Xuyên qua thời gian thế kỷ, những mong đợi, gửi gắm, dặn dò còn đó trong trang viết của cha ông. Chúng ta có lãng quên chăng, trong nhịp đời
hối hả, trong cái lầm lũi của kiếp đời an phận?

Đầu hè năm nay, trong cái nóng bỏng của thời tiết và thời sự, TS Nguyễn Đức Mậu, người được giới nghiên cứu xem là một trong những chuyên gia về ca trù, nói chung và hát nói nói riêng, trình làng "Tuyển tập Hát nói" (NXB Đại học Vinh ấn hành) với 407 bài hát nói, một con số có thể nói là nhiều nhất từ trước đến nay.

Di sản rất đáng chú ý

Tiếp xúc với một bức tranh phong phú về văn bản trong tuyển tập này, tôi ngạc nhiên nhận ra: Hát nói không dừng lại ở cái phong vị nhuốm mùi dục lạc, ngông nghênh, hát nói còn tràn đầy hào khí; hát nói không ngưng kết ở nửa đầu thế kỷ XX mà còn lan đến cuối thế kỷ XX; chủ yếu là không gian của tiếng nói nam quyền, hát nói cũng có tác giả nữ (bà Nhàn Khanh). Quả thật, nếu đúng như Nguyễn Đức Mậu khẳng định ngay câu đầu tiên của bài nghiên cứu công phu "Hát nói, thời điểm hình thành và quá trình phát triển" (tr.7-42): "Hát nói là thể loại thơ ngắn duy nhất mà lịch sử văn học Việt Nam sáng tạo được" (tr.7) thì đây là một di sản rất đáng chú ý.

Với phần văn tuyển, Nguyễn Đức Mậu đã luôn xác định thời điểm ra đời, xác định văn bản và tác giả, luôn dẫn nguồn và đưa nhiều chú thích tỉ mỉ, bổ sung nhiều văn bản tồn nghi và khuyết danh. Trong nghiên cứu, khi đưa ra nhận định, ông luôn chọn cách nói thận trọng, không xác quyết. Có thể thấy phần viết công phu và có nhiều cảm hứng nhất là về Nguyễn Công Trứ.

Từ những khảo chứng và diễn giải (trên góc độ lịch đại và đồng đại) của Nguyễn Đức Mậu và từ sự phong phú độc đáo của thể loại hát nói, người đọc thấy nơi mình có nhiều câu hỏi nảy sinh: Sau ca dao, dân ca, hát nói là thể loại văn học kết hợp trong lòng nó chất văn (chữ), chất ca (âm) và chất nói (lời), vậy có thể dùng những kiến thức lý thuyết và lịch sử để cắt nghĩa sâu hiện tượng này, từ đó phát hiện vẻ đẹp riêng của thể loại và tinh thần cũng như xu hướng sáng tạo của văn học dân tộc? Phải chăng cùng gần nhau ở nguyên tắc kết hợp (lời và âm) nhưng hát nói khác ca dao, dân ca không gian diễn xướng? Có thể cho rằng từ ca dao, dân ca đến hát nói là quãng đường đi từ làng mạc tĩnh lặng đến thị tứ nhộn nhịp không? Hát nói phải chăng là sản phẩm của tầng lớp thị dân? Tính đô thị của hát nói được biểu hiện như thế nào? Khi cho rằng hát nói "đã đạt đến độ điển phạm", vậy tính điển phạm của hát nói là gì? Vì sao Nguyễn Công Trứ là người đánh dấu bước hoàn thiện cuối cùng cho thể loại này? Vì sao thế kỷ XX, một số bài hát nói tràn đầy từ Hán Việt (trường hợp Ưng Bình Thúc Giạ Thị); chất đời sống đi vào hát nói (trường hợp Nguyễn Văn Bình) có thể phân tích thế nào? Tiêu đề "Hát nói từ nửa cuối thế kỷ XIX đến Tản Đà" liệu có bao quát hết những hiện tượng hát nói sau đó với những tên tuổi hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau như: Bùi Kỷ, Á Nam Trần Tuấn Khải, Trần Huy Liệu, Nguyễn Tuân, Xuân Thủy, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Tài Cẩn… không? Những khái niệm chuyên biệt của thể loại không thật dễ hiểu với người đọc (điệu hà nam, điệu nói sử, hát giặm…) phải chăng nên chú thích?...

Bìa sách "Tuyển tập Hát nói"

Tiếng lòng của ông cha

Chảy mải miết qua hàng ngàn năm lịch sử của người Việt, dòng sông văn học Việt Nam luôn chao giữa hai bờ thực - mộng, và quả thật, do nhu cầu xã hội, dòng sông đã ngả vào bờ thực nhiều hơn. Hát nói, một thể loại của "thú ăn chơi", cũng không đành lòng thờ ơ khi nước non cất tiếng kêu trầm thống. Đọc những bài hát nói của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, chúng ta tưởng như hai nhà chí sĩ ấy đang có mặt cùng chúng ta hôm nay cảnh báo về hiện trạng xã hội, khẩn thiết kêu gọi sự thức tỉnh của lương tri dân tộc và khẳng định vai trò quan trọng của cơ quan ngôn luận.

Trong bài thơ "Vịnh Tết", Phan Bội Châu gửi lời nhắn nhủ: "… Thưa các anh, các chị, các ngài! Đáng khóc hay đáng cười xem thử thử! Ai là chủ? Ai là thầy? Ai là tớ? Non sông này mang mãi lốt cu ly! Sống không sống có vui gì? Trông thấy bạn thanh niên mà sống rốn! Cờ tính xong, bàn tay nên đủ ngón. Thuyền chèo giữa sóng gấp đều tay, No mà chi! Ấm mà chi! Sung sướng cũng mà chi! Trường đời dại dắt nhau đi rạc rạc. Ma vật chất chém cha tuồng quái nghiệt. Khua tinh thần mà đánh chết chúng ngươi! Có gan trời cũng thua người…" (tr.317).

Đêm, lặng nghe tiếng muỗi vo ve, nhà thơ cũng bất giác ngỏ lời khuyên nhủ: Hãy đừng "hút máu nhân dân", để rồi được muỗi trả lời: "Chúng tôi là vật vô tri. Hễ mình no bụng sá gì đến ai! Kìa thử hỏi loài người ta đó, Lũ tham quan nào có thương ai! Chỉ đi bóc lột của người, Làm nên giàu có một đời sướng thân. Nào có tưởng đến dân đói khổ, Tiếng chê cười gác bỏ ngoài tai! Huống chi khác giống khác nòi!... (Phan Bội Châu, "Nói chuyện với muỗi" - tr. 320).

Mừng Báo Tiếng Dân kỷ niệm 2 năm thành lập, Phan Bội Châu nói lên ý nghĩa của báo chí với sự sống còn của công luận: "Dế hót đêm đông tan giá đất, Cóc kêu ngày hạ động mưa trời. Lũ con đen đau khổ há câm hoài? Nhuốm giọt mắt vẽ bày trên báo chí (…) May nhờ có báo chương thay miệng lưỡi (…) Miệng lưỡi còn, tính mạng chắc đương còn. Mấy lời dặn bể thề non, Vợ chồng ôm ấp lấy con báu này. Nghìn thu cơ sở từ đây. (Phan Bội Châu, "Kỷ niệm đệ nhị chu niên Báo Tiếng Dân" - tr.322).

Xuyên qua thời gian thế kỷ, những mong đợi, gửi gắm, dặn dò còn đó trong trang viết của cha ông. Chúng ta có lãng quên chăng, trong nhịp đời hối hả, trong cái lầm lũi của kiếp đời an phận? 

Trách nhiệm của người làm sách giáo khoa

Lần giở từng trang sách, người đọc như tôi bồi hồi nhớ lại thời trung học cách nay những nửa thế kỷ. Vốn không phải là người mê hát nói, vậy mà không hiểu sao ký ức trẻ thơ vẫn cứ lưu như in những dòng thơ của Nguyễn Công Trứ ("Vịnh nhàn", "Chơi là lãi", "Thoát vòng danh lợi", "Chí khí anh hùng", "Nợ tang bồng", "Chí nam nhi", "Trên vì nước, dưới vì nhà"), Cao Bá Quát ("Nghĩ đời mà chán", "Tự tình"), Nguyễn Khuyến ("Mẹ Mốc", "Trở về vườn cũ", "Ông phỗng đá"), Trần Tán Bình ("Tặng cô đầu Trang") , Trần Tế Xương ("Tết dán câu đối", "Chú Mán"), Tản Đà ("Hơn nhau một chén rượu mời I", "Lại say", "Cánh bèo", "Đời đáng chán"). Thậm chí người đọc như còn nghe thấy giọng tụng ra rả của mình thuở ấy: "Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy/Cảnh phù du trong thấy cũng nực cười…". Tôi tự hỏi vì sao sách giáo khoa văn học ngày ấy lại có thể cung cấp cho học sinh nhiều tác phẩm đa dạng đến như vậy và làm họ nhớ hoài, nhớ mãi với một nỗi niềm rất lạ.

Từ tuyển tập này, những nhà làm sách giáo khoa (đang được nhà nước đầu tư kinh phí, đang được bao đôi mắt trẻ già nhìn vào mong đợi) sẽ chọn đưa vào chương trình những tác phẩm nào trong di sản hát nói, cũng như trong những di sản văn học khác của Việt Nam, để chúng có thể được lưu lại mãi mãi trong những tâm hồn non trẻ?

Nguyễn Thị Thanh Xuân

Nguồn: https://nld.com.vn/van-nghe/hat-noi-di-san-bi-lang-quen-20180618212046369.htm

20180616 Che Lan Vien

1. Giai đoạn ba mươi năm chiến tranh cách mạng 1945 - 1975, thơ viết về cuộc kháng chiến của dân tộc là tiếng hát tự hào của cái “ta” nhân danh dân tộc, nhân danh chính nghĩa. Thơ viết về chiến tranh giai đoạn này là một “dàn đồng ca” với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Thơ đã trở thành vũ khí chiến đấu, cất lên thành lời kêu gọi, thành khẩu hiệu, mệnh lệnh tiến công. Chúng ta thường thấy hình ảnh của những con người xả thân để bảo vệ Tổ quốc. Người lính lên đường với khát vọng chiến đấu và chiến thắng. Cuộc chiến tranh càng lan rộng và quyết liệt thì thơ càng bám sát đời sống, mở ra khả năng chiếm lĩnh thực tại phong phú, đa dạng của hiện thực chiến tranh. Các nhà thơ đã mang đến cho thơ giọng điệu đầy nhiệt huyết của một thế hệ sẵn sàng gánh vác sứ mệnh lịch sử theo tiếng gọi của Tổ quốc: Ơi tuổi thanh xuân/ Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim/ Ta sung sướng được làm người con đất nước/ Ta băng tới trước quân thù như triều như thác/ Ta làm bão làm giông/ Ta lay trời chuyển đất/ Ta trút hờn căm đã làm nên những vinh quang bất diệt/ Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi - Nam Hà).

Thơ chống Mĩ có dáng dấp một dàn đồng ca, một dàn hợp xướng lớn bởi nó được sinh thành trong một bối cảnh tinh thần đặc biệt của “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (Chế Lan Viên), và khi nhà thơ “tự hát” thì cũng ý thức được: Nhưng giọng anh đơn lẻ/ Sánh sao bằng đồng ca (Nhớ đồng ca, hát đồng ca - Phạm Tiến Duật). Chính vì thế, thơ trong thời kì chiến tranh chủ yếu thể hiện tinh thần lạc quan, nén lại những nỗi niềm riêng tư, nhằm vào mục đích chiến đấu chống lại kẻ thù: Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay (Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật). Cũng viết về cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng sau năm 1975, các nhà thơ đã hướng tới những số phận, khắc họa được những nỗi đau mất mát, nó thấm thía và lay động lòng người hơn trước. Nỗi buồn được cảm thông và chia sẻ trong thơ họ rất thật, nó mệt mỏi, nhức đau như chính sự tàn khốc của chiến tranh. Thơ của họ như bản giao hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác, suy ngẫm và ý tưởng, cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Những “nỗi buồn chiến tranh” để lại không ít vết thương trong trái tim nhà thơ. Sự thật khắc nghiệt mà họ phải nếm trải đã dội đập vào thơ họ đến tức ngực, làm thơ họ bừng tỉnh. Đọc thơ họ, ta như được tham dự vào những nỗi khổ đau và hi vọng đã làm nên gương mặt của mỗi số phận. Các nhà thơ đã dựng lên được chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng với ý thức công dân, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc; khẳng định và tự hào đối với những sự kiện lớn, những chiến công vĩ đại của dân tộc; hồi tưởng về sự hi sinh tột cùng đau đớn: Năm tháng chúng tôi đi cánh rừng xao xác lá/ Trước mặt đạn bom, sau lưng cũng đạn bom/ Tiểu đoàn tôi ba trăm người tất cả/ Chỉ còn năm, khi về tới Sài Gòn (Mùi nhang đêm giao thừa - Văn Lê); Nếu tất cả trở về đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn (Gửi sư đoàn cũ - Nguyễn Đức Mậu).

Trong quá trình tiếp cận những tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh, Gabrielle Schrader - một người Mĩ đã có nhận xét: “Về mặt lịch sử, văn học chiến tranh Việt Nam đã cung cấp cho các nhà sử học và xã hội một bức tranh sáng rõ về thực tế của cuộc chiến… Văn học Việt Nam viết về chiến tranh thực sự đã chạm đến trái tim người Mĩ”(1). Thật vậy, khác với cách viết về chiến tranh trong thời chiến, văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh đã có hướng khai thác mới mẻ hơn. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, chiến tranh đã được nhìn nhận như một biến cố bất thường, phi nhân đạo bởi những mất mát, bi thảm trong số phận con người.

2. Chưa bao giờ nhu cầu đi tìm một tiếng nói riêng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Thơ trước đây cũng mỗi người một vẻ, nhiều giọng điệu, nhưng đó là sự phong phú, đa dạng của một nền thơ thống nhất trên cùng một cảm hứng trữ tình công dân, còn hiện nay sự đa dạng về giọng điệu xuất phát từ nhu cầu khẳng định cá tính và nhận thức hiện thực thông qua số phận cá nhân. Tác giả của các bản trường ca về đề tài chiến tranh giữ nước hầu hết đều là những người trong cuộc, là những người lính gắn bó với chiến trường. Những gì mà họ phản ánh trong trường ca đều là những điều mắt thấy tai nghe. Họ đã từ hiện thực chiến tranh để viết về chiến tranh với biết bao cung bậc cảm xúc. Trong thời chiến các nhà thơ phần lớn thường có tâm thế hướng ngoại khi nói về nhân dân, đất nước cùng với những sự kiện có tầm vóc lịch sử. Trữ tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình công dân nên tác phẩm trường ca thường mang dáng vóc và âm hưởng sử thi. Thời kì hậu chiến, hiện thực chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của những nhà thơ mặc áo lính, nhưng giờ đây khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo đã cho người viết được khai thác và thể hiện đến tận cùng mọi cảnh huống ngặt nghèo, bi đát nhất của chiến tranh. Chiến tranh được tái hiện trong dòng hồi ức kỉ niệm của ý thức và cả phần vô thức. Giọng điệu một số bản trường ca có khuynh hướng thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện như trong trường ca truyền thống không còn là điều quan trọng, nhưng bao giờ yếu tố tự sự cũng có vai trò nổi bật. Chủ thể sáng tạo không chỉ đóng vai trò là người thư kí trung thành của thời đại mà còn là người phát ngôn của cộng đồng thông qua tiếng nói cá nhân. Về điều này nhà thơ Thanh Thảo đã viết: “Ai sẽ nói thay họ trong khoảnh khắc, trong sự mong manh… nếu không phải là nhà thơ. Nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, nhà thơ hiện đại có thể sững sờ khi những dòng thơ của mình bỗng trào lên nhiều giọng điệu, nhiều tiếng nói, và tự nhiên nó có hình thức của một phức hợp nghệ thuật”(2). Nhìn chiến tranh từ góc độ cá nhân, các tác phẩm viết về đề tài này không chỉ “làm sáng rõ những cội nguồn sâu xa nhất đã làm nên sức mạnh thúc đẩy cuộc chiến đấu trường kì của nhân dân ta tới chiến thắng” (Thiếu Mai) mà còn nêu được những tổn thất, mất mát của dân tộc mà trước đây văn học chưa có điều kiện phản ánh. Khảo sát qua một số tác phẩm có thể thấy rõ hơn những đặc điểm này. Trong trường ca Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng số lượng các phần, các trang viết về chiến tranh không nhiều nhưng khá ấn tượng. Phần thứ nhất Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người là phần có nhiều sáng tạo. Ba chữ cái A.B.C đã được tác giả sử dụng cho ý đồ nghệ thuật của mình rất hiệu quả. Có khi đó là hình ảnh cụ thể của người lính thời chống Mĩ: Có một đám tang chỉ có ba người/ Kể cả người đã chết/ Trong góc rừng miền tây xa tít tắp/ Nước trong lòng suối lặng lờ trôi/ Chiều lạnh và trong như ngàn vạn mảnh thuỷ tinh tan vỡ/ Những giọt nước mắt khô long lanh sắc cứa/ A và B khóc C trong một tổ ba người. Có khi đó là biểu tượng mang tính ước lệ, là anh, là tôi, là những người còn sống hoặc đã khuất: A.B.C thành một cánh rừng rồi/ Cánh rừng yêu thương lá tìm lá đan cài vấn vít/ - A là anh tôi như thể là B/ Mình thực có hay là không có thực/ Mình đang sống hay là mình đã chết/ Chết rồi hay vẫn sống như ta?
Ở phần chín - phần cuối cùng của trường ca, lại được đặt tên A.B.C (hay là tiếng gọi). Ở đây A.B.C không còn là những mẫu tự vô tri trong hàng chữ cái mà đã được hoá thân trong nhiều dạng thức mới. Chiến tranh được soi chiếu bằng một cái nhìn sắc lạnh, tỉnh táo của người trong cuộc nhưng đã có một khoảng cách thời gian sống trong hoà bình. Những gian khổ, mất mát của chiến tranh được hồi tưởng: Chúng tôi đi qua/ Đi qua/ Nỗi sợ hãi để lại sau lưng một khoảng tối om/ Sự gian khổ ấn xuống hai vai bằng đôi tay một gã khổng lồ/ Niềm thương mẹ nhớ em cũng có lúc hoá thành dao sắc/ Cắt vào thịt da/ Dãy Trường Sơn rùng rùng sốt rét/ Những viên bi của bom bi đỏ máu đồng đội lăn qua ngực mình/ Mắt mờ đục đói ăn tóc khô xác tưởng chừng bẻ gãy/ Đường độc đạo một đi không trở lại. Và số phận cá nhân trong cuộc chiến tàn khốc này mang một vẻ đẹp đầy bi tráng: Tôi hai mươi như nước lũ/ Bom đạn nổ tung con đập, nước tràn bờ/ Tôi - Giản ước đến tận cùng để còn lại chính tôi/ Tôi nổ súng!/ Tôi là hạt cứng đanh chưa nảy lá/ Chiến tranh dẫm lên trầy vỏ đã bao lần.

Cũng giống như Gọi nhau qua vách núi, trường ca Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái được kết cấu theo mạch tư tưởng - cảm xúc. Toàn bộ tác phẩm là một dòng tâm trạng gắn với các tình huống, các sự kiện và các mối quan hệ tình cảm. Nhân vật trữ tình đóng vai trò chủ đạo trong tác phẩm chính là cái tôi của nhà thơ. Ở đây cảm xúc trữ tình đã được kết hợp với năng lực tích tụ những trải nghiệm cá nhân của một người lính từng tham gia chiến trận. Hiện tại và quá khứ đan xen nhau từ trong đáy sâu của tiềm thức như một niềm ám ảnh không dứt. Trường ca gồm có 11 khúc, mỗi khúc lại có nhiều đoạn khác nhau. Mỗi khúc của trường ca có cấu tạo độc lập, mối liên hệ giữa các phần khá “lỏng”, có thể thay đổi vị trí cho nhau cũng không làm ảnh hưởng đến cấu trúc tác phẩm. Nhà thơ tham gia, tác động vào kết cấu bản trường ca với tư cách là nhân vật tâm trạng. Do đó cái tôi của nhà thơ luôn đứng ở bình diện thứ nhất để tạo ra không khí cho toàn bộ tác phẩm. Nó xuất hiện từ Khúc I trong tâm thế: Tôi hào phóng tung những con thuyền cất giấu trong mơ/ Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn. Cho đến khúc cuối cùng: Tôi qua những cánh rừng núi đồi/ tới bờ biển và sa mạc lạ/ Những dấu chân bất an/ Kí ức sáng trên vầng trán người đạo sĩ già/ ẩn cư miền cao Yên Tử/ Chòm râu phơ phất ưu tư/ Đêm đêm giấc mơ trở về/ Người đạo sĩ chống cây gậy trúc chỉ tay về phía biển Đông/ Mặt trời đang mở sáng… Có thể thấy ở đây “cơ chế giấc mơ” đã hoàn toàn ngự trị tư duy hướng nội và mạch cảm xúc của nhà thơ.

 Về phương thức biểu hiện của trường ca, chúng ta thường thấy có sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự. Trữ tình thường bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể sáng tạo; tự sự phản ánh khách thể, tạo nên mọi dáng vẻ, đường nét của hiện thực. Ở trường ca Ngày đang mở sáng cảm xúc trữ tình của nhân vật tôi có phần nổi trội, lấn át việc miêu tả hiện thực. Hay nói một cách chính xác hơn là hiện thực đã được soi chiếu và dẫn dắt bởi mạch cảm xúc của nhà thơ. Cũng có thể xem đây là một sự “phá vỡ” về mặt thể loại. Chiến tranh luôn đè nặng trong tâm thức của mỗi người lính đã từng tham gia cuộc chiến. Khúc V của bản trường ca là một hồi ức rách xé, đau đớn về chiến tranh và sự thật bi thảm này đâu dễ được tái hiện khi chiến tranh đang tiếp diễn: Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước/ Kéo hoàng hôn rã rời/ Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc/ Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau. Chiến tranh được nhìn bằng cái nhìn khác, chân thực và xót đau, chạm đến những rung động của cuộc sống con người đời thường, thế sự.

Bước ra từ cuộc chiến tàn khốc, khác với mọi người, người lính vừa phải sống cùng thực tại vừa phải sống cùng kí ức, phải chịu đựng nỗi đau mất đồng đội hoặc chứng kiến nỗi đau của người thân đồng đội. Những câu thơ văn xuôi trùng trùng, lớp lớp, day dứt khắc khoải là nơi để họ gửi gắm tâm tư:
Bạc mắt mùa màng, cát trắng lăm dăm mặt, bầu trời khoanh một vòng tròn trắng. Những hạt mầm nhao lên cơn khát.
Người ủ giấc mơ vào đêm che chở, ý nghĩ ngược xuôi con đường. Trăng cuối tháng mơ hồ rớt ngoài cửa sổ, bản đồng ca ran vang màn sương mờ đục cõi sinh.
Đâu đó dậy bước đoàn quân. Lá rừng xào xạc rẽ đường qua gai bụi. Tiếng ai ấm áp xa xôi ngày gặp mặt. Những gương mặt xa dần, tiếng đạn bom chìm khuất. Bia mộ viết vu vơ không tên đất tên người. Sông Vệ buồn bã chảy bên đồi Đình Cương, vết thương rỉ máu luênh loang gọi rừng xưa run rẩy tím màu hoa.

(Ngày đang mở sáng - Trần Anh Thái)

Những năm tháng chiến tranh khốc liệt vẫn luôn hiện hữu trong dòng suy nghĩ, trong cơn mơ, lẩn quất trong mỗi không gian sống của cuộc sống người lính thời hậu chiến. Nó trở thành nỗi ám ảnh, thành những mảng kí ức, hằn in khắp nơi trên quê hương. Với những người lính trở về từ cuộc chiến, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, lẫn lộn và luôn lẩn khuất đâu đó.

Chiến tranh đã dần lùi xa nhưng nó chưa thể phai nhòa trong kí ức vì đâu đó vẫn còn hình ảnh của chiến tranh. Nó hiện lên trong giấc mơ của người lính, trong nỗi đau mất mát của người mẹ, trong ánh mắt sợ hãi của người em, trong nỗi cô đơn của người góa phụ và trong cảnh côi cút của những đứa trẻ mồ côi.

Bừng thức đàn chim vút ngang mái nhà tranh mỏng mảnh. Cây vú sữa trái mùa rụng lá tím bầm mặt đất. Những ngọn cỏ thiếu nguồn sinh úa ngọn xanh xao. Sông Vệ kiệt dòng nhằng nhẵng bờ tre ngã bóng. Ngày tháng loanh quanh ô đất mảnh vườn.
Đêm toan tính không đâu ngày trĩu nặng. Nước mắt chảy ròng trên má con thơ.
Chị mỗi ngày bước mỏi, bàn chân heo hắt cánh đồng.
Mặt người gập đất.


Dường như dấu ấn chiến tranh vẫn còn hằn rất rõ trên số phận của những người lính và người thân của họ. Những người phụ nữ vừa phải vật lộn với cuộc sống khó khăn thời hậu chiến vừa phải chịu đựng nỗi đau, nỗi cô đơn. Bằng những câu thơ đầy day dứt, cảm xúc tuôn trào, nhà thơ đã lột tả rất rõ nỗi buồn chiến tranh trong thời hậu chiến. Những kỉ niệm của một thời anh hùng mà bi tráng đã trở thành một phần máu thịt của người lính. Dù “ngày đang mở sáng” nhưng những mảng tối của chiến tranh vẫn đâu đây. Và điều đó tạo nên sức mạnh để những người lính bước tiếp vào ngày mai bằng bản lĩnh, niềm kiêu hãnh và cả sức mạnh của nỗi đau.

3. Chiến tranh đã đi qua, nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc đời của những người lính đã từng tham gia trận mạc. Những hồi ức đau thương, những thực tế dữ dội của chiến tranh luôn ám ảnh họ. Bài thơ Cánh rừng nhiều đom đóm bay của Nguyễn Đức Mậu đã miêu tả cái tâm thế đó bằng những hình ảnh rất cụ thể. Không gian của bài thơ là một góc rừng Trường Sơn thời chiến tranh chống Mĩ, thời gian trải dài trong một ngày đêm, nhân vật chính là người lính trong một đơn vị đang hành quân qua khu rừng... Tất cả những cảnh huống đó đòi hỏi một hình thức thể hiện thích hợp, lạnh lùng, dữ dội nhưng quặn thắt đớn đau: Chiến tranh lùi xa, con đường mòn Trường Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái giếng nước hoà máu người tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp bằng nỗi đau nước mắt. Nơi cánh rừng có nhiều đom đóm bay. Trong ngày lễ mừng chiến thắng, hàng mấy chục năm sau chiến tranh, người lính vẫn đau đáu một nỗi niềm nhớ về những đồng đội cũ đã nằm lại nơi chiến trường xưa. Những kỉ niệm ấy đã giúp cho họ sống xứng đáng với non sông đất nước hôm nay: (...) Không có ngày vui nào không đi kèm với ngày thương ngày nhớ (...) Bạn ở đâu dưới đất đen, đá đen, cây mục đen, hầm chữ A đen, trọng điểm đen, bóng cây đen trong dải rừng già Trường Sơn. Hơi ấm duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là đất mẹ. Hơi mát duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là chút gió quạt từ cánh bướm hoang. Để có ngày hôm nay, ba triệu người Việt Nam đã ngã xuống (...) Hãy về cùng tôi, một người lính bình thường như bao người lính khác… (Đất nước - Phạm Tiến Duật).

“Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều”, càng đi sâu vào cuộc chiến, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính chống Mĩ không còn đủ vô tư như thời trước Đường ra trận mùa này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật). Đó là một thế hệ bầm dập bởi chiến tranh và đã mất đi những ảo tưởng ngây thơ về cuộc chiến: Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh/ Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết/ Ta vượt bao đèo cao chót vót/ Bao điều nhà trường chẳng dạy cho ta/ Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ/ Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng (Những bông hoa không chết - Lưu Quang Vũ). Lưu Quang Vũ trở thành người lính ngay từ những năm đầu chống Mĩ. Chi phối thơ anh thời kì này là cái nhìn lạc quan, trong trẻo, đầy tin cậy: Ta đi giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình. Nhưng chỉ vài năm sau đó, cái nhìn về chiến tranh trong thơ anh đã khác hẳn. Đấy là một cái nhìn trực diện, chân thực và đau đớn. Chiến tranh, trước hết gắn liền với chết chóc và bi kịch: Thời bạo tàn lửa cháy khắp nơi/ Những thây người gục ngã/ Những nhịp cầu sụp đổ/ Những toa tàu rỗng không (Những bông hoa không chết); Nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy/ Những tháng năm đã mất/ Những nhịp cầu gẫy gục/ Những toa tàu đã sụp đổ tan hoang (Những đứa trẻ buồn);Tuổi trẻ, ước mong, những gì quý nhất/ Đều trôi qua trong bụi xám chiến hào (…)/ Ai bảo chúng tôi là tuổi trẻ tươi xanh/ Với những mũi lê với phát đạn đầu tiên/ Chúng tôi đã không còn trẻ nữa(Cơn bão). Lưu Quang Vũ căm ghét chiến tranh bởi sự bạo tàn của nó. Chiến tranh hủy diệt những gì tốt đẹp nhất: tuổi trẻ, tình yêu, những khát vọng tuổi thơ… Nhìn vào cuộc chiến, Lưu Quang Vũ không những thương thế hệ mình phải hi sinh tuổi trẻ, mà anh còn xót thương cả những kẻ đứng bên kia chiến tuyến.

