Khảo thuật về cổ tịch có liên quan đến Việt Nam thuộc các triều đại ở Trung Quốc

TÓM TẮT NỘI DUNG

Số lượng văn hiến có liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc khá phong phú, nhưng nhiều tác phẩm đã thất lạc, số còn lại thì việc chỉnh lý và sử dụng cũng chưa được bao nhiêu. Bài viết này, trên cơ sở thư mục xưa nay và các điển tịch liên quan, thử tìm hiểu rõ tình trạng cơ bản của loại văn hiến này về các mặt: phân bố lịch sử, hiện trạng mất còn, quan hệ giữa chúng với nhau, đồng thời trình bày vắn tắt giá trị của chúng. Với bài viết này, hy vọng sẽ cung cấp một đầu mối văn hiến cơ bản cho công tác nghiên cứu về Việt Nam.

Từ khóa:

Cổ tịch liên quan đến Việt Nam, Thư mục, An Nam, Giao Chỉ.

 

Năm thứ 33 Tần Thủy Hoàng (năm 214 TCN), Tần Thủy Hoàng bình định Lĩnh Nam, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Tượng Quận bao gồm miền đất Trung bộ và Bắc bộ của Việt Nam hiện nay. Năm 939 (năm thứ 4 niên hiệu Thiên Phúc đời Hậu Tấn), Ngô Quyền tự lập, xưng vương, đây được coi là sự mở đầu của nền độc lập của Việt Nam. Trong khoảng thời gian chừng một nghìn năm đó, vùng Bắc và Trung bộ Việt Nam hoặc được gọi là Giao Chỉ, Giao Châu, hoặc được gọi là An Nam. Việt Nam sau khi độc lập thường tự xưng là Đại Việt - Sau năm thứ 7 niên hiệu Gia Khánh đời Thanh (năm 1802) mới gọi là Việt Nam, nhưng Trung Quốc vẫn thường gọi Giao Chỉ, An Nam.

Tình hữu nghị giữa hai nước Trung - Việt có nguồn gốc lâu đời. Việt Nam cũng như Triều Tiên và Nhật Bản là những quốc gia mà tầng lớp sĩ đại phu Trung Quốc rất đồng cảm, được coi là nước dùng chung một thứ chữ viết, cho nên trong lịch sử Trung Quốc đã sản sinh rất nhiều thư tịch hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ghi chép lịch sử, địa lý, phong tục Việt Nam. Và có một số cổ tịch viết bằng chữ Hán do người Việt Nam biên soạn ra đời và lưu truyền trên đất Trung Quốc, như Việt sử lược, An Nam chí lược của Lê Trắc, Nam Ông mộng lục của Lê Trừng. Những thư tịch này truyền về trong nước Việt Nam, có ảnh hưởng không nhỏ đối với sử học và văn học của quốc gia này. Bài viết này muốn giới thiệu những điển tịch mà đối tượng ghi chép của chúng là Việt Nam, hy vọng sẽ làm rõ một số nét cơ bản của cổ tịch chuyên ghi chép về Việt Nam - trong lịch sử, thực lục, địa chí, loại thư cũng có rất nhiều sử liệu liên quan đến Việt Nam, nhưng vì chúng rất phân tán, ở đây không giới thiệu gì đặc biệt. Đối với sách vở cận đại, vì đã được các sách thư mục Thanh sử cảoThanh sử cảo nghệ văn chí thập di giới thiệu rất rõ, nên cũng không bàn đến nữa.

Sách chuyên thư chép về Giao Châu sớm nhất có Giao Châu dị vật chí 1 quyển do Dương Phu cuối đời Hán soạn, Nam Việt chí 8 quyển do Thẩm Hoài Viễn đời Tấn soạn, Giao Châu tiên hiền truyện 3 quyển do Phạm Viên soạn, Giao Châu tạp sự(1) 9 quyển, Giao Châu quảng ký của Vương ẩn, Giao Quảng nhị châu ký 1 quyển của Vương Phạm, Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ. Các sách nói trên được nhắc tới trong sử chí, còn chúng thì đã thất truyền từ lâu lắm rồi. Một số đoạn văn của các sách đó thấy dẫn, chép trong các sách Thủy kinh chú, Sử ký sách ẩn, Bắc đường thư sao, Thái Bình hoàn vũ ký. Trong Lĩnh Nam di thư có bản chép Giao Châu dị vật chí. Giao Châu ký đã mất. Thủy kinh chú từng dẫn Giao Châu ngoại vực ký, sách này không thấy chép trong Tùy kinh tịch chíĐường thư nghệ văn chí. Theo Nghệ văn loại tụ, quyển 6, mục Châu bộ Giao Châu thì Địch Cung cũng có Giao Châu ký. Trong Thái Bình ngự lãm, chữ Địch viết thành chữ Hoàng (2). Diêu Chấn Tông đời Thanh dựa vào một câu "Sĩ Nhiếp trước lục, Lưu Bỉnh tải thư, tắc lỗi lạc anh tài, xán nhiên doanh trục giả hĩ (Sĩ Nhiếp làm sách, Lưu Bỉnh chép sách, là những bậc anh tài lỗi lạc, rõ ràng được (người đời) rất chú ý)" được chép trong Thông sử - Tạp thuyết để đoán định Sĩ Nhiếp có sách Giao Châu nhân vật chí(3), nhưng rốt cuộc cũng chưa thấy đời nào có sách này, cũng chưa thấy có sách nào dẫn dụng cả.

Đời Đường hầu như không có sách chuyên chép về Giao Châu - Những sách mà Tân cựu Đường thư thu nạp đều là sách đã có từ trước đời Tùy. Nhưng Lĩnh Biểu lục dị, 3 quyển của Lưu Tuân có nhiều đoạn nói tới Giao Chỉ. Sách này đã mất, trong Thuyết phu, Tụ trân bản tùng thư của Uyển ủy Sơn đường, có bản tập hợp các bản đã mất. Quan coi thư viện Tứ khố toàn thư từng lẩy ra được 3 quyển từ Vĩnh Lạc đại điển, và nói rằng nguyên thư mười phần chỉ còn tám chín Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư(4) không thấy chép.

