20190531 den tho NCTru

Ảnh: Đền thờ Nguyễn Công Trứ - Kim Sơn, Ninh Bình

Gần một thế kỷ nay, kể từ khi Lê Thước mở đầu nghiên cứu một cách hệ thống về con người và thơ văn Nguyễn Công Trứ (1928), tuy đã có không ít công trình lớn nhỏ tiếp tục trình bày các suy tư về nhân vật lịch sử kỳ vĩ này, song hầu như chưa có ai chú ý giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến  đọc văn bản thơ và thơ hát nói của ông. Việc đồng nhất con người trong sáng tác thơ văn (con người nghệ thuật) và con người thực ngoài đời (con người tiểu sử) vẫn diễn ra khá phổ biến trong thực tế tiếp cận thơ văn Nguyễn Công Trứ.  

Văn bản sáng tác bao giờ cũng là đối tượng quan trọng nhất của người đọc. Thế giới nghệ thuật với con người và không gian, thời gian chứa đựng trong văn bản không đồng nhất với thế giới hiện thực. Tìm hiểu, lý giải sự không đồng nhất này sẽ đưa lại những nhận thức quan trọng không thể thiếu về chính thế giới nghệ thuật của văn bản.   

Khó khăn của việc phân biệt con người tiểu sử và con người nghệ thuật luôn xuất hiện trong thực tế đọc văn học vì nhà nghiên cứu thiếu tài liệu về tiểu sử tác giả để đối chiếu, so sánh. Điều thuận lợi là chưa bao giờ tiểu  sử một tác giả thời trung đại  lại được lịch sử (và cả giai thoại) ghi chép, phản ánh chi tiết như trường hợp tiểu sử Nguyễn Công Trứ [i]. Chúng tôi muốn tận dụng khối lượng chi tiết tiểu sử phong phú đó để đối chiếu, tìm ra đặc điểm của con người nghệ thuật so với con người tiểu sử Nguyễn Công Trứ, từ đó nêu lên cách đọc sáng tác của ông, lý giải động cơ diễn ngôn sau thực tế sáng tác đó.

                                         *     

Giữa sáng tác và cuộc đời của Nguyễn Công Trứ dường như hàm chứa một khối mâu thuẫn lớn. Đứng trước thực tế sáng tác có vẻ mâu thuẫn đó, Lê Thước-nhà nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Trứ- đã nêu vấn đề về tính chủ ý của tác giả, một vấn đề mà lý luận văn học ngày nay vẫn quan tâm: “Xưa nay những kẻ anh hùng hào kiệt đã có cái tài “xuất chúng” thì thường hay có cái khí “siêu nhân”. Công đâu ăn lẫn với gà, rồng đâu ở vùng nước cạn, đã là người hào kiệt thì quả không chịu lẩn quất trong cái khuôn sáo người thường. Có lẽ cũng vì thế nên trong sự hành vi của cụ Nguyễn Công Trứ, nhiều khi hình như là lạ mắt trái tai, mà trong văn chương của cụ cũng lắm khi trái với cái tục kiến của người đời. Tức như ở chùa mà có ả đầu đi theo, thân làm việc đời mà miệng lại thích ngâm vịnh cái cảnh nhàn, khiến người đời sau, xem sử cụ, đọc văn cụ, không sao khám phá được cái tâm sự của cụ”.  Lê Thước tự hỏi : “Hoặc giả vì ta không hiểu thâm ý của cụ, nên ta ngộ nhận cái việc cụ làm cái lời cụ nói chăng ?”[ii].  Khái niệm “thâm ý” dùng ở đây tương đương với khái niệm chủ ý. Vấn đề ở chỗ có chủ ý sáng tác của tác giả hay không và làm sao để biết chủ ý của tác giả.       

Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) cho rằng Lê Thước đã bất lực khi muốn giải thích tính cách “mâu thuẫn” của tâm lý và cuộc đời Nguyễn Công Trứ. Sự bất lực này của Lê Thước, theo Nguyễn Bách Khoa, có ba nguyên nhân : 1) Không nhìn nhận mâu thuẫn là bản tính của sự vật; 2) Quan niệm trừu tượng về “cá nhân”; 3) Quan niệm phong kiến về tài năng. Ông lý giải : mâu thuẫn là bản tính của sự vật, một người như Nguyễn Công Trứ, sinh trưởng vào thời đại như thời đại của Nguyễn Công Trứ tất nhiên có tâm lý, hành vi mâu thuẫn nhau; còn con người là sản phẩm của những tương quan giai cấp nhất định; tài năng là sản phẩm của đời sống xã hội. Từ đó, Nguyễn Bách Khoa nêu lên nguyên tắc dựa vào đó để hiểu một thiên tài mà ông gọi là phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu tất cả cái hệ thống xã hội trong đó cá nhân, đứng ở phạm vi đẳng cấp của mình, đã bị hoàn cảnh quyết định và đã chiến đấu để chống lại hoàn cảnh ấy[iii].

Dễ thấy Nguyễn Bách Khoa đã đồng nhất con người nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ với con người tiểu sử của tác giả, một sự đồng nhất dễ dẫn đến cách lý giải không thuyết phục, dùng sáng tác thơ văn để minh họa cho những mối quan hệ xã hội-giai cấp của tác giả.  Chẳng hạn, nhận xét về quan niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ, ông viết “Quan niệm “cầm kỳ thi tửu” là một quan niệm tài tử. Bằng danh từ này, người ta thường chỉ thị hạng nho sĩ lơ đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, về sự vui sống cầu kỳ (hành lạc). Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lưu Linh chính là những nhà nho tài tử như vậy. Họ không sống cho tổ quốc, không sống vì đạo lý. Họ không sống cho họ, sống vì nghệ thuật , sống vì đẹp. Suốt đời họ chỉ đi tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm thơ, ở gảy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi…Nguyễn Công Trứ đã dùng đến triết lý hành lạc của phường tài tử. Ông đã ca tụng rượu, đàn, thơ, cờ, giăng, gió. Hơn nữa, ông đã sống nghênh ngang triết lý tài tử, suốt một kiếp người. Nhất là trong lúc thiếu thời”[iv]. Không phân biệt con người tiểu sử và con người nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, đến mức đánh đồng thơ văn và cuộc sống thực là một nét dễ thấy trong công trình Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ .  

Những dòng phân tích tuy hùng biện và hấp dẫn trên đây có sơ hở dễ thấy. Về phương diện lý luận, cần phân biệt thế giới khách quan với tính cách là đối tượng phản ánh với thế giới nghệ thuật như là sản phẩm sáng tạo chủ quan của tác giả. Tác giả không thể nào ôm trùm thế giới khách quan (trong đó có chính cái tôi của bản thân) bề bộn, phong phú, bác tạp mà buộc phải lựa chọn một số sự kiện, yếu tố với một chủ ý sáng tác nhất định. Chẳng hạn, nếu không gian hiện thực của mùa xuân ở Việt Nam có rất nhiều yếu tố như hoa đào, én bay, đôi chim yến anh, hoa đào và các loại hoa như hoa xoan, ong bướm-hoa, cánh đồng xanh, mầm non, mưa xuân, phiên chợ tết, pháo nổ giao thừa… thì khi đi vào mỗi sáng tác của mỗi tác giả, chúng lại được lựa chọn theo một cách riêng, không tác phẩm nào giống tác phẩm nào. Có tác giả chọn ong (bướm)- hoa, có người chọn mưa xuân, có người lại chọn màu xanh (Nguyễn Bính tùy từng bài thơ mà chọn mưa xuân, chọn cỏ xanh, đồng lúa xanh, và chiếc thắt lưng xanh hay chọn đôi chim yến anh). Cũng tương tự như vậy, các tác giả thuộc các lập trường tư tưởng và nghệ thuật khác nhau lại có thể, một số tác giả này nhắm đến người nông dân dưới đáy xã hội, một số tác giả khác lại quan tâm đến người tiểu tư sản thành thị. Việc tái cấu trúc không gian hiện thực khi đưa không gian vào tác phẩm phục vụ những mục đích sáng tạo nhất định của tác giả. Không gian vật lý và không gian địa lý được lựa chọn và  tái cấu trúc để trở thành không gian nghệ thuật. Các tác giả nhà nho trung đại thường tả không gian theo nguyên tắc đối xứng của âm-dương và ngũ hành, trong khi đó, các nhà thơ hiện đại lại có thể bỏ qua kiểu không gian đối xứng đó. Thời gian cũng là một phương diện của hiện thực khách quan và cũng được tác giả tiếp nhận, tái cấu trúc theo một chủ ý sáng tác nào đó. Thời gian vật lý khi đi vào tác phẩm đã thành thời gian tâm lý, thời gian nghệ thuật, theo đó, tác giả quyết định kể lại, chẳng hạn một sự kiện trong tác phẩm vốn chỉ diễn ra trong một buổi chiều, với thời gian kể dài gấp vài lần thời gian hai mươi tám năm diễn ra ngoài đời. Chí Phèo từ lúc đẻ rơi đến khi đi tù về trải qua khoảng 28 năm nhưng khoảng thời gian này chỉ được kể rút ngắn lại, chỉ bằng khoảng ¼ thời gian kể lại diễn biến trong một buổi chiều Chí Phèo đến cổng nhà Bá Kiến ăn vạ. Thời gian vật lý có  bốn mùa xuân hạ thu đông, song tỷ lệ các mùa đó đi vào thơ ca trung đại không như nhau, mùa thu và sau đó là mùa xuân được tả nhiều nhất, còn mùa hạ và mùa đông có tần suất thấp hơn. Một ngày có 24 giờ, song thơ trung đại lại hứng thú với những thời điểm liên quan với hoàng hôn và đêm hơn là buổi sáng, buổi trưa. Và tất cả những lựa chọn đó đều có mục đích sáng tạo nghệ thuật riêng.

Nếu chúng ta hình dung cái tôi của tác giả là một khách thể của hành động sáng tác văn học (tạo ra thế giới nghệ thuật) thì sẽ thấy nguyên lý về sự khác biệt giữa hiện thực khách quan và thế giới nghệ thuật vẫn giữ nguyên hiệu lực. Tác giả có thể không bộc lộ toàn bộ con người tiểu sử mà chỉ chọn những hành động, những tâm tư, cảm xúc, những hành vi nào đó của bản thân làm đối tượng biểu đạt đồng thời, vì một mục đích sáng tạo nào đó, gạt bỏ hành động, việc làm khác tuy có thực ở tác giả, không đưa vào thế giới nghệ thuật của sáng tác, không dùng chúng như chất liệu xây dựng hình tượng cá thể của mình. Có nhà thơ không yêu, không có vợ, song làm thơ về tình yêu thật tha thiết, đắm say và ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng đưa tình yêu của riêng mình vào thơ. Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, các tác giả thường cố gắng đưa vào thơ không gian chiến trận, súng đạn, tiếng còi tàu gọi lên đường, thậm chí muốn ôm hôn người yêu mang súng trên vai, điều không nhất thiết có thực với con người tiểu sử. Lại có nhà thơ không hề có mặt ở Điện Biên Phủ mà vẫn viết những vẫn thơ vào loại hay nhất về chiến thắng này.    

Một vấn đề lý luận nữa cần chú ý khi đọc tác phẩm là mối quan hệ giữa tư tưởng và ngôn từ. Ngôn từ có chức năng chuyển tải tư tưởng, song không phải bao giờ ngôn từ cũng đủ để biểu hiện tư tưởng của tác giả. Một tư tưởng mới có khi vẫn bị khuôn trong hệ thống ngôn từ và biểu tượng cũ. Hệ từ vựng mà một tác giả sử dụng khi đã tồn tại trong một thời gian nhiều thế kỷ –nhất là ở thời trung đại – có thể trở nên sáo mòn,  không phản ánh được đầy đủ những nét riêng ở một tác giả, không đáp ứng được nhu cầu biểu hiện của tác giả. Khi đó nếu chỉ dựa vào nghĩa từ điển của các từ ngữ được sử dụng sẽ không thể hiểu đúng con người nghệ thuật trong văn bản tác phẩm. Khi đó có thể xuất hiện hệ từ vựng mới hoặc phá vỡ nghĩa của từ vựng cũ.

                                                   *         

Nói về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ, từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật, có thể bắt gặp con người  “hành lạc” với “cầm kỳ thi tửu”, “gió trăng”, “chí nam nhi”, “công danh”, “trời đất”, “núi sông”, “nợ tang bồng”, “trung hiếu” là những khái niệm thuộc về mã văn hóa của nhà nho, của văn nhân, trí thức thời trung đại nói chung đã tồn tại hàng ngàn năm cho đến Nguyễn Công Trứ mà Nguyễn Công Trứ kế thừa. Hay nói như lý thuyết liên văn bản, giữa các văn bản có sự gặp gỡ của nhiều khái niệm, phạm trù, có ảnh hưởng qua lại của văn bản xuất hiện trước đối với văn bản xuất hiện sau. Đề cập đến hành  lạc với cầm, kỳ, thi, tửu không phải chỉ có trong thơ và hát nói Nguyễn Công Trứ mà có thể gặp trong sáng tác của nhiều tác giả trung đại khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, tất nhiên ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Cuộc đời hoạt động không biết mệt mỏi trên nhiều lĩnh vực và những sáng tác của Nguyễn Công Trứ viết về chí nam nhi cũng không cho phép nhận xét quan niệm tài tử lơ đãng với kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, vui sống cầu kỳ. Thưở thiếu thời nghèo khó không cho phép ông “sống cầu kỳ”. Khi ra làm quan, một người như Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mạng gọi bằng danh từ “nho tướng”, với cuộc đời hoạt động trên đủ mọi lĩnh vực, trải rộng trên các vùng không gian rộng dài của đất nước và được sử sách chép nhiều nhất, không cho phép định danh là lơ đãng với hành đạo được. Thơ hát nói, thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ tràn đầy các ngôn từ hành động “công nghiệp”, nợ công danh”, “chí nam nhi”, “tang bồng hồ thỉ”, “chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”…đồng tồn tại với các ngôn từ chỉ hành lạc cũng tràn ngập trong sáng tác của ông.

Khi đọc thơ và thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ, người đọc hiện đại dễ mắc vào những cái bẫy ngôn từ vốn do đặc điểm của ngôn ngữ văn học trung đại tạo ra, nhất là những ngôn từ đã thành “mẫu gốc”, đồng thời, dễ bỏ qua ranh giới giữa văn bản tác phẩm  như là một thế giới nghệ thuật và thế giới hiện thực.

Trường hợp Nguyễn Công Trứ đặt ra những vấn đề thú vị cho lý thuyết tiếp nhận văn học trung đại.

                                         *

          Như trên đã nói, khái niệm “thế giới nghệ thuật” được dùng để chỉ thế giới nội tại của văn bản tác phẩm và phân biệt với thế giới thực tại khách quan. Văn học phản ánh hiện thực; con người tác giả trong sáng tác có quan hệ như thế nào đó với con người thực ngoài đời song không phải là một; thế giới khách quan với không gian, thời gian được hình tượng hóa chứ không được bê nguyên si vào sáng tác. Nhà văn không thể bê nguyên si thế giới hiện thực khách quan bề bộn, ngổn ngang vào thế giới nghệ thuật vốn bị hạn định về thể loại, về ngôn ngữ. Thế giới nghệ thuật là thế giới hiện thực khách quan đã được tác giả lựa chọn, xếp đặt lại, tái cấu trúc theo một định hướng, một chủ đích sáng tác nhất định của tác giả.          

Nhà nho là mẫu người “tu kỷ, trị nhân” nên không khó hiểu khi họ chủ trương làm thơ để phát biểu “chí” (thi ngôn chí). Không thuộc loại nhà văn chuyên nghiệp sống bằng nhuận bút như tác giả văn học thế kỷ XX, mà thuộc kiểu người hoạt động chính trị -xã hội trong một xã hội vận hành theo mô hình đức trị phát biểu, nhà nho nói “chí” là nói những hoài bão chính trị -xã hội ấp ủ trong chiều sâu nội tâm.  Nhà nho thường bộc lộ hai nội dung cảm xúc chủ đạo :1) trách nhiệm với đời, với dân, nước của một con người có lý tưởng đạo đức và nhân cách cao quý (tinh thần tự nhiệm) và 2) quan niệm về một nền chính trị theo mô hình đức trị.

Để phục vụ cho việc nói chí, lịch sử văn học nhà nho từ xa xưa đã xây dựng cho mình một hệ thống các biểu tượng và các khái niệm riêng như là các mẫu gốc. Các biểu tượng không gian như trời đất, vũ trụ, giang sơn (núi sông, non nước), vũ trụ, càn khôn, bốn bể, Nam Bắc Đông Tây …  có ý nghĩa định vị cao quý cho chủ thể nam nhi, nam tử, anh hùng, trượng phu, quân tử -con người với chí nam nhi, nợ công danh, công nghiệp, nợ quân thân, nợ tang bồng, kinh luân, kinh thiên động địa, gươm đàn,  với các phẩm đức trung hiếu, ưu ái, quân thân rất cần cho một xã hội thái bình thịnh trị. Như đã nói ở trên, có thể dùng lý luận về tính liên văn bản để hình dung điều này. Mặt khác, qua các thời đại khác nhau, soi vào từng tác giả nhà nho khác nhau, trong tình huống sáng tác khác nhau (ví dụ văn khoa cử), nội hàm các khái niệm trên cũng có thể biến đổi và đến một lúc nào đó, có thể trở thành những cái vỏ ngôn từ rỗng nghĩa hoặc xuất hiện những hàm nghĩa mới. Khổng Tử từng phân biệt hai khả năng : hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức (người có đức tất có tài ăn nói, người có tài ăn nói vị tất đã có đức). Mối quan hệ giữa phẩm chất bên trong và biểu hiện ra bên ngoài bằng ngôn ngữ không đơn giản một chiều. Hai thứ thơ khẩu khí và thơ khoa cử khá phổ biến thời trung đại là bằng chứng cụ thể. Thoạt nhìn, hai loại thơ này có dấu hiệu điển hình của thơ nói chí. Những ngôn từ, biểu tượng nói chí ở đó không khác với thơ nói chí thông thường nhưng chúng trống rỗng, nói như lời cổ nhân, không có phong cốt, không được bảo lãnh bằng hành động thực tế của tác giả, tức là không chân thực, mà chỉ dừng lại ở nghệ thuật ngôn từ, do kết quả của một quá trình đèn sách, luyện tập viết nhiều thơ văn khoa cử.     

Vì thế, khi đọc sáng tác của một tác giả trung đại và có lẽ cả tác giả hiện đại, điều lý tưởng nhất là có nhiều thông tin xác thực về tiểu sử  tác giả phục vụ cho sự đối chiếu sáng tác phục vụ cho công việc đối chiếu. Lý thuyết về cái chết của tác giả hoàn toàn không phù hợp với kiểu tác giả nhà nho và sáng tác nói chí của họ trong văn học trung đại Việt Nam. Thông tin về tiểu sử tác giả trong trường hợp Nguyễn Công Trứ đã cấp cho độc giả thế kỷ XXI một hình dung cụ thể về nội hàm các khái niệm phổ biến cho thơ nói chí. Lấy khái niệm “nam nhi” (nam tử) làm ví dụ. Phạm Ngũ Lão (thế kỷ XIII-đầu thế kỷ XIV), Phùng Khắc Khoan (thế kỷ XVI-đầu thế kỷ XVII), Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ (thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX) và Phan Bội Châu (cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX) đều dùng từ “nam nhi” (nam tử) để hình dung mẫu hình nhân cách nhà nho tự nhiệm, con người đứng giữa càn khôn, vũ trụ, giang sơn-không gian thiêng cấp khí cho những con người phi thường, lỗi lạc [v]. Tuy vậy, cuộc đời hoạt động hết sức phong phú, đa dạng, trải trên một vùng không gian đất nước rộng dài của Nguyễn Công Trứ đã cấp cho khái niệm “nam nhi” một nội dung phong phú, thực chất hơn cả, không phải vì Nguyễn Công Trứ phát biểu bằng nhiều bài thơ và thơ hát nói về nam nhi. Phạm Ngũ Lão là một võ tướng; Nguyễn Du chỉ là một người long đong lật đật hết ăn nhờ ở miền sông đến miền bể, không có tài liệu nào xác nhận ông có hoạt động về quân sự hay kinh tế; Phan Bội Châu là nhà nho duy tân mải miết đi tìm đường cứu nước trong bối cảnh mới. Nguyễn Công Trứ hoạt động trên hầu như tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chánh chủ khảo trường thi, tiễu phỉ, dẹp loạn (quân sự), làm doanh điền sứ (lãnh đạo khai khẩn đất hoang) và các tư tưởng xây dựng xã hội như : tấu sớ về nạn cường hào, về trị thủy sông Hồng. Không gian ước lệ mang tính biểu tượng như trời đất, giang sơn, càn khôn và các quan niệm giá trị sống có tính ước lệ nợ công danh, phải có danh gì với núi sông khi soi vào cuộc đời hoạt động của Nguyễn Công Trứ có những nội dung thực tiễn rất khác với vẫn những từ ngữ đó soi vào cuộc đời của các tác giả khác[vi]. Những khái niệm ước lệ mòn sáo hàng ngàn năm không thể giúp cho người đọc chỉ dựa vào văn bản mà hiểu hết con người tiểu sử của tác giả. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng kiến nhiều trường hợp khi con người và tư tưởng đòi hỏi đổi mới nhưng ngôn từ không kịp thay đổi tương ứng[vii]. Nguyễn Công Trứ đã “điền” vào những khái niệm phổ biến của văn chương nhà nho nội dung riêng, bằng chính cuộc sống của mình. Nếu ta liên hệ với con người tiểu sử tác giả, có thể thấy khái niệm “chí nam nhi” ở Nguyễn Công Trứ bao gồm không thuần túy là nhà nho lập công danh sự nghiệp theo “tam bất hủ” –lập đức, lập công và lập ngôn. Bàn về trị thủy sông Hồng, thực hiện chiến lược khai khẩn đất hoang, làm quan chủ khảo trường thi … dường như không có quan hệ nào với “chí nam nhi” theo cách hiểu thông thường. Những khái niệm mòn sáo như “vũ trụ”, “bốn bể”, “trời đất” của nhà nho hàng ngàn năm vốn dùng để hình dung không gian hoạt động của nhà nho khó có thể bao quát được không gian hoạt động hiện thực của Nguyễn Công Trứ suốt từ Hà Giang, Thái Nguyên, Hải Dương, Quảng Yên (Quảng Ninh), qua Hà Nội, Thừa Thiên, Quảng Ngãi đến An Giang, trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, kinh tế, quân sự, văn hóa khác nhau. Những khái niệm mòn sáo đó không thể chuyển tải đúng, đủ những nỗ lực, những gian khó, những thử thách, những hiểm nguy do núi cao, vực sâu, sông rộng, biển dữ mà Nguyễn Công Trứ trải qua trên các hành trình từ núi đến đồng bằng, biển cả.  Như để bù lại cho thiếu hụt của hệ ngôn từ truyền thống, ông đã cố gắng sử dụng tối đa thể thơ hát nói, một thể thơ chơi, viết cho ả đào hát, có tính chất phóng khoáng tự do, như để tăng thêm tính loại biệt, tính khác thường cho chí nam nhi và con người vũ trụ mà thơ Đường luật kể cả Hán hay Nôm không thể chuyển tải. Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc/ Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai nam bắc đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Ở đây có vấn đề về quan hệ giữa nội dung và hình thức thể loại. Chế Lan Viên đã từng nêu ý kiến sâu sắc:  “Một số thơ dùng thể cũ để nói lên chất liệu mới, nội dung mới. Cần chống xu hướng modec theo kiểu lai căng, lại cần chống dân tộc theo kiểu hình thức. Tôi cho là đố ai dùng 6/8 (lục bát) mà đưa được chữ chất độc da cam vào cho khỏi khiên cưỡng. Yếu tố mới đòi phá vỡ khuôn khổ cũ”[viii].  Nhưng thể thơ hát nói tuy có nhịp điệu khác lạ so với thơ Đường luật vẫn không diễn tả hết được nội hàm của danh xưng “nho tướng” mà vua Minh Mạng dùng để gọi Nguyễn Công Trứ vì hệ thống ngôn từ cũ về cơ bản vẫn không thay đổi [ix]. Làm sao mà “trời đất”, “bốn bể”, “dọc ngang”, “tung hoành”, “vẫy vùng”… lại có thể gợi cho người đọc hình dung đầy đủ một con người vừa xông pha trận chiến, lại vừa khai hoang lập ấp và chủ khảo trường thi. Như để bù lại cho sự bất lực của hệ từ vựng truyền thống, để hiểu con người Nguyễn Công Trứ trong sáng tác, giới nghiên cứu hướng đến tiểu sử tác giả. Lê Thước đã chú ý đến giai thoại và sử liệu đời Nguyễn về Nguyễn Công Trứ [x]; nhà sử học Mai Khắc Ứng và gần đây nhất là nhà nghiên cứu Đinh Văn Niêm đã công phu lọc từ toàn bộ sử liệu viết về Nguyễn Công Trứ-một nhà văn được sử sách đương thời nhắc đến nhiều nhất, nhờ đó, người đọc thế kỷ XXI dễ dàng hình dung thế nào là quan niệm “nam nhi” ở tác giả văn học này, một quan niệm mà liên văn bản “nam nhi” không thể giải thích nổi vì nghĩa của “nam nhi” được định nghĩa bởi chính cuộc đời hoạt động của mỗi tác giả sử dụng nó. Nếu chỉ dựa vào nghĩa từ điển của “nam nhi” mà không đối chiếu với tiểu sử tác giả thì không thể hiểu đầy đủ sáng tác của Nguyễn Công Trứ[xi].  Nói tóm lại, tiểu sử tác giả và ngôn từ văn bản là hai thực thể riêng biệt song giữa chúng có mối quan hệ qua lại mật thiết. Việc đối chiếu con người tiểu sử và con người nghệ thuật trong trường hợp Nguyễn Công Trứ đã cho thấy ngôn ngữ và thể loại dù đã được ông cách tân của văn học trung đại đã không theo kịp con người tiểu sử.  Đối chiếu con người tiểu sử như là một tham khảo cần thiết đã giúp chúng ta, những hậu thế cách ông hơn hai thế kỷ không chỉ nhận thấy tính cách mạnh mẽ, khỏe khoắn của kiểu nhà nho Nguyễn Công Trứ mà còn cảm thông, thấu hiểu gian khổ, khó khăn, thử thách đã dồn lên ông, để từ đó trân trọng hơn, trân trọng đúng những cống hiến, hy sinh, thiệt thòi của ông cho dân cho nước trong lòng một xã hội phong kiến chuyên chế.

                                                   *

Trong sáng tác, Nguyễn Công Trứ xây dựng hình ảnh một kẻ hành lạc đậm nét đến mức Nguyễn Bách Khoa đã cho rằng Nguyễn Công Trứ lơ đãng với công danh, với kinh bang tế thế. Nguyễn Công Trứ không chỉ chơi “cầm kỳ thi tửu”, mà lại còn “đối mặt hoa mà cầm mà kỳ mà tửu mà thi” đến mức có nhà nghiên cứu qui kết ông là kẻ sắc dục, đồi trụy[xii]. Những tiếng ngợi ca và phê phán Nguyễn Công Trứ đều ồn ào. Nhưng trong cách đọc hiện nay, vẫn có sự đồng nhất con người tiểu sử và con người nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ vốn rất cần phân biệt. Nếu Nguyễn Công Trứ trong đời thực có cuộc sống trụy lạc thì chắc chắn ông không được nhân dân kính cẩn lập sinh từ (đền thờ ngay khi ông còn sống), hàng chục làng ở Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình thờ ông làm thành hoàng làng[xiii] và được Minh Mạng gọi là nho tướng. Con người trụy lạc đó chỉ là một hư cấu nghệ thuật mang một chủ đích của tác giả hơn là một con người thực.

Nội dung của “hành lạc” được diễn đạt bởi nhân vật phát ngôn (speaker) trong sáng tác Nguyễn Công Trứ có thể qui về cầm, kỳ, thi, tửu với điểm nhấn là sự tô đậm nữ sắc. Ai cũng biết, cầm, kỳ, thi, tửu (cầm, kỳ, thi, họa) là thú chơi tao nhã của trí thức nho sĩ và được đưa vào thơ ca như một thứ biểu tượng đánh dấu kiểu người trí thức xưa. Nguyễn Trãi viết Dắng dỏi bên tai tiếng quản huyền/Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn (Tích cảnh thi, 201). Những từ ngữ hoa nguyệt, xuân xanh, lòng xuân trong thơ Nguyễn Trãi như gợi ý sự rung động trước âm nhạc và có thể cả thanh sắc của người biểu diễn. Có thể bài ca trù cổ nhất hiện còn là bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào do Lê Đức Mao viết cuối thế kỷ XV, song giới quan lại, nho sĩ trí thức từ trước đó như Nguyễn Trãi  đã sống trong không gian giải trí nghệ thuật tương tự. Nguyễn Du tiết lộ thú nghe đàn hát qua Long thành cầm giả ca. Nguyễn Khuyến có một lần tiết lộ rằng ông cùng bạn Dương Khuê đi hát ả đào Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang. Tuy nhiên, trò chơi thanh sắc bị cái nhìn chính thống miệt thị (ả đào là hạng xướng ca vô loài) nên dẫu có chơi, nhiều trí thức nho sĩ hạn chế phô phang, nghĩa là chủ trương lược bỏ hoạt động nghệ thuật và chơi ngoài đời đó, không đưa vào sáng tác. Phạm Đình Hổ còn thú nhận nghe thấy nói đến thanh sắc, cờ bạc là bịt tai[xiv] tuy trong tập Đông Dã học ngôn thi tập ông có bài thơ Cựu ca cơ nhắc đến cô đào nào đó ở giáo phường Chức Cẩm từng biểu diễn trong cung đình tại Thăng Long. Một khi nhà nho coi ả đào, ca nhi là xướng ca vô loài, dĩ nhiên, không hay ho gì việc khoe khoang hát xướng, nếu có đi hát cũng cần giấu đi, hay hạn chế đưa vào thơ, hát nói. Nguyễn Du chỉ hé lộ trong thơ một lần việc ông từng nhiều lần tham dự các buổi hòa nhạc của cô Cầm trong cung đình (Long thành cầm giả ca). Có khi từng gác cheo leo/ Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang -đó là tiết lộ của Nguyễn Khuyến về việc ông một lần đi hát nhân Khóc Dương Khuê- khóc một tác giả viết hát nói nổi tiếng. Trong khi đó, Nguyễn Công Trứ dường như lại cố ý nói to lên, tô đậm thêm cái thú hát xướng, nhấn mạnh đây là thú tài tình-thưởng thức tài đàn hát và thể nghiệm tình ái với các ả đào Khi đắc ý mắt đi mày lại/Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng. Nguyễn Trãi từng lưu ý Sắc là giặc đam làm chi. Nguyễn Công Trứ không những ca ngợi tài tình mà còn cố ý nói to lên trong sáng tác như muốn phô phang chuyện lấy vợ lúc đã vào tuổi xưa nay hiếm Tân nhân dục vấn lang niên kỷ/ Ngũ thập niên tiền nhị thập tam (Người mới hỏi chàng bao nhiêu tuổi/ Năm mươi năm trước đây ta hai mươi ba tuổi). Đi xa hơn, người đọc ở thế kỷ XXI còn gặp tư thế “ngất ngưởng” trong Bài ca ngất ngưởng của ông, trong đó Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/Bụt cũng nực cưởi ông ngất ngưởng. Nhà nho này trong sáng tác không còn là con người nhà nho ngoài đời trọng “lễ” mà Khổng Tử từng dạy “xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế” (ra khỏi cửa như đi gặp một vị khách quan trọng, sai khiến dân cẩn trọng như tiến hành tế lễ lớn). Ngất ngưởng mang tinh thần phá chấp, thể hiện một thái độ coi thường lễ nghi trang trọng, phiền phức của xã hội Nho giáo.

Chúng tôi từng lý giải rằng đó là biểu hiện của sự trung thực mà Nguyễn Công Trứ luôn đề cao. Tuy nhiên, nếu phân tích mối quan hệ giữa Nguyễn Công Trứ và triều Nguyễn, đặc biệt với vua Minh Mạng thì các tài liệu thuộc tiểu sử cho thấy có một hướng giải thích khác khả thủ hơn.

Lịch sử cho hay, đối với các triều đại chuyên chế, nguy cơ bị lật đổ hoặc thoán đoạt  từ phía những công thần tài năng, đức độ khiến các bậc đế vương luôn nghi kỵ, cảnh giác. Biết Nguyễn Công Trứ là bậc hiền tài, vua Minh Mạng chọn cách đối xử bằng ân uy. Nhà nghiên cứu Lê Thước từng nhận xét rằng ân thì mọn mà uy thì toàn uy lớn và những lần triều đình giáng chức ông đều oan sức hoặc quá nặng. Có khi vua ban thưởng, có khi gửi  cả vàng cho Nguyễn Công Trứ tiêu pha nhưng cũng nhiều phen giáng chức vì các lý do khác nhau. Nguyễn Công Trứ được dân vùng khẩn hoang lập đền thờ sống (sinh từ, năm 1852)[xv] thì làm sao ông có thể tránh khỏi bị nghi ngờ : có giai thoại kể rằng Nguyễn Công Trứ đã phải ứng khẩu bịa ra đôi câu đối về cái phản để kể cho vua nghe như một cách khéo léo oán trách Minh Mạng Đem thân cho thế gian ngồi/Rồi ra lại nói những lời bất trung [xvi] (câu đố này ngụ ý cái phản, vừa để ngồi nhưng lại bị gọi là “phản”, một cách chơi chữ). Đã có tài, lại có đức, Nguyễn Công Trứ không thể yên thân nếu không có minh triết bảo thân. Cách giữ mình tốt nhất có lẽ là qua sáng tác văn chương xây dựng hình tượng một con người nghệ thuật có vẻ kém đạo đức, ngông nghênh, trụy lạc, tương tự như mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến sau này Tấm hồng nhan đem bôi lấm lòa xòa/ Làm thế để cho qua mắt tục . Do đó, con người nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Công Trứ được trình bày như một kẻ kém đức, ít lễ: ngất ngưởng khinh bạc, ham mê nữ sắc, hành lạc bao gồm sắc dục…điều mà nhiều nhà nho thuộc các thế hệ tránh biểu lộ trong sáng tác. Trình diễn một con người không mẫu mực, không chân chỉ, bằng cách đó, dường như Nguyễn Công Trứ có dụng ý đem lại sự yên tâm cho Minh Mạng vốn luôn mang một mối nghi ngờ về khả năng làm phản của những bề tôi tài năng. Đó là minh triết bảo thân trong xã hội chuyên chế. Không nhất thiết phải theo đường mòn quen thuộc, xây dựng một hình tượng ẩn sĩ lánh đục tìm trong, để bảo thân và giữ vững nhân cách, có một phương án khác mà Nguyễn Công Trứ đề nghị và thực hành: xây dựng một hình tượng đa dục, ngông nghênh, ngang tàng, ít đức theo cách nghĩ thông thường. Đó là diễn ngôn chính trị của nhà thơ mà hậu thế chúng ta cần nắm bắt.  

                                         *

Sáng tác của một nhà nho trung đại như Nguyễn Công Trứ cho thấy, cần vận dụng lý luận liên văn bản và lý thuyết tiếp nhận cho văn học trung đại Việt Nam một cách linh hoạt, sáng tạo. Điều quan trọng là cần phân biệt con người tác giả tiểu sử và con người nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ. Trong sáng tác của ông, các khái niệm xoay quanh chí nam nhi, quanh hưởng lạc cần được xem xét như là một “diễn ngôn”, chúng chỉ có thể hiều đúng khi ta đối chiếu chúng với cuộc đời (tiểu sử tác giả ) và so sánh với các tác giả khác. Vấn đề chủ đích của tác giả, về chỗ riêng, độc đáo của tác giả khi xây dựng thế giới nghệ thuật của mình không thể giải quyết nếu chỉ dựa vào văn bản mà thiếu liên hệ với tiểu sử. 

Trần Nho Thìn, GS TS - Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học - Nghệ thuật, số 5/2019


Chú thích:

[i] ) Nhà nghiên cứu Đinh Văn Niêm đã thống kê  261 sự kiện liên quan đến Nguyễn Công Trứ do sử nhà Nguyễn ghi chép, công bố trong sách Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008. 

[ii] ) Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo  Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008. 

[iii] ) Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 496-503.

[iv] ) Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 524-525.  

[v] ) -Phạm Ngũ Lão Nam nhi vị liễu công danh trái (Thuật hoài-Công danh nam tử còn vương nợ)

     -Phùng Khắc Khoan Nam nhi tự hữu hiển dương sự (Tự thuật, Nam nhi phải có sự  nghiệp làm vẻ vang cho cha mẹ)

     -Nguyễn Du Loạn thế nam nhi tu đối kiếm (Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn)

­     -Nguyễn Công Trứ, Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái (Chí nam nhi-Lập công danh là món nợ của nam nhi)

    -Phan Bội Châu Sinh vi nam tử yếu hy kỳ (Xuất dương lưu biệt, Làm trai phải lạ ở trên đời).

Về không gian thiêng theo vũ trụ luận cổ đại phương Đông, xin xem Trần Nho Thìn, Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học, NXB Giáo dục, 2018, tr. 131-132.  

[vi] ) Trích biên niên sử đời Nguyễn Đại Nam thực lục ghi một số hoạt động của Nguyễn Công Trứ

Các hoạt động đa dạng của Nguyễn Công Trứ theo biên niên sử Đại Nam thực lục Đại Nam chính biên liệt truyện. Đinh Văn Niêm tổng hợp in trong Nguyễn Công Trứ theo dòng lịch sử, sách đã dẫn.

­

-Tháng 1/1826 (Minh Mạng), Tham hiệp Thanh Hoa là Nguyễn Công Trứ tâu xin thân đem thủ hạ đi đánh bắt thổ phỉ (Lê Duy Lương); tháng 2 đánh bắt bọn Ninh Đăng Tạo thuộc các huyện Nghệ An-Thanh Hóa. Tháng 6 dẹp xong. Vua ban khen, tháng 12 Nguyễn Công Trứ được gia hàm Thị Lang quyền biện Hình tào Bắc thành.

-1827: tháng 2 tham gia đánh dẹp Phan Bá Vành ở Trà Lũ, Nam Định; tháng 3 : được làm Tả Thị lang Hình bộ; tháng 7 triệu về Kinh (Huế)

-1928, tháng 2: Tả Thị lang Lễ bộ Nguyễn Công Trứ làm Tả Thị lang Hình bộ, vẫn kiêm chức Toản tu, tiếp tục biên soạn Bách ti chức chế; tháng 3 lĩnh chức Dinh điền sứ, dâng sở bàn ba việc quản trị nông thôn. Tháng 9 lại dâng sớ xin trừ tệ cường hào; tháng 10 đặt huyện Tiền Hải, nơi trước đây, bọn cướp hay tụ tập, nay Nguyễn Công Trứ đến nơi, chiêu tập phủ dụ lòng người mới yên;

-1829: bắt đầu đặt huyện Kim Sơn, Nguyễn Công Trứ lĩnh Dinh điền sứ, định qui ước cho các làng mới lập.

-1830: tháng 5, Thự Tham tri Hình bộ Nguyễn Công Trứ tâu xin đưa các tù phạm đến khai khẩn vùng đất Hà Tiên, bị vua bác.

-1831: tháng giêng, Thự Hữu Tham tri Hình bộ Nguyễn Công Trứ bị phạt giáng chức Tri huyện Kinh huyện vì bảo cử Phí Quý Trại.

-1832 : tháng 3, được làm Viên ngoại lang Nội vụ phủ; tháng 3 thăng làm Thự Lang trung; tháng 5; thự Bố chính Hải Dương, tháng 8, làm Bố chính Hải Dương; tháng 9 làm Tuần phủ Hải Dương rồi Thự Tổng đốc Hải Yên, xin đi tiễu phỉ từ Trung Quốc, vua khen chí khí; tâu xin cho khẩn hoang ở Quảng Yên, vua chuẩn y.

-1833: Thự Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ xin cầm cờ tiết đi đánh dẹp vùng Sơn-Hưng, vua sai bộ Lễ truyền chỉ ban qướ; tháng 6, do công dẹp giặc ở Hải Dương, được khôi phục hai cấp bị giáng trước; tháng 8: Thự Tổng đốc Hải –Yên Nguyễn Công Trứ nhận lệnh đem binh đến Tuyên Quang hội với Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên Lê Văn Đức đánh giặc  Nông Văn Vân. Nguyễn Công Trứ nhận chức Tham tán quân vụ.

-1834: tháng 8, bộ Hình tâu Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ hành quân chậm trễ, kết án tử hình. Vua dụ hãy tước hết mũ áo, đoạt hết lương bổng, giáng Lê Văn Đức 4 cấp, Nguyễn Công Trứ 3 cấp cho lập công chuộc tội.

-1835: tháng 3, giết được Nông Văn Vân, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ trước bị án hành quân chậm trễ phải tước mũ áo, nay được trả lại. Tháng 4, vua triệu các đại thần và Nguyễn Công Trứ về Kinh chầu, ban thưởng. Trong khi chờ đợi, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ  cứ ở lại Thái Nguyên ăn yến, xem hát chèo và làm các công việc đợi tháng 5 vào chầu. Tháng 6, Nguyễn Công Trứ dâng sớ xin đi quân thứ Gia Định, vua chưa sai đi; các bầy tôi có công được ban lễ bão tất (ôm gối vua); vua chính tay ban rượu. Vua phán “ Nguyễn Công Trứ xuất thân từ quan văn, thế mà ngày ngày làm được việc quân, nay đã ba năm, không ngại khó nhọc, kể cũng đáng khen. Vậy chuẩn cho một người con được tập ấm làm Hiệu úy vệ Cẩm y.  Tháng 10: Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ cùng Thự Tổng đốc Yên Định, Tuần phủ Hưng Yên đi xem xét sông, đê bàn về đào sông, đắp đê dòng sông Cửu An (nhánh sông Cái)

-1836, tháng 2 tiếp tục đào sông Cửu An ; tháng  9, Tổng đốc Hải -Yên Nguyễn Công Trứ tâu xin thay các Tú tài bằng Cử nhân làm chức Giáo thụ, Huấn đạo, vua không cho; tháng 11, Nguyễn Công Trứ điều trần về tệ xét xử hình ngục gây nhiều oan uổng.

