Ngày 18-12, Khoa Văn học và Ngôn ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tế với chủ đề “Định vị nhà văn trong trường văn học: Kinh tế, hội đoàn, ngôn ngữ và bản sắc”.
Tọa đàm quy tụ các chuyên gia và nhà nghiên cứu uy tín trong và ngoài nước như: PGS-TS Spencer Lee-Lenfield (Khoa Văn học so sánh, Đại học Harvard, Hoa Kỳ); PGS-TS Phùng Ngọc Kiên (Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội); TS Đoàn Ánh Dương (Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và TS Đỗ Thị Thu Huyền (Tạp chí Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật - Hội đồng lý luận Trung ương).

Tại tọa đàm, PGS-TS Spencer Lee-Lenfield trình bày tham luận với chủ đề “Khả dịch và bất khả dịch trong trường văn hóa: nhìn từ văn học Việt Nam và Hàn Quốc”.
Theo ông, nhiều ngôn ngữ trên thế giới cho rằng những đặc trưng mang tính "bất khả dịch" (untranslatable) chính là yếu tố định hình bản sắc ngôn ngữ – văn hóa. “Tính bất khả dịch” được hiểu là những trường hợp mà một văn bản hoặc phát ngôn trong ngôn ngữ nguồn không thể chuyển tải đầy đủ sang ngôn ngữ khác, do thiếu sự tương ứng về mặt ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa.
Từ đó, PGS-TS Spencer khảo cứu hiện tượng bất khả dịch như một phương tiện kiến tạo và khẳng định bản sắc được nhiều cộng đồng văn hóa – đặc biệt là các nhà văn gốc Á trong cộng đồng di dân toàn cầu – sử dụng như một diễn ngôn sáng tác và tự định vị bản thân.
PGS-TS Spencer khẳng định, giá trị của một nền văn hóa không nằm ở tính độc nhất hay sự kháng cự dịch thuật. Việc xác lập giá trị của một ngôn ngữ, cũng như của người sử dụng ngôn ngữ đó, không nhất thiết phải dựa trên tính không thể chuyển ngữ, mà có thể được xây dựng trên nền tảng của sự kết nối và tương thông văn hóa.

Buổi chiều cùng ngày, ba nhà nghiên cứu: PGS-TS Phùng Ngọc Kiên với tham luận “Nhuận bút như là tiền đề của sự hình thành trường văn học: trường hợp văn học Pháp thế kỷ XVII”; TS Đoàn Ánh Dương với “Ý thức về đoàn hội với sự trưởng thành của nhà văn trong trường văn học Việt Nam trước năm 1945” và TS Đỗ Thị Thu Huyền với “Sự sinh thành nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, đã lần lượt làm rõ những cơ chế và điều kiện lịch sử - xã hội đã góp phần hình thành, xác lập và định vị vị thế của nhà văn trong trường văn học thông qua việc khảo sát các yếu tố kinh tế (như chế độ nhuận bút), cơ chế tổ chức (hội đoàn) cũng như vấn đề bản sắc văn hóa của các chủ thể sáng tạo, vấn đề chuyển dịch ngôn ngữ trong cấu trúc văn hóa.

Theo PGS-TS Phạm Văn Quang, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM, những chia sẻ của ba diễn giả với ba chủ đề khác nhau đã tạo nên 3 trường có tác động đến nhau là văn chương, kinh tế và chính trị. Theo ông, nghiên cứu về lịch sử văn chương của Việt Nam, nếu nhìn ở góc độ xã hội học sẽ có nhiều điều thú vị. Bởi trong nghiên cứu về lịch sử văn chương, chúng ta ít quan tâm đến các định chế như trường hợp các tạp chí, nhà xuất bản, các nhóm…

| “Khi nghiên cứu xã hội học, người ta gọi đó là những định chế và chia làm 3 loại định chế khác nhau: Định chế văn học theo nghĩa hẹp, đó là các thể loại văn học; Định chế của đời sống văn học là những cơ quan được tạo ra chỉ dành cho văn học như Hội Nhà văn; và Những định chế cận văn học như trường học, salon văn hóa trong đó có một phần sinh hoạt của đời sống văn học. Sự tương quan giữa 3 định chế ấy là sự tương quan giữa văn chương, chính trị và kinh tế”, PGS-TS Phạm Văn Quang cho biết. |
Quỳnh Yên
Nguồn: Sài Gòn giải phóng, ngày 18.12.2025.