Đến thời Tống có An Nam biểu trạng, 1 quyển, do Lý Thiên Tộ tức vua Lý Anh Tông (ở ngôi năm 1138 - 1175) của Việt Nam biên soạn và Giao Chỉ sự tích, 10 quyển, của Triệu Hiệp. Trong quyển 7 sách Trực Trai thư lục giải đề, Trần Chấn Tôn nói: "Giao Chỉ sự tích gồm 10 quyển, quan Tri Châu ở Tân Châu là Triệu Hiệp soạn". Tân Châu ở đời Tống thuộc đông lộ phía nam Quảng Đông, rất gần Việt Nam. Tác giả có thể vì vậy mà hiểu biết về Việt Nam rất rộng. Cùng trong quyển đó lại nói: "An Nam biểu trạng gồm 1 quyển, năm thứ 25 niên hiệu Thiệu Hưng Lý Thiên Tộ tiến cống. Từ năm thứ 2 niên hiệu Tĩnh Khang trở đi, đến lúc này mới thông". Năm thứ 25 niên hiệu Thiệu Hưng, ở triều Lý là năm thứ 16 niên hiệu Đại Định, tức là năm dương lịch 1155. Sách này cũng được Văn hiến thông khảo của Mã Đoan Lâm chép. Ngoài ra, Tống sử nghệ văn chí (5) còn chép quyển 2 của 10 thiên An Nam nghị của Trần Thứ Công, (như trên) An Nam biên thuyết 5 quyển, của Triệu Thế Khanh, An Nam thổ cống phong tục 1 quyển (quyển 3)(6). Bí thư sảnh tục tứ khố thư mục thu chép An Nam hội yếu nhất quyển (Sử bộ địa lý loại), Trung hưng quản các thư mục thu chép Giao Quảng đồ 1 quyển (Sử bộ địa lý loại). Theo lời tổng tựa đầu sách Việt Kiệu thư, thời Tống Ninh Tông, quan Trực các Trương Hiệp còn biên soạn An Nam chí. Giao Chỉ sự tíchAn Nam hội yếu, đến đời Minh, Tiêu Hoằng với tác phẩm Quốc sử kinh tịch chí tuy có chép, nhưng chỉ là sao từ các bộ thư mục khác(7). Cho nên, các sách kể trên đã mất từ lâu.

Đời Nguyên, An Nam chí lược là một bộ sử thư quan trọng chuyên chép về An Nam. Sách này ở Trung Quốc có bản chỉnh lý của Trung Hoa thư cục, ở Việt Nam cũng có một bản được lưu truyền(8). Thời gian định cư ở Trung Quốc, cả Lê Trắc và Trần Ích Tắc đều có làm thơ được lưu truyền các đời. Lê Trắc có Tĩnh Lạc cảo 1 quyển, chép ở quyển 16 Nguyên thi tuyển tam tập, ngoài ra Lê Trắc còn có Lư Sơn du ký(9) 3 quyển, nhưng không thấy lưu truyền. Trần ích Tắc có An Nam tập 1 quyển, thấy chép trong quyển 68 sách Nguyên thi tuyển sơ tập. Ngoài ra, người Trung Quốc khi đi sứ sang Việt Nam thường biên chép về phong cảnh núi non sự vật ở những nơi họ đi qua, và cũng thường làm thơ đề vịnh những nơi đó. Văn Uyên các thư mục (quyển 2) của Dương Sĩ Kỳ đời Minh có chép 1 bộ 1 sách tác phẩm Trần Cương Trung An Nam lục, 1 bộ 1 sách Trần Cương Trung xuất sứ thi . Trần Cương Trung tức Trần Phu. Năm thứ 29 niên hiệu Chí Nguyên, Nguyên Thế tổ sai Lương Tằng đi sứ An Nam, Trần Phu làm Phó sứ với tư cách là Hàn lâm viện Biên tu. Trong thơ của Trần Phu chép ở quyển 6 tập thơ Nguyên thi tuyển nhị tập có nội dung đề vịnh những điều mắt thấy tai nghe trên đường đi sứ Việt Nam. Tứ khố toàn thư tập bộ biệt tập loại cũng chép tập thơ của Trần Phu, trong đó có Giao Châu cảo, nội dung giống như Nguyên thi tuyển nhị tập. Thế thì, Giao Châu cảo phải là Trần Cương Trung xuất sứ thi trong Văn Uyên các thư mục. Trong Trần Cương Trung thi tậpTứ khố toàn thư đã thu nạp, ngoài Giao Châu cảo, còn phụ chép 1 quyển, quyển ấy chép Dụ An Nam chiếu thư, An Nam tạ tội biểu và thư từ qua lại giữa Trần Phu với An Nam, nội dung có thể tương đương với Trần Cương Trung An Nam lục. Ngoài ra, Thuyết phu bản Uyển ủy Sơn đường có An Nam hành ký, có chỗ chép là Thiên Nam hành ký, do Từ Minh Thiện đời Nguyên soạn. Sách này cũng được chép trong Tích thốn âm trai tùng sao. Theo như quyển 3 An Nam chí lược đã chép thì Tiêu Phương Nhai có soạn Sứ giao lục. Căn cứ vào Nguyên sử Trương Lập Đạo truyện, thì đời Nguyên, Trương Lập Đạo có soạn An Nam lục. Theo như Bổ tam sử nghệ văn chí của Tiền Đại Hân, còn có hai vị sứ thần tên là Nguyên Trinh và Văn Tử Phương, mỗi người soạn một tác phẩm Sứ Giao lụcAn Nam hành ký.

Đời Minh Thanh, qua lại giữa Trung Quốc và Việt Nam càng mật thiết hơn, càng có nhiều tác phẩm ra đời, số tác phẩm được truyền ở đời không phải là ít. Trong số đó phần nhiều là tác phẩm của các sứ giả ngoại giao, cũng có một bộ phận mang tính chất du ký.