Hành trình vào chiến tranh của Lưu Quang Vũ cũng là hành trình nhận thức lại cuộc đời. Lưu Quang Vũ đã mang một cái nhìn khác và tìm một chất thơ hoàn toàn khác với giai đoạn trước của anh và khác với cả khuynh hướng chung của thế hệ thơ chống Mĩ.

Có thể nói, nhìn lại các sáng tác trường ca và thơ đương đại, tập trung vào chủ đề, cảm hứng viết về chiến tranh, chúng ta sẽ nhận ra những dịch chuyển về góc nhìn, thái độ, suy tư và cảm xúc của con người hậu chiến. Độ lùi thời gian là một nguyên do, nhưng có lẽ, sâu thẳm nhất chính là giá trị nhân văn, nhân bản của đời sống con người. Chiến tranh là đau thương, vì vậy, để hướng tới sự sống tốt đẹp hơn, việc nhìn nhận lại những biến cố ấy, soi chiếu bằng hệ giá trị nhân văn, phổ quát, thơ và trường ca Việt Nam hiện đại nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung, đã cho thấy một chặng vận động mới của đời sống, lịch sử và văn chương.

L.K.T
------
1. Gabrielle Schrader, Văn học chiến tranh Việt Nam - một cái nhìn khái quát, http://helium.com.
2. Thanh Thảo, Từ đêm mười chín nghĩ về anh hùng ca và trường ca, Tạp chí Thơ, số 6/2006.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ngày 14.6.2018.

tran dai si xuat son su do

Đã có một số người nói tới tư tưởng nhập thế của Trần Nhân Tông, vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhưng vì sao đang làm vua, ông lại trở thành nhà tu hành, vì sao đã là nhà sư, ông còn mang tư tưởng nhập thế và tư tưởng nhập thế đó thể hiện ra như thế nào, đó là những vấn đề cần có sự nghiên cứu thêm.

1. Yên Tử, non thiêng và đóng góp của Trần Nhân Tông vào sự phát triển của Phật giáo Việt Nam

Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và lên làm Thái thượng hoàng. Không còn bận nhiều đến việc triều chính, ông đi thăm nhiều đền miếu, chùa chiền trong nước. Có lúc ông tu ở hành cung Vũ Lâm (Gia Khánh, Ninh Bình). Đến năm 1298, ông chính thức xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc Đông Triều, Quảng Ninh. Có người nhân sự kiện này, nhận định rằng Nhân Tông đã vứt bỏ ngôi vua như vứt bỏ chiếc giày rách, không chút thương tiếc. Thực tế không phải như vậy. Dù đi tu, ông vẫn còn có ý thức trách nhiệm với xã hội, với sự thống trị của dòng họ Trần. Trước khi lên tu ở núi Yên Tử, khi đang còn ở phủ Thiên Trường, Thượng hoàng Trần Nhân Tông rất giận dữ về việc say rượu bỏ bê công việc triều chính của Trần Anh Tông và nghiêm khắc quở trách Trần Anh Tông: “Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà người còn như thế, huống chi sau này”[1]. Một con người như thế không dễ gì bỏ mặc công việc trần thế được.

Việc chọn núi Yên Tử làm nơi tu cuối đời của Trần Nhân Tông, dễ khiến người ta đi đến nhận định rằng, ông đã hoàn toàn thoát li trần thế, muốn tìm nơi xa xôi vắng vẻ để ẩn cư. Thực ra không phải

thế. Việc lên núi của ông khác với việc làm của các dật sĩ phái Đạo gia. Các dật sĩ Đạo gia lên núi là do chán ghét thế sự, là để lánh đời, để tìm nơi an nhàn, tự do thoả thích. Còn Trần Nhân Tông lên núi là để tu hành được tốt hơn, truyền đạo được tốt hơn.

Trước Trần Nhân Tông, các vị sư tiền bối cũng đã lựa chọn các ngọn núi để tu dưỡng đạo. Chính Phật Thích Ca đã có thời gian dài chọn núi Linh Thứu và vùng Tuyết Sơn để truyền pháp; ông tổ đầu tiên của phái Tịnh Thổ tông Trung Quốc là Huệ Viễn (334 - 416) đã tu tập và truyền đạo ở Lư Sơn 30 năm; gốc tích của Thiền tông Trung Quốc là ở vùng Thiếu Thất Sơn, Hà Nam, Trung Quốc; ông tổ của Thiên Thai tông Trung Quốc là Trí Ngợi (538 - 597) cũng trụ trì ở núi Thiên Thai, Triết Giang để lập đạo, v.v… Vùng núi là nơi có điều kiện tự nhiên yên tĩnh, có lợi cho sự suy ngẫm về việc đạo, việc đời. Tất nhiên là các vùng núi đó không trắc trở cho việc lui tới của con người. Dù ở núi nhưng mỗi vị tổ đều có hàng trăm đệ tử đến thụ pháp.

Trước Trần Nhân Tông đã có nhiều vị sư tăng đến trụ trì ở núi Yên Tử. Đó là các vị: Hiện Quang, Viên Chứng, Đại Đăng, Tiêu Dao, Huệ Tuệ[2]. Ngay Trần Thái Tông là ông nội của Trần Nhân Tông cũng đã có lần bỏ kinh thành lên Yên Tử và định tu hành lâu dài ở đó. Vì sao Yên Tử lại có sức hấp dẫn với các thiền sư như thế? ở đây không thể không có nguyên nhân.

“Yên Tử, dãy núi miền tây của cánhcung Đông Triều, chạy từ phía đông sông Lục Nam đến ngang Quảng La, đỉnh cao 1068m”[3]. So với xung quanh thì đây là ngọn núi cao hơn cả. Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã có bài thơ “Yên Tử sơn am cư” ca ngợi cảnh non cao của ngôi chùa trên Yên Tử:

“Cao sát trời xanh, am thiền mát lạnh

Cửa mở trên tầng mây

Trước Long Động, mặt trời đã một cây sào

Dưới Hổ Khê, băng còn dày một thước”.

(Am bức thanh tiêu lãnh,

Môn khai vân thượng tầng.

Dĩ can Long Động nhật,

Do xích Hổ Khê băng)[4]

Nhưng quan trọng hơn là vị thế địa lí của núi Yên Tử. Đứng ở trên chùa Đồng hướng về phía đông bắc thì đấy là vịnh Hạ Long bao la với sóng biển và đảo lớn, đảo nhỏ giăng đầy, hướng về phía tây nam thì sau dãy núi dựng đứng là những cánh đồng, làng mạc ngút tầm mắt của vùng Kinh Bắc và Hải Đông. Nơi đây có lợi cho việc cảm nghĩ tràn đầy tứ thơ và những nỗi niềm sâu nặng về đạo lí. Hồn thiêng sông núi như hội tụ về đây. Và biết bao thi nhân, thiền giả bằng sáng tác của mình đã làm cho ngọn núi thêm thiêng liêng, thêm cuốn hút. Chính Huyền Quang đã phải thốt lên:

“Buông niềm trần tục

Náu tới Vân Yên.

Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ;

Gió tiên đưa đòi bước thần tiên.

Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới;

Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.

Đất phúc địa nhận xem luống kể, kể

bao nhiêu dư trăm phúc địa;

Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ, lạ

hơn ba mươi sáu Thiền thiên”[5].

Trải nhiều nơi thăm viếng, nhưng Trần Nhân Tông cuối cùng trụ lại ở Yên Tử để tập Thiền và truyền Thiền là có lí do của nó.

Khách quan mà nói, ý tưởng về xây dựng một dòng Thiền của dân tộc thì khi còn đang làm vua, Trần Nhân Tông đã nghĩ tới, đã có sự chuẩn bị, nhưng chỉ khi lên Yên Tử ông mới có đủ điều kiện để làm việc này. Ở đây có thời gian hơn, được tập trung hơn và có không khí thiền cảnh hơn, nên ông đã thực hiện được ý định của mình.

Những việc mà Trần Nhân Tông đã làm được cho đạo Thiền có một ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. Nhiều nhà Phật học, nhiều nhà nghiên cứu đã nói tới, nhưng ở đây cũng cần thiết có một sự nhận định mới.

Sau ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông dưới thời Trần, ý thức dân tộc được nâng cao, người Việt có điều kiện tiến thêm một bước khẳng định mình, đã tác động đến ý thức độc lập về tôn giáo. Giới Phật tử và cả người dân Việt Nam lúc bấy giờ thấy cần thiết phải có một dòng thiền riêng để đáp ứng tâm tưởng của mình. Đảm đương được nguyện vọng da diết này, không ai khác phải là một nhân vật vừa có quyền lực cao về thế tục, vừa có uy tín lớn về Phật pháp. Vai trò đó trong lúc bấy giờ không ai khác ngoài Trần Nhân Tông.

Việc lập tông, lập phái trong lịch sử Phật giáo ở Đông á thì có nhiều trường hợp khác nhau. Có trường hợp chủ trương thiền định về “tâm”, “tính” để đạt tới “kiến tính thành Phật”, gọi là Thiền tông, có trường hợp chủ trương dùng giới luật để tu luyện gọi là Luật tông, có trường hợp dựa vào một cuốn kinh nào đó để lập nên tông phái, như Hoa Nghiêm tông lấy “Kinh Hoa Nghiêm” làm kinh điển chủ yếu, v.v… Các việc đó, Trần Nhân Tông đều biết, nhưng ông không thể xây dựng tông phái theo các con đường như thế, vì không có yêu cầu khách quan, cũng không có điều kiện. Ông vẫn là người tiếp tục con đường của thiền phái, song để có thể là một thiền phái riêng, ông phải có gì đó thêm vào để khác với trước, khác với Huệ Năng, khác với Vô Ngôn Thông, khác với cả ông bác là Trần Tung (Tuệ Trung Thượng Sĩ) về sự lập pháp. Sự khác đó tuy không biểu hiện thành lí lẽ, thành luận điểm, nhưng đã được thể hiện trong sự hành thiền, một sự hành thiền có tính định hướng và tính hệ thống rõ rệt. ở đó vừa chú trọng tu tập thiền định vừa quan tâm đến những vấn đề trần thế, những vấn đề mà đạo đức Phật giáo cho phép, và trước đó chưa có ai biểu hiện rõ nét.

Xây dựng được dòng thiền mang sắc thái riêng như trên, Trần Nhân Tông đã tạo nên một bước ngoặt trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trước ông, trên đất nước này chỉ có hai dòng thiền từ Trung Quốc truyền vào là Tì Ni Đa Lưu Chi (Vitaruci) và Vô Ngôn Thông. Sau ông, những thiền sư Việt Nam có tinh thần dân tộc đều đi theo con đường của ông.

Sau chủ trương thuyết pháp trên, Trần Nhân Tông đã có những đóng góp trong việc tập hợp, xây dựng và củng cố một giáo hội Phật giáo thống nhất. Tuy tu ở Yên Tử, nhưng ông vẫn quan tâm đến nhiều chùa khác trong nước. Ông đã đến chùa Phổ Minh ở Thiên Trường, chùa Sùng Nghiêm ở Chí Linh, chùa Báo Ân ở Siêu Loại, chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang[6], v.v… để thực hiện sứ mệnh đặt mối liên hệ và khai giảng các lớp thiền học. Từ đấy về sau, các chùa Việt Nam được hướng dẫn bởi một tư tưởng chung của Phật hoàng và có sự gắn bó với nhau thành một khối, điều mà trước đó chưa từng có.

Chấn chỉnh việc sinh hoạt Phật giáo đương thời là một đóng góp nữa của ông. Dưới sự hướng dẫn của ông, việc tự pháp của Pháp Loa được diễn ra một cách trang nghiêm và bề thế. Việc làm này đã là tấm gương cho những người nối pháp sau này noi theo, đồng thời qua đó nâng cao trách nhiệm của họ. Rồi các nguyên lí đạo đức của Phật giáo cũng được ông chú ý truyền dạy. Ông chủ trương phổ biến các điều trong “thập thiện”[7] cho Phật tử và cho cả thần dân. Nhờ đó trong thời ông cũng như rất lâu về sau, không còn hiện tượng các sư tăng sống buông thả như Đàm Dĩ Mông đã tố cáo ở cuối thời Lý: “hoặc ở nơi giới trường, tịnh xá mà công nhiên rượu thịt; hoặc ở chốn tăng phòng tịnh viện mà riêng tự gian dâm”[8]. Được răn dạy bằng đạo đức và sống có đạo đức, giới Phật tử đương thời ngày càng được thiện cảm của người dân.

Lập được thiền phái, kết nối được các chùa lại với nhau trong một tổ chức thống nhất và rèn dũa được bộ mặt đạo đức cho thiền nhân, Trần Nhân Tông quả đã có công lao to lớn đối với sự phát triển của Phật giáo Việt Nam.

2. Từ tư tưởng xuất thế vốn có của Phật giáo đến tư tưởng nhập thế của Phật giáo Trần Nhân Tông

Phật giáo quan tâm đến vấn đề con người và xã hội con người, nhưng khác với các học thuyết chính trị - xã hội, Phật giáo quan tâm đến khía cạnh nỗi khổ của con người, đến sự phiền não về cuộc đời, mà nguồn gốc của khổ sở và phiền não đó là do có con người, có các bước sinh, lão, bệnh, tử, có sự ham muốn của con người, v.v…

Trong Phật giáo chính truyền không có khái niệm “nhập thế”. Ở đó chỉ có khái niệm “xuất thế”, tức là thoát ra khỏi “thế gian” (loka), hoặc ra khỏi “thế tục” (samvrti) để được giải thoát, để có thể tiến tới cõi “Niết bàn” hoặc đến chốn “viên tịch”, nơi không còn biến hoá, không còn sự khổ đau cũng như sự sung sướng.

Tuy vậy, Phật giáo vẫn đề cập đến các vấn đề của trần thế. Vì sinh, lão, bệnh, tử là hiện tượng của chúng sinh nơi trần thế, vì “dục vọng” là hiện tượng tinh thần con người nơi trần thế. Phật giáo tính tới các vấn đề trên của trần thế vừa là để nêu nguồn gốc của nỗi khổ vừa là để xác định đối tượng phải giải thoát. Nhưng có một thực tế, con người ta vẫn phải sống chung với các nỗi khổ trên, không thể thoát được. Có nhà sư ý thức được việc này và đã khuyên nhủ mọi người chấp nhận chúng. Chẳng hạn như Ni sư Diệu Nhân (1041 - 1113) của thời Lý đã trình bày quan điểm về các bước sinh, lão, bệnh, tử của con người như một quá trình tự nhiên, không thể nào làm khác được:

“Sinh lão bệnh tử

Lẽ thường xưa nay vẫn thế.

Muốn cầu siêu thoát,

Càng cởi trói thì càng buộc chặt thêm”

(Sinh lão bệnh tử

Tự cổ thường nhiên.

Dục cầu xuất ly

Giải phọc thiêm triền)[9]

Hoặc như nhà sư Trì Bát (1049 - 1117) có cái nhìn khách quan không thể chối cãi, đó là xem loài người có chết thì cũng có sinh, có lúc khổ thì cũng có lúc sướng:

“Có chết ắt có sinh

Có sinh ắt có chết.

Chết thì người đời buồn,

Sinh thì người đời vui.

Buồn vui đều vô cùng

Xoay vần từ cái nọ đến cái kia.

Không quan tâm đến các sinh tử đó

úm tô rô, tô rô, biến hoá!”

(Hữu tử tất hữu sinh

Hữu sinh tất hữu tử.

Tử vi thế sở bi,

Sinh vi thế sở hỷ.

Bi hỷ lưỡng vô cùng

Ư chư sinh tử bất quan hoài

úm tô rô, tô rô, tất lỵ)[10]

Thái độ xem sinh, lão, bệnh, tử, xem sướng khổ là hiện tượng tự nhiên và chủ trương sống thuận theo tự nhiên đó của các nhà sư trên có thể xem như là một biểu hiện của nhập thế. Là người am hiểu Phật giáo dân tộc, lại sống sau các nhà sư trên, chắc Trần Nhân Tông được thừa hưởng thái độ thực tế của các nhà sư trước mình.

Yếu tố nhập thế không những xuất hiện trong quan niệm coi trọng thực tế của một số nhà sư, mà còn xuất hiện trong nhiều trường hợp khác của tài liệu Phật giáo, mà mỗi trường hợp đó đều là mở đường cho sự nhập thế.

Xét về giáo lí của Phật giáo, ở đó có bộ phận đề cập đến điều kiện của xuất thế, nhưng thực ra đó là sự giải quyết các công việc của trần thế. Chẳng hạn nguyên lí “Đạo đế” trong “Tứ diệu đế” (khổ, tập, diệt, đạo), nguyên lí “Giới học” trong “Tam học” (giới, định, tuệ), nguyên lí “Lục độ” (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ) trong “Lục độ tập kinh”, v.v… là những vấn đề như thế. Chẳng lẽ giới sát, giới đạo (không trộm cắp), giới tà dâm, giới vọng ngữ, giới tửu trong “Ngũ giới”, hoặc bố thí, nhẫn nhục trong “Lục độ” lại không phải là công việc của trần thế hay sao?

Hướng tới xuất thế mà lại đề cập đến những vấn đề trần thế, mới xem tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng thực ra ở đó có lí do của nó. Phật giáo không chỉ giác ngộ cho một người mà còn giác ngộ cho nhiều người, cho cả chúng sinh mà giữa chúng sinh, giữa người với người thì quan hệ nổi lên là quan hệ đạo đức, có đạo đức hướng thiện thì mới có thể tác động lôi kéo người khác, mới hi vọng đạt được thiện báo. Các vấn đề “giới” và “độ” trên thực chất là các vấn đề đạo đức của trần thế. Giải quyết vấn đề đạo đức, vô hình trung, nhà Phật đã giải quyết các vấn đề của trần thế.

Xét về sự truyền bá và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Phật giáo vào Việt Nam từ đầu Công nguyên. Giai đoạn đầu cũng như các giai đoạn tiếp theo, nó luôn gắn bó với vận mệnh của dân tộc và chịu sự chi phối của ý thức dân tộc. Vì vậy, người tu hành theo Phật giáo có lúc do yêu cầu của chính sự cũng đứng ra làm tham mưu chính trị, quân sự, ngoại giao cho triều đình mà không bị xem là người phản đạo. Nhiều nhà sư trong thời kì Đinh, Tiền Lê, Lý là những người như thế.

Họ đã là chỗ dựa cho phương pháp xử thế của những người tu hành về sau. Người ta từ đó có thể vừa làm việc đạo, vừa làm việc đời mà không bị chê trách.

Xét về môi trường văn hoá chung của Phương Đông. Cũng như các nước phương Đông khác, Phật giáo ở Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với Nho giáo và Đạo giáo. Mối liên hệ ấy, ngoài tính chất là có sự phân công trong cùng một thế giới quan như Trần Thái Tông đã nói trong Lời tựa “Thiền tông chỉ nam”, mà còn có sự ảnh hưởng lẫn nhau, trước hết là ảnh hưởng của Nho giáo đến Phật giáo và ngược lại cũng có ảnh hưởng của Phật giáo đến Nho giáo, làm cho trong mỗi một giáo, ngoài phần chính của giáo lí mình còn có pha trộn thêm các giáo lí khác mà người trong cuộc vẫn cảm thấy tự nhiên, mà khi hành động, họ đã sử dụng một tư tưởng, một việc làm của một đạo khác mà không cần thiết phải phân biệt rạch ròi.

Một số nhà sư Việt Nam trong quan niệm của mình có xen lẫn yếu tố của Nho giáo mà không tự biết. Trần Nhân Tông cũng là người ở trong trường hợp như thế.

Sự đề cập đến vấn đề trần thế của Phật giáo, sự chấp nhận các bước vận động của trần thế trong các nhà sư thế hệ trước, sự giải quyết các vấn đề có tính chất trần thế trong giáo lí nhà Phật, là những tiền đề khách quan có thể khiến các nhà tu hành thực hiện một bước chuyển từ xuất thế đến nhập thế. Nhưng khả năng ấy chỉ có thể biến thành hiện thực một khi chủ thể là các nhà tu hành có các yếu tố chủ quan cần thiết đủ để tạo ra bước ngoặt. Các nhà sư, các nhà thiền học đương thời thiếu các yếu tố này. Chỉ có Trần Nhân Tông với cuộc đời hoạt động của ông, với tính cách của ông, khiến ông tạo được sự sẵn sàng cho sự thực hiện bước nhảy.

Trần Nhân Tông lên làm vua năm 20 tuổi (1278), năm 35 tuổi nhường ngôi cho con và lên làm Thái thượng hoàng (1293), năm 40 tuổi (1298) lên Yên Tử đi tu, năm 50 tuổi thì mất (1308). Trong thời gian ông làm vua, Việt Nam phải hai lần chống trả đại quân xâm lược của Nguyên - Mông (1285 và 1288). Với tư cách là người đứng đầu triều đình, ông hiểu rõ sự gian khổ và quật cường của nhân dân mình, đồng thời thấy rõ và thực hiện được trách nhiệm của người làm vua. Ý thức trách nhiệm này không dễ gì mất đi khi ông đi tu. Chỉ có khác là ở hoàn cảnh biểu hiện mà thôi. Trong giai đoạn làm vua thì biểu hiện đó là trách nhiệm của con người trần thế, trong giai đoạn đi tu thì đó là trách nhiệm của con người tu hành còn mang nặng việc đời.

Trong thời kì làm vua, Trần Nhân Tông tỏ ra là con người quyết đoán, có nhiều sáng tạo trong tư duy và hành động. Khi giặc tiến đánh Thăng Long, ông không cố thủ với thành mà cùng vua cha rút ra khỏi kinh thành rồi tổ chức lực lượng đánh lại. Ông đã cùng với vua cha tổ chức nên hai cuộc hội nghị chưa từng có trong lịch sử, đó là hội nghị các tướng lĩnh ở Bình Than bàn mưu kế đánh giặc, và hội nghị các bô lão có thế lực trong cả nước ở điện Diên Hồng, Thăng Long đểtạo nên một ý chí, một khí thế quyết chiến. Tố chất quyết đoán và sáng tạo đó đã giúp ông tạo nên những nét mới trong thiền phái của mình.

Cũng như các nhà thiền học Việt Nam đương thời, Trần Nhân Tông quan niệm Phật là tâm, tâm là Phật, Phật ở trong tâm của mình. Ông nói: “Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ 3); “Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt, đến cốc hay chỉn Bụt là ta” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ 5); “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ 10). Quan niệm trên, ngoài tính chất chung của Thiền tông, còn có ý nghĩa riêng đối với ông. Đó là “tâm” do bản thân mình quyết định, bản thân mình thể nghiệm. Tâm đó ngoài giáo lí cổ truyền, còn có nỗi niềm về thế sự của ông. Tác phẩm của ông đã chứng tỏ điều này.

3. Những biểu hiện của tư tưởng nhập thế trong tác phẩm Thiền học của Trần Nhân Tông

Điều mà nhiều người đã nói tới, đó là trong tư tưởng Trần Nhân Tông có yếu tố của tư tưởng Đạo gia. Hiện tượng này là có thật. Đây đó trong tác phẩm của ông có màu sắc của đạo Lão - Trang. Chẳng hạn ông nói:

“Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm,

Lòng danh lợi lạnh như trận mưa đêm”

(Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn)[11]

“Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính

Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm.”[12]

“Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý,

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.”[13]

Không quản đến thị phi (phải trái), không màng đến danh lợi, luôn sống tự do tự tại thể hiện lên màu sắc hư vô, vốn là tư tưởng của Đạo gia. Mang tư tưởng này khiến cho xu hướng nhập thế của

Trần Nhân Tông không được trọn vẹn. Tuy vậy, tư tưởng này chỉ là một bộ phận nhỏ, xuất hiện trong một lúc nhất định, không làm mất bản chất nhập thế của tư tưởng Trần Nhân Tông.

Khác với các nhà thiền học khác, Trần Nhân Tông tuy xuất gia, song ông không lìa bỏ thế gian. Trái lại, thế gian lúc nào cũng sâu nặng trong ông. Tư tưởng này được thể hiện rõ nhất trong bài “Cư trần lạc đạo phú”, lúc ông chuẩn bị xuất gia và phần nào trong bài “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”, lúc ông đã khoác áo nhà tu hành.

Thế gian mà Trần Nhân Tông quan tâm không phải là nỗi khổ của con người nói chung, hoặc các con đường để thoát khổ, mà là những vấn đề của thế sự, của thời cuộc. Đó là vận mệnh của giang sơn Đại Việt, là đạo làm người của thần dân và cũng là của chúng sinh.

Ông quan tâm đến vận mệnh của giang sơn đất nước, vì Tổ quốc thân yêu này đã hai lần bị tổn thương và có nguy cơ bị triệt hạ, do sự xâm lược của Nguyên - Mông. Ông thấy phải bảo vệ nó, làm cho nó được vững bền:

“Xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc

Sông núi này sẽ bền vững nghìn đời như âu vàng!”

(Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu!)[14]

Lúc sắp đi tu, ông còn thấy phải ca ngợi cảnh thái bình của đất nước sau bao năm tháng chiến đấu gian khổ mới đạt được:

“Địch chăng có lỗ, cũng bấm chơi xướng thái bình ca”[15]

Nói như vậy vừa là để tự hào vừa là để nhắc nhủ trách nhiệm cho các thế hệ tiếp theo.

Cuốn sách luôn được các nhà hoạt động chính trị - xã hội thời xưa tìm hiểu và nghiền ngẫm là “Kinh Dịch”. Trong đó bàn bạc về lẽ biến dịch của trời đất, của con người, cũng được ông nâng niu khai thác:

“Sách Dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn yêu châu báu”

(Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ nhất)

Việc thiên hạ, việc đất nước thực sự vẫn còn tác động đến ông trong lúc ông đã ngả về phía tu hành theo đạo Phật.

Bên cạnh vấn đề giang sơn đất nước, Trần Nhân Tông còn đặt nặng vấn đề đạo làm người. Khách quan mà nói, là Phật tử, Trần Nhân Tông phải nói tới đạo làm người của Phật giáo, như nói: “dứt trừ nhân ngã”, “hết tham sân”, “biết chân như”, “tin bát nhã”, v.v… Hoặc nói người Phật tử phải bắc cầu cho người sang sông, chở đò cho người tới bến, phải biết hi sinh thân mình để cứu vớt người khác, phải biết từ bi tế độ, “dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu; săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc”, v.v… Đó là những nguyên tắc làm người cao cả của Phật giáo mà con người trong xã hội cần thiết phải tuân theo. Nhưng ông không quên đưa đạo làm người của Nho giáo, một đạo làm người mang tính nhập thế vào trong tư tưởng của ông.

Từ trong Nho giáo, ông lưu ý con người phải coi trọng thái độ đối với vua, với thầy học và với cha (quân, sư, phụ). Ông nói: “Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”, “Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo” (tức chưa báo đáp được - NTT)[16], “vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo”[17]. Ngoài ra ông còn nhấn mạnh vai trò của tư tưởng nhân nghĩa đối với con người. Ông nói: “Dầu hay mến thửa nhân nghì (nhân nghĩa - NTT.), ba phiến ngói yêu hơn lầu gác” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ hai), “Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca” (Cư trần lạc đạo phú. Hội thứ tư). Tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo ở đây đã trở thành một phạm trù của đạo đức Phật giáo, của Thích Ca!

Đạo đức từ bi của Phật giáo và đạo đức tông pháp của Nho giáo vốn là hai lĩnh vực có tính chất khác nhau, nhưng tư tưởng nhập thế của ông đã khiến cho hai loại đạo đức đó nhập lại làm một, ở đó không những không chống đối nhau mà còn hỗ trợ cho nhau để trở thành một đạo đức hoàn thiện, cần thiết cho con người lúc bấy giờ.

Để người đương thời chấp nhận tư tưởng của mình, Trần Nhân Tông chủ trương hướng tới cái thực tế, xa lánh cái siêu hình. Những gì mang tính chất siêu hình, dù đó là cái cao siêu có ích cho tư duy con người của Phật giáo, ông cũng bỏ qua, cho rằng không cần phải khổ công ghi nhớ. Chẳng hạn trong các kinh Phật hay dùng bốn câu: khẳng định, phủ định, phức khẳng định, phức phủ định để phân loại hình thức của các pháp, hoặc giải thích các loại nghĩa lí, gọi là “hữu cú”, “vô cú”, hoặc “tứ cú phân biệt”, ông đều cho đó là phiền phức, vô căn cứ và vô ích[18]. Nhận thức này của ông tuy nông cạn, nhưng sự truyền đạt chú trọng thực tế của ông dễ đi được vào lòng người.

Đương thời có một số nhà Phật học có  thế lực, muốn tạo ra một khuynh hướng mới trong tập thiền và truyền thiền, như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng họ không làm được. Trần Thái Tông thì chưa tạo được nét riêng, Tuệ Trung Thượng Sĩ thì quá − tự do, phóng khoáng, ít người theo kịp. Chỉ có Trần Nhân Tông với xu hướng nhập thế của mình, đã đáp ứng được yêu cầu của đương thời, nên nhiều người tin theo và trở thành một Thiền phái.