-1837: tháng giêng tiếp tục đắp đê sông Cửu An, tháng 3, đê đắp xong, vua ban thưởng; tháng 5 triệu Tổng đốc Hải An về Kinh chầu, cùng vua bàn về phát thóc cho dân vay. Tháng 12, Nguyễn Công Trứ tâu xin cho khơi các nhánh sông Hồng, vua chuẩn y.

-1838: tháng 5, giáng Nguyễn Công Trứ hai cấp vì để cướp biển hoành hành. Tháng 9, Tổng đốc Hải Yên đem quân vây bắt giặc biển. Tháng 12, Nguyễn Công Trứ bị giáng một cấp vì vẫn để cướp biển hoành hành. Dựng bia võ công, bộ Binh chọn 20 người, trong đó có Nguyễn Công Trứ

-1839: tháng 6, giáng Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ xuống Hữu Tham tri bộ Binh vì không biết bắt giặc biển ở Quảng Yên; tháng 9, cho Nguyễn Công Trứ kiêm Tả Phó Đô ngự sử viện Đô Sát; tháng 10: Nguyễn Công Trứ cùng các quan làm Phó Đổng lý, dựng lầu rạp nhân khánh tiết.

-1840: tháng 7, phái Hữu Tham tri bộ Công Nguyễn Công Trứ nghiên cứu xây pháo đài Phòng Hải ở tỉnh Quảng Nam và thuyền đồng, súng, vẽ bản đồ dâng lên. Tháng 10, Hà Nội, Nam Định mở khoa thi Hương, sai Hữu Tham tri bộ Binh kiêm Tả phó Đô ngự sử viện Đô sát Nguyễn Công Trứ sung chủ khảo trường thi Hà Nội, tháng 11, thăng Thự Tả Đô ngự sử viện Đô sát. Nguyễn Công Trứ làm Tán lý cơ vụ ở Trấn Tây, xin đi đánh dẹp.

1841(Thiệu Trị 1): Tán lý Nguyễn Công Trứ kiêm Tham tán đại thần ở Trấn Tây. Tháng 5, Tán lý Nguyễn Công Trứ mật tấu về Cao Miên: dù lấy được nước ấy, đất nước đó không cày được, dân cũng không sai khiến được. Tháng 8 xin tạm rút quân về An Giang. Tháng 9, định tội  các tướng hiệu ở Trấn Tây, trong đó có Nguyễn Công Trứ, vào tội giảo giam hậu. Cách chức hàm Thự Tả Đô ngự sử kiêm Tham tri bộ Binh của Nguyễn Công Trứ nhưng cho quyền lĩnh Tuần phủ An Giang. Tháng 12, vua phê Nguyễn Công Trứ nhút nhát đóng quân ngồi giữ.

-1842: tháng Giêng, vua dụ Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ là bề tôi có tiếng đã lâu; tháng 2, vua sai Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn án ngữ sông Vĩnh Tế.

-1843: tháng Giêng, vua sai Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ bàn việc phòng thủ ở hai tỉnh Vĩnh Long, An Giang. Bổ Nguyễn Công Trứ Thự Tham tri bộ Binh, vẫn lĩnh Tuần phủ An Giang. Tháng 10, Tổng đốc An-Hà Nguyễn Công Nhàn, Thự Tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, lĩnh Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ tấu về việc đào sông Tân Châu ở An Giang.

-1844: Tỏng đốcAn –Hà Nguyễn Công Nhàn, Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ bị coi là đòi tiền bạc đút lót nên đều bị mất chức. Nguyễn Công Trứ còn bị Nguyễn Công Nhàn đàn hặc  mua tê giác, đậu khấu, cả hai người đều bị cách chức, đi hiệu lực. Nguyễn Công Trứ bị phát phối đi biên thùy tỉnh Quảng Ngãi.

-1845: tháng 9, Nguyễn Công Trứ được khôi phục làm Chủ sự bộ Hình quyền Viên ngoại lang, rồi đổi làm quyền Viên ngoại lang Đại lý tự.

-1846: tháng 7, cho Đại lý tự Viên ngoại lang Nguyễn Công Trứ tạm quyền Án sát Quảng Ngãi; tháng 9, cho quyền Án sát Quảng Ngãi là Nguyễn Công Trứ bổ thự Phủ thừa phủ Thừa Thiên; tháng 11 bị giáng cấp do tình hình trộm cắp ở Kinh thành.

-1847: Thăng Nguyễn Công Trứ lên Thự Phủ doãn Thừa Thiên; tháng 7 Thự Phủ doãn phủ Thừa Thiên Nguyễn Công Trứ lấy niên lệ xin về quê hưu trí. Vua qướ trách : Trứ trước đây không có công trạng gì ở ngoại biên, đến khi lui về tỉnh An Giang, không thi thố được kế sách gì, lại can việc tham tang riêng, án nghị phạt trượng và tội đồ, gia ân đổi cải thành án sung quân. Nghĩ là bề tôi cũ nên xóa dấu vết mà thu dụng, đến hàm bây giờ, thế mà không biết cảm kích, cam tự bỏ mình. Chuẩn cho cung chức như cũ. Tháng 9: Thự Phủ doãn Thừa Thiên Nguyễn Công Trứ sung chủ khảo trường thi Nam Định.

-1848 (Tự Đức 1): Sai Kinh doãn Nguyễn Công Trứ cầu đảo ở miếu Hội đồng, sau được mưa nhỏ.

-1849: tháng 10, 8 viên Chánh tam phẩm trong đó có Phủ doãn Nguyễn Công Trứ 71 tuổi, nghỉ hưu, cho mỗi người 80 quan tiền.           

[vii] ) Khi kháng chiến chống Pháp mới diễn ra, Chính Hữu viết bài thơ Ngày về  (1947) từng viết Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa/Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng/Những chàng trai chưa trắng nợ anh  hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa . Các từ ngữ diễn tả anhhùng, con người vũ trụ kiểu truyền thống của văn học trung đại  như trời đất, nợ anh hùng, mười phương  không diễn tả đúng tinh thần và bản chất của người lính vệ quốc kiểu mới. Nhưng một hệ thống từ vựng mới của văn học cách mạng đang dần hình thành. Đến bài Đồng chí (1948)Chính Hữu đã tìm được một hệ thống từ vựng thích hợp để khắc họa hình ảnh người lính vệ quốc Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá…Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày...

[viii] ) Dẫn theo Hà Minh Đức, Chế Lan Viên người trồng hoa  trên  đá, NXB Văn học, 2010, tr. 214.

[ix] Nho tướng : Nho tướng ( 儒将). Năm 1840, Minh Mạng sai Thự Tả Đô Ngự sử viện Đô sát Nguyễn Công Trứ làm Tán lý cơ vụ ở Trấn Tây, cùng Kinh lược Phạm Văn Điển, Nguyễn Tiến Lâm đem quân đi đánh giặc, cho đứng dưới Tiến Lâm. Đại Nam thực lục chính biên chép “Trứ thấy bọn thổ phỉ ở Trấn Tây xui giục khởi loạn, việc đánh dẹp vỗ yên có nhiều ngả, tự xin đi để giúp việc, tùy việc chia sức khó nhọc, nên có mệnh ấy. Khi vào từ biệt trước thềm  để đi, vua dụ bảo trước mặt rằng : “Bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Tiến Lâm, không lo là không mạnh, chỉ lo không có mưu, mà trong quân có văn viên tứ phẩm là Đinh Văn Huy, bàn bạc việc quân, sợ hoặc chưa trùng khớp. Khanh là nho tướng, việc quân lữ vốn đã quen thạo, cốt nên cùng nhau đắn đo cơ nghi, sớm được thành công lớn để xứng với ủy nhiệm”.

[x] Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Hà Nội, Lê Văn Tân xuất bản.

Mai Khắc Ứng (2001), Tư liệu về Nguyễn Công Trứ, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh. (đưa ra 200 sự kiện liên quan Nguyễn Công Trứ từ Đại Nam thực lục chính biên).

Đinh Văn Niêm (2008),  khảo Đại Nam thực lục chính biên ghi chép 261 sự kiện về Nguyễn Công Trứ (in trong  Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008,  tr. 305-453).    

[xi] ) Từ điển tiếng Việt (2003) “Nam nhi: đàn ông, con trai, thường nói về mặt có chí khí, có tính cách mạnh mẽ”( Viện Ngôn ngữ học- NXB Đà Nẵng, tr. 656).

[xii] ) Nguyễn Nghiệp nhận xét : “Cái thú sắc dục có mang tính chất đồi trụy đó Nguyễn Công Trứ đã công khai phát triển trong khá nhiều  trong khá nhiều câu thơ của ông” (Những nhân tố gì đã tạo nên mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nghiên cứu văn học, số 5/1962).

[xiii] ) Dựa vào Thư mục thần tích, thần sắc lưu trữ tại Viện thông tin khoa học xã hội, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Phương cho biết có 15 làng (1 ở Nam Định, 13 ở Thái Bình, 1 ở Ninh Bình) thờ Nguyễn Công Trứ làm thành hoàng, đều có sắc phong (Nguyễn  Hoài Phương , Nguyễn Công Trứ từ nhân vật lịch sử đến thần thành hoàng ở các làng xã vùng duyên hải Bắc Bộ, tham luận tại Hội thảo khoa học “Nguyễn Công Trứ với lịch sử, văn hóa Việt Nam” , Hà Tĩnh 24/11/2018 .

[xiv] ) “Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết, câu ca, bản đàn thoảng qua ngoài rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả” (Phạm Đình Hổ, Tự thuật, Vũ trung tùy bút, tr. 10)

[xv] ) Câu đối đề ở sinh từ thờ Nguyễn Công Trứ tại đền làng Đông Quách, Tiền Hải, Thái Bình : “Đắc địa sinh từ, Đông ấp nhất bách niên kỷ niệm/ Kình thiên trụ thạch, Hồng sơn thiên vạn cổ tề cao (Sinh từ đắc địa, làng Đông trăm năm kỷ niệm/ Cột đá chống trời, núi Hồng muôn thưở sánh cao). Câu đối tại đền thờ Nguyễn Công Trứ xã Lạc Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình “Văn võ toàn tài, danh trọng nội triều ngoại quận/ Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải Kim Sơn (Văn võ toàn tài, danh nổi khắp trong triều ngoài quận/ Ruộng nương mở rộng, công cao nơi Tiền Hải Kim Sơn) (dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Sách đã dẫn)

[xvi] ) Lê Thước đã kể giai thoại này  đầu tiên, dẫn theo giai thoại số 26 trong Nguyễn Công Trứ trong dòng thời đại, Sách đã dẫn.

 

20190524 HNB

Ông Hoàng Ngọc Biên - Ảnh: KIMB

Tôi hết sức vui mừng khi đọc được bài “Hoàng Ngọc Biên, quê hương, người về” của anh Huỳnh Như Phương đăng trên trang  viet-studies.net của Trần Hữu Dũng ngày 17/5/2019 vừa qua.  Bài viết giới thiệu một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ về cuộc đời nghệ thuật của người bạn đã ra đi. Dầu khá gần gũi với Hoàng Ngọc Biên trong nhiều năm, tôi vẫn giật mình không hiểu tại sao mình không nhận thức được chính xác tầm cỡ của người nghệ sỹ độc đáo này. Tôi nghĩ bài viết của anh Huỳnh Như Phương có thể gợi ý cho những bạn trẻ trong ngành lý luận phê bình văn học hay các nghiên cứu sinh ngữ văn một số đề tài khá hấp dẫn như sau:

- Trường phái văn học Pháp Nouveau Roman (Tiểu thuyết Mới) ảnh hưởng đến phong cách sáng tác văn học ( hay kỹ thuật viết)  của Hoàng Ngọc Biên như thế nào.

- Tìm hiểu “dòng ý thức” ( hay “xu hướng trí tuệ” ) trong sáng tác văn học của Hoàng Ngọc Biên.

- Cấu trúc thực tại ảo trong thơ Hoàng Ngọc Biên và sự tiếp cận bản thể học.

Thực vậy, trong lĩnh vực văn xuôi, Hoàng Ngọc Biên là nhà văn hiếm hoi có bản sắc riêng  về tư duy và về  kỹ thuật viết hay phong cách sáng tác. Những tác phẩm : Đêm ngủ ở tỉnh, Buổi sáng, Một góc phố, Thành phố dốc đồi, Quê hương, Người về, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Về giữa mùa hè (tiểu thuyết)…. làm ta mang máng nhớ đến Nguyễn Tuân với những thiên tùy bút nổi tiếng của ông. Nhưng trong Nguyễn Tuân ta còn thấy cốt truyện với những diễn biến có đầu có đuôi như Vang Bóng Một Thời hay Chén trà trong sương sớm. Với Hoàng Ngọc Biên, ta thấy có người có cảnh nhưng tuyệt nhiên không có cốt truyện. Mọi thứ đều do nội tâm mà ra. Chẳng hạn trong “Đêm ngủ ở tỉnh” tác giả thức đêm nghe tiếng súng từ xa vọng về và tiếng đại bác từ châu thành bắn ra rồi những tiếng súng ấy lọt qua khe cửa lay động những đồ vật mơ hồ trong đêm. Chỉ có thế nhưng người đọc buộc phải liên tưởng đến bao nhiều điều mà chiến tranh mang lại. Không nói không rằng, tác giả lên án chiến tranh, trăn trở với thân phận con người. Tôi nhớ lại một cuốn phim tài liệu Thụy Điển về Thế chiến thứ hai. Trước khi xem mình hình dung nào là bom đạn, nào là thành phố đổ nát, nào là các đội quân nhếch nhác trong chiến hào. Nhưng phim chỉ cho thấy một cửa sổ có rèm che, lờ mờ trong ánh đèn leo lét. Hai bóng người, một nam một nữ khi đứng khi ngồi khi cử động khi yên chỗ. Người xem cảm nhận được hai bóng người kia thể hiện điều gì: sợ hãi, sững sờ, đột nhiên vui rồi thất vọng ê chề…Tất cả là một cuốn phim câm. Hoàng Ngọc Biên cũng vậy, cũng muốn làm phim câm, không nhiều lời mà truyền đạt thật nhiều xúc cảm.

Cũng thật đáng ngạc nhiên khi Hoàng Ngọc Biên trong những năm 60 thế kỷ trước đã bắt nhịp được với khái niệm thực tại theo kiểu F. De Saussure : Còn xa mới có chuyện sự vật đi trước cách nhìn, chính cách nhìn tạo ra sự vật. Theo Huỳnh Như Phương, trong lời giới thiệu công trình “Mười nhà văn Pháp hiện đại” , Hoàng Ngọc Biên trích lời M. Proust “Thực tại đích thực là ở nội tâm” và câu của họa sỹ Paul Klee “Nghệ thuật đúng với tên gọi đó không tạo ra cái để nhìn: nó phác họa những con mắt”. Trên cơ sở những ý tưởng ấy, Hoàng Ngọc Biên nêu nhận xét riêng của mình: “Mấy chục năm trước Proust đã phát biểu đâu đó rằng vấn đề đặt ra không phải là thực tại (hay mơ mộng ) nữa mà là lối diễn đạt thực tại bắt nguồn từ cái nhìn của chúng ta”. Trường phái “dòng ý thức” hay xu hướng trí tuệ của Hoàng Ngọc Biên là vậy, khá phù hợp với những trăn trở hiện nay của các nhà vật lý lý thuyết. Theo Nguyễn Tường Bách, ngườ ta khám phá ra rằng trong thế giới lượng tử, ý thức con người chi phối thực tại và thực tại không hề là cái gì khách quan độc lập với ý thức con người.

Thơ của Hoàng Ngọc Biên phong phú và đa dạng. Khác với tinh thần kinh điển của thơ là diễn tả tình cảm: yêu, ghét hy vọng, thất vọng, lạc quan, bi quan, hờn dỗi, nể phục, …thơ của tác giả độc đáo này là những suy tư về bản thể: thế giới quanh ta là gì? Ta là ai? Đang ở đâu? …Bây giờ ta thử đọc vài đoạn thơ kiểu bản thể và cố tìm hiểu xem tác giả muốn nói gì.

NÓI CHO CÙNG

nói cho cùng ai cũng như ai

vô thần hữu thần

anh hùng đạo tặc

sống trên mây sống trên sông nước

đều như nhau – đều bị

             đọa đầy

một chút hạnh phúc đó đây

phút chốc thành sương khói

thêm nhiều nỗi khổ

thoắt một làn chớp có thể quên đi

nói cho cùng

ta cũng như ai

mặt trời chiều dát vàng cây cỏ

ta một mình

chờ đợi bóng đêm

TUỔI MỘT NGÀY

ngày  hôm qua ta chưa sinh ra

ngày hôm qua ta chưa có mặt

cuộc đời qua

xô đẩy

túi bụi giữa chốn người

có đủ nước mắt có đủ nụ cười

ta biết sẽ tới….

chết sau khi đã sống

một ngày

ngày trong ngày

đêm trong đêm

những lá kính muôn mảnh  

ngày nối liền

đêm nối liền

THẾ GIỚI MỚI CHỖ TA ĐẾN

chỗ ta đến có thời gian của proust

màu đỏ Iorca

những quán café nhạc jazz

         kerouac

chỗ ta đến

có những đường phố petersburg brodsky

của akhmatov….

…..

Nếu sau này các nhà viết lịch sử văn học Viêt Nam vô tình hay cố ý bỏ quên Hoàng Ngọc Biên thì thật đáng tiếc. Cũng đáng tiếc như bỏ quên Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Quang Lập hay Bùi Ngọc Tấn vậy.
 
TRƯƠNG QUANG ĐỆ

Nhà văn Chu Lai – anh lính trẻ ngày nào của mặt trận văn chương – vẫn đang làm đặc nhiệm về chiến tranh cách mạng. Một minh chứng hùng hồn là, sau  40 năm cầm bút, vào tuổi xưa nay hiếm, tiểu thuyết Mưa đỏ tái hiện lại cuộc chiến dữ dội ở Thành cổ Quảng Trị đã xuất hiện (2016). Ký ức chiến tranh vẫn như ngọn lửa không tắt trong tâm hồn người chiến binh một thời...

LTS: Nhà thơ Tô Thùy Yên, tác giả của những thi phẩm nổi tiếng: Trường Sa hành, Ta về, Chiều trên phá Tam Giang,… vừa qua đời tối 21.5 tại Houston, Texas (Hoa Kỳ), hưởng thọ 81 tuổi. Để bạn đọc hiểu hơn “một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” như nhận định của thi sĩ Du Tử Lê, tòa soạn giới thiệu bài viết của nhà thơ Ý Nhi từng đăng trên báo in Người Đô Thị với nhan đề "Thức cho xong bài thơ" (*)

 
Tô Thùy Yên (1938 - 2019). Ảnh: AFP

Năm 1993, tôi đã gặp Tô Thùy Yên. Tôi đã được nghe Trường Sa hành, Chiều trên phá Tam Giang, Thi sĩ… trước khi gặp Tô Thùy Yên. Vì vậy, có phần bất ngờ khi đối diện với tôi, con người từng mộng du trên trái đất tròn, từng chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô, từng bay trên phá Tam Giang với những suy nghĩ ở một tầng cao đáng kinh ngạc về cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra, lại là một người đàn ông tầm thước, lịch duyệt, từ tốn.

Cho đáng một lần đi (2)

Bất ngờ khác, ông gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi - một nhà thơ từ Hà Nội vào. Ông thường ghé qua nơi tôi làm việc - Chi nhánh NXB Hội Nhà Văn tại TP.HCM, nơi ông có thể gặp những nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan Anh, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Thế Phong... và những nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoằng Vỵ, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên...

Hồi đó, hẻm 361 Hai Bà Trưng (nơi có trụ sở NXB) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống. Gia đình nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy dầu bán cà phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc. Chúng tôi thường “tụ tập” ở đó. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ Quán vắng vẻ của ông, giọng nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng của tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì/ Thôi thì hãy cố nán/ Cho đáng một lần đi... Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang lên một ca khúc của Trịnh Công Sơn, để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết mình vẫn có thể hát.

Đôi lần, ông xuống nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đưa chúng tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ - bạn ông - nhờ thiết kế.

Từ khi ra tù, Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu không có Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã, thanh thoát, chan hòa nắng gió này. 

 

Ông nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng qua giữa đêm khuya trong chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy xe đến hồ Trị An: đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng tuênh toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt...

Những quấn quýt bạn bè, những lo toan giúp đỡ, những tỏ bày, những chuyến đi... phần nào nói lên tâm trạng của Tô Thùy Yên lúc này. Ông vừa ra khỏi tù lần thứ ba chưa bao lâu và đang chuẩn bị cho việc rời bỏ quê cha đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt trong cuộc sống của ông: chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những ngày đang sống (Lang thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai quen... Bất chợt nghe như đời đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt kịp...) và, đứng trước một chuyến ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất: Anh ra đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn về...

Cuối năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem cho tôi một số bài thơ chép tay, như món quà cho người bạn vong niên: Ngoài cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không ghé lại, Bài thơ chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa đề và bản in bài Ta về (có lẽ trên một tạp chí ở hải ngoại) với các ghi chú: Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Chữ Tô Thùy Yên rất đẹp.

Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này, trong Thơ tuyển, Bài thơ chia tay... được lấy tựa Giã biệt và không thấy có Những mẩu giấy rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ chúng.

Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài thơ của mình, dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm 1950 mà đến năm 1995 ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã phải nhờ cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông. Một trường hợp hy hữu.

Thơ của gã du hành muôn năm muôn nơi 

Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô Thùy Yên thì phải chờ đến mấy năm sau. Có thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười mấy năm trôi qua, kể từ khi có Thơ tuyển Thắp tạ (3), tôi luôn có ý định viết về thơ Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình không đủ thấu hiểu, không đủ sự đồng cảm (4). Chỉ khi nhận được thư điện tử của ông vào cuối năm 2015 (5), tôi mới khởi sự.

Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế, “Đầu tôi cứng và trơn/ Thượng đế làm sao ngự”, với Hư vô: “Có đọc thuộc thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”, với Cuộc đời: “Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với Thơ: “Tôi giựt giành đổ máu với tôi/ từng chữ một” . Và, thi sĩ chấp nhận nỗi cô đơn: “Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận… về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn 60 năm.

Có thể nói, thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du hành muôn năm muôn nơi”. Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng và tuyệt vọng...

Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi không lời đáp, sau những gì đã đi qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa, sau những hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách nào đi nữa, cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta những suy nghĩ lớn lao, những rung cảm mãnh liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà ta cũng không tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn niên/ Lời đáp nhất thời”.

Đó là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng phải thế sao. Ai, ngoài ông, có thể tiên cảm kinh hoàng về những tai ương, những tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:

Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân

Đặng Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch”.

Câu thơ soi mệnh viết mà khóc

Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung hãn đó, nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt định mệnh của mình. Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình.

Thủ bút của Tô Thùy Yên

Đó là thời của những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:

... Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng

Đó là thời của những chuyến Tàu đêm lao vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người tù:

... Tàu đi như một cơn điên đảo
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau
Ta tưởng chừng nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ một cơn đau...

Nhưng, với con người ấy, những oan khiên, những mất mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi tắt tình yêu thương bất tận với đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh hoàng ấy, trong cảnh tù đày khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng nhân ái kỳ diệu nhất mà con người có thể có được:

... Tất cả rồi đây sẽ đổi thay
Đổi thay từ quặng mỏ, mầm cây
Đổi thay cả mặt người tăm tối
Những bớt chàm xưa được xóa trôi

Chính trên chuyến tàu đêm mịt mùng, vô vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc ghi sâu đậm trên ngày tháng:

... Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dội địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau

Thật khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết, người tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên - người từng chọn cho mình một cách giã từ đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:

Rồi đến một hôm nào
Ta mắc lại
Trên cành cây bất chợt gặp bên đường
Tấm áo sinh thời nặng trĩu bụi
Như một lời từ biệt nghe rồi quên.

Đó là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.

Lòng ta vô sự, ta vui vẻ

Câu thơ này nằm trong bài Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, một bài thơ hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều chi bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên.

Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác. Mà cũng có thể, chính âm hưởng của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu quả ta vui vẻ, ta vô sự, hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy.

Trong lời tuyên bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng, gắng tỏ ra vui vẻ, gắng quên những lo âu, phiền lụy:

Ví dù ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng...

Vẻ như, cuộc gắng gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc “làm lại tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.

Hạnh phúc, tình yêu, niềm vui... trong thơ Tô Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, một dự tưởng. Vườn hạ trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh bình yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:

Còn ở đâu miền xanh bóng cây
Để ta đến đó ngồi trưa nay
Dường như hơi mát trong vòm lá
Có chất men làm ta thoảng say...

Và, tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng, một mong mỏi khiêm nhường: 

Hãy hạnh phúc nhất thời
Như dấu lặng
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát
Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo
Như giọt nước lan reo mà tự hủy...

Liệu con người này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi như câu thơ ông từng viết?

Ta về khai giải bùa thiêng yểm

Cuộc “khai giải” này dường đã được bắt đầu từ rất lâu, trước tai ương, trước mười năm tù lưu xứ, trong căn cốt, trong tri cảm của thi sĩ - hành giả.

Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán vắng vẻ kia: Lỗi tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn... Tội cho người, tội bấy cho người/ Cũng đến đây chờ chẳng gặp ai... Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì.

Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ... Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt/ Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng chọn nơi...

Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về lẽ đời: Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo nhất/ Cả thảy sẽ an nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ...

Và, cuộc “khai giải” sâu đậm nhất đã diễn ra trong một lần gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến tuyến:

Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch sử...

(Chiều trên phá Tam Giang)

Chắc chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy, không có cuộc khai giải tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta về một bóng trên đường lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như cá theo con nước/ Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không thể có sự bình tâm: Em hãy yêu lấy thành phố của anh/ Như tất cả những gì anh gửi lại/ Trong buổi chiều dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về nhà thơ phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này...

Cuộc khai giải huy hoàng và đau đớn này, chỉ có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn. 

Mà, bài thơ ông muốn viết vẫn chưa xong (6).

 * * *

Các nhà phê bình văn học danh tiếng như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc... đều đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên. Và, dường như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi Tô Thùy Yên là “một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê).

Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại. 

Tô Thùy Yên tên khai sinh là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Sài Gòn, cựu học sinh Petrus Ký và Đại học Văn khoa, mất 5.2019 tại Hoa Kỳ.

Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) và cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ tự do” trên văn đàn miền Nam thập niên 1960.

Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị quân đội Sài Gòn.  Sau 30.4.1975, Tô Thùy Yên phải tập trung cải tạo tổng cộng gần 13 năm, đến 1993 ông cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư.

Tô Thùy Yên là một trong số các nhà văn hải ngoại vừa nhận được lời mời về nước tham dự  “một cuộc gặp mặt nhẹ nhàng và ấm áp” với các nhà văn trong nước dự định tổ chức vào hạ tuần tháng 10 tại Hà Nội.

Ý Nhi


(*) Tựa bài viết cũng như các câu thơ in nghiêng trong bài viết là thơ Tô Thùy Yên

(2) Các tít phụ đều là thơ Tô Thùy Yên

(3) Tên hai tập thơ của Tô Thùy Yên

(4) Đặng Tiến: “Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng trên báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó, không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm” (Ngựa phi, ngựa phi đường xa)

(5) Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng thơ ông trên Văn Việt: “... Về những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi. Tôi thiết nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi...”

(6) Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong/ Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ (Thơ tạ)

Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/to-thuy-yen-thuc-cho-xong-bai-tho-10186.html

Thêm một tin buồn với làng văn nghệ Việt khi tối nay 7-1, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo vừa qua đời sau hơn hai tháng chiến đấu với bệnh ung thư phổi.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (trái) được nhiều bạn bè yêu quý bởi tài năng và tấm lòng nhiệt tình - Ảnh: HỒ BẤT KHUẤT

Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha vừa xác nhận tin buồn này với Tuổi Trẻ Online. Tác giả Khúc hát sông quê đã qua đời vào 19h50 tối 7-1, tại Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.

Theo nhà văn, nhà báo Hồ Bất Khuất, một người bạn của nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, thì ông mất vì căn bệnh ung thư phổi di căn.

Ông Khuất cho biết khoảng hơn 2 tháng trước, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo phải nhập viện và sau đó gia đình phát hiện ông bị ung thư phổi giai đoạn cuối, đã di căn lên não. Ban đầu gia đình giấu bệnh với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhưng sau đó thì quyết định nói cho ông biết.

Ông Tạo đã đón nhận tin dữ khá điềm tĩnh.

Cách đây không lâu, ông Nguyễn Trọng Tạo trải qua một cơn thập tử nhất sinh và đã chiến thắng cơn tai biến một cách ngoạn mục.

Những ngày cuối năm 2017, ông Nguyễn Trọng Tạo bị tai biến mạch máu khi đang ở quê nhà Nghệ An. Lúc đó gia đình và bạn bè đã hốt hoảng chuẩn bị đón nhận tin dữ về ông.

Nhưng bằng nghị lực và cả sự may mắn hiếm hoi, ông đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Sau 20 ngày cấp cứu, ông dần tỉnh táo, thậm chí trở lại cuộc sống với một tinh thần mạnh mẽ hơn và giàu cảm xúc hơn như ông chia sẻ.

Ông đã kịp tổ chức đêm thơ, nhạc Khúc hát sông quê vào tháng 8-2018 tại Hà Nội.

Trong buổi gặp gỡ báo chí trước đêm thơ nhạc vào cuối tháng 7-2018, Nguyễn Trọng Tạo đã hồ hởi và hạnh phúc khoe với mọi người về kỳ tích thoát khỏi tay thần chết của mình.

Nhưng số phận lại một lần nữa thử thách ông. Và may mắn đã không mỉm cười với ông thêm lần nữa. Nguyễn Trọng Tạo đã không chiến thắng được căn bệnh ung thư giai đoạn cuối.

 

Nhà báo Hồ Bất Khuất cho biết trong quá trình dưỡng bệnh, ông và gia đình đã lên kế hoạch xuất bản Tuyển tập Nguyễn Trọng Tạo với 5 tập. Đại diện Nhà xuất bản Hội Nhà Văn cho biết nhà xuất bản làm hai cuốn trong bộ tuyển tập này có tên Thơ tình Nguyễn Trọng TạoLục bát Nguyễn Trọng Tạo. Hai tập sách về Nhà xuất bản Hội Nhà Văn vào chiều 8-1.

Nguyễn Trọng Tạo sinh năm 1947 trong một gia đình nho học ở làng Trường Khê (nay là Diễn Hoa), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo, họa sĩ vẽ bìa sách.

Ông nổi tiếng trong công chúng với vai trò là nhạc sĩ của một số ca khúc được yêu thích, trong đó nổi tiếng nhất là bài Khúc hát sông quê, Làng quan họ quê tôi.

Nhưng sự nghiệp lớn nhất của ông lại là thơ. Ông là tác giả của những tập thơ, trường ca như Đồng dao cho người lớn, Nương Thân, Thế giới không còn trăng, Con đường của những vì sao (Trường ca Đồng Lộc), Trường ca Biển mặn…

Là một người đa tài nhưng ít ai biết rằng Nguyễn Trọng Tạo không hề có bằng cấp gì. Theo nhà báo Hồ Bất Khuất, tuy không có bằng cấp nhưng Nguyễn Trọng Tạo lại là một người rất say mê học hỏi, một người rất thông minh và chịu khó tự học.

Ông Tạo từng giành giải nhì trong cuộc thi học sinh giỏi toán toàn miền Bắc khi ông học lớp 10 nhưng ông lại không có bằng tốt nghiệp THPT. Ông cũng theo học khóa 1 Trường Viết văn Nguyễn Du (khóa đầu tiên này không đòi phải có bằng tốt nghiệp THPT) nhưng cũng không có bằng tốt nghiệp.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-nhac-si-nguyen-trong-tao-qua-doi-vi-ung-thu-phoi-2019010719423443.htm

20190519 HNB1

Nhà văn, dịch giả, họa sĩ Hoàng Ngọc Biên vừa từ trần ở San Jose, tiểu bang California, lúc 8 giờ sáng ngày 16-5-2019, hưởng thọ 81 tuổi. Sinh năm 1938 ở Quảng Trị, ông là một nghệ sĩ đa tài và độc đáo, tác giả của nhiều tập thơ, tập truyện, bức tranh, công trình biên khảo được nhiều người biết từ khi còn ở Sài Gòn đến khi định cư ở Hoa Kỳ.

Về thơ, ông đã cho xuất bản: Uống trà sớm mai, Đất và người và thần thoại Việt Nam, Biển ngày đêm, Chân mây cuối trời (in chung với Đỗ Trung Quân).

Về văn xuôi, ông là tác giả của những cuốn sách Đêm ngủ ở tỉnh, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Chuyến xe, Quê hương, người về.

     Với tư cách dịch giả, ông chuyển ngữ nhiều tác phẩm của Boris Pasternak, Joseph Brodsky, Samuel Beckett, Jean Tardieu, Georges Perec, Alain Robbe-Grillet, trong đó có tác phẩm dịch chung với người bạn đời là Nguyễn Thu Hồng, cũng là một dịch giả tài năng.

Trên lĩnh vực hội họa, Hoàng Ngọc Biên là họa sĩ sáng tác và trình bày, đã triển lãm tranh ở Viện Đại học Đà Lạt, Viện Goethe, Pháp văn Đồng minh Hội, Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam…; đồng thời phụ trách mỹ thuật, vẽ bìa, minh họa cho nhiều ấn phẩm trong và ngoài nước.

Ngoài ra, ông còn sáng tác nhạc, thân hữu còn ghi nhớ những ca khúc ông viết thời trẻ tuổi về Huế (Nắng hoàng hoa, lời Hoàng Phủ Ngọc Tường), về Đà Lạt (Hồ thu)…

Nhà văn – hoạ sĩ này là người am hiểu sâu sắc các khuynh hướng nghệ thuật hiện đại phương Tây và có đóng góp nổi bật trong việc tiếp thu các trào lưu văn học hiện đại để cách tân văn học miền Nam những năm trước 1975. Với hai cuốn sách Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1969) và Marcel Proust - con người xã hội (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1974), Hoàng Ngọc Biên trở thành nhà nghiên cứu chuyên sâu về tiểu thuyết dòng ý thức và Tiểu thuyết Mới (Le Nouveau Roman). Soạn giả dành 60 trang mở đầu Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại để “ghi nhận về một chuyển biến trong văn chương Pháp”. Theo ông, chuyển biến đó chính là sự xuất hiện của tiểu thuyết “dòng ý thức” và Tiểu thuyết Mới. Ông cho rằng Tiểu thuyết Mới là sự tiếp nối hợp lý của Tiểu thuyết “dòng ý thức” - tiểu thuyết như một cái nhìn. Tác giả trích dẫn hai câu nói của nhà văn M. Proust (“Thực tại đích thực là ở nội tâm”) và họa sĩ Paul Klee (“Nghệ thuật xứng danh với tên gọi không tạo ra cái để nhìn: nó phác họa những con mắt”), rồi đi đến nhận xét: “Mấy chục năm trước Proust đã phát biểu đâu đó là vấn đề đặt ra không phải là thực tại (hay mơ mộng) nữa mà là lối diễn tả thực tại, bắt nguồn từ cái nhìn của chúng ta” (Hoàng Ngọc Biên: Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại, NXB Trình Bầy, Sài Gòn, 1969, tr. 25).

20190519 HNB2

Marcel Proust – con người xã hội, cuốn sách dày 150 trang của Hoàng Ngọc Biên cho thấy tình yêu của soạn giả đối với nhà văn lớn này. Cuốn sách gồm bốn chương “Marcel Proust, cuộc đời thí nghiệm cho tác phẩm”, “Những chủ đề rời thời trẻ tuổi”, “Thời gian tìm thấy lại”, “Marcel Proust, con người xã hội” và hai bài viết của Nguyễn Đăng Thường (Proust, một kỷ niệm trong mùa mưa) và Cao Thanh Tùng (Quê hương của nhạc sĩ). Ngoài ra, cuốn sách còn trích dịch ba đoạn văn nổi tiếng trong tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất (A la Recherche du Temps Perdu): “Chiếc bánh madeleine”, “Những gác chuông nhà thờ ở Martinville”, “Vũ trụ của Vinteuil”. Bằng những câu văn nhiều mệnh đề của một ngòi bút tài hoa, Hoàng Ngọc Biên đã phân tích sắc sảo thế giới nghệ thuật đầy bí ẩn của M. Proust. Điều thú vị là soạn giả đã kết nối sáng tác của Proust với thực tại đầu những năm 1970 : “Cuộc tìm kiếm của Marcel Proust - A la Recherche du Temps Perdu, sản phẩm lao động, và là lao động đấu tranh, bởi vì đấu tranh với thời gian, và đấu tranh cho con người – một trăm năm sau, vẫn còn là một tài liệu xã hội và nhân bản bất diệt, soi sáng những thảm kịch mà mọi xã hội văn minh, mọi xã hội kỹ nghệ ngày nay đang phải chịu đựng” (Hoàng Ngọc Biên: Sđd, tr. 99).

Văn xuôi Hoàng Ngọc Biên, trong Đêm ngủ ở tỉnh (NXB Cảo Thơm, Sài Gòn, 1971) và nhiều truyện ngắn khác, mờ nhạt yếu tố sử thi mà đậm đà chất liệu tự truyện, được thể hiện với kỹ thuật dòng ý thức. Tác giả còn là một nghệ sĩ dấn thân, nên tinh thần xã hội vẫn lấp lánh trong những trang viết của ông. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Biên hoàn toàn không có cốt truyện sự kiện, chỉ có những hình ảnh trôi chảy theo một giọng văn giàu chất thơ. Theo chúng tôi, ông là một trong số ít nhà văn viết văn xuôi một cách kỹ thuật và nghệ thuật nhất ở miền Nam. Thật khó mà chọn ra để trích dẫn một đoạn văn của Hoàng Ngọc Biên, bởi vì văn ông có rất nhiều đoạn tinh tế và phải trích thật dài mới thể hiện hết phong cách của ông. Thử chọn một đoạn cho thấy sự hoà quyện giữa văn tự sự, thi ca và hội họa trong tác phẩm Hoàng Ngọc Biên:

Tiếng súng giữa khuya làm anh giật mình tỉnh giấc. Cũng vẫn là những tiếng súng anh thường nghe giữa khuya vào những đêm trễ xe chiều phải ngủ lại tỉnh, vẫn là những tiếng súng xa vọng về xen lẫn những tiếng đại bác từ châu thành bắn ra — những âm thanh cuồng nộ giữa cái im vắng tĩnh mịch của đêm khuya nổi lên làm rung chuyển cả căn nhà, cả bốn bức tường vây quanh anh, cả trời đất ngoài kia — nhưng giữa những cơn đau buốt trong tim nhói lên theo mỗi tiếng đại bác, anh mơ hồ thấy hiện lên trong căn phòng, qua các khe cửa và các chấn song dưới trần nhà một thứ ánh sáng màu đỏ nhạt chiếu mù mờ lên những đồ vật khá quen thuộc, chiếc bàn ở đó tối nay trước khi đi ngủ anh đã có ngồi chuyện vãn với vợ chồng người bạn, chiếc ghế dựa trên đó anh đã ngồi hút thuốc một mình hàng giờ trước khi lên giường, chiếc máy thâu thanh, những tranh ảnh lồng kính, những tấm lịch màu, chiếc tủ kính cao, những ly tách, những chồng giấy tờ sách vở ngổn ngang, anh mơ hồ thấy hiện lên trong căn phòng thứ ánh sáng màu đỏ nhạt của những trái hoả châu bên kia sông chiếu mù mờ lên mùng màn chăn gối trên giường anh. Cũng vẫn là những tiếng súng anh thường nghe giữa khuya vào những đêm trễ xe chiều phải ngủ lại tỉnh, nhưng giữa những cơn đau buốt trong tim nhói lên theo mỗi tiếng đại bác, anh chợt tỉnh giấc sợ hãi, tưởng như thấy lại những ngôi trường tiểu học bốc cháy trong buổi rạng đông trên đường đi của anh, tưởng như nghe rõ từ bên kia sông hay từ những quận lỵ và những làng mạc lân cận tiếng kêu khóc của những đoàn người bồng bế xô đẩy nhau chạy qua những cánh đồng đỏ rực hoả châu và lửa đạn” (Đêm ngủ ở tỉnh).

20190519 HNB Dans notre jardin

Tranh: Dans notre jardin - Hoàng Ngọc Biên     

So với những tác phẩm thuộc loại hình văn xuôi - chứng từ, hình ảnh và tiếng vọng chiến tranh trong Đêm ngủ ở tỉnh dường như được gián cách qua một màn sương của ký ức.

      Những tác phẩm khác viết trước năm 1975 của Hoàng Ngọc Biên như Buổi sáng, Một góc phố, Thành phố dốc đồi, Quê hương, người về, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Một đoạn giữa mùa hè (trích tiểu thuyết Về giữa mùa hè) đều là những áng văn xuôi không có cốt truyện, gần với những thiên tùy bút nên có thể gọi đó là những truyện ngắn – tùy bút.

Trong công trình biên khảo Văn học miền Nam, Võ Phiến có nhận xét về truyện ngắn Người đạp xe vào thành phố buổi sáng của Hoàng Ngọc Biên:

“Trong truyện ông không có nhân danh, không có địa danh. Người chờ chuyến xe là chờ ở tại ga nào? Không biết. Tỉnh nào? Không biết. Định đi đâu? Không biết. Để làm gì? Không biết. Người đạp xe vào thành phố, người ấy tên gì? Ở đâu? Không biết. Người đọc có biết ông ta đạp xe đi mần kiếm sống. Thế thôi. Những cái người đọc biết rõ là trời tối, trời sáng, trời sáng hơn, là dãy tường, con đường, chiếc áo xanh, cái quần không còn màu, v.v... Người viết chỉ ghi nhận những cái ấy. Bằng cái nhìn objectal. Nhìn cái bên ngoài: hình dạng, màu sắc, cử động, khua khuống... Nhìn, và loại trừ mọi xúc động, nhận xét, suy tưởng” (Võ Phiến: Văn học miền Nam. Truyện [Cuốn 1], NXB Văn nghệ, California, 1999, tr. 780).