Đời Minh có bộ Đại Việt sử lược, tác giả là người Việt Nam. Ghi chép sớm nhất về bộ sách này là Văn Uyên các thư mục của Dương Sĩ Kỳ. Về sau có Bí các thư mục của Tiền Phổ, Lục Trúc đường thư mục của Diệp Thịnh và Tứ khố toàn thư tổng mục đều có chép. Nội dung của Đại Việt sử lược có thể tìm thấy trong Thủ Sơn các tùng thư, Tứ khố toàn thư. ở Thư viện Thượng Hải có bản sao sách này của Tri Thánh Đạo Trai đời Thanh. Ngoài Đại Việt sử lược còn có Nam Ông mộng lục của Lê Trừng được chép trong Kỷ lục vựng biên, sử địa loại của Tùng thư tập thành sơ biên cũng có chép.

Đời Minh do có một thời kỳ ngắn chiếm đóng Việt Nam, về sau lại có chuyện họ Mạc soán đoạt ngôi nhà Lê, xoay quanh những hoạt động chính trị ấy, đã ra đời hàng loạt tác phẩm sử học phản ánh tình hình chính trị địa lý Việt Nam - Hoàng Phúc có Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký, 1 quyển. Sách này hiện còn trong Kỷ lục vựng biên phần sử địa loại của sách Tùng thư tập thành sơ biên cũng có chép. Sách ghi chép những năm thuộc niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, về chiến tranh Việt Nam có Bình định Giao Nam lục, 1 quyển, của Khâu Tuấn, sách còn có tên là Định Hưng vương bình định Giao Nam lục. Sách này xưng nhân vật chính trong truyện là "vương" tức chỉ Trương Phụ, nội dung nhiều chỗ giống với quyển 6 Việt Kiệu thư, cuối sách có câu "Nam Kỷ Tỵ niên hiệu Chính Thống, mất trong khi làm việc công, đến đây là 37 năm". Lời tựa Việt Kiệu thư đề tháng 6 năm Canh Tý niên hiệu Gia Tĩnh (1540). Vậy là Việt Kiệu thư được làm tiếp nối thêm cho Bình định Giao Nam lục. Nhiều thư mục đời Minh có ghi chép về sách này, hiện thấy chép trong các tùng thư: Quốc triều điển cố, Kim hiến vựng ngôn, Kỷ lục vựng biên, Trạch Cổ trai trùng sao.

Sách liên quan đến họ Mạc, có An Nam tấu nghị. Tạp sử loại tồn mục trong Tứ khố toàn thư có chép sách này, không ghi tác giả, chỉ nói là tập sớ của Trương Toàn, gồm 1 quyển. Sử bộ sách Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục thì đề là Trương Toàn soạn, gồm 2 quyển. Tồn mục tùng thư có chép sách này. Một tác giả gần đây là La Chấn Thường, với tác phẩm Thiện bản thư sở kiến lục, quyển 2, có chép về một quyển sách cùng tên, và chua: "Nghiêm Tung đời Minh soạn, bản chép trên giấy, bìa màu lam, sao từ đời Minh. Sách chép những việc về giao thiệp với An Nam, cuối sách có phụ chép Nghị phủ An Nam sự nghị, có chú thích bên cạnh: Quốc triều điển cố 93, có lẽ chuyển chép từ một sách khác. Tàng thư Thiên Nhất Các, nay quy về kho sách Đại Vân của họ La"(10). Xét thấy rằng, những điều mà họ La biết cũng được chép vào trong Quốc sử kinh tịch chí - Tập bộ Tấu nghị của Tiêu Hoằng và quyển 2 sách Vạn Quyển đường thư mục của Chu Mục Lương đều ghi là Nghiêm Tung soạn. Sau khi Đặng Dung cướp ngôi nhà Lê, hậu duệ họ Lê là Lê Ninh sai Trịnh Duy Liêu chạy sang Bắc Kinh cáo nạn và xin viện binh. Triều đình bàn thảo, mỗi người một ý. Căn cứ các đoạn chép trong Minh sử - An Nam truyện: "Bọn Hạ Ngôn và Trương Toàn ra sức nói rằng nghịch thần cướp ngôi đoạt nước, không chịu triều cống, đáng đánh lắm", "Bấy giờ Nghiêm Tung nắm bộ Lễ, cho rằng lời nói của nó (chỉ Trịnh Duy Liêu) chưa thể tin hết được", "Nghiêm Tung, Trương Toàn nom thấy sắc chỉ của vua, ra sức can ngăn nhưng không được", như vậy bấy giờ cả Nghiêm Tung và Trương Toàn đều có sớ biểu. Một bộ sách khác có liên quan đến họ Mạc là Nghị xử An Nam sự nghi. Năm thứ 18 niên hiệu Gia Tĩnh, sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn chinh phạt An Nam. Bộ sách này chép các tài liệu liên quan đến sự kiện này, như sớ văn của Mao Bá Ôn, công văn và chiếu thư của bộ Binh. Tác giả của Tứ khố toàn thư đề yếu nghi ngờ sách này hãy còn thiếu sót. Văn bản hiện còn của sách này khá nhiều. Ngoại trừ Tồn mục tùng thư có chép, các bộ tùng thư Hoàng Minh tu văn bị sử, Quốc triều điển cố cũng thu nạp sách này. ở Thư viện Nam Kinh còn lưu giữ bản sao chép tay thời Minh, trong Thiên Nhất các tàng thư mục lục có chép một tên sách An Nam nghị nghi và còn tàng trữ một bản sao nhan đề Thẩm vấn An Nam sự lược, ngờ rằng đây là tên khác của sách kể trên.

Sách có liên quan họ Mạc còn có một quyển nữa: An Nam Mạc Mậu Hợp liệt truyện, được thu nạp vào trong Hoàng Minh tu văn bi sử, hiện được lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh.