* * *

Đi theo Phật giáo nhưng mang tư tưởng nhập thế thì trước thời Trần đã có, như nhà sư Đỗ Pháp Thuận đã hết lòng khuông phò nhà Tiền Lê, nhà sư Ngô Chân LƯu, do có công với triều đình nên được Đinh Tiên Hoàng ban cho hiệu là “Khuông Việt đại sư”, nhà sư Vạn Hạnh hiểu được biến cố chính trị đương thời, đã giúp Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra triều Lý. Nhưng ở các nhân vật này hàm chứa hai con người riêng biệt: con người triều thần và con người Phật tử. Lúc ra giúp việc triều đình thì con người triều thần xuất hiện, lúc trở về tu hành thì con người Phật tử hiện ra. Hai mặt đó chưa thống nhất trong một con người. Còn ở Trần Nhân Tông thì lúc làm vua vẫn mang tư tưởng Phật giáo, lúc đã xuất gia vẫn mang nặng nỗi niềm nhập thế. Tôn sùng Phật giáo và nhập thế hành động luôn là một trong con người ông. /.


[1] Đại Việt sử kí toàn thư, tập II, Nxb. KHXH, HN, 1993, tr. 77.

[2] Hoà thượng Phúc Điền. Đại Nam thiền uyển kế đăng lược lục, khắc in khoảng năm 1858.

[3] Từ điển bách khoa Việt Nam, tập IV, Nxb. TĐBK, HN, 2005, tr. 1092.

[4] Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển Thượng, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr. 685.

[5] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr.710.

[6] Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tái bản lần thứ nhất, Nxb. KHXH, HN, 1991, tr. 265.

[7] Theo “Tam tổ thực lục”. Thập thiện: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói xằng bậy, không sử dụng hai giọng lưỡi, không dùng lời nói ác, không nói lời hoa mĩ, không tham dục, không giận dữ, không tà kiến.

[8] Thơ văn Lý Trần, tập I. Nxb. KHXH, HN, 1977, tr. 526.

[9] Thơ văn Lý Trần, tập I. Nxb. KHXH, HN, 1977, tr. 339.

[10] Thơ văn Lý Trần, tập I. Sđd., tr.350.

[11] Thơ văn Lý Trần, tập II. Sđd., tr. 469.

[12] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 505.

[13] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 505.

[14] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 483.

[15] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 507.

[16] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 507.

[17] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 508.

[18] Thơ văn Lý Trần, tập II, Sđd., tr. 486-487.

..............................

Nguồn: Tạp chí Nghiên cu Tôn giáo, số 11 –2009, tr.13-20.

Văn xuôi sáng tạo về đề tài lịch sử đương đại có không ít tác phẩm khai thác đời sống tính dục, đặc biệt là tính dục của các nhân vật lịch sử được coi là thần tượng, huyền thoại dân tộc. Kể từ chùm truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp (Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam) đến tác phẩm gần đây nhất của Trần Thanh Cảnh (Đức Thánh Trần) ngót đã 30 năm nhưng vấn đề này vẫn luôn là một trong những mối quan tâm đặc biệt của các nhà văn viết về đề tài lịch sử, và là tâm điểm trong nhiều cuộc trao đổi, tranh luận của cộng đồng diễn giải. Bởi lẽ lằn ranh giữa sự sáng tạo, luận giải và sự bịa đặt, tùy tiện vốn đã rất mong manh khi viết về nhân vật thần tượng, huyền thoại, nay lại càng mong manh khi đề cập đến câu chuyện được coi là nhạy cảm, thầm kín nhất của họ: đời sống tính dục. Bằng tài năng, bản lĩnh, sự cẩn trọng, nghiêm túc, nhiều tác giả tiêu biểu đã kiến tạo quan niệm, nguyên tắc, diễn ngôn mới nhằm nhận diện, khám phá lịch sử và con người trong tính đa chiều, phức tạp, toàn diện. Đây là một trong những dấu hiệu thể hiện sự đổi mới trong tư duy, cảm thức, cách tiếp cận lịch sử của các nhà văn đương đại.   

Tính dục như là phương thức kiến tạo quan niệm mới về con người

Trong nỗ lực hoàn nguyên các giá trị, trả lại cho lịch sử chiều sâu nhân bản cùng những biểu hiện đa dạng, phức tạp của tính người trọn vẹn, các tác giả đã miêu tả nhân vật, đặc biệt là các nhân vật nữ bằng vẻ đẹp thân thể, gợi tình, giàu nữ tính. Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Võ Thị Hảo, Nam Dao, Đỗ Trọng Khơi, Sương Nguyệt Minh, Uông Triều, Trần Thanh Cảnh… đã không ngần ngại sử dụng chất liệu thân thể gợi cảm để kiến tạo nên diễn ngôn thân xác. TrongMẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh quan tâm nhiều đến vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ thông qua hình ảnh đôi vú và làn da - một biểu tượng cho vẻ đẹp mỡ màng, phồn sinh phồn thực. Trong Giàn thiêu, vẻ đẹp của Ngạn La được Võ Thị Hảo miêu tả đầy hoang sơ, mê hoặc với chiếc rốn nhỏ màu chu sa là “mơ ước muôn đời của các bậc đế vương”. Hay vẻ đẹp tinh khiết vừa e thẹn, vừa bạo dạn, cùng mùi hương trinh nữ đầy mê dụ của người con gái hái dâu Quế Lan đã đánh thức khát khao trần tục của người anh hùng Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh).

Bên cạnh ca ngợi vẻ đẹp thân thể, các nhà văn trong nỗ lực nhận diện về con người một cách thành thực, trần trụi, không tô vẽ - con người như chính sự tồn tại phức tạp trong đời sống - đã đi sâu khám phá nhân vật trong khía cạnh tự nhiên, bản năng và nhân bản nhất. Trong Thế kỉ bị mất, Phạm Ngọc Cảnh Nam vừa miêu tả Lụa với vẻ đẹp đằm thắm, đậm đà vừa khai thác tinh tế những rung động thầm kín, thẳm sâu của người đàn bà. Nguyễn Quang Thân (Hội thề) đã đưa nhân vật Thị Lộ trở về với kích cỡ của một người đàn bà, với những đòi hỏi, khát khao và cả những ước mơ rất đỗi đời thường. Miêu tả những hành vi dục tính, các nhà văn đã tìm cho mình một “mật mã” để khơi mở những góc khuất bí ẩn trong đời sống tâm lí con người. Những tiết đoạn tính giao được Võ Thị Hảo, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Nam Dao, Trần Thanh Cảnh… miêu tả tinh tế, đầy tính ước lệ, tượng trưng. Với các tác giả đây như là phương thức hữu hiệu tiếp cận, khai thác con người bản năng, vô thức, qua đó lí giải những “vết hằn” trong cuộc đời mỗi con người, nhất là với các vĩ nhân dân tộc. Trong Giàn thiêu, lần ái ân duy nhất với Nhuệ Anh trên con đường hành cước đã ám ảnh suốt một đời về khát vọng không thỏa của Từ Lộ, để rồi cứ “khát” và “nhớ” một điều gì đó vô hình. Sự hiến dâng trinh tiết của Xuyến (Đất trời  - Nam Dao) cùng những đêm nồng nàn tình tự như một điểm tựa bình yên cho Nguyễn Trãi trong những ngày sóng gió ở thành Đông Quan. Cảm giác nhục thể có được từ kinh nghiệm tình dục ban sơ cùng nỗi ám ảnh, mặc cảm tội lỗi khi vô tình gây ra cái chết tức tưởi của người tình nhỏ bé tội nghiệp đã trở thành nỗi đau thầm kín trong tâm thức Nguyễn Trãi ngay cả khi ở đỉnh cao của sự nghiệp và gặp được tri âm tri kỉ Thị Lộ. Buổi giao tình của Quốc Tuấn với công chúa Thiên Thành trong đêm hội Mo Nang và Quế Lan bên nương dâu xanh ngát đã để lại cho người anh hùng dân tộc những dư vị vừa ngọt ngào, mê đắm vừa nuối tiếc, nhớ thương về một thời trai trẻ với nhiều khát khao, cuồng nhiệt (Đức Thánh Trần).

Tình yêu, dục cảm chính là kết tinh của niềm khao khát được sống thành thật, không che giấu với những gì mình có. Tiếng nói của bản năng con người tự nhiên trở thành tiếng nói thiêng liêng và sâu thẳm nhất, khiến các nhân vật lịch sử “trở mình” sống lại và hơn nữa, được sống như-là-chính-mình. Soi rọi Trần Khánh Dư từ cái nhìn ấy, Uông Triều trong Sương mù tháng Giêng đã khám phá những góc khuất trong tâm hồn, những khát khao thầm kín, thành thực, rất đời, rất người ở nhân vật này. Chấp nhận tất cả để được sống với chính cảm xúc của mình, Khánh Dư hiện lên như một con người của dục vọng, sẵn sàng quên trời quên đất, quên phép tắc, định kiến khắc nghiệt, sống hiện sinh, hết mình với phút giây hiện tại. Mối tình oan nghiệt với Thiên Thụy không đơn thuần chỉ là tiếng gọi của thể xác, dục vọng nguyên sơ mà nó còn trở thành sự nuối tiếc, nỗi day dứt, niềm khát vọng suốt một đời không thỏa của ông.
Có thể nói, tính dục đã trở thành mẫu số chung, nơi gặp gỡ của nhiều nhà văn trong quá trình tiếp cận, miêu tả và nhận diện trọn vẹn con người. Quan niệm về tính dục như một thiên tính tự nhiên, con người như là một sản phẩm của tự nhiên đã giúp cho người nghệ sĩ có cái nhìn chân thực hơn, “người” hơn và theo đó, cách đánh giá cũng độ lượng, giàu tính nhân bản hơn về các nhân vật lịch sử.

gian thieu vo thi hao
 Ảnh minh họa


Tính dục như là phương thức luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa

Để thể hiện cái nhìn mới về lịch sử, các nhà văn đã đặt các nhân vật trong vô vàn mối quan hệ đời thường, xoáy sâu vào phần khuất lấp và bi kịch nội tâm, nơi có sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối, phi thường và đời thường, hữu thức và vô thức, khát vọng và dục vọng nhằm tìm ra “tiếng nói tối hậu về con người”. Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã đưa ra những “giả thuyết” mới mẻ về nhân vật lịch sử và cũng là nhân vật huyền thoại tôn giáo - Từ Đạo Hạnh. Khi đã đạt đến đỉnh vinh hoa cùng sự ngưỡng vọng, tôn thờ của mọi người, con người dục vọng trong Từ chưa bao giờ ngủ yên. Ngọn lửa sắc dục luôn thiêu đốt ông từng đêm, con rắn độc phiền não luôn chực chờ thức dậy để vò xé, làm khổ ông. Để rồi thiền sư quyết định bỏ rơi đệ tử, đầu thai vào nhà Sùng Hiền hầu, chờ đợi mười hai năm sau trở thành hoàng đế Thần Tông. Suy cho cùng, lịch sử chỉ là cái cớ để nhà văn bộc lộ những trăn trở về thân phận con người và luận giải những vấn đề nhân sinh có tầm phổ quát.

Miêu tả tính dục, soi rọi dưới nhãn quan lịch sử - văn hóa - nhân văn, Sương Nguyệt Minh, Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khắc Phục, Trần Thanh Cảnh… đã đối thoại nhiều vấn đề lịch sử, văn hóa và luận giải tấn bi kịch của con người trong quá khứ. Trong Dị hương, Sương Nguyệt Minh qua bộ ba Nguyễn Ánh - Ngọc Bình - Trần Huy Sán đã luận giải hai vấn đề: cái đẹp trong sự kiềm tỏa, bao vây, trấn áp của chiến tranh (lúc này đồng nghĩa với cái ác) và thân phận của bậc kì tài sinh bất phùng thời, suốt một đời mải mê đi tìm cái đẹp, khát vọng lập công danh nhưng không tìm thấy minh chủ xứng đáng. Nhà văn đã dày công miêu tả những tiết đoạn giao hoan của Nguyễn Ánh và Ngọc Bình gắn với nhiều chi tiết kì ảo, hoang đường. Cái chết của Ngọc Bình như là biểu tượng cho dị hương - cái đẹp mong manh, thanh cao, tinh khiết bị hút cạn bởi sức mạnh tà hương - kết vón từ mùi máu tanh tưởi, mùi binh khí đối chạm khét lẹt.

Sự thức tỉnh về thiên tính tự nhiên, về đời sống vô thức cộng đồng là một tạo tác xuất phát từ tâm thức, văn hóa dân tộc trong sự tiếp biến, xâm nhập của văn hóa ngoại lai. Các nhà văn giai đoạn này đã tìm thấy trong đời sống tính dục của con người mảnh đất để chuyên chở những thông điệp đến hiện tại từ quá khứ. Từ quan niệm về nguyên lí Mẫu trong văn hóa Việt đến sự ra đời của Mẫu Thượng Ngàn, hơn ai hết Nguyễn Xuân Khánh đã chiêm nghiệm, lí giải truyền thống “trọng nữ” một cách sâu sắc và vẹn tròn. Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn tiểu thuyết này đông đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật nữ. Họ không những mang vẻ đẹp của sự thánh thiện, hoàn mĩ mà còn là vẻ đẹp của sức sống, sự mơn mởn, của khát khao cháy bỏng đẫm màu phồn sinh phồn thực. Vẻ đẹp tự nhiên ấy có một sức cám dỗ, gợi tình mạnh mẽ. Nó không chỉ mang lại cảm hứng xác thịt mà còn ẩn chứa một sức mạnh có thể cảm hóa, thức tỉnh con người. Tiết đoạn tính giao giữa Mùi và Philippe không đơn thuần là sự chung đụng xác thịt giữa người đàn ông và người đàn bà, đó thật sự là cuộc đối thoại ngầm giữa kẻ chinh phục - người bị chinh phục, văn hóa ngoại lai - văn hóa bản địa, sức mạnh cương cường - vẻ đẹp dịu dàng. Trong cuộc đụng độ Đông - Tây quyết liệt này, dường như chỉ có sức mạnh của người đàn bà giàu sức sống, đằm thắm, dịu dàng, cam chịu, gánh vác mới neo giữ được bản sắc trong văn hóa Việt. Bởi điều đơn giản mà vô cùng thiêng liêng là “Người đàn bà là Mẫu, là Mẹ. Người đàn bà là đất xứ sở. Người đàn bà là văn hiến”.

Trần Thanh Cảnh trong Đức Thánh Trần đã rất tinh tế khi sử dụng hai biểu tượng Lửa và Nước để miêu tả về mối tình oan nghiệt của công chúa nhà Trần An Tư (nước) và hoàng tử thứ chín nhà Nguyên Thoát Hoan (lửa). Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt, lửa và nước mang ý nghĩa của sự hủy diệt khốc liệt: lửa đốt cháy kinh thành Thăng Long, nước vùi dập quân Nguyên xâm lược. Trở thành con bài trong cuộc chiến cam go, An Tư mang sứ mệnh giăng bẫy tình khiến chủ soái đoàn quân chinh chiến nhà Nguyên mê mẩn sắc dục, quên việc quân để vua tôi nhà Trần có thời gian chuẩn bị lực lượng, kế sách mới. Nguồn nữ tính tràn trề, bất tận, dịu dàng (An Tư) đã xoa dịu, hóa giải cái hung tợn, hoang dã, bạo liệt (Thoát Hoan) khiến vị tướng trẻ kiêu dũng nhà Nguyên trở nên yếu đuối, ngờ nghệch, mải mê đáp ứng nhu cầu tình dục của bạn tình; đặc biệt biết rung động cảm xúc trong trẻo, lạ lẫm trước nàng công chúa Đại Việt. Trần Thanh Cảnh ở một khía cạnh nào đó đã khai thác thành công đời sống tình dục của nhân vật ở giá trị cứu rỗi, điều hòa, thức tỉnh; đồng thời giải mã hợp lí những điểm mờ mà lịch sử bỏ sót khi chép về cuộc đời và số phận bí ẩn của An Tư.

Khám phá về sự huyền bí của tôn giáo, về con đường đắc đạo của người tu hành, Đỗ Trọng Khơi trong Hành trạng tâm linh có những lí giải sâu sắc khi soi chiếu bản năng tính dục của con người dưới ánh sáng của tư tưởng Thiền tông. Đây thật sự là một cuộc đối thoại giữa Tâm và Thân, giữa Đạo và Sắc Dục trên con đường giác ngộ. Nhà văn đã có những trang phục bút miêu tả những biến chuyển tế vi trong “bản thể người”, “bản nguyên dục tính” của Tuệ Trung Thượng Sĩ trước cám dỗ sắc dục lồ lộ của Trầm Nga. Bức họa cuối cùng họa khỏa thân trực diện nàng Trầm Nga như một ranh giới thiêng liêng từ cõi tục bước vào cõi thiền, giữa dâm tục và nghệ thuật, giữa Tâm Đạo và Dục Vọng của Tuệ Trung. Sau khi những nét phác họa thân thể đã hoàn chỉnh, đến lúc họa tiết điểm cơ thể âm tính của Trầm Nga khiến Ngài lúng túng giây lát. Trong khoảnh khắc đốn ngộ, thật bất ngờ khi Tuệ Trung vung bút dứt khoát họa một đài hoa sen vào nơi ấy. Một biểu tượng thiêng liêng của Phật đài lại được họa vào dấu hiệu giới tính của một người phụ nữ. Người đàn ông - Nghệ sĩ - Thiền sư đã ở vào tâm điểm giao giữa Tâm và Thân ở nơi cùng tận của chuyến đò qua sông bản thể. Chính cái giây phút bông sen được mọc lên từ phần âm thế giới tính, sắc dục ấy, Tuệ Trung Thượng Sĩ đốn ngộ. Và sự thoát ngộ của Bùn và Sen, của nữ sắc dục cảm và tinh thần siêu thoát, hai trạng thái hóa ra làm một, như hai dòng sông hòa vào một biển cả duy nhất. Nàng Trầm Nga - người đàn bà minh triết (trong quan niệm của giáo phái Mật tông) sau khi chứng ngộ đã bốc cháy thành một cây hỏa ngọc. Vậy là Mật tông đưa con người ta vào cõi sống với cách đánh thức tận gốc rễ bản thể - bản năng dục của con người, từ đó giúp con người đạt đến thể tính nguyên sơ vô sắc giới của mình.

Rõ ràng, tình yêu, dục cảm tự nhiên trở thành tiếng nói thiêng liêng và sâu thẳm, khiến các nhân vật lịch sử “trở mình” sống lại và hơn nữa, được sống như-là-chính-mình. Bên cạnh những dấu ấn và thành tựu, vẫn còn đó những tác phẩm chưa sử dụng yếu tố tính dục một cách chừng mực, thậm chí nhiều khi quá lạm dụng yếu tố này khiến chân dung nhân vật bị méo mó, không thật và chưa thể chạm tới chiều sâu nhân bản, giá trị văn hóa và hằng số lịch sử. Một vài cây bút nhân danh đổi mới, tinh thần dân chủ, tự khoác cho mình quyền năng sáng tạo, hư cấu; khai thác quá mức các yếu tố thuộc bản năng tính dục làm méo mó, lệch lạc cái nhìn về các nhân vật được cộng đồng, dân tộc ngưỡng vọng, chiêm bái như Nam Dao với Gió lửa, Trần Vũ với Gia phảMùa mưa gai sắc, Nguyễn Thúy Ái với Trở về Lệ Chi Viên… Một khi các yếu tố bản năng bị dịch chuyển khỏi các giá trị văn hóa của cá nhân và cộng đồng, của cảm xúc thiêng liêng, trong sáng, thánh thiện thì con người sẽ đánh mất đi nhân tính, biến thành một sinh vật tầm thường và văn học mất đi ý nghĩa tồn tại đích thực của nó. Đây là điều hết sức đáng tiếc và các nhà văn nên hết sức tránh.

N.V.H

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 20.4.2018.

Đoàn Trọng Huy (*)

Nhà văn nào chọn nghề viết cũng có sức lực. Làm nghề lâu hay chóng, khoẻ hay yếu là nhờ sức vóc. Được xếp ngôi thứ, đẳng cấp là do thành tựu – tức công sức thực tế trong quá trình sáng tác.

Nguyễn Bắc Sơn đã là một tên tuổi nổi lên thời đổi mới – trong vòng hơn hai thập kỷ nay.  Đó là người giàu tiềm lực – tri thức, có vốn sống trải nghiệm thực tiễn xã hội phong phú, qua một đời dạy học, làm công tác văn hoá và tham gia quân đội. Nhà văn đã thể hiện một năng lực viết mạnh mẽ với hàng loạt tác phẩm thành công có giá trị, chủ yếu là các bộ tiểu thuyết luận đề mới.

 Đây cũng là trường hợp được dư luận văn đàn nhất trí tán đồng. Nhà văn “gạo cội”, cây tiểu thuyết số 1 làng văn hiện nay Ma Văn Kháng đã khẳng định: “Nguyễn Bắc Sơn – nhà văn của thể loại tiểu thuyết luận đề đang trên đà sung sức” (Cuộc vuông tròn tính làm sao đây – Lời giới thiệu Cuộc vuông tròn, Hội Nhà văn, 2017).

I/ SỨC XÔNG XÁO, LĂN LỘN VÀO HIỆN THỰC HÔM NAY

“Đi và viết”, “Sống và viết” là phương châm hành động hàng đầu của các nhà văn chân chính, có tầm vóc thời hiện đại, như những tấm gương sáng – Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu,...

Thời nào cũng vậy, tuy nhiên đặc biệt là thời đại hiện nay.

Thời nay là chuỗi những ngày hiện tại của lịch sử đầy sôi động, biến hoá  trong cuộc đấu tranh quyết liệt – nơi chiến trường qua 30 năm (1945 – 1975). Tiếp đó là sự đổi thay ghê gớm hàng ngày, hàng giờ trên mọi lĩnh vực xã hội của công cuộc xây dựng, đổi mới và hội nhập của đất nước.

Đặc biệt, từ sau thời Đổi mới và Hội nhập khu vực và quốc tế, đất nước bước vào thị trường toàn cầu, đã tạo ra cục diện mới, tác động đa chiều – các thách thức và cơ hội.

Cuộc cách mạng công nghiệp đã cập nhật lên phiên bản 4.0. Mạng Internet được đưa vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI đã và đang phát huy sức mạnh của nó trong một thế giới phẳng hôm nay. Con người Việt Nam – nghiễm nhiên trở thành công dân toàn cầu trong “thời đại a còng” (@), “thời đại bấm nút”.

Khủng bố, bạo lực, độc tài, bá quyền… đang đe doạ, chiến tranh  cục bộ kiểu mới ngày một diễn biến phức tạp giữa các thế lực trên thế giới. Các quốc gia cũng đang đứng trước những thách thức và biến động mới. Trong tình thế ấy, một Chính phủ kiến tạo đang được xúc tiến hình thành và phát triển nhanh chóng.

Ngày hôm nay đang là một điệp khúc của bản giao hưởng nhân sinh. Cũng là lời kêu gọi hành động khẩn thiết tới những con người trí tuệ và tâm huyết của đất nước.

Trước đây, Nguyễn Khải đã từng phân tích và làm rõ cái Ngày hôm nay của một thời.

Ngày nay, Ma Văn Kháng tiếp tục phân tích, nhận xét, nghiên cứu và chiêm nghiệm cái Ngày hôm nay kỳ diệu ấy khi đọc tác phẩm của Nguyễn Bắc Sơn: “Cuộc sống ngày hôm nay, hiểu theo nghĩa rộng. Cuộc sống ngày hôm nay với bao trăn trở, bức bối. Cuộc sống ngày hôm nay, một phức điệu (...) Quả thật là không dễ dàng gì để xác định chuẩn trước những biến động đến chóng mặt của cuộc sống hôm nay” (bài đã dẫn).

Vậy là, Ma Văn Kháng đã giới thiệu sự xuất hiện, tư thế và khuynh hướng của Nguyễn Bắc Sơn trong cuộc sống và trên văn đàn trong Ngày hôm nay qua tác phẩm đậm chất thời sự - thời  đại.

 Điều quan trọng nhất là sự xuất hiện đúng lúc, “gặp thời” – nói như Nguyễn Khải. Hoàn cảnh sẽ đưa nhà văn lên bệ phóng. Người cầm bút thế hệ mới  đã giàu trải đời thấy cần phải viết như đáp ứng tiếng gọi của cuộc sống và sự thôi thúc của lương tâm.

Nhà văn  xông thẳng vào hiện thực Ngày hôm nay – một hiện thực ngổn ngang, bề bộn biến động thời Đổi mới với nhiều thành tựu kỳ diệu, hào sảng, nhưng cũng có không ít sự đổ vỡ bi kịch trong va đập, đối chọi dữ dội giữa cái mới và cái cũ.

Bám sát với dòng chảy thời cuộc, giáp mặt với sự kiện thời sự nóng hổi là quyết tâm mạnh mẽ và định hướng rõ rệt để viết. Đó là sự tập trung  sau ít năm, có phần tản mạn qua ký và tuỳ bút: Người dẫn đường trời, Văn hoá Thông tin, 1999; Hoa lộc vừng, Hội Nhà văn, 1999; Hồng Hà ơi, Hội Nhà văn, 2000.

Khai mở và bứt phá với truyện, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết chính trị – thời sự là một lựa chọn chính xác của Nguyễn Bắc Sơn – hợp với cái tạng tư duy và hứng thú riêng.

Luật đời – tập truyện vừa và ngắn (Thanh niên, 2003, 2004) là phát súng mở màn, và Luật đời và cha con – tiểu thuyết (Hội Nhà văn, 2005) là tiếng nổ vang của đại bác. Đây là sự bùng nổ của những vấn đề xã hội bức xúc nhất đang được đặt ra.

Tác phẩm xuất hiện như một sự kiện, cũng là hiện tượng của văn học. Có tới 50 bài giới thiệu, trao đổi, bình luận trên báo in, báo điện tử. Lửa đắng tiếp tục như cặp đôi tác phẩm (Lao động, 2008) nối mạch luận đề qua tư duy tiểu thuyết.

Sự xuất bản kỷ lục – tới  8 lần của Luật đời và cha con trong thời gian rất ngắn, sự chuyển đổi thành kịch bản phim truyền hình dài 26 tập, đồng thời tác phẩm đã đưa Nguyễn Bắc Sơn lên thành hiện tượng của văn đàn.

II/ SỨC TIẾN CÔNG VÀO NHỮNG NGANG TRÁI TRONG  “LUẬT ĐỜI

Nhà lãnh đạo Hữu Thỉnh đã khen ngợi một hành động xung phong của đồng nghiệp, đồng ngũ cựu chiến binh Nguyễn Bắc Sơn: “Mảng văn học tham gia trực tiếp vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập có những đại diện xuất sắc như Nguyễn Bắc Sơn”. Và kêu gọi: “Các nhà tiểu thuyết cần xông vào những vấn đề nóng bỏng”.

Vũ Duy Thông, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo Chí, Ban Tuyên giáo Trung ương đã nhận xét: “Cùng hướng tới miêu tả cuộc đấu tranh nhằm giải quyết xung đột giữa cũ và mới, cụ thể là cuộc đấu tranh để đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ, nhưng Luật đời và cha con tập trung vào cuộc xung đột và việc giải quyết xung đột giữa các thế hệ còn Lửa đắng xoay quanh một luận đề khác, vấn đề của cải cách hành chính”.

 Vậy là, đèn xanh đã được bấm nút cho mach sáng tác tuôn chảy.

 Con mắt nhìn của nhà văn đổi mới theo diễn biến tình hình xã hội. Cách quan sát tường tận, kỹ càng, khoa học, khách quan nhằm  phát hiện sự thật. Những câu hỏi và lời đáp cũng là từ thực tiễn mà ra. Tất cả đều phải xuất phát từ một tâm huyết và một tấm lòng quả cảm. Độc giả và nhiều bạn văn cũng đã nhận ra điều ấy.

Vì không phải chịu một áp lực nào, nhà văn không né tránh những vùng cấm, bám sát những vấn đề nhạy cảm. Thẳng tiến, mạnh dạn, thậm chí táo bạo, có phần mạo hiểm nữa  như lời tự bạch và nhận xét của bạn bè.

Mạo hiểm là do nhiều nguyên nhân, và xuất phát từ nhiều phía.

Trước hết, thể loại tiểu thuyết luận đề tiềm ẩm một thách thức, cũng là nguy cơ. Chủ đề khô khan, diễn đạt vụng về, nhà văn lộ diện trực tiếp qua cái loa ngôn từ sẽ gây phản tác dụng nghệ thuật.

May thay, tài nghệ cá nhân đã vượt qua rào cản cơ bản đó. Lo lắng trở thành niềm vui. “Điều tâm đắc của người viết là chủ đề ấy, tư tưởng chủ đề ấy đã được tư duy bằng tiểu thuyết, bằng hình tượng ngôn ngữ tiểu thuyết có thể đọc liền mạch”.

Nguyễn Bắc Sơn dám nói như vậy, có phần  vì cũng đã nghe dư luận bạn đọc, bạn nghề khi khen sức hấp dẫn của tác phẩm. Phải nói là, người viết rất có bản lĩnh và đủ tự tin khi tự đặt mình trước những rào cản to lớn, đén  mức“khủng” để vượt qua.

Cuộc vuông tròn có một cuộc “hội nghị” chính sự đặc biệt được nổ ra như buổi toạ đàm, giao lưu thân mật trong gia đình. Chủ tịch kiêm Bí thư Tỉnh uỷ, và ban Thường vụ, Ông già Sơn La – cựu tù chính trị một bên; Chính – nhà tri thức ngoài Đảng một bên.