20190519 HNB2 Saigon

Tranh: Saigon - Hoàng Ngọc Biên

     Đó chính là do ảnh hưởng của những nhà tiểu thuyết mới như A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, M. Butor… Nhưng không hẳn lúc nào Hoàng Ngọc Biên cũng chỉ có cái nhìn khách quan và loại trừ mọi xúc động, nhận xét, suy tưởng: đoạn văn trích từ Đêm ngủ ở tỉnh trên kia là một dẫn chứng. Không phải ngẫu nhiên mà Saint-Exupéry và Hoàng Ngọc Biên cùng yêu thích một câu văn của Marcel Proust: "Mơ tưởng đời mình vẫn hơn là sống thật cuộc đời ấy, cho dù rằng có sống thật đi nữa, thì cũng hãy còn mơ tưởng nó”. (Il vaut mieux rêver sa vie que la vivre, encore que la vivre ce soit encore la rêver). Tác phẩm của họ là sự mơ tưởng về cuộc đời hơn là chính cuộc đời ấy.

Bây giờ, ở thế giới bên kia, chắc hẳn Hoàng Ngọc Biên vẫn không thôi mơ tưởng về cuộc đời, về quê hương đất nước - mười năm qua chưa thấy bóng người về.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Về truyện ngắn Học trò già

     Trong truyện ngắn Học trò già (Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 38, ngày 29-9-1996), nhà văn Trần Kim Trắc chỉ đơn giản kể lại một cuộc viếng thăm. Cuộc viếng thăm gợi nhớ đến một quãng đời và làm thức dậy những nỗi niềm riêng của hai con người. Giữa người thầy giáo già yếu bây giờ và ông giáo trẻ đẹp trai, phong lưu ngày trước; giữa người học trò tuổi đời chồng chất hôm nay và chú bé nghịch ngợm thuở xưa là một khoảng cách bốn mươi lăm năm.

     Dưới ngòi bút của nhà văn, “khoảng cách bốn mươi lăm năm như xích lại gần”. Câu chuyện về cái bánh sầu riêng nóng hổi gói giấy nhựt trình, về những cái xác rệp trong kẽ bàn học sinh, về bài học tiếng Pháp thời thơ ấu… đã phả hơi ấm vào hai thế giới riêng tư cách biệt thầy - trò và hóa giải những niềm nghi ngại.

     Sức cuốn hút của thiên truyện trước hết là ở vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật. Ông giáo Đức đã có lúc chua chát, hờn dỗi với thời cuộc. Người học trò - nhân vật xưng tôi - thì lại từng lỡ lầm, vấp ngã. Nhưng cả hai vẫn giữ được tâm hồn trong trẻo mà đi qua những trắc trở và sóng gió cuộc đời. Trong căn nhà cũ kỹ nơi thầy trò gặp nhau, hiện tại cùng cất tiếng nói với quá khứ. Vì bài học của họ vẫn là bài học của mọi thời: bài học về nhân cách - bài học có thể “xốc dậy” con người. Nói đạo lý mà không ra vẻ dạy đời, điều đó đâu phải dễ!

     Trần Kim Trắc đã tạo ra được bầu không khí tự nhiên để người đọc chuẩn bị tâm thế mà tiếp nhận bài học làm người tưởng chừng khô khan đó. Tác giả cứ để cho những kỷ niệm gọi dậy cùng nhau, dường như không hề xếp đặt, không có mối nối giữa các đoạn văn, các lời đối thoại. Những chỗ sử dụng tiếng Pháp trong ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật mà lược bỏ đi thì cái không khí đó cũng sẽ mất đi một phần đáng kể. Những câu đối thoại không gây ấn tượng nặng nề vì nhân vật - người kể chuyện là kẻ biết tự trào, chẳng hề oán giận cuộc đời, lại còn tìm cách làm lành với nó.

     Học trò già thuộc vào những truyện ngắn mà người ta đã viết nên bằng cả một đời mình. Một đời để sống và một đời để chiêm nghiệm. Vả chăng, đây đâu phải chỉ là chuyện thầy trò. Qua một câu chuyện thầy trò, nhà văn đã chạm vào những điều sâu xa nhất của lòng nhân nghĩa. Ẩn sau giọng văn điềm đạm là tình yêu thương và cảm xúc về sự hòa hợp. Mà tình yêu thương thì bao giờ cũng có sức nâng đỡ con người.

                  (“Hai truyện ngắn hay nhất trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật năm 1996”, TTCN số 51, ngày 29-12-1996)

Về truyện ngắn Con mắt thứ ba

      Vẫn là lối kể chuyện nhẹ nhàng kèm theo một nụ cười hóm hỉnh. Cuộc sống ở đây thật giản dị, mọi cái đều được sắp xếp theo lẽ tự nhiên. Hố bom trở thành ao nuôi cá. Cá ba sa rớt giá thì có cá vồ thay thế. Hạnh phúc mỉm cười với người có lòng. Còn kẻ quen thói tán tỉnh quơ quào thì đáng cho một bài học nhớ đời.

Là người linh hoạt, ông Ba Văn Hóa dễ dàng thành công mọi điều, nhưng đến việc xe duyên cho cô Thơm thì thất bại. Câu hỏi tò mò và câu trả lời ở cuối truyện tưởng chỉ là chuyện bâng quơ, nào ngờ là điểm nhấn của truyện. Cười nhạo cái chủ quan của kẻ trải đời, ngợi ca sự nhạy cảm của người phụ nữ hình như là cách nhìn quen thuộc đã gặp đâu đó trong văn Trần Kim Trắc, nay lại tìm được một cốt truyện mới để thể hiện.

Có cảm giác như câu chuyện còn có thể viết dài hơn, với nhiều tình tiết hơn. Nhưng hẳn tác giả hiểu rằng người đọc cũng có “con mắt thứ ba” để nhìn ngắm sự đời. Và kho chuyện đời dung dị không vơi cạn chắc sẽ còn được tiếp tục khai thác nhờ cái duyên của ngòi bút Trần Kim Trắc. Cái duyên cộng thêm một chút cay của gừng già…

           (Tuổi Trẻ Chủ Nhật số 39, ngày 02-10-2005)

Giải pháp chữ Tâm và những giả định lạc quan (Về truyện ngắn Lương tâm cắn rứt)

      Hai tuần trước khi có “đề xuất luật về kiểm soát tài sản, thu nhập” (Tuổi Trẻ ngày 7-4-2013), báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần (số 10, 24-3-2013) đăng một truyện ngắn có liên quan, với nhan đề Lương tâm cắn rứt. Đã lâu trên mặt báo mới có một truyện ngắn “sát sườn” với đời sống xã hội như vậy. Có lẽ cũng vì đã lâu người đọc tỏ ra mệt mỏi với loại hình văn học “nóng bỏng tính thời sự” và trở nên giảm lòng tin vào những “giải pháp” nhiều lúc ngây thơ và dễ dãi của các nhà văn.

      Nhưng đây không phải là truyện ngắn của một nhà văn non tay nào mà là của Trần Kim Trắc lịch lãm và lão thực, với cách kể chuyện lôi cuốn, khiến người ta có thể đọc một mạch cái câu chuyện nửa bi nửa hài đó. Ông Thìn, chủ tịch ủy ban nhân dân quận G, đại biểu quốc hội, bị “choáng” trước chủ trương kê khai tài sản của cấp trên, hình dung viễn cảnh sẽ bị trừng phạt vì tội “bốc lủm” nhiều năm để trở thành giàu sụ. Đầu óc ông càng như muốn vỡ tung ra khi nghe tin Công ty xây dựng Đại Hưng mà ông trực tiếp ký “chỉ định thầu” khai thác khu quy hoạch của quận, nhờ đó ông nghiễm nhiên trở thành cổ đông góp vốn 10%, cũng sắp bị thanh tra. Để thoát khỏi tình thế nguy hiểm ấy, ông “đạo diễn” cho bà vợ đến thẳng công đường tố giác chồng có quan hệ ngoài luồng. Và thế là, ngay ngày hôm sau, lấy lý do bị vợ hạ uy tín và làm sụp đổ danh dự, ông Thìn dễ dàng và nhanh chóng tuyên bố “từ chức chủ tịch ủy ban quận, xin rút chân khỏi mọi vị trí ở cơ quan đoàn thể và đại biểu quốc hội để trở về là thường dân”.

      Như vậy là ông Thìn đã tìm được cách “hạ cánh an toàn”, tuy có bị dư luận đàm tiếu về đạo đức sinh hoạt, nhưng lại được tán thưởng ở sự tự phê bình nghiêm khắc và lòng can đảm “tự phong” một hình thức kỷ luật nặng nề, thà mất chức (hy sinh đời bố) mà giữ được tài sản (để củng cố đời con). Nghe những câu ông Thìn nói trước thuộc cấp khi tuyên bố từ chức, người đọc không còn biết nên cười hay nên khóc: “Để bảo vệ sự trong sáng của cách mạng như bảo vệ chính con ngươi của mắt mình, cần loại trừ ra những con sâu làm rầu nồi canh”. Ngòi bút của nhà văn còn đặt vào miệng Thìn những phát ngôn “triết lý”: “Đời người ai chẳng như đồng xu, có mặt ngửa có mặt sấp, như là hai người…”; “Lỗi lầm của tôi có sám hối đến tàn trăm bó nhang cũng không thoát khỏi hỏa ngục”. Và cứ theo lô-gích đó, chỉ mấy ngày sau, Thìn đã tìm một cách “sám hối” đắc địa: dùng tất cả số tiền cổ tức của Công ty Đại Hưng hàng tháng xây một căn nhà tình nghĩa trị giá năm sáu chục triệu đồng, mỗi năm 12 căn nhà như vậy, để bà vợ “đứng tên hiến tặng, và lên tivi” (!), cho đến cuối đời.

      Từ góc độ xã hội học, có thể nói truyện ngắn Lương tâm cắn rứt, vô hình trung, đặt cơ sở trên ba điều giả định sau đây:

      Một, cuộc đấu tranh chống tham nhũng với giải pháp kê khai tài sản đã có tác động lớn trong giới quan trường, làm chùn tay và truyền sự khiếp sợ đến những kẻ làm giàu bất chính, trước viễn cảnh bị “bỏ phiếu tín nhiệm bãi miễn để cách ly con vi-rút tham nhũng, miễn dịch cho đoàn thể”.

      Hai, “văn hóa từ chức” đã ăn sâu và thấm nhuần vào đội ngũ quan chức và được “ứng dụng” nhuần nhuyễn đến nổi ông Thìn “tự kỷ luật bằng bản án từ chức” xong là giới thiệu luôn người phó thay thế, hôm sau không đến cơ quan nữa. Cấp dưới và cấp trên của ông đều xem việc đó là đương nhiên, không cần họp hành bàn bạc công tội gì nữa, cũng không thể tất gì đến quá trình phấn đấu và cống hiến của ông.

      Ba, “giải pháp chữ Tâm” hóa ra còn ảnh hưởng lớn và nhanh đến những người “bị ô nhiễm tư tưởng” như Thìn, chỉ trong mấy ngày đã chuyển hóa được ông, từ một con sâu “quen tính bốc lủm”, đã nghĩ đến ngày ăn đạn, rồi liên tưởng đến hỏa ngục, bèn làm từ thiện để lương tâm đỡ cắn rứt.

      Cái kết thúc có vẻ có hậu đó thật ra không hoàn toàn là dấu hiệu của một kiểu công thức dễ dãi và nhạt nhẽo trong văn học một thời xa vắng. Trần Kim Trắc cố tránh điều đó bằng cách kể chuyện nửa nghiêm túc nửa cười cợt của ông. Lúc ta có cảm tưởng nhà văn mỉa mai, xài xể Thìn; lúc lại như ông che chở, khoan dung đối với anh ta. Nhân vật người kể chuyện xưng tôi, một mặt, nói rằng “nhà văn có truyền giáo cho ai đâu mà gọi là thầy”, mặt khác vẫn tin rằng “nghề viết văn là nghề chọc ngứa tâm hồn bạn đọc để tâm trí họ hiểu hiện thực đời sống, khêu gợi tiềm lực bản thân để tự họ giải quyết những vấn đề riêng của bản thân mà thôi!”.

      Văn học cảnh báo để gieo một chút hạt giống lành, dù không chắc sẽ nẩy mầm thành cây trái, cũng là quý. Giữa lúc những ông Thìn đã trở thành “một bộ phận không nhỏ”, biết đâu giải pháp chữ Tâm thật thà và cả tin của Trần Kim Trắc cũng có phần hợp lý?

                   (Tuổi Trẻ Cuối Tuần số 16, ngày 05-5-2013, với nhan đề Văn học cảnh báo để gieo hạt giống lành).

 

20190422 VuTrongPhung

Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, những hình ảnh, biểu tượng về thế giới tâm linh, tôn giáo xuất hiện nhiều, một phần thể hiện sự sùng bái, một phần lại thể hiện sự giễu nhại.

Niềm tin vào thế giới tâm linh thể hiện đầu tiên ở việc Vũ Trọng Phụng chọn bút danh cho mình là Thiên Hư. Thiên Hư là một ngôi sao trong tử vi phương Đông, nghĩa là một nơi hư không ở trên trời. Nhiều bạn văn khẳng định Vũ Trọng Phụng là người biết xem tướng và lấy lá số tử vi rất thạo. Đọc các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, thấy ông thường dùng tử vi để dẫn dắt câu chuyện. Nhà văn thể hiện một sự tin tưởng say mê vào khoa lí số. Trong tác phẩm Số đỏ, lá số tử vi của Xuân là chìa khóa mở ra toàn bộ câu chuyện. Ông thầy số xem cho Xuân Tóc Đỏ đã chỉ ra những sự kiện mà về sau gần như ứng toàn bộ vào cuộc đời Xuân (Khốc Hư tí ngọ cư quan/ Tiếng tăm dậy khắp giang san một thì). Vũ Trọng Phụng cũng đã để cho nhiều sự kiện quan trọng trong tác phẩm Giông tố ứng với những lá số. Thậm chí, những ảnh hưởng của tử vi lí số và quan niệm tâm linh thể hiện ngay trong nhan đề các tác phẩm của ông như Số đỏ, Trúng số độc đắc, Giông tố, Bởi không duyên kiếp… Đặc biệt, trong việc giải quyết những xung đột nội tâm về tình cảm, Vũ Trọng Phụng càng hay sử dụng các quan niệm về duyên kiếp, số mệnh. Truyện ngắn Lấy vợ xấu có hẳn một luận đề: Người ta lấy vợ lấy chồng đều có số cả, số lấy phải vợ xấu thì cũng không tránh được. Với cuốn tiểu thuyết Dứt tình (1934) hay Bởi không duyên kiếp, báo Đuốc Nhà Nam có nhận xét: “Sự dứt tình đó - theo tác giả - chỉ là “Bởi không duyên kiếp” […]. Tác giả tin rằng ở ngoài cuộc đời, có một sức mạnh rất màu nhiệm thiêng liêng cầm quyền sinh sát mọi người. Sức mạnh đó là “duyên kiếp” hay là “định mệnh” (fatalité). Chính sức mạnh đó đã chi phối tới lũ người đang vùng vẫy và đang gây nên những tội lỗi đáng thương”. Nếu như ở giai đoạn đầu sáng tác, những yếu tố về định mệnh mới chỉ xuất hiện thưa thớt thì ở giai đoạn sau chiếm vị trí lớn và vai trò quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Đặc biệt, trong các tác phẩm lớn, yếu tố định mệnh càng chi phối một cách sâu sắc, thậm chí đóng vai trò lời chỉ dẫn như trong Số đỏ, Trúng số độc đắc hay Giông tố. Trong Số đỏ, sự sắp xếp cho số phận thường xuyên gặp may mắn của nhân vật Xuân và sự xuất hiện nhiều lần hình ảnh của ông thầy bói chứng tỏ nhà văn cố gắng giải thích những hiện tượng ngẫu nhiên và những điều không thể đoán trước trong cuộc sống bằng những điềm báo và tiên đoán tướng học.
Nếu như trong Trúng số độc đắc, Số đỏ, sự xuất hiện của một ông thầy tướng số đã mở ra không gian truyện thì trong Giông tố, một loạt nhân vật đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng số mệnh. Khi Mịch bị Nghị Hách hiếp, ông thầy tướng đã phán cho Mịch một câu mà sau này vận vào cả cuộc đời của Mịch: Quan Phù, Thái Thuế long đong/ Tháng ngày chờ đợi cửa công mỏi mòn; và Sao Thai mà ngộ Đào Hoa/ Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng. Hầu hết những quẻ bói xuất hiện trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng đều ứng với số phận của nhân vật. Thị Mịch sau khi tự tử và đấu tranh không thành đành chấp nhận số phận với suy nghĩ “Mịch tin rằng người ta có số mệnh, và cái số kiếp của Mịch đã như thế thì Mịch không thể cưỡng lại trời được nữa”. Mịch là một cô gái quê ít hiểu biết, có niềm tin mù quáng vào số phận là điều dễ hiểu. Nhưng Hải Vân - một nhân vật kẻ sĩ trí thức, thể hiện tư tưởng của tác giả, cũng là nhân vật tin vào mệnh trời và là người “lấy lá số tử vi rất thạo”. Hải Vân giải thích cuộc đời hoàn toàn do số phận: “Hầu như trong đời vẫn có một sức mạnh huyền bí gì đó, vẫn cầm quyền cuộc đời, đến nỗi không còn ai lại tự chủ nữa”; “Cuộc đời là trò chơi quái đản, bất tận của Hoàng thiên”; “Không ai đáng phục, không ai đáng khinh. Số mệnh xui khiến cả”- Những cặp phạm trù cuộc đời - số mệnh - tạo hóa - ông trời… cũng xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng - “Sống là mạo hiểm, là đánh xóc đĩa với tạo hóa”.
Không chỉ dùng quan niệm định mệnh để lí giải số phận con người, Vũ Trọng Phụng còn táo bạo dùng nó để giải thích cả nạn mại dâm: “Nạn ấy lại có tính chất số kiếp nữa, và nó đè ép số mệnh chúng ta bằng một mối sầu chua chát lạ thường. Cái số mệnh của con người ta ở đời là như thế…” (Lục xì). Nạn mại dâm mà cũng do số kiếp thì quả là một lí giải có phần tiêu cực và quá tin vào số mệnh của nhà văn. Đúng là trong văn hóa Việt, cái ngẫu nhiên thường được giải thích theo tư tưởng định mệnh. Trong hoàn cảnh xã hội đảo điên, cái ngẫu nhiên càng dễ xảy đến, con người không được ổn định về hoàn cảnh sống, dẫn đến những thay đổi về số phận. Nhiều bất trắc trong cuộc sống xảy đến mà con người không thể lí giải được, đành đổ lỗi cho số phận, định mệnh: “Sự đời là như thế, bao giờ cũng có cái sự gì xảy ra để cho người ta đang sướng hóa ra khổ, hoặc khổ rồi thì lại phải khổ hơn trước nữa” (Giông tố). Thậm chí có những việc do bản thân gây ra cũng đổ lỗi cho số phận, cho ông Trời. Tư tưởng số mệnh đã chi phối rất lớn đến kết cấu và những sự kiện xảy ra trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Ở cấp độ kết cấu, cốt truyện, ở cách sắp đặt những mối quan hệ giữa các nhân vật và số phận của chúng, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thường bị chi phối mạnh mẽ bởi triết lí định mệnh chủ nghĩa”. Những yếu tố bất ngờ thường xuyên xảy đến trong cuộc đời của các nhân vật và đẩy số phận của họ thay đổi theo. Trong Trúng số độc đắc, một anh chàng tình cờ được mẹ trông hàng giúp, một thiếu nữ tình cờ đến mua hàng, ba tháng sau gia đình hỏi cưới cô ta làm vợ anh và anh ta cũng đồng ý. Chính những sự việc tình cờ tưởng như nhỏ bé đó lại có quyết định quan trọng đối với cuộc đời con người. Vũ Trọng Phụng phải thốt lên rằng: “Ôi! Một việc cỏn con tưởng chừng như vô nghĩa lí vậy mà có thể ảnh hưởng rất to tát đến mức có thể xoay đổi cả cuộc đời con người ta! Một chuyến đò, một sự nhỡ giờ tàu, những điều vụn vặt ấy chính ra mà lại là hệ trọng vô cùng, và dám chắc đó là những cái huyền bí mà tạo hóa muốn an bài cho thế nhân” (Trúng số độc đắc).
Các nhân vật của Vũ Trọng Phụng đều quay cuồng trong số phận và sự sắp đặt của tạo hóa, thể hiện cảm giác bất lực trước giông tố cuộc đời. Việc Vũ Trọng Phụng thường xuyên dùng số mệnh để lí giải cuộc đời các nhân vật cho thấy rõ sự bế tắc trong cuộc sống và những vấn đề trong tâm lí của ông. Tuy nhiên, nhiều lúc ông lại thể hiện sự bất mãn, sự mất niềm tin vào thế giới tâm linh. Thường thì vào những thời điểm mà nhân vật bế tắc không thể giải quyết được, Vũ Trọng Phụng để cho họ quay lại nhạo báng Trời, Phật, thánh thần như sự buông xuôi của số phận.
Trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, sự thể hiện về thế giới tâm linh không hề nhất quán. Rõ ràng Vũ Trọng Phụng là người rất tin vào thuyết số mệnh, nhưng trong nhiều tác phẩm, ông vẫn bộc lộ một thái độ nhạo báng. Những câu chửi Trời, nhạo báng Phật xuất hiện không ít lần trong sáng tác của nhà văn, ngay cả những tác phẩm có tư tưởng ngợi ca tâm linh, như Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Trúng số độc đắc… Vũ Trọng Phụng đã đặt Trời, Phật vào một góc nhìn mới. Xã hội thay đổi khiến đồng tiền, quyền lực có một sức mạnh như Trời, như Phật: “Thời buổi tối tân này, Phật mà không biết tiến hóa theo văn minh thì cũng chết nhăn răng ra” (Số đỏ); “Chỉ có đồng tiền là Giời là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó thì mới sống được” (Không một tiếng vang). Thậm chí đã có lúc con người chán nản nhìn cảnh đời mà nghi ngờ: “Giời, Phật, có làm gì hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau” (Không một tiếng vang). Có những kẻ bất mãn trong cuộc sống tìm đến thế giới tâm linh như một sự an ủi, nhưng cũng có lúc, trong hoàn cảnh bế tắc, họ quay lại nhạo báng những gì mình đã tin tưởng. Đó là một quy luật của tâm lí con người, nhưng không phải ai cũng dám thể hiện điều đó. Sự chối bỏ, nhạo báng thế giới tâm linh thường bị cho là tội lỗi. Vậy mà Vũ Trọng Phụng để cho nhân vật Phú trong Vỡ đê chửi “Tiên sư cả Trời!”. Một khi cuộc sống quá nhiều đau khổ, người ta chẳng còn nghĩ được điều gì hơn thực tại đang diễn ra trước mắt. Mịch trong Giông tố dù rất tin tưởng ở số mệnh nhưng cũng có lúc chửi Trời là “những đồ thong manh”. Phúc trong Trúng số độc đắc dù đã thầm cảm ơn số phận cho mình may mắn được trúng số nhưng cũng có lúc khẳng định “Khi thất thế thì đất nặn nên Bụt”. Về điều này, Vũ Trọng Phụng muốn khẳng định thực tế trong thời buổi xã hội loạn lạc, tiền và quyền lực chiếm vị trí thứ nhất, mọi giá trị tưởng như tôn nghiêm trước đây đều bị hạ bệ một cách thê thảm: “Giời, Phật nào bây giờ? Làm gì có Giời, làm gì có Phật nào bây giờ? Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? Có Giời có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ!...”.
Sự xuất hiện của báo Gõ Mõ trong Số đỏ một lần nữa cho thấy sự giải huyền thoại trong cái nhìn về nhà Phật. Sư thầy cũng ham hố tranh giành quyền lợi như người thường, thậm chí hơn cả người thường. Nếu như trong văn học trung đại, hình ảnh những sư thầy trong các bài thơ thiền thể hiện một sự tĩnh tại tuyệt đối trong thế giới tinh thần thì sư thầy trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lại quá nhiều ham muốn, dục vọng. Sư cũng đi hát cô đầu. Sư Tăng Phú được miêu tả với một vẻ ngoài rất phong tình: “Ông này cũng tân thời Âu hóa theo văn minh vì ông có ba cái răng vàng trong mồm, cái áo lụa Thượng Hải nhuộm nâu, đi đôi dép cao su và nhất là đẹp giai lắm, trông phong tình lắm”. Những gì mà Vũ Trọng Phụng phản ánh trước đây hàng thế kỉ thì bây giờ đúng với thực tế. Các sư chùa chân chính ngày càng ít, những người mang danh nghĩa nhà sư để tư lợi ngày càng nhiều. Công cuộc làm ăn giữa Xuân Tóc Đỏ và sư Tăng Phú được cho là đoạn mỉa mai nhất trong cái nhìn về nhà Phật: Xuân muốn được trả “năm mươi phần trăm” khi đồng ý quảng cáo cho tờ Gõ Mõ nhưng sư Tăng Phú chỉ trả “ba mươi phần trăm”. Sự trao đổi làm ăn cho thấy rõ sự biến chất của những kẻ dựa hơi nhà Phật: “Ấy ngài đừng tính đắt với Phật mà phải tội”; “Ấy ngài chớ trả rẻ nhà chùa mà phải tội”. Những kẻ đại diện cho Giời Phật đó đã biến thần linh thành phàm tục để kiếm lợi cho cá nhân. Hình ảnh Em Chã - đứa con cầu tự ở chùa Hương của bà Phó Đoan tiếp tục là một sự mỉa mai trong quan niệm về tâm linh. Bà Phó Đoan tôn sùng con như Giời Phật. Chính vì sự tôn sùng đó mà cậu bé được phỉnh nịnh, ăn uống quá đủ đầy, chiều chuộng vô độ dẫn đến sự phát triển sớm về thể xác một cách lệch lạc. Những hình ảnh về cậu con cầu tự cởi truồng nhong nhong trên lưng vú em đã cho thấy sự dâm dục quá sớm ở một đứa trẻ mười một tuổi. Chính Xuân Tóc Đỏ đã lên tiếng: “Dù là con Giời con Phật thì cũng có thể dâm như mọi người, có khi lại hơn mọi người!”. Đám giai nhân trong nhà thì bàn tán về cậu bé: “Ghê chưa! Chết nỗi! Mặt mũi thằng bé như con Giời, con Phật, ai ngờ hư hỏng sớm thế!”. Chứng kiến sự phỉnh nịnh thái quá đối với thể xác của cậu con cầu tự, Xuân Tóc Đỏ đã chửi thề: “Mẹ kiếp, con Giời với lại chả con Phật”… Thế giới tâm linh đã bị hoen ố bởi vật chất, bởi cách sống thành thị Âu hóa nửa mùa. Sự tiếp biến văn hóa một cách khiên cưỡng khiến xã hội đảo điên dẫn đến hệ lụy là một nền văn hóa lai căng Tây Tàu lẫn lộn, và thế giới tâm linh không còn giữ được bản chất thiêng liêng của nó. Đỗ Minh Hợp trong cuốn Tôn giáo học nhập môn cho rằng, hầu hết các giá trị văn hóa tôn giáo đều xuất phát từ nông thôn chứ không phải thành thị. Khi con người bị cái bả vật chất cám dỗ thì những giá trị về văn hóa tinh thần đều bị tiêu trừ. Các nhân vật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, hầu hết đều tha hóa về tinh thần từ khi dư thừa về vật chất hoặc từ khi di chuyển lên thành phố. Quan niệm về thế giới tâm linh cũng biến chuyển theo quy luật này. Dù đã cố gắng để vượt lên số phận nhưng họ luôn bị đẩy vào những tình thế bế tắc hoàn toàn. Trong hoàn cảnh đó, không còn niềm tin vào bất cứ một giá trị nào, các nhân vật quay lại nhạo báng toàn bộ những điều mình đã từng tin tưởng. Vật chất đã biến số phận và cuộc đời con người thành trò hề của tạo hóa.
Thế giới tâm linh luôn là nơi trú ngụ bình an của tâm hồn mỗi khi con người gặp bất trắc. Thế nhưng, những tiếp biến văn hóa nhố nhăng đã khiến mọi giá trị thành lệch chuẩn, kể cả thế giới tâm linh tưởng như là chốn linh thiêng không thể chạm tới. Trong thế nước đôi ấy, nhận xét của Hoàng Cầm thật xác đáng: “Có lẽ Vũ Trọng Phụng trong tư tưởng, tin ở số mệnh nhưng trên tác phẩm thì lại chứng minh: số mệnh chính là cái thượng tầng đểu cáng, vô sỉ của xã hội thực dân, mại bản” (Nhớ Vũ Trọng Phụng)

V.T.T.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 18.4.2019.

20190107 Vu Anh Khanh

Chân dung Vũ Anh Khanh và tác phẩm Nửa bồ xương khô

Ra đời trong thời chiến, văn xuôi Nam Bộ giai đoạn 1945-1950 không thiếu những hình tượng nhân vật tranh đấu yêu nước. Từ cô nữ sinh, cô y tá, vợ người chiến sĩ, đến bà lão hàng nước, ông lão chèo đò... đều hừng hực nhiệt huyết chiến đấu chống xâm lăng. Chân dung người chiến sĩ cách mạng thời kì này cũng được khắc họa cụ thể và đa dạng hơn trước, không chỉ là chinh nhân với thanh gươm yên ngựa, mà còn là anh bộ đội lăn lộn trong khói lửa bom đạn, là anh điệp viên hoạt động xuyên quốc gia, thậm chí ẩn dưới vẻ bí ẩn của một thủ lĩnh băng đảng mang màu sắc giang hồ hào kiệt... Giữa những biểu hiện đa dạng ấy, hình tượng người chiến sĩ - chinh nhân là kết quả của một quá trình vận động song song khá đặc sắc: vừa kế thừa và phá vỡ ước lệ chinh phu của văn học cổ điển, lại đồng thời kiến tạo một công thức nhân vật mới đậm tính đại chúng, thị trường.

Trước hết, cũng cần lưu ý là trong giai đoạn này, tuy hoạt động kiểm duyệt tương đối lỏng lẻo phần vì hiện tình chính trị ở Nam Bộ bấy giờ khá rối ren, phần vì sức ép từ phong trào tranh đấu của giới văn - báo ở đô thị nên các nhà văn có thể viết nhiều về chủ đề yêu nước chống ngoại xâm, nhưng họ vẫn phải tìm cách tránh né, không phải lúc nào cũng viết trực tiếp hay tả kĩ hoạt động của kháng chiến chống Pháp. Thay vào đó là những câu chuyện lấy bối cảnh kháng Nhật, các phong trào yêu nước trước Cách mạng tháng Tám, nhưng người đọc đều ngầm hiểu là viết để chống Pháp.

Trong hai năm 1949, 1950, văn học tranh đấu Nam Bộ đạt đến cao trào về số lượng và chất lượng tác phẩm. Người chiến sĩ - chinh nhân xuất hiện trong hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, hồi kí với nhiều dáng vẻ và mức độ miêu tả khác nhau. Chung, Đồng, Lưu Quý Kỳ trong Nửa bồ xương khô (Vũ Anh Khanh) là bộ đội quân giải phóng; Hoàng Lương, Sơn trong Bạt Xíu Lìn (Vũ Anh Khanh) là điệp viên xuyên quốc gia; Tảo, Bão, Đình trong Cây ná trắc (Vũ Anh Khanh) là những chiến sĩ cách mạng đóng ở làng Khánh Thiện giúp dân chống giặc giữ đất; Vũ, Bão trong Người yêu nước (Thẩm Thệ Hà) là trí thức tiền cách mạng đi theo kháng chiến; Hoàng trong Người vợ tù mong một ngày về(Bùi Nam Tử), Viễn trong Trốn tù (Bùi Nam Tử) là người làm “quốc sự” nội thành bị bắt bỏ tù; Huân trong Trong mùa chinh chiến (Phạm Thu Cảnh), Long trong Giai cấp, Tàn binh (Sơn Khanh), Hoàng Tân trong Hờn chinh chiến (Việt Quang) chỉ được giới thiệu là chiến sĩ quân cách mạng chiến đấu ở rừng... Những chiến sĩ này đều mang dáng vẻ chinh nhân, có xuất thân trí thức, ngoại hình thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ nhưng lời lẽ chứa đựng tráng chí bốn phương, say sưa trong hành động, lãng mạn trong suy nghĩ, u hoài trong cảm xúc.

Hình ảnh người chiến sĩ trong văn chương kháng Pháp ở đô thị Nam Bộ 1945 -1950 có sự kế thừa và cải biến từ hình ảnh chinh phu trong văn học trung đại. Lí tưởng của người chinh phu xưa rất cụ thể: giết giặc lập công, phò vua giúp nước. Do sống giữa một thời đại mới tan rã nhiều đức tin xưa cũ nhưng con đường phía trước lại chưa rõ ràng, nên những chinh nhân, chiến sĩ trong văn học lãng mạn trước 1945 có lí tưởng mơ hồ hơn. Họ đa phần không bằng lòng với cuộc sống trưởng giả, tẻ nhạt, cũ kĩ, quyết dấn thân vào con đường gió bụi, mê man trong hành động, tuy chưa biết hành động sẽ đi đến đâu nhưng ít nhất cũng giải thoát cho mình khỏi nỗi mặc cảm đau xót của thân phận người dân mất nước. Trong khi đó, những người chiến sĩ của văn học đô thị Nam Bộ 1945-1950 lại rất chắc chắn và tự tin với sự lựa chọn của mình, vì họ có cả cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại làm hậu thuẫn sau lưng. Mặc dù có sự đột phá trong nhận thức về lí tưởng cách mạng, nhưng cách miêu tả các chiến sĩ cách mạng vẫn mang đậm âm hưởng của văn học trung đại. Nhiều chiến sĩ cách mạng sống giữa thời hiện đại vẫn cưỡi ngựa, thổi sáo, ngâm thơ khi đi làm quốc sự. Và nếu có gặp nạn phải ẩn cư chờ thời hay trốn tránh sự săn lùng của quân thù thì những ngày lưu lạc, hoạt động bí mật đầy gian khổ ấy vẫn... đẹp như thơ. Chiến sĩ Thọ trong Hận người tử sĩ(Hoàng Kim) mình cưỡi ngựa, lưng giắt súng liên thanh, qua bến sông xưa thăm cô hàng nước, lòng miên man nghĩ “tưởng mình là Kinh Kha đang thả thuyền trên dòng Dịch Thủy với người bạn tri kỉ, Thọ rung đùi ngâm:

"Sông Dịch Thủy ai còn nghe tiếng sáo

Dòng nước xanh tiếc rẻ chảy lờ đờ

Điển tích xưa còn đi cả vào những cuộc trò chuyện của các nhân vật. Chiến sĩ Ngạc (Con trâu giấy, Vũ Anh Khanh) khi chia tay người yêu để về thành được nàng thổn thức dặn dò: “Em với anh đành xa cách nhưng lòng chúng ta sẽ mãi mãi gần nhau. Em xứ Tần, anh về Yên, trời Yên còn li loạn, xin anh hãy noi gương Tôn Tẫn ngày xưa mà giữ lấy chí khí của mình”. Cụ Đại Hiền (Gió biên thùy, Thẩm Thệ Hà) nói với người chiến sĩ: “Nước Sở chỉ có ba nhà cũng làm mất được nước Tần, rợ Nguyên cũng còn lập quốc được một trăm năm. Ta tuy không có tài diệt nước Tần như Trương Lương, há không được như Trịnh Sở Nam đoạt lại nhà Tống hay sao?”. Nếu không dụng điển thì cũng là cách nói chuyện cầu kì với trường từ vựng mang tính ước lệ và tiểu đối, kiểu như: “Tân văng mình ra cõi gió mưa có phải đâu để đem ấn phong hầu về cho vinh thê ấm tử. Mai Liên cảm phục chồng biết quên mình vì nghĩa cả, biết đem hạnh phúc gia đình đổi lấy những ngày sương phơi nắng trải, tung hoành ngoài chiến địa xa xôi để góp sức với toàn dân đem ánh sáng tự do về cho đất Việt” (Hờn chinh chiến, Việt Quang).

Nét “lãng mạn” chinh chiến này bắt đầu bị “công thức hóa” khi nó tách rời và đối lập với cuộc sống phi tranh đấu được miêu tả bằng bút pháp hiện thực. Thế giới nghệ thuật truyện ngắn của Vũ Anh Khanh xây dựng rất rõ sự đối lập này với những người chiến sĩ nơi gió bãi trăng ngàn, ôm nỗi cô đơn trên dặm đường chinh chiến, hi sinh anh dũng giữa trời nước cô liêu như Hương (Tóc thề), hai người chiến sĩ (Đầm ô rô), Vương Dung (Trên Thái Bình Dương), Đường (Hai lá thư không gửi), Thuận (Theo khói nhang rằm), Mai Bằng Phương (Mai Phi) và những nhân vật sống đời tầm thường ở thành đô, chôn vùi đời mình trong cờ bạc như Huyền (Hối tắc), Son (Ma Thiên Lãnh), hoặc sự tẻ nhạt tầm thường như văn sĩ Ngạc (Con trâu giấy), thậm chí cùng đường làm bậy như công chức Thảo (Sài Gòn ơi).

Sự tương phản tranh đấu - phi tranh đấu, chiến sĩ - phi chiến sĩ có lúc bị đẩy đến cực đoan, khi cái đẹp lãng mạn của người chiến sĩ - chinh nhân và thế giới tranh đấu yêu nước trở thành chuẩn mực tối thượng, tạo ra những nhân vật “bắt chước” một cách khập khiễng. Hoàng Tấn trong bút kí Cứu lấy quê hương đã mô tả làng kháng chiến Bình Nhâm như một thế giới thần tiên với ngôn ngữ ước lệ: “Cả làng đều thân mật với nhau, tất cả đều sống chung, hoạt động chung, không có áp bức, không có tang chế, không có chia lìa. Tài hoa hồn nhiên được tự do phát triển, phát triển đến tột cùng của sự tiến hoá. Không có sự mưu mô thấp hèn và bẩn thỉu nào cắt Nam xẻ Bắc. Thanh thanh trăng liềm gió búa, thiên hạ tha hồ mà thung thăng bay nhảy để cạn chén hoàng hoa”. Lý Văn Sâm dành riêng truyện ngắn Ngàn sau sông Dịch để khai thác sự đối lập này. Truyện kể về trí thức Trọng phải cùng vợ con tản cư về quê khi kháng chiến bùng nổ, trong khi bạn thân của anh là Cương lên đường đi chiến đấu. Lựa chọn miễn cưỡng khiến Trọng luôn thần tượng cuộc đời của Cương. Với Trọng, Cương đã thật sự trở thành tráng sĩ Kinh Kha – vai diễn trong vở kịch thời học sinh của cả hai người. Hằng ngày, Trọng lấy ảnh của Cương ra khoe với các con, miêu tả cho các con vẻ oai hùng của Cương trong vai diễn Kinh Kha xưa, và tưởng tượng ra sự oai hùng của Cương hôm nay trên hành trình chiến đấu vì non nước. Rồi một ngày Cương bị truy bắt trên đường làm nhiệm vụ, Trọng mừng rỡ cưu mang bạn. Anh thấy như mình được lây cái oai hùng của cuộc đời bạn. Thế nhưng cuộc sống chật vật khi tản cư và nỗi sợ bị nhà cầm quyền phát hiện đã khiến vợ Trọng buộc lòng tìm cách đuổi khéo Cương. Trọng dù biết trước nhưng vì nghèo nên cũng đành im lặng nhìn theo bóng người anh hùng lủi thủi về phía bến sông gọi đò ra đi. Cuộc sống của Trọng lại như cũ, lại “vợ chồng con cái chen chúc nhau nằm lục đục như heo trong chuồng”, nhưng nỗi thất vọng não nề hơn vì ngay cả đến mơ ước được một lần chí tình với bạn như thái tử Yên Đan - vai diễn năm xưa của Trọng - cũng không thực hiện được. Trọng nói với các con mình: “Người tráng sĩ nước Yên qua sông rồi các con ơi! Người sang Tần không trở về bên Yên nữa! Chỉ có ta ở lại bên bờ này, ôm mối hận… Thôi hãy để yên cho người ra đi! Các con đừng đứa nào nhắc nhở tới bác Cương nữa nhé!” Đây không phải là lời thoại của một người cha nói với các con trong đời sống bình thường, mà nó đã đột ngột bị cách điệu hoá theo hình tượng người chiến sĩ và không gian tranh đấu lí tưởng.

Một trong những đặc điểm công thức thú vị của hình tượng chiến sĩ - chinh nhân giai đoạn này là chân dung người phụ nữ đi kèm với họ. Nếu chinh phu thời phong kiến có chinh phụ, người chiến sĩ trước cách mạng có người em gái đợi chờ, thì người chiến sĩ trong văn xuôi Nam Bộ 1945-1950 có người đồng chí, mà phổ biến nhất và bị sao chép nhiều nhất là người nữ cứu thương. Sau khi xuất hiện trong tiểu thuyết Nửa bồ xương khô của Vũ Anh Khanh, Hờn chinh chiến của Việt Quang, hình tượng người nữ cứu thương đã được “nhân bản”, “tái tạo” ở vô số những tác phẩm khác, tạo nên bộ đôi mới của thời đại. Hình tượng người nữ cứu thương xuất phát từ thực tế kháng chiến thời đó, vốn là một công việc phổ biến mà các cô gái trí thức ra đi theo cách mạng thường đảm nhận, nhưng họ lại được xây dựng một cách ước lệ trong văn học. Các cô thường được khắc họa mềm mại, dịu dàng, vừa có chức năng hàn gắn, xoa dịu, tái sinh như là đối cực của sự tàn phá, huỷ diệt trong chiến tranh, vừa có chức năng về mặt tình cảm, giải thích và phơi bày sự mong manh của trái tim con người thời chiến như là đối cực với cái dũng, cái lí trí của các nhân vật chiến sĩ - tráng sĩ.