Vào những năm thuộc niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, Lý Văn Phương đã biên soạn "Việt Kiệu thư, gồm 20 quyển, đây là bộ trước tác sử học cổ đại Trung Quốc, liên quan đến Việt Nam, trình bày có hệ thống, có độ dày khá đồ sộ. Lời tựa sách này nói đến bối cảnh sáng tác: Khi họ Mạc soán đoạt ngôi vua Lê, triều đình định khởi binh tiến đánh, nhưng ý kiến bàn luận còn phân vân, tác giả bèn soạn sách này, khảo sát phong tục, núi sông, lịch sử An Nam. Sách phân ra các mục: diên cách, núi sông, sản vật, phong tục, thư chiếu, biểu chương, chế độ, thơ. Những điều sử chép từ đời Minh trở về trước đại thể lấy từ An Nam chí lược của Lê Trắc, phần chép về đời Minh thì tác giả sưu tập từ các sách khác, trong đó phần chiếu dụ của vua Vĩnh Lạc cấp cho Trương Phụ, Mộc Thạnh, Trần Hiệp coi là tư liệu quan trọng hơn cả. Chu Di Tôn trong Việt Kiệu thư bạt khen sách này "mạch lạc rõ ràng, dã sử ghi chép về đất nước như thế này thật tuyệt diệu"(11). Sách này được Tồn mục tùng thư thu nạp, căn cứ vào bản in ảnh bản sao Minh Lam Cách hiện tàng trữ tại thư viện Đại học Bắc Kinh, thì quyển 1 và quyển 2 khớp với bản sao đời Thanh. Ngoài ra, thư viện Thượng Hải cũng giữ bản sao sách này.

Đời Minh, sách liên quan đến Việt Nam, còn có An Nam khí thủ thủy mạt, 1 quyển. Hai chữ "thủy mạt" có bản chép là "bản mạt". Thư viện Nam Kinh có bản sao đời Thanh, sách An Sấu sơn phòng dục tồn thiện bản thư mục, quyển 5, Bức Tống lâu tàng thư chí, quyển 22 đều chép. An Nam đồ chí, 1 quyển, do Đặng Chung đời Minh soạn, Thư viện Bắc Kinh lưu giữ, có chép tập 1 sách Quốc lập Bắc Bình đồ thư quán thiện bản tùng thư, có bài tự tựa đề năm thứ 36 niên hiệu Vạn Lịch (1608). Sứ Giao lục do Tiền Phổ soạn, trong tùng thư Nghệ hải vựng hàm có chép, các bộ thư mục đề số quyển không thống nhất, tồn mục 6, truyện ký loại, sách Tứ khố đề yếu ghi là 18 quyển, là do dựa vào Thiên Nhất các tàng bản(12). ở quyển 8 Thiên Khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc có chép về sách này nhưng chỉ nói là 1 quyển. Cũng ở quyển 8 Thiên Khoảnh đường thư mục còn thu nạp bộ Sứ Giao lục, tác giả là Hoàng Gián. Ngoài ra, quyển 1 sách Giáng Vân lâu thư mục của Tiến Khiếm Ích lại thu nạp bộ Sứ Giao lục, tác giả là Ngô Bá Tông, và chú thích là danh nhân đầu đời Minh. Sách Giao Lê tiễu bình sự lược, gồm 5 quyển, do Âu Dương Tất Tiến đời Minh soạn, Thư viện Bắc Kinh lưu giữ. Tứ khố đề yếu cho rằng [sách này] do Phương Duyệt Dân đời Minh soạn. Năm thứ 28 niên hiệu Gia Tĩnh, Phạm Tử Nghi người An Nam và Lê Na Yên quê ở Quỳnh Châu vào quấy rối, Âu Dương Tất Tiến hịch Du Đại Du đánh dẹp. Tứ khố đề yếu nói quyển 1 là bản đồ, từ quyển 2 đến quyển 4 là tấu sớ, quyển 5 là công văn giấy tờ. Phần Tồn mục tùng thư chép là dựa vào bản in ảnh của bản khắc niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, đề là Âu Dương Tất Tiến soạn, Phương Duyệt Dân biên tập, đầu sách có lời tựa của Trương Ngạo, cả phần mục lục và chính văn chỉ có 4 quyển, không có quyển 5 chép công văn giấy tờ. Bản mà Thư viện Bắc Kinh lưu giữ tuy là bản sao đời Thanh nhưng lại có 5 quyển, không biết tại sao Tồn mục tùng thư lại không chép. An Nam lại uy đồ sách, gồm 3 quyển, do Phùng Thời Thích, Lương Thiên Tích biên tập. Tập lược gồm 3 quyển, do Giang Mỹ Trung biên tập, được chép trong Huyền Lãm đường tùng thư. Sự thực mà sách này lấy làm căn cứ, về đại thể là giống nhau, mục đích của người biên tập là ca công tụng đức Giang Nhất Quế. Trong đó, phần "đồ sách" thu thập được rất nhiều tranh ảnh hình vẽ, nhưng nội dung giản lược. Phần "tập lược" thấy chép trong Thiên Khoảnh đường thư mục, đề là An Nam lại uy tập lược, gồm 3 quyển, chú thích là "Cha của Mỹ Trung là Nhất Quế, quê ở Vụ Nguyên, niên hiệu Gia Tĩnh làm Tri phủ Thái Bình Quảng Tây. Mao Bá Ôn, Nhất Quế đi chiêu dụ Mạc Đăng Dung xưng thần, nộp cống, xây thành Thu Hàng và đài Chiêu Đức ở Trấn Nam quan, được phong á trung đại phu, được người Giao Châu thờ phụng. Mỹ Trung tập hợp thư từ văn cáo qua lại làm thành sách, Cấp sự trung Nghiêm Tòng Giản đề tựa". Nội dung phần Tập lược kỹ càng hơn, chép nhiều chiếu dụ và tấu biểu của họ Mạc và của kỳ mục địa phương Việt Nam, phần này giá trị hơn Đồ sách. Thư viện tỉnh Phúc Kiến lưu giữ An Nam chí, 1 quyển, bản khắc, do Tô Tuấn đời Minh soạn. Sách này từng được chép trong Sử bộ, Ngoại di loại sách Từ thị Hồng Vũ lâu thư mục(13) của Từ (Hỏa Bột) đời Minh. Quyển 3 sách Đạm Sinh đường thư mục của Kỳ Thừa (Hỏa Nghiệp) đời Minh có chép sách An Nam chí, không đề tên người soạn, có lẽ cũng là sách đó. Đời Minh, sách ghi chép về Việt Nam còn có An Nam truyện của nhà văn nổi tiếng Vương Thế Trinh, được thu nạp vào các bộ tùng thư loại sử địa như Ký lục vựng biên, Tùng thư tập thành sơ biên. An Nam đồ thuyết, Quách Nhược Tằng soạn, được thu nạp vào loại địa lý Tồn mục tùng thư. An Nam cung dịch kỷ sự, 1 quyển, do một di dân cuối đời Minh tên là Chu Chi Du soạn, được thu nạp vào trong Thuấn thủy di thư. Thư viện Bắc Kinh lưu giữ Chinh An Nam sắc chinh An Nam sự thực, không phân quyển, bản sao đời Thanh. Sách này có lẽ là bản sao gộp của hai tác phẩm Bình An Nam sắc dụ, Chinh An Nam sự tích mà các bộ thư mục Thiên Khoảnh đường thư mục và Vạn Quyển đường thư mục đã chép.