Thực chất, đây chính là trận đấu lý về chính trị, về quan điểm, nhận thức chính trị và xã hội và cả về đạo đức. Ở đây, có đấu tranh thực sự vì phía nghe có những phần thử thiếu thiện chí – tìm cách phản công, tiến công diễn giả cho đến khi họ  bị đánh bại, phải tâm phục, khẩu phục.

Một cuộc nói chuyện, kéo dài cả buổi kể từ mở đầu câu chuyện, chiếm hết 11/ 27 chương với 164 trang (87 – 250)! Cảm hứng thu hút “đọc mà không nản” được Ma Văn Kháng phân tích như biệt tài nghệ thuật của nhà văn :“ nhà tiểu thuyết chính  sự /thế sự / thời cuộc từng được thể hiện trong các tiểu thuyết Lửa đắng & Gã Tép Riu -  hai tác phẩm đều được khen ngợi nhiệt liệt

Cuộc tranh chấp chủ đề chính sự, thế sự như vậy cũng đã được giải toả.

Ngày trước văn chính luận của Nguyễn Khải có thời và có đất trong suốt 30 năm chiến tranh như một tất yếu. Đây là vấn đề thị hiếu trong tiếp nhận. Hiện nay, có hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời  chính trị” trong một bộ phận thanh niên như lời đồng chí Tổng bí thư nói trong Đại Đoàn toàn quốc lần thứ XI vừa qua

Sách ăn khách, bán chạy nổi lên thường là tiểu thuyết ngôn tình và thực dụng. Tuy nhiên, Luật đời và cha con lại được in đi in lại với số lượng rất lớn, phim chuyển thể cũng được chiếu thời gian dài, và được bình chọn là bộ phim hay nhất trong năm. Quả là một sự mạo hiểm đã đem lại thành công ngoài sức tưởng tượng.

Lại còn phải vượt rào cản từ phía quản lý văn nghệ. Hàng chục năm làm công tác quản lý báo chí,  xuất bản, mà tiểu thuyết xuất sắc bản thân , trớ trêu thay, cũng phải qua 7 nhà xuất bản, mới được phép in ấn. Bởi lẽ chưa gặp được “con mắt xanh”, mà chỉ gặp những cái nhìn rụt rè, e ngại, thậm chí nhút nhát – sợ bóng, sợ gió thôi.

Vậy là, cái căn cốt của mạo hiểm nằm ngay trong chủ đề chính trị. Nhà văn đặt cọc vào may rủi. Nếu sơ xuất, có thể nhẹ là gặp “tai nạn nghề nghiệp” lớn nhỏ tuỳ mức, nặng có khi phải bỏ nghề - “treo bút”.

Tất cả bản lĩnh là ở một chữ dám. Nguyễn Bắc Sơn dám nghĩ, dám viết, dám chịu trách nhiệm. Kể cả dám chịu chơi phải chịu trận. May mới toàn đòn gió (như trục trặc về xuất bản).

Nhà văn có một chỗ mạnh – mà không khéo vận dụng dễ thành một nhược điểm chết người.

Đó là khả năng tiên tri, dự đoán. Nguyễn Bắc Sơn có quan niệm chính xác là tiểu thuyết phải có chức năng dự báo. Nhà phê bình cũng xác nhận thành công của thực tế này qua phần giới thiệu Lửa đắng: “Bằng trực cảm tiên tri, nhà văn sẽ dự báo những gì chưa tới, nhưng sẽ tới”.

Sự dự báo có tỷ lệ đúng cao, trở thành hiện thực trong đời sống. Như về cải cách hành chính, như về tổ chức cán bộ, như về quản trị xã hội...

Tuy nhiên, cần thận trọng, chỉ nên gợi mở, đề xuất, khuyến cáo, khuyến  nghị. Nếu không, sẽ dễ bị quy chụp là dạy khôn.

Dạy đời chung chung là một nhẽ, nhưng dạy khôn Đảng, Chính phủ phải dè chừng, dự kiến thôi chứ đừng “cầm đèn đi trước ô tô”. Làm xiếc trên dây – nhất là dây “chính trị”, dễ gặp phải sa sảy mẻ trán  vỡ đầu lắm!

Vậy mà, cho đến nay, nhà văn vẫn an toàn, bình thản, Đó là đã kết hoà được cả ba yếu tố - TÂM, TRÍ và DŨNG.

Dũng hiện lên qua trong đời, cũng như qua trang viết theo mấy định hướng chính xác, mạnh dạn sau:

-                 Mở một thể tài mới như một thách thức: tiểu thuyết luận đề chính trị.

-                 Mở một khuynh hướng mới: Kết hoà chính sự và thế sự, chủ đề chính trị qua tâm lý xã hội.

-                 Tìm sự vận dụng, cập nhật có chọn lọc, hiệu quả lý luận văn học hiện đại để có sáng tạo nghệ thuật mới.

-                 Tìm một lối đi riêng đồng thời với thể hiện bản sắc, phong cách riêng.

III/ SỨC PHẢN BIỆN – KIẾN TẠO XÃ HỘI

Tự thân Nguyễn Bắc Sơn và qua các nhân vật hoá thân đã thể hiện  là một nhà văn – trí thức  có ý thức và tri thức phản biện – kiến tạo xã hội.

Nói cách khác, đã kết hoà được cả việc phê phán và xây dựng – hai mặt đối lập nhưng thống nhất với nhau – có phê phán mới có xây dựng, phê phán để xây dựng. Có nghĩa là phản biện không với ý đồ xấu chỉ chăm chăm vào “ bới lông tìm vết”, “ bới bèo ra bọ” nhằm hạ giá thậm chí hạ nhục, hạ bệ. mà chính là phải đề nghị sửa chữa, cải cách, kiến tạo.

Gã Tép Riu trong bộ tiểu thuyết cùng tên là nhân vật như vậy, nổi bật với tư cách cán bộ có trí tuệ và lương tâm, một nhà quản lý xã hội mới. Chính và Nguyễn Chí Thành là một “cặp đôi hoàn hảo” của tư duy và quản trị xã hội có tri thức văn hoá quản lý (Vỡ vụn, Cuộc vuông tròn). Họ nổi lên trong đám quan chức không có đầu óc hoặc đầu óc tha hoá của bộ máy công quyền, của thể chế hành chính.

Ba thế hệ trong Luật đời và cha con xung đột . Tác phẩm không chỉ đơn thuần là sự phê phán, mà con nổi rõ là sự tìm kiếm biện pháp hoá giải xung đột ấy. Kiên (Lửa đắng) xuất hiện như một hình mẫu lý tưởng được đề xuất, tuy số phận chịu thăng trầm, nhưng cuối cùng đã vào thế thượng phong. Con người công dân và con người xã hội ấm áp và toả sáng. Dàn nhân vật tích cực thăng tiến. Ngược lại là lực lượng trì trệ cản trở thua cuộc. Tuy phê phán mạnh mẽ không thương xót, nhưng tác phẩm vẫn toát lên âm hưởng lạc quan.

*

Nguyễn Bắc Sơn quả là một cây bút sung sức đang phát huy sức mạnh trên văn đàn đương đại. Nhà văn đã đạt được những thành công đáng nể trọng.

Đó là kết quả một đời học hỏi kinh nghiệm để trở nên thông tuệ, có một ý chí mạnh mẽ không ngừng vươn lên những đỉnh cao mới, và một quyết tâm đầy quả cảm, dám sống, dám viết.

Trong lòng độc giả, Nguyễn Bắc Sơn là hình ảnh một nhà văn lữ hành vẫn đang dồn sức bước tiếp trong hành trình khám phá và sáng tạo tới những chân trời nghệ thuật mới.

 

(*) PGS TS Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Người lạ hay Thơ trắng, những tập thơ tôi được đọc online, trên các trang Facebook và các trang văn chương mạng. Những người bạn viết cùng thế hệ của tôi, sinh ra và lớn lên từ những năm 80 của thế kỷ trước, và chúng tôi đã trưởng thành như những người của tự do với chữ nghĩa và thi ca. Chúng tôi viết và dám viết những suy nghĩ và nhận thức, sự sáng tạo của chính mình bằng tình yêu, khao khát, cả những băn khoăn, ngờ vực rồi vượt qua những mơ hồ và thực tại ấy, chúng tôi sống tự do với thi ca bằng tình yêu. 

Cuộc phỏng vấn từ xa, với 2 người đàn bà thơ xa lạ, tôi chưa hề gặp, chưa hề trò chuyện ở ngoài đời thực mà bằng online. 

Như Quỳnh de Prelle: Xin chào 2 Người thơ Tạ Anh Thư và La Mai Thi Gia. Chúng ta cùng nhau nói chuyện thẳng thắn về những câu hỏi về thi ca, về cuộc sống quanh thi ca, về cả những thị phi văn chương mà các chị có thể đã trải qua hay tưởng tượng chưa từng trải qua. 

Bắt đầu với Thi Gia, người đàn bà Thơ trắng trong những thị phi chị vừa trải qua. Tôi ấn tượng với nụ cười sáng của chị và những dòng thơ rất đỗi đàn bà ngây dại vì yêu, vì khát khao yêu. Chị đến với thi ca trong cuộc gặp gỡ hay tai nạn nào trong cuộc sống khi quá nhiều những toan tính? 

Thi Gia và Thơ trắng

Thi Gia: Trong một bài phỏng vấn, mình đã từng trả lời rằng mình may mắn được văn chương chọn lựa, từ bé đến giờ mình chỉ có theo đuổi mỗi con đường văn chương, mình có thơ đăng báo từ lúc học lớp 2 nhưng lúc đó ở quê nên việc gởi thư qua đường bưu điện đến báo còn chật vật lắm, nhiều khi báo biếu và nhuận bút cứ trôi mãi nơi đâu chẳng về tới tay mình nữa. 

Lên đại học, thơ mình đăng báo đều hơn: Tuổi trẻ, SGGP, Giáo dục thời đại, Thế hệ trẻ, Phụ nữ…nhưng thời ấy chưa có báo mạng nên thơ ít được phổ biến. Khi ra trường, bẵng đi một thời gian lo mưu sinh, lập gia đình, nuôi con nhỏ mình không gởi thơ cho báo nữa dù vẫn lặng lẽ viết và thỉnh thoảng công bố trên những tập san thơ văn của trường mình là ĐHKHXH&NV và tập san Đại học quốc gia. Nhiêu đó thôi mà trong lòng của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và sinh viên, mình cũng được gọi là “nhà thơ” rồi. Làm thơ đối với mình như một nhu cầu bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc và rung động trước cuộc sống và tình yêu, mình yêu thơ từ bé và được nuôi dưỡng bằng Truyện Kiều và truyện cổ tích cho nên mình viết cũng tự nhiên và bắt đầu lúc nào chẳng biết, chẳng phải do gặp một duyên may nào hay một “tai nạn” nào cả.

Như Quỳnh de Prelle: Con đường thi ca của Thi Gia luôn song hành trong đời sống của chị chứ không phải một tai nạn hay những gây sốc, gây choáng váng… Và có lẽ thế mà, thi ca với chúng ta luôn trong nghệ thuật đời thường. 

Với Tạ Anh Thư, Người lạ của chị như đang một xu hướng mà tất cả mọi người dùng mạng xã hội đều dùng, Người lạ ơi, Người lạ ơi. Người lạ có phải là những bí mật trong tình yêu của chị bắt gặp trong đời sống này bằng thơ? 

                                                                    

                                       Tạ Anh Thư và Người lạ 

Tạ Anh Thư: Thật ra tập thơ Người lạ của Thư và bài hát  Người lạ ơi đang nổi đình nổi đám không có điểm nào chung về tư tưởng cũng như thông điệp cả.  Tập thơ của Thư ra đời trước bài hát  ấy 6 tháng. Sự trùng hợp này có lẽ là cái duyên giữa những người xa lạ cùng yêu nghệ thuật chăng? Tập thơ Người lạ viết về tình yêu, nhưng không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn là tình yêu với cuộc sống, với cái đẹp. Tình yêu đó thể hiện qua những khắc khoải về thời gian, về những giới hạn của kiếp nhân sinh. Tập thơ của Thư vì vậy không chú trọng giãi bày tâm tư riêng mình mà chủ yếu hoá thân vào những người xa lạ, kể câu chuyện của họ.

Như Quỳnh de Prelle: Oh, mình không hề biết bài hát đó. Mình nghĩ đó là phản ứng lan truyền từ tập thơ của Anh Thư đó. 

Hai người đàn bà viết thơ đều là giảng viên Ngữ văn ở các trường đại học, có lẽ trong môi trường với sinh viên trẻ trung sôi động, các chị có nhiều cảm hứng sáng tác từ những học trò của mình, từ sự thơ trẻ này hay có nhiều cản trở khác? 

Tạ Anh Thư: Sống trong môi trường của những người trẻ tuổi cũng giống như bạn đang đi giữa một khu vườn mùa xuân vậy. Mọi thứ tràn đầy nhựa sống, trong trẻo, thanh khiết và đầy hy vọng. Đó là một bầu không khí tuyệt vời để nuôi dưỡng niềm háo hức, say mê với cuộc sống. Thêm nữa, mỗi năm, những lớp sinh viên nối tiếp nhau, luôn trẻ còn mình thì lại đang già đi. Vì thế, mình có độ lùi cần thiết để ngắm nghía, chiêm nghiệm về sự hữu hạn của vạn vật trong vũ trụ trong một chu kì sinh tử, về cái đẹp của tuổi trẻ cũng như cái đẹp của sự tàn phai. Ngắm nghía vẻ đẹp của những người xa lạ để nhận thấy  được vẻ đẹp của vũ trụ cũng như những quy luật của nó luôn là điều làm Thư thích thú. Bài thơ - Người lạ - chủ đề chính của tập thơ cũng nảy sinh từ cảm hứng này:

Cô gái trẻ trong vườn tôi gặp sáng nay

vạt áo nàng ướp đầy mùi mây

của một mùa xuân chạng vạng

dù tôi nhìn nàng rất dịu dàng

nàng vẫn không giấu nỗi bất bình trong đôi mắt sáng:

"Sao ông nhìn người khác quá lâu?"

Ồ nàng ơi tôi có nhìn nàng đâu

tôi nhìn mùa xuân của tôi cách đây không lâu

hiện lại trên làn da nàng tuổi trẻ

tôi nhớ ngọn gió đã từng lùa rất khẽ

trên tóc xanh tôi qua mái tóc nàng

tôi chỉ nhìn thấy mùa sang

qua đôi má nàng

những cành hồng vườn nhà tôi trĩu quả.

Mà thôi nàng ạ

một ngày kia khi nàng già đi

nàng sẽ hiểu lão già này nói gì.

Thi Gia: Cảm hứng sáng tác của mình có thể đến từ bất kỳ vấn đề nào trong cuộc sống, gia đình, con cái, tình yêu, thân phận con người trong xã hội, vận mệnh của đất nước, tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Nỗi bất hạnh, sự thiếu thốn, nỗi đau của con người, đặc biệt là của trẻ con và người nữ luôn gây ám ảnh mình nhất. 

Như Quỳnh de Prelle: Và chúng tôi, dường như không bị chữ và học thuật đàn áp, và chúng tôi cũng không sử dụng học thuật để tranh cãi nhau cũng như khẳng định vị trí trong thi ca. Thi ca là đời sống, là tình yêu của nghĩa rộng. Đây có lẽ là điểm khác biệt của thế hệ 8x, thế hệ sinh sau chiến tranh, thế hệ lớn lên từ blog, mạng xã hội, thế hệ của học hành và những di chuyển. 

Như Quỳnh de Prelle: Tự do của những người đàn bà trưởng thành với các chị là gì, có ảnh hưởng trong sáng tác không? 

Tạ Anh Thư: Tự do của những người trưởng thành là hiểu rõ mình và dám sống cho mình; dám theo đuổi tới cùng điều mình biết sẽ làm cho mình hạnh phúc - bất chấp những lý thuyết/ qui chuẩn về hạnh phúc của người khác và nỗ lực đồng hoá của họ. 

Điều này, theo Thư, ảnh hưởng nhiều đến sáng tác, nếu không muốn nói là chi phối việc sáng tác kể cả về tư tưởng cũng như hình thức biểu hiện. Nếu không tự do về tư tưởng sẽ không có sự sáng tạo đúng nghĩa. Lúc đó, tác phẩm chỉ như một cái áo ta mặc cho vừa mắt người chứ không phải mặc để ta được đẹp theo cách của ta.

Thi Gia: Quan niệm về tự do của tuổi tụi mình chắc khác với quan niệm của các bạn nữ trẻ hơn, được tự do chọn lựa công việc, hôn nhân, được yêu theo ý mình và từ chối tình yêu không như ý cũng là một tự do mà không phải người nữ nào cũng có được. Được thổ lộ cảm xúc của mình về tình yêu, bộc bạch những khát khao mà mình muốn có trong yêu thương với người đàn ông của mình cũng là một điều tự do. Và tụi mình còn may mắn hơn là biết làm thơ để bày tỏ những khát vọng đó, về những ước ao vươn tới một tình yêu đẹp đẽ đúng nghĩa mà mình nâng niu và trân quý.

Như Quỳnh de Prelle: Thi ca đã thoát khỏi tháp ngà của chữ nghĩa, cái đẹp không còn là tượng trưng quy ước, cái đẹp chính là những cảm nhận đẹp về đời thường nghệ thuật, và thi cả trở nên gần gũi hơn, giản dị hơn. Có phải đây là con đường ngắn nhất để thi ca hiện thời sống như hơi thở của nó, như tinh thần tồn tại hiện sinh của nó chứ không phải những đúc kết, triết lý có sẵn được lặp lại.

Tạ Anh Thư: Thư nghĩ rằng cái đẹp thật sự là cái đẹp của sự sống, của sự vận động và biến hoá đa dạng. Dĩ nhiên, có những cái đẹp đã đến mức toàn mĩ và vì thế vẫn giữ nguyên giá trị theo thời gian. Tuy nhiên, nó chỉ có giá trị tham chiếu, góp vào lịch sử như một kiểu mẫu đại diện cho một thời điểm cụ thể, không thể trở thành một nguyên tắc bất biến cản trở sự sáng tạo. Mỗi thời đại có một hơi thở khác nhau và thi ca, vì thế, phải mang dấu ấn của quan điểm thẩm mỹ thế hệ sản sinh ra nó. Đó là qui luật. Chúng ta sẽ luôn có những sự "khác". Sự khác đó diễn ra lâu hay mau, được đón nhận như thế nào còn tuỳ tâm thế của người tiếp nhận, vào tầm đón đợi của họ. Chỉ là, nếu hiểu được qui luật này, tôn trọng nó, người sáng tạo sẽ bớt hoang mang và người tiếp nhận sẽ bớt định kiến. 

Như Quỳnh de Prelle: Còn với Như Quỳnh, viết như việc ăn, mặc, ở, đi lại. Ngày nào cũng viết. Nếu không viết chắc mình đã chết tự lâu rồi hoặc tự tử mất (cười). Mình xác định bước vào con đường thi ca chính thức 3 năm nay thôi dù viết từ nhỏ, và công việc hàng ngày của mình là viết, viết giữa những bận rộn của công việc khác, viết giữa những chuyến đi… và phải xả ra, đốt cháy nó không thì mình tự thiêu chính mình với ý nghĩ và sự nhảy nhót của nhiều ý tưởng. Viết là Thiền. 

Như Quỳnh de Prelle: Chúng ta biết nhau từ online và kết nối từ đây, chị nghĩ thế nào về thơ trên Facebook và chia sẻ ở Facebook, khi vấn nạn trộm chữ, đạo thơ ngày càng phổ biến? 

Thi Gia: Sao ngăn được chuyện trộm chữ, đạo thơ nhưng rốt cuộc trong lịch sử thi ca có ai đạo văn đạo thơ mà che giấu mãi mãi được đâu. Còn nhu cầu được bộc bạch và được chia sẻ ngay với bạn đọc thì người viết văn nào chẳng có, thế nên đăng Facebook thì cứ đăng thôi và kèm theo sau đó, mình thường gởi ngay cho một trang web nào đó đăng lại, coi như “đóng dấu chính chủ” cho thơ mình, nhỡ mai mốt có bị đạo cũng không mất công cãi vã vì đã có bằng chứng

Tạ Anh Thư: 

Mỗi trang Facebook tựa như một trang báo riêng mà chủ tài khoản là tổng biên tập. Người ta có thể thoải mái chia sẻ tác phẩm của mình mà không phải chờ duyệt/đăng bài. Vì thế, Facebook khuyến khích việc sáng tác, mình cho là vậy. Bởi công bố dễ dàng, đối tượng độc giả lại đa dạng, nên đương nhiên sẽ có hiện tượng trộm chữ, đạo thơ. Thôi thì nếu họ trộm lộ liễu quá thì mình lên tiếng, mình đưa bằng chứng là ngày này giờ này tôi đã post bài này đây. Facebook có lưu thời gian hết mà, nguỵ tạo đâu có được. Còn nếu họ trộm tinh vi ở dạng ý tưởng, hình ảnh thì thôi...đành chịu. Nhưng Thư tin mỗi bài thơ cũng có cái duyên riêng với độc giả. Nếu người viết lương thiện thì tác phẩm của họ sẽ có duyên lành. Hơn nữa, thơ mình sẽ có chất của riêng mình, giọng của riêng mình, chẳng ai cướp được. Những người trộm thơ, đạo thơ đó họ sẽ tự phải chịu một hình phạt là mất đi niềm vui sáng tạo. Không cần phải có ai phát giác, họ cũng cứ tự thấy mình ươn hèn đi với chính mình. Một linh hồn cứ bị những mặc cảm đeo đuổi thì không thể reo vui và bay bổng được. Điều này, theo Thư là hình phạt khủng khiếp nhất. Tóm lại, Thư cho rằng ta hãy cứ tập trung làm thơ cho hay thì vẫn tốt hơn là tập trung canh gác. Mình đâu thể vì sợ tai nạn giao thông mà không ra đường, đúng không? 

Như Quỳnh de Prelle: Đã từ lâu Quỳnh không đăng thơ Facebook nữa, rất hạn chế. Thực sự buồn khi trộm chữ, đạo thơ, đạo văn như là thứ hàng hiệu của giới văn chương. Không biết bao lâu nữa, người viết dù bất cứ ai coi trọng đạo đức của nghề là số 1 chứ không phải sự danh tiếng là số 1 trong nghề này. 

Như Quỳnh de Prelle: Trong vòng vây của thị phi văn chương, các chị nghĩ gì về con đường tiếp theo của mình với thi ca, tôi tin, tình yêu của chúng ta không dễ dàng bỏ cuộc nhưng chúng ta phải bằng cách nào đó để những người viết được tự do, được tôn trọng là những tác giả, được quyền bình đẳng chia sẻ, sáng tác chứ không phải những quy ước ràng buộc hay luật bất thành văn từ nhiều phía. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy rất nhiều định kiến dành cho chị em phụ nữ trong giới sáng tác là Đẹp thì làm sao viết thơ hay, Hạnh phúc thì làm sao viết hay được…. Các chị giải phóng những định kiến trong sáng tác bằng cách nào? 

Tạ Anh Thư: Cái đẹp của thi ca thì có gì mâu thuẫn với cái đẹp dung mạo của người sáng tác chứ? Chẳng lẽ người viết phải là những người xấu xí và bất hạnh? Quan niệm như thế là hạ thấp giá trị của thi ca và thi sĩ. Thư nghĩ rằng không cứ phải bất hạnh mới biết buồn, biết đau. Chỉ cần nhạy cảm là nỗi đau của tha nhân đã chạm đến tim mình. Nếu đã có tư chất của người nghệ sĩ thì cuộc sống rộng lớn ngoài kia đã là nguồn cảm hứng bất tận để sáng tác rồi, không cần riêng mình phải có thêm một bi kịch nữa.

Còn việc làm gì để giải phóng khỏi những định kiến đấy hả? Thì Thư...làm thơ thôi. Mình không có quyền bắt buộc người ta phải hiểu như mình nhưng mình có quyền từ chối sự chi phối của họ đến mình. Nói tóm lại chỉ cần tin vào mình là đủ.

Thi Gia: Cách giải phóng định kiến tốt nhất là mình tiếp tục viết và viết cho hay thôi, sản phẩm thi ca của chúng ta sẽ trả lời và tự nhiên gạt bỏ những định kiến đó. Và mình tin là cũng chỉ có một số ít người có những định kiến như vậy thôi vì thế giới thi ca hiện nay của chúng ta đã cởi mở nhiều hơn rồi, tầm đón đợi của độc giả cũng phóng khoáng hơn nhiều. Phần của chúng ta là cứ viết ra những rung động tự đáy lòng mình về những gì chúng ta tìm thấy trong cuộc sống và không cứ là những câu thơ được viết ra bởi người đàn bà đẹp hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, những câu thơ từ đáy lòng sẽ được đón nhận tận đáy lòng thôi mà.

Như Quỳnh de Prelle: Dù có thế nào hay chuyện gì xảy ra, chúng tôi cũng tiếp tục viết và viết. Viết là hơi thở của đời sống này, trên hết đó chính là con người của mỗi tác giả, là tư tưởng, giá trị sống mà chúng tôi hướng tới, quan tâm. Và có lẽ vì thế, chúng tôi dám sống, dám viết như những gì chúng tôi có, chứ không phải những ồn ào bên ngoài. 

Đây là bài thơ mình viết từ rất lâu rồi nhưng khi lần đầu tiên Như Quỳnh đăng trên một trang văn học mạng ở ngoài không gian Việt Nam, rất nhiều bạn đọc tìm đến và tìm hiểu xem cô này là cô nào?

Những đôi mắt quặng 

trên gương mặt đẹp

đầy nghi hoặc 

những đôi mắt quặng

nhìn dòng người đi qua như quỷ

nhìn tình yêu là màu vô tri

không xấu không tốt

giá trị lỗi thời cổ hủ

nhưng khăng khăng khẳng định 

những đôi mắt quặng

của những người đàn bà có học

không có hy vọng

không có ngày mai

từ tâm vô định

của những người đàn ông thối tha

rục muỗng tinh hoàn 

có thế hệ n cho đôi mắt quặng

thiếu sinh lực

không sự sống

bần cùng trong đống vật chất hàng hiệu mùi Tàu

Cuộc đối thoại của chúng tôi mang tính cởi mở và tôn trọng tự do biểu đạt, chúng tôi nói từ tiếng nói cá nhân của chúng tôi, không đại diện cho bất cứ tổ chức nào. Đăng chính thức trên Facebook của 3 tác giả. 

Trân trọng cảm ơn Người thơ Tạ Anh Thư và Thi Gia, chúc 2 bạn luôn sung sức sáng tạo và giàu cảm hứng với cuộc sống thực tại này. Thi ca luôn trong lòng đời sống ngày thường của chúng ta. 

Cảm ơn tất cả các bạn đọc. 

Trân trọng, 

Như Quỳnh de Prelle từ Brussels, 

Thông tin các tác giả: 

Tạ Anh Thư: Tiến sỹ, giảng viên Ngữ văn, Trưởng bộ môn Ngữ văn, Đại học Thủ Dầu Một- Bình Dương. Tập thơ Người lạ, Nhà xuất bản Thanh Niên 2017. Thơ đăng trên các trang văn học trong nước. 

Thi Gia: Tiến sỹ, giảng viên Ngữ văn, Trưởng Bộ môn Văn học Dân gian, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. 

Thơ trắng - thơ, NXB Hội Nhà văn 2017.

Như Quỳnh de Prelle: Sống tại Brussels, Bỉ. Thơ xuất bản trên các trang văn học online như Da Màu, Gió O, Hợp Lưu, Văn Việt, Du Tử Lê, Văn chương Việt và Tạp chí Sông Hương….. 

Giải thưởng Du Tử Lê 2016. 

Tập thơ Song tử, Nhà xuất bản Thuận Hoá 2017. 

Thơ trong tập 40 năm thơ Việt hải ngoại cùng 53 nhà thơ khác, Nhà xuất bản Người Việt tại Hoa Kỳ 2017.

Nguồn: https://quynhdeprelle.blogspot.be/2018/01/thi-ca-va-ket-noi.html

20181125 Be Kien Quoc

Tôi nhìn thấy chàng thi sĩ người gốc Nam Định này lần đầu khi chàng băng qua sân cỏ dành cho sinh viên đá bóng, cùng hai người bạn, tiến về con đường nhỏ, nằm giữa hai nhà 4 tầng, khu Mễ Trì. Một nhà cho việc học, đọc, và chỗ ở của giảng viên, một dành cho chỗ ở của sinh viên khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội. Cô bạn cùng lớp thấy tôi chăm chú, ghé tai tôi bỏ nhỏ: Cậu không biết ba chàng ngự lâm này à? Họ học trên mình một năm, đẹp trai, hình như đồng hương Nam Định, thích làm thơ, học giỏi, rất đáng chú ý phải không? Người đi giữa nổi nhất, theo tớ, cũng đẹp trai nhất, là Bế Kiến Quốc đấy!

Ôi chao là sự lãng mạn của sinh viên văn khoa Tổng hợp Hà Nội, thời chiến tranh chống Mỹ đang khốc liệt nhất, ở tuổi hai mươi, cứ hồn nhiên nhìn đời qua lăng kính lãng mạn của người trẻ dấn thân học và quyết định chọn văn chương làm nghề lập thân, ngó lơ câu “sấm truyền” mà đã là sinh viên văn chương thì ai cũng biết: “lập thân tối hạ thị văn chương”.

