần đâu

- Thiên nga nhung khéo dệt nên

Là thúc trắng sánh liên da trời

(Cẩm tú bộ đệ thập)

Trong CNNAGN có thể tìm thấy rất nhiều đoạn dài chỉ thấy hơi hướng âm điệu của thơ lục bát còn vần và nhịp điệu thì có sự sai lạc rất nhiều. Ví dụ:

Bảo giám gương sáng làu làu

Cổ kính gương cũ để lâu chăng nhìn

Thố quang gương có hiệu là bạch chiêu

Lại là huyền tích hoà phen thuỷ ngân

Thao quang chùi sáng thập phân

Cổ kính mai trần kính đài sa gương

Luân sơ lược chải đầu tiên

Phòng khi xởn tóc gỡ liền lại xong

Cơ sơ lược sừng nhỏ răng

Trúc sơ lược bí có bằng cái go

Tiểu hạp tử lục sáp thơm tho

Tiếp tử díp sắt để hoà nhổ râu...

(Khí dụng loại nhị thập nhất)

Ngôn ngữ trong thơ lục bát CNNAGN thuộc loại nhiều từ cổ nhất, đặc biệt có nhiều từ rất hiếm thấy ở thế kỷ XVII về sau(5). Theo thống kê của chúng tôi, ít nhất trong văn bản có 218 từ cổ. Ví dụ từ cổ xuất hiện trong các câu sau:

- Đến đâu lớp lớp no đôi

Ăn mày lộc vợ hổ ngươi thay là

- Cái dạm hiệu óc kỳ bành

Chấp hỏa, ủng kiếm cũng danh cái còng

(Lân trùng loại đệ tam thập tam)

-Côn đang là xống đàn bà

Quấn ngang bẩy bức giao gia phủ tràn

Gian quần sặc sỡ quần gian

Du cù là bức lót giường nằm.

(Y quan bộ đệ cửu)

Tỵ lương dọc mũi giữa nơi trung đình

Có hiệu niên thọ cực lành

Dài hơn chốn ấy thì mình yêu đang

Khoáy trán hiệu óc thái dương

Dưới cằm ấn đường hai mày giáp nhau

Mâu tử là đôi con sâu

Coi sáng làu làu trong nữa ngọc thu

(Thân thể bộ đệ tứ)

Lời thơ trong từ điển cũng rất mộc mạc, giản dị, đặc biệt còn giữ lại cách đọc cổ (đọc thành 2 âm tiết một từ), ví dụ:

Hải tảo rong bể rập rềnh

La đá dưới nước mọc quanh xanh rì. (Nam dược loại đệ tứ thập)

Bàn thạch la đá cả thay

Chỉ trụ la núi mọc bầy giữa sông

Thạch khối hòn la đá chồng

(Địa lý bộ đệ nhị)

Có khi việc sửa lại dạng chữ chưa nhất quán thể hiện ở chỗ một số từ song âm tiết khi thì loại bỏ, khi thì giữ lại yếu tố tiền âm tiết như trong câu:

Thư thiều la núi đất cực thung

Thôi ngôi núi đá sánh cùng cao xây

(Địa lý bộ đệ nhị)

Nhìn chung, thơ lục bát trong CNNAGN khá cổ kính. Nếu so về sự mượt mà, chau chuốt trong lời thơ và sự nhịp nhàng uyển chuyển trong vần điệu của thơ lục bát trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa với các tác phẩm lục bát Nôm gần thời điểm như Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh (cuối thế kỷ XVII - Đầu thế kỷ XVIII), Thiên Nam ngữ lục (cuối thế kỷ XVII), Cổ Châu Phật bản hạnh (1752), Quốc âm sự dẫn của Nguyễn Hy Quang (cuối XVII).... ngay cả so với Đào Nguyên hành của Phùng Khắc Khoan và Việt sử diễn âm, (thế kỷ XVI) thì quả là có một khoảng cách khá xa.

Thể thơ lục bát là một trong hai thể thơ dân tộc được sử dụng có lẽ nhiều nhất trong thơ Nôm Việt Nam. Nó đắc dụng trong các diễn ca lịch sử, truyện Nôm và diễn ca các loại kinh sách, thơ giáng bút... Cùng với sự phát triển ngày càng phong phú của ngôn ngữ tiếng Việt, thể thơ lục bát ngày càng hoàn thiện và có những thành tựu là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam như Truyện Kiều của Nguyễn Du, có những tác phẩm đồ sộ trên 8000 câu thơ như diễn ca lịch sử Thiên Nam ngữ lục. Nhưng ở ngọn nguồn của thể loại thơ lục bát, mới biết đến CNPV ở đầu thế kỷ XV thì diện mạo của thể thơ là như chúng tôi sơ bộ giới thiệu. Nếu đến đầu thế kỷ XV, đã có một tác giả có cảm hứng sử dụng thể thơ lục bát như trong CNPV để lại dấu vết trong CNNAGN thì ta có quyền nghĩ thể thơ này có lẽ còn xuất hiện sớm hơn nữa, hy vọng có tư liệu để chứng minh cho điều đó.

PGS.TS. Hoàng Thị Ngọ

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (115) 2012; tr.12-19.

 

-----------

Chú thích:

(1) Xin xem: Hoàng Thị Ngọ: Một cách hiểu về khái niệm "chữ đơn", "chữ kép" trong bài tựa cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa - Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học năm 1997, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 1998. Hoàng Thị Ngọ: Suy nghĩ thêm về tác giả và thời điểm xuất hiện của tác phẩm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa - Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học năm 2000, tr.325-340, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 2001.

(2) Xin xem Trần Văn Giáp: Lược sử vấn đề chữ Nôm, Bản thảo, Phòng tư liệu Viện Sử học.

(3) Xin tham khảo thêm Hoàng Thị Ngọ: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. KHXH, H. 1999.

(4) Xin xem Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.16.

(5) Xin xem Ngô Đức Thọ: Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm, Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2006, tr.299.

Tài liệu tham khảo chính

1. Trần Văn Giáp: Lược khảo vấn đề chữ Nôm từ khởi thủy đến thế kỷ XIX - Bản thảo, 1968, Phòng tư liệu Viện Sử học.

2. Đào Duy Anh: Chữ Nôm - Nguồn gốc Cấu tạo Diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975.

3. Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985.

4. Nguyễn Xuân Diện: Những phát hiện về Lê Đức Mao và bài "Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn". Trong sách Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2003, tr.504-527.

5. Ngô Đức Thọ: Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm. Trong sách Nghiên cứu Chữ Nôm, Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về Chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2006, tr.299-313.

6. Các bản Nôm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa./.

 

Page 1 of 106

Thông tin truy cập

60427318
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
8293
6820
60427318

Thành viên trực tuyến

Đang có 247 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website