Chinh phu xưa trở thành một ước lệ trong thơ ca cổ điển là do đặc trưng thẩm mĩ tập cổ thời trung đại. Trong khi đó, hình tượng người chiến sĩ - chinh nhân và cặp đôi hình tượng chiến sĩ - nữ cứu thương trong văn xuôi Nam Bộ 1945-1950 trở thành công thức trong văn học hiện đại là do sự tác động mạnh mẽ của hai yếu tố cùng lúc: thị trường và chính trị. Những năm 1945-1950, phong trào tranh đấu của giới kí giả và nhà văn dâng cao mạnh mẽ ở Sài Gòn chống sự trở lại của thực dân Pháp, chống chính sách phân li tách Nam Kì khỏi lãnh thổ Việt Nam. Hoạt động tranh đấu không chỉ rầm rộ trên báo chí mà còn phát triển thành những cuộc biểu tình công khai, ảnh hưởng sâu rộng đến đại chúng. Những cuộc biểu tình, những bài báo, tác phẩm văn học đăng báo đã kích thích mạnh mẽ lòng yêu nước của đông đảo quần chúng Nam Bộ. Hình ảnh chiến sĩ - chinh nhân trong văn chương được công chúng đón nhận nồng nhiệt trong không khí bão tố của thời đại, và chính sự yêu mến này của công chúng đã tạo ra lực tác động mạnh mẽ của thị trường lên hình tượng nhân vật này, khiến nó được nhân rộng và trở thành một công thức trong văn học đại chúng. Giới xuất bản và làm báo thời này một mặt thực hành lí tưởng yêu nước bằng việc sử dụng sách báo như một công cụ tuyên truyền, với tư cách cá nhân hoặc dưới sự chỉ đạo của tổ chức cách mạng, mặt khác vẫn phải kiếm lời để duy trì hoạt động. Công thức chiến sĩ - chinh nhân vừa có ích cho việc tuyên truyền, vừa kích thích thị hiếu của công chúng, khiến họ mua sách nhiều hơn hoặc say sưa theo dõi các truyện feuilleton trên báo, thúc đẩy số lượng phát hành của mỗi kì báo. Việc báo bán chạy có tác động rất lớn đến hoạt động tuyên truyền chính trị, vì báo chí không chỉ đăng tiểu thuyết mà còn có tin tức, xã luận.

Bộ đôi hình tượng chiến sĩ - nữ cứu thương được yêu thích đến nỗi nó không chỉ xuất hiện lặp đi lặp lại trong các sáng tác mà có truyện còn bị người khác chép lại đăng báo gần như nguyên vẹn. Hoàng Thơ “phóng tác” (chữ “phóng tác” Hoàng Thơ ghi dưới tiêu đề tác phẩm) truyện dài Hờn chinh chiến (1949) của Việt Quang thành truyện Người nữ cứu thương, chỉ thay đổi tên nhân vật và lời kể, đăng thành feuilleton trên báo Đời Mới suốt hai năm 1953, 1954 mà không thấy ai phản ứng gì (nếu có phản ứng thì báo đã ngừng đăng truyện, hoặc có lời phản hồi với độc giả).

Tóm lại, trong nhiều sắc thái hình tượng của người chiến sĩ cách mạng trong văn xuôi tranh đấu ở đô thị Nam Bộ những năm 1945-1950, hình tượng người chiến sĩ - chinh nhân được yêu chuộng hơn cả. Nó vừa kế thừa vẻ trang trọng, bi tráng của người chinh phu trong văn học cổ điển của tầng lớp quý tộc, vẻ lãng mạn, bay bổng của người chiến sĩ cách mạng trong sáng tác của các nhà văn trí thức tiền chiến, vừa mang màu sắc riêng của thời đại kháng chiến chống Pháp sôi động và sáng rõ về lí tưởng. Nó cuốn hút đông đảo công chúng văn học Nam Bộ trong không khí tranh đấu sôi nổi khắp đô thành. Ngược lại, công chúng ấy đã tạo nên lực thị trường mạnh mẽ góp phần nhân rộng và công thức hoá hình tượng chiến sĩ -chinh nhân, biến một hình tượng của giới quý tộc, giới trí thức trở thành sản phẩm của văn chương đại chúng.

N.T.P.T

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 31.12.2018.

Mười năm làm lính đặc công ở vùng ven Sài Gòn, Chu Lai từng phải đối đầu thường xuyên giữa cái sống và cái chết. Điều đó đã tạo cho người lính một khả năng sinh tồn lạ lùng.

Đi vào cuộc chiến với một lý tưởng mãnh liệt và một sự gan dạ táo bạo, độc đáo, sau đó trở về từ khả năng tồn tại đặc biệt, Chu Lai càng trở thành một cá tính mạnh mẽ, đầy góc cạnh, đầy hồn cốt lính tráng.

Là chàng trai Hà Nội mà “Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” (Chính Hữu), Chu Lai mang nét đặc trưng của một lãng tử cách mạng.

Tính cách nổi bật, có lẽ là, con người say mê lý tưởng chiến đấu. Đó là chàng trai lãng mạn cách mạng, mà có ai đó đã gọi là lãng mạn trận mạc. Và, lãng mạn như thế, nhà văn đã có thể đi hết chặng đường khói lửa 10 năm.

***

Chu Lai là con người hoạt động, ưa hoạt động, là con người của công việc. Cầm súng rồi cầm bút, vừa cầm súng vừa cầm bút. Một hoạt động khẩn trương trong thách thức lớn lao, đầy hiểm nguy, nhưng lại rất hiệu quả và có nhiều chiến tích.

Từ đó là một tính cách cơ bản: tính hoạt náo.

Chu Lai là một người đa tài, năng nổ, làm việc cật lực ngày đêm để tự tạo cho mình một cuộc sống riêng khá ổn.

Nhà văn có tài thâm canh và biến báo tác phẩm của mình. Từ truyện, tiểu thuyết, nhà văn có thể chuyển thể thành kịch bản sân khấu và điện ảnh.

Thêm sân chơi là thêm sự hứng thú, vui vẻ, và cũng có thêm nhuận bút, nhà văn nghĩ rằng sẽ có thêm độc giả, va một số ít tiền để đảm bảo cuộc sống.

Chu Lai đã tự tạo cho mình một cuộc sống ổn định, dễ chịu. Không giàu có, nhưng không phải là “hàn sĩ”, như định kiến của xã hội xưa nay. Nhà văn là một trong số hiếm hoi các văn nghệ sĩ có xe hơi riêng, để tự do đi “phượt” xuyên Việt, vừa du lịch, vừa tìm hiểu và thâm nhập thực tế.

Mang tố chất nghệ sĩ, đa tài, đa tình và đa cảm. Bên ngoài vẻ ngang tàng, và tác phong sôi nổi, bốc lửa, là một tâm hồn rất nhạy cảm. Tâm hồn rất dễ rung động bởi những cảm xúc tinh tế. Con người cứng rắn, hầu như không biết sợ gì ấy cũng đã có những xao động “ngoài luồng” với các người đẹp.

Nguời vợ -  Đại tá, Nhà văn Vũ Thị  Hồng rất thông cảm, và không bao giờ ghen tuông về những điều tưởng như mây gió thoảng qua ấy.

Có những nét tưởng như trái ngược, nhưng lại thống nhất và hoà hợp trong con người nghệ sĩ Chu Lai.

Cả cuộc đời ông là những chuyến lãng du và trận mạc. Phải đi và thích đi, cũng có chút “máu xê dịch” như cố nhà văn Nguyễn Tuân. Đi để sống, đi để trải nghiệm, và để viết. Từ Bắc vào Nam, và từ Nam ra Bắc. Ông đã đi khắp các vùng miền tiêu biểu nhất, kể cả Tây Nguyên.

Đi với nhiều lý do, trong đó có việc đi lại nơi xưa, chốn cũ, chiến địa một thời để tìm mới và tìm lại tư liệu, ký ức, và cảm xúc để viết. Nhưng, đã tới thì lại phải tìm một chốn tĩnh lặng để ngẫm ngợi, và để tượng hình cho con chữ.

Chu Lai là trong số ít các nhà văn trở thành “người của công chúng” – như Phạm Tiến Duật vì nhiều lẽ. Ông thường được đi mời phỏng vấn, nói chuyện, hay có mặt ở hội nghị, hội thảo, và nhất là tới các đài truyền thanh, truyền hình. Tức là xuất hiện ở nhiều sự kiện truyền thông “ồn ào”.

Tuy nhiên, về thực tâm, nhà văn lại rất thích sự yên tĩnh, và mắc bệnh không thích xuất hiện nơi đám đông. Nhà văn thích được cô đơn, thậm chí “nghiện cô đơn”. Cô đơn để được tự do, tránh mọi phiền hà, cô đơn để tự do với chính mình, với con chữ. Nghĩa là cần khoảng tĩnh lặng một mình để sáng tạo.

Xét cho cùng, điều đó  cũng chẳng phải của riêng ai. Cô đơn như là hứng thú, cũng là căn bệnh của bản thể nghệ sĩ.

Đã có lúc, cả hai vợ chồng nhà văn ngồi ở miền Thành cổ Quảng Trị, với sự tĩnh lặng của khung cảnh và tâm trí, như để lắng nghe tiếng đất, và cả tiếng vọng tâm linh từ hồn thiêng của các liệt sĩ.

Bạn văn kể, có tới chục năm trời, đôi “song kiếm hợp bích” – cặp Đại tá, nhà văn Chu Lai và Vũ Thị Hồng thực hiện nhiều chuyến đi xuyên Việt, và: “Hai vợ chồng đã nhiều lần ngồi lặng trên mảnh đất quật cường Quảng Trị, ngắm dòng sông Thạch Hãn bình lặng, năm xưa đã có bao chàng trai trẻ nằm lại dưới đáy sông , lần nào cũng vậy, dừng chân tại Thành cổ để thắp cho đồng chí, đồng đội một nén nhang thơm”.

Mưa đỏ chính là có nguồn cơn  từ những phút giây lắng đọng tưởng niệm tâm hồn như vậy.

Theo Chu Lai, tình yêu làm nên sự lãng mạn của cuộc chiến. Nhận ra tính nhân văn cao cả trong tình cảm đời thường, đó chính là thể hiện bản chất nhân văn như cốt cách tâm hồn của nhà văn.

Văn là người. Đọc văn Chu Lai thấy rõ được con người nhà văn.

Đây là đoạn tâm sự:

“Sở dĩ văn của tôi được nhiều người đọc, là vì cái gì cũng được đẩy đến tận cùng của mọi buồn vui. Tôi không thích chơi những gam màu nhợt nhạt. Vì sao ư? Vì một tuổi thơ nhọc nhằn, đủ khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm tính cực đoan, nên văn khốc liệt thế thôi”.

Bạn bè nhà văn thấy rõ một cá tính mạnh mẽ, là tính quyết đoán, có khi quyết liệt, triệt để, đi đến cùng,bởi sống cực đoan  từ nhỏ, mà Chu Lai tự nhận, cũng  là tính cực đoan trong văn học.

Tâm sự đó cũng bộc lộ rõ thêm bản chất thẳng thắn, bộc trực và khảng khái của nhà văn. Nói về cuộc đời bản thân, về tình yêu, và về nghiệp văn, bao giờ cũng là với chất giọng và tính cách ấy.

Chẳng hạn, sự thú nhận có những phút xao lòng trước người đẹp mà, như đã nói,   chính người vợ , nhà văn Vũ Thị Hồng  đã biết và rất thông cảm, .

Là người lính trận, lẽ dĩ nhiên cốt cách phải là quả  cảm. Riêng  Chu Lai có cái gan dạ, táo bạo mang sắc thái riêng. Gan đến mức như gan lì, thậm chí lì lợm.

Như khi đi bộ đội 10 năm, mà không hề gửi thư về nhà. Đến mức sau hoà bình, anh trai phải vào Nam tìm kiếm, và thông báo với gia đình, là thằng em “còn sống nhăn răng!”. Sau này, cầm bút là cái gan dám viết sự thật, cái bi tráng trong chiến tranh. Người ta đã nhận ra, nhà văm dám xoáy bút vào những góc cạnh nhạy cảm – ít hoặc chưa ai đụng tới.

Nắng đồng bằng đã có những mất mát, cay đắng lớn dám đưa lên trang tiểu thuyết. Ở Mưa đỏ cũng có nét tương tự. Viết cả về ta và về đối phương.

Như nhân vật Quang – một sĩ quan nguỵ bên kia chiến tuyến, được khắc hoạ qua cả mặt xấu và mặt tốt của nó. Rất may là, những sự “cả gan, táo tợn” ấy đều qua mặt được các biên tập viên có trình độ hiểu biết, và rất tâm huyết đổi mới.

Chu Lai từng trải qua những tháng năm dài máu lửa, sống hào sảng mà rất lãng mạn. Yêu tha thiết, say đắm, và ca ngợi tình yêu hết mực trong đời và trong văn.

Với nhà văn, tình yêu trong chiến tranh bao giờ cũng đẹp, và rất thật. Cái đẹp, tình yêu chính là một nguồn lực động viên, thôi thúc và giúp đỡ người lính vững vàng tay súng, xông lên phía trước.

Chu Lai lý giải bản chất con người như một sự thật hiển nhiên: song song tồn tại cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội, lẫn sự lì lợm của một tay lính đặc công.

Đúng vậy. Bạn bè và bạn đọc cùng cảm nhận, Đó là Chu Lai.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Xuân Ba (2015), Nhà văn Chu Lai: tiếp tục sòng phẳng với dĩ vãng, http://tienphong.vn, 28/4/2015.

[2] Lê Mỹ Hạnh (2016), Nhà văn Chu Lai: “Viết không phải để ăn mày dĩ vãng”, https://dep.com.vn, 27/7/2016. Theo Vietnamplus.

[3] Trần Mỹ Hiền (2010), Nhà văn Chu Lai: “Gã lãng tử đa tình”, http://antg.cand.com.vn, 11/5/2010.

[4] Thương Huế (2011), Nhà văn Chu Lai – Tình yêu và cuộc chiến, http://vov.vn, 1/5/2011. Nguồn: Báo TNVN.

[5] Phúc Tiến (2017), Nhà văn Chu Lai: Tôi đã khóc trong ngày đầu tiên độc lập ấy, https://baovanntruong.org.vn, 30/4/2017.

Cây bút kỳ cựu của làng văn học Nam bộ mất vì bệnh già sau hơn nửa thế kỷ miệt mài sáng tác.

Đại diện Hội nhà văn TP HCM cho biết Trần Kim Trắc qua đời hai tuần trước. Tuy vậy, vì lý do riêng của gia đình, đến nay, thông tin ông mất mới được chia sẻ. Hội nhà văn có kế hoạch đến nhà cố tác giả ở TP HCM để viếng tang.

Nhiều đồng nghiệp, tác giả hậu bối bùi ngùi khi hay tin nhà văn qua đời. Nhà thơ Trần Hoàng Nhân chia sẻ dù biết ông ra đi theo lẽ tự nhiên vì tuổi cao sức yếu, anh vẫn cảm nhận được mất mát lớn cho làng viết TP HCM nói chung và văn đàn cả nước. Còn nhà thơ Lê Minh Quốc thảng thốt: "Ông rất dễ thương. Tôi quý ông ở cái tình văn chương, văn nghệ thấm đẫm. Mỗi khi có sách mới, ông thường tặng cho các cây bút đàn em với sự ân cần, chân thành chia sẻ và đón nhận mọi ý kiến, phản hồi".

Lê Minh Quốc nhận xét sự nghiệp văn chương của Trần Kim Trắc để lại nhiều ấn tượng với anh. "Theo tôi biết, từ sau tác phẩm Cái lu đoạt giải thưởng của Hội nhà văn, Trần Kim Trắc ngưng viết. Đến tận 1994, ông mới quay lại bằng truyện Con cá biệt tăm trong tập sách in chung với nhiều tác giả và mau chóng được bạn đọc đón nhận, yêu mến. Trang viết của ông hòa quyện giữa chất thâm trầm, chững chạc lẫn nét hài hước, vui tươi, tạo nên một giọng văn rặt chất Nam bộ, để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Ông cũng là một trong những cây bút nặng tình nghĩa với mảnh đất Sài Gòn", nhà thơ chia sẻ. 

Nhà văn Trần Kim Trắc nhận giải một cuộc thi viết truyện ngắn năm 2013. Ảnh: Thoại Hà.

Hơn nửa thế kỷ viết lách, Trần Kim Trắc có nhiều tác phẩm chứa đựng đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố trong cuộc đời, được ông thể hiện qua giọng văn thâm trầm, dung dị và hóm hỉnh. Ông đã đoạt các giải thưởng: giải nhì cuộc thi viết truyện ngắn chủ đề giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1945-1954 với truyện ngắn Cái lu, tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 với tập truyện ngắn Ông Thiềm Thừ.

Sinh thời, khi được hỏi về điều quý giá của nghề viết, ông từng tâm sự: "Văn học có hai mục đích, viết làm cho người ta vui và viết làm cho người ta cảm động. Bản lĩnh của nhà văn là bằng cách chấp bút của mình giúp người ta thấy được văn học rất thiết thực với cuộc sống, giúp con người hiểu và yêu nhau hơn".

Nhà văn Trần Kim Trắc (giữa) và vợ tại buổi ký kết tác quyền với NXB Trẻ năm 2015.

Nhà văn Trần Kim Trắc sinh năm 1929 tại Chợ Gạo, Tiền Giang. Ông còn có bút danh NT và Trần Kim. Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có: Chuyện nàng Mimô (truyện ngắn, 1999), Con trai ông tướng (truyện ngắn, 1998), Trăng đẹp mình trăng (truyện ngắn, 1997), Học trò già (truyện ngắn, 1997), Ông Thiềm Thừ (truyện ngắn, 1994), Hoàng đế ướt long bào (tiểu thuyết, 1996), Cái bót (truyện ngắn in chung, 1989), Con cá bặt tăm (truyện ngắn, in chung, 1990), Cái lu (truyện ngắn, 1954). Năm 2015, ông trao cho Nhà xuất bản Trẻ quyền khai thác trọn đời tất cả truyện ngắn, tản văn của mình.

Nguồn: https://vnexpress.net/giai-tri/nha-van-tran-kim-trac-qua-doi-lang-le-o-tuoi-90-3863646.html

20190204 Chien tranh

Ảnh: Các đại biểu tham dự hội thảo

Đó là nhận định của TS Trần Đăng Trung - Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG Hà Nội tại Hội thảo khoa học “Chiến tranh - đất nước - con người trong văn học và điện ảnh đương đại” do Khoa Văn Học, Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG-HCM tổ chức ngày 22/12.

Theo TS Phan Mạnh Hùng - Phó Trưởng khoa Khoa Văn Học, Trường ĐH KHXH&NV ĐHQ-HCM, hội thảo nhằm tổng kết, đánh giá những thành tựu, xu hướng tiếp cận mới về đề tài chiến tranh - đất nước - con người trong văn học và điện ảnh đương đại. Đồng thời, sự tham gia của các nhà văn, đạo diễn sẽ góp thêm những ý kiến, dự định, trăn trở sáng tạo của người cầm bút về đề tài này trong tương lai.

Chiến tranh nhìn từ văn học và điện ảnh

Tiếp cận chiến tranh từ các sáng tác thơ cách mạng trong giai đoạn 1954-1975, TS Phạm Quốc Ca - Trường ĐH Đà Lạt cho rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam trong chiến đấu và sản xuất vừa là đối tượng phản ánh vừa là mục đích sáng tác của các nhà thơ trong giai đoạn này.

“Đó là thời đại anh hùng, một đi không trở lại, không thể lấy thước tấc bình thường mà đo được. Một trong những quy luật thép lúc bấy giờ là không cho phép sự phân tâm, yếu lòng. Những bài thơ như Sẹo đất của Ngô Văn Phú, Vòng trắng của Phạm Tiến Duật ngày hôm nay ta đọc lại thấy bình thường nhưng xuất hiện vào những năm 1973-1974 đã là sự kiện xôn xao. Những bài thơ bi thương về chiến tranh của Lưu Quang Vũ chỉ tồn tại trong sổ tay hoặc lưu hành trong đám bạn bè thân thiết, thực sự là ‘đồ quốc cấm’ lúc bấy giờ” - TS Phạm Quốc Ca nhấn mạnh.

Đề cập thơ đô thị miền Nam cùng thời kỳ, theo TS Phạm Quốc Ca, cái bi với những biểu hiện đa dạng là âm điệu cơ bản. Thơ Nguyễn Bắc Sơn, nhạc Trịnh Công Sơn được đặt biệt yêu thích vì nó mang tâm trạng chán ghét chiến tranh của người dân miền Nam đương thời.

Ở góc độ điện ảnh, nhà phê bình Tô Hoàng phân tích phim tài liệu The Vietnam War của bộ đôi đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick với những “điểm son” nhất định, dù đây “là phim của người Mỹ” và được “lý giải theo cách của họ”. Ông đánh giá: “Với The Vietnam War, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy chính nghĩa thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại? Lính Mỹ thật khó phân biệt đâu là dân đâu là lính ‘Việt Cộng’? ‘Việt Cộng’ tác chiến không dàn tuyến mà ‘xuất quỷ nhập thần’. Chúng ta hiểu, một cuộc chiến tranh với mục đích chính nghĩa, dựa vào dân, được dân đùm bọc, chở che mới tiến hành tác chiến như vậy được. The Vietnam War không muốn hay không gọi thành tên, nhưng chúng ta nhận ra ngay hình thái của một cuộc chiến tranh nhân dân quen thuộc”.

Thảo luận về chủ đề “Văn học và ký ức về chiến tranh Việt Nam”, TS Trần Đăng Trung nhận xét: “Những tác phẩm văn học về cuộc chiến đóng vai trò đáng kể trong việc lưu giữ và củng cố ký ức chiến tranh phổ biến. Nhưng đồng thời không ngừng khơi dậy và bổ sung vào sự ghi nhớ của cộng đồng những câu chuyện và trải nghiệm khuất lấp, thường bị bỏ qua hay lãng quên”.

Lý giải tình trạng mâu thuẫn dai dẳng giữa các nhóm người sau chiến tranh, TS Trung cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do các bên không thể thống nhất về cách cuộc chiến được ghi nhớ hay tạo lập một ký ức chung, câu chuyện chung mà các bên đều có thể đồng cảm và chấp nhận, đều cảm thấy mình là một phần ở trong đó. Ông phân tích: “Sự thiên lệch này phản ánh một phần bản chất sâu thẳm trong con người vốn luôn lấy mình làm trung tâm và hệ quy chiếu. Không chấp nhận và không khoan thứ cho kẻ địch, đó là một luật lệ nghiệt ngã của chiến tranh. Và ảnh hưởng của thái độ thù nghịch đó sẽ còn đeo bám con người rất dai dẳng ngay cả khi cuộc xung đột đã khép lại”.

Đề xuất khuynh hướng sang tác mới trong bối cảnh hiện nay, TS Trần Đăng Trung nhận định: “Một tác phẩm văn học đích thực về chiến tranh tất yếu phải là tác phẩm nói về nhân tính và mang tinh thần hòa giải, làm thuyên giảm nỗi đau cũng như sự thù hận”.

Viết để không bị lãng quên

Đại diện thế hệ cầm bút trong cuộc chiến tranh với Mỹ, nhà thơ Giang Nam cho biết, từ Đổi mới đến nay, ông rất hoan nghênh những tác phẩm đi vào lòng dân với những suy nghĩ mới. Tuy nhiên, tác giả của thi phẩm Quê hương cho rằng có những điều cần xem lại. Đơn cử, quan điểm về văn học nghệ thuật phải dám nói lên sự thật, đặc biệt là mặc tiêu cực, xấu xa của cuộc kháng chiến mà hồi chiến tranh không cho phép, quan điểm này có đúng và có sai.

“Đừng quên là cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ truyền thống của cha ông đang diễn ra từng ngày. Cuộc chiến đấu ấy buộc ta phải thận trọng. Có không ít nhà văn, nhà thơ vi phạm và đã loại ra khỏi đội ngũ. Lực lượng chống đối ta ở trong nước và nước ngoài luôn tìm mọi cách mua chuộc, xuyên tạc, lôi kéo văn nghệ sĩ. Tóm lại, ‘đổi mới’, theo tôi là của những người chiến thắng, cần tìm hình thức và nội dung mới cho văn học nghệ thuật của ta. Đó không phải là vũ khí của kẻ thất bại đang tìm mọi cách để trả thù”.

Nhà thơ Giang Nam cũng bày tỏ niềm tin vào các cây bút trẻ sẽ sáng tạo những tác phẩm hay, viết về chiến tranh sâu sắc hơn, nghĩa tình hơn những cây bút từng trải qua cuộc chiến.

Chia sẻ những khó khăn khi thực hiện các bộ phim về đề tài chiến tranh, đạo diễn Đặng Nhật Minh cho biết: “Cái khó là mình có điều gì đó mới mẻ để nói với người xem không hay chỉ lặp lại những điều mà mọi người đều biết như ta là chính nghĩa, địch là phi nghĩa, ta bao giờ cũng thắng và địch bao giờ cũng thua. Nếu như vậy thì khán giả sẽ nói: ‘Biết rồi! Khổ lắm. Nói mãi!”. Họ sẽ quay lưng lại với những phim về đề tài chiến tranh, chủ yếu để kỷ niệm những ngày lễ lớn, vô cùng tốn kém mà không ai xem như chúng ta từng chứng kiến”.

Đạo diễn của Bao giờ cho đến tháng Mười cho biết thêm, các phim của ông dù làm về đề tài chiến tranh hay phim có hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh như Hà Nội mùa đông 46 đều không mang màu sắc tuyên truyền chính trị. Chúng chỉ nói đến số phận con người nên chạm được trái tim của mọi người. “Tôi còn nhớ năm 2010 khi chiếu phim Đừng đốt ở Trường ĐH De Anza bên Mỹ, có một thanh niên người da màu đã phát biểu trong phần giao lưu sau khi chiếu phim như sau: ‘Tôi có người anh chết trong chiến tranh ở Việt Nam. Tôi căm thù người Việt Nam. Nhưng nay xem xong phim Đừng đốt, tôi không muốn nuôi giữ lòng hận thù đó nữa” - đạo diễn Đặng Nhật Minh chia sẻ.

Trở về từ chiến trường Campuchia, nhà thơ Phạm Sỹ Sáu - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM cho rằng thế hệ cầm bút của ông viết để khẳng định mình là những người lính thế hệ mới, chỉ muốn ở bên nhau bền vai sát cánh, vì sự sống của bản thân và đồng đội. “Tôi viết như một sự giãi bày, lên tiếng về chân dung thế hệ mình. Không cường điệu, chẳng lên gân, viết như một lựa chọn không thể nào khác. Chứng kiến cuộc sống chiến đấu khốc liệt của đồng đội còn ở lại chiến trường, còn vì nhau mà chiến đấu, những trang viết của tôi vì thế thiếu đi tính hoa mỹ mà tràn đầy sự trần trụi” - tác giả của trường ca Giữa ngày và đêm bày tỏ.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu nói thêm: “Khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh giữ nước từ xa, chúng tôi nghĩ về nó và làm nó sống lại trên những trang viết của mình với sự chân thật cần thiết phải có. Bởi đó là món nợ với những mất mát lớn lao mà đồng đội đã vĩnh viễn ra đi không có ngày về hoặc trở về với những thương tật, là gánh nặng giữa đời thường. Tôi viết bởi tôi không muốn thế hệ lính của mình bị lãng quên trong cuộc chiến”.

Nguồn: Bản tin ĐHQG-HCM số 191-192 - 2019

Đó là lời ngợi ca của nhà văn Vũ Bằng về ông Vũ Đình Long - ông chủ nhà xuất bản Tân Dân - chủ bút nhiều tờ báo, tạp chí giai đoạn lịch sử 1930-1945. Ông là một con người đặc biệt, được nhiều nhà văn danh tiếng của Việt Nam kính trọng và đánh giá cao bởi những cống hiến lớn lao của ông đối với văn hóa, văn học nước nhà.

Vũ Đình Long sinh năm 1896, tại làng Mục xá, xã Cao Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống hiếu học, ông đã được hấp thụ ngay từ nhỏ những kiến thức văn chương từ người cha nổi tiếng hay chữ. Mẹ ông lại là người phụ nữ thuộc làu nhiều ca dao, tục ngữ; và luôn đưa ca dao, tục ngữ vào những câu chuyện hay lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những điều ấy đã góp phần vun đắp cho Vũ Đình Long một tâm hồn nhạy cảm và một vốn liếng văn hóa cơ bản.

Vũ Đình Long học chữ Hán, sau đó học Trường Tiểu học Pháp - Việt rồi vào Trường Trung học Pháp mang tên Paul Bert. Năm 1916, ông học trường thuốc, sau khi tốt nghiệp trường thuốc, ông làm việc ở ngành bào chế một thời gian rồi về Hà Đông dạy học.

Những năm tháng làm nghề dạy học, Vũ Đình Long là một nhà giáo tâm huyết, có tầm nhìn xa trông rộng với những tư tưởng tiến bộ, cùng tấm lòng vì thế hệ trẻ. Trong bài "Câu chuyện ngày khai trường", ông hướng lớp trẻ có cách nhìn nhận việc học hoàn toàn mới, cho đến nay vẫn hoàn toàn đúng: "Ngày xưa đi học là để làm quan. Ngày nay nhiều người đi học là để làm việc nhà nước. Nghĩ thế là lầm to đấy các em ạ! Nếu ai đi học cũng muốn làm quan, làm việc nhà nước thì lấy ai làm ruộng, làm thợ, đi buôn?

Ngày xưa chỉ có làm quan, làm việc nhà nước là sang trọng, chứ ngày nay, người nước ta đã tỉnh ngộ, đã biết quý nghề rồi. Làm thợ mà khéo, đi buôn mà giỏi, làm ruộng mà tinh thì cũng được quý trọng chẳng khác gì ông quan, ông thông hay ông giáo. Ấy thế mà làm thợ, làm ruộng, đi buôn lại tự do hơn ông thông, ông quan. Các em chọn nghề cũng phải nghĩ cho chín. Tục ngữ có câu "phi thương bất phú", lại có câu "bách nghệ nông vi bản". Vậy nông, công, thương không phải là nghề tầm thường".

Ông Vũ Đình Long

Với vở kịch "Chén thuốc độc", Vũ Đình Long là người Việt Nam đầu tiên viết kịch nói dân tộc, ông cũng là người tiên phong khai sáng ra nghệ thuật kịch hiện đại Việt Nam. Tiếp đó, năm 1923, Vũ Đình Long cho ra mắt vở "Tòa án lương tâm" cũng lập tức gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn trong dư luận đương thời.

Năm 1925, trong khi vẫn đang làm việc tại Sở Học chính Hà Nội, Vũ Đình Long mở một hiệu sách nhỏ và sau đó chuẩn bị cho việc ra đời một nhà xuất bản của riêng ông. Nhà xuất bản ấy đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn chương nước ta giai đoạn  1930- 1945 của thế kỷ trước, đó là nhà xuất bản Tân Dân (93 Hàng Bông, Hà Nội).

Nhà xuất bản Tân Dân ra đời đầu những năm 1930, cùng ông chủ Vũ Đình Long đã ngày càng trở nên địa chỉ quen thuộc và nổi tiếng trong giới xuất bản, báo chí, văn nhân; đặc biệt từ khi Vũ Đình Long bắt đầu thử nghiệm nghề báo, với tờ tuần báo Tiểu thuyết Thứ Bảy, năm 1934.

Từ quan niệm cách tân và cách nhìn độc đáo, Vũ Đình Long muốn tờ báo của mình khác hoàn toàn với các tờ báo đương thời. Báo chí khi ấy tờ nào cũng xã thuyết một chút, phóng sự điều tra một chút, vài cái truyện ngắn hay đăng dài kỳ tiểu thuyết; rồi thơ trào phúng, tranh châm biếm...

Tiểu thuyết Thứ Bảy chỉ đăng tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài và một truyện chọn  dịch từ văn học nước ngoài. Sự mới lạ và độc đáo này đã lập tức thu hút đông đảo độc giả. Ông chủ xuất bản kiêm chủ bút Vũ Đình Long đã tạo dựng nên các mối quan hệ bạn bè, đồng liêu và cộng sự quanh mình những tên tuổi: Nguyễn Đỗ Mục, Ngô Văn Triện, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Thanh Châu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Kinh Kha, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Lan Khai, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ Trọng Phụng, Hồ Dzếnh... Tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy nổi đình đám đến độ, sau đó xuất hiện những tờ bắt chước phong cách ấy như Tiểu thuyết Thứ Năm, Tiểu thuyết tuần san, Hà Nội báo...

Là người thông minh, ham học, ham đọc và có cái tâm, Vũ Đình Long cũng là người sớm biết nhìn trào lưu mà ra sách, ông biết gắn kết giữa thương mại với văn hóa, biết làm thế nào để bán sách chạy nhưng đồng thời giúp ích cho người đọc. Hơn hẳn một số ông chủ bút của các tờ báo khác chỉ xuất bản sách của mình hoặc do mình dịch...

Vũ Đình Long đã thu hút về mình những tài năng văn chương đương thời; đồng thời cũng chính ông đã biết cách ươm trồng, vun đắp nhiều tài năng đang khởi phát; nhất là sau đó năm 1936 - 1937, ông cho ra tiếp tờ Phổ thông bán nguyệt san, Ích hữu, Tao Đàn, Tuổi trẻ, Truyền bá.

Các nhà văn Trúc Khê, Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư... đều thừa nhận danh tiếng của họ là nhờ Tân Dân giới thiệu và quảng bá. Nhà văn Tô Hoài cho biết, chính nhờ Vũ Đình Long và cộng sự của ông (nhà văn Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan) gợi ý mà Tô Hoài đã có "Dế mèn phiêu lưu ký" thay vì ban đầu chỉ là một truyện ngắn bình thường.

Chính Vũ Đình Long là người thẩm định xuất bản và đã phát hiện ra khá nhiều văn nhân, thi sĩ, kịch sĩ tài năng làm rạng rỡ cho nền văn học Việt Nam. Ông được nhiều văn nghệ sĩ coi là bậc tri kỷ, nhiều người đến với ông say sưa trò chuyện, mạn đàm chuyện văn, chuyện đời và luôn nhận được từ ông sự khích lệ, cổ vũ chân thành.

Phải là một con người có đầu óc quảng bác, có tâm hơn người, không vị kỷ và vì sự phát triển của văn hóa, văn học nước nhà, Vũ Đình Long mới có được vị trí đặc biệt trong lòng các văn nghệ sĩ; có được sự đồng nhất thừa nhận những đóng góp lớn của ông vào sự nghiệp phát triển văn hóa, văn học Việt Nam, trong một giai đoạn lịch sử quan trọng - giai đoạn nở rộ và đạt đến đỉnh cao của nhiều tài năng văn học, nghệ thuật.

Nhân hậu, giàu tình yêu thương, quan tâm chia sẻ với mọi người, tạo điều kiện để mọi người được làm việc trong điều kiện tốt nhất có thể,Vũ Đình Long cũng là một con người đặc biệt biết quý trọng người tài, đặt lòng tin vào những con người mà ông đã cân nhắc, lựa chọn. Như việc ông giao cho Lê Văn Trương làm chủ bút tờ Hữu ích là một ví dụ về sự tín nhiệm và sẵn sàng sẻ chia với cộng sự.

Nhà văn Vũ Bằng là người trông nom bài vở cho các tờ báo của ông suốt mười một năm trời, hiểu Vũ Đình Long hơn nhiều người khác: "Ông Long không uống rượu, không hút thuốc, không say mê thứ gì cả, chỉ say mê viết kịch và làm báo, say mê đọc sách báo Tây, Tàu để tìm kiếm sáng kiến mới, mới luôn luôn, trước hết là để khuếch trương nghề nghiệp của mình, mà sau là để mong có một ngày kia theo kịp đà tiến của báo chí Âu Mỹ và Nhật Bổn". Một người làm văn, làm báo, xuất bản như Vũ Đình Long cách chúng ta đã gần một thế kỷ vẫn là mẫu mực cho cách sống và làm việc hôm nay.

Giáo sư Phong Lê đã khẳng định: "Những cống hiến, hoạt động của Vũ Đình Long đã góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945". Đặc biệt, tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy đã trở thành bà đỡ mát tay cho nhiều đỉnh cao văn chương, nghệ thuật ra đời vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước.

Không chỉ là kịch tác gia tiên phong, nhà văn hóa, Vũ Đình Long còn là người đi tiên phong đổi mới cách làm báo, công nghệ làm báo, cách quản lý tờ báo. Từ những kinh nhiệm thực tế, Vũ Đình Long đã đúc kết phương châm làm báo, xuất bản và thực hiện đúng phương châm đã đặt ra: Thứ nhất: bán thật rẻ; thứ hai: báo in phải đẹp, rõ ràng, sửa lỗi nhà in thật kỹ; thứ ba: khi ra một tờ báo phải chuẩn bị thật kỹ càng (ví dụ: để ra tờ Phổ thông bán nguyệt san, ông đã chuẩn bị bản thảo đủ để ra 10 số, rồi thăm dò thị trường, ý kiến bạn bè, sự quan tâm của độc giả...); thứ tư: không bao giờ đi chệch định hướng đã đề ra, dù có bị áp lực này kia...

Khi đất nước bị chia cắt, nhiều bạn bè văn nghệ sĩ đã vào Nam nhưng Vũ Đình Long kiên quyết bám trụ ở Hà Nội. Ngày Vũ Bằng đến chào ông để đi Nam, Vũ Đình Long đã bộc lộ quan điểm qua lời tâm tình: "Ông đi đó là ý thích của ông. Tôi ở lại không phải là không có lý do. Dù là đất nước bị chia làm hai miền Nam - Bắc nhưng tất cả cũng chỉ là một mối mà thôi. Ông giúp nước theo cách của ông, còn tôi giúp nước theo cách của tôi. Ở bất cứ nơi đâu ta đều có thể giúp được nước, miễn là có thiện chí, thiện tâm". 

Vũ Đình Long trút hơi thở cuối cùng ngày 14-8-1960, trong chính ngôi nhà và cũng là trụ sở nhà in Tân Dân lừng danh một thời, 93 Hàng Bông, Hà Nội.

Cuối năm 2010, hội thảo về nhà văn hóa, kịch tác gia đầu tiên của Việt Nam Vũ Đình Long do Hội Nhà văn Việt Nam và Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh tổ chức tại Hà Nội. Tại hội thảo cũng lần đầu tiên "Tuyển tập Kịch Vũ Đình Long" được ra mắt. Để có thể có đầy đủ các tác phẩm kịch của ông là sự kỳ công sưu tầm tại cơ quan lưu trữ Trung ương, Thư viện Quốc gia và nhiều nguồn khác của cô con dâu người Nga Natasha. Hội thảo cũng thêm một lần nữa đánh giá và khẳng định vai trò và những đóng góp của Vũ Đình Long trong sự nghiệp sân khấu, văn hóa, văn học, báo chí, xuất bản Việt Nam.

Đã đến lúc cần nhìn nhận khách quan, công bằng những đóng góp lớn của Vũ Đình Long trong sự nghiệp văn hóa dân tộc. Ông là một con người xứng đáng được nhận sự kính trọng và biết ơn sâu sắc; một con người mà tên tuổi sẽ còn mãi theo thời gian.

Cao Minh

Nguồn: Văn nghệ Công an, ngày 15.12.2018.

Từ đầu chuyến đi ngắn ngày đến Quảng Nam - Đà Nẵng, tôi và Vương Trí Nhàn đã bảo nhau thế nào cũng phải tìm gặp ông Nguyễn Văn Xuân. Thực tình, chúng tôi đọc ông còn quá ít, mới chỉ vài bài báo, vài đoạn trích. Nhưng qua một vài anh em văn nghệ, và nhất là qua sách báo nghiên cứu, chúng tôi cảm thấy phải đọc Nguyễn Văn Xuân để hiểu người và đất từ miền Trung trở vào, tựa như phải đọc Sơn Nam để hiểu người và đất Nam Kỳ lục tỉnh.

Nhà văn Nguyễn Văn Xuân

Bạn bè ở Đà Nẵng bảo việc gặp “cụ Xuân” thì dễ thôi. Vậy mà với hai kẻ tạt ngang như chúng tôi, việc ấy hóa ra lại khó. Rốt cuộc thì cũng gặp được, vào lúc chúng tôi đang sửa soạn khăn gói về Bắc. Và ông già ngoại thất tuần đã để lại nơi tôi một ấn tượng khá đậm. Ông gây cho người mới gặp lần đầu cái cảm giác thân mật, dễ gần. Trông ông bình dân, nhưng không quá dân dã, càng không có vẻ gì của nhà văn bàn giấy hay học giả thư phòng.

          Chúng tôi biết ông là cây bút vào nghề từ những năm 1940s. Tổng tập văn học Việt Nam (tập 30 B) tuyển 2 truyện ngắn ông sáng tác trước 1945. Có điều lạ là từ văn sáng tác (văn hư cấu) thời đầu, ông lại chuyển sang văn nghiên cứu và dường như cái đáng kể hơn ở ngòi bút ông lại là mảng này. Hai cuốn Khi những lưu dân trở lại Phong trào duy tân ông viết những năm 1960s, vừa được in lại; ông ký tặng bọn tôi mỗi người một cuốn Phong trào duy tân.

          “Tôi là một người địa phương học, - Nguyễn Văn Xuân nói - nhưng không phải địa phương học theo nghĩa cũ, mà là theo nghĩa mới. Việc nghiên cứu xã hội, theo tôi, không phải là chép chỗ này một ít chỗ kia một ít, mà phải nghiên cứu thực tế sự việc, phong tục, văn hóa… Hồi trước, khi đọc một tác giả Pháp, tôi sững sờ vì cái nhận xét mang tính phương châm này: sự nghiên cứu về cả thế giới nên bớt đi, sự nghiên cứu về địa phương nên tăng lên. Tôi yên tâm khi tập trung tối đa vào nghiên cứu địa phương, thấy việc nghiên cứu từng địa phương là quan trọng. Nghĩ như lịch sử nước mình, trong cả chiều dài chiều rộng, sức mấy mà người nghiên cứu nêu được những nhận định khái quát mới. Thôi thì hẵng tạm bằng lòng là đã có mấy bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục. Rồi tập trung nghiên cứu các địa phương. Ngay bây giờ, tôi cho là cần đào tạo thật đông những nhà địa phương học có trình độ ngang mức quốc tế, để có thể tiến hành nghiên cứu so sánh rộng…”

          Ông nêu tên một loại dép người Việt xưa đã dùng, có những người Nhật bảo giống một thứ dép của họ.

“Đó, nếu đặt vấn đề nghiên cứu so sánh, có thể tìm ra những điều thú vị: biết đâu người ta đã chẳng mang kiểu từ Việt về Nhật?”

Ông nêu tên mấy thứ bánh miền Trung có: chưng, tét, tổ, nổ, ích; trong số này, theo ông, bánh tổ có gốc từ Trung Hoa. Thế là trên một loại bánh đã đọc thấy những giao lưu văn hóa.