 Chúng tôi đã chọn học văn khi đó, phơi phới tinh thần lãng mạn tuổi 17, khi nhớm chân vào đại học, năm 1968, tại nơi sơ tán miền đồi trung du tỉnh Thái Nguyên, huyện Đại Từ, có con suối Đôi chảy qua, đẹp đến nao lòng. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ câu thơ nằm lòng tôi của Lưu Quang Vũ, về cái tuổi thanh xuân đẹp nhất này: Mười bảy tuổi lòng ai không hồi hộp/ Ngồi trong rạp hát đợi màn lên…Sau hơn một năm sơ tán ở Đại Từ, Thái Nguyên, chúng tôi được chuyển về Hà Nội, học trong khu đại học Tổng hợp ở Mễ Trì, lúc đó còn hoang sơ, hai bên đường dẫn đến Đài phát thanh Mễ Trì đầy những đầm sen nở hoa chi chít hồng mỗi mùa hè đến. Năm đó, tôi nhớ đầu hè 1970, “khi hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn”… trong thơ của thi sĩ Nguyễn Bính, thì chàng sinh viên Bế Kiến Quốc đang học năm cuối, để chuẩn bị ra trường cuối 1970.

Hình ảnh bộ ba thi sĩ lớp trên chuyên đi cùng nhau, đặc biệt là chàng thi sĩ sinh viên luôn đi giữa ấy, đã tự nhiên ám ảnh tôi, cùng không ít những kỉ niệm lãng mạn về tình bạn, tình yêu đầu đời của chúng tôi, năm học thứ 2: 1969-1970, với tuổi đôi mươi không thể nào quên của lớp tôi, khóa 13, 1968-1972.

Và bây giờ, các hồi ức, các kỉ niệm đang ào ạt trở lại, khi tôi đọc xong 3 tác phẩm thi ca của thi sĩ Bế Kiến Quốc, được trao giải thưởng Nhà Nước, được in chung trong “Tác phẩm văn học được giải thưởng nhà nước”, do NXB Hội nhà văn ấn hành cuối năm 2004, gồm 3 tập thơ: Cuối rễ đầu cành (1994), Mãi mãi ngày đầu tiên (2002), Đất hứa (2003). Không chỉ đoạt giải thưởng văn học Nhà nước từ 3 tập thơ đó, Bế Kiến Quốc còn đoạt nhiều giải thưởng văn học trước đó: Giải nhì cuộc thi thơ của Tuần báo Văn Nghệ 1969. Giải A Hội Nhà văn Hà Nội, Mãi mãi ngày đầu tiên. Giải A Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật VN 2002.

Bằng vào sự đọc ba tập thơ này và việc cả ba đã được giải thưởng Nhà nước về tác phẩm văn học, tôi nghĩ Bế Kiến Quốc là nhà thơ mang một tính cách thơ thiên mệnh, được chính số phận chỉ định làm thơ, với sức mạnh nội sinh của sự lãng mạn, được cất cánh từ khả năng thi ca bẩm sinh của chính ông. Cả cuộc đời ông đã chỉ đánh cược sinh mệnh mình vào thơ.

Do được đào tạo tử tế trong môi trường đặc thù văn chương là khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông đã có ý thức rõ rệt về tâm thế và sứ mệnh thi ca của chính bản thân mình, với tư cách thi sĩ. Sinh năm 1949, Kỷ Sửu, trong Một lời tựa viết sau, vào mồng một Tết Bính Thìn, 1976 (ngày 31.1 dương lịch), ông đã bất ngờ “tìm thấy cảm hứng lớn: cảm hứng về thế kỉ 20, và tự biết: năm 1949, mình sinh ra “tức là vào đúng giữa thế kỉ”, đã được ông “tự coi đấy là một điều may mắn”. Và Bế Kiến Quốc, đúng là một thi sĩ, khi phát hiện: cảm hứng chi phối suốt đời thơ ông, chính là “cảm hứng về thế kỉ hai mươi”, mà khi ấy, năm 1976, ông tự biết mình đã sống với thế kỉ này trên 25 năm, khi ông chưa đến tuổi 30. Bế Kiến Quốc tự thấy mình có “ý thức thực sự sâu sắc về thế kỉ 20, khi cảm nhận: “thực sự gắn bó tâm hồn mình với tất cả mọi người, với thời cuộc…”. Và đúng như trực giác lành mạnh của thi sĩ bẩm sinh, ông thành thực sám hối: “Làm sao tôi có thể chối cãi rằng chính mình đã có những năm không gắn bó mình được vào cảm hứng chung của thế kỉ chúng ta”, là cái thế kỉ mà ông vừa nói tới - thế kỉ 20.

Là thi sĩ thứ thiệt và thành thiệt của nửa cuối thế kỉ 20 đầy bão giông lịch sử, ông tự phát hiện: “VN quê hương tôi, hai mươi lăm năm qua… Những thay đổi quan trọng nhất… Những hi sinh cao cả nhất… những niềm tin mãnh liệt nhất… Những chiến thắng vĩ đại” Từ ấy, ông đã tìm được sự cân bằng trong tâm thế thi sĩ của mình, nối liền được những khát khao thành thực gắn bó tâm hồn mình với thời cuộc, lại được hòa nhập trong tình yêu riêng tư với một người phụ nữ, mà chính ông khẳng định “Một trong những thay đổi cơ bản nhất - đó là sự có mặt của EM trong cuộc đời tôi”. Và nhân vật Em này, đã có thực trong cuộc đời ông, thành người vợ của ông, thi sĩ Đỗ Bạch Mai. Và, đã tự nhiên thành nhân vật trữ tình sáng rỡ của thơ ông.

Nếu ba tập thơ của ông trong sáng tựa ba tấm gương trong, thì thơ ông quả đã được phản chiếu một cách trung thực trong đó. Với hai dòng thơ quấn quyện vào nhau, với một khát khao thành thực, thành thực đến tận cùng trong cả hai dòng thơ thế sựdòng thơ tình.

Không ngẫu nhiên, thơ thế sự của ông đau đáu nỗi niềm nhân thế, khởi nguồn từ một chủ thể trữ tình luôn trăn trở, ngẫm ngợi về mối quan hệ biện chứng, trong luân chuyển sự sống từ cuối rễ đến đầu cành, trong chu kì của cây xanh. Vươn mãi vào bề sâu/ Cái rễ non tìm đường cho cây/ Qua sỏi đá có khi tướp máu- Hướng mãi lên chiều cao/ Cái cành non vượt mưa đông nắng hạ/ Nảy chiếc lá như người sinh nở/ Ai đang ngồi hát trước mùa xuân/ Cuộc đời như thể tự nhiên xanh/ Chỉ có đất yêu cây thì đất biết/ Những cơn đau nơi cuối rễ đầu cành.

Bài thơ thật trong trẻo. Bởi tâm thế nhà thơ nhập hòa vào tâm thế chung của cuộc đời, khi ông sử dụng tinh tế đại từ Ai, để thấy ai, hay chính mình, đã cùng muôn vàn ai khác, cùng ngồi hát trước mùa xuân, cùng chiêm nghiệm, cùng thấy cuộc đời như thể tự nhiên xanh, để cùng vỡ ra một chiêm nghiệm thật tươi lành, trong trẻo: Chỉ có đất yêu cây thì đất biết/ Những cơn đau nơi cuối rễ đầu cành. Hoàn toàn không tình cờ, khi thi sĩ Bế Kiến Quốc đã đặt tên tập thơ đầu trong ba tập thơ của ông, in trong tập sách này là: Cuối rễ đầu cành.

Và ngay sau đó, trực giác thơ của ông vẫn không ngừng nảy sinh từ sự không dưng, cũng là tên bài thơ của ông. Cái tên như hư hao hờ hững này, đã khiến người đọc bị thắt buộc, bởi chính cảm giác không dưng này: Không dưng lòng chợt nhói đau? Sóng xô trắng xóa bãi dâu thuở nào…Rồi, không dưng lòng chợt đắng cay/ Nắng tà này những lối này năm xưa…Và, không dưng lòng chợt tơi bời/Bốn bên tịnh vắng chẳng người tri âm. Bài thơ kết như môt nốt nhạc rơi trầm: không dưng lòng xót xa buồn/ Em ơi đừng hỏi ngọn nguồn vì đâu.

Tôi nghĩ tâm thế không dưng này biểu lộ rất mạnh, rất hồn nhiên về trực giác thơ, tràn ngập dạt dào trong tất cả những bài thơ thế sự của ông. Chính trực giác thơ này đã mang cho thơ ông sắc thái riêng về thơ thế sự, không ồn ào bày tỏ mà chỉ âm thầm chiêm nghiệm để tự sinh nhận thức lớn: phải đau để phải yêu cuộc đời này! Tuy nhiên, Bế Kiến Quốc không muốn gieo tình yêu cùng nỗi đau đời này vào mê cung của trực giác thơ, ông muốn lý giải nó, đến tận cuối rễ đầu cành, bằng sự thành thực của trái tim, được chiếu rọi ánh sáng duy lý, khi ông “Tự nhủ”: ta phải đưa bàn chân đi, trên mọi nẻo đường. Ta phải đi vì ta yêu mục đích, dẫu có khi bàn chân vấp ngã, hoặc dẫm phải gai. Cũng như vành tai, thi sĩ phải đưa nó đến miệng đời - dù nghe lời đắng chát. cặp mắt ơi/ta đưa ngươi đi… Ta phải nhìn, vì ta yêu cái đẹp. Cuối cùng, là trái tim, thi sĩ đã quyết liệt dứt nó khỏi lồng ngực, để hiến dâng cho mọi người, dù trái tim có xót xa, có buồn, và có thể ngừng nhịp đập. Cũng chẳng hề chi, khi thi sĩ đã chốt lại lời nhắn nhủ cuối cho chính mình: ta phải yêu, vì ta tin hạnh phúc…

Tâm thế này của Bế Kiến Quốc đã thành thường trực, đúng hơn, kết đọng thành bản năng xã hội trong dòng thơ thế sự của ông, và tuôn chảy dạt dào trong hai tập thơ Cuối rễ đầu cànhMãi mãi ngày đầu tiên, với sự biến ảo kì diệu của các tứ thơ mà ông chắt lọc từ một điều giản dị: Sứ mệnh của thi sĩ là phải luôn lắng nghe và thấu suốt những biến động của cuộc đời qua tâm cảm của chính mình. Bởi vậy, ông thích/muốn phiêu lưu trên mọi nẻo đường đất nước, để mở rộng suy tưởng, mở lòng yêu thương những người Việt, những miền đất Việt mà ông đã sống, đã gặp gỡ và nhớ nhung trong suốt đời mnh.

Ông nhớ Hải Phòng, nhớ sông Chu. Vào miền Trung, dưới núi Huỳnh Mai, ông nghĩ về Đào Tấn, lan man nhớ Sa Huỳnh. Chia tay Pleiku, nhớ mãi ấn tượng Tây nguyên. Nỗi nhớ vắt sang miền đá Ăng-co, và cùng ông bay đến Liên Xô, nước Nga Xô Viết. Trong khoảnh khắc một giờ đêm, ông gặp thủ đô Matxcơva, rưng rưng yêu hoa tuyết bay biền biệt trắng trời trắng đất. Xa Hà Nội, ông vời vợi thương nhớ hoa huệ trắng muốt, hoa loa kèn Hà Nội chỉ nở rộ vào tháng tư dương lịch, và hương hoa sữa mùa thu, nhớ đầm hoa sen Hồ Tây nở hồng… Đến Sài Gòn, viên ngọc Viễn Đông, ông nhớ mưa dông sầm sập, những sáng, n trưa chiều tối nhộn nhịp người đi, trong tiếng chuông nhà thờ Đức Bà ngân dài, thong thả, yên bình. Và ông nhớ người bạn, đã từng đi trong bộ ba tôi từng thấy ở sân trường đại học năm 1969, hoặc 1970, trong bài thơ Với Long hi sinh 1972. Bài thơ mang nỗi đau, mất người bạn thân là mất mát vô cùng, nhất là khi thi sĩ ngồi một mình trong nắng ngắm mây cao, thiếu bạn, thấy cả thế gian vắng vẻ…

Và không ngẫu nhiên, những nỗi niềm thế sự này đã khởi hành, đã song hành và trở về ngọn nguồn cảm hứng với nhân vật Em, trong tập thứ ba, khi thơ tình Bế Kiến Quốc, khép lại sách thơ dày dặn gồm ba tập thơ này, đó là Đất hứa.

 Tập thơ tình tinh khôi và dào dạt này được Bế Kiến Quốc viết để ngợi ca tình yêu riêng tư của ông. Và rất hồn nhiên, cảm xúc thơ trong lành và thánh thiện ấy đã cất cánh thành biểu tượng tình yêu của thi sĩ đối với cái đẹp của người con gái Việt. Ông ngẫm ngợi, thấu hiểu sự kì diệu của việc đời đã sinh ra người nam và người nữ để hấp dẫn nhau, yêu nhau, sinh con cái, để chuyền tay nhau giữ gìn hương nhụy của tình yêu. Thi sĩ Bế Kiến Quốc có lẽ cả đời chỉ có/chỉ muốn duy nhất một tình yêu, nên thơ ông đã chỉ thiên về Ngợi ca sự có em. Và ngợi ca buổi chiều anh nhận ra điều đó-khi ánh trăng bừng lửa trên một vòm cây xanh- anh bắt đầu ra khỏi bản thân mình, bắt đầu có một tình yêu thật thà, bắt đầu có một tin vui dòng suối… và bắt đầu khởi động cả môt dòng thơ tình chan chứa chảy trong suối thơ ông. Dường như tình đầu trong thơ ông cũng là tình cuối, nên thơ tình của ông không bị giằng xé trong thương đau của bi kịch chia lìa, cạn yêu hoặc bị bội phản. Thơ tình của ông được trú ngụ ở một miền đất hứa:“ ở nơi đó, niềm vui sinh nở, như dòng suối, cành hoa, lời ca, như ngọn lửa…như sự sống không hề vơi”… Bởi tình yêu với nhân vật Em trong thơ ông bao giờ cũng đong đầy trạng thái trữ tình bay bổng và lãng mạn huy hoàng.

Vậy miền đất hứa tình yêu của Bế Kiến Quốc thời trai trẻ bắt đầu từ thời gian, không gian nào của đời thi sĩ? Thơ ông chân thành và trung thực, đẫm tình khi nhớ thương và “tự thú” về cái thời thanh tân, cái ngày xa xanh ấy, cái không gian không thể nào quên ấy của đời ông, kể từ cuối năm 1975, và bừng nở chói chang trong ngày Tết 1976 ở Hải Phòng. Ở thành phố cửa biển ấy, thi sĩ …bỗng có em. Em hiện ra thật ngỡ ngàng trong đời ông, và ngay lập tức kết tinh cảm xúc thí sĩ vào những tứ thơ tình độc đáo, bất chợt, khiến thi sĩ hoài nghi đến không tin, bởi giấc mơ này dường như quá đẹp…Cho tới lúc tin rằng em có thực/Anh chắp tay anh tạ ơn trời đất/ Đã mang em ban tặng cuộc đời anh/ Niềm vui lớn, tâm hồn không giữ được/Cứ tràn ra xanh nõn mọi cây cành.

Từ đây, Bế Kiến Quốc đã viết những lời thơ nồng ấm, trang trọng, đẫm tình của sự đón đợi tình đầu. Chủ thể thơ thành thực tỏ bày bằng sự tinh tế của cách dùng đại từ Anh: Anh đập tan nỗi buồn vây xung quanh/ Anh xóa hết những lời đau thuở trước/ Bao mối dây cũ càng anh dứt đứt? Anh dọn dẹp trang hoàng/ anh xua khỏi bóng đêm/ Anh từ bỏ cái lý trí lạnh lùng, anh đón nhận trái tim/ Anh yêu mình và anh yêu em.

Có một sự thật mà Bế Kiến Quốc không che giấu trong thơ tình, đó là chỉ tình yêu mới kéo được thi sĩ ra khỏi sự đắm chìm trong tâm trạng riêng và chỉ yêu em, ông mới phát hiện tình yêu với bản thân mình. Tôi lại nhớ đến câu thơ tình lộng lẫy của Nguyễn Đình Thi có lẽ cũng diễn tả cảm giác đẹp đẽ này, hai người yêu nhau, như hai tấm gương soi vào trong nhau.

 Và không hề tình cờ, trong thơ tình, ông tưởng ra người yêu bằng hình ảnh mộng mơ huyền ảo: cánh buồm hồng trong cơn mưa xanh. Cánh buồm lướt đến ngay trước mắt, khiến thi sĩ bàng hoàng, như người đã nhiều năm sống trên đảo hoang, quen cô đơnđã nguôi niềm nhớ đất: Bỗng sững sờ, sớm nay nhìn qua mưa / Cánh buồm em hồng thắm cập bến bờ.

Bởi vậy, tâm thế trong thơ tình Bế Kiến Quốc dường như được nhuộm tươi màu tình ái trong màu hồng của cánh buồm dễ thương ấy, nên thơ tình Bế Kiến Quốc không có lấy một tiếng thở dài bi lụy nào. Dù buồn thương vì xa cách, dù thoáng chút hờn ghen của tâm trạng khi yêu, thơ ông vẫn nồng nàn và ấm áp…

Và điều sáng chói nhất trong tâm trạng khi yêu của thi sĩ Bế Kiến Quốc chính là sự phát hiện của chủ thể trữ tình: Một người khác trong tôi có từ khi em tới/ Đưa tôi đi gặp gỡ với chân trời/ Tôi tin tưởng tôi yêu tôi ca ngợi/ Tôi đón chào một người mới trong tôi…

Đúng là chỉ có một tình yêu lớn, mới có thể hình thành một chủ thể thơ với đầy khát khao thành thiệt như thế và đến thế.

 ***

Bế Kiến Quốc đã mất vì ung thư phổi năm 2002, khi thế kỉ 21 bắt đầu chưa đầy hai năm. Ông đi xa cuộc đời này đã 15 năm. Nhưng thơ ông để lại vẫn xanh non như lá, vẫn hồng tươi như cánh buồm trong trái tim người yêu thơ Việt đang sống thế kỉ 21 đầy giông bão này, giúp cho tâm thế họ bình yên và êm đềm trở lại….Và như thế, Bế Kiến Quốc đã làm trọn sứ mệnh một nhà thơ của chính thời đại mình, trong nửa cuối thế kỷ 20. Vì thế, thơ ông để lại vẫn còn xanh biếc theo thời gian, còn vang vọng, không chỉ sang nửa đầu thế kỉ 21, dù thời gian đã không ban tặng cho ông được sống dài lâu như ước nguyện của ông…

 Đêm 31.5.2017

 NTMT

 

PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái

Nhà thơ Trần Vàng Sao - tác giả của thi phẩm 'Bài thơ của một người yêu nước mình' - đã trút hơi thở cuối cùng lúc 14h45 phút ngày 9-5.

Ảnh: Minh Tự

Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), quê quán ở thôn Vĩ Dạ, TP Huế.

Năm 1961, ông tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên - học sinh Huế cùng với các nhà thơ Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Võ Quê, Thái Ngọc San, họa sĩ Bửu Chỉ...

Từ 1965, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, viết báo và làm thơ. Năm 1970 ông ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh.

Sau ngày thống nhất (1975), Trần Vàng Sao trở về quê nhà và làm giao liên xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), sau đó về công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế, cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.

Bài thơ của một người yêu nước mình là tác phẩm của Trần Vàng Sao được sáng tác vào tháng 12-1967 và được chọn là 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.

Năm 1987, ông lại nổi tiếng với bài thơ Người đàn ông 43 tuổi nói về mình đăng trên tạp chí Sông Hương năm 1987.

Cho đến năm 2012, Nhà xuất bản Hội nhà văn mới in cho ông tập thơ đầu tiên, đó là trường ca Gọi tìm xác đồng đội.

Theo PGS.TS Hồ Thế Hà (Đại học Khoa học Huế), Bài thơ của một người yêu nước mình là điển hình cho phong cách Trần Vàng Sao, với những câu thơ sống mãi với nước Việt:

... Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.

Những năm cuối đời, ngoài niềm vui làm thơ, ông còn vẽ tranh và nổi tiếng với tranh vẽ về thiền sư Bồ Đề Đạt Ma.

Ông vẽ bằng bút chì, mực tàu, trên mặt sau những tờ lịch cũ, những thứ đồ vật đã bỏ đi.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-yeu-nuoc-minh-tran-vang-sao-vua-trut-hoi-tho-cuoi-20180509164711954.htm

20101023 Nguyen Vy

Nhắc đến Nguyễn Vỹ, người ta biết ông như là nhà thơ của những thể thức lạ qua các bài khá quen thuộc: Sương rơi, Hoàng hôn, Tiếng chuông chùa, Mưa,… Nhưng nổi tiếng hơn lại là bài thất ngôn dài Gửi Trương Tửu chắc chắn ở lại trong tàng thức thơ ca Việt Nam.

Tuy vậy ở đây tôi muốn nói đến một bài thơ khác, ít người biết: Đêm trinh. Đó là điều ngạc nhiên. Đáng lẽ nó đã chiếu sáng. Nó tư tưởng về một bóng tối uyên nguyên có thể mở ra ánh sáng. Bài thơ còn chìm khuất trong nỗi thờ ơ hiện đại. Trong khi nó xuất hiện từ năm 1962 ở Sài Gòn trong tập thơ Hoang vu của Nguyễn Vỹ. Dù khi đó, Hoang vu đã được nhà văn Thiết Mai, trong Sáng dội miền Nam, nhìn thấy đó là thơ của ý tưởng:

“Về ý thơ, Nguyễn Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo bạo (Hai người điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh,…). Điều này khiến thơ của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ điển và cũng chứng tỏ ông là con người có nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng…” (1).

Vậy thì, những ý tưởng đã được nhà thơ “suy tưởng” như thế nào? Suy tư và tưởng tượng ra sao? Suy cái ý tứ và tưởng tượng cái hình ảnh, ở đây chỉ lấy bài Đêm trinh mà suy mà tưởng.

Nhưng như thế thì ai suy tưởng? Nhà thơ hay người đọc? Là người đọc suy tưởng trên thơ? Hay chính là thơ suy tưởng trên người đọc. Cái đó thường khi không phân biệt.

Và hiệu năng của thơ là đưa thơ và người đọc vào cõi vô sai biệt, ở đó thơ như phát tiết từ cả hai phía: sáng tạo và tiếp nhận.

Ta như trôi thẳng vào điều đó ngay từ ba chữ mở đầu của Đêm trinh:

             Đêm nay tôi…

Đêm nay là đêm nào? Một thời gian phiếm chỉ vì thế có thể là bất kỳ đêm nào của thời thế bóng tối.

Và tôi nào? Cái tôi của nhà thơ phải được hiểu là một cái tôi phiếm chỉ. Vì nhà thơ không hát từ một cái tôi mà vô số cái tôi. Nhà thơ không phải là tiếng nói của đám đông ở phía ánh sáng mà là tiếng nói của vô số cái tôi ở phía bóng tối.

Nhưng để dễ đi vào bóng tối của Đêm trinh, ta hãy chia bài thơ thành từng chặng đường. Không có mê lộ của hoang vu. Chỉ có chân trời của hoang vu. Đêm trinh cũng thế, không có mê lộ mà chỉ có chân trời.

Đêm trinh:

             1. Đêm nay tôi không muốn ngồi gục bên đỉnh trầm

                            Nghe rượu cười trong ly,

                      Nhạc quay cuồng trong khói,

                            Thời gian đọng trên mi.

                      Tôi muốn về bên giếng tối,

                            Khu vườn âm u,

                      Quê hương hoang vu.

                            Không một dấu vết.

Chặng đầu của một cuộc hành trình là ý muốn trở về. Muốn về vì không muốn những điều bê tha ở trước mặt, ở tiền-hành trình: rượu trong ly, nhạc trong khói, những thứ đang cười cợt, quay cuồng. Cả thời gian cũng đảo theo những mi mắt người say, cái thế giới mà Vũ Hoàng Chương từng tả (“Khúc nhạc hồng êm ái, Điệu kèn biếc quay cuồng”).

Thế thì về đâu? Tại sao là giếng tối?

Quẻ Tỉnh trong Kinh Dịch tượng hình một cái giếng. Đó là nguồn nước của quê hương, ở ngoài ta và trong ta. Giếng là cái không thể di dời nơi nó là. “Bất cải tỉnh”: Không thể đổi dời giếng đi (Thoán từ của quẻ Tỉnh).

Vậy thì về bên giếng tối là về với nguồn nước không thể đổi dời dù nó đang ở trong bóng tối. Cũng có thể vì ở trong bóng tối, nó mới là nguồn. Bởi bóng tối còn là huyền bí, cái huyền bí ở sâu bên trong ta hơn là vây bọc bên ngoài ta.

Các hình ảnh “khu vườn âm u” hay “quê hương hoang vu” cũng nương theo đó mà xuất hiện ở đây, âm u và hoang vu thuộc về cái nguyên sơ, trinh thuần và huyền bí, chưa bị những đám đông xô bồ và xa lạ gây tổn hại. Vì thế mà “không một dấu vết” trong bản chất của Đêm trinh.

Cuộc hành trình khởi từ “ngồi gục bên đỉnh trầm” đến “về bên giếng tối”. Khởi đi từ thứ ánh sáng giả tạo của tiệc rượu và nhạc cuồng. Từ bỏ ánh sáng giả tạo đó để về với bóng tối của đêm trinh.

Cũng trong khoảng thập niên 1960 nhà thơ Đức Enzensberger cũng viết bài thơ về Cõi bóng tối (Schattenreich) có những suy tưởng gần như gặp gỡ với Đêm trinh:

             “ngay bây giờ đây tôi thấy một nơi,

             một nơi tự do,

             ở đây trong bóng tối.

 

             bóng tối này

             không thuận bán trinh.(2)

Tự do chính là hoang vu. Quê hương hoang vu là nơi chốn của tự do mà nhà thơ muốn tìm về. Nơi chốn đó không dành để đem bán (verkaufen) như là bán trinh.

Như vậy, từ “Đêm nay” đến “dấu vết” là chặng đầu của cuộc hành trình trở về bản nguyên, trở về tôi và đi vào trong tôi trong một hiện tại vô tận, một cái tôi không phải là sự vật mà là một triển nở vô hạn.

Từ đó bắt đầu chặng hai của hành trình.

Đêm trinh

            2. Tôi không muốn giẫm lên những mặt trời đã chết,

                       Không vương những nắng tơ đã kết

                            Vòng hoa trên cỗ áo quan tài.

             Đã lạnh rồi, những mùa xuân chết yểu trong Thiên Thai!

                       Nhặt làm chi những phím hương đổ gãy,

                            Màu xám hoàng hôn,

                       Màu xanh rợn hoang hồn,

           Hình bóng thời Homère quay cuồng trong nhạc lửa!

                       Thôi, vươn lên chi hình hài ẻo lả nữa!

Giai đoạn tiền-hành trình được quy kết với những thứ đã chết, đối với nhà thơ. Để có thể dẫm lên chúng mà bước đi. Những thứ đó có thể một thời được thôn thờ (mặt trời) được trân quý (nắng tơ) được quàng quanh cổ (hóa ra là cỗ áo quan tài!). Tất cả đã chết, đã kết, đã đóng áo quan. Bây giờ đã có thể quên đi những chiếc “áo” đó, những thứ chỉ gợi lên “cỗ áo quan tài” phô trương trong ánh sáng bên ngoài (mặt trời, nắng tơ). Tất cả chỉ là “những phím hương đổ gãy”. Có đốt hương mà thờ thì cũng đổ gãy thôi, nhặt gì?

Bởi vì những thần tượng đều chết yểu, những mùa xuân đều chết yểu. Trong “Thiên Thai” của những ảo tưởng thế thôi, trong những hoàng hôn không thể tránh. Chỉ còn lại màu xám của tro tàn.

Hoàng hôn hay hoang hồn?

Hoang hồn hay hoàng hôn?

Những âm sắc có thể đảo hoán, đẩy ngôn từ vào trận địa hoang vu.

Màu xanh vừa là màu của sự sống, vừa là màu của cái chết.

“Những quỷ thần bất tử trong huyền thoại thường được biểu hiện qua đầu và mình màu xanh, đặc biệt ở Ấn Độ”, theo Từ điển của biểu tượng, huyền thoại và truyền kỳ của Didier Colin (3).

Đó là màu của những oan hồn.

Chính vì oan hồn, thần linh và ma quỷ rợn màu xanh ấy mà câu thơ kế tiếp nhắc đến Homère, nhạc lửa và thời cổ sơ.

Để thấy những “hình hài” hiện đại chỉ là những thứ gì “ẻo lả”, nhợt nhạt, chán chường!

Và quyết tâm vượt qua. Bước vào chặng ba.

Đêm trinh:

             3. Tôi không muốn đêm nay cười nghiêng ngửa,

                            Tôi đạp tung cánh cửa

                       Ngạo ngễ của Thành Sầu.

             Tên lính gác nhe răng cười, rùng rợn đôi mắt sâu.

                       Để tôi đi!

                       Để tôi đi!

Đến chặng thứ ba này, tiếng cười cũng thành giả tạo, nhại lại tiếng cười của rượu trong ly ở khúc dạo đầu, trong “đêm nay”. Muốn “phá thành sầu” trong Đường thi mà chẳng cần đến rượu. Chỉ đơn giản là “đạp tung cánh cửa” của nó.