Trên đây là thư tịch do người đời Minh biên soạn hiện nay vẫn còn. Thiên Khoảnh đường thư mục của Hoàng Ngu Tắc người đời Thanh, chép toàn sách đời Minh. Theo sách này vẫn còn một số thư tịch liên quan đến Việt Nam chưa được lưu truyền. Trong đó có các tác phẩm của Hoàng Phúc: An Nam sự nghi 1 quyển, Tuy Giao lục 2 quyển, Tuy Giao ký 1 quyển. Theo quyển 6 sách Nội các tùng thư mục lục do Tôn Năng Truyền và Tôn Huyên đời Minh soạn, có sách Bình An Nam bi, do Đại học sĩ Hồ Quảng người đầu đời Minh phụng sắc soạn(14). Thiên Nhất các tàng thư mục lục có chép 1 bản An Nam sớ cảo. Quyển 2 Vạn Quyển đường thư mục chép Bình Giao kỷ lược, 10 quyển. Quyển 3 Đạm Sinh đường tàng thư mục chép An Nam kỷ hành chí, 1 quyển, Giao Lê mạt nghị, 3 sách, Tưởng Quang Ngạn soạn.

Sách ghi chép về Việt Nam ở đời Thanh không phải là ít. Trong Tứ khố đề yếu chép 3 tên sách: tạp sử loại tồn mục 3 có An Nam sứ sự ký, 1 quyển, Lý Tiên Căn soạn, trong mục lục và tùng thư, sách này có nhan đề An Nam tạp ký yếu hoặc An Nam tạp ký; địa lý loại tồn mục 7 chép An Nam kỷ dụ, 1 quyển, của Phạm Đỉnh Khuê, Hải ngoại kỷ sự, 6 quyển, của Trạch Đại Sán. Ba tên sách trên đây, ngoài Tồn mục tùng thư có chép, trong các bộ tùng thư cũng thấy chép, chẳng hạn Thuyết linh, Học hải loại biên, Chiêu đại tùng thư, Biên dư kỷ lược hội sao, và mục Sử địa loại sách Tùng thư tập thành sơ biên. Trung Hoa thư cục năm 2000 xuất bản bản điểm hiệu hợp đính hai tác phẩm An Nam chí lượcHải ngoại kỷ sự.

Đời Thanh có 3 tác phẩm đề là An Nam kỷ lược, một tác phẩm gồm 2 quyển do Nhiệm Đống soạn, được chép trong phần bổ sung của Trì Tĩnh trai thư mục, một tác phẩm khác do Tra Lễ soạn, cũng 2 quyển, hiện được lưu giữ ở Thư viện Đại học Vũ Hán, còn một tác phẩm nữa có tên khác Khâm định An Nam kỷ lược, gồm 32 quyển, phụng sắc biên soạn năm thứ 56 niên hiệu Càn Long. Nội dung này ghi sự tích vào khoảng năm thứ 53 đến 56 niên hiệu Càn Long, triều đình nhà Thanh giúp An Nam quốc vương Lê Duy Kỳ lấy lại ngôi vua và sắc phong Nguyễn Quang Bình làm vương. Sách này có bản in ảnh bản sao lưu giữ tại Thư viện Bắc Kinh do Nhà xuất bản Văn vật xuất bản năm 1986. Bài tựa trong đó nói rằng truyền bản của sách này rất ít, "chỉ có Viện Bảo tàng Cố cung và Thư viện Bắc Kinh giữ bản sao. Nhưng theo Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục thì Thư viện Đại học Dân tộc Trung Ương có giữ bản sao nội phủ Càn Long đời Thanh, hẳn là văn bản tốt nhất.