“Việc nghiên cứu không nên dừng lại ở văn bản. Ví như về phong trào duy tân. Không nên dừng ở các văn bản còn lại. Phong trào này không chỉ có một hướng mở tư thục, dạy tân thư. Nó còn có hướng thực nghiệp. Công ty nước mắm Liên Thành ở miền Trung được lập cùng lúc với trường Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc. Không phải ngẫu nhiên bác sĩ Hồ Tá Khanh ở Pháp đã viết một cuốn sách về công ty này. Tổ chức sản xuất kinh doanh kiểu công ty là nội dung quan trọng thứ hai của duy tân. Thứ ba, phong trào duy tân là khởi nguồn của phong trào lãng mạn trong văn hóa, văn học.”

Duy tân đưa tới phong trào văn nghệ lãng mạn - như ông nhận định - là điều chúng tôi hầu như mới nghe lần đầu, nhưng có thể tán thành bởi tính chất chung của hai phong trào: đó là việc Âu hóa, đô thị hóa, đưa xứ mình thoát ra khỏi nhịp sống trung đại để đi vào thời hiện đại cả về kinh tế, xã hội, văn hóa. (Tôi nhớ, ở một ghi chép, Thế Lữ cho biết ông từng “sống” với phong trào tẩy chay hàng của Khách, hô hào dùng nội hóa, trước khi sống với phong trào văn học lãng mạn). Ông Nguyễn Văn Xuân chỉ cho chúng tôi mấy việc cụ thể: “Phong trào duy tân cung cấp cho phong trào lãng mạn về sau những người hoạt động, những lối sáng tác. Ví dụ quyển Hãn mạn du ký (1920) của Nguyễn Bá Trác. Hoặc những người như Lê Dư, và nhất là Phan Khôi - người cho đăng bài thơ “Tình già” châm ngòi cho việc đăng tải hàng loạt sáng tác thơ mới lãng mạn…”

Luôn thể, chúng tôi hỏi ý kiến ông về một số học giả trong Nam ngoài Bắc từ đầu thế kỷ XX đến gần đây. Về từng người, ông nêu nhận xét trong mấy câu ngắn gọn, ý sắc. Những ai ông không nắm được, ông từ chối: “Anh ấy thuộc lớp trẻ hơn, tôi không biết.”

Chúng tôi muốn được biết rõ hơn về ông. Ví dụ, ông có nhớ rõ ngày tháng năm sinh? Câu trả lời của ông vừa bỏ ngỏ, vừa… đầy tư liệu:

“Hồi ở tiểu học, ngày sinh ghi là 10.5.1920. Con số này chắc là sai, vì tôi tuổi Dậu, tức là năm 1921; còn ngày tháng, thì 10.5, chắc là theo âm lịch” [quy đổi thì ngày 10 tháng 5 năm Kỷ Dậu nhằm ngày thứ Tư 15.6.1921]

Chúng tôi hỏi ông đang viết gì, nhất là ông viết cái gì “để đời”? Ông trả lời trong giọng hào hứng, vừa đệm theo những tiếng thở dài:

“Ôi chao, muốn lắm chớ. Tôi muốn viết một bộ sách về văn học trình diễn, tức là văn học để nói. Mà tôi cũng đã viết được ra thành đến mấy xếp giấy, không biết để lạc đâu đó, ngay trong nhà mình cũng nên. Tôi cũng đi thuyết trình cho các lớp sau đại học ở TP. HCM. Nhưng để làm được thì phải có thời gian, thật nhiều thời gian. Mà thời gian bây giờ tôi phải giành để kiếm sống nuôi đặng ba bốn người lớn trong nhà… Không chắc đã viết được.

Tôi nghiệm rằng ở miền Nam, văn học trình diễn rất quan trọng. Ngoài Bắc, “văn” là cái để đọc. Trong Nam, “văn” là để nói. Thơ lục bát Nguyễn Đình Chiểu là để nói. Người ta nói thơLục Vân Tiên, thơ Thông Tằm, thơ Mụ Đội, vè Chàng Lía… Nói là một phong cách lớn của văn học miền Nam góp vào văn học người Việt. Kết tinh của phong cách này là văn học trình diễn.

Dân Việt trong Nam từ mấy thế kỷ nay là dân đi khai phá, kiểu như dân Âu sang đất Mỹ. Thường thì kẻ đi khai phá đành chịu dốt, không được học. Tiếp nhận bằng nghe nói thuận lợi hơn bằng đọc. Người được học không nhiều; họ có phần giống các samurai bên Nhật: mức học thường là đến tú tài, dưới cử nhân, nhưng ra đời cầm cuốc cầm gươm nhiều hơn cầm bút, di chuyển nhiều hơn là ngồi một nơi. So thử hai thứ bánh đồng chất: bánh chưng ngoài Bắc thích hợp với sự cố định, để nguyên một chỗ; bánh tét trong Nam là thứ thích hợp cho di chuyển, xách mang… Miền Bắc nền nếp, cố định. Miền Nam có khác…”

Chúng tôi hiểu ý ông. Tính năng động, trẻ trung - là đặc tính thấy rõ hơn ở miền Nam. “Văn để nói” của miền Nam, nhất là ở thế kỷ XIX, ít tính uyên thâm, tao nhã, chọn lọc như “văn học để đọc” ở Bắc. Nhưng bù lại, “phong cách nói” của lối văn trong Nam không phải là không đem lại điều gì cho văn học tiếng Việt, nhất là từ thế kỷ XX, khi phong trào văn học và báo chí quốc ngữ chảy ngược từ Nam ra Bắc.

Chúng tôi muốn hỏi chuyện ông về ngôn ngữ, nhân cái ý vừa được khơi ra. Nhưng đã đến giờ ông phải đi vì công việc. Như là để kết thúc, ông trở lại cái ý về sự cần thiết đào tạo các nhà địa phương học, xã hội học. Ông lo lắng: phải dạy thế nào cho sinh viên, nếu không, rồi sẽ không có người viết sử, không có người nghiên cứu địa phương học, xã hội học. Mà phải lo từ nhà trường phổ thông. Phải làm sao có được những trường chính quy, có trường sở tốt, thày giỏi, có đủ thư viện, phòng thí nghiệm, vườn trường, xưởng trường, sân thể thao. Phải có những trường chính quy rồi mới có nhiều chuyên gia giỏi…

Tạm biệt một người có thể xem là một pho sách sống lý thú như ông Nguyễn Văn Xuân, chúng tôi rất mong có dịp gặp lại.

Liệu chúng tôi còn dịp may gặp lại ông không?

Thái Bá Lợi im lặng tham dự toàn bộ cuộc trò chuyện này, bây giờ mới lên tiếng đáp: “Việc gặp là tùy duyên, không nên hẹn trước!”

  

Sửa lần cuối vào Thứ năm, 31 Tháng 1 2019 19:32

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/gap-nha-van-nguyen-van-xuan

Trong cuộc sống đời thường, lớp người hậu sinh chúng tôi thường gọi Vũ Ngọc Phan là "bác Phan", và tất cả chúng tôi đều biết, bác có một tình yêu tha thiết nồng nàn với người vợ của mình, nữ sĩ Hằng Phương. Tình yêu ấy, trước sau như một đều tuân thủ nguyên tắc: tương kính như tân! 

Ít người để ý nữ sĩ Hằng Phương chính là trưởng nữ của Cụ Sở - Cuồng Lê Dư - một nhà chí sĩ đã từng bôn ba nhiều năm ở Trung Quốc, Nhật Bản, là cháu gọi cụ Phan Khôi là cậu ruột. 

Thuở nhỏ, Hằng Phương được học chữ Hán kĩ lưỡng, sau đó bà chuyển sang học chữ Pháp, vốn sinh trưởng trong một gia đình thấm nhuần giáo lý Khổng Mạnh, lại là con gái của một nhà thâm nho, nên bà rất thấu hiểu Nho học. 

Bà đã từng diễn thuyết tại Hội Truyền bá Quốc - ngữ, cộng tác trong phần thi văn với các báo Phụ nữ tân văn, Hà Nội tân văn, Ngày nay, Đàn bà, Tri tân…

Bài thơ đầu tay của Hằng Phương ra đời năm 1929, cùng với một số bài thơ khác đăng trên các báo đương thời đã sớm đưa tên tuổi bà nổi tiếng và trở thành một nhà thơ nữ quen thuộc. Hồn thơ Hằng Phương mang nặng tình quê, luôn hướng vọng về đồng nội, về nơi sinh ra và trưởng thành của mình. 

Có lẽ trước Hằng Phương, chưa ai diễn tả được tâm trạng xao xuyến, bồi hồi của một người con gái lần đầu đi theo tiếng gọi của tình yêu với rất nhiều yêu thương trao gửi nhưng vẫn không nguôi nỗi niềm hoài nhớ cảnh xưa, chốn cũ.

Bài thơ Lòng quê (Tặng Vũ Ngọc Phan) có thể coi là một dấu ấn đậm nét, tiêu biểu cho giọng điệu thơ Hằng Phương:

Xưa kia em ở bên trời
Ngây thơ chưa rõ cuộc đời là chi,
Mặc cho ngày tháng trôi đi
Tóc mây nào biết có khi bạc đầu!

Chim non ở chốn rừng sâu,
Quanh mình chỉ thấy một màu xanh xanh.
Bình minh buổi ấy gặp anh
Rủ em ra chốn đô thành xa khơi.

Yêu anh, em hoá yêu đời,
Theo anh chắp cánh tung trời bay cao.
Anh đưa em đến vườn đào,
Màu tươi, sắc thắm, em nào dám chê.

Nhưng em luống nặng lòng quê,
Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non.
Nhớ làng nhớ xóm con con,
Nhớ hương cây quế chon von trên đồi;

Bạn xưa, nhớ yến tha mồi,
Cành xưa, em đỗ trong hồi còn thơ...
Ðường xa, ngoảnh lại ngẩn ngơ,
Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh...

Vũ Ngọc Phan quen biết Hằng Phương khi ông trọ học tại nhà một người bà con ở phố Phạm Phú Thứ (nay là Nguyễn Quang Bích) Hà Nội. 

Ngay lần đầu gặp gỡ, ông đã bị vẻ xinh đẹp giản dị của cô gái xứ Quảng hút hồn và đã nuôi ý định hỏi cô làm vợ. Vượt qua sự ngăn cản của cả hai bên gia đình, Vũ Ngọc Phan và Hằng Phương đã quyết tâm đến với nhau. Và bài thơ Lòng quê như một chỉ dấu quan trọng cho mối tình sắt son của họ. 

Vợ chồng Vũ Ngọc Phan thời trẻ.

Trong hơn 60 năm lao động viết văn của Vũ Ngọc Phan, nhà thơ Hằng Phương luôn là nguồn cổ vũ lớn lao. 

Bác Phan rất tuân thủ quan niệm "tương kính như tân", chia sẻ với bác gái mọi điều lớn nhỏ trong công việc cũng như trong cuộc sống đời thường. Nhiều người còn nhớ hình ảnh bác Phan đi đón vợ mỗi khi bác gái đi mua gạo theo tiêu chuẩn tem phiếu thời bao cấp. Hai bác sóng đôi bên nhau trên hè phố, bác Phan dắt chiếc xe đạp chở bao gạo phía sau.

Bác Phan từng kể lại: "Từ ngày để ý đến cô láng giềng, tôi hay nghĩ vẩn vơ, đọc sách hay làm bài không tập trung được như trước. Hình ảnh cô láng giềng cứ hiện lên trang sách, trang giấy của tôi. Gặp cô mấy lần ngoài đường, sát mặt nhau, tôi cũng không dám ngỏ với cô một lần. Tôi chỉ đọc tình cảm của cô trên đôi mắt tuyệt đẹp, nhìn tôi như tự đáy lòng. 

Về phần mình, lòng nao nao, nhưng cũng không dám viết thư, chỉ viết thầm kín không biết bao dòng yêu đương trong đầu óc mình những lúc thao thức đêm khuya… 

Vào những năm của thập kỷ 20, con người Việt Nam còn bị kỷ cương phong kiến đè nặng. Một lời nói, một vài dòng gửi cho người mình yêu là "con nhà gia giáo" cũng bị người ta qui mình là phường vô hạnh!... 

Vào năm 1926, hồi hai vợ chồng tôi mới lấy nhau, tôi rất ham đọc những sách nói về Cách mạng tư sản Pháp. Những nhân vật nổi tiếng trong cuộc cách mạng như Danton, Marat, Robespierre, Camille, Desmoulin M Roland... tôi thường kể cuộc đời và những hoạt động của họ cho Hằng Phương nghe. 

Cuộc đời của họ thật ngắn ngủi, nhưng những hoạt động của họ thật phi thường, muôn đời nhân dân Pháp vẫn nhớ. Đường lối của họ có thể khác nhau, nhưng người nào cũng đều nhằm mục đích là tiêu diệt chế độ phong kiến, giành tự do bình đẳng cho toàn dân… 

Tôi còn kể cho Hằng Phương nghe nhiều nhân vật phi thường khác nữa; đêm hôm trước họ còn nằm trong cánh tay người yêu, sáng tinh mơ hôm sau, người ta đã xông vào phòng bắt họ và dẫn lên đoạn đầu đài. Chỉ vì muốn phá tan xiềng xích của chế độ phong kiến mà biết bao mối tình thắm thiết đã bị cắt đứt. 

Những truyện ấy, tôi đã kể cho Hằng Phương nghe trong những đêm ánh trăng vằng vặc chiếu vào phòng qua cửa sổ ngôi nhà cổ của thầy mẹ tôi ở Thái Hà. Hằng Phương thích nghe tôi kể chuyện, cũng như tôi thích nghe cô nói với một giọng nhẹ nhàng êm dịu, về Khổng, Mạnh, Lão, Trang, theo lối giảng của cụ nghè Ngô (tức ông nghè Ngô Đức Kế, thầy dạy của Hằng Phương)... 

Sau khi rời ghế nhà trường, tôi quyết định chọn nghề viết. Một số bà con cô bác lấy làm lạ; họ yên trí là tôi học lấy bằng cấp là để "đi làm", nghĩa là đi làm công chức, chứ đi viết báo, viết văn thì có cần gì bằng cấp. 

Riêng Hằng Phương, người bạn đời của tôi, lại rất đồng ý về sự chọn nghề của tôi. Lúc đầu, chúng tôi chỉ nghĩ, nghề này tha hồ tự do, muốn nghỉ, muốn đi chơi, muốn làm việc đều tự ý mình, không có gì bó buộc cả, miễn là làm sao cho đủ ăn là được… Tôi đã làm việc được liên tục là nhờ có Hằng Phương đảm đang hết mọi việc trong nhà. 

Tôi làm việc trong phòng một mình trên gác từ 6h sáng đến 1h trưa, chiều từ 2h chiều đến 6h, tối từ 8h đến 11h. Thường thì vào buổi tối tôi đọc các tác phẩm, tìm tư liệu và đọc báo. Làm luôn hai tuần lễ, rồi nghỉ ba ngày. Nghỉ để làm vườn và cùng Hằng Phương đi chơi hoặc đi xem xi-nê. Cô là người theo dõi điện ảnh, chọn những phim hay để hai vợ chồng cùng đi xem". 

Rồi ông kết luận: "Bởi vậy, ngày 30 tháng 8 năm 1942, khi quyển I Nhà văn hiện đại ra đời tôi chọn quyển giấy đỏ lụa đẹp nhất tặng Hằng Phương với dòng đề tặng: "Tặng Hằng Phương tập phê bình thứ nhất của tôi, để ghi tạc sự đồng tâm đồng chí của đôi ta". - "Mùa thu năm Nhâm ngọ".

Năm 1961, nhà thơ Hằng Phương bị u dạ con phải nằm bệnh viện 108, các con bận bịu công tác, hằng ngày bác Phan tận tụy ra vào bệnh viện chăm nom săn sóc vợ chu đáo tận tình.

Nhà thơ Hằng Phương ghi trong nhật ký của mình: "Nghĩ đến chết, tôi chẳng sợ gì cả, ai cũng phải chết một lần thôi, nhưng rất thương người còn sống trên đời đau khổ. Các con tôi đã lớn, hầu hết có thể tự lập. Chỉ có một người đau khổ nhất là anh Phan. Hai vợ chồng đã ở với nhau gần 40 năm, nay bỗng chốc mất nhau đau đớn biết chừng nào!... Sáng nay, anh đem áo rét vào cho mình, trông anh lo lắng, xanh xao cả người, thật tội nghiệp!". 

Nhà văn Vũ Ngọc Phan bắt đầu viết hồi ký vào năm 80 tuổi. Ở trang đầu của tập hồi kí viết tay, ông có ghi lại mấy dòng: "Bắt đầu viết tháng 5-1982. Mới viết được vài chục trang thì Hằng Phương đau nặng, nên phải ngừng".

Nhà thơ Hằng Phương mất vào tháng 2/1983. Sau khi vợ mất được 2 tháng, ông nén đau thương để viết tiếp tập hồi kí Những năm tháng ấy. Ông nói với các con mình: "Cha chạy đua với thời gian". Trong tập hồi kí, những trang ông viết về vợ thắm thiết tình yêu thương vô hạn của ông.

GS. Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng - con trai ông kể lại: Mẹ tôi mất được hơn 3 năm, chúng tôi chuyển phần mộ mẹ lên đồi Thanh Tước ngoại thành Hà Nội, nơi để phần mộ tổ tiên. Tôi nhớ buổi trưa hôm ấy, sau khi từ nghĩa trang về nhà, thấy cha ngồi im lặng trước bàn thờ mẹ khói hương nghi ngút. Bằng một giọng nghiêm trang, cha hỏi tôi: "Bên cạnh mẹ còn chỗ không?". Tôi ngập ngừng một lát, rồi thưa: "Dạ, thưa còn". Cha tôi có vẻ hài lòng. 

Ngày nay trên sườn đồi Thanh Tước, hai ngôi mộ cha mẹ nằm cạnh nhau, hướng về phía tây, về cõi vĩnh hằng của bầu trời. Nơi ấy ngàn năm rực sáng những buổi hoàng hôn tuyệt vời mà cha mẹ chúng tôi đã từng ngắm, khi bên nhau qua những năm tháng trên cuộc đời này.

Văn chương là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ

Vũ Ngọc Phan là nhà nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại, nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, nhà báo, nhà dịch thuật, nhà văn. 

Bộ sách nổi tiếng nhất của ông - Nhà văn hiện đại, với chân dung và sự nghiệp của 19 tác giả, bao quát trên 30 năm hoạt động của một thời kì rất sôi động với sự phát triển mau lẹ khác thường. Những thao tác cần thiết cho việc biên soạn bộ sách này thực sự công phu, tỉ mỉ, là sự tuân thủ những kỉ luật nghiêm khắc của lao động khoa học. 

Ông từng kể về quá trình viết bộ sách này: "Từ tháng 12/1938 đến cuối tháng giêng năm 1940 thì tôi viết xong lượt đầu, tất cả 1.650 trang trên giấy học trò. Tư liệu dùng vào bộ sách lấy ở sổ tay, tôi có trên 50 sổ tay ghi về văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, lịch sử Việt Nam…Đến tháng 12/1942 viết xong lượt thứ 2, đã sửa và bổ sung". 

Vũ Ngọc Phan đã nhận định rất sâu sắc về các giá trị của văn chương và di sản tinh thần của nền văn hóa dân tộc trong Kết luận của bộ Nhà văn hiện đại: "Văn chương tuy không bổ ích trực tiếp cho người đời như cơm gạo, nhưng nó chính là một thứ đồ ăn về đường tinh thần của một dân tộc văn minh: nó chính là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ, biết nhận xét và luôn luôn có cái hy vọng chen vai thích cánh với những dân tộc hùng cường trên thế giới. Một dân tộc không biết trọng văn chương của mình chỉ có thể là một dân tộc man di hay sắp đến ngày diệt vong".

PGS.TS Lưu Khánh Thơ

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 11.12.2018.

Khi nghĩ về diện mạo văn chương Việt Nam 2018, tôi nhận ra sự bất lực của những tính từ. Một năm văn học vừa qua, theo tôi, chứng kiến quá nhiều những cuộc chuyển động, mà chuyển động nào cũng mạnh mẽ, quyết liệt, phức tạp đến nỗi không một hình dung từ nào, dù tinh vi nhất, có thể bao quát được, mô tả được chúng một cách chân xác và thuyết phục. Tuy nhiên, nếu ta thực lòng muốn có một mường tượng tổng quan về toàn cảnh văn học Việt Nam 2018, thì tôi cho chỉ còn cách cố tìm ra một động từ có khả năng thâu tóm, diễn đạt một cách tương đối cái chiều hướng chủ đạo của những cuộc chuyển động kia.  

Trong cái nhìn tất nhiên rất chủ quan của cá nhân tôi, động từ ấy là trở lại.

Bao quát văn đàn Việt suốt một năm 2018 vừa qua là rất nhiều những cuộc trở lại. Những cuộc trở lại đầy ý nghĩa. Những cuộc trở lại thú vị, rực rỡ, thậm chí ngoạn mục. Tôi đang muốn nói đến những lần tái xuất diệu kỳ của nhiều mảnh văn học sử đặc biệt quan trọng, cuộc trở về để truy tìm căn tính của những tiếng nói lưu lạc, và nhất là những chuyến du hành ngược thời gian của các cây bút đương đại với khao khát tìm tòi, lục lọi quá khứ và ký ức dân tộc.

*

            Ở Việt Nam, có lẽ chưa bao giờ nhu cầu tái đánh giá, tái nhận thức về con đường đi của lịch sử văn học lại trở nên mạnh mẽ và quyết liệt như bây giờ. Càng ngày người ta càng nhận ra rất rõ rằng, những gì mỗi cá nhân biết và được biết về lịch sử nói chung và lịch sử văn chương nói riêng phần nhiều chỉ là những hư cấu huyền thoại, hay nói đúng hơn là những thực tại xiêu vẹo, kết quả của liên tục những lần bị/được kiến tạo, cắt dán, phân mảnh, tái cấu trúc. Càng ngày, những lỗ hổng chứa đầy bí mật của lịch sử văn chương Việt Nam càng mở rộng ra, sâu hoắm. Có những điều tưởng chừng đã xác lập được vị thế rất vững chãi của mình trong tiến trình văn học, nay lại trở thành một đối tượng hứng chịu những hoài nghi về giá trị và ý nghĩa tồn tại. Có những tác phẩm tưởng chừng đã trở thành hóa thạch của quên lãng nằm câm lặng dưới những lớp đất sâu, nay chợt nhiên được khai quật và được đưa trở lại với những kiếp sống mới, những cương vị mới. Cũng có những cái tên tưởng chừng đã quá quen thuộc đến mức mòn sáo, nay bỗng chốc bừng lên thành những câu chuyện đầy cuốn hút có khả năng mời gọi và kích nhạy những tra vấn mới, những hồi đáp mới, những viễn tượng mới,…

            Thực ra, tình thế rộn ràng đa thanh ấy của văn đàn Việt đã kéo dài từ suốt gần chục năm nay. Nhưng tôi cho năm 2018 này mới thực sự là một năm đặc biệt chứng kiến những cuộc trở lại vần vũ, dữ dội nhất của các giá trị quá khứ, với quá nhiều những sự kiện buộc người ta không thể không có một cái nhìn khác, thậm chí là phải thay đổi toàn bộ nhìn nhận lâu nay về con đường đi của lịch sử văn chương Việt Nam, ít nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động vừa qua.

            Có lẽ ít có một năm văn học nào lại chứng kiến nhiều cuộc kỷ niệm đáng chú ý như năm 2018. Theo thống kê sơ lược của tôi, từ đầu năm đến nay, có khoảng bảy cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học nổi bật được tổ chức từ Bắc vào Nam – một con số khá ấn tượng – để tưởng nhớ những nhân vật, những sự kiện văn học vô cùng đặc biệt. Thật ra, khi nhắc đến những cuộc hội thảo, tọa đàm, kỷ niệm như thế, tôi biết có nhiều người sẽ cảm thấy phiền lòng bởi cho rằng, chúng chỉ là những sự kiện nặng vẻ nghi lễ, công thức, và vì thế không mang nhiều ý nghĩa. Tuy vậy, vượt ra khỏi cái vỏ bọc của tính hình thức, những cuộc hội đàm với ý nghĩa tưởng nhớ những cột mốc ấy, theo tôi, đôi khi lại có khả năng mang đến cho người ta một cảm giác rất lạ: cái cảm giác tròn đầy, cái cảm giác hoàn tất một chu trình, và vì thế là cái cảm giác được nối kết, tương hợp, như hai đầu của một đường tròn gặp nhau sau suốt một hành trình dài. Cứ tưởng tượng rằng, khi biết từng có một văn tài lỗi lạc qua đời vào đúng ngày này nhưng cách đây vài thập kỷ hay hàng trăm năm trước, sao lòng ta có thể tránh khỏi những bùi ngùi xúc động, những thương cảm nhớ tiếc, hay thậm chí là những nối kết, những rung cảm thiêng liêng? Cái cảm giác ấy sẽ dọn đường để những hồn thiêng trở về, và cũng sẽ tạo ra một cơ hội diệu kỳ cho những người đương thời chúng ta đọc lại, nghĩ lại, đánh giá lại để từ đó, lịch sử văn học một lần nữa được phục dựng, bổ khuyết và tái kiến tạo một cách khách quan hơn, công bằng hơn.

Tôi có thể đưa ra một ví dụ. Cuộc hội thảo diễn ra vào tháng 8 năm nay tại Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) với mục đích kỷ niệm 70 năm năm sinh và 30 năm năm mất của thi sĩ, kịch tác gia tài hoa Lưu Quang Vũ đã kích nhạy được thêm rất nhiều những góc nhìn mới mẻ, những luận bình sâu sắc và đầy gợi mở về bản sắc và những đóng góp của các tác phẩm kịch, thơ ông đối với tiến trình văn chương Việt Nam thế kỷ XX, mà đơn cử là hai tiểu luận tôi đánh giá khá cao: Diễn ngôn về sự khuyết tật trong kịch Lưu Quang Vũ của TS. Đào Lê Na (ĐHKHXHNV TP.HCM) và Mỹ cảm về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ của TS. Trần Ngọc Hiếu (ĐHSP Hà Nội). Tuy vậy, trong năm 2018 này không chỉ có duy nhất cuộc hội thảo hoành tráng về Lưu Quang Vũ. Tháng 3/2018, lễ kỷ niệm 100 năm năm sinh Nguyễn Bính diễn ra tại Sài Gòn, với sự tham gia của gia đình nhà thơ và rất nhiều những người yêu thơ ông trong suốt hơn bảy thập kỷ qua. Tám tháng sau đó, vị thi sĩ chân quê này tiếp tục trở thành nhân vật trung tâm của cuộc hội đàm được Viện Văn học và trường Đại học Văn Lang liên kết tổ chức. Cùng trong tháng 11/2018, lễ kỷ niệm 100 năm năm sinh nhà văn Nguyên Hồng diễn ra tại Hải Phòng – nơi tuy không phải là sinh quán của ông, nhưng có một ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với đời văn của cây bút chuyên viết về những người cùng khổ này. Không dừng lại ở đó, diễn ra song song với những cuộc hội đàm về ba cây bút lừng lẫy của văn chương hiện đại Việt Nam trong năm nay là hai cuộc hội thảo không kém phần trang trọng tưởng nhớ cuộc đời và sự nghiệp của hai nhà nghiên cứu văn chương Đỗ Đức Dục và Lê Trí Viễn. Di sản mà hai ông để lại không chỉ là hàng ngàn trang bản thảo luận khảo văn chương trung đại Việt Nam và văn học Pháp thế kỷ XIX, mà còn là những bài học đáng quý về thái độ học tập, làm việc và nhân cách của người trí thức.

Song chỉ nhắc đến sáu cuộc hội thảo, kỷ niệm trên đây thôi thì hẳn là chưa đủ, bởi năm 2018 này còn chứng kiến cuộc hội thảo diễn ra tại Huế vào tháng 7 để kỷ niệm 80 năm ngày tờ báo Dân của xứ ủy Trung Kỳ ra số đầu tiên – một trong những cuộc hội thảo hiếm hoi được tổ chức để vinh danh hành trình lịch sử và vị thế của một tờ báo trong tiến trình văn nghệ dân tộc. Số lượng lớn những cuộc gặp gỡ học thuật đầy chất lượng như thế tạo nên một bản sắc rất riêng cho năm văn học này, như tôi đã nói từ đầu: năm của những cuộc trở lại. Những hồi ức trở lại, nhưng là để khơi gợi những tri kiến mới và tạo đà cho những bước đi mới của lịch sử văn chương Việt Nam.

Bên cạnh những cuộc hội thảo, tọa đàm kỷ niệm hoành tráng, tôi cũng muốn nhắc đến những “pha” xuất bản đáng chú ý trong năm nay, những cuộc tái bản các tác phẩm văn học đặc biệt quan trọng và nhiều ý nghĩa. Năm 2018 “tuôn ra” một loạt những kinh điển: Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu; Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh; Đốt lò hương cũ của Đinh Hùng; Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương; Nhật ký Nguyên Hồng được hai người con gái ruột của nhà văn chọn lọc và biên soạn từ phần di cảo ông để lại; Khúc thụy du tập hợp những bài thơ làm nên sự nghiệp nửa thế kỷ của Du Tử Lê; Tuổi nước độc vả Sợi tóc tìm thấy của Dương Nghiễm Mậu; Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung của Đỗ Long Vân; bộ sách nhiều thể loại (từ truyện ngắn, truyện dài đến khảo cứu) của “ông già Nam Bộ” Sơn Nam; Di cảo Lưu Quang Vũ, Chuyện nhỏ sớm mùa thu Nàng Sita của Lưu Quang Vũ;…

Thật ra, trong những năm trước, tủ sách Việt Nam danh tác của Nhã Nam hay các tủ sách kinh điển của Phương Nam, Alphabooks,… vẫn làm tốt công việc tái bản những kiệt tác của văn học Việt Nam từ thời trung đại cho đến thế kỷ XX. Song năm 2018 này, theo tôi, mới là năm chứng kiến những cuộc trở lại bất ngờ và kỳ diệu nhất: Hà Hương phong nguyệt tưởng chừng đã bị thiêu hủy hoàn toàn sau khi trở thành đối tượng cho cuộc tranh luận dữ dội về vấn đề luân lý trên báo chí Nam bộ hồi đầu thế kỷ, nay chợt trở về từ Pháp quốc xa xôi để tái sinh trong hình dáng gần như đầy đủ nhất của nó và bắt đầu gợi mở những câu chuyện bí ẩn đằng sau diễn trình tiểu thuyết Quốc ngữ trước 1932; hay trường hợp Đỗ Long Vân – cái tên tưởng chừng đã chìm khuất hẳn vào mù sương của lịch sử, nay chợt sống dậy với hai kiệt tác phê bình được tái bản gần như cùng một lượt. Tuy nhiên, năm 2018 này càng khác lạ hơn khi những công ty xuất bản có tuổi đời rất ngắn, thậm chí mới toanh như Saigonbooks, Domino Books, Như Books, Phan Book,… lại có vai trò trội bật hơn trong việc đưa trở lại các trường hợp kinh điển đặc biệt của văn học Việt Nam. Sự uyên bác, dấn thân trong lựa chọn xuất bản, sự cởi mở trong tiếp nhận cái mới cộng với nguồn năng lượng nhiệt huyết, trẻ trung chính là những yếu tố quan trọng giúp các công ty và đơn vị xuất bản này ngày càng tạo dựng được vị thế vững chãi của mình trong lòng bạn đọc, và nhất là khiến người ta có quyền tin tưởng và hy vọng về một nền xuất bản nhiều đột phá rực rỡ hơn trong tương lai.

*

            Cuối năm 2017, độc giả trong nước bất ngờ và thích thú khi nghe tin Phương Nam Books chuẩn bị ra mắt tập truyện ngắn Người tị nạn của Viet Thanh Nguyen – tác giả người Mỹ gốc Việt đầu tiên đạt giải thưởng danh giá Pulitzer. Sự bất ngờ thích thú ấy một phần đến từ niềm vui khi biết rằng không khí xuất bản trong nước ngày càng cởi mở và cập nhật sát sao hơn với tình hình sách vở thế giới khi một tác phẩm Anh ngữ như Người tị nạn (tên tiếng Anh: The Refugees) vừa phát hành ở Hoa Kỳ vài tháng thì bản dịch tiếng Việt đã xuất hiện, song một phần cũng bắt nguồn từ niềm hạnh phúc của các độc giả trong nước khi biết mình sắp sửa được đọc tác phẩm của một nhà văn mang dòng máu Việt Nam được văn đàn thế giới công nhận và đánh giá cao. Nhất là, sự xuất hiện hoành tráng của một cái tên mới lạ (tất nhiên là chỉ với văn đàn trong nước) như Viet Thanh Nguyen cho người ta một niềm tin mãnh liệt, rằng trong một tương lai không xa, những người Việt trên khắp thế giới sẽ được đọc nhau nhiều hơn, đối thoại cùng nhau nhiều hơn chứ không chỉ quanh quẩn mãi với một vài nhà văn hải ngoại quen thuộc.

            Niềm tin ấy, đến năm nay, ngay lập tức được đáp lời bằng cuộc trở về (một cách chính thống) của rất nhiều những tiếng nói lưu lạc đặc biệt. Tất nhiên, chiếm đa phần trong số ấy vẫn là những tiếng nói thân quen như Linda Lê (Pháp) với hai quyển tiểu thuyết khá ấn tượng được dịch và xuất bản liên tục trong cùng năm 2018 Vượt sóng Sóng ngầm; Lê Minh Hà (Đức) với Những triền xưa ai đi; Đỗ Hoàng Diệu (Hoa Kỳ) với Lưng rồng; Như Quỳnh de Prelle (Bỉ) với Buổi sáng phủ định; Du Tử Lê (Hoa Kỳ) với những cuộc trở lại hoành tráng khi hàng loạt tựa sách được tái bản như Với nhau, một ngày nào, Trên ngọn tình sầu hay Giữ đời cho nhau;… Tuy vậy, điều đáng chú ý nơi bộ phận văn học hải ngoại xuất bản ở Việt Nam năm nay là sự xuất hiện của những tác giả mới toanh, rất giống với trường hợp của Viet Thanh Nguyen năm ngoái. Tôi đang muốn nhắc đến Doan Bui và Ocean Vương. Hai cây bút, một làm thơ một viết tiểu thuyết, một dùng Pháp ngữ một sáng tác bằng tiếng Anh, một nam một nữ, một trung niên một thanh niên. Cả hai có lẽ cũng chưa biết nhiều về nhau do sống cách nhau tận nửa vòng trái đất, kẻ ở Pháp quốc người ở Hoa Kỳ. Song họ đã cùng nhau trở về trong năm 2018, và quan trọng hơn là đang dần tạo được những dấu ấn nhất định trong lòng độc giả Việt.

Doan Bui, từ sự giới thiệu của nhà văn Thuận, xuất hiện một cách bất ngờ trên văn đàn trong nước bằng quyển tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tự truyện Người cha im lặng. Cuốn sách có văn phong gọn, chắc, lạnh rất gần với phong cách báo chí (Doan Bui hiện là một nữ nhà báo có tiếng tại Pháp), nhưng miên man hoài niệm, đẹp một cách giản dị và đầy những ẩn dụ ám ảnh. Ngoài ra, những song thoại đa thanh về thân phận và sự mô tả đầy nhân bản cuộc hành trình truy tìm căn tính, bản sắc của những người Việt lưu vong cũng là điểm nhấn quan trọng giúp Người cha im lặng chiếm được cảm tình của cả độc giả Việt Nam lẫn ngoại quốc, mà bằng chứng là với quyển tiểu thuyết này, Doan Bui đã vinh dự được nhận hai giải thưởng văn chương Amerigo Vespucci và Porte Dorée.

Ocean Vương là một cây bút còn rất trẻ, thuộc thế hệ cuối 8x. Từ một cậu bé tận 7 tuổi mới biết đọc tiếng Anh, vậy mà mười mấy năm sau, Ocean Vương khiến văn đàn Mỹ choáng ngợp đến sững sờ bằng tập thơ đầu tay Night Sky with Exit Wounds. Những câu thơ dài ngắn bất định, vừa mơ mộng tinh tế vừa phá cách, trần tục, nổi loạn của anh khiến cho những thảm kịch nhân sinh, từ cô đơn, chiến tranh, bạo lực, phi nhân,… được lột tả một cách ám ảnh đến khốc liệt. Song điều khiến nhiều người thích thơ Ocean Vương chính nằm ở chỗ, những ý thơ gai góc kia của anh, sau rốt, vẫn hướng đến niềm tin về những vết thương được chữa lành và niềm hy vọng mãnh liệt về sức mạnh của lòng trắc ẩn. Tháng 10/2018, Hoàng Hưng chuyển ngữ tập thơ này của Ocean Vương sang tiếng Việt với tựa đề Trời đêm những vết thương xuyên thấu. Chính bởi nỗ lực này, độc giả trong nước có cơ hội được chứng kiến thêm, từ rất sớm, cuộc trở lại huy hoàng của một tiếng thơ gốc Việt đầy sức nặng được văn đàn thế giới thừa nhận (Ocean Vương từng đạt giải thưởng văn chương danh giá T.S. Eliot vào năm 2017).

Tuy nhiên, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu nhắc đến văn đàn Việt năm nay mà quên đi một sự kiện đặc biệt có liên quan đến một nhân vật cũng đặc biệt không kém: nữ nhà văn người Canada gốc Việt Kim Thúy.

Những tháng cuối năm 2018, độc giả Việt Nam xôn xao vì cái tin Kim Thúy – cái tên không mấy quen thuộc trước đây – trở thành một trong bốn ứng cử viên cho giải Văn chương mới (thay thế cho Nobel Văn chương thường niên đang bị hoãn trao giải một năm vì những lộn xộn trong hội đồng xét giải), đứng cùng hàng ngũ với ba tên tuổi nổi bật khác, trong đó có nhà văn đình đám người Nhật Haruki Murakami. Kim Thúy chủ yếu viết bằng tiếng Pháp, song lại cho ra đời nhiều quyển tiểu thuyết có tựa đề rất Việt Nam như Ru, Mãn, Vi,… kể câu chuyện về các thuyền nhân và thân phận những người Việt xa xứ. Hiện tại, các tác phẩm của chị chưa được xuất bản chính thức tại Việt Nam, song theo tôi, ta hoàn toàn có thể xem đây là cuộc trở về đúng nghĩa của một tiếng nói văn chương lưu lạc. Chưa đọc được các sáng tác của chị một cách toàn vẹn, cũng chưa một lần gặp chị ngoài đời, nhưng chỉ cần nghe chị trò chuyện, trả lời phỏng vấn, trong sự chân thành và khiêm nhường, thì những độc giả Việt Nam, ít nhất là cá nhân tôi, hiểu rằng mình có cơ sở để tiếp tục chờ mong sự xuất hiện rực rỡ và đầy hứa hẹn của Kim Thúy – một cách chính thức – trên văn đàn Việt trong thời gian sắp tới.

*

            Những tháng đầu năm nay, gần như toàn bộ văn đàn trở nên sôi động vì một truyện ngắn của Trần Quỳnh Nga đăng trên báo Văn nghệ từ tháng 12/2017. Truyện Bắt đầu và kết thúc của nữ nhà văn sinh năm 1981, với câu chuyện lấy bối cảnh cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần 2 của triều đại nhà Trần, nhanh chóng hứng chịu nhiều phản hồi không mấy tích cực từ phía độc giả. Người cho rằng Trần Quỳnh Nga đang kiến tạo một diễn ngôn phản lịch sử khi chiêu tuyết cho kẻ “cõng rắn cắn gà nhà” là Trần Ích Tắc. Người khác lại cho Bắt đầu và kết thúc có những chi tiết đi ngược lại với tinh thần dân tộc, thậm chí được viết bằng một lối “văn nô”! Nhắc lại câu chuyện không vui vẻ gì của văn đàn Việt đầu năm 2018, tôi thực lòng không hề muốn khơi gợi thêm bất kỳ một cuộc tranh luận nào, và cũng không phải để đưa ra một lời phân định đúng – sai nào của cá nhân mình cho câu chuyện vốn dĩ đã quá phức tạp này. Việc dẫn ra những lùm xùm ấy ở đây chỉ là cách để tôi từ đó có thể trình bày một phán đoán của mình, rằng rất có khả năng cuộc tranh luận về truyện ngắn Trần Quỳnh Nga, hay rộng hơn là vấn đề viết truyện lịch sử diễn ra rầm rộ vào đầu năm nay đã định hình một “định mệnh”, một bản sắc đặc biệt đeo đuổi năm văn học này: sự tìm tòi, trở về với quá khứ và kho ký ức dân tộc.

            Thực vậy, trong năm 2018, theo quan sát của cá nhân tôi, đề tài lịch sử tỏa đi rất rộng. Những quyển sách đáng chú ý của năm nay hầu như đều rơi vào mảng đề tài nhiều gợi mở này. Có thể liệt kê ra một số ví dụ như Những vọng âm nằm ngủ (Huỳnh Trọng Khang), Người canh giữ phù dung (Nguyệt Chu), Hùng binh (Đặng Ngọc Hưng), Về từ hành tinh ký ức (Võ Diệu Thanh),… Chưa kể các truyện ngắn đăng rải rác trên các báo, tạp chí từ trung ương đến địa phương cũng rất chú ý đến những câu chuyện, những con người tưởng chừng đã ở lại rất sâu trong hồi ức dân tộc. Chỉ tính riêng tạp chí Văn nghệ quân đội, gần như bất kỳ một số tạp chí nào trong năm nay cũng ít nhất có một truyện ngắn viết về đề tài lịch sử, mà tác giả của chúng đều là những cây bút tên tuổi như Sương Nguyệt Minh, Ma Văn Kháng, Hồ Tĩnh Tâm, Lê Vũ Trường Giang, Phạm Hữu Hoàng, Triều La Vỹ, Trần Thị Tú Ngọc, Bảo Thương,… Các sáng tác này, theo tôi, phần nhiều đã soi xét được những vấn đề, những bí mật của lịch sử một cách đa diện, đa chiều cũng như chọn được cho mình những lối viết phù hợp, lúc truyền thống giản dị nhưng khơi mở được nhiều ẩn ức, cảm xúc nơi độc giả, lúc mới mẻ, cách tân, tràn đầy tinh thần giải thiêng hậu hiện đại.