Hẳn là Nguyễn Vỹ nhại lại khúc Thơ say của Vũ Hoàng Chương bằng giọng điệu giễu cợt và khinh bạc (Thơ say của họ Vũ ra đời từ năm 1940), nhất là nhắm vào khúc cuối của bài Say đi em:

             “Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa.

             Say không còn biết chi đời.

             Nhưng em ơi,

             Đất trời nghiêng ngửa

             Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ.

             Đất trời nghiêng ngửa

             Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!

Cũng cái “Thành Sầu” viết hoa đó mà thái độ của hai nhà thơ thật khác nhau: thái độ buông trôi (Say đi em) và thái độ đạp phá (Đêm trinh). Hai giọng thơ khác nhau vì hai tính cách khác nhau, hai suy tưởng khác nhau.

Hình ảnh tên lính gác cửa của Thành Sầu được phác họa (khắc họa thì đúng hơn) rất tinh: “nhe răng cười”, “rùng rợn đôi mắt sâu” gợi nhớ tên lính gác cửa Pháp luật của Kafka. Hay Pháp luật là Thành Sầu?

Và nhà thơ phải tiếp tục chuyến đi của mình, vượt qua mọi lính gác dù phải van vỉ hay hối lộ hay tìm được cách lừa phỉnh nó.

Đến chặng thứ tư.

Đêm trinh:

             4. Trời không mây, không gió,

                     Tôi không áo, không chăn.

             Tôi về quê hương không cửa, không ngõ,

             Tôi về cô phương không lửa, không trăng.

                            Mịt mù thăm thẳm,

                     Mênh mông biên giới của Đêm trinh!

                            Tối đen một giếng thẳm,

                            Rực rỡ ánh quang minh.

Trạng thái trời trong và lặng gió là mở đầu cho sự từ bỏ vô minh và dục vọng (không mây và không gió) vì mây che mờ và gió nổi si mê. Bắt đầu “vạn lý vô vân”.

Trạng thái trần trụi (không áo, không chăn) là trở vè với nguyên tính, với thuở ban đầu, với nguyên trinh.

Về quê hương trong trạng thái như vậy chứ không phải là một cuộc vinh quy nào. Cho nên không có cảnh “Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào Ngõ Hạnh, hương bay dặm phần” (Kiều). Thế nên mới “không cửa, không ngõ”.

Đó cũng là cuộc trở về với cái cô đơn, quê hương thực sự của nhà thơ, một phương trời gọi là “cô phương”, cái cô phương ấy mới là nguồn của thơ, chứ không phải lửa và trăng.

Cái cô phương ấy chính là Đêm trinh của thơ ca. Nó “mênh mông” và “mịt mù thăm thẳm”. Hơn nữa, nó còn tối đen như một hang động. Vì nhà thơ sẵn sàng “làm hang động cho thiên hạ” (Vi thiên hạ cốc, Đạo Đức kinh, Thiên 28).

Làm hang động, nhà thơ có trong mình một huyền bí, một bóng tối vô biên: “Tối đen một giếng thẳm”.

Nhưng sao lại “Rực rỡ ánh quang minh”?

Để thấy được điều này thì hãy để nó tương chiếu thêm với bài thơ Cõi bóng tối của nhà thơ Đức Enzensberger mà ta đã nhắc tới từ đầu, đến đây ta sẽ đọc tiếp bài thơ ấy:

             “những ai muốn nhìn thấy ánh sáng

             như là như

             phải biết lui mình

             vào trong bóng tối.

 

             bóng tối

             quang minh hơn mặt trời:

             bóng tối mát tươi của tự do”. (4)

Về với Đêm trinh rồi, tôi thấy mình được giải thoát. Chặng cuối cùng là Hoang Vu, một cõi Đại Hoang mà tôi tung tăng dạo bước, càn khôn độc bộ.

Nơi đó dường như tôi không còn gì.

Bởi vì tôi có cả Càn Khôn.

Đêm trinh

             5. Tôi với tôi,

             Không hình, không bóng.

                     Tôi với tôi,

             Không thơ, không mộng.

                     Tôi với tôi,

             Lồng lộng giữa Hoang Vu!...

Dù hình ảnh cái tôi dường như choán đầy cõi Hoang Vu nhưng nên hiểu ngược lại. Chính là cái Hoang Vu đang choán đầy tôi, Đêm trinh đang choán đầy tôi.

Vậy mà cái Hoang Vu ấy, Đêm trinh ấy vẫn còn rộng chỗ cho bất kỳ ai, cho bất kỳ cái tôi nào muốn trở về.

Cuối bài Cõi bóng tối, nhà thơ Đức Enzensberger gợi ý:

             “trong bóng tối ấy

             đến bây giờ vẫn còn chỗ trống đấy thôi.”

             (im schatten

             ist immer noch platz.)

Đêm trinh của Nguyễn Vỹ là một bài thơ lớn. Đọc để rung động và suy tưởng. Bởi hình tượng độc đáo đậm tính kinh điển cổ xưa lẫn tính tân hình thức mới lạ. Nó xứng đáng có mặt trong mọi thi tuyển cao cấp. Được chiếu sáng, nó sẽ chiếu sáng bội phần.

Nhật Chiêu

Chú thích:

(1) Dẫn theo Nuiansongtra.net. Nguyễn Vỹ, 21 tháng 2 năm 2009.

(3) Dẫn theo tập sách song ngữ Đức Anh German Poetry 1910-1975, Urizen Books, trang 430. Nguyên văn tiếng Đức như sau:

             “hier sehe ich noch einen platz,

             einen freien platz,

             hier im schatten.

             dieser schatten

             ist nicht zu verkaufen.”

(3) Dictionary of Symbols, Myths and Legends, Didier Colin, Hachette, London, 2000, trang 63: “immortal mythical gods and demons are frequently represented with a blue head and body, especially in India.”

Bài tham gia Hội thảo Nguyễn Vỹ - Cuộc đời và sự nghiệp (Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi và ĐHKHXH&NV TPHCM, tháng 10.2017

Thi ca là lễ vật của lòng tin. Ít ai dễ tin người như người Việt Nam. Bởi vì họ vững tin ở mình và đem lòng yêu thi ca hơn ai hết.

                                              Khuất Bình Nguyên

          Lịch sử thi ca Việt Nam 1000 năm đầu tiên sau công nguyên vẫn còn để lại những tờ giấy trắng không chữ viết cho đến tận bây giờ. Điều kỳ lạ chưa cắt nghĩa rõ ràng được đó lại xảy ra ở một đất nước có truyền thống yêu thi ca như Việt Nam. Người Việt đã sáng tác văn học như thế nào trong khoảng 1000 năm Bắc thuộc vẫn là một dấu hỏi lớn chưa lời đáp. Khương Công Phụ, người quận Cửu Chân đỗ tiến sỹ năm 784 từng là Hàn lâm học sỹ, rồi Gián nghị đại phu bình chương sự đời Đường và có thể nhiều người khác nữa có trước tác văn học mà chưa được nghiên cứu. Một nghìn năm dài đằng đẵng ấy, những giao thoa văn hoá giữa văn chương bản địa và văn hoá Hán vẫn còn ẩn mình trong bóng đêm.

            Cũng 1000 năm ấy, đã có những đoạn thời gian ngắn ngủi ngời sáng. Ba năm của Trưng Nữ Vương (40-42). 7 năm của Vạn Xuân Lý Nam Đế (541-547). 23 năm của Triệu Việt Vương (548-570). 32 năm của Hậu nam đế Lý Phật Tử (571-602). 10 năm của Mai Hắc Đế (713-722). 7 năm của Bố cái đại vương Phùng Hưng (? -791). 82 năm của 1000 năm. Khoảng thời gian của sự nghiệp khôi phục quốc thống, người Việt Nam không thể không sáng tác những áng thi ca của thời đại mình. Nhưng giấy trắng vẫn còn lại đó. Người Việt lúc đó sáng tác thi ca bằng thứ chữ gì? Là chữ Hán hay chữ khác chữ Hán? Các nhà sử học vẫn còn rất kín tiếng về vấn đề ấy. Nhưng nếu phải vẽ lại hình hài của nền thi ca 1000 năm đã mất thì dựa vào bản tính của dân tộc có thể khẳng định: Đó là nền thi ca thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước nồng nàn và tinh thần quật khởi chống xâm lược. Một thế giới tinh thần cộng đồng của làng xã Việt Nam. Một sự hoà nhập thân ái về tín ngưỡng mà tiêu biểu là sự chấp nhận Phật giáo như là một gốc rễ của đời sống tâm linh Việt. Nền thi ca ấy có phong cách tư duy hoà đồng luôn cởi mở để vượt qua được những thách thức của sự đồng hoá, nhân lên những yếu tố bên ngoài làm nên bản sắc riêng cho lịch sử thời gian sau tiếp nhận. Đó phải chăng là những điều căn cốt của thi ca 1000 năm đầu tiên sau Công nguyên.

            Lịch sử thi ca 1000 năm tiếp theo đã được nhiều người thừa nhận cách phân loại 900 năm văn học trung đại từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19 và 100 năm văn học hiện đại. Mặc dù 900 năm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, 100 năm viết bằng chữ quốc ngữ nhưng thi ca 1000 năm ấy vẫn quy tụ những đặc diểm chung làm nên truyền thống một nền văn học, bất chấp sự khác nhau và sự thay đổi đầy ngẫu nhiên của lịch sử, sự thăng trầm, hưng vong của đất nước. Hai trong số nhiều đặc điểm phát sáng diện mạo của thi ca Việt Nam. Thứ nhất là: Thi ca Việt Nam luôn luôn đứng ở trung tâm của thời cuộc và vận hội đất nước, phản ánh sinh động tâm hồn và cốt cách của người Việt Nam. Đó là bài ca đầy bi tráng và thống thiết cũng như sự thanh thản và tinh tế tâm hồn Việt giữa bể dâu của vận mệnh đất nước và thân phận con người. Nhờ đó chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa yêu nước như là nền tảng tư tưởng tươi sáng của thi ca 1000 năm biến động. Thứ hai là: Thi ca Việt Nam là kết quả của sự giao thoa văn hoá ngay từ lúc khởi đầu. Người Việt Nam đã thực hiện sự mở cửa rất sớm để đón nhận những ảnh hưởng của tinh hoa văn hoá bên ngoài nhằm làm phong phú và đậm đà bản sắc riêng. Quá trình ấy không phải giản đơn và dễ dàng mà trải qua sự đấu tranh, lựa chọn vô cùng khắc nghiệt để đưa về những giá trị chân, thiện, mỹ cho riêng mình, vượt qua những thách thức mang ý nghĩa sống còn. Văn hoá bất chấp mưu đồ chính trị của những thế lực xâm lược, từ trong lịch sử lâu dài của loài người, văn hoá trở thành cầu nối hữu nghị của các dân tộc. Bởi thế, thi ca là nơi thể hiện bản lĩnh văn hoá của người Việt Nam.

            900 năm văn học trung đại thế kỷ 10 đến thế kỷ 19, thi ca là thể loại văn học phát triển nhất. Thơ được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm – thứ chữ dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Việt. Chữ tượng hình được xây dựng bởi những ý niệm hình tượng về thế giới tự nhiên ảnh hưởng và tác động sâu sắc trong sáng tạo thi ca. Các nhà sư, nhà nho, vua chúa, những tầng lớp trí thức cao của xã hội tiếp thu những tư tưởng tôn giáo vã xã hội của bên ngoài, nhất là Phật giáo và Nho giáo để thực hiện thiên chức nhà thơ. Họ tiếp thu và sử dụng một hệ thống các điển cố văn học, những tư tưởng chỉ đạo sáng tác như thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo và cả những thể loại thi ca, nhất là thể thơ Đường Luật để chuyển tải chí và đạo của người Việt Nam.

            Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, thi sỹ Việt Nam đứng ở vị trí giữa trận tiền trong cuộc chiến giành và giữ nền độc lập đất nước, viết nên khúc tráng ca bi hùng trên mình ngựa chiến. Trong cái thế mặt đối mặt ở phòng tuyến sông Cầu vang lên thiêng liêng bài thơ thần của Lý Thường Kiệt. Chiến thuyền của giặc Nguyên vừa chìm xuống thì sóng Bạch Đằng lại cuộn lên trong bài phú nổi tiếng của Trương Hán Siêu. Những Lạng Giang, Xương Giang đầy máu giặc Minh đã chảy trong thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại Cáo của Nguyễn Trãi.

                                                Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

                                                Non sông nghìn thuở vững âu vàng

            Năm thế kỷ vinh quang như hai câu thơ ấy, cũng là 5 thế kỷ tâm hồn Việt trước cảnh sắc thiên nhiên và thế sự của bao nhiêu đêm mưa xuân. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai của Mãn Giác Thiền Sư. Hay án sách cây đèn hai bạn cũ, song mai hiên trúc một lòng thanh để lắng đọng tâm tình với đào hoa kín tiễn mùi hương dễ động người trong thơ quốc âm; Hoặc Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai – một sân hoa xoan nở trong hạt mưa thưa thớt rơi vào thơ chữ Hán của Ức Trai như là nét thi thư bình dị của văn hoá Việt, tâm hồn Việt sau nhiều trận binh đao. Bốn thế kỷ tiếp theo từ 16 đến 19, khi mà xã hội phong kiến rơi vào giai đoạn suy vi, khi mà đình miếu đổ nát, chiến tranh huynh đệ tương tàn, làng xóm đi cả ngày đường không nghe được một tiếng gà gáy, những quán cơm bát canh nổi xao mỡ thịt người như ông Phạm Đình Hổ đã viết tuỳ bút đau thương ấy trong mưa thì bi kịch về thân phận con người, khát vọng được yêu thương hạnh phúc như là tiếng nói chủ đạo phả vào trong nhiều khúc ngâm và truyện thơ nôm tiếng kêu than đứt ruột. 9 thế kỷ thi ca trung đại có hàng trăm thi sỹ tài năng. Mặc dù hồi thế kỷ 18, 19, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú khi làm sách khảo cứu Thiên Chương Văn tịch chí trong Kiến văn tiểu lục Lịch Triều hiến chương loại chí đều than thở về sự mất mát của văn chương trung đại trải qua binh lửa mà thành tro tàn đành phải tìm những gì sót lại qua Kim thạch di văn. Nếu không thì di sản văn chương trâu kéo phải mệt, nhà chứa phải đầy. Mặc dầu vậy, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ 10 đến 19 có tới 134 nhà thơ danh tiếng mà Lê Quý Đôn nhận xét: Tinh anh nhân tài, khí cách văn chương không khác gì Trung Quốc… Thi sỹ nhiều người trong trẻo cứng rắn, cao thượng thanh liêm, có phong độ như sỹ quân tử. Họ là Vạn Hạnh thiền sư, Mãn Giác thiền sư, Trần Nhân Tông, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, PHạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Phạm Nguyễn Du, Bùi Huy Bích, Nguyễn Gia Thiều, Bùi Dương Lịch, Phan Huy Ích, Hồ Xuân Hương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu v.v… Thi ca của họ là một thế giới huyền diệu và đa sắc tâm hồn, cốt cách Việt Nam, cả trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Nếu được kể ra 3 người tiêu biểu nhất thì xin được nêu Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Cao Bá Quát.    Thi hào Nguyễn Trãi (1380-1442) đã dùng chữ Hán để viết nên thiên cổ hùng văn đánh giặc cứu nước và dùng chữ Nôm để viết thơ quốc âm đưa tiếng nói hàng ngày của người dân Việt vào văn chương bác học, truyền cảm đầy tinh tế những rung động sâu xa của tâm hồn trong Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, thuật hứng… Một thứ thơ quốc âm chững chạc mà trang nhã. Tư tưởng nhân nghĩa của ông là điểm ngời sáng trong văn học trung đại. Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) không chỉ là người đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học trác tuyệt và sức biểu cảm vô cùng tinh tế trong truyện nôm có tên gọi Truyện Kiều mà còn là một tài năng lớn trong những vần thơ thế sự viết bằng chữ Hán. Cao Bá Quát (1808-1855) – tục gọi là Thánh Quát là ngôi sao sáng nhất của thi ca thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn ở giai đoạn chót mà thơ chữ Hán của ông được viết ra như ở thời kỳ vàng son của chữ ấy. Thơ ông như báo trước sự lỗi thời của thế hệ ông trước vận mệnh của đất nước sắp đổi thay.

Từ khi vượt biển qua đất Ba Son. Mới cảm thấy vũ trụ bao la. Chuyện văn chương trước đây thực là trò trẻ con. Trong thế gian này có ai thật là bậc tài trai, mà lại phí cả một đời đọc mấy pho sách cũ.

            Nửa sau thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thi ca Việt Nam. Dường như có sự cất mình khỏi sự gò bó niêm luật của thơ Đường, các thể thơ truyền thống Việt như lục bát, song thất lục bát được dịp trổ ra phô diễn vẻ đẹp đầy quyến rũ của tâm hồn và khát vọng sống hạnh phúc qua các khúc ngâm và truyện thơ nôm dài hàng nghìn câu mà tiêu biểu là Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn qua bài dịch của Đoàn Thị Điểm (?), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Và đỉnh cao nhất là Truyện Kiều.

            Vào nửa sau thế kỷ 19 và 30 năm đầu thế kỷ 20 đã có những phản ứng khác nhau của người Việt Nam trước sự gặp mặt với văn hóa Phương Tây.

            Sự giao tiếp đầu tiên giữa 2 dòng văn hoá Đông – Tây thông qua con đường tôn giáo. Các giáo sỹ phương Tây đến Việt Nam từ thế kỷ 16-17 đã mau chóng hoà nhập và được người Việt Nam tin yêu đón nhận. Họ đã dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ quốc ngữ nhờ đó đã mau chóng hình thành để sau đó 300 năm trở thành văn tự phổ thông rộng rãi và là phương tiện đầy hiệu lực để sáng tác thi ca trong thời đại mới. Bởi vì khác với chữ Hán, chữ quốc ngữ gắn bó với cuộc sống thường ngày của người dân Việt. Con đường giao thoa văn hoá Đông – Tây lúc đầu diễn ra âm thầm dưới mái các giáo đường lợp cỏ tranh dài hàng trăm năm có lẽ khác với những gì đã xảy ra những năm đầu sau Công nguyên khi chữ Hán theo chân những đoàn ngựa chiến vào Việt Nam.

            Nhưng rồi cái gì đến cũng phải đến. Văn hoá phương Tây náu mình trong đội quân xâm lược của chủ nghĩa thực dân vấp phải sự chống trả của các thi sỹ Việt Nam. Cao Bá Quát trong bài thơ chữ Hán Thập ngũ dạ đại phong đã tỏ rõ: yếu đả hồng di cự hạm hồi. Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc: Bữa thấy dù che trắng lốp muốn đến ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen xì muốn ra cắn cổ. Rồi thì sau đó những cảm xúc ngậm ngùi của thi nhân khi Cao Bá Quát thấy người đàn bà phương Tây cầm ly sữa nũng nịu chồng thì thở dài khởi thức nam nhân hữu biệt ly. Từ ngậm ngùi ấy đến một khoảng cách ngắn nữa là cam chịu đắng cay cái thất thế của chữ thánh hiền như ông Tú ở thành Nam Định than thở: Có làm chi cái chữ nho và bao kẻ muốn bỏ bút nho sang bút sắt để sớm rượu sâm banh tối sữa bò.

            Ba mươi năm đầu thế kỷ 20 có 3 người nổi danh. Họ là Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, và Tản Đà. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương Đông Dương Tạp chí, Phạm Quỳnh, Nam Phong tạp chí nhiệt thành quảng bá dùng chữ quốc ngữ và truyền bá tư tưởng văn chương của người Tây Dương. Phạm Quỳnh và một số người khác đả phá sự gò bó quá chặt chẽ niêm luật của thơ Đường. Tiếc thay cả hai vị này đều không đến được bến bờ của sự cách tân thơ ca. Nam Phong tạp chí có tổng số 210 số từ 1917 đến 1934 lại có tới 78 bài thơ vịnh Kiều. Họ dùng một thứ văn tự mới để làm thơ ngâm Vịnh có từ thời nhà Đường. Thơ ca ấy không đem lại dấu ấn gì đặc biệt cho cuộc đổi đời của thi ca hiện đại thế kỷ 20. Chỉ có Tản Đà là thành công hơn cả. Ông vốn xuất thân nho sỹ và chịu ảnh hưởng sâu nặng văn chương chữ Hán thời trung đại; nhưng chỉ có ông là người đầu tiên nói được lời từ biệt ngọt ngào với quá khứ của thơ Đường Luật 9 thế kỷ trước và bước đi thư thái để ngồi vào chiếu trên của thời đại mới trong thi ca như là biểu hiện của bản tính hài hoà thân ái của người Việt Nam trước sự xung khắc về văn hoá. Với Tản Đà, thi ca là lễ vật của lòng tin. Ít ai dễ tin người như người Việt Nam. Bởi vì họ vững tin ở mình và đem lòng yêu thi ca hơn ai hết.

            Hồi đầu thế kỷ cũng có người muốn lặp lại cái sự tiếp thu văn tự của tiền nhân 9 thế kỷ trước, dùng tiếng Pháp làm thơ. Hoài Thanh đã không ngần ngại hạ những câu rất nặng rằng kẻ ấy đến làng thơ với chiêng, trống xập xoè inh cả tai; người ta đổ ra xem rồi lại tưng hửng trở vào vì không có gì ngoài điệu bộ và lối ăn mặc lố lăng. Có tình hình ấy bởi chưng chữ quốc ngữ - kết quả của sự giao thoa văn hoá Đông Tây đã có sự trưởng thành vượt bậc.

            Hoài Thanh viết Một thời đại trong thi ca đã khẳng định sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ. Chỉ trong khoảng thời gian hơn 10 năm, 1932-1945, một cuộc Cách mạng thi ca lớn nhất trong lịch sử hiện đại với ít nhất 44 thi sỹ tài hoa xuất hiện, như tên người ta thường gọi: phong trào Thơ Mới. Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên. Xuân Diệu. Huy Cận. Nguyễn Bính … Thơ Mới không bị ràng buộc bởi bất kỳ thể thơ nào của phương Tây. Những đòi hỏi về tự do cá nhân trong xã hội lúc bấy giờ gặp gỡ chủ nghĩa lãng mạn trong thơ Pháp, đặc biệt ám ảnh bởi thơ tượng trưng của Rimbaud, Verlaine khác gì lá đương vàng gặp tiết heo may của mùa Thu đã rạo rực lên lòng khát khao yêu đương tuổi trẻ, nỗi buồn cô đơn vô cớ của buổi thanh xuân cùng với những hoài niệm thời xưa yêu dấu lãng đãng trên những dòng thơ vô cùng linh động 8 chữ hay 7 chữ. Chưa bao giờ chữ quốc ngữ lại hữu hiệu đến thế trong việc bày tỏ nỗi lòng. Một tầng lớp thị dân đông đảo ở các đô thị, thành phố đã nồng nhiệt đón nhận Thơ Mới như một người bạn tâm tình thân thiết, vượt qua ảnh hưởng của tiếng Pháp vốn rất được cổ súy trong trường học và các công sở thực dân.

            Nửa sau thế kỷ 20, gần hết 100 năm của thế kỷ ấy, người Việt Nam phải giành mọi nguồn lực cho cuộc trường kỳ kháng chiến giành và giữ nền độc lập. Có cảm tưởng thi ca lại trở lại truyền thống 5 thế kỷ 10 đến 15 khi thơ được viết trên mình ngựa chiến. Những dòng thơ như những luống cày bụi đất trên cánh đồng lửa cháy. Một không khí sử thi như những bài ca ra trận cùng với khúc hát tâm tình của tình yêu thương xứ sở. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng như là âm điệu chủ yếu của thi ca. Cái thời Thơ chỉ sống một phần cho mình ba phần cho nhiệm vụ như là một động lực thúc đẩy cho việc cách tân thi ca. Vì thế cách tân thi ca không phải ý muốn chủ quan của cá nhân thi sỹ mà đó là động lực của thời cuộc và lịch sử. Giữa mưa bom bão đạn có ai còn kịp ngồi một chỗ để tỉa tót nắn dòng. Cách tân thi ca trào ra từ máu lửa và sự quên mình. Thơ tự do không vần giàu nhịp điệu cuộc sống cùng với lời ăn tiếng nói của dân công, binh lính… đã đi vào thơ từ những năm 1948-1949. Và trường ca như là một thể thơ phổ biến để các thi sỹ viết sử thi mở rộng trường cảm xúc mạnh mẽ của mình suốt những năm 1960 – 1970. Một thế hệ các nhà thơ sinh ra trong thời đại ấy đã có mặt trên giá sách của thời gian. Tố Hữu. Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm. Chính Hữu. Quang Dũng. Và. Bằng Việt. Lưu Quang Vũ. Phạm Tiến Duật. Hữu Thỉnh. Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Đức Mậu. Thanh Thảo. Thu Bồn. Vũ Quần Phương. Xuân Quỳnh. Lê Anh Xuân. Hoàng Nhuận Cầm. Nguyễn Duy. Trần Vàng Sao v.v.. Cuộc đồng hành cùng đất nước vào cuộc chiến sinh tử ấy dài đên mức thần đồng Trần Đăng Khoa đã mang thơ đi tải gạo từ rất sớm hạt gạo làng ta gửi ra tiền tuyến cho đến lúc trưởng thành trở thành người lính biển một bên và em một bên khi đợi mưa ở đảo Sinh Tồn. Chỉ trong khoảng hơn 10 năm từ 1960 đến 1975 một đội quân đông đảo thi sỹ đã ra đời và gắn sinh tử của mình vào cuộc trường chinh của đất nước. Họ đông hơn cả thời kỳ Thơ Mới.

            Nửa sau thế kỷ 20, người Việt Nam mở cửa ra thế giới, tiếp tục thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong vòng sóng giao thoa. Đáng chú ý nhất là việc tiếp nhận tinh thần công dân và tình yêu tổ quốc trong văn học Nga – Xô Viết. Bản tính Nga, thiên nhiên Nga được xem như là những tiếng nói tâm tình thân thiết nhất.

Thế kỷ 20, các thể loại văn xuôi, kịch … đều phát triển. Nhưng có lẽ vẫn là thế kỷ của thi ca. Có người nói. Trường cảm xúc sung mãn nhất thuộc về Chế Lan Viên, khi ông ấy đến với thi ca buổi đất nước còn điêu tàn, qua ngày của số thành sao chiến thắng đến bao ẩn ức thời di cảo?.

Năm 1984, Chế Lan Viên viết: Thế kỷ 20 người ta nói rất hay về thơ trong thế kỷ người ta sống quá khó khăn này. Ai sẽ là thi nhân của thế kỷ 21? Họ sáng tác bằng gì? Bằng các từ ngữ hay bằng sự lặng im?. Thi ca đương đại, tính từ 30 năm gần đây lại đứng trước những thách thức lớn về bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển giữa cơn bão toàn cầu hóa và thế giới phẳng. Sự sụp đổ những giá trị tưởng như đứng vững không thay đổi lại một lần nữa khẩn thiết đưa ra câu hỏi phải trả lời. Những đám mây của cái ác vẫn đang vẫn vũ mọi nơi đe dọa số phận của con người. Thời mưa gió không chỉ mang tên Âu-Mỹ? Thi ca có dứng vững cùng dân tộc trước thách thức này không?

            Đánh giá về thi ca đương đại phần đông là dè dặt và bi quan. Rằng thơ đang mở rộng nhưng càng mở rộng lại càng tầm thường. Thơ đương đại ít có những thi phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hàng năm in tới 4, 5 nghìn tập thơ nhưng thơ vẫn mất mùa vì thơ hay quá ít. Thơ dở quá nhiều. Một nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại hỏi: Thơ của những người viết trẻ chỉ là những tiếng động mơ hồ phía sau các bức tường mà người khác dựng nên? Những lời bàn chân thành của người trong cuộc làm chúng ta xấu hổ và đau lòng biết mấy.

            Ở một chiều nhìn nhận khác, thơ đương đại đang giành nhiều tâm huyết cho cách tân trong khi kế thừa triệt để truyền thống. Khoảng những năm cuối thế kỷ 20, một nhóm nhà thơ rất có tài năng và đã trải qua nhiều cát bụi đã tìm tòi đổi mới ngôn ngữ và cảm xúc thơ. Họ có những câu thơ độc đáo như: Áo nắng tuổi cờ Thu chín tới thủ đô. Họ chủ trương thơ không dùng đến ngôn ngữ thông thường mà sử dụng các biểu đạt siêu ngôn ngữ, tức là làm thơ bằng các hình vẽ mà có người ở hải ngoại gọi là thi đồ thư. Mặc dù có một thư đồ thi đã được người Mỹ dùng làm bìa sách hồi năm 2004 ở Illinois. Nhưng có lẽ đó là những thử nghiệm táo bạo dù biết trước chưa thành công. Đọc họ mà xúc động, thương cảm bởi một người đã từng viết Thơ là mạng sống, là lý lịch thật của đời tôi.

            Một số nhà thơ trẻ muốn đi khác truyền thống ở chỗ chọn chỗ đứng ở bên lề xã hội và sử dụng ngôn ngữ đời thường còn thô tục hơn cả Nguyễn Huy Thiệp gắn thơ với nửa mơ nửa khôn của vợ. Loại thơ này không được đông đảo người yêu thơ mến mộ.