Đời Thanh, sách chuyên ghi chép về địa lý Việt Nam càng nhiều, nội dung thêm phong phú. Liệt kê như sau: Tòng nhung Việt Nam ký, 1 quyển, của Âu Dương Văn Tĩnh, Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc; Việt Nam tân văn lục, 1 quyển, của Vương Nghĩa Phật, Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc; An Nam quân doanh kỷ lược của Trần Nguyên Nhiếp (xem thêm Quân doanh kỷ lược), Thư viện Bắc Kinh; An Nam chí, 1 quyển của Dương Trọng Hưng, phụ chép An Nam quốc hình thế khảo lược, 1 quyển, Thư viện tỉnh Hồ Bắc; Việt Nam dư địa lược, 1 quyển, bản sao của họ Viên ở thôn Tiệm Tây, Thư viện Thượng Hải; Sứ Giao kỷ sự, 1 quyển, của Ô Hắc; Nam Giao hảo âm, 1 quyển, Chu Xán biên tập; Sứ Giao ngâm, 1 quyển, An Nam thế hệ lược, 1 quyển, của Chu Xán; bản khắc thời Khang Hy đều thấy ở Thư viện Thượng Hải; Việt Nam ký, 1 quyển; Việt Nam cương vực khảo, 1 quyển, của Ngụy Nguyên; Chinh phủ An Nam ký, 1 quyển, của Ngụy Nguyên; Chinh An Nam kỷ lược, 1 quyển của Sư Phạm; Việt Nam chí, 1 quyển, của 1 người Phương Tây; Việt Nam địa dư đồ thuyết, 1 quyển; Việt Nam thế hệ diên cách lược, 1 quyển, của Từ Diên Húc; Việt Nam đạo lộ lược, 1 quyển; Việt Nam khảo lược, 1 quyển, của Cung Sài; Việt Nam du ký, 1 quyển, của Trần Mỗ, đều thấy chép ở Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao; Du Việt Nam ký, 1 quyển; An Nam luận, 1 quyển, của Lý Đề Ma Thái nước Anh, thấy chép ở Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao tam bổ biên; Việt Nam phong tục ký, 1 quyển, An Nam biến thông hưng thịnh ký của Lý Đề Ma Thái nước Anh, xem Tiểu Phương hồ trai dư địa tùng sao tam bổ biên; Trùng đính Việt Nam đồ thuyết, 6 quyển, của Thịnh Khánh Phật đời Thanh, xem Quan tượng lư tùng thư; Sứ Giao tập, 1 quyển, của Ngô Trường Canh đời Thanh, xem Ngô Hưng tùng thư; Tiếp hộ Việt Nam cống sứ ký, 1 quyển, của Giả Trăn, xem Giả thị tùng thư giáp tập; Hộ tống Việt Nam cống sứ nhật ký, 1 quyển và Tái tống Việt Nam cống sứ nhật ký, 1 quyển, của Mã Tiên Đăng, xem Mã thị tùng khắc; Việt Pháp chiến thư, không chia quyển, 4 sách, Vương Tử Cần biên tập, bản in năm thứ 10 niên hiệu Quang Tự; Việt Nam vong quốc sử, không chia quyển, 1 sách, Tân Dân xã biên soạn, bản in năm thứ 31 niên hiệu Quang Tự; Pháp Việt sự kỷ không chia quyển, Ông Đồng Hòa soạn, xem bản Bình Lư tùng cảo; An Nam sử, 4 quyển, người Nhật Bản Dẫn Điền Lợi Chương soạn, Mao Nãi Dung dịch, năm thứ 29 niên hiệu Quang Tự, bản in đá của Thượng Hải Giáo dục thế giới xã; Việt sự bị khảo, 12 quyển, Lưu Danh Dự biên tập, bản khắc Quế Lâm năm thứ 21 niên hiệu Quang Tự; An Nam tiểu chí, không có số quyển, Diêu Văn Đống soạn; An Nam kỷ lược, 1 quyển, Thẩm Sâm Nhất soạn, xem bản Ngũ châu liệt quốc chí vựng.

Trong lịch sử, giao lưu văn hóa Trung - Việt đương nhiên là hai chiều, cho dù ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam là mặt chủ yếu. Vì vậy, có một số thư tịch ra đời trên đất nước Việt Nam đã lưu truyền sang Trung Quốc(15). Trong số những tác phẩm ấy, Việt sử lược phải coi là quan trọng nhất, ngoài ra, quyển 6 sách Khai Hữu ích trai độc thư ch í của Chu Tự Tằng có chép Việt Nam thi tuyển gồm 6 quyển, Bùi Bích biên tập, bản khắc; trong quyển 4 sách Gia Tùng đường tàng thư ch í có chép Trích diễm tập gồm 6 quyển, Hoàng Đức Lương biên soạn, bản sao, do Mâu Thuyên Tôn giải đề. Theo Bản thư ngẫu ký, còn có Hoàng Việt địa dư chí, 2 quyển, bản khắc Kim Ngọc lâu núi Phật Sơn Việt Đông khoảng năm thứ 11 niên hiệu Đồng Trị(16). Nhưng 3 bộ sách kể trên hiện giờ ở đâu thì không được biết. Tác phẩm hiện còn thì có thể tìm thấy ở Thư viện Viện Khoa học Trung Quốc một bộ sách Nam Chi tập của nhà yêu nước Việt Nam chống Pháp Nguyễn Thượng Hiền, niên đại khá muộn, sách có tựa của Chương Bính Lân viết năm 1913.

Giá trị của số sử tịch kể trên trước tiên đương nhiên là về sử học, Việt Nam từ triều Ngô trở đi có lịch sử riêng của mình để ghi chép, nhưng phần lớn bị thất lạc. Lịch sử trước đó hàng nghìn năm chủ yếu bảo tồn trong thư tịch Trung Quốc. Tuy những ghi chép đó sơ lược nhưng chúng đều rất quý giá đối với hai nước Việt - Trung. Chẳng hạn, sách Giao Châu ngoại vực ký tuy đã tản mát, nhưng trong các sách như Thủy kinh chú với những trích dẫn giản lược, có thể thấp thoáng nhìn thấy một vài diện mạo xã hội Việt Nam thời thượng cổ. Thủy kinh chú quyển 37, điều "Diệp Du hà" trích dẫn "Giao Chỉ xưa khi chưa chia quận huyện, đất đai có lạc điền, đất ruộng ấy, theo thủy triều lên xuống, dân đến khai khẩn làm ăn, nên gọi là Lạc dân. Đặt ra Lạc vương, Lạc hầu cai quản quận huyện, huyện phần nhiều là Lạc tướng, Lạc tướng có ấn đồng giải xanh. Về sau, con trai vua Thục đem ba vạn binh sang đánh Lạc vương Lạc hầu, qui phục được Lạc tướng. Con trai vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương". Đây là một ghi chép sớm nhất khá hoàn chỉnh về xã hội Việt Nam thượng cổ. Niên hiệu truyền thuyết của Việt Nam sau này về Hùng vương và Thục Phán, An Dương Vương có thể được khởi đầu từ đây(17).

Tác giả của Tứ khố đề yếu khen An Nam chí lượ c "Có thể chứng minh điều nói ngoa của nhà chép sử", "có thể tham khảo, kê cứu lẫn nhau". Bành Nguyên Thụy trong Tri Thánh Đạo trai độc thư bạt, nói Việt sử lược "nhiều chỗ bổ sung cho những gì còn thiếu của tiền sử", coi Giao Châu cảo trong Trần Cương Trung thi tập và phần phụ chép thư từ gửi An Nam là "có thể bổ sung cho sự bất cập của Nguyên sử và địa chí". Sự đánh giá này không nghi ngờ gì nữa, quả là chính xác.

Chẳng hạn, con trai của Đặng Tất là Đặng Dung. Các sách của Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư, sách Trung Quốc xuất bản mới đây Việt Nam thông sử đều viết chữ "Dung" (), nhưng tác phẩm tương đối sớm của Trung Quốc như Việt Kiệu thư lại viết chữ "Dung" (). Minh sử - An Nam truyện, Minh Thái Tông thực lục (quyển 73, 91) cũng viết "Dung" (), và đề cập tới hai anh em của Dung tên là Doãn, Thiết đều có bộ kim bên cạnh, vậy là viết chữ "Dung" () là chính xác.