            Song không dừng lại ở đây, cuộc trở về của lịch sử và hồi ức như là bản sắc của năm văn học này còn in dấu rõ nét trong cuộc thi Văn học tuổi 20 lần VI đang gần như chiếm trọn mọi mối quan tâm của những người yêu văn chương trong cả nước. Hai mươi tác phẩm vào vòng chung khảo thì hơn một phần tư số ấy là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử và những trầm tích văn hóa dân tộc. Có thể bắt gặp cuộc hành trình tìm về với ký ức chiến tranh trong Cửa sổ phía Đông của Nguyễn Thị Kim Hòa, những tự sự mới mẻ về vua Lê Long Đỉnh trong Trăng trong cõi của Phạm Thúy Quỳnh, câu chuyện fantasy lồng ghép lịch sử và huyền thoại dân tộc trong Yagon – Những kẻ vô cảm của Phạm Bá Diệp hay những cốt truyện mang màu sắc “xuyên không” đưa người đọc trở về với không gian huyền thoại cổ sơ trong Những đứa con cổ tích của Bạch Đằng và cuộc chiến đấu chống quân Nguyên – Mông trong Nhân gian nằm nghiêng của Đặng Hằng,… Những nỗ lực ấy cho thấy những người trẻ viết văn hôm nay chưa bao giờ vô tâm với lịch sử và kho tàng văn hóa dân tộc. Họ vẫn thường xuyên thực hiện những cuộc trở về trong tâm tưởng để chiêm ngưỡng, đối thoại và đồng cảm với những câu chuyện và những bí mật từ quá khứ, mà bằng chứng rõ rệt là hàng loạt những cái tên viết truyện lịch sử, từ quen thuộc đến mới toanh, xuất hiện trong cuộc thi lần này và hứa hẹn sẽ còn tiếp tục mang đến nhiều điều kỳ diệu cho độc giả Việt trong thời gian sắp tới.

*

            Rất nhiều cuộc trở lại đã diễn ra trong một năm văn học vừa qua và để lại hàng loạt những thành tựu kỳ vĩ. Đời sống văn chương Việt Nam 2018 vừa được làm dày lên bằng cuộc trở về của nhiều tác phẩm kinh điển và cả những người văn tưởng chừng đã mất hút bên kia đại dương, vừa trở nên tươi mới, hiện đại, nhiều hứa hẹn khi những cây bút đương đại đang miệt mài làm sống dậy những câu chuyện xa xưa dưới ánh sáng của một tinh thần mới, một lối nghĩ mới. Chính vì lẽ ấy, với tôi, trở lại ở đây không có nghĩa là thụt lùi, là thoái lui, như cái nghĩa hiển ngôn ít nhiều u ám của nó, mà thực ra là sự tiến lên, sự vươn đi chở theo rất nhiều những tham vọng và tin tưởng.

Sài Gòn, tháng 11.2018

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 359/01-2019           

           

             

20171113 Nguyen Du Le Anh TuanẢnh: Tranh sơn dầu “Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc Việt Nam” (tác giả: họa sĩ Lê Anh Tuấn)

Từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu Nguyễn Du bắt đầu từ bộ phận sáng tác thơ chữ Hán của ông trong Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, hay sáng tác thơ Nôm Đoạn trường tân thanh (Kim Vân Kiều tân truyện/ Truyện Kiều) đạt được nhiều thành tựu đáng kể; hoặc cũng có người tìm hiểu Nguyễn Du ở một góc nhìn khác, không phải từ góc độ một nhà thơ, mà ở góc độ nhà phê bình thơ qua những lời bình thơ của Nguyễn Du trong tác phẩm Hoa nguyên thi thảo của Lê Quang Định... Tìm hiểu Nguyễn Du qua những nhân vật đương thời, tin chắc phần nào cũng có những đóng góp nhất định trong việc khắc hoạ chân dung và tâm sự của Nguyễn Du.

Người đầu tiên nhắc đến Nguyễn Du qua thơ Nguyễn Hành có lẽ là ông Ngô Lập Chi khi ông phiên dịch thơ Nguyễn Hành vào năm 1962 nhưng tiếc là chưa được công bố. Trương Chính khi biên soạn công trình Thơ chữ Hán Nguyễn Du tiếp tục nhắc đến một tác phẩm của Nguyễn Hành là Liệp tụng để làm rõ chí của Nguyễn Du. Công trình Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm[1] sau đó của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính, tiếp tục nhắc lại và bổ sung vài bài thơ của Nguyễn Hành viết về Nguyễn Du khi ông soạn phần Niên phổ để ở đầu công trình này. Sau đó, Nguyễn Ngọc Nhuận trong bài viết Mối quan hệ giữa Nguyễn Hành (1771-1824) với Nguyễn Du (1766-1820) qua một số bài thơ văn đã tiếp tục công việc này khi tiến hành giới thiệu toàn văn 3 bài thơ và 1 bài tụng của Nguyễn Hành. Tuy nhiên, 3 bài thơ mà Nguyễn Ngọc Nhuận dẫn ra trong bài viết của ông là dẫn lại từ bản dịch của ông Ngô Lập Chi, do vậy vẫn chưa đầy đủ.

Trong quá trình dịch thuật, giới thiệu thơ Nguyễn Hành[2], chúng tôi thấy trong sáng tác của ông, số tác phẩm trực tiếp và gián tiếp nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du không chỉ có 3 bài thơ và 1 bài tụng như Nguyễn Ngọc Nhuận nói. Trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Hành, có 6 tác phẩm nói về người chú của mình là Nguyễn Du (6 bài thơ và 1 bài tụng). Bài viết này do đó, vừa giới thiệu đôi nét về thơ Nguyễn Hành vừa tìm hiểu Nguyễn Du qua cảm nhận của người cháu hay thơ.

Nguyễn Hành (1771-1824), tự là Tử Kính, hiệu là Nam Thúc, biệt hiệu là Ngọ Nam, Nhật Nam, Nam Song chủ nhân[3], quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An, là con Nguyễn Điều (anh cùng cha khác mẹ của thi hào Nguyễn Du). Thuở trẻ, Nguyễn Hành nổi tiếng là người học rộng, có tài văn thơ, được xếp vào hàng “An Nam ngũ tuyệt” (năm văn nhân nổi tiếng đương thời, trong đó có hai chú cháu Nguyễn Du, Nguyễn Hành) [4]. Sau khi Nguyễn Huệ ra Bắc, xoá bỏ triều đình Lê Trịnh thối nát, lập ra vương triều mới Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Hành không chịu hợp tác với tân triều, cam chịu cuộc sống ăn nhờ ở đậu, đói khổ ốm đau triền miên. Năm 1802, Gia Long lên ngôi, ông cũng không hưởng ứng lời “cầu hiền”, tiếp tục sống cuộc đời thanh bần với tâm sự “hoài Lê” cho đến khi qua đời, để lại hai tập thơ Minh Quyên phả (Minh Quyên thi tập) Quan Đông hải.

Qua thơ, ta thấy cuộc đời của Nguyễn Hành là chuỗi ngày li hương, tình cảnh đói khổ kéo dài. Nhiều bài thơ cho thấy cảnh ngộ của Nguyễn Hành phần nào na ná với Nguyễn Du trong khoảng mười năm gió bụi:

去年南策府

今夜大羅城

漂泊原無定

飢寒尚有生

 (北城除夕)

Khứ niên Nam Sách phủ,

Kim dạ Đại La thành.

Phiêu bạc nguyên vô định,

Cơ hàn thượng hữu sinh…

(Bắc Thành trừ tịch)

Năm ngoái ở phủ Nam Sách,

Đêm nay ở thành Đại La[5]

Phiêu bạt không nơi chốn cố định,

Đói rét nhưng vẫn còn được sống…

(Đêm ba mươi tết ở Bắc Thành[6])[7]

Cuộc sống rày đây mai đó, thiếu thốn trăm bề chẳng khác Nguyễn Du từng nói trong bài thơ Khất thực: “Văn tự hà tằng vi ngã dụng/ Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.” (Văn chương chữ nghĩa chưa từng có ích cho ta/ Đói rét chợt khiến người ta phải thương xót).

Biến cố chính trị đã đẩy Nguyễn Hành đến việc li hương, lại mắc tiếng oan khiến ông bị nhà quan kêu lên kêu xuống. Bài thơ có tính tự trào ghi lại tình cảnh ấy:

他年海內知名士

今日城中乞食人

最是一般真可笑

公門安用汝頻頻

(有嘲之者)

Tha niên hải nội tri danh sĩ,

Kim nhật thành trung khất thực nhân.

Tối thị nhất ban chân khả tiếu,

Công môn an dụng nhữ tần tần.

(Hữu trào chi giả)

Năm nào vang tiếng là bậc danh sĩ của cả nước,

Ngày nay lại thành người xin ăn trong thành.

Điều đáng cười mỉa nhất chính là,

Cửa công chẳng cần ngươi mà ngươi lại thường đến.

(Có điều cười mỉa)

Thơ của Nguyễn Hành lời lẽ giản dị, ý tứ tha thiết, thường ghi lại những cảm xúc và cảnh ngộ bản thân ông đã nếm trải, đồng thời qua đó bày tỏ sự ngao ngán của thế thái nhân tình. Đặc biệt dưới triều Tây Sơn, Nguyễn Hành có nhiều bài thơ bày tỏ quan niệm trung quân, mang tâm sự “hoài Lê”. Ông có tập thơ Thất cảm, truy vịnh nhiều nhân vật là bầy tôi của vua Lê, qua đó bày tỏ thái độ bất hợp tác với tân triều.

Thái độ của Nguyễn Hành đối với triều Nguyễn sau này, không gay gắt như đối với triều Tây Sơn, nhưng ông vẫn quyết sống cuộc đời thường dân. Lời dẫn một bài thơ Quá tiền Hình bộ tham tri Huỳnh công thành trung cựu trạch kiến liễu thụ nhi tác (Qua nhà cũ ở trong thành của Tham tri bộ Hình trước đây là Huỳnh công, thấy cây liễu nên làm thơ) của ông cho thấy điều đó:

 “Lúc ông Tham tri bộ Hình trước đây là Uẩn Ngọc hầu Huỳnh công[8] trấn ở Nghệ An, nhiều lần mời Hành ra nhưng Hành chẳng chịu, ông vẫn dung tha cho. Được ít lâu, ông về triều. Gặp tang mẹ, ông xin nghỉ quan, Hành cảm kích làm bài luỵ văn gửi viếng, ông cũng viết thư trả lời. Vào năm Canh ngọ (1810), ông phụng mệnh vua đi tra xét chuyện ở Bắc Thành, có mời Hành cùng đi, dùng lễ đãi như khách, thường bồi tiếp chuyện thơ văn. Hành tôi tự nghĩ là một kẻ áo vải, được ngồi cùng bậc công khanh, hơn cả chức phận mình, lại được vào ra cửa quyền, cũng không phải là niềm vui của mình. Ở được vài tháng, tôi cố từ mà về. Ông đem hai chục lạng bạc trắng làm quà tiễn. Từ đó về sau Hành không đến đó nữa. Ông mất khi đương việc quan, ân ý đều vẹn. Nhưng ở Nghệ An chẳng được yên, Hành dắt díu gia đình lên nương dựa ở đất Bắc, lại bị lời nói bóng gió làm luỵ thân, phải ở tại thành, đường trần vất vả. Nhìn lại nơi ngày xưa dạo chơi, lòng thấy bồi hồi. Cảm thương người tri kỷ đã mất, xót xa mình chẳng thành đôi, bấy giờ nhà cũ đã đổ nát, chỉ còn cội liễu xanh tươi, thấy cảnh mà đau xót bèn làm thơ.”[9]

Từ chối làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Hành vẫn tiếp tục đời lưu lạc, thiếu thốn. Trong bài Trường ngôn hành, người đọc có thể cảm nhận tình cảnh quẫn bách đói nghèo của gia đình đông con, thân bị ràng buộc bởi công danh của Nguyễn Hành chẳng khác gì với Nguyễn Du:

倉皇共命未就成

直俟公門渾似贅

初來本欲潔其身

今日此身為有繫

十口栖栖羈旅中

夢中何以供珠桂

朝干暮貸不勝煩

物情好處余心愧

丈夫本志在濟人

窮途未免為人濟

百年長有債相隨

萬事果為名所纍

衣食支吾兩難全

捨衣取食危哉勢

饑寒蹙迫可奈何

妻子号啼了無計

可憐垂老路途中

曾是少年公子貴

開山遼遠更何如

身世飄零長若寄

平生本是耐窮人

未有如今窮也至

猶幸真心一點存

往來伸屈非無義

窮壯老壯勉旃哉

我思古人有名世

Thảng hoàng cộng mệnh vị tựu thành,

Trực sĩ công môn hồn tự chuế.

Sơ lai bổn dục khiết kỳ thân,

Kim nhật thử thân vi hữu hệ.

Thập khẩu thê thê ky lữ trung,

Mộng trung hà dĩ cung châu quế.

Triêu can mộ thải bất thăng phiền,

Vật tình hảo xứ dư tâm quý.

Trượng phu bổn chí tại tế nhân,

Cùng đồ vị miễn vi nhân tế.

Bách niên trường hữu trái tương tuỳ,

Vạn sự quả vi danh sở luỵ.

Y thực chi ngô lưỡng nan toàn,

Xả y thủ thực nguy tai thế.

Cơ hàn xúc bách khả nại hà,

Thê tử hào đề liễu vô kế.

Khả liên thuỳ lão lộ đồ trung,

Tằng thị thiếu niên công tử quý.

Khai sơn liêu viễn cánh hà như,

Thân thế phiêu linh trường nhược ký.

Bình sinh bổn thị nại cùng nhân,

Vị hữu như kim cùng dã chí.

Do hạnh chân tâm nhất điểm tồn,

Vãng lai thân khuất phi vô nghĩa.

Cùng tráng lão tráng miễn chiên tai,

Ngã tư cổ nhân hữu danh thế.

… Sống trong hoảng hốt chẳng có gì thành tựu,

Mãi chờ chực ở cửa công như làm rể.

Lúc đầu vốn muốn thân trong sạch,

Mà nay thân này lại bị buộc ràng.

Mười miệng ăn lo lắng đời lưu lạc,

Trong mơ biết lấy gì ăn trong thời buổi đắt đỏ này.

Sáng làm tối vay, chẳng dám than phiền,

Dẫu đời đối xử tốt, nhưng lòng ta thấy thẹn.

Bậc trượng phu vốn chí ở chỗ cứu giúp người,

Nhưng cùng đường chẳng tránh khỏi được người giúp lại.

Trăm năm nợ mãi còn theo đuổi,

Muôn chuyện quả là bị danh làm luỵ.

Chuyện áo cơm khiến ta khó vẹn cả hai,

Bỏ áo, chọn cơm, thế cũng nguy.

Đói rét túng quẫn biết làm sao?

Vợ con gào khóc, hết phương kế.

Thương thay, nay ta già cả quá nửa đời,

Trước đây từng là chàng công tử trẻ lại giàu sang.

Mở núi khai hoang thì thế nào?

Thân thế nổi trôi, mãi ở trọ[10].

Đời ta hẳn là người chịu cực,

Nhưng chưa bao giờ khổ cực đến mức như ngày nay.

Cũng may còn lại chút chơn tâm,

Tiến lui co duỗi chẳng phải là vô nghĩa.

Nghèo mà khoẻ, già mà khoẻ, gắng sức vậy!

Ta nhớ người xưa, có bậc hiền nổi danh ở đời[11].

Có lẽ do hoàn cảnh của hai chú cháu gần giống nhau nên Nguyễn Hành cảm thông với nỗi niềm của Nguyễn Du. Trong bài Liệp tụng[12] có tính phúng dụ, Nguyễn Hành từng nói lên quan điểm của mình qua các nhân vật Thạch Sinh, Phỉ Tử và Chi Ly. Có người cho rằng Nguyễn Hành trong thế vai Thạch Sinh, còn Nguyễn Du trong vai Phỉ Tử[13].

Thạch Sinh đả kích việc đi săn của Phỉ Tử không phải là cách để nuôi thần dưỡng khí, là ham cái lợi nhỏ để mắc cái hoạ lớn:

… 石生曰:子知獵而不得獸爲樂,詎知獵而得獸與不得獸爲憂乎?居吾語子:夫獵者,晨而出,冒霜露,登高山,入林莾,喘不得息,饑不遑哺,兩目出火,汗流如雨,精搖力竭,心在於獸,非所以持志養氣尊名益壽,又况有意外之卢者乎,徼小利而蒙大害,窃爲吾子不取也。

Thạch Sinh hỏi: “Ông chỉ biết đi săn không được thú là vui, há biết rằng đi săn được thú và đi săn mà không được thú đều phải lo chăng? Hãy để tôi nói cho ông biết: Kẻ đi săn, sáng sớm đã ra khỏi nhà, đội sương móc, lên núi cao, vào rừng rậm, dẫu mệt cũng không được nghỉ, đói cũng chẳng kịp ăn, hai mắt như đổ lửa, mồ hôi như tuôn mưa, hao thần tổn sức, tâm để ở việc săn được thú, chẳng phải là cách để giữ chí nuôi khí, để vang danh thêm thọ, huống lại có thêm những rủi ro ngoài ý, cầu cái lợi nhỏ để mắc cái hại lớn, trộm nghĩ rằng ông không nên vậy.”

Nhưng qua cách giải thích của Phỉ Tử, cho thấy, lối đi săn của Phỉ Tử hoàn toàn không phải cách đi săn của người đời, ông gọi đó là cuộc đi săn của bậc đại phu:

蜚子笑而應之曰:子之所言,世俗之獵也。子亦知夫大人之獵乎?夫大人之獵,志不在獲,將翺將翔,覽乎林薄,凌高顚,望大壑,洗濯乎清泉,偃仰乎松栢,觀生物之變化,與熊麋而偕樂。於是神怡意得,澹若無爲,雲容容而入袖,風??而飄衣,望清都於咫尺,與汗漫而爲期,是則大人之獵也,豈世俗之所知?且夫利害者深,不在山林在朝廷。李斯西遊遂相秦嬴,位極讒深,卒被五刑。子獨不記其臨死之言乎?此辰雖欲牽黃狗臂蒼鷹,出上蔡東門,逐狡兔,不可得也。今子教我以擇術,我敢不服,若以利害動之,夫徼小利而蒙大害者,固不可爲也。設蒙小害而獲大利者,尚可爲乎。且天下之獵,於子爲憊,終日勞瘁,夜分未寐,心思目覽,口誦手記,採華葉之繁言,嚼糟粕之餘味,求以蹈美前修,立名後世,斯亦難矣。性與命合,學與辰違,踽踽凉凉,窮無所歸,饑不索食,寒不製衣,坐見蹇拙,動獲誹謗,子不知悔,又我是譏。           

Phỉ Tử cười mà đáp rằng: “Lời ông nói là việc đi săn của người đời. Ông có biết bậc trượng phu đại nhân đi săn thế nào chăng? Bậc trượng phu đại nhân đi săn, chí chẳng cốt ở việc săn được thú, mà cốt ở việc rong ruổi lượn bay, xem khắp rừng rú, trèo lên đỉnh cao, nhìn hang núi rộng, tắm táp ở suối trong, nằm ngửa dưới cội tùng bách, xem muôn vật biến hoá, vui cùng lũ gấu nai. Thế nên tinh thần vui vẻ, thanh đạm vô vi, mây thong dong lồng tay, gió hây hây thổi áo, ngắm bầu trời gần trong gang tấc, cùng thần tiên[14] gửi ý hẹn hò, đó mới là kiểu đi săn của bậc đại nhân vậy, người đời há có thể biết được? Huống hồ điều lợi điều hại thật thâm sâu, nó chẳng ở nơi núi rừng mà ở tại triều đình đó. Lý Tư sang phía tây làm tướng cho họ Doanh nước Tần, ngôi cực cao thì bị gièm càng lắm, cuối cùng bị án ngũ hình[15]. Ông há chẳng nhớ lời của Tư lúc sắp chết sao? Bấy giờ dẫu có muốn “tay dắt chó vàng, vai mang ó xanh, ra cửa đông đất Thượng Sái săn đuổi thỏ ranh, cũng không còn được nữa”.[16] Nay ông lại đem phương cách mà chỉ cho ta, ta dám đâu chẳng phục, lại lấy điều lợi điều hại để lay chuyển rằng chỉ chăm cái lợi nhỏ để mắc cái hại lớn, thì ta đây vốn không làm, nhưng giả như chịu thiệt hại nhỏ mà thu được lợi lớn, thì vẫn có thể làm chăng? Vả người trong thiên hạ đi săn thì giờ tý đã lo lắng, suốt ngày mệt nhọc, đến khuya chưa yên giấc; (còn ông) lòng cứ nghĩ, mắt cứ nhìn, miệng đọc, tay ghi, nhặt nhạnh những lời rườm rà, nhai lại những mùi thừa cặn bã, lại mong bước vào chỗ các bậc tiên hiền đức cao lập danh để đời sau, thế thì khó lắm vậy. Tính hợp với mệnh, sự học trái với thời cuộc, thui thủi lẻ loi, đến đường cùng chẳng có nơi về, đói không tìm được miếng ăn, lạnh không sắm nổi chiếc áo, chỉ biết ngồi nhìn cảnh khốn quẫn, động tí thì phỉ báng, ông đã không biết hối, sao lại còn mỉa tôi!”[17]

Câu chuyện Nguyễn Du thích đi săn được Nguyễn Hành ghi lại trên đây hoàn toàn phù hợp với những ghi chép về tính thích đi săn của Nguyễn Du trong Đại Nam liệt truyện. Qua câu chuyện giữa Thạch Sinh và Phỉ Tử trong bài Liệp tụng, người đọc có thể thấy chí hướng ở nhàn và con đường ra làm quan với triều Nguyễn của Nguyễn Du là sự bất đắc dĩ. Nguyễn Nễ (anh Nguyễn Du) từng làm quan dưới triều Lê-Trịnh, rồi Tây Sơn, đến khi Gia Long ra Bắc, ông cũng làm thơ dâng vua Gia Long để được làm quan với triều Nguyễn; còn Nguyễn Du không giống như anh của mình, mặc dù đã có lần ông trốn về Nam để theo nhà Nguyễn, nhưng việc không thành. (Nhà Nguyễn trong tâm thức của Nguyễn Du, dẫu sao vẫn là chính thống, bởi các đời chúa Nguyễn vẫn dùng theo niên hiệu của nhà Lê).

Theo Đại Nam liệt truyện, năm Gia Long thứ nhất (1802), Nguyễn Du ra làm quan với triều Nguyễn, được bổ chức Tri phủ phủ Thường Tín. (Trong bài Liệp tụng của Nguyễn Hành cũng chép ông ra làm quan với triều Nguyễn vào thời gian này). Nhưng không được bao lâu, ông lấy cớ bệnh tật từ quan về quê nhà (1804). Do ra làm quan trong vạn bất đắc dĩ, nên khi Nguyễn Du từ chức tri phủ phủ Thường Tín, Nguyễn Hành làm bài thơ mừng, và ngợi ca phẩm đức của chú:

清平何事故辭官

勇退知公意所安

烈爵已從天下得

令名應爲我家完

白雲本是無心出

飛鳥宜於未倦還

只日故園陪勝會

歲寒松菊靜相看

(喜叔父常信俯府知府解官歸)

Thanh bình hà sự cố từ quan,

Dũng thoái tri công ý sở an.

Liệt tước dĩ tòng thiên hạ đắc,

Lệnh danh ưng vị ngã gia hoàn.

Bạch vân bản thị vô tâm xuất,

Phi điểu nghi ư vị quyện hoàn.

Chỉ nhật cố viên bồi thắng hội,

Tuế hàn tùng cúc tĩnh tương khan.

(Hỉ thúc phụ Thường Tín phủ tri phủ giải quan quy)

Gặp đời thái bình sao lại cố ý từ quan,

Biết rằng ông có ý quả quyết theo sở thích riêng của mình.

Quan tước dẫu là điều quý trong thiên hạ,

Tiếng hay nên vì nhà ta mà giữ gìn trọn vẹn.

Đám mây trắng vốn là vô tâm ra khỏi hang núi,

Con chim bay nên trở về lúc chưa mỏi.

Nay mai được hầu trong buổi hội ngộ nơi vườn cũ,

Cùng vui với tùng cúc trong cảnh trời đông lặng lẽ.

(Mừng chú từ quan Tri phủ phủ Thường Tín về nhà)

Nhưng chưa được bao lâu thì được triệu làm Đông các học sĩ vào năm Bính dần 1806. Nguyễn Hành làm thơ tiễn chú:

鴻魚多秀氣

夫子獨馳名

袍馬當朝貴

蒪鱸故園情

州廬方屬望

旌旗遽登程

浩浩三江水

風濤自坦平

(送叔父東閣大學士赴南京)

Hồng, Ngư đa tú khí,

Phu tử độc trì danh.

Bào mã đương triều quí,

Thuần lô cố viên tình.

Châu lư phương chúc vọng,

Tinh kỳ cự đăng trình.

Hiệu hiệu Tam Giang thuỷ,

Phong đào tự thản bình.

(Tống Thúc phụ Đông các đại học sĩ phó Nam kinh)[18]

Núi Hồng, núi Ngư[19] nhiều tú khí,

Chỉ riêng chú được hun đúc nên nổi danh tiếng.

Dẫu được vinh hiển ở triều đình, mặc áo bào, cưỡi ngựa,

Mà tình cảm vẫn nhớ rau thuần cá lô nơi quê nhà xưa.

Chốn châu quận còn đang ngóng trông,

Bóng tinh kỳ đã vội lên đường.

Nước Tam Giang[20] rộng mênh mông,

Sóng to gió lớn chợt phẳng lặng.

(Tiễn chân thúc phụ Đông các đại học sĩ vào Nam kinh)

Nguyễn Hành sau đó lại còn viết bài thơ dâng chú, ngợi ca sự tài hoa và phẩm đức nhà nho với tấm lòng giản dị và tình cảm đối với quê nhà:

吾門秀出如夫子

九十九峰中一峰

品在玉堂金馬貴

心將木食草衣同

江湖廊廟饒雙適

詩畫琹書擅四工

却爲蒪鱸忘不得

幾何歸去在秋風

(上叔父東閣學士)

Ngô môn tú xuất như phu tử,

Cửu thập cửu phong trung nhất phong.

Phẩm tại ngọc đường kim mã quí,

Tâm tương mộc thực thảo y đồng.

Giang hồ lang miếu nhiêu song thích,

Thi hoạ cầm thư thiện tứ công.

Khước vị thuần lô vong bất đắc,

Kỷ hà quy khứ tại thu phong.

(Thưng thúc phụ Đông các học sĩ)[21]

Chú là người kiệt xuất trong họ nhà ta,

Là một trong chín mươi chín ngọn núi Hồng.

Thân ở nơi ngọc đường kim mã (tại triều đình),

Lòng vẫn vui áo vải cơm rau.

Dẫu ở lang miếu, hay nơi giang hồ, đều được thoả chí,

Cầm, thư, thi, họa, cả bốn nghề đều giỏi.

Lại vì không thể quên rau nhútvược[22],

Nên khi mùa gió thu nổi, mấy lần đi về quê.

(Thơ dâng chú là Đông các học sĩ)

Qua thơ của Nguyễn Hành, ta thấy Nguyễn Du là một người tài hoa, ông không những giỏi về thơ ca, mà ngay cả vẽ, viết chữ, đánh đàn cũng giỏi. Vì vậy có thể lý giải vì sao Nguyễn Du viết về những người sống bằng nghề ca hát rất cảm xúc, bởi chính ông cũng là người thông hiểu âm nhạc.

Ngoài những bài thơ Nguyễn Hành trực tiếp nhắc đến Nguyễn Du, trong bài thơ Phụng tiễn cữu thị Như Hành công Bắc sứ (Kính tiễn cậu Như Hành công đi sứ phương Bắc), hai câu cuối ông gián tiếp nhắc đến Nguyễn Du đã đi sứ về:

盛餞即今臨珥水

雄心早已赴燕臺

微生預有觀光分

叔氏來還舅氏來

Thịnh tiễn tức kim lâm Nhị thuỷ,

Hùng tâm tảo dĩ phó Yên đài.

Vi sinh dự hữu quan quang phận,

Thúc thị lai hoàn cữu thị lai.

Mở tiệc lớn hôm nay trước khi qua sông Nhị[23],

Tấm lòng hùng tráng sớm đã đến đài Yên[24].

Đời hèn ta cũng được dự phần đi sứ[25],

Chú ta trở về thì cậu ta lại đến đây[26].

Trong chặng đường hoạn lộ của Nguyễn Du với triều Nguyễn, các cua triều Nguyễn đã rất trọng dụng ông. Nên nhớ Nguyễn Du chỉ mới đỗ tam trường, nhưng được Gia Long bổ dụng chức tri phủ phủ Thường Tín vào năm 1802, đến năm 1806 thăng chức Đông các học sĩ, năm 1809 đổi chức làm cai bạ Quảng Bình, năm 1813 đổi làm Cần chánh điện học sĩ, làm chánh sứ sang Trung Quốc, năm 1815 thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ, năm 1820 triều đình lại cử ông đi sứ lần hai, nhưng chưa kịp đi thì ông mất. Nguyễn Hành nghe tin chú mất, đã cảm xúc làm hai bài thơ. Bài thứ nhất Nguyễn Hành nhắc lại hành trạng của Nguyễn Du đồng thời bày tỏ sự thương tiếc chú mình ra đi đột ngột:

十九年前素如子

一世才花今已矣

吾門厚福公巧完

疫厲何能速公死

(聞叔父禮部右參知訃音感作, 1)

Thập cửu niên tiền Tố Như tử,

Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ!

Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn,

Dịch lệ hà năng tốc công tử.

(Văn thúc phụ Lễ bộ Hữu tham tri phó âm cảm tác, 1)[27]

Mười chín năm về trước, Tố Như tử[28],

Một đời tài hoa, nay đã qua đời.

Phúc dày họ nhà ta, chú khéo giữ trọn vẹn[29],

Bệnh dịch kia sao làm chú mau chết như thế!

            (Nghe tin chú là quan Hữu tham tri bộ Lễ qua đời, xúc cảm thành thơ, 1)

Bài thứ hai, Nguyễn Hành bày tỏ tình cảm sâu đậm khi nhắc đến kỷ niệm đi săn ngày trước của mình đối với Nguyễn Du:

三秋淪落此城中

南望浮雲每憶公

歸去家山聞夜獵

精靈恍與舊時同

(聞叔父禮部右參知訃音感作, 2)

Tam thu luân lạc thử thành trung,

Nam vọng phù vân mỗi ức công.

Quy khứ gia sơn gian dạ liệp,

Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng.

(Văn thúc phụ Lễ bộ Hữu tham tri phó âm cảm tác, 2)[30]

Ba năm lưu lạc trong thành này[31],

Mỗi lần nhìn về Nam thấy đám mây nổi, lại nhớ đến chú.

Khi về quê nhà, đêm nghe tiếng người đi săn,

Bàng hoàng tưởng hồn chú vẫn giống như ngày xưa.

            (Nghe tin chú là quan Hữu tham tri bộ Lễ qua đời, xúc cảm thành thơ, 2)

Phải nói rằng, Nguyễn Hành dành nhiều tình cảm viết về Nguyễn Du hơn những người chú khác của mình. Có thể lý giải điều đó ở các góc độ: 1) Nguyễn Du và Nguyễn Hành cùng độ tuổi như nhau; 2) Hoàn cảnh của hai người gần giống nhau; 3) Nguyễn Du kiên quyết không ra làm quan với Tây Sơn như một kiểu thể hiện lòng trung với nhà Lê, điều này giống với Nguyễn Hành; cũng chính vì lý do này, Nguyễn Hành rất phục Nguyễn Du. Một điều đáng tiếc là từ những ghi chép của Nguyễn Hành, chúng tôi không thấy nhắc đến việc Nguyễn Du viết truyện Kiều, vì vậy không thể làm rõ thời gian Nguyễn Du viết Kiều. Tuy nhiên, từ những gì chúng tôi trình bày trên, qua cảm nhận của một người đương thời, một người cháu thân thiết – Nguyễn Hành – có thể khẳng định Nguyễn Du là một nhà thơ tài hoa, đa tài nghệ, phẩm đức cao thượng. Mặc dù làm quan với triều Nguyễn, dù được triều Nguyễn hết sức trọng dụng, Nguyễn Du vẫn mang trong lòng tâm sự hoài Lê, trung với triều Lê, điều đó còn thể hiện ở tính thích nhàn cư nơi thôn dã của ông. Nguyễn Du là đỉnh núi cao trong chín mươi chín ngọn núi Hồng như Nguyễn Hành ca tụng, bởi ông không những là một nhà thơ tài hoa mà quan trọng ông đã giữ gìn trọn vẹn phẩm cách của một nhà nho trong thời buổi rối ren.

11-2015

L.Q.T.

 


[1] Nguyễn Thạch Giang-Trương Chính biên khảo và chú giải, Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm, Nxb. Văn hoá thông tin, 2001.

[2] Xem thêm Thơ Nguyễn Hành, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, 2015.

[3] Theo bài Tiên Hội miếu môn ký trong Quan Đông hải, ký hiệu A.1539, VHc.02036, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ, Nguyễn Hành ký biệt hiệu là Nam Song chủ nhân và ông còn có bài Nam Song ký giải thích lý do ông đặt tên hiệu là Nam Song.

[4] Thơ Nguyễn Hành, sđd., tr.15.

[5] Thành Đại La: tên cũ của đất Thăng Long (trước khi nhà Lý định đô ở đây).

[6] Bắc Thành: tức Cố đô Thăng Long dưới thời đầu Nguyễn và 11 trấn xung quanh.

[7] Phần dịch nghĩa trong bài viết này đều là của chúng tôi.

[8] Uẩn Ngọc hầu Huỳnh công: tức Huỳnh Ngọc Uẩn, người Bình Dương, trấn Gia Định, mất năm Đinh sửu (1817). Năm 1806, làm chức Hiệp trấn Nghệ An, năm 1810 làm chức Hình tào ở Bắc Thành. Ông từng làm phó sứ sang Thanh cùng phái đoàn do Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ. Trong Cấn Trai thi tập, có chép tước hầu của Huỳnh Ngọc Uẩn là Uẩn Tài hầu, ở đây chép là Uẩn Ngọc hầu. Tuy nhiên xét các cứ liệu mà Nguyễn Hành ghi ở đây trùng khớp với Đại Nam liệt truyện chép về Huỳnh Ngọc Uẩn, nên chúng tôi cho rằng Uẩn Ngọc hầu Huỳnh công chính là Huỳnh Ngọc Uẩn.

[9] Xin xem thêm Thơ Nguyễn Hành, sđd., tr.230-233.

[10] Thân thế nổi trôi, mãi ở trọ: lấy ý từ câu “phù sinh nhược ký” (kiếp sống trôi nổi như gửi thân ở trọ).

[11] Bậc hiền nổi danh ở đời: nguyên văn “danh thế”, còn gọi là “mệnh thế”. Chữ lấy từ sách Mạnh Tử, chương Công Tôn Sửu, hạ có chép: “Trước đây là trước đây, nay là nay. Cứ năm trăm năm ắt lại có bậc minh vương xuất hiện, trong đó sẽ có bậc hiền nổi danh ở đời” (Bỉ nhất thời, thử nhất thời. Ngũ bách niên tất hữu vượng giả hưng, kỳ gian hữu danh thế giả彼一時,此一時也。五百年必有王者興,其間有名世者。)

[12] Trích từ Quan Đông hải, tlđd.

[13] Ngô Lập Chi và Nguyễn Ngọc Nhuận đều cho như vậy.

[14] Thần tiên: nguyên văn “hãn mạn”, chữ lấy từ sách Hoài Nam Tử: “Ngô dữ Hãn mạn kỳ ư cửu cai chi ngoại” (Ta cùng Hãn mạn hẹn hò ngoài khoảng trời). Cao Dụ chú: Hãn mạn: “là nơi (bao la mênh mông) không thể biết được.” Sau phụ ghi là tên của thần tiên. Ở đây chúng tôi tạm dịch là thần tiên.

[15] Ngũ hình: chặt tay, chặt chân, cắt mũi, cung hình, chặt đầu, năm hình phạt tàn khốc thời xưa.

[16] Tay dắt chó vàng… không được nữa: lời của Lý Tư trước lúc bị hành hình nói với con trai của mình. Sử ký của Tư Mã Thiên chép: “Tháng 7 năm thứ 2 đời Tần Nhị Thế, Lý Tư bị luận tội ngũ hình, bị chém ngang lưng tại Hàm Dương. Tư bị đưa ra khỏi ngục cùng với con trai của mình, Tư ngoái đầu bảo con mình rằng: “Ta muốn cùng con dắt chó vàng ra cửa đông Thượng Sái săn đuổi thỏ ranh, nay há còn được chăng!” Rồi hai cha con cùng khóc lóc. Cả nhà Tư bị tru di tam tộc.”

[17] Xin xem toàn văn ở Thơ Nguyễn Hành, sđd., tr.347-352.

[18] Trích từ Quan Đông hải, tlđd.

[19] Núi Hồng, núi Ngư: thuộc địa phận tỉnh Nghệ An.

[20] Tam Giang: sông thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.

[21] Trích từ Quan Đông hải, tlđd.

[22] Rau nhút cá vược: món ăn ngon ở Tùng Giang, Trung Quốc, chữ lấy từ chuyện Trương Hàn người thời Tấn, khi ông làm quan, hễ mùa thu gió thu thổi ông lại nhớ đến món ăn quê nhà, ông liền cáo quan về nhà.

[23] Sông Nhị: tức Nhị Hà, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội gọi là sông Nhị Hà.

[24] Đài Yên: nguyên văn “Yên đài”, chỉ Yên Kinh, Bắc Kinh, Trung Quốc.

[25] Đi sứ: nguyên văn “quan quang”, chữ lấy ở quẻ Quan trong Kinh Dịch “Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương” (Xem cảnh tượng đất nước, lợi dụng việc triều cận nơi nhà vua), chỉ sự du lãm quan sát chính giáo, phong tục của một nước. Sau dùng để chỉ việc đi sứ.

[26] Chú ta … lại đến: Chú của Nguyễn Hành là Nguyễn Du, đi sứ vào năm Gia Long thứ 12 (1813); cậu của Nguyễn Hành họ Bùi tự Như Hành, nhưng tên thật là gì, chúng tôi chưa khảo được.

[27] Trích từ Minh quyên thi tập, ký hiệu VHv.109, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu trữ. Dưới đề bài viết có đoạn nguyên chú: 公字素如,性好獵,自號鴻山獵戶。壬戌歲噬仕今朝,累官至右參知。庚辰八月卒。(Ông tên tự là Tố Như, tính thích đi săn, tự đặt tên hiệu là “Hồng sơn liệp hộ” (Phường săn núi Hồng); năm Nhâm tuất (1802), ra làm quan với đương triều, thăng tới chức Hữu tham tri, qua đời vào tháng tám năm Canh thìn (1820).)

[28] Tố Như tử: tức Nguyễn Du, tên tự là Tố Như; chữ “tử” ở đây có nghĩa tôn xưng. Tính từ khi Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn cho đến khi ông qua đời (tháng tám năm Canh Thìn, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất – 1820) là vừa mười chín năm.

[29] Năm Canh thìn, niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất (1820), Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, chưa kịp lên đường thì ông đã qua đời. Có người cho rằng hai câu cuối muốn nói Nguyễn Du qua đời là để bảo toàn thân danh, phúc nhà (vì ông cho rằng Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn chỉ là một việc vạn bất đắc dĩ), chứ không phải bệnh dịch đang hoành hành đã hại ông. Chúng tôi không nghĩ như vậy, như đã nói trên, dù ra làm quan bất đắc dĩ, nhưng Nguyễn Du trước đây đã có lần muốn trốn vào Nam theo chúa Nguyễn bởi ông cho rằng chúa Nguyễn dầu sao vẫn là bề tôi của nhà Lê. Sở dĩ Nguyễn Hành có nhiều bài thơ viết về Nguyễn Du như vậy là bởi Nguyễn Du không giống với anh của mình là Nguyễn Nễ. Dù làm quan với triều Nguyễn nhưng không làm ô nhục danh tiếng dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền.

[30] Trích từ Minh quyên thi tập, tlđd.

[31] Thành này: chỉ  Bắc Thành (tên gọi cố đô Thăng Long thời đầu Nguyễn).

Nguồn: Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du (Kỷ yếu HTKH Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du), NXB.ĐHQG TP.HCM, 2015

Lưu Quang Vũ được biết đến nhiều nhất là một kịch tác gia. Các vở kịch của anh gần như độc chiếm đời sống sân khấu một thời. Mặc dù kịch là nơi đã đưa anh đến đỉnh vinh quang nhưng với anh thì thơ mới là niềm đam mê lớn nhất, kéo dài nhất và đó là nơi anh ký thác tâm sự nhiều nhất. Trong di sản thơ ca phong phú đó của Lưu Quang Vũ, thơ tình chiếm vị trí rất quan trọng. Trong số 121 bài (trong quyển Lưu Quang Vũ thơ và đời), có đến 46 bài đề cập đến tình yêu nam nữ. Qua thời gian thơ tình của anh càng ngày càng được người đọc yêu thích. Ở đó người ta thấy rõ hơn tình yêu của anh với những cung bậc khác nhau: đắm say, ghen tuông, được mất, đắng cay và hạnh phúc...

Trong thơ trước 1975 và mươi năm sau đó, tình yêu ít được đề cập đến, nếu có thì nó có màu sắc rất riêng. Đó là một thứ tình yêu có tính lý tưởng, tình yêu cao cả gắn với những sứ mệnh lớn lao. Đôi khi nó là khoảng lặng, là phút nghỉ ngơi của tâm hồn. Thơ tình Lưu Quang Vũ bên cạnh những nét chung của một thế hệ, một thời đại, vẫn có những nét riêng. Nhiều bài trong số đó rất khác lạ, vượt ra khỏi thời đại của nó, để đạt đến những giá trị trường tồn.  

  1. 1. Vẻ đẹp người nữ

Lưu Quang Vũ làm thơ về tình yêu chính là tình yêu của anh trong cuộc đời thực: từ những cảm xúc rạo rực của buổi yêu đầu, đến những đổ vỡ cay đắng và cả sự hồi sinh của tình yêu mạnh mẽ trong anh… Cảm hứng tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ gắn với từng chặng đường đời anh, với từng mối tình cụ thể. Tình yêu trong thơ mình trong thơ thật nồng nàn, mãnh liệt.

Đó là những rung động trong trẻo của tình yêu đầu đời:

Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài

Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa.