            Có một lớp thi sỹ đã thành danh và đang ngày càng trở thành lực lượng chủ đạo của thơ đương đại. Họ có những biến đổi mạnh bạo về thi pháp trong việc sử dụng các yếu tố siêu thực và duy lý làm nền tảng cho cảm xúc thơ trong lúc vẫn duy trì những chủ đề truyền thống về tình yêu quê hương xứ sở, về khát vọng lứa đôi cùng với việc nhìn nhận mới mẻ những hiện tượng văn hóa truyền thống bằng việc chiêu tuyết cho thị Mầu, cho Thủy Tinh, phê phán cô Tấm nhân từ gì mà làm mắm Cám cho mẹ nó ăn v.v… Thơ văn xuôi vốn được dùng từ những năm 1960 với Chế Lan Viên ở miền Bắc, Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam được giới trẻ sử dụng như những bài thơ dài mà không phải trường ca hay truyện thơ. Một số thể thơ nước ngoài được thể nghiệm nhiều hơn so với hồi thế kỷ 20 dùng thể thơ sonnet. Thời gian thấm thoát trôi qua. Họ cũng không còn trẻ nữa. Một vài khuôn mặt đáng yêu đã phải ra đi vĩnh viễn giữa những dòng thơ cách tân còn dang dở. Lãng Thanh. Nguyễn Lương Ngọc. Dương Kiều Minh. Còn hàng trăm thi sỹ thuộc thế hệ Nguyễn Quang Thiều đang mất ngủ vì lửa của thời đại mình. Có khắt khe quá không khi người ta nói: Thơ trẻ như là những thứ quặng. Đương nhiên lẫn vàng nhưng không phải vàng. Họ cần tinh luyện?

            Thơ thế kỷ 21 đang đi về đâu khi nó đứng ở trung tâm của đời sống dân tộc, lắng nghe và trả lời những câu hỏi khẩn thiết của thời đại mình không phải bằng bộ óc của nhà chính trị mà bằng con tim thi sỹ cũng như chấp nhận thách thức của toàn cầu hóa để viết những vần thơ thể hiện bản lĩnh văn hóa của người Việt Nam – đâu phải chuyện dễ dàng. Có điều là sự cách tân rơi vào cầu kỳ bao nhiêu thì khoảng cách của thơ với sự tầm thường hóa không xa là mấy. Và thật sai lầm trong sự tiếp nhận giao thoa văn hóa ào ạt như sóng đại dương lại dị ứng ngoảnh mặt với bên ngoài hoặc copy không trên cơ sở những giá trị truyền thống. Những trăn trở về tầm vóc của thi ca dân tộc của lớp thi sỹ đi trước vẫn còn đó. Nguyễn Đình Thi băn khoăn chúng ta thiếu những nhà văn dạy cho loài người cách sống. Chế Lan Viên gượng cười trong một cơn đau Thôi đi chú Vịt quẩy ao nhà. Không hiểu cầu vồng không hiểu sấm. Thi ca thế kỷ 21 vẫn đang tìm vận hội như thi sỹ của Điêu Tàn đã viết.

                        Một nghìn câu thơ thì chín trăm câu dang dở

                        Và ai đón thơ anh ở cuối con đường?.

           

Cuối xuân 2018      

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ, số 17-18, ngày 28-4-2018

Tho trang

Trước hết, tôi nói về câu chuyện của Vũ Trọng Phụng. Về sáng tác của ông, người ta bình luận như sau: “Đọc xong một đoạn văn, tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối. Không phải phẫn uất khó chịu vì cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy một tư tưởng hắc ám, căm hờn, nhỏ nhen ẩn trong đó (…).  Đọc văn Vũ Trọng Phụng thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng lạc quan. Đọc xong, ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung quanh mình toàn những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng” (Nhất Chi Mai, “Ý kiến một người đọc: dâm hay không dâm, Ngày nay, Hà Nội, s.51, 21.3.1937). Vũ Trọng Phụng cũng có bài trả lời rất sâu cay. Nhưng điều quan trọng là: hơn nửa thế kỉ sau, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được dịch sang tiếng Anh và được giảng dạy ở trường đại học thuộc loại danh tiếng nhất nước Mĩ, UC Bekerley.

Tôi lại nhớ đến câu chuyện Leo Tolstoy (1828 – 1910), nhà văn vĩ đại người Nga. Hẳn nhiên ông rất…vĩ đại. Người ta khen ông là “Shakespeare của nước Nga” (Gustave Flaubert). Thế nhưng điều ấy làm ông quá đỗi phiền lòng, bởi theo ông, Shakespeare không đáng là một nhà tư tưởng, không phải là nhà văn lớn, rằng Shakespreare rất “thấp”, và tất nhiên là không nên so sánh với ông.

Shakespeare chết trước Tolstoy đến hơn ba thế kỉ, nhà viết kịch đại tài ấy đã không bao giờ có cơ hội tranh luận lại với Tolstoy (và chắc gì muốn tranh luận). Và đến bây giờ, ông vẫn được xem là một trong những kịch tác gia lớn nhất mọi thời đại.

Vậy, điều quan trọng là, dù cho hai ông này có bật dậy và nói gì nhau thì hai ông vẫn vĩ đại, bất chấp người kia nói gì.

Đánh giá của một người chưa bao giờ làm thay đổi bất kì sự thật nào. Đó là sự kì thú của thế giới nghệ thuật.

Tôi lại nói tiếp một câu chuyện khác, câu chuyện một nhà thơ tên là Thi Gia và tập “Thơ trắng”.

Nếu nói về “gout”, tôi không thuộc “gout” thơ của Thi Gia. Nhưng tôi không nghĩ rằng: “gout” khác nhau thì nhất thiết phải không thấy nhau hay!

Công bằng mà nói, chọn được bài hay toàn vẹn là điều không dễ trong tập “Thơ trắng”, nhưng cũng không khó nhận ra những câu thơ “ăn vào lòng” người ta một cách tự nhiên, nhẹ nhõm một cách tự nhiên:

Ta là cỏ, là sương, ta là suối

Ta đám côn trùng, ta bóng trăng

Ta như đứa trẻ còn dây rốn

Bú mớm mẹ ta đến vĩnh hằng

(Xanh)

Cõng nhau lên chóp đỉnh tình

Học theo mây trắng nghe mình hư không

(Cõi anh)

Đã biết rằng mai tan tác mộng

Sao chẳng vào nhau cho hết đêm

(Đã biết rằng mai tan tác mộng)

Buồn từ ngày chưa ngâu

Ai yêu thì tự bắc cầu mà tới

Đừng cứ đợi ngâu về rồi hò hẹn với mai sau.

(Đừng đợi ngâu về)

Viết tự nhiên là khó. Cái hay và cái dễ…bị chê ở Thi Gia là ở đó. Tự nhiên, hồn nhiên, đôi khi rất dễ chịu, dễ gần, là bản năng thơ rất đáng gìn giữ, nhưng cũng có thể trở thành một tâm sự chưa đủ sự chưng cất.

Nhìn toàn cục, Thi Gia dường như không có xu hướng tạo tứ thơ mang tính hệ thống, thơ Gia đôi khi không rõ hình khối và sức công phá của tứ nhưng lại có những tứ nhỏ rất quý, một kiểu “đặc sản”, một kiểu “phong cách thơ” rất Thi Gia:

Bới mây ra mà tìm nhau

(Bới mây ra mà tìm nhau)

Ngày đã cạn ngày

Em đã cạn anh

(Tình ơi em đắm tim mình)

Có ríu ran nào cứ thủ thỉ trong mưa

(Sài Gòn mưa)

Em phơi váy áo em ngoài dậu

Phơi cả tình em trong nắng trưa

Nhớ thương cuộn cả lên trời mộng

Đổ xuống đường xa đêm gió mưa

(Đã biết rằng mai tan tác mộng)

 “Đàn bà thợ xây” có lẽ là bài thơ có tứ tốt nhất trong “Thơ trắng”. Chủ đề “có vẻ” thời sự, hình ảnh “có vẻ” thô ráp, phong cách “có vẻ” không gần với cô nàng Thi Gia (vốn mang giọng thơ “đa tình, “khát tình” và “vọng dục” - không phải là “dục vọng”), nhưng bài thơ này thực sự khiến tôi nghĩ đến bài “Người đàn bà ngồi đan” của Ý Nhi. Tôi không so sánh, nhưng tôi nghĩ đến.

Hình ảnh người đàn bà ngồi đan bao nhiêu nỗi đa đoan của đời và của mình là một ám ảnh thơ ca quý giá trong kho tàng thơ Việt Nam. Hình ảnh ấy quá đa diện, minh triết và mạnh mẽ vô hạn. Thế còn người đàn bà thợ xây?

Đàn bà, họ vẫn xây đấy thôi; cứ gì phải có công trường. Xây là bản thể của đàn bà. Một sự bề bộn xây đắp cuồng điên và thiếu thốn sâu xa là nỗi đời vĩnh cửu của người đàn bà trong một “kho xưởng” tình yêu, hạnh phúc và hy vọng; một thế giới “đầm đầm châu sa” luôn được tạo nên từ bàn tay miệt mài xây đắp dẫu phù du.

Những người đàn bà thợ xây

Vai tươm tả nắng

Lòng bàn tay chằng chịt vết chai

Những người đàn bà thợ xây

Giấu mình trong lớp áo dày

Tóc ủ vào khăn và những giọt mồ hôi ủ trong làn da sạm nắng

khét mùi mưu sinh

Những người đàn bà thức dậy trước bình minh

Giặt giũ và phơi phóng

Trên dây phơi không có một chiếc váy mềm được dệt bằng voan và ren đỏ

Cho một người đàn ông được cởi ra trong đêm

Bàn tay của người đàn bà vò thật nhẹ, thật êm

Những chiếc áo lót không rõ màu sắc

Rồi nghiến răng vò những chiếc găng tay đầy vữa vôi và những chiếc áo bảo hộ màu xanh

Hình như là xanh hy vọng

Màu xanh của biển và trời

Màu xanh đã bạc phếch lâu rồi

Những người đàn bà thợ xây

theo chồng đi khắp nơi

Những người chồng theo những công trình đi khắp nơi

Chiếc giường tầng trong lán trại chung cũng là nơi ái ân của họ

Không một tiếng rên

Không một hơi thở mạnh

Sợ sỏi đá ngoài kia biết họ làm gì

Sợ những người đàn ông nằm bên

trở mình khao khát

Tưởng nhớ một thân hình mềm mại ở quê xa

Những người đàn bà không thơm mùi nước hoa

Những thân hình chưa từng phủ lụa là

Chẳng dám khóc cho nỗi nhớ con thơ

và nỗi nhớ nhà

Trong những chiều khói bếp thành thị cay xè...

Cay xè con mắt

Cứ ngóng phía quê mà ánh nhìn hiu hắt

Những thợ xây đàn bà

Những người mẹ đi xa.

Một bài thơ quá gợi.

Một khối tình tự được nhào nặn rất tự nhiên với chủ đề về người đàn bà làm nghề thợ xây, sau khi hoàn thành bỗng dưng phát tiết thêm một ánh sáng khác về thiên chức “bụi bặm” và luôn dở dang của người đàn  bà.

Một bài thơ vượt qua chính giới hạn của nhà thơ, giới hạn của những tâm tình đơn giản và tương đối dễ dãi, giới hạn của những câu thơ viết tràn theo cảm xúc mà ít tìm cách trụ lại bởi một vài “nhãn tự” sâu xa. Giới hạn đó đã được vượt!

Câu chuyện cuối cùng về Thi Gia: cuộc truy vấn về ngôn từ “tính dục” trong thơ.

Em ơn anh, ơn anh...

Đã mang về em biêng biếc của ngày xanh

Sau mải miết ái ân lại lụi vào nhau và khóc

Thổn thức dùm nhau mai bước đời khó nhọc

Nhìn nhau, lau nước mắt rồi cười

(Ơn anh)

Tôi cho rằng, đây là một trong những ý thơ, đoạn thơ, câu thơ có thể đủ sức làm người ta xúc động thật sự vì …tình dục. Những câu thơ mang tính dục bản thân nó chưa bao giờ …sai (nhìn lại lịch sử văn học và nghệ thuật của cả thế giới thì biết); Nhưng nó thường bị đối xử rất nghiêm khắc. Tự cổ chí kim đã thế. Thi Gia cũng chung số phận với những nhà thơ “dám” viết về tình dục. Nhưng “lỗi” của Thi Gia lớn hơn một chút: hồn nhiên quá! Ít biến hoá quá!

Trần truồng như trẻ nhỏ

Cùng em bày cuộc vui

Cứ cười và cứ khóc

Rồi vào nhau ngủ vùi

(Cùng em bày cuộc vui)

Một ví dụ: đoạn trên này tứ rất khá nhưng thiếu một chút gì đó (tôi cũng không rõ, hoặc là không thiếu gì nhưng tôi không nhận ra) để có thể làm một đường nối thú vị tới câu thơ “công án” bàng hoàng của bài thơ “Sinh Tử” (Trần Thánh Tông) từ thế kỉ XIII:

Sinh như trước sam

Tử như thoát khố

(Sống như mặc áo vào

chết như cởi bỏ quần ra)

(Đương nhiên, Trần Thánh Tông không viết về tình dục, ông viết về bản thể, nhưng có sự hô ứng nào đó).

Viết về tình dục, có lẽ, cần một sự cô đọng nào đó lớn hơn về tư tưởng. Mặc dù tư tưởng …không làm nên tình dục.

Tôi chợt nghĩ đến câu thơ của Chế Lan Viên:

Ôi cây cỏ cũng đầm đìa sắc dục

Chuyện cha trời mẹ đất, vũ trụ “tình tự” với nhau trong ánh sáng giao hoà cùng tận, hay nói cách khác là “làm tình”, hình như không mới đến nỗi cần phải ngạc nhiên và phản đối “kịch liệt”. Cuộc ái ân của thiên nhiên là điều thiêng liêng, là nguồn suối cảm hứng. Nhân loại thời ấu thơ đã nhận biết việc ấy và hồn nhiên tôn thờ cuộc chơi viễn mộng ấy. Người thời nay cũng nên bình thường hoá đi chứ. Tất nhiên, nó đi vào thơ ca thế nào lại là chuyện khác. Tôi cũng chưa thật tâm đắc một số câu thơ thắm đượm dục tính của Thi Gia theo cách mà “Thơ trắng” thể hiện, nhưng tôi tin là tôi đã biết xúc động đúng những câu thơ “cận nhân tình”. Viết về tình dục trong những ẩn ức xen lẫn niềm bi cảm, tự nhiên đến khóc được, Thi Gia thuộc vào số hiếm. Có lẽ vì thế mà tập thơ đã được đọc như một thông điệp dịu dàng về “cổ mẫu nguồn cội”, một trạng thái ít nhiều đưa người đọc đến mỹ học tính dục đương đại: “Người đàn bà cất lên tiếng hát bằng làn da, hát ca bằng thân xác ngân nga”. “Người đàn bà đem chăn gối làm sông làm núi, đem châu thổ nguyên sơ làm ngã ba, đem châu thân huyền bí làm nhà”. Những lời giới thiệu tập “Thơ trắng” này của Nhật Chiêu - một người không còn xa lạ gì với giới trí thức và giới văn chương chuyên nghiệp suốt mấy chục năm nay ở nước Việt Nam này – tưởng vẫn còn đủ là một uy tín cho người ta có thể nhìn lại một chút trước khi đạp đổ một điều gì đó; một uy tín được xây dựng không chỉ bằng tài năng, tình yêu to lớn với văn chương mà còn bởi sự công phu, khổ học và hành trình truyền cảm hứng không thể lớn hơn cho học trò nhiều thế hệ. Riêng tôi, tôi tin lời giới thiệu ấy.

Một phật tử chắp tay búp sen cung kính chào tha nhân không phải vì hạ mình, mà vì tôn vinh Phật tính của người khác, ở nơi người khác. Trong bàn cờ chữ nghĩa, người ta chấp nhận sự khác biệt tận cùng, thậm chí phủ nhận triệt để nhau, nhưng, vẫn còn một nước cờ khác hay hơn, ít “sát thương”, đó là tri âm. Tri âm không nằm ở chỗ hiểu hay không hiểu một cách trọn vẹn, mà đơn giản là“cho nhau sự tồn tại”. Người làm thơ viết một trăm câu thơ dở, có một câu hay, người đọc vẫn rất nên khóc vì câu hay ấy. Đó là một tư thế cảm nhận của kẻ khiêm hạ trước năng lực sáng tạo của kẻ khác. Như cái chắp tay búp sen vậy.

 “Hoan hô những kẻ phụ tôi, họ đã trả tôi lại cho tôi”. Tôi tiếc là không thể nhớ tên nhà tư tưởng nào đã nói thế. Nhưng câu ấy rất hay, hay hơn cả cho Thi Gia, một nhà thơ đang trải qua sự phũ phàng của cuộc chiến “gia vị thẩm nhận”. Người ta có nhiều cách để làm thơ hay hơn. Một trong những cách ấy là bị đẩy ra khỏi bờ cõi của mình, và dành lại quyền sống cho năng lượng của chính mình. Điều này thì Thi Gia có, rất dồi dào.

Giải có trao hay không trao, đúng “quy trình” hay không đúng “quy trình”, Thi Gia nhận hay không nhận, tất cả điều này không lớn hơn một Sự Thật khác: dù sao, bạn ấy đã làm thơ, dù sao, thơ bạn ấy cũng không tồi, và dù sao, chúng ta còn cả một gia tài lớn là THỜI GIAN, thứ có thể mang lại cho mọi người một lời phán quyết nhân từ và chín chắn về những sáng tạo thực sự của một con người cụ thể, một con người giàu có về cảm xúc và hy vọng, biết đặt cảm xúc và hy vọng ấy vào những vần thơ vẫn còn hé mở rất nhiều cánh cửa cho người đọc.

Quyền của Thời Gian - quyền phán quyết minh bạch về giá trị - cao hơn tất thảy mọi sự luận đàm của làn sóng thượng tôn tự ngã trong thưởng lãm. 

Lê Thị Thanh Tâm

(ĐHQG Hà Nội)

Tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep (Giải mật Nguyễn Huy Thiệp) của Peter Zinoman có thể coi là một trong những phản ứng nhanh sớm và kĩ lưỡng của độc giả phương Tây, đặc biệt là độc giả hàn lâm, với văn chương Nguyễn Huy Thiệp khi vừa mới được dịch ra tiếng Anh (1992). Trong tiểu luận này, Peter Zinoman đề xuất một cách đọc lại Nguyễn Huy Thiệp, khác với cách đọc cho rằng văn chương Nguyễn Huy Thiệp là biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó, ông chỉ ra những nguồn ảnh hưởng sáng tác (truyền thống tự sự Việt Nam và văn học cổ điển Nga, Pháp thế kỉ XIX), các tác nhân văn hóa - chính trị từ Đổi mới đến nhãn quan Nguyễn Huy Thiệp khiến ông khó lòng khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông cũng chỉ ra các thủ pháp văn chương vẫn được các nhà phê bình coi là hậu hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp có thể càng làm mờ các lớp nghĩa được ẩn giấu trong tác phẩm. Từ đó, Zinoman đưa ra các khám phá riêng của mình.      
Chúng tôi xin giới thiệu một phần tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep. Các đoạn lược bỏ được để trong dấu (…), một số chú thích của tác giả, nếu thuần túy là thông tin, sẽ không dùng lại. Tiêu đề bài là của người dịch.


Năm 1989, sử gia G. Lockhart cho đăng bản tóm lược tiểu luận tiếng Việt trên tạp chí Văn học tiêu đề “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”. Ở bài này, Lockhart đặt việc cải dạng triệt để hình thức truyện ngắn Việt Nam của Nguyễn Huy Thiệp trong liên hệ với các dự phóng văn chương của các nhà văn G.G. Márquez, R. Kapuschinsky, M. Duras, và nhà sử học J. Spence. “Những gì chúng ta có ở đây”, Lockhart đã rất cởi mở, “là một hiện tượng văn chương mà chúng ta gọi chủ nghĩa hậu hiện đại”(1).

Trước đó một tháng, nhà phê bình Lê Xuân Giang, cũng trên tạp chí Văn học, đã xếp Nguyễn Huy Thiệp vào nhãn hiệu postmodern (hậu hiện đại), chỉ ra biểu hiện của việc sử dụng phúng dụ (allegory) trong các truyện ngắn đặc sắc Kiếm sắc (Sharp Sword), Vàng lửa (Fired Gold) và Phẩm tiết (Chastity)(2). Năm 1992, khi ảnh hưởng của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tỏa rộng trong cộng đồng người Việt ở Mĩ, nhà sử học Hồ Tài Huệ Tâm, trong một tiểu luận về truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, đã cho rằng sức mạnh tác phẩm “bắt nguồn từ một kết hợp khác thường về cảm thức hiện sinh” và “kĩ thuật văn chương hậu hiện đại”(3). Trên tạp chí Hợp lưu ở California, nhà nghiên cứu Đào Trung Đạo cũng cho đăng bài phân tích về những tranh luận Nguyễn Huy Thiệp và nêu lên vài vấn đề phê bình nhằm lấy cớ liên hệ giữa Thiệp, Lyotard, Eco, Kundera và Rushdie(4).

Vậy điều đặc biệt nào đã nảy sinh nhất trí đặt Nguyễn Huy Thiệp vào nhóm “hậu hiện đại” vốn là thứ vẫn tồn tại bất đồng căn bản trong việc làm sao cho khớp nhãn hiệu. Ở các trường hợp được trích dẫn ở trên, sự khác hướng có lẽ xuất phát từ những khác biệt rất lớn về nền tảng văn hóa xã hội và truyền thống học thuật trong việc đánh giá tác phẩm. Tuy nhiên, còn một lí do khác nữa nằm trong sự không rõ ràng về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại: chủ nghĩa hậu hiện đại, như dâm thư, dễ nhận ra hơn là định nghĩa.
(…) Tiểu luận này, do đó, cố gắng chỉ ra những điểm nhấn trong các bàn luận tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, theo hướng tránh xa những mô tả ông ở vị thế đoạn cuối của văn chương tiền phong thế giới, để tiếp cận gần hơn những hình dung điều gì đã đẩy ông vào đỉnh điểm bất đồng trí thức trong xã hội Việt Nam đương đại. 
asach 2135 1398064505
                                                  Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp                 Ảnh: TL

Nguyễn Huy Thiệp và chủ nghĩa hậu hiện đại
(…) Đặc tính của văn xuôi hậu hiện đại có thiên hướng làm cho bản thân quá trình viết trở nên vừa sáng rõ vừa mơ hồ, và điều này là điểm sáng tạo nổi bật trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp(5). Chẳng hạn, ở Vàng lửa, truyện thứ hai trong bộ ba giả lịch sử, người kể chuyện - tác giả biết ơn vì đã nhận được một số tài liệu từ người đọc có tên là Quách Ngọc Minh, chứng cứ để phủ nhận tính chính xác của truyện đầu tiên (Kiếm sắc) và làm sáng tỏ nội dung của truyện đang viết. “Tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh”, người kể chuyện giải thích. “Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lí lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện”. Bằng việc tỏ ra hàm ơn vay chuyện “các tư liệu” trong khi vẫn “sửa đổi”, “sắp xếp” và “chỉnh lí” chúng, Nguyễn Huy Thiệp vừa làm sáng rõ vừa làm cho lộn xộn cái cách mà ông tạo phát văn bản chúng ta đang đọc. Cùng một phong cách như thế, người kể chuyện củaKiếm sắc đã bất ngờ kết thúc bằng chỉ dẫn lờ mờ và nguồn tư liệu mà anh ta khẳng định đã cho phép anh sáng tạo ra câu chuyện.

(…) Cảm giác không chắc chắn về “sự thật câu chuyện” thể hiện trong đoạn kết truyện Cún, một minh chứng đặc điểm khác cũng được cho là hậu hiện đại, sẽ còn có trong 
nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp. (…) Nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp gợi lên một bản thể bất định. Trường hợp gây ấn tượng nhất xuất hiện trong đoạn kết truyện Kiếm sắc, với một mô tả huyền hoặc về chi tiết chém đầu trung thần Đặng Phú Lân (chất lỏng như máu phun ra từ cơ thể), lại xảy ra sau mô tả hoàn toàn đáng tin về cuộc bỏ trốn thành công của Lân tránh tội hình và lẩn vào làng quê vùng cao. Truyện kết thúc mà không gắng thử hòa giải hai kết quả trái ngược hay những đời sống khác nhau mà chúng đưa ra. 

(…) Giới phê bình nhạy cảm với những quy ước văn chương hậu hiện đại phong phú sẽ chú tâm nhận biết các yếu tố quen thuộc khác nữa trong truyện Nguyễn Huy Thiệp. Trò chơi trộn lẫn những chỉ dấu văn hóa bậc cao và thấp được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rành rành trong lời nói phỉ báng, dâm tục đi kèm với vị vua Quang Trung cao quý thế kỉ XVIII ở Phẩm tiết, có khi lại bóng gió đưa Abba và Beatles vào trong Tướng về hưu. Một thứ văn chương hậu hiện đại “tự-phản thân” (xu hướng viết về sự viết) có thể tìm thấy trong lời của thầy giáo Triệu “Tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị thật. Nó thiếu tín và thẩm mĩ ngưỡng thực” (Những bài học nông thôn), trong bình luận của tướng Thuấn “Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào”, và trong thú nhận của người kể chuyện ở truyện Cún rằng không hiểu mấy về các lí luận văn học(6).  

(…) Phần trên đã nhìn lại một số tu từ pháp hậu hiện đại trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, những cách đọc như vậy có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ. Phần dưới đây, bài viết làm rõ những gì tôi tin là các vấn đề nổi bật trong cách đọc hậu hiện đại và đồng thời đưa ra một số khả thể giải thích có tính thay thế khác. 

Nguyễn Huy Thiệp và gánh nặng của lịch sử văn chương Việt Nam
(…) Có hai truyền thống tự sự riêng biệt ngự trị văn chương Việt Nam. Thứ nhất, là dạng truyền kì với các truyện kể dân gian hoang đường, huyền hoặc, nơi nhân vật lịch sử “có thật” được trộn lẫn với siêu nhiên tồn tại trong thế giới thần linh. Loại thứ hai, truyện thơ, là phiên bản trữ tình của người Việt lấy từ văn xuôi Trung Quốc. Vùng thoát khỏi chữ Hán hay còn được biết đến là văn tự Nôm bản địa (cả hai đều không có nhiều người có thể đọc), những truyện kể Nôm được xây dựng trong hình thức thơ ca tự nó dễ dàng truyền miệng và sinh sôi. Những tuyệt tác văn học cổ điển Việt Nam như Truyện Kiều và Lục Vân Tiên là ví dụ của hình thức này. 

(…) Suốt những năm giữa hai cuộc Thế chiến, khi những bậc thầy hiện đại chủ nghĩa như J. Joyce, Mallarmé, E. Pound đang văng ra khỏi quỹ đạo tìm biết của châu Âu, thì hai trào lưu văn học ảnh hưởng nhất xuất hiện ở Việt Nam là phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn, rõ ràng, đều hình thành bởi mĩ cảm mơ mộng và u sầu từ chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Được viết và đọc bởi giới trẻ, rồi mở rộng ra tầng lớp trung lưu đô thị, kiểu thơ văn này biểu lộ mối bận tâm gần như ám ảnh những quan niệm của giai tầng tư sản về ái tình lãng mạn, cảm thức cái tôi và tự do cá nhân. Theo N. Jamieson, những nhà Thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu hay Chế Lan Viên hầu như đều lờ đi những vấn đề chính trị - xã hội, chọn “thám hiểm không gian tinh thần hơn là xã hội”(7). Trong khi đó, các nhà văn Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng hay Hoàng Đạo lại quẳng ra những nhà cải cách, phê phán chống lại những thiết chế xã hội và truyền thống gia đình cổ hủ, chẳng hạn như hôn nhân sắp đặt, và những di chứng đó trở thành điểm bất hòa đối với tầng lớp học thức và có tư kiến. Ngay cả Thạch Lam, với thứ văn chương cúi xuống tâm điểm đời sống dưới đáy, dường như cũng ra vẻ bề trên trong cái nhìn ngày nay.

(…) Nhận thức về giới hạn chí tử của văn học hiện đại ở Nguyễn Huy Thiệp có thể nhặt nhạnh được từ những trích dẫn mà ông đưa vào trong các tác phẩm cụ thể cũng như trong bốn tiểu luận được ông đăng từ 1988 đến 1992 đi kèm với những trải nghiệm và luận điểm của mình với tư cách nhà văn(8). Trong khi Nguyễn Huy Thiệp phải tham bác hầu hết các tác gia lớn của văn học Việt Nam cho việc viết văn của mình (Trần Tế Xương, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm) thì đồng thời ông cũng tìm xem các nhà văn châu Âu là Stendhal, Balzac, Maupassant, Flaubert, Gogol, Pushkin, Dostoevsky, Gorki, Goethe, Tolstoy, Hugo, Diderot, Camus và Sartre. Trừ ngoại lệ là hai nhà văn sau cùng của chủ nghĩa hiện sinh Pháp, tri nền của Nguyễn Huy Thiệp về văn học phương Tây dường như đậm chắc hơn ở văn học Pháp, Nga thế kỉ XIX.  