Lại như việc sách vở Việt Nam nhiều lần nhắc đến chuyện người Minh trong thời gian chiếm đóng Việt Nam đã cướp đi nhiều trước tác của nước này. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 7 mùa thu năm Mậu Tuất kỷ Lê Thái Tổ (tức năm thứ 16 niên hiệu Vĩnh Lạc đời Minh), "Người Minh sai hành nhân Hạ Thanh, Tiến sĩ Hạ Thời đến lấy các sách ghi chép sự tích cổ kim của nước ta"; lời tựa Lịch triều hiến chương loại chí - Văn tịch chí của Phan Huy Chú nói: “Cuối đời Trần do sự biến người Minh, thư tịch đã mất hết...", [Phan Huy] Chú nói rằng "nhà Hồ thất thủ, bấy giờ tướng nhà Minh Trương Phụ thu lấy sách vở cổ kim đưa hết về Kim Lăng". Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mụ c (sau đây gọi tắt là Việt sử thông giám) phần chính biên quyển 13, Bình Định Vương năm thứ 2 (tương đương với niên hiệu Vĩnh Lạc năm thứ 17, tức năm 1419) chú thích và có kèm theo danh mục thư tịch bị cướp đi. Trong các thuyết nêu trên, thì Đại Việt sử ký toàn th ư là sớm nhất. Nay soát lại Minh Thanh Tiến sĩ đề danh bi ký, tìm thấy ở đó Hạ Thời là người thi đỗ Nhị giáp khoa thi năm thứ 6 niên hiệu Vĩnh Lạc đời Minh; Minh sử Thành Tổ kỷ chép: "Mùa xuân tháng 3 Giáp Dần năm thứ 16, cho bọn Lý Kỳ đỗ Tiến sĩ cập đệ và Tiến sĩ xuất thân. Nếu như vậy thì điều mà Đại Việt sử ký toàn thư nói là có căn cứ. Nhưng theo các chiếu dụ thời Vĩnh Lạc từ năm thứ 4 đến năm thứ 5 chép trong Việt Kiệu thư, có nhiều lần nhắc đến chuyện đốt sách, trong đó ngày 21 tháng 5 năm thứ 5, sắc cho bọn Trương Phụ: "[Ta] nhiều lần dụ cho các ngươi phàm tất cả sách vở, ván khắc chữ của An Nam, kể cả mảnh giấy con chữ của trẻ con làng quê dùng để mới học chữ và những tấm bia xứ ấy dựng lên, hễ thấy là hủy ngay, chớ bỏ sót. Nay nghe nói trong quân bắt được nhiều giấy tờ mà chưa lập tức sai quân lính thiêu hủy, mà còn để tra soát xong rồi mới đốt đi. Nhưng quân lính nhiều người không biết chữ, nếu mọi mệnh lệnh đều như vậy ắt truyền đạt sẽ nhiều sai sót. Các ngươi nay phải làm theo sắc chỉ trước đây, lệnh cho quân lính hễ gặp một mảnh văn tự của xứ ấy thì phải đốt ngay, không được giữ lại". Thư mục đời Minh cũng không thấy chép số sách bị cướp đi như Việt sử thông giám đã nói. Xét về độ tin cậy của sử liệu, niên đại của các sách Văn Uyên các thư mục, Việt Kiệu thư sớm hơn Việt sử thông giámLịch triều hiến chương loại chí(18). Theo Minh Thái Tông thực lục, tháng 6 năm thứ 16, "chiếu sai toản tu sách địa chí quận huyện cả nước, sai Thượng thư Hộ bộ hành tại Hạ Nguyên Cát, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Hữu Xuân phường hữu thứ tử Dương Vinh và Hàn lâm viện học sĩ kiêm Hữu Xuân phường hữu dụ đức Kim ấu Tử cai quản toàn bộ công việc; chiếu lệnh sai Lễ bộ cắt cử các quan đi khắp các quận huyện sưu tập rộng rãi các sự tích và sách vở cũ". [Qua đây] chúng ta có thể suy luận điều mà Đại Việt sử ký nói chính là vào tháng 7 mấy người Hạ Thanh, Hạ Thời sang Việt Nam tìm sách vở để hoàn thành nhiệm vụ toản tu địa chí. Có thể về sau người Việt đọc lầm câu đó, tưởng rằng người Minh vơ vét hết thư tịch trên đất Việt Nam mà dẫn đến văn tịch nước Việt bị hủy diệt. Kỳ thực, điều mà người Minh thi hành ở Việt Nam là chính sách đốt sách, hủy sách rất triệt để.

Đứng về nghiên cứu văn học mà nói, những điển tích kể trên cũng có thể có tác dụng bổ sung tư liệu về Việt Nam. Chẳng hạn trong Việt Kiệu thư có nói đến hoạt động văn học của Việt Nam. Quyển 5 sách này nói "Trần Toại là cháu Trần Nhật Cảnh, được phong là Uy Văn Vương. Ông thông minh, hiếu học, tự hiệu là Sầm Lâu, có văn tập truyền ở đời. Thơ ông có câu:


(Xưa nay vật gì mà chả biến thành đất
Sau khi chết chỉ có thơ là quý hơn vàng).

Viếng cháu là Văn Hiếu hầu, ông lại có câu:


(Núi nỡ nào vùi lấp viên ngọc đã mài thành khí
Ánh trăng soi mãi hồn phách thiếu niên).

Toại mất lúc 30 tuổi, người trong nước ai cũng thương tiếc"(19). Quý giá nhất là quyển 20 của sách này chép trọn 1 quyển toàn thơ của các bậc vua tôi An Nam, gồm 40 vị, phần lớn trong số tác giả và tác phẩm thơ này không thấy chép trong Toàn Việt thi lục. Tập hợp tác phẩm này mà gộp lại với số thơ của các danh nhân An Nam được chép trong quyển 18 sách An Nam chí lược thì hẳn sẽ làm phong phú thêm kho báu văn học Việt Nam.