                                   (Vườn trong phố)

Nhưng cầu vồng bảy sắc và những âm thanh trong trẻo, hình ảnh mát lành ấy nhanh chóng tan vỡ để lại trong lòng anh những vết cắt đau đớn, những thất vọng ê chề và sự cam chịu. Anh đã có những dòng thơ về “những bức tranh nổi gió ở trên tường” với mảng khối màu sắc dành cho một nữ họa sĩ trong cuộc tình thứ hai:

 

Đã xa vắng trên mặt đường ướt lạnh

Tóc em rối và áo em đỏ thắm

Những bức tranh nổi gió ở trên tường

Hoa cúc vàng - nỗi nhớ của hoàng hôn

(Lá thu)

Nhiều hơn cả là những bài thơ anh dành tặng cho người phụ nữ sau cùng của đời anh - nữ sĩ Xuân Quỳnh - người đã cùng anh tạo nên những bài thơ tình tuyệt đẹp trong thơ ca hiện đại Việt Nam.

Nhiều người con gái xuất hiện trong đời, trong thơ Lưu Quang Vũ, nhưng dẫu là ai thì người nữ trong thơ anh đều rất đẹp.

Anh dành cho người mình yêu những hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu nhất trong thiên nhiên: Em là một nhành mai xanh biếc, là trái cây mùa hạ, là cầu vồng bảy sắc sau mưa, là con sóc hiền, là chùm dẻ mùa đông, là sông êm ả một dòng, là lụa, là lửa, là bóng cây, là âm nhạc của đời anh… Anh yêu đến quên mình và luôn ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp bí ẩn của người con gái. “Em” xuất hiện với vẻ đẹp đời thường, nhưng vẫn rực rỡ, làm bừng sáng cả không gian:

Chân bước vội em về từ phố rộng

Mang mùa hè xanh biếc trên vai

Chiều mênh mông gió lớn thổi từ trời

Em bỏ nón tóc lòa xòa trên má

(Chiều chuyển gió)

Vẻ đẹp của người nữ thường xuất hiện trong thiên nhiên, giao hòa cùng với thiên nhiên:

Nhớ vai em chập chờn hoa gạo đỏ

Nhớ vầng trăng xẻ nửa lúc xa xôi

(Từ biệt)

Trở đi trở lại trong thơ anh những hình ảnh người nữ với một vẻ đẹp trần thế : đôi mắt, bàn tay, ngón tay, bờ vai, mái tóc. Vẻ đẹp thuần khiết của người phụ nữ Á Đông hiện lên qua những dòng thơ tình của anh. Bắt đầu từ “cô bé con có đôi mắt mở to” mộng mơ, trong trẻo của tuổi học trò:

- Sau cửa gương là đôi mắt yêu thương

(Chiều chuyển gió)

- Mắt em mở với chân trời xa vợi

(Em - tình yêu những năm tháng đau xót và hi vọng)

đến đôi mắt buồn của người phụ nữ từng trải :

- Năm tháng và tuổi trẻ đi qua

Mắt em buồn hoang vắng

(Mưa dữ dội trên đường phố)

Có lúc chân dung người nữ xuất hiện với đôi vai : Nhớ vai em chập chờn hoa gạo đỏ (Từ biệt). Ám ảnh nhất là bờ vai mềm ấm, nữ tính và gợi cảm :

Sau cửa gương là đôi mắt thương yêu

Ôi vai em mềm ấm biết bao nhiêu

(Chiều chuyển gió)

- Em của anh, đôi vai ấm dịu dàng

Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc ban mai

                                                 (Và anh tồn tại)

Qua năm tháng, đôi vai ấy hiện lên tượng trưng cho sự chịu đựng, sẻ chia những vất vả trong đời :

Em gầy đi đấy đôi vai nhỏ

Lẫn với bờ cây, lẫn với thuyền

(Thu)

Hình ảnh mái tóc người nữ xuất hiện với tần số cao trong thơ tình Lưu Quang Vũ. Có khi là mái tóc đen huyền diệu, bí ẩn:

Mái tóc em là xứ sở của anh

Mái tóc đen như nỗi kinh hoàng

Phủ xuống hồn anh hoang dại mà ấm áp

(Những ngày chưa có em)

Có khi lại là mái tóc quen thuộc, mái tóc của đời thường với những lo toan :

- Hơi thở em từ lâu anh đã thuộc

Tóc em đây lời nói của em đây

(Em - tình yêu những năm tháng đau xót và hi vọng)

- Tóc em dài như một ngày mệt mỏi

(Bầy ong trong đêm sâu)

- Em ngẩng đầu, mái tóc đen cắt ngắn

(Em II)

Mái tóc ấy có khi không còn là suối tóc mềm mại mà là “tóc rối” rất thực mà cũng rất gợi cảm: Tóc em rối và áo em đỏ thắm (Lá thu), “Và gió thổi quanh em tóc rối/ Những bông hoa đã mất vụt bay về ” (Hoa tầm xuân)…

Nhưng có lẽ hình ảnh trở đi trở lại nhiều nhất trong thơ Lưu Quang Vũ chính là hình ảnh “ngực em”. Hình ảnh này quả là rất hiếm gặp trong các sáng tác của các nhà thơ cùng thời.

Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa

Tóc hoang dại lòa xòa trên ngực nắng

Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn

Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê

(Đất nước đàn bầu)

Dưới những nét nhấn và lướt của người nghệ sĩ, chân dung “em” hiện lên tràn căng sức thanh xuân. Có lúc vẻ đẹp ấy lại rất huyền hoặc trong sự tưởng tượng của anh:

Ngực đồi trăng ướt đẫm

Tay chập chờn lửa sáng

(Bây giờ)

Có thể nói vẻ đẹp nữ tính trong thơ của Lưu Quang Vũ gắn với mỹ cảm Á Đông, nó gợi lên cái đẹp trinh trắng, thuần khiết:

Cô giáo cười, áo dài trắng tung bay

Hoa phượng đỏ lòa xòa nghiêng trước ngực

(Giấc mộng đêm)

 Nhưng ấn tượng hơn, là cái đẹp nữ tính, đầy đặn, căng tràn nhựa sống: “ngực tròn”, “ngực nắng”, “ngực mềm”, “ngực sáng”:

Con người trao lửa cho nhau

Từ những lồng ngực tròn căng

(Mấy đoạn thơ về lửa)

Tình yêu tôi như một tiếng chuông dài

Làm run rẩy hoa hồng trên ngực nắng

(Có những lúc)

“Ngực nắng” vừa cụ thể lại hàm ẩn nghĩa khái quát, khiến người ta liên tưởng về một cuộc sống chan hòa, ấm áp, lại vửa trong trẻo, tươi lành.

Lưu Quang Vũ tìm thấy ở “em”, ở tình yêu niềm hạnh phúc vô tận, như là nguồn cội của sự sống, là “sức lực của đời anh”.

Những cảm xúc tình yêu đã tạo nên một mảng thơ tình đặc sắc của Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ yêu nhiều, và hạnh phúc thay, người yêu, vợ anh đều là những người đẹp có tiếng đương thời. Đành rằng người nữ nào, người nữ trong thơ nào cũng đẹp, nhưng cũng phải thừa nhận rằng: chính nhờ những người nữ đẹp thật ở ngoài đời, đã tạo ra vẻ đẹp rất riêng trong thơ tình Lưu Quang Vũ. Dù cuộc sống kháng chiến và hậu chiến gian khổ, vất vả, thiếu thốn, nhưng không vì thế mà vẻ đẹp của người nữ bị che khuất đi. Vẻ đẹp của người nữ trong thơ Lưu Quang Vũ là vẻ đẹp cảm nhận từ người nam, vẻ đẹp từ sự ngắm nhìn, cảm xúc, vuốt ve của người nam nên không chỉ tâm hồn mà thân thể còn hiện lên rất rõ: “mắt em”, “bàn tay em”, “ngón tay em”, “vai em”, “tóc em”, “ngực em”… Vẻ đẹp ấy tạo nên nét chất đời, chất lãng mạn – rất độc đáo, táo bạo trong thơ tình Lưu Quang Vũ.

 

  1. 2. Ái tình khổ đau

Nhạy cảm và tài hoa, Lưu Quang Vũ sống đã hết mình, làm việc hết mình và cũng yêu hết mình. Anh đã có những giây phút ngọt ngào bay bổng, đồng thời cũng đã gánh chịu những giây phút vỡ nát, u buồn, chát đắng… Những bài thơ tình của anh được viết bằng chính sự thể nghiệm của cuộc đời anh: chua xót và cay đắng của cuộc tình tan vỡ:

Thôi nhé, em đi

Như một cánh chim bay mất

Phòng anh chẳng có gì ăn được

Chim bay về những mái nhà vui

(Từ biệt)

Có lúc tình yêu đổ vỡ ấy trong anh đưa anh đến tột cùng của nỗi cô đơn:

Tôi khát khao yêu người

Mà không sao yêu được

(Có những lúc)

Hay:

Em sập cửa lại rồi

Tôi nhận bao cái tát

Của đời của bạn thân

Em sập cửa lại rồi

Tôi còn gì mà đau khổ nữa

(Mấy đoạn thơ)

Có thể tìm trong thơ tình của anh những nuối tiếc, thất vọng, những mong ước được sẻ chia:

Điều tôi nói phải chăng là quá muộn

Em u buồn có nhận hay không?

(Lá thu)

Hay những phấp phỏng lo âu:

Anh sợ rồi trời sẽ mưa

Xóa nhòa hết những điều em hứa

Mây đen tới trời chẳng còn xanh nữa

Nắng không trong như nắng buổi ban đầu

(Anh sợ rồi trời sẽ mưa)

Trong thơ tình Lưu Quang Vũ chúng ta sẽ rất nhiều lần bắt gặp hình ảnh mưa: mưa xám, mưa rào, mưa dầm, mưa trên đường xa, mưa trên sông, mưa trên cửa sổ tâm hồn, mưa mùa hạ, mưa chiều… Phải chăng vì mưa là bối cảnh phù hợp nhất để người ta giãi bày tâm trạng, đặc biệt là tâm trạng cô đơn, buồn bã, nhiều trăn trở.

Mưa bao giờ cũng mênh mông, ngập tràn, bao trùm không gian đối lập với hình ảnh con người nhỏ bé, cô đơn. Trong cơn mưa con người càng thấy mình lẻ loi, mất mát, bơ vơ. Mưa trong thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với ý nghĩa “xóa tan”, “xóa nhòa” mọi kí ức, mọi lời hứa, tình yêu hạnh phúc từng tồn tại:

Cơn mưa rào nối trận mưa ngâu

Xóa cả dấu chân em về buổi ấy

(Mưa)

Hay:

Em đi, phố ngày mưa

Suốt đường dài không nói

Cánh cửa chiều khép lại

Hoa đầm đìa mưa ướt chói trên cao

(Em - Tình yêu những năm đau xót và hi vọng)

Mưa cho thấy cái mong manh, hữu hạn của hạnh phúc đời người “Hạnh phúc con người mong manh mưa sa”. Mang trong mình dự cảm bất an về tương lai xa xôi, Lưu Quang Vũ luôn phập phồng lo âu, hoài nghi hết thảy, không biết nương tựa vào đâu. Anh khát khao yêu người nhưng không sao yêu được, anh muốn nương tựa vào tình yêu thì tình yêu tan vỡ:

Mưa cướp đi ánh sáng của ban ngày

Đường chập choạng trăm mối lo khó gỡ

Thức chẳng yên dở dang giấc ngủ

Hạnh phúc con người mong manh mưa sa

(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)

Tình yêu đổ vỡ, u uất, đắng cay khiến anh cảm thấy mọi thứ đã trôi theo mưa và trôi xa mãi:

Anh đã mất cả mây qua lòng giếng

Cả tiếng gà, hẻm núi, cả cơn mưa

(Anh đã mất chi, anh đã được gì)

Bên cạnh hình ảnh mưa thì hình ảnh gió chiếm tỉ lệ rất cao trong thơ anh. Khi mới yêu hay khi tình yêu tan vỡ đều có “gió” làm nhân chứng. Gió trong thơ anh rất đa dạng và đều có nét chung là dữ dội và khắc nghiệt: gió dữ, gió nóng, gió hú, gió lốc, gió độc, gió điên, gió thổi lồng, gió ầm ào…

Những ngày chưa có em “Anh như một toa tàu bỏ vắng/Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh”. Và khi có em rồi “Em đã tới diệu kỳ như âm nhạc/ Đất mênh mông chuyển gió tới chân trời”. Cũng như bao nhiêu chàng trai đang yêu, anh mong được sẻ chia, thông cảm nhưng anh đã thất bại và thất vọng, anh đành ôm lấy nỗi buồn lặng lẽ: “Những chùm hoa nở bừng trong gió/ Những chùm hoa ngày cũ chết lâu rồi” (Hoa tầm xuân)

Và rồi điều gì đến cũng đã đến, mọi thứ đã đổ vỡ, anh hụt hẫng, anh đau khổ và anh buồn bã ẩn mình trong ngọn gió:

Bây giờ anh trong suốt như không khí

Như gió hoang không hình không giới hạn

Không gương mặt nụ cười thể hiện trước em (…)

Chỉ có gió em làm sao thấy được

(Anh chẳng còn gì nữa)

Khi tận cùng của khổ đau anh lại dùng hình ảnh “ngọn gió” để ví những gì anh có, anh muốn dâng cho người anh yêu nhưng em đã “không màng”:

Hai ta không chung một ngả đường dài

Không chung khổ đau không cùng nhịp thở

Những gì em cần anh chẳng có

Em không màng những ngọn gió anh trao

(Từ biệt)

Gió trong thơ Lưu Quang Vũ là là gió lòng, gió tâm hồn, là những yêu thương khao khát của đời anh:

Đã có lần tôi muốn nguôi yên

Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng

Nhưng vô ích làm sao quên được

Những yêu thương khao khát của đời tôi

(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)

Dù cay đắng, khổ đau hay ngay cả trong những lúc tuyệt vọng nhất “Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió”, thì người đàn ông trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn luôn giữ được sự bao dung nồng ấm của trái tim, vẫn muốn bộc bạch hết nỗi lòng, tâm sự, tình yêu của mình:

Anh như sông cứ muốn chảy ngược dòng

Khi tuyệt vọng không muốn làm em khổ

Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió

Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em

(Không đề)

Anh luôn luôn mong muốn làm điều gì đó có ích cho người anh thương mến, dù chỉ là những điều nhỏ nhoi nhất: làm cốc nước, làm con đường, làm cánh cửa, làm ngọn gió…, và xem em là tất cả của cuộc đời mình:

 

Anh muốn làm cánh cửa để em quên

Ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh

Làm cốc nước em cầm trưa nắng gắt

Làm con đường quen thuộc để em qua (…)

Chỉ tin nơi nào có em đến ở

Chỉ sống bằng hơi thở của em thôi
                                                       
(Mắt của trời xanh)

Và dù đã từng thất vọng, từng đau khổ nhưng cuối cùng vẫn là trái tim yêu người tha thiết:

Dẫu bao lần người làm tôi thất vọng

Tôi vẫn yêu người lắm lắm người ơi

(Có những lúc)

Lưu Quang Vũ yêu nhiều, nhưng khổ đau cũng nhiều. Khổ đau vì những hiểu lầm, những nghịch cảnh, những chia lìa, tan vỡ - khổ đau như một bản chất của ái tình. Nhưng dù cuộc tình có đến đâu thì người đàn ông đang yêu trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn một mực bao dung, độ lượng, vẫn yêu chân thành và mãnh liệt. Ngưng kết từ nỗi đau của riêng mình, thơ Lưu Quang Vũ lại tìm được sự đồng điệu trong trái tim người đọc, hết thế hệ này đến thế hệ khác.

  1. Tình yêu đắm say và ước vọng hạnh phúc 

Tài hoa, nhạy cảm và sâu sắc có lẽ là những từ phù hợp với Lưu Quang Vũ. Anh đến với tình yêu một cách chân thành, trong sáng cũng như đó là cách anh đến với thơ. Có đôi khi tìm đến thơ như cách giãi bày cảm xúc, nỗi lòng, những suy tư trăn trở của mình:

Một tình yêu không biết nói cùng ai

Đến điên dại đến nghẹn ngào đau đớn

Mặt anh vỡ trong tấm gương thất vọng

Em ơi ngày ấy em đâu?

(Em - tình yêu những năm đau xót và hi vọng)

Trong ký ức của anh luôn hiện lên hình ảnh, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu, dẫu hiện tại đã là xa ngái:

Em vẫn như sông rộng tốt lành

Em mà ngọn gió chiều nức nở

Em mà ngày xưa run rẩy cả lòng anh

(Anh đã mất chi, anh đã được gì)

Đến với tình yêu, Lưu Quang Vũ tìm thấy ở đó ý nghĩa của cuộc đời dù không ít lần tình yêu mang đến cho anh nhiều đau khổ. Trong suốt những ngày tháng cô đơn, thất vọng, khổ đau, lận đận anh vẫn không tắt ngọn lửa của ước vọng, đắm say. Nếu như hình ảnh mưa đã từng gắn với sự chia xa, đổ vỡ thì mưa cũng biểu trưng cho nguồn sống dạt dạo, những ước vọng và khát khao hạnh phúc trong thơ anh. Đó là mưa mát lành, mưa mát mẻ, mưa rộng dài… Từ buổi đầu tiên gặp gỡ đã có cơn mưa xuất hiện: “Chưa kịp lời tự tình/Trời đã òa cơn mưa” (Mưa).

Lưu Quang Vũ nhiều lần gắn hình ảnh mưa với hình ảnh “em” trong thơ của mình. “Em” trong thơ anh đẹp mong manh, hư ảo, xa xăm. Em đẹp hơn trong cơn mưa “Em về mưa ướt vai”. Em tưới mát cuộc đời anh, em mang đến cho anh những giây phút êm đềm say đắm nhất:

Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa

Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến (…)

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa

(Vườn trong phố)

Mưa là dấu hiệu thời gian đồng thời cũng là dấu hiệu không gian, xóa tan hết mọi cách trở xa xôi đưa hai người vượt khoảng cách tìm đến nhau. Mưa không chỉ nối liền những lằn ranh khoảng cách xa xôi mà hơn hết là mưa xóa nhòa mọi muộn phiền, lo lắng “Mưa rộng dài xóa những nỗi lo riêng”. Mưa còn thắp sáng niềm tin, tái sinh sức sống mới, khát khao hạnh phúc:

Bông lúa vàng hạt mẩy quẩy trong mưa (…)

Như nhãn thơm thấm mát giọt mưa đầu

(Thức với quê hương)

Hay:

Anh hãy nghe tiếng mưa, tiếng mưa

Trên những cánh đồng đất nâu tơi tả (…)

Chùm vải sẽ sai, quả mận sẽ hồng

Cửa kính ướt sẽ thành gương trong trẻo

(Mưa)

Mưa còn là khúc hát ngọt ngào, tha thiết của tình yêu:

Em đưa tay hứng những hàng mưa

Bàn tay như đài hoa, như búp lá…

Em hiểu điều gì đã gắn bó đôi ta

Em hiểu điều gì… Ôi, tiếng mưa, tiếng mưa

(Mưa)

Cũng như hình ảnh mưa, gió xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ không chỉ là những chia ly, mất mát, khổ đau, u buồn, gió trong thơ anh còn là gió mát, gió mới, gió tâm hồn, ngọn gió đầu tiên, lộng gió chiều… Gió là những ngày yêu thương hạnh phúc “Nằm bên em nghe gió suốt đêm dài… Mùa gió mới nhờ em tôi có lại”. Gió nhắc những kỉ niệm đẹp đã có trong đời “Vẫn nguyên vẹn những hoa rừng thơ dại… Ngọn gió rừng vẫn thổi giữa hồn tôi”. Gió gợi nhớ cảm xúc rạo rực buổi ban đầu “Anh mở gió tâm hồn cho buồm thắm kéo lên”…

Với Lưu Quang Vũ, yêu và được yêu là cách vượt lên những đau khổ, vượt lên những hoàn cảnh bất hạnh xung quanh, vượt lên sự hữu hạn của đời người. Anh yêu và tôn vinh, hàm ơn người phụ nữ anh yêu. Đây là nét nổi trội của anh so với tình yêu của dòng thơ thời ấy. Những lời thơ đẹp dành cho em thì “gió” vẫn luôn có mặt:

Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh

Khi những điều giả dối vây quanh

Bàn tay ấy chở che và gìn giữ

Biết ơn em, em từ miền gió cát

Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng

(Và anh tồn tại)

Hay:

Gió bồn chồn nhắc gọi bước chân quen

Em như thời khắc của anh như dáng hình như trí nhớ

(Em vắng)

Anh dành nhiều hình ảnh đẹp, trong lành, mát mẻ của gió để dành cho em:

- Có em anh bắt đầu tất cả

Bắt đầu con đường, bắt đầu nhịp thở

Mùa hạ đầu tiên ngọn gió đầu tiên (…)

Em ngoảnh lại nhìn buổi chiều lộng gió

(Chiều chuyển gió)

- Em làm thay đổi đời anh

Như màu trời đổi thay sắc nước

Như gió bấc, gió nồm đổi mùa nóng lạnh

Như phù sa đằm thắm tạo đồng bằng

(Em I)

- Nắng chiều trên ngọn lá

Gió cồn bụi trắng bay

(Ru em ngủ)

Gió luôn mạnh mẽ, khoáng đạt, luôn khát khao những chân trời rộng lớn “Luôn luôn ra đi luôn luôn mới đến” như chính tính cách, tâm hồn và ước mơ của Lưu Quang Vũ. Khát vọng tinh thần lớn nhất của anh là hóa mình thành ngọn gió lành, dù anh đã “lớn lên trong ngọn gió nhà ga, ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt”, nó như sức mạnh kì diệu của sự hồi sinh về niềm tin, tình yêu, hạnh phúc:

Gió mang đến sự tươi mát, hồi sinh

Ước chi được hóa thành ngọn gió

Để sưởi ấm những đỉnh đèo buốt giá

Để mái rượi những mái nhà nắng lửa

Để luôn luôn được trở lại với đời…

(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)

Ngoài mưa, gió thì lửa cũng là hình ảnh thường thấy trong thơ Lưu Quang Vũ. Lửa là biểu tượng của sự sống mãnh liệt, bền bỉ, soi ngọn lửa đó vào nhân dân, anh thấy “Nhân dân có gì giống lửa phải không anh/ Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt”. Lưu Quang Vũ đã đúc kết trong mấy câu thơ: “Sự sống là lửa/ Thiêu hủy và sinh nở/ Bình minh là lửa/ Mở ngày mới và xé toang ngày cũ…”. Lửa còn là biểu hiện của những khát vọng tinh thần, của nhiệt huyết với cuộc đời. Lưu Quang Vũ quan niệm thơ phải “mang lửa đến cho đời”, thơ “thắp lửa”, thơ “là bó đuốc”. Có lúc anh muốn “cho ta làm ngọn lửa”, ngọn lửa với những hàm nghĩa tốt đẹp nhất của nó. Và gần gũi nhất, thân thương nhất khi lửa là biểu tượng của tình yêu, của hạnh phúc gia đình. Nồng nàn, ấm áp hình ảnh người vợ hiền bên ngọn lửa hồng - nơi sưởi ấm tâm hồn đã từng cô đơn, giá lạnh của anh:

- Đánh mất niềm tin tìm về bếp lửa

(Không đề III)

- Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương (…)

- Em của anh, đôi vai ấm dịu dàng

Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương

(Và anh tồn tại)

- Em là bóng cây, em là bếp lửa

Che mát và sưởi ấm lòng anh (…)

- Mọi tên tuổi vinh dự chỉ là hư danh

Chẳng nghĩa lý bằng chiều nay em nhóm bếp

(Không đề II)

Lưu Quang Vũ đã yêu đến tận tụy, đến cháy lòng, dù có cả vui sướng lẫn khổ đau trong tình yêu nhưng điều vượt lên tất cả đó chính là những ước vọng, say mê của anh. Và cuối cùng, anh đã có được tình yêu như anh mong đợi:

Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay

Ta đã có những ngày vui sướng nhất

Đã uống cả men nồng và rượu chát

Đã đi qua cùng tận của con đường

Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên:

Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt

(Bài hát ấy vẫn còn dang dở)

Và:

Dù sao cuộc đời đã dành em lại cho anh

Điều mong ước đầu tiên điều ở lại sau cùng

Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất

Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật

Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời

(Em II)

Có “em” là anh như có tất cả, có “sớm mai và tuổi trẻ”, anh biết “sống vững vàng không sợ hãi”… và quan trọng nhất là nguồn cảm hứng bất tận trong những lời thơ bởi “Và thương mến có nghĩa là hi vọng/ Anh tin đời theo nghĩa lứa đôi”…

Kết luận

Với những hình ảnh đa nghĩa như mưa, gió, lửa giàu sức ám ảnh cùng giọng điệu riêng mang âm hưởng buồn thương, da diết pha lẫn nồng nàn, đắm đuối, say mê, thơ tình Lưu Quang Vũ đã thật sự hấp dẫn người đọc. Nó gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc yêu thương thiết tha đến lạ! Trong những sáng tác của mình, Lưu Quang Vũ luôn dành những ngôn từ, hình ảnh đẹp nhất cho những người nữ trong đời anh. Thơ anh có lúc viễn vông, cay đắng, u buồn nhưng không vì thế mà bi lụy, buông xuôi. Ngược lại, sau những đau khổ, tuyệt vọng, hoài nghi, chán nản là sự hồi sinh mạnh mẽ, căng tràn nhựa sống, khát khao hạnh phúc vô biên…

Thơ tình Việt Nam trước 1975 và mươi năm sau đó dù không phải là dòng chính nhưng không phải là không phong phú. Có thơ tình đam mê của Xuân Diệu, có thơ tình mơ hồ, sang trọng của Chế Lan Viên, có thơ tình tận hiến tuổi trẻ cho cuộc kháng chiến bi hùng của đất nước của cả một thế hệ: Nguyễn Mỹ, Dương Hương Ly, Nguyễn Thị Xuân Quý, Lê Anh Xuân, Phan Thị Thanh Nhàn… mỗi người một vẻ riêng. Trong một cuộc hoà nhạc vĩ đại đó, thơ tình Lưu Quang Vũ cũng định vị cho mình một chỗ đứng riêng. Chất đời và chất thơ, hiện thực và lãng mạn, nhục cảm và lý tưởng… hoà quyện trong anh với nhiều cung bậc của tình yêu: những rụt rè, ngất ngây của tình đầu, những say mê, nồng nhiệt của người đang yêu, những chia lìa, tan vỡ của chặng cuối đường tình…, thông qua những hình ảnh riêng đầy sức ám ảnh: gió, mưa, lửa…đã tạo cho thơ tình một chỗ đứng riêng trong thơ tình đương đại. Và Lưu Quang Vũ còn được nhiều thế hệ nhắc đến như một trong những thi sĩ của tình yêu tiêu biểu nhất của thơ ca hiện đại nửa sau thế kỷ XX.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học
  2. Vũ Hà, Ngô Thảo (1988), Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời người, NXB Văn hóa thông tin
  3. Lưu Khánh Thơ (1994), Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ tình yêu và sự nghiệp, NXB Hội nhà văn
  4. Lưu Khánh Thơ (1997), Lưu Quang Vũ - thơ và đời, NXB Văn hóa thông tin
  5. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ - tài năng và lao động nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin
  6. Lưu Quang Vũ (1983), Bầy ong trong đêm sâu, NXB Hội nhà văn
  7. Lưu Quang Vũ (1989), Mây trắng của đời tôi, NXB Tác phẩm mới

Nguồn: Lưu Quang Vũ - Những đối thoại nghệ thuật, Nxb Đà Nẵng, 2018.

Kỷ niệm 65 năm thành lập Viện Văn học, trân trọng ý hướng xây dựng Viện văn học như 'một tiếng nói có uy tín của đất nước về những vấn đề lịch sử, lý luận và phê bình văn học', Tuổi Trẻ Online giới thiệu bài viết của GS.TS Huỳnh Như Phương.

Website của Viện Văn học

Ngày 25-11 tại Hà Nội, Viện Văn học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam kỷ niệm 65 năm thành lập (1953-2018).

Những thành tựu và bài học 

Trong đời sống văn hóa Việt Nam, Viện Văn học có lẽ là sản phẩm đặc biệt trong một thời đại đặc biệt, khi được thiết chế chính trị - văn hóa trao cho vai trò tiếng nói chính thống về ngành khoa học này trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

Trong hoàn cảnh đất nước chia đôi, cơ quan nghiên cứu này đã tập hợp và kế thừa thành tựu của những nhà nghiên cứu tiền bối, với nhiều dự định vốn bị bỏ dỡ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhằm phục dựng một sinh hoạt tinh thần được phát khởi từ nửa đầu thế kỷ 20. 

Những nhà nghiên cứu tài năng, tâm huyết ở Viện đã bảo tồn, tôn vinh tinh hoa văn học dân tộc và thế giới, được phản ánh trong những công trình tập thể và cá nhân, những bài báo tiêu biểu trên tạp chí Nghiên cứu Văn học, hiện còn lưu giữ như những tài liệu tham khảo quý giá cho các thế hệ đến sau. Nhìn vào danh mục những sách báo đó, người đọc ngày nay có thể hình dung khuôn mặt tinh thần của giới trí thức một thời, cũng như khó khăn, giới hạn mà họ phải đối diện.

Từ năm 1975 đến nay, Viện Văn học là nơi kết nối giới nghiên cứu lý luận, văn học sử và phê bình trên cả nước. Từng công trình nghiên cứu, từng cuộc cuộc hội thảo, từng số tạp chí đều cho thấy sự đóng góp không chỉ của các thành viên trong Viện mà cả học giới ba miền Bắc Trung Nam, những người xem việc cộng tác và tham gia sinh hoạt của Viện là một trách nhiệm và một niềm vinh hạnh.

Đặc biệt, theo thiển ý, khoảng 30 năm nay, những thành tựu nghiên cứu của Viện Văn học tập trung ở ba phương diện sau đây: 

Một là sưu tầm tư liệu và góp phần tổng kết những chặng đường văn học sử của dân tộc, nhất là từ đầu thế kỷ 20, qua đó cho thấy bức tranh toàn cảnh của nó, đồng thời với sự đánh giá công bằng, khách quan đối với những tác gia, tác phẩm từng bị lãng quên trong quá khứ. 

Hai là giới thiệu kịp thời và ngày càng sâu sắc tinh hoa văn học thế giới, trong đó có những trào lưu tư tưởng mỹ học và lý luận văn học Đông Tây. Ba là phân tích và đánh giá một cách điềm tĩnh, từ tốn những hiện tượng văn học đương đại, góp phần nhận diện tiến trình văn học thời kỳ Đổi mới.

Tất nhiên, mọi người đều hiểu rằng, qua những bước thăng trầm của đời sống văn học, cọ xát với thực tiễn không ngừng vận động, không phải tất cả những điều mà giới nghiên cứu, phê bình lên tiếng hơn sáu thập niên qua, đều thể hiện sự thật, lẽ công bằng để thuyết phục được bạn đọc. 

Không thiếu dẫn chứng về những hiện tượng vùi dập giá trị cũ khi nó thất thế và vồ vập, tâng bốc cái mới dù nó chỉ mới tượng hình, chưa hề được thử thách. 

Trong những gì chúng ta viết ra còn để lại trên trang giấy, ngày nay càng được phổ biến rộng rãi hơn trên các trang mạng điện tử, bên cạnh những điểm sáng cũng có không ít những vệt tối mà người viết đâu thể chối bỏ và khước từ trách nhiệm được. Đó là bài học mà mỗi người cầm bút có lương tri luôn ghi nhớ.

Và những điều học giới chờ đợi

Trong tương lai, khi mạng lưới đại học phát triển, có thể sẽ xuất hiện thêm một số đơn vị nghiên cứu; nhưng không thể nghi ngờ rằng Viện Văn học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam vẫn là tiếng nói có uy tín của đất nước về những vấn đề lịch sử, lý luận và phê bình văn học. 

Lao động âm thầm nhưng đầy say mê ngày hôm nay có thể tìm cảm hứng từ hình ảnh những nhà nhân văn học thời Phục hưng, tưởng chừng giam mình trong tháp ngà để sưu tầm, dịch thuật, chú giải, khảo cứu những hiện tượng văn học cổ xưa, mà vẫn luôn có những sợi dây thần kinh trần tiếp xúc với xã hội bên ngoài để truyền hơi thở ấm nóng của đời sống vào những trang văn thời quá vãng.

Trách nhiệm của Viện Văn học càng nặng nề hơn trong bối cảnh giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng. Nhiều vấn đề lịch sử và lý luận gay cấn còn tồn tại hẳn không thể giải quyết một sớm một chiều. Chỉ có định hướng khoa học, dân chủ và tự do học thuật mới đem lại sức mạnh cho giới nghiên cứu. 

Việc một cơ quan có tầm cỡ như Viện Văn học ủng hộ một khuynh hướng tiến bộ, từ chối tham gia vào một "vụ án văn học" oan khuất nào đó có tác động rất lớn không chỉ đối với giới khoa học mà còn đối với giới sáng tác và công chúng nói chung. 

Làm sao để mười năm sau, 20 năm sau, đọc lại những cuốn sách và số báo xuất xưởng ngày hôm nay, độc giả có thể tìm thấy tấm gương của sự trung thực trí thức, dù có thiếu sót, hạn chế nhất định, nhưng không có những xảo ngôn và quy kết ác ý, những thổi phồng vô căn cứ, để lại vết đen trong "lý lịch khoa học" cả của người viết lẫn của cơ quan chủ quản.

Học giới chờ đợi ở Viện Văn học một bộ Lý luận văn học cập nhật, một bộ Lịch sử văn học Việt Nam hoàn chỉnh, những món nợ mà Viện và các trường đại học chưa trả. Những thu hoạch về tư liệu và khảo cứu đã được tích lũy công phu và trình bày trong nhiều công trình của Viện. Hệ thống hóa và nâng cao những công trình đó là công việc lâu dài, như những thành quả "xuyên nhiệm kỳ", đòi hỏi sự hợp tác của nhiều thế hệ, từ nhiều nguồn đào tạo.

Theo sứ mạng và sở trường của mình, Viện Văn học là cơ quan nghiên cứu trước khi là cơ quan đào tạo. Nếu các thành quả nghiên cứu không chuyển giao cho đào tạo thì chất lượng giáo dục sẽ ngưng trệ và không thể cải tiến được. 

Chúng tôi ước mong, với tư cách là một đơn vị nòng cốt của Học viện Khoa học xã hội, Viện Văn học thắt chặt mối quan hệ hợp tác với các trường để phát huy đóng góp của những nhà khoa học giàu kinh nghiệm cũng như của những nhà nghiên cứu trẻ năng động và nhạy cảm với cái mới ở đây. Chỉ có như vậy thì giới khoa học nước ta mới khắc phục tình trạng tách rời nghiên cứu với giảng dạy và nhân lên sức mạnh của cả hai.

Chúc mừng tuổi 65 của Viện Văn học, chúng tôi hy vọng rằng đây mãi là nơi kết nối, tập hợp giới nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học trong những hoạt động có ý nghĩa, làm phong phú đời sống tinh thần của đất nước. 

Cơ quan và trụ sở Viện Văn học - nơi Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Cao Xuân Huy, Trần Thanh Mại, Cao Huy Đỉnh, Phạm Thiều, Nam Trân, Đỗ Đức Dục, Đào Phương Bình, Nguyễn Đức Vân, Hoàng Trung Thông… từng làm việc - xứng đáng được bảo trì và xây dựng thành một địa chỉ văn hóa của thủ đô.

(*) Các tít xen trong bài do Tuổi Trẻ Online đặt.

Nguồn: https://tuoitre.vn/vien-van-hoc-nhin-ve-tuong-lai-20181124150348569.htm

Lịch sử thi ca Việt Nam nếu gọi thế kỷ thứ 18 như là thời kỳ biến đổi rực rỡ của văn chương Hán Nôm về thân phận con người với tên tuổi của Truyện Kiều Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều thì có thể gọi thi ca thế kỷ 20 như là thời kỳ biển đổi thứ hai với cuộc cách mạng mang tên gọi phong trào Thơ Mới 1930 – 1945 có ý nghĩa mở ra một thời đại mới của thi ca chữ quốc ngữ, cùng với hành trình cách tân của phong trào thơ kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954 và phong trào thơ kháng chiến chống Mỹ 1955 – 1975 … Một thế kỷ không đứt đoạn để làm nên diện mạo của tâm hồn Việt Nam đầy bản sắc trong thi ca hiện đại. Phong trào thơ kháng chiến chống Pháp có 3 gương mặt trong nhiều gương mặt thi nhân tiêu biểu góp phần đổi mới thi ca ngay sau khi phong trào Thơ Mới vừa mới im tiếng nhạc. Họ là Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm và Chính Hữu. Cái mà họ đưa đến sự đổi mới là việc đưa ra và xác lập những sáng tác thơ tự do không vần, không theo kiểu truyền thống bằng cách riêng của mỗi người. Trong số họ, Chính Hữu là người ít lên tiếng nhất và đã lặng lẽ làm thơ tự do theo con đường của ông.

            Tại biên bản hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc diễn ra các ngày 25, 26, 27, 28 tháng 9/1949, các phiên tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi, những nhân vật nổi tiếng nhất, đang có ảnh hưởng lớn trên văn đàn đều dùng lời lẽ phản đối quyết liệt thơ tự do không vần. Từ Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Thanh Tịnh đến Tố Hữu, Xuân Thủy, Xuân Trường v.v.. Số bênh vực thơ tự do không nhiều. Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng … Nhưng điều ngạc nhiên nhất, người phản đối mạnh mẽ nhất lại là Xuân Diệu, vốn được mệnh danh là nhà thơ số 1, nhà thơ mới nhất của phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu bảo Hồn thơ anh Thi chưa ổn. Nên câu thơ có chỗ lệch lạc. Khôn văn tế dại văn bia. Xuân Diệu không ngại điều đó. Ông viết thêm một bài văn bia dài mang tên Tiếng Thơ ngày 15-12-1949 đăng trên tạp chí Văn Nghệ số 19 tháng giêng 1950 khẳng định ước lệ thơ Việt Nam là vần và điệu. Nhưng dường như ông lại không phân biệt vần và điệu mà diễn giải nó có vẻ là một: Quần chúng Việt Nam đã có điệu lục bát thần tình, điệu bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, bắt vần ở phần lưng, rất dễ đọc, dễ nghe, dễ làm thì quần chúng nhất định không chịu nghe những cái trò trí thức. Mấy chữ này được phép hiểu là thơ tự do không vần. Rằng không đếm xỉa đến tinh thần âm nhạc của tiếng Việt Nam. Chàng Chính Hữu của chúng ta lúc ấy, tính cả tuổi mụ mới 24. Còn như Trần Quốc Toản cầm quả cam đứng ngoài hội nghị. Nhưng cuộc giáp mặt giữa họ không phải chờ đợi lâu. Trên tạp chí Văn Nghệ số xuân 1950 – Chính Hữu không một lời phát biểu tranh luận đã cho đăng bài thơ Sáng hôm nay theo thể thơ tự do không theo vần điệu truyền thống. Xuân Diệu khai trương một bài mới toanh viết 1- 1950 có tiêu đề Xe đạp. Phần bất lợi trong thế so sánh thuộc về Xuân Diệu. Xe đạp của Xuân Diệu tỏ ra cũ kỹ không ngờ được cả trong cảm xúc và ngôn ngữ thơ. Đọc lên thật ngồ ngộ và tự dưng tôi thấy thương cho Xuân Diệu vô cùng. Nào là sỏi đá lộn vòng lăn chúm chím. Nào là trong lúc giặc điên cuồng hết thở, quân chính quy sắp sửa đội sao vàng. Chưa nói chuyện người ta bảo Xe đạp có vấn đề tư tưởng, sao lại gọi An toàn khu là U Tì Quốc ? Sáng hôm nay của Chính Hữu theo thể thơ tự do, nhịp trầm tĩnh mà không kém phần tha thiết. Ngôn ngữ thơ bình dị. Với cách mở đầu quê hương nhận tin thắng trận. Bình thản quá.

                        Quê ta lên khói cơm mùa

                        Ai hát tin về thắng trận

                        Bâng khuâng nắng nghiêng mái nhà.

            Từ sự mở đầu thanh thản như vô tư ấy, nhịp thơ bỗng chuyển tiếp sự phơi phới của tâm trạng, tràn đầy tin yêu và tự hào. Bọn chúng ta đi ồn ào lứa tuổi. Lớn lên trong nước Cộng hòa. Phấp phới trong lòng bao tiếng nói. Đồng xanh cỏ núi. Chân người thiết tha. Sáng hôm nay tạo ra nhịp thơ rõ ràng không theo truyền thống vần điệu như Xuân Diệu phân tích. Trước đó, Chính Hữu đã công bố Ngày về, Đồng chí Đêm sầu Hà Nội. Đồng chí đã quá nổi tiếng từ 1948 như là một ví dụ của thơ tự do, trước một năm khi có tranh luận ở Việt Bắc năm 1949. Trước đó nữa, vào hồi 1946 đã có Tình sông núi, Nhớ máu của Trần Mai Ninh, Đèo cả của Hữu Loan… Năm 1948 như là một dấu mốc đặc biệt của thơ tự do. Đồng chí - Chính Hữu. Nhớ - Hồng Nguyên. Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm. Bài ca vỡ đất - Hoàng Trung Thông … Cả hai phía ủng hộ và phê phán thơ tự do đều không để ý đến năm 1948 đã bắt đầu một cái gì đó khác trước, khác với phong trào Thơ Mới 1930 – 1945, với sự linh động về khẩu độ câu thơ làm nên một tiếng nói mới mẻ về nhịp thơ cùng với cảm xúc và ngôn ngữ thơ. Bài Đêm sầu Hà nội ra đời tháng chạp năm 1948 dường như là một thể nghiệm cho sự lựa chọn viết thơ theo những thể và nhịp truyền thống hay là thơ tự do. Ban đầu được in trên tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng 4, tháng 5 – 1949 là thể thơ truyền thống 5 chữ với 9 khổ thơ và 36 dòng thơ, thuộc loại trung bình. Không có ấn tượng gì đặc biệt. Sau đó được Chính Hữu sửa đổi sang thơ tự do với 3 lần thay đổi đầu đề. Đêm sầu Hà Nội. Đêm Hà Nội 1950 và cuối cùng là Đêm Hà Nội. Vào năm 1966, sau 27 năm, bài thơ có diện mạo thơ tự do đưa đến hiệu quả thẩm mỹ hoàn toàn khác, như một biểu hiện cho sự kiên trì của một khuynh hướng sáng tác. Đêm Hà Nội thoát khỏi lốt cũ đến nỗi không còn dấu tích của bài thơ xưa. Nó là một bài thơ mới với những câu thơ được gạn lọc bởi một cảm xúc tinh tế và nhịp thơ trầm tĩnh, một nhịp tâm trạng đặc trưng Chính Hữu. Đêm Hà Nội buốt tê. Mái buồn nghe sấu rụng. Nhìn ra cửa ô bóng những con đê. Ầm ì tiếng súng

            Việc xác lập thơ tự do không theo vần truyền thống như là một hướng cách tân của phong trào thơ chống Pháp lúc đầu ồn ã như thế rồi tất cả lặng im cho thực tiễn trả lời. Chính Hữu đã kiên định phong cách sáng tác của ông. Hầu như đời thơ Chính Hữu đều viết theo thể thơ tự do, không bắt nhịp vần điệu theo kiểu 6/8, thơ 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ mà Thơ Mới 1930 – 1945 đã rất thành công. Cái tinh tế và sức sống nội tại của những bài thơ thường ngắn mà xúc tích của Chính Hữu là ở chỗ bắt lấy nhịp đập của hiện thực làm thành sự đa dạng cho nhịp của thơ. Nhịp thơ Chính Hữu là nhịp sống của thời cuộc được ẩn mình trong nhịp tâm trạng của thi sỹ. Cái nhịp tâm trạng ấy thường điềm đạm, trầm tĩnh và có sức ngân vang. Đó là một thi pháp ám ảnh lâu dài và tạo ra sự khác biệt lý thú với thơ tự do của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm…

Nhịp thênh thênh của người lính hiền như đất tháng năm ra trận.

                        Tháng năm trong làng đã mùa gặt

                        Lòng dân sung sướng thóc mênh mông

                        Có người đi lính, hiền như đất

                        Mùa hạ tưng bừng vui núi sông.

            Nhịp giãi bày nhỏ nhẹ của người chiến binh càng xa xôi cách trở càng ấm áp lòng thương của mẹ hiền lặng lẽ như những chiều thôn dã. Nhịp thơ như được chắt ra từ tâm trạng thi nhân.

                        Con mang tấm lòng thương mẹ

                        Đi qua nghìn dặm quê hương,

                        Này đây núi, này đây sông

                        Này đây buổi chiều khói thổi cơm lặng lẽ

                        Nơi nào cũng hiền như đời của mẹ.

            Nhịp đi của đoàn dân công hỏa tuyến hiện lên trong thư của vợ gửi chồng.

                        Thư người hậu phương gánh gạo đưa chồng

                        Hai vai khó nhọc,

                        Viết gửi cho ta ngổn ngang từng nét.

                        Như gồng như gánh dân công

                        Ánh mực lập lòe đường xa lửa đuốc.

            Nhịp gấp gáp của cuộc hành quân. Đi nhanh đi nhanh. Chiến trường đã giục. Đầy núi đầy sông. Đèn ta đã mọc.

            Từ một tú tài triết học, đọc viết nói thông thạo tiếng Pháp, xung phong làm lính trung đoàn thủ đô ngay từ những ngày đầu cách mạng để trở thành thi sỹ sớm bắt nhịp vào trào lưu thơ tự do và cả đời thơ đi theo hướng đó cho phép Chính Hữu dù chỉ có 54 bài đã hội đủ một phong cách thơ độc đáo, tạo ra một nhịp tâm trạng trong thơ như những gì tiếp nối và cách tân vần điệu thi ca, vốn là dấu hiệu đặc trưng của thơ khác với văn xuôi, góp một tiếng nói có bản sắc vào tiến trình đổi mới thi ca hiện đại. Vấn đề quyết định của tiến trình ấy không phải ở thể thơ mà ở tài năng của người thi sỹ.

            Suốt đời Chính Hữu là người lính. Thơ ông là bài ca người lính. Đọc Chính Hữu như được soi vào thế giới tâm hồn đẹp vô ngần của người chiến binh trong khói lửa của cuộc trường chinh gần như đi trọn nửa sau thế kỷ 20. Điều này không mới. Nhưng vì sao lại như vậy cần được cắt nghĩa những hiện tượng thơ ở giai đoạn này không chỉ xuất phát từ sự thôi thúc của lịch sử đương thời mà còn từ cảm quan lịch sử bắt rễ từ những gì sâu xa nhất của đời sống tinh thần dân tộc, những tháng năm đau thương mà bi phẫn của quá khứ. Của thế kỷ trước.

            Cuốn sử liệu Việt Nam – Cuộc chiến 1858 – 1975 bằng tiếng Anh và tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in năm 2000 đã nói về sự thua trận của chiến binh Đại Việt trước giặc xâm lược. Súng đại bác bằng gang, bắn ít khi nổ. Nhà vua sắc phong cho súng. Trước khi bắn phải cúng. Súng không nổ cho là ốm phải uống thuốc… Trong 4 ngày từ 20 đến 24/6/1867 giặc Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền tây Nam Bộ… Ngày 20 -11-1873 sau một giờ tấn công giặc chiếm được thành Hà Nội. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và bị bắt. Ông nhịn ăn mà chết… Trong 21 ngày từ 20 – 11 đến 12-12-1873 giặc chiếm được Hưng Yên, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương và Nam Định. Ở Ninh Bình chỉ có một viên đội và 7 lính đến chiếm được thành. Ở Hưng Yên nghe tin có 10 lính Pháp theo sông Hồng đến, quan quân đã bỏ thành chạy thoát thân… Ngày 3-4-1882 Pháp tấn công vào cửa đông và cửa tây đến 11 giờ, thành Hà Nội thất thủ. Tổng đốc Hoàng Diệu tự sát v.v.. Chưa đợi đến 100 năm sau, những người lính vệ quốc đoàn của trung đoàn Thủ đô anh dũng và quả cảm trên từng dãy nhà, góc phố Hà Nội trước một kẻ thù đông và mạnh gấp nhiều lần với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Từ cảm quan lịch sử như thế thì Ngày về của Chính Hữu thật hào hoa, phong nhã và oanh liệt biết chừng nào. Người lính hiện thân của dân tộc Việt Nam vùng đứng dậy.

Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa,          

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

… Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm,

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

… Nguy nga sao cái buổi lên đường,

Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc,

… Ôi bài chiến thắng reo vang.

            Sảng khoái cái chất lính đầy niềm tin như thế chắc là điều mà các vị tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã chờ đợi từ lâu. Vậy mà trong một thời gian dài Ngày về bị phê bình, nhẹ thì chất liệu thơ cách bức với đời thật, đay nghiến thì khẩu khí tráng sỹ hề, phù phiếm, lãng mạn tiểu tư sản v.v.. Những thành kiến ấy dẫn đến thơ Chính Hữu qua nhiều lần xuất bản từ 1966, 1972, 1997, 2000 … bài Ngày về vẫn không in. Năm 1998, Tuyển tập Chính Hữu đầy đủ nhất trong các lần in. Nhưng thay vì 20.100 bản năm 1972, Tuyển 1998 chỉ có 800 bản. Như để bù đắp lại, Ngày về được xuất hiện dưới hai diện mạo khác nhau. Bản Chính Hữu tự sửa và chỉ trích in với lời chú dẫn của tác giả như để làm một cái lẫy an toàn rằng nó là lời viết cho bài hát của Lương Ngọc Trác. Tiếc thay, bản sửa sau 51 năm tái sinh trở lại đã vơi cạn đi khá nhiều cái chất hào hoa nguyên thủy của nó. Chắc là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu và các binh sỹ canh giữ Hà Thành năm ấy cũng như nghĩa sỹ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu không đồng ý với việc sửa chữa ấy. Và thêm một lần dè dặt nữa, cũng có thể nói là cẩn trọng cũng được, người làm tuyển tập đã in nguyên bản Ngày về ở phần chú dẫn như một lần chờ đợi sự đồng thuận vô hình thêm một thời gian nữa chăng?

            Trong 48 bài thơ Chính Hữu in 1997 có tới 35 lần nhân vật người lính xuất hiện. Dường như trên mọi trang thơ. Vẻ đẹp của người lính trong thơ Chính Hữu thật trọn vẹn. Họ là những người hiền như đất và còn rất trẻ bởi ồn ào lứa tuổi với những đầu say bát ngát đi giữa nắng mùa ngân nga. Họ là những đứa con hiếu thảo của mẹ hiền Việt Nam lặng lẽ như khói thổi cơm chiều.

            Có thể nói trong thơ thế kỷ 20, Chính Hữu có nhiều câu thơ để đời về tình đồng đội. Bài thơ Giá từng thước đất như bổ sung cho Ngày về, Đồng chí vốn nhiều biểu tượng lãng mạn hào hoa bằng những hình ảnh đời thường của lính chia nhau nắm cơm hớp nước, chia nhau một mẩu thư nhà, chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp để đi đến một nghĩa cử cao hơn. Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. Không phải trước tiên Lê Anh Xuân, mà là Chính Hữu dựng tượng đài người lính Việt Nam trong thơ. Họ ngã trên dây thép 3 tầng. Một bàn tay vẫn chưa rời báng súng. Chân lưng chừng nửa bước xung phong. Ôi, những con người mỗi khi nằm xuống, vẫn nằm trong tư thế tiến công. Họ là những người thương binh trên đôi nạng gỗ để lại một phần thân thể cho hoa lá cỏ cây xanh tươi, cho những ngôi sao xa long lanh nước mắt để hiểu được tâm hồn tiếng trống hôm nay. Nỗi ám ảnh suốt đời của Chính Hữu là những người lính vô danh. Họ vô danh cả khi chết và khi sống. Bài thơ Vô danh về mộ người chiến sỹ trên sườn núi khuất vô danh xanh như Tổ quốc. Những người lính trong Đồng chí, Tháng năm ra trận, Sáng hôm nay, Gửi mẹ, Giá từng thước đất, Thư nhà, Lá ngụy trang, Duyệt binh, Nhật ký biên giới, Vô danh, Một nửa, Bắc cầu, Đường ra mặt trận, Trận địa Hà Nội, Ngọn đèn đứng gác, Truy kích, Bài hát, Kỷ niệm trung đoàn, Nghĩa trang liệt sỹ… Những người lính hầu như là chiến sỹ vô danh, làm nên cái đau đáu khôn nguôi khi đọc thơ và khi gập lại cả đời thơ Chính Hữu. Nghe như thiêng liêng của tiếng chiêng đồng kể về sự bất tử. Ngày về, Đồng chí như là hai điểm sáng của một đời thơ. Trầm tĩnh và suy tưởng hơn cả; sức nén của ngôn từ, cấu tứ và hình tượng thơ đặc trưng của Chính Hữu phải kể đến bài thơ Trinh sát chỉ có 9 dòng 31 từ. Thơ Chính Hữu đẹp tựa cây đào thế như Hữu Thỉnh nói có lẽ dùng ở đây chăng? Không gì xanh, bằng đỉnh núi vô danh. Không gì đẹp bằng người trinh sát. Anh ra đi. Trước mặt, Là núi là sông. Là mênh mông, Những điều chưa biết.

            Triết lý nhân sinh trong thơ Chính Hữu không phải ghi lại những điều đã mất mà là những điều để lại. Nó xáo động lòng người. Và Chính Hữu đã phát hiện ra một chân lý đánh thức ta dậy sau mấy chục năm hòa bình, rằng tôi chưa bị ai phê bình dữ dội, bằng người đang lặng im không nói – người lính vô danh cả khi sống và khi chết.

            Thi ca hiện đại là nơi lưu giữ tâm tình của người Việt Nam. Thế giới tinh thần ấy được các thi sỹ đương thời lựa chọn bằng những hình ảnh tượng trưng thật đẹp. Với Chính Hữu, đó là Ngọn đèn. Đọc Chính Hữu, tôi hiểu vì sao danh họa Bùi Xuân Phái vẽ chiếc đèn dầu nhiều và đẹp đến thế. Câu đầu tiên nhật ký của ông Phái năm 1970 ghi: Viết dưới ánh đèn dầu. Trong 48 bài thơ của một đời khiêm nhường và có lúc tí nữa bị hàm oan, Chính Hữu dường như đã hiểu thấu cuộc bể dâu để 16 lần thắp lên ánh lửa ngọn đèn là mỗi lần thắp lên tâm trạng của người Việt Nam trong ầm ào chiến tranh cũng như lặng lẽ hòa bình. Loáng đèn trên đường nhựa dài đêm Hà Nội rét tê mái buồn nghe sấu rụng mà người Hà Nội quên buồn quên rét rầm rì đứng lên từ gạch ngói đổ vỡ bởi đạn bom. Đó là ánh đèn tỏa ra từ mái trường dưới bom đạn giặc, khi chúng đem bom nghìn cân dội lên trang giấy, mỏng như một ánh trăng ngần, hiền như lá mọc mùa xuân. Vì thế ánh đèn ấy là lời kêu gọi, là mệnh lệnh hành quân. Đó là những con tàu đi lên vùng đất mới mang theo những ngọn đèn soi trong đêm vội như con người thao thức suốt năm canh. Đó là ngọn hải đăng bồi hồi nhấp nháy chỉ đường cho tàu đến tàu đi nơi đầu sóng ngọn gió ngoài biển khơi. Đó là nơi xa xôi trên trái đất lạnh giá cuộc sống đã trồng cây đã thắp đèn để lòng thi nhân cũng lên đèn theo thành phố mới. Nhà thơ trẻ tài năng Phạm Tiến Duật phải đến năm 1969 mới thắp được Lửa đèn. Chính Hữu đã làm việc đó sớm hơn. Năm 1965. Bài thơ Ngọn đèn đứng gác ra đời như là hình tượng tập trung về đất nước, con người Việt Nam, về những gì sâu nặng của Bắc Nam liền một dải, sự tin yêu và lòng dũng cảm của người Việt Nam đi qua cuộc trường chinh máu lửa hy sinh đến tận cùng chiến thắng, vẻ đẹp tâm hồn và khí phách Việt Nam. Một hình ảnh quá đỗi quen thuộc, giản dị đến mức khiêm nhường mà đầy suy tưởng và triết lý. Bởi những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu. Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt. Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt. Đó là biểu tượng của miền Nam 20 năm không đêm nào ngủ được, biểu tượng của đất nước đêm nào cũng thức vì miền Nam. Ngọn đèn đứng gác nằm trong số ít những bài thơ hay nhất về chiến tranh Việt Nam thế kỷ 20. Sức khái quát và tầm cao tư tưởng, vẻ độc đáo của hình tượng ngọn đèn làm bài thơ có sức lan tỏa và hiệu triệu mạnh mẽ. Đèn ta thắp những lời kêu gọi … Đầy núi, đầy sông, đèn ta đã mọc.

            Ngọn đèn ấy không phải là lửa cháy của chiến tranh. Nó là cái đích đến của hòa bình. Ngọn đèn của Chính Hữu không chỉ đẹp trong tâm thế hào hùng mà còn lay động bởi ánh lửa của tâm thức, của suy tư trầm lắng nào dễ được nguôi ngoai, như những nốt trầm xao xuyến. Kỷ niệm trung đoàn là kỷ niệm những con đường như những khúc ruột bị chặt đứt, quặn đau mà sinh ra, khi những ngọn đèn hồi hộp giữa sương bay trong thành phố tháng chạp đêm 19 cả đất nước chỉ có 2 bàn tay không đi vào cuộc chiến. Thơ Chính Hữu lấy lửa từ nghìn năm ca dao dân tộc mà viết thành lời như một lời hứa và nhiều hơn là một câu hỏi biết bao giờ nguôi.

                        Ai đó khuya rồi, một ngọn chong

                        Đèn thương nhớ ai đèn không nhắm mắt.

            Có thể nói toàn bộ thơ cuối đời của Chính Hữu, khi ông cởi áo chiến binh để về với ngôi nhà của mình đều viết theo tinh thần của hai câu thơ ấy. Tất cả như muốn lưu luyến lại, muốn giữ lại, muốn sự hiện diện siêu hình của những gì đã trải qua. Muốn nhắn gửi. Quá khứ hiện hình như tiếng gọi cuối rừng. Một thành phố tuổi thơ giờ xa xôi như tiếng thở dài. Người bộ hành tận hưởng niềm vui cô lẻ trong lặng lẽ, sau lưng là một suối hương dài, ngơ ngẩn còn bay trên phố trên cây. Đứa trẻ đang đồng hành với ta để nay mai không còn dáng hình ta nữa…

            Khi biết tôi trở về với thơ Chính Hữu, nhiều thi sỹ và bạn văn đã thân tình trao cho tài liệu. Đọc 3 tập tùy bút Tản mạn trước đèn, Chén rượu gạn đáy vò, Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu có bài kỷ niệm về Chính Hữu. Nhà văn Đỗ Chu tự bạch Con sông Thương chảy vào đời tôi, dòng sông Cầu chảy qua đời tôi với bộ râu oai vệ mà thật là hiền. Có lẽ vì hai con sông ân tình kia mà đôi mắt của ông ấy lúc nào cũng ngân ngấn và dường như đầm đậm nước chúng sinh. Đỗ Chu đưa tôi đến nhà anh Trần Vinh Bắc, con trai Chính Hữu. Khi dâng 5 bông cúc vàng và thắp 3 nén nhang trước bàn thờ Chính Hữu, Đỗ Chu khấn to. Nghe rõ từng tiếng một. Đọc Nhật ký Chính Hữu các năm 1954, 1955, 1956, 1960, 1961, 1962, 1963, càng rõ đời Chính Hữu với thi ca là một. Nhật ký có nhiều câu chuyện về các bài thơ. Đáng chú ý là những tâm sự về nghề nghiệp.

            - 30/11/1961. Thơ là sự thơ ấu của loài người. Ở đầu mỗi thời đại, bao giờ thơ cũng cất tiếng nói đầu tiên. Đôi khi là một tiếng nói dại dột.

            - 20/7/1962 Rimbaud, Pautopski, Chế Lan Viên đối với mình có tác dụng (kích thích sáng tác).

            - 17/11/1962 Trong một bài thơ nào đó, mình phải đề cập đến cái định nghĩa về đất nước … Những cái gì bỗng dưng làm mình chảy nước mắt.

            - 20/11/1962. Mỗi chữ trong thơ phải gợi cái lối gợi rất ngắn mà rất sâu của mùi hoa hồi.

            - 9/9/1963 “Sau cái chết của Khuất Nguyên, con sông Mịch La ba nghìn năm vẫn có tiếng reo buồn bã” v.v..

            Chính Hữu đã góp vào làng thơ Việt Nam một phong cách thơ tự do độc đáo, với nhịp tâm trạng liên kết thơ thật trầm tĩnh. Cấu tứ thơ bao giờ cũng thể hiện tầm cao trí tuệ với sự tiết chế về ngôn từ đặc biệt chắt lọc, ngắn gọn. Ngắn gọn đến mức như là một sự thách thức với dòng thơ văn xuôi. Ông để lại nhiều viên ngọc sáng ở biên độ câu thơ cũng như bài thơ.

            Bùi Xuân Phái có 4 bức họa cho tập Đầu súng trăng treo in năm 1972. Trong đó có 3 lần trăng non xuất hiện và một lần là ngọn đèn dầu dưới dạng đèn treo. Tôi biết ông Phái họa ngọn đèn dầu nhiều lần. Xin được chọn một bức của nhà danh họa có khuôn mặt đức cha thật đẹp và buồn về ngọn đèn dầu làm bìa cho cả đời thơ Chính Hữu. Ngọn đèn dầu nhỏ bé tỏa sáng trên khám thờ văn chương. Bởi vì thi ca mọi thời đại còn nợ cuộc đời một câu hỏi chưa bao giờ dứt: Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt.

5 tháng 12 năm 2018

Nguồn: báo Văn nghệ, số Tết Kỷ Hợi số 4+5+6 (2019)

Trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình, Lưu Quang Vũ luôn hiện diện ở vị trí đầu tiên, hàng thứ nhất, cánh chim bay đơn, trước khi trở thành cái trang giấy kỳ lạ, trang-không/chưa-trang, tranggiữa-hai-trang, trong “cuốn sách xếp lầm trang” “rối bời” như lời thơ của ông.

20181116 Luu Quang Vu

Ảnh: internet

Thuở ban sơ, người ta biết tới ông cũng đủ ở những cái viết, thơ của Hương cây (in chung với Bằng Việt, Nxb. Văn học, 1968); truyện của Một vùng mặt trận (in chung với Thế Long, Nxb. Phụ nữ, 1980), Người kép đóng hổ (Nxb. Hà Nội, 1983), Mùa hè đang đến (Nxb. Tác phẩm mới, 1983); phê bình của Diễn viên và sân khấu (in chung với Vương Trí Nhàn, Xuân Quỳnh; Nxb. Văn hóa, 1979), và kịch, rất nhiều, trước và khi ông khảng khái “Tôi và Chúng ta”, nhưng chưa đủ ở những cái biết: một gương mặt “trung hậu” phủ lấp trong sâu xa gương mặt khác, “buồn như sỏi dưới hang sâu”(1), chỉ được lần giở vào mãi sau này.

Là người tiên phong, Lưu Quang Vũ lập chí và lập ngôn, gián tiếp nhờ cái tôi trữ tình trong thơ, nhân vật trong truyện, diễn viên trong kịch. Khi trực tiếp, ông nói: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Có lẽ thơ với kịch còn gần nhau hơn là thơ với văn xuôi. Đều là hai thể loại lớn và khó của văn học, thơ và kịch đều là sự sống và thế giới bên trong của con người ở dạng tinh chất, cô đọng và mãnh liệt nhất. Đối với tôi, kịch cũng là một thứ thơ được trình bày trong không gian và thời gian kỳ diệu của sân khấu, thông qua diễn xuất của diễn viên”(2). Sự gặp gỡ giữa thơ và kịch, ở Lưu Quang Vũ, vì vậy, đánh dấu “những ngày đẹp nhất”, khi “người trai phiêu bạt” “mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật” nguyện trở về để viết tặng “vở kịch lớn, bài thơ hay nhất”. Chuyến trở về ấy, không ngờ, lại trở thành chuyến đi, xa, mãi, hoàn hủy một-thân-phận-lưu-đày.

Có thể khẳng định, Lưu Quang Vũ là một kẻ đi không dừng lại, tự lần đi, bị đẩy đi, một đám mây phiêu dạt trên vùng trời thành phố thân yêu, tổ quốc bao la thương mến. Nhưng có đích đến. Từ chân trời nghệ thuật này sang chân trời nghệ thuật khác. Trong nỗ lực khám phá không cùng chiều cao sâu cá nhân chiều rộng dài xã hội, thách thức và mời gọi năng lượng sáng tạo. Ông lầm lũi đi, ngạo nghễ đi, và những dấu chân viết nên lai lịch của một Kẻ Khác.

Mang một “trái tim trong trắng”, một lý trí và tình cảm lạc lõng và cô độc, sôi sục và thiết tha, dễ hiểu chàng trai 17 tuổi Lưu Quang Vũ sẽ “bầm dập” thế nào khi đi vào cuộc chiến và để cuộc chiến đi qua. Chỉ sau vài năm nhập ngũ, xuất ngũ, va đập với chiến tranh và cuộc đời, đã có một Lưu Quang Vũ hiện lên khác hẳn. Ông nhanh chóng tách ra khỏi dàn đồng ca những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, lạc quan, trong trẻo, tươi vui, để vùi sâu trong những vần thơ dữ dội, đau đớn, u buồn, xót xa. Cuốn sách xếp lầm trang(3) , Những bông hoa không chết(4) , những tập/bài thơ di cảo là một tiếng thơ khác hẳn, khi nhìn nhận về chiến tranh và cuộc đời. Sự buông bỏ ngợi ca và chối từ chiến tranh, ý thức khắc sâu vào nỗi đau và đổ vỡ, tôn trọng tâm sự và cảnh ngộ cá nhân,… hiện diện một cách đậm đặc trong những trang thơ này. Nó là một nhật ký khác, “nhật ký bằng thơ”, được Lưu Quang Vũ viết ra theo sự thôi thúc của bản thân, tự chữa lành những vết thương do cuộc chiến phạt ngang tuổi xuân của mình: Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông/ Ta kịp biết gì đâu/ Vừa hết trẻ con đã là người lính/ Cô bạn gái cánh tay trần rám nắng/ Ngực phập phồng thở mạnh đến lo âu/ Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh/ Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết/ Ta đã vượt bao đèo cao chót vót/ Bao điều nhà trường chẳng dậy cho ta/ Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ/ Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng/ Một thế hệ cứng đi như thỏi sắt/ Nhưng xoáy ngầm vẫn cuộn ở lòng sông (Những bông hoa không chết).

Chưa bao giờ muốn đứng trong mọi hàng ngũ, với chiến tranh, Lưu Quang Vũ chọn cho mình một đội ngũ, để đến khi cả đội ngũ ấy bị chiến tranh “tôi luyện” “cứng đi như thỏi sắt”, ông thấu thị và rơi vào đáy thẳm của cô đơn cùng cực: Sao tôi lại muốn em tin/ Khi chính tôi cũng chẳng tin ai cả/ Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ/ Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào/ Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao/ Giữa sự thông minh của đông vui bè bạn/ Vứt sách xuống gầm bàn đi ra mặt trận/ Tôi là người lính cô đơn ở giữa trung đoàn/ Bao lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi/ Nỗi cô đơn hoàn toàn nỗi cô đơn khủng khiếp/ Trước và sau trong và ngoài cuộc đời và trang sách... (Mấy đoạn thơ). Trong khủng hoảng ấy, thơ thành người bạn cố tri, nơi chốn thân yêu cho người nghệ sĩ đi về. Và chính ở trong sự xoa dịu chấn thương, để vượt qua cái chết và nỗi sợ, được sống trong sạch và trung thực, thơ Lưu Quang Vũ đã làm nên sự khác biệt. Như đã nói, sự khác biệt trước nhất ở trong những bài thơ chép trong sổ tay, chỉ đọc cho nhóm nhỏ bạn bè mà không hề in ấn. Những vần thơ hoang mang, dằn vặt, đớn đau trong cách ông đơn độc đi tìm bản thể mình, cũng đang hoang mang, dằn vặt, đớn đau trước những khúc ngoặt của cuộc sống. Những vần thơ ấy đã định hình một Lưu Quang Vũ khác, dù từ Hương cây, thơ ông đã khác, nhưng đến đây là một khác hẳn trong những vần thơ chiến cuộc, lạc hồn, lạc điệu, lạc giọng xung quanh, để chỉ không lạc lõng (đường) nguyện đã chọn. Đó là kết quả từ ý chí của hành nhân mà bước chân đã trải không ít “hồ nghi giữa đường phố xôn xao”, bế tắc không “biết làm gì” “biết đi đâu” trong “tối đen thành phố đêm lưu lạc”. Đó là biểu hiện ý thức tự nhiệm của “gã làm thơ da vàng/ không đêm nào ngủ được” bởi ước mơ “đi mở những cánh cửa” “suốt đời đi mở những cánh cửa” với tinh thần trung thực tuyệt đối ở mỗi cái nhìn, mỗi niềm tin, trong khao khát “nói hết sự thực/ về đất nước của mình”.

Thơ ông phản tỉnh ngay giữa cuộc chiến, ở chiều sâu nhất của nó, khi nhận ra cái đổ nát của cuộc đời và lòng người, cái lý tưởng mà người ta phụng thờ và hiện thực trơ tráo: tuổi trẻ chúng tôi tìm gặp nhau/ đặt lại những câu hỏi/ về cuộc chiến tranh này/ về mọi giá trị trên đời/ nguồn gốc những nguyên nhân/ của chém giết và thù hằn/ bất công và đói rét/ cần phải làm gì/ để có lý do mà hy vọng? (Hồ sơ mùa hạ 1972). Ở hậu phương, nghe “tiếng loa vang tiếng nhạc kèn dồn dập”, xem “người ta truyền nhau bản tin”, Lưu Quang Vũ đau xót cho những người bạn, bầy em trên trận tuyến: thương nhớ bạn nơi chiến trường lầm lụi/ thương bầy em buổi sớm ấy ra đi/ trổ trên tay những hình vẽ dị kỳ/ bóng chúng ngã trên chang chang đất nắng? (Hồ sơ mùa hạ 1972), những đứa trẻ buồn ướt lạnh/ đường dài mặt trận nối nhau đi (Những đứa trẻ buồn).

Ngoái về quá khứ chiến tranh, cái cuộc chiến mà Lưu Quang Vũ không hết ngạc nhiên vì nhận thấy “ta cứ là viên đạn/ xoáy trong cuộc chiến tranh dài”, “lòng chỉ muốn yêu thương/ mà cứ phải suốt đời căm giận”, cái cuộc chiến đang giày vò, giằng xé, nghiền nát trái tim nhỏ bé “trong ngực ta đau buốt chiều nay”, Lưu Quang Vũ khát khao “chỉ xin được nói nỗi buồn có thực” về một băn khoăn: ta đã qua/ bao phố làng đổ sụp/ cổ nghẹn lòng thù hận/ nhìn bao em bé mồ côi/ mà sao chiều nay/ giết xong quân giặc/ chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm/ chỉ nỗi buồn trĩu nặng/ dâng lên như đá trên mồ; và một sự thực: xác ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy/ những đôi mắt bệch màu hoa dại/ những gương mặt trẻ măng xanh tái/ những bàn tay đen đủi chai dầy/ các anh ơi, đừng trách chúng tôi/ các bà mẹ, tha thứ cho chúng tôi/ chúng tôi chẳng thể làm khác được/ quả đồi cháy như một phần quả đất (Những đứa trẻ buồn). Soi vào cuộc sống và trang thơ hiện tại, Lưu Quang Vũ thấy tủi hổ vì bất lực: mỗi phút sống của tôi đều có người đang chết/ mà bàn tay gầy guộc của tôi/ không che chở được ai/ trang giấy mỏng của tôi/ không ngăn nổi một viên bi độc ác (Hồ sơ mùa hạ 1972). Ông chẳng thể “kết thúc thơ mình/ bằng những lời tốt đẹp”. Bởi “giữa tột cùng đau khổ/ đâu dám ngồi chau chuốt mỗi câu thơ”. Bởi “lòng tôi làm sao tươi sáng được/ khi máu bầm khắp nơi”. Và bởi “đêm qua tôi đã chết/ với hàng ngàn mạng người”. Nhưng sẽ: từ than bụi tôi hiện hình trở lại/ mang đau thương đến trọn cuộc đời/ tôi sẽ xông vào mọi cuộc vui/ mọi buổi lễ uy nghiêm/ mọi bài ca lừa dối/ mọi quên lãng mọi nụ cười dễ dãi/ để nói về những xác chết cháy đen/ để nói về/ những xác chết cháy đen// kẻ làm chứng trung thành/ trước phiên tòa lịch sử (Khâm Thiên).

Thơ vì thế, phải đổi khác. Và ông tự nhủ một lựa chọn: Tôi ở cùng những chữ hôm nay/ Điều còn lại sau đường dài tôi vượt/ Những chữ lấm lem đứng dậy từ đời thật/ Tin yêu cuộc đời theo cách của tôi/ Những chữ đẹp xưa giờ tôi đuổi đi rồi/ Bao chữ mới đang ầm ầm đập cửa/ Thơ rộng dài cánh lớn hãy bay đi (Những chữ); thầm thì một nguyện cầu: Sao cho máu đừng chảy nữa/ Sao cho người lính trở về/ Lũ trẻ ngủ ngon/ Cái chết không cắt ngang giấc ngủ/ Nguyện cho phố tôi/ Không ai phải quanh năm túng đói/ Không còn ai bị mỏi mòn sỉ nhục/ Nguyện cho kẻ ốm mau lành/ Nguyện cho người tôi thương không phải khóc/ Nguyện cho lòng tôi đừng sợ hãi/ Nguyện cho lòng tôi đừng nguội lạnh tình yêu… (Cầu nguyện); thắp lên một hy vọng: những gương mặt trẻ/ mang đầy vết thương/ dù lạ dù quen/ ở đâu cũng nhận ra nhau/ chưa gặp đã cùng tiếng nói/ còn lũ thở ra bóng tối/ còn kẻ phá cầu ngăn lối/ nhưng chúng ta đã lớn lên/ không gì ngăn nổi/ trải qua mọi điều, không sợ hãi/ chúng ta đứng bên nhau/ sống chết với đất nầy (Những gương mặt); hướng tới một tương lai: hôm nay tất cả hãy về/ lối cũ, bờ đê/ những mắt bàng hoàng sau kính trắng/ những binh lính áo quần vằn vện/ những tướng già tóc bạc/ những kẻ lãng du những hồn uất hận/ anh em ruột thịt cầm tay/ lạy mẹ lạy thầy/ chúng con hư để thầy mẹ khổ/ từ nay chẳng tham lam mê muội nữa/ súng đạn người ném trả/ oán thù đổ xuống ao sâu (Tìm về).

Trong cái đổ nát hoang tàn của chiến tranh, sự ấu trĩ và mê muội của con người, Lưu Quang Vũ sớm nhận ra một thực tế: cùng làng chẳng nhận ra nhau/ thờ những vị thần xứ khác/ nghe lời kẻ ác/ súng đạn người bắn thịt xương ta/ đào huyệt hận thù/ chia miền cắt đất/ tin những chữ không hồn trong sách/ tìm kiếm mãi đâu xa. Ông mong mỏi “cái mối tình Lạc Việt” sẽ là phương cách để “tha thứ cho nhau”, để khi đã “hay mình có một làng quê” “có thể sống những ngày thương mến/ anh và em chẳng phải phụ tình nhau”. Thơ về chiến tranh của Lưu Quang Vũ, vì vậy, gắn liền nỗi đau cá nhân với tổ quốc, nghẹn ngào, bỏng rát: đốt lòng con tiếng chim như lụa xé/ hót lo âu trên ngọn tre làng (Tìm về). Đó là những chữ của ông, niềm tin yêu của ông, độc sáng, cố nhiên (vì chỉ) theo cách của ông.

Chỉ đến khi ông rời khỏi cõi trần ai này, trong không khí của cuộc Đổi mới, Vũ Quần Phương - một tiếng thơ chống Mỹ cùng thời với Lưu Quang Vũ, được tiếp xúc với Cuốn sách xếp lầm trang, đã “sửng sốt” mà nhận ra rằng “đây là một Lưu Quang Vũ khác, một Lưu Quang Vũ mà bạn bè còn ít biết tới. Ở đây anh cô đơn hơn, cay đắng hơn và nhiều ý nghĩ của anh bế tắc quá. Nhưng cũng chính ở đây anh viết thực chân thành, trái tim trần trụi nhoi nhóp đập sau nét chữ mảnh mai như chữ con gái - chưa bao giờ tôi thấy thơ Lưu Quang Vũ chân thành đến tàn nhẫn với chính mình như ở tập này. Anh ghi lên giấy tất cả những gì đã có ở lòng anh, không cần biết những ý tình ấy có phù hợp hay không với thời cuộc. Lưu Quang Vũ không gửi đăng ở đâu. Anh viết cho anh thôi, cho nhu cầu của riêng anh, trước hết. Nhưng chắc chắn anh tin rằng tập thơ sẽ có lúc được xuất bản vì một lý do đơn giản: nó hay, hay vì nó đã diễn đạt tinh vi được một tâm trạng mà tâm trạng đang cảm xúc cao độ những gì nó đang sống”(5). Có thể nói, Lưu Quang Vũ đã tỉnh thức những người làm thơ cùng thế hệ bởi sự phản tỉnh sớm của mình, ngay khi những dòng thơ nhật ký kia được trở lại. Ngày nay, thời gian lùi xa hơn, người đọc ít “sửng sốt” hơn, nhưng thấm thía sâu hơn, nhiều hơn, tình yêu và nỗi đau làm người lính, làm người trong nỗi bi ai của dân tộc mà Lưu Quang Vũ nhận thấy và lên tiếng: Mắt cá chân em bốc lửa/ Trong buổi chiều phiêu bạt/ Những chiếc xe bò đi vào thành phố// Cuộc chém giết lặng dần/ Các dũng sĩ thân tàn ma dại/ Đập nát những cây đàn quý/ Ngồi nướng thịt cóc ăn/ Con mèo đi hai chân/ Kêu lên tiếng trẻ khóc/ Tóc em bù rối tro than/ Tóc gió đen quanh cột đèn xiêu đổ/ Cổng nhà thờ gạch vỡ/ Lão ăn mày mù thổi sáo/ Điệu gọi hồn âm u/ Lũ trẻ mở nắp quan tài đứng dậy/ Mình quấn đầy vải liệm/ Chạy theo ta xin tiền/ Ngàn mũ sắt lặng im/ Trong ráng chiều đỏ rực/ Đã lâu không có con tàu nào cập bến/ Không con tàu nào ra đi/ Biết nói gì nữa em, cô gái hoang/ Của hải cảng tối/ Của tấm chăn nghèo thời chiến tranh phá hoại/ Của nỗi buồn nội chiến?/ Cô gái hoang tóc bay như bờm ngựa/ Đi bên bờ vịnh thủy lôi/ Mắt cá chân xanh biếc/ Ngực mềm trôi về bãi sú xa/ Nghe sóng đập vào những cây đàn mới (Chiều cuối).

Vượt qua khó khăn, Đổi mới đã làm đất nước tươi trẻ lại. Bằng tình yêu ngây dại của mình với quê hương, Lưu Quang Vũ sống lại, xây dựng lại cuộc đời, bằng từ những gì đơn sơ nhất, gần gũi nhất, dễ thấy và dễ bắt gặp nhất trong cuộc đời đang ngây ngất sang trang này. Thơ xếp lại, ông lao vào kịch, nơi, ở đâu, lúc nào, cũng dễ dàng tìm được mâu thuẫn nghệ thuật để sáng tác, để thổi vào đó ngọn gió khát vọng. Ông nhanh chóng trở thành trung tâm của kịch nghệ, ở nơi mà không gian tinh thần nuôi sống nó, các mâu thuẫn xã hội cũng đạt tới mức kịch tính nhất, cao trào nhất, báo hiệu bước chuyển biến của “tấn trò đời”. Từ một nghệ sĩ cô độc, ông thành cánh chim đầu đàn, của một lứa văn nghệ sĩ mà tuổi đời còn trẻ, khát vọng sáng tạo còn cháy bỏng, còn nuôi dưỡng những bước phiêu lưu.

Kịch ở giai đoạn sôi nổi nhất của nó, đã báo hiệu, thúc giục cho cuộc Đổi mới, mà ở đó ông trở thành trung tâm quy tụ, người dẫn lối, bạn đồng hành. Với ngôn ngữ nghệ thuật giàu chất thơ, nhiều suy tưởng, suy niệm, những mâu thuẫn gay gắt khía sâu vào đời sống nội tâm con người, ở đa dạng các đề tài, các loại hình kịch, ông đóng dấu ấn tiền phong của mình. Kịch của ông thời sự trong những vấn đề vĩnh cửu, sôi động một cách trầm ngâm, sâu sắc một cách hoang mang. Tính chất nước đôi ấy có được là bởi ông chưa bao giờ đứng lại ở một vị trí, thuộc về chỉ một hàng ngũ, nghiệt ngã trong mỗi lựa chọn ra đi và trở về.

Có thể nói, ở một khởi điểm mới này, ông xác tín bản thân ở lưng chừng giữa “Tôi và Chúng ta”, giữa Thơ và Kịch. Bởi thơ và kịch, chứ không phải văn xuôi, mới là mảnh đất của tiền phong, của cách mạng và khởi loạn. Văn xuôi không lưu đày, bởi sự cách tân lớn nhất của văn xuôi là phản-văn- xuôi (vốn thường được biết hơn ở phản-tiểu-thuyết) vẫn chỉ là văn xuôi, một thứ văn xuôi mới không ngắt đứt với truyền thống và quăng mình vào cõi hư hỗn của tương lai. Không giống văn xuôi, cái mới quyết liệt trong thơ và kịch tạo nên cái khác, thơ khác và kịch khác, tự chọn tính chất cách mạng và lật đổ, bởi nó không biện biệt giữa nội giới và ngoại giới, điều làm thành sức mạnh hiện sinh của việc phá hủy cái đã biết để dấn thân vào cái chưa biết. Và chính cái khác hàm chứa một tiền phong, hàm ngụ một lưu vong ấy, khởi sinh cho dấn-thân-lưu-đày.

Một phần mười, một phần năm, một phần tư, rồi một phần ba thế kỷ ngừng lại của cuộc dấn-thân-lưu-đày của ông, thơ và kịch của ông dần được tái sinh. Thơ của ông giờ không chỉ để đọc mà một phần cơ bản đã để in (trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi), và mới đây nhất, kịch của ông giờ không chỉ để diễn mà một phần nhỏ đã để đọc (trong tuyển kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt), hơn thế, di cảo, như một phần máu thịt của ông, đã được sẻ chia, làm giàu đẹp thêm “tiếng Việt như bùn và như lụa”, của một đất nước “Việt Nam khốn khổ” muốn trở thành “đất nước ban mai…”. Thơ ông tái sinh trong những đọc mới và kịch ông tái sinh trong những diễn mới. Bởi thôi thúc tự trong sâu thẳm của “những viết” của ông, cái viết tự tái sinh trong mỗi lưu đày. Và bởi tự ông, đã là tiền phong, là cách mạng, nghĩa là cáikhác-lưu-đày từ trong cốt tủy của sống và viết.

Đ.A.D

(TCSH356/10-2018)

..............................

1. Thơ Lưu Quang Vũ được trích trong bài viết đều dẫn từ: Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. [Lưu Khánh Thơ biên soạn]. Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, H., 2010; Di cảo Lưu Quang Vũ. (Lưu Khánh Thơ tuyển soạn). Nxb. Trẻ, Tp.HCM., 2018.

2. Lưu Quang Vũ: Hồn Trương Ba, da hàng thịt. [Lưu Khánh Thơ biên soạn]. Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, H., 2013, trang bìa 4. Một phiên bản đầy đủ hơn, xem phần phỏng vấn Lưu Quang Vũ trong “Phỏng vấn đầu xuân”, Văn nghệ quân đội, số 2, (2/1988).

3. Có thể đọc (theo tên bài ở phụ lục ảnh chụp thủ bút tác giả), trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Sđd., tr. 372.

4. Có thể đọc trong Di cảo Lưu Quang Vũ. Sđd., tr.227-372.

5. Vũ Quần Phương: “Đọc thơ Lưu Quang Vũ”. Tạp chí Văn học, số 4, (7+8/1989), tr.39-40.

 

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, ngày 14.11.2018.

Thông tin truy cập

60796473
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
15974
24669
60796473

Thành viên trực tuyến

Đang có 304 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website