Do đó có thể thấy rằng, văn hiến liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc khá phong phú về số lượng, trong đó hàm chứa những tài liệu sử học, văn học rất quý giá. Phần lớn những tác phẩm này chưa được chỉnh lý kỹ càng, nhất là các sách Việt Kiệu thư, An Nam lai uy tập lược, Khâm định An Nam kỷ lược, chúng có nội dung phong phú, tính hệ thống cao và thái độ biên soạn nghiêm túc. Nếu các sách này được chỉnh lý, sẽ trở thành những trước tác ghi chép lịch sử đất nước Việt Nam và giao lưu chính trị văn hóa Trung Việt giống như An Nam chí lược.

Đinh Văn Minh (dịch)

CHÚ THÍCH

(1) Tùy thư kinh tịch chí chú thích "Ghi chép chuyện về Sĩ Nhiếp và Đào Hoàng".

(2) Xem Bổ Tấn thư nghệ văn chí san ngộ, phụ chép của Bổ Tấn thư nghệ văn chí, bản tùng thư tập thành.

(3) Xem Diêu Chấn Tông: Tam Quốc nghệ văn chí, bản Tùng thư tập thành tục biên.

(4) Do ủy ban biên soạn Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư biên soạn, Tề Lỗ thư xã, tháng 9 năm 1995, sau đây gọi tắt là Tồn mục tùng thư.

(5) Xem Tống sử nghệ văn chí - Bổ - Phụ biên, Thương vụ ấn thư quán, tháng 12 năm 1957. Sách này thu nạp các tác phẩm: Tống sử nghệ văn chí, Tống sử nghệ văn chí bổ, Tứ khố khuyết thư mục, Bí thư sách tục tứ khố thư mục, Trung hưng quán các thư mục, Tống quốc sử nghệ văn chí.

(6) Nguyên chú: "Vào năm thuộc niên hiệu Càn Đạo, An Nam sang triều cống, nơi tiếp khách nhận được chiếu chỉ, sai tâu rõ phong tục nước này và danh mục số lượng cống vật".

(7) Tứ khố đề yếu nói rằng Kinh tịch chí của Tiêu Hoằng "Bộ tùng thư ấy sao chép thư mục cũ, không khảo cứu gì cả, không nói rõ sách nào mất sách nào còn, ghi chép dễ dãi. Các bộ thư mục xưa nay chỉ có sách ấy là không đáng tin nhất". Nay khảo các sách Giao Châu tạp sự, Giao Quảng nhị châu ký, Giao Quảng dĩ nam ngoại quốc truyện, Giao Châu tiên hiền truyện thì chỉ Tùy chíLưỡng Đường thư chí có chép, còn Tống chíVăn hiến thông khảo không chép nữa. Có thể thấy, điều mà Tiêu Hoằng nói trong lời tự tựa "Những gì hôm nay ghi chép được cũng đáng khích lệ. Sách vở mà thời nay biết vẫn còn đều đã xếp vào tứ bộ" quả là không thể tin được.

(8) Theo Việt Nam Hán Nôm di sản mục lụ c do Việt Nam biên soạn, sách này được truyền vào Việt Nam ở thời cận đại.

(9) Tiền Đại Hân: Bổ tam sử nghệ văn chí, quyển 2, bản Tùng thư tập thành. Trong lời bạt An Nam chí lược bạ t in ở quyển 44 tác phẩm Bộc thư đình tập của Chu Di Tôn, có nhắc đến sách này, nhưng đương thời họ Chu chưa được tận mắt nhìn thấy sách.

(10) La Chấn Thường: Thiện bản thư sở kiến lục, Thương vụ ấn thư quán, năm 1958.

(11) Xem Bộc thư đình tập, quyển 44.

(12) Các tỉnh tiến trình thư mục, sách tỉnh Triết Giang tặng cũng 18 quyển. Sách này Tứ khố tồn mục tùng thư chưa thu nạp.

(13) Triệu thị Bảo Văn đường thư mục - Từ thị Hồng Vũ lâu thư mục, Cổ điển văn học xuất bản xã, tháng 12 năm 1957.

(14) Sách này cũng được nhắc tới trong Bình định Giao Nam lục: "Tôi nhân tham khảo bảng văn lộ bố chép trong sách ghi chép về quận Giao Chỉ và tấm bia nói về bình định An Nam do ông Hồ Văn Mục phụng sắc soạn... phụ chép điều tôi biết được vào trong sách này".

(15) Lê Trắc, Trấn ích Tắc, Lê Trừng về sau đều định cư ở Trung Quốc. Tác phẩm của họ sáng tác tại Trung Quốc, nên cũng có thể coi là tác phẩm Trung Quốc.

(16) Việt sử lược, Việt thi tuyển, Trích diễm tập, Hoàng Việt địa dư chí đều được bảo quản ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội. Trong đó, Hoàng Việt địa dư chí có bản khắc in Kim Ngọc lâu.

(17) Xem Mông Văn Thông: Việt sử tùng khảo, An Dương Vương tạp khảo, Nhân dân xuất bản xã, tháng 3 năm 1983.

(18) Việt sử thông giám bắt đầu biên soạn vào năm thứ 9 niên hiệu Tự Đức (1856), hoàn thành vào năm thứ 34 niên hiệu Tự Đức (1881); Lịch triều hiến chương loại chí biên soạn vào năm thứ 2 niên hiệu Minh Mệnh triều Nguyễn.

(19) Đoạn văn này trong Việt Kiệu thư chắc là trích từ quyển 15 sách An Nam chí lược.

Văn hiến tham khảo chủ yếu

- Tùng thư tông lục. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, tháng 2 năm 1990.

- Trung Quốc cổ tịch thiện bản thư mục. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã tháng 12 năm 1990.

- Thanh sử cảo nghệ văn chí thập di. Trung Hoa thư cục, tháng 9 năm 2000.

- Tùng thư tập thành sơ biên, phần Thư mục.

- Tùng thư tập thành tục biên, phần Thư mục.

- Tứ khố toàn thư, phần Thư mục.

- Tứ khố toàn thư tồn mục tùng thư, phần Thư mục.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 5/2003

Thông tin truy cập

60844681
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
4460
13943
60844681

Thành viên trực tuyến

Đang có 385 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website