(…) Cho tới đây, bối cảnh mà bài viết phác thảo hầu như không thể duy trì luận điểm rằng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là sự phá vỡ hay sâu sắc thêm đối với chủ nghĩa hiện đại Việt Nam bản địa, hoặc đối với dăm ba hạng tác gia hiện đại (hậu hiện đại) từ lâu được “nhập nội”.  Điều này quay trở lại xói mòn những nỗ lực phân loại tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp như là hậu hiện đại. Tôi thấy nhiều gợi mở hơn từ việc nối tiếp những nhà phê bình Việt Nam đọc Thiệp, và đọc tác phẩm của ông trong mối liên hệ, một mặt với phong cách và quy thức của lịch sử văn học Việt Nam tiền thực dân và mặt khác, với nét chủ đạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa miền Bắc. (…) Cách thức khác thường của Nguyễn Huy Thiệp là đưa truyện mình gài vào nhật kí, thư tịch, và tài liệu có tính chất lịch sử, rồi tinh quái hàm ơn việc được xáo trộn nó.

(…) Tâm thế của một nhà sử học hiện rõ trong sự chú tâm tỉ mỉ của Nguyễn Huy Thiệp dành cho ngày tháng, địa danh, và những nhân vật lịch sử danh tiếng vốn được đưa vào chủ yếu hoặc một phần trong các truyện Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc và Nguyễn Thị Lộ. Nếu những truyện này cho thấy Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn lại những vấn đề lớn của lịch sử chính trị Việt Nam, thì những truyện khác, như Giọt máu, vốn mô tả sự lưu chuyển lợi tức và đạo đức của một gia đình nhiều thế hệ, lại cho thấy Nguyễn Huy Thiệp gần như là sử gia xã hội. Một lần nữa, trái ngược nhau, khi Nguyễn Huy Thiệp, nhà sử học, người định giá xã hội Việt Nam đương thời thông qua giải thích lại cái nhìn quá khứ, Lỗ Tấn lại là một thầy thuốc chẩn đoán bệnh trạng xã hội Trung Hoa trong những ẩn dụ thuốc men dứt khoát. 

 (…) Cảm giác cô đơn, tuyệt vọng vây bủa truyện Nguyễn Huy Thiệp là trọng âm trong những trò chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, và thực sự, dường như để thể hiện một giọng điệu phổ quát hơn về cõi hiện tồn bi quan. Ở Vàng lửa: “Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lí thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những mối bất hòa kì thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?”. Trong Chảy đi sông ơi: “Con người ta tăm tối lắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường. Tôi muốn gào lên chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao”. Trong Những bài học nông thôn: “Tôi nhận ra thế giới bao la vô cùng vô tận, bản thân tôi, sự sống và ngay cái chết đều là bé nhỏ và không có ý nghĩa gì”. Trong khi những câu này có thể đứng cùng hàng với kiểu hậu hiện đại “vô can”, “thản nhiên”, thì độc giả Việt Nam đọc Nguyễn Huy Thiệp lại cảm thấy rõ giọng điệu của chúng, sự u buồn lệch hướng đáng chào đón, khác hẳn thứ lạc quan chủ nghĩa ép buộc trong các tác phẩm được quan phương thừa nhận.

(…) Điều đáng chú ý cuối cùng khi Nguyễn Huy Thiệp vi phạm các quy tắc văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, ông chối từ việc xếp loại một cách máy móc hồ sơ tính cách các nhân vật của mình với thứ bậc giai cấp nào đó. Những người nông dân, thợ thầy, đám chài lưới của ông không đứng đắn cũng chẳng lao động hăng say gì; những thành viên đoàn thể cũng không sáng láng hay quá đức hạnh; còn thói mua chuộc của đám giàu có chỉ gây ấn tượng rằng nó chẳng qua cũng lan tràn khắp nơi ngoài xã hội. Tương tự như thế, cái nhìn xét lại của Nguyễn Huy Thiệp về các nhân vật lịch sử như Gia Long, Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du và Nguyễn Trãi phá vỡ danh tiếng quan phương của họ và ngầm nhắm vào những giá trị bất khả nghi ngờ trước đây trong lịch sử Việt Nam(9).

Nguyễn Huy Thiệp và tính chất hậu hiện đại
(…) Một trong những cánh cửa rọi vào môi trường văn hóa kinh doanh của miền Bắc đương thời là chuỗi điều tra trên diện rộng được định hướng bởi nhà nhân học Lương Văn Hy tiến hành ở nhiều làng Bắc Bộ từ 1987 đến 1991. Kết quả của ông cho thấy những cải cách kinh tế của Đảng đã kích hoạt căn bản sự “cải biến về mặt văn hóa xã hội” mà biểu hiện là sự “tăng mạnh các thực hành nghi lễ”(10) ở nhiều làng quê. Ông chỉ ra sự tái sinh một cách mới mẻ các nghi lễ làng xã rất mực lề lối và thống nhất, bao hàm cả sự gia tăng đáng chú ý những phí tổn trong cưới xin, tang ma, cúng giỗ. Những phong tục đó từng bị nhà nước gạt bỏ vì quá lãng phí hoặc “phá vỡ tính thống nhất cộng đồng”, từng bị ngăn cấm theo định kì, chẳng hạn như giết trâu mổ lợn, yến tiệc hội hè, quà cáp đi lại, nay được phát sinh trở lại và tăng mạnh thêm(11). Lương Văn Hy cho rằng hiện tượng này như là một “phục hồi có chọn lọc truyền thống trước 1945”(12). Trong khi những kết luận của Lương Văn Hy có thể không cho phép diễn dịch toàn diện bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam đương đại, chúng thực sự vẫn giúp giải thích mối bận tâm chế giễu của Nguyễn Huy Thiệp đối với sự trương phình rõ rệt của thứ văn hóa ăn uống trong đời sống Việt Nam.

(…) Những tóm lược đầy mỉa mai của Nguyễn Huy Thiệp về chuyện cưới hỏi, ma chay, tết nhất và những sự kiện đặc biệt do gia đình bày biện và diễn trong Tướng về hưu cho thấy một sự dồn đuổi để chiếm lĩnh và phê phán thứ văn hóa tân thời của tầng lớp trung lưu mới nổi ở miền Bắc. Mặc dù những nghi thức mà nhà văn mô tả có thể được truy lần theo vết tích truyền thống Việt Nam (…), nhưng những biểu hiện lúc này của nó lại bị lật tẩy trong các thứ tiện nghi lòe loẹt, vô vị, vô vọng, trong cõi tinh thần trống rỗng, hay thứ sách báo ướt át. Trái ngược với Lương Văn Hy nhận định về sự tái diễn có tính “chọn lọc” các đặc trưng văn hóa, Nguyễn Huy Thiệp lại ta thán tình trạng suy đồi toàn diện và sự trương phình chủ nghĩa vật chất của văn hóa đương thời. 

(…) Về cơ bản, con người bản năng, thú tính theo thuyết Darwin và việc tô đậm tính chất này trong quá trình thâm nhiễm chủ nghĩa tư bản trên miền Bắc bấy giờ được tái lặp như là những chủ đề quan trọng trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã triển khai chủ đề này ở truyện Cún. (…) Trong Muối của rừng, thậm chí Nguyễn Huy Thiệp còn làm mờ nhòe ranh giới giữa người và thú. Trong truyện, ông Diểu, một thợ săn đã lần theo đàn khỉ ở rừng sâu, quan sát những mối quan hệ phức tạp của gia đình khỉ này, những nghi thức chia thức ăn và tắm táp rất bầy đàn, trái ngược với tình thế đơn độc của ông. Ông Diểu bắn con khỉ đực từ trên chỏm núi cao, cởi quần áo ngoài leo lên để đưa nó xuống. Nhưng lúc ấy, ông bỗng thương hại và cởi chiếc quần lót đang mặc băng bó vết thương của con khỉ. Câu chuyện dừng lại với hình ảnh cuối cùng về ông Diểu, hoàn toàn trần truồng, vác con khỉ bị thương xuyên rừng, đến mức không sao phân biệt được thật rõ ràng những điểm riêng giữa ông Diểu và bầy khỉ trần trụi mà ông vừa săn đuổi. 

(…) Theo ý kiến của tôi, việc ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào địa văn hóa Việt Nam có nhiều nguy hiểm, và trong thực tế, những điểm lờ mờ của nó mới dừng lại ở nét mới mẻ và thú vị trong một hiện tượng văn chương khác thường. Vì tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bây giờ mới lần đầu được chuyển ngữ sang tiếng Pháp, tiếng Anh, sẽ có nhiều cơ hội cho độc giả nước ngoài đọc và diễn dịch. Điều cốt yếu phê bình lúc này, quan trọng là không bỏ mặc những điều kiện riêng biệt và cụ thể đã hình thành nên và thấm đẫm trong cái viết của Nguyễn Huy Thiệp 
 MAI ANH TUẤN dịch
(Nguồn: Peter Zinoman,
“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”,
Positions: East Asia Cultures Critique  2: 2 (Fall), p. 294-317)


-------

1. Greg Lockhart, “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”, Tạp chí Văn học3 (1989): 51.
2. Lê Xuân Giang, “Nhà văn đối thoại -  Phong cách phúng dụ”, Tạp chí Văn học 2 (1989): 79-83.
3.  Hồ Tài Huệ Tâm, “A Postmodern Critique of History and Literature in Vietnam: The Fiction of Nguyen Huy Thiep” (6/1992), 2.
4. Đào Trung Đạo, “Một vài vấn đề phê bình văn chương từ những tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp”, Hợp lưu 4 (1992): 130-146
5. Phân tích về đặc trưng này, xem Linda Hutcheon, The Polictics of Postmodernism (London: Routledge, 1989), chương 2.
6. Một bàn luận về văn chương tự-phản thân, xem Hite, “Postmodern Fiction”. Ba kĩ thuật “phá vỡ khuôn” (“frame-breaking”, thuật ngữ của Hite) của hậu hiện đại đáng chú ý có thể thấy trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là: ba cái kết riêng biệt khác nhau trong Vàng lửa; dùng các chú dẫn thơ ca kinh viện để phá vỡ thể loại trong Nguyễn Thị Lộ; hòa trộn những nhân vật có thật và hư cấu trong các truyện lịch sử và trong vở kịch Còn lại tình yêu .
7. Jamesion, “Shattered Identities and Contested Images: Reflections of Poetry and History in Twetieth-Century Vietnam”, Crossroads: An Interdisciplinary Journal of Southeast Asian Studies 7 (1992): 84.
8. Xem “Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn”, Sông Hương (4/1990): 57-61; “Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn”, Sông Hương (3/1990): 125-132; “Nhà văn và bốn trùm Mafia”, Sông Hương s.3, (4/1991): 41-45; “Con đường văn học”, Cửa Việt, s.13 (4/1992): 68-71.
9. Liên quan đến những mô tả này, xem Hồ Tài Huệ Tâm “Postmodernism Critique”, Taylor, “Locating the Boundaries”; và Zinoman, “Nguyen Huy Thiep’s Vang Lua”; Cũng có thể xem K.C.Nguyen, “Left to Write”, FEER (17/8/1989).
10. Lương Văn Hy, “Economic Reform and the Intensification of Rituals in Two Northern Vietnamese Villages, 1980-1990”, trong The Challenge of Reform in Indo-China, Borje Ljunggren và Peter Timmer biên tập (Cambridge, Mass: Harvard Institure for International Development, 1993), 259-291.
11. Lương Văn Hy, Tlđd, 270-284.
12. Lương Văn Hy, Tlđd, 270.
 
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 21.3.2016.

Tho trang

(Đọc “Thơ trắng” của La Mai Thi Gia, NXB Hội Nhà văn 2017)

    Không biết từ bao giờ, tôi rất quan tâm đến thơ và đọc thơ một cách đều đặn, không biết mệt mỏi. Tôi hầu như không bỏ qua một bài thơ nào một khi nó được được đăng trên báo, được đưa lên mạng. Tôi đọc cả những người quen biết và đọc cả những người không quen biết, đọc cả những người cũ và những người mới. Tôi coi đây là thói quen cố hữu và thường hằng của mình. Với tôi, nếu được một ai đó tặng một tập thơ mới xuất bản, cũng là hạnh ngộ. Tôi thường đọc ngay và cố gắng đọc kỹ lưỡng, cẩn thận, cố gắng không bao giờ để đánh mất niềm vui trong vai người thưởng thức, hưởng thụ thơ. Và thật may mắn cho tôi nếu như tôi tìm ra được trong các tập thơ ấy những bài thơ, những câu thơ gây được ấn tượng.

     Từ khi qua tuổi 60, trở về làm biên tập viên thơ ở Tạp chí Nhà văn và tác phẩm, tôi càng có điều kiện tập trung cho cái thói quen cố hữu và thường hằng ấy.

     Tháng trước, tại Hà Nội, nhà thơ trẻ La Mai Thi Gia trực tiếp tặng tôi tập thơ mới xuất bản của chị có tên gọi “Thơ trắng”. Và tôi đã đọc…

     Trước hết, tôi xin được làm một phép thống kê thuần túy. Từ trang 13 đến trang 117, tôi đã phải dừng lại nhiều lần để đánh dấu vào các câu thơ sau:

Viết cả đời không hết một chữ yêu (“Mai sau và sau nữa”);

Em là dòng sông

Qua bao bờ bãi

Cạn rồi

vẫn sông (“Nhan sắc còn say”);

Tự xa lắc xa lơ nào hoa cỏ cũng đòi xanh (“Hoa cỏ cũng đòi xanh”);

Người đi để lại em và mộng

Cứ ngỡ tình vừa mới sớm mai

Hay: Người đi phía ấy đường mây gió

Rộng rãi lòng xanh với cỏ cây

Xòe tay em đến từng đốt gió

Bỗng thấy đời trôi theo lá bay (“Đã biết rằng mai tan tác mộng”);

Lại nhớ anh đến giận cả hoa vàng (“Đừng đợi ngâu về”);

Này tình, tình có nhớ em?

Sao nghe phía gió dậy lên bão bùng

 (“Tàn đêm thương nhớ bời bời”);

Và ta, ta tan tác muôn phần

Chỉ khi có nhau mới thành mảnh ghép

 Nên thiếu mảnh nào cũng nghe chênh chao

(“Và ta, ta tan tác muôn phần”);

Nhổ tóc bạc cho người mình thương/ Nghe tim rưng rức/ Hình như mình chiều (“Lẽ thường”);

Em học sao khuya giữa trời đêm trong vắt/

Tự mình đẩy mình lên mênh mông

(“Ta nhuộm vào nhau cơn đau”);

Thắt dây lưng cho giòn

Em gánh đời ra chợ

Tình này cho anh nợ

Tình sau em sẽ chờ

(“Nhuộm cho mình tím ngắt”);

Những người đàn bà làm thơ chẳng dành để ngày sau

 Cứ sống và yêu thôi/ Tiêu đời mình vào trong mỗi khắc

 Lời lãi mang về là nhiều đêm chết lặng

Buồn đau cũng chẳng phải riêng mình

(“Những người đàn bà làm thơ”)…

     Có thể nói, “Thơ trắng” là một tập thơ về tình yêu cùng những gì liên quan đến tình yêu của một người đàn bà luôn coi tình yêu là một phần cơ bản, một phần hành xử không thể thiếu, mà ở đó, sự trải lòng luôn được nhắm tới. Cảm giác thơ được dẫn dắt bởi cảm xúc, chịu sự chỉ huy của cảm xúc là rất rõ. Thơ ấy cũng là thơ của một người không bi lụy, ít than van và có vai trò cứu rỗi, nâng vực tình yêu.

     Trong những câu thơ trên, rất đáng đánh dấu khuyên vào những câu:

Em là dòng sông/ Qua bao bờ bãi/ Cạn rồi/ vẫn sông;

Tự xa lắc xa lơ nào hoa cỏ cũng đòi xanh;

Em học sao khuya giữa trời đêm trong vắt/ Tự mình đẩy mình lên mênh mông…

Tôi thích câu Hoàng hôn đổ bệnh thật rồi như một chi tiết thơ đáng nhớ trong bốn câu mở của “Đáng đời mày trăng ơi”:

Không hẹn rồi chờ

Ly café với em khuấy hoài vào nhau mà không tan vị đắng

Cơn mưa nào nghênh ngang rơi giữa trời trưa đầy nắng

 Hoàng hôn đổ bệnh thật rồi.

Tương tự là Hình như mình đã chiều trong ba câu mở của “Lẽ thường”:

Nhổ tóc bạc cho người mình thương

 Nghe tim rưng rức

 Hình như mình chiều.

Chất “nói vậy mà không phải vậy” trong tình yêu, nhất là ở phía đàn bà (hoặc con gái) bộc lộ rất rõ trong những câu ngỡ như rất bình thường mà lại không bình thường chút nào:

Nói chung là em hết nhớ/ Nói chung là em hết buồn…/ Nói chung là không yêu nữa…/ Nói chung là không thèm nữa

     Có lúc, sự lỡ cỡ (hoặc lỡ nhịp) trong tình yêu cũng được diễn đạt một cách giản dị và đáng nhớ được hé lộ trong “Nhuộm cho mình tím ngắt”:

Thắt dây lưng cho giòn

Em gánh đời ra chợ

Tình này cho anh nợ

Tình sau em sẽ chờ

     Có lúc, chất kiêu hãnh tự thân hay sự hướng tới chất kiêu hãnh tự thân như một phẩm chất cần có và không của riêng đàn bà được hé lộ trong “Ta nhuộm vào nhau những cơn đau”:

Em học sao khuya giữa trời đêm trong vắt

Tự mình đẩy mình lên mênh mông

     Đọc “Thơ trắng”, người đọc khó tìm thấy dấu vết kỹ thuật của một người làm thơ có nghề. Đó là ưu điểm. Hay nói một cách khác: Phần bản năng trong thơ La Mai Thi Gia còn rất mạnh. Điều này cũng không quá lo lắng, vì trong làng thơ Việt Nam, Thanh Tùng – người vừa qua đời cách nay không lâu – cũng là nhà thơ của bản năng và thành công nhờ bản năng thi sỹ đấy thôi.

     Và như thế, cũng có nghĩa: Thơ La Mai Gia Thi còn để ngỏ lối rẽ và lối về trong những bài thơ mà chị sẽ viết và sẽ xuất bản trong tương lai gần, đương nhiên là sau “Thơ trắng”.

                                  ĐẶNG HUY GIANG

Hà Nội, Phố Khuất Duy Tiến đêm 6 tháng 1 năm 2018

20180404 Tui bac Sai Gon

Trong bức tranh chung của văn học Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945-1954, các tác phẩm kí ở vùng đô thị, nhờ vào đặc trưng thể loại của mình là tính xác thực, đã có những đóng góp riêng rất đáng ghi nhận. Đề tài của các tác phẩm này trải rộng từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, tranh đấu… Thành phần sáng tác không chỉ giới hạn ở miền Nam mà còn có sự góp mặt của các cây bút gốc Bắc vào Nam sinh sống và cả những tác giả lúc bấy giờ đang sống ở miền Bắc. Bài viết này sẽ khảo sát các tác phẩm kí ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945-1954 trên các bình diện nội dung phản ánh và hình thức biểu hiện, làm nổi bật đóng góp của thể loại này trong một giai đoạn văn học rất đặc biệt của đất nước.
 
Vấn đề thể loại

Thể loại là một vấn đề đáng lưu ý khi tìm hiểu về kí ở đô thị miền Nam giai đoạn 1945-1954, cũng như thể kí trong văn học Việt Nam các giai đoạn trước. Rất nhiều tác phẩm được tác giả định danh là một tiểu loại của kí lại mang đầy đủ đặc trưng của truyện ngắn và tiểu thuyết như hồi kíChị Dung (1949) của Hợp Phố, Lao tù (1949) của Thiên Giang, Tuổi xanh (tập san Nhân loại, 1952) của Sơn Mẫu, phóng sự Đơ-dèm cúp-bắp (báo Mới, 1953) của Vũ Xuân Tự, Bên lề xã hội(Mới, 1953) của Thanh Chương… Ngay cả phóng sự Đồng quê (1942) nổi tiếng của Phi Vân giai đoạn trước đó, được xem là phóng sự tiêu biểu viết về người dân quê Nam Bộ, cũng đậm tính tiểu thuyết với một câu chuyện hoàn chỉnh có mở đầu, cao trào, thắt nút, mở nút, diễn ra trong một khoảng thời gian kéo dài đáng kể trong cuộc đời nhân vật, nhưng thời gian và địa điểm cụ thể của sự kiện - những yếu tố quan trọng bậc nhất của phóng sự - thì lại không được đề cập đến. Một trong những đặc trưng của thể kí là cái tôi tường thuật, nhằm khẳng định tính xác thực của sự kiện, đảm bảo tác giả là người đã chứng kiến hoặc trải nghiệm sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Thế nhưng cái tôi tường thuật này lại không hề xuất hiện trong phóng sự Bên lề xã hội của Thanh Chương, hay trong một số truyện trong hồi kí Chị Dung của Hợp Phố. Sự phức tạp về mặt thể loại này xưa nay vẫn được giải thích bằng sự non trẻ của thể kí nói riêng và của nền văn học mới Việt Nam nói chung trong nửa đầu thế kỉ XX. Bản thân thể kí đã mang trong nó sự phức hợp giao thoa giữa văn học và báo chí, in đậm dấu ấn “sự hợp nhất truyện và khảo cứu”(1). Đường biên giữa kí và tiểu thuyết, truyện ngắn càng đặc biệt mong manh khi thể tài này còn đang trong quá trình hình thành và phát triển.

Nội dung phản ánh
Nội dung phổ biến của kí đô thị Nam Bộ giai đoạn này là đời sống sinh hoạt ở đô thành Sài Gòn, với số lượng bài viết tuy dồi dào và góc cạnh khai thác khá phong phú nhưng lại không có nhiều tác phẩm thật sự nổi bật.

Trong bức tranh Sài Gòn nhiều màu sắc, thế giới của những người lao động nghèo được những ngòi bút phóng sự hướng đến nhiều hơn cả. Đặng Thị Thanh Phương có tập phóng sự Bức tranh thành thị (1950) tập hợp những mảng màu tăm tối trong đời sống cơ cực của lực lượng lao động yếu ớt nhất trong xã hội: phụ nữ và trẻ em. Tác giả thuật lại từng hoàn cảnh cụ thể. Có những người vợ, người mẹ loay hoay làm những nghề nghiệp vất vả với thu nhập còm cõi để nuôi con, khi người chồng - trụ cột gia đình - đã chết hoặc đi xa. Có những đứa trẻ sớm dạt vào đời phải lăn lộn đấu tranh để kiếm sống... Tác giả tỉ mỉ ghi chép lại thu nhập của từng nhân vật để người đọc thời bấy giờ có thể hình dung cụ thể sự khốn khó của họ. Tuy nhiên, trong những mảng màu đen tối nhất của bức tranh thành thị vẫn sáng lên những tia hi vọng mỏng manh và ấm nồng tình cảm. Chị Khanh nghĩ đến chồng nơi xa để tiếp thêm nghị lực vượt qua khốn khó; bà Bá tuy “làm mà sống cho qua ngày” vẫn mong mỏi sớm được gặp lại đứa con trai đi xa. Không dày dặn như tập phóng sự của Đặng Thị Thanh Phương, phóng sự Dân cu-li của Ngụy Văn Thông (Mới, 1953) đã chọn lọc những trường hợp tiêu biểu cho đời sống người lao động ở sở tư – những người bị trả đồng lương rẻ mạt giữa thời buổi giá cả sinh hoạt leo thang, bị chủ ngược đãi vì không biết tiếng nước ngoài, và luôn luôn trong tình cảnh có thể bị đuổi bất cứ lúc nào mà luật lao động lại không đứng về phía họ. Trong tình hình đó, phóng sự Người thợ Ba Son (Mới, 1953) của Việt Quang ghi lại một hiện thực khác sáng sủa hơn về tình hình đời sống của giới thợ thuyền ở hãng Ba Son. Nhân viên ở hãng làm tám giờ mỗi ngày như các hãng khác, nhưng được tổ chức phục vụ cơm trưa tại hãng với giá rất rẻ trong chế độ hợp tác xã, mỗi phân sở đều có nơi để công nhân nghỉ ngơi, tắm rửa. Bài phóng sự ghi chép tỉ mỉ hệ thống tổ chức và chế độ lương bổng ở Ba Son với hi vọng các hãng khác có thể học tập.

Một vấn đề nổi bật khác của Sài Gòn thời kì này cũng xuất hiện nóng hổi trong phóng sự là tài xỉu. Với phóng sự Tấn công tài xỉu (1949), Vũ Xuân Tự phơi bày trò cờ bạc này lên trang viết với tất cả những chi tiết sống động, cụ thể về sức cám dỗ của nó bằng những câu chuyện người thật việc thật. Ông mô tả chân dung của những “ông thánh tài xỉu” với những ngón nghề, chiến thuật trong sự nghiệp tấn công tài xỉu nhưng rồi vẫn lâm vào cảnh tán gia bại sản, bỏ xứ đi xa hay treo cổ tự tử; những kẻ cố vùng vẫy khỏi vòng tay mê hoặc của tài xỉu nhưng đến khi tưởng thoát ra lại tự dẫn xác vào. 

Tình hình kinh tế, xã hội ở đất Sài Gòn sau này cũng được Hà Việt Phương, một cây bút xứ Bắc, khắc họa lại trong bài phóng sự Sài Gòn xây dựng dài hai kì đăng trên báo Mới (1953). Tác giả cũng thuật lại quyền lợi kinh tế Sài Gòn nằm chủ yếu trong tay người nước ngoài, mà cụ thể ở đây là người Tàu, thông qua việc miêu tả những cửa hiệu với những màu sắc văn hóa xa lạ nhan nhản trên phố phường Sài Gòn trong khi người Việt phần lớn là những người làm công nghèo khổ trên xứ mình. Tác giả thốt lên chua chát: “Thì đã bảo mình là kẻ ngụ cư ở trong nhà mình mà lị”. Trong nhật kí Sài Gòn có gì lạ? (Mới, 1953), Việt Phương tường thuật lại những việc mắt thấy tai nghe trong đời sống chính trị ở Sài Gòn, những rối ren trong đời sống kinh tế, và cả những hoạt động của các tổ chức ra sức chống giặc đói, giặc dốt.

Bên cạnh những bức tranh có tính chất rộng lớn về thời sự xã hội ở Sài Gòn, các tác giả còn hướng đến những đề tài hẹp hơn với những phóng sự ngắn như Nằm của Thiết Can (Thế giới, 1950) viết về những bệnh nhân lao phổi đang phải điều trị trong bệnh viện, Đơ-dèm cúp-bắp của Vũ Xuân Tự (Mới, 1953) về những người bị bắt lính ở Sài Gòn, Phật Mẫu giáng trần hay khách trú làm tiền và Nàng tiên Kiều của Nguyễn Duy Hinh (Mới, 1953) về tệ mê tín dị đoan và sự thừa cơ làm tiền của những người Tàu hám lợi, Ế vợ! Ế vợ! của Vũ Xuân Tự (Mới, 1953) về việc các chàng trai, cô gái Sài Gòn vì quá nhát, quá nghèo, quá kén, quá keo kiệt, hay nghe thiên hạ hù dọa mà không xây dựng nổi gia đình.

Bên cạnh Sài Gòn hào nhoáng và xô bồ, nông thôn Nam Bộ cũng là đề tài hấp dẫn của kí. Đồng quê Nam Bộ đã được miêu tả khá kĩ trong bộ tứ tác phẩm: phóng sự Đồng quê (1942), truyện dàiDân quê (1949), Tình quê (1949) và truyện ngắn Cô gái quê (1949) của Phi Vân, một tác giả trưởng thành ở ruộng đồng Nam Bộ. Với chùm tác phẩm này, Phi Vân được xem như một Ngô Tất Tố của Nam Bộ. Phóng sự Đồng quê đã được giải nhất trong cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ năm 1943, và cũng là tác phẩm ghi lại sinh động phong tục, sinh hoạt và cả sự mê tín của người dân quê miền Hậu Giang. Đến năm 1954, độc giả được biết đến nông thôn Nam Bộ qua ngòi bút của một tác giả gốc Bắc: Nguyễn Hiến Lê, với quyển du kí - biên khảo Bảy ngày trong đồng Tháp Mười. Nếu những trang phóng sự của Phi Vân có cái tự tin, mộc mạc của người hết sức quen thuộc với những gì mình ghi chép, đồng thời chất chứa những cảm xúc gắn liền với thời ấu thơ của chính tác giả, thì công trình du kí - biên khảo của Nguyễn Hiến Lê lại chứa đựng niềm thích thú, say mê của người phương xa, đan xen những cái nhìn so sánh tinh tế của người có cơ hội trải nghiệm thiên nhiên, văn hóa của cả hai miền Nam Bắc.

Không chỉ gói gọn trong những đề tài về thành thị và nông thôn miền Nam, những tác phẩm kí xuất bản ở Sài Gòn giai đoạn này còn khai thác hiện thực ở những miền đất khác của đất nước, mà tiêu biểu hơn cả là Hà Nội và Huế. Đời sống xã hội trên đất Hà Thành thời kì này xuất hiện trên báo chí Sài Gòn dưới ngòi bút của các nhà văn ở cả hai miền Nam Bắc. Vũ Bằng gửi đăng bút kí dài kì Hà Nội trong cơn lốc trên báo Mới – một tờ báo miền Nam – khi ông vẫn còn đang sống giữa lòng Hà Nội, chứng kiến mọi chuyện bi hài những năm thành phố còn bị Pháp tạm chiếm, từ ăn mày, ăn ở, ăn mặc, ăn cắp, ăn chơi, đến chuyện lo thầy chạy thuốc, chuyện sinh hoạt văn nghệ. Trước đó, Phan Như Mỹ có bài kí sự Dưới mắt của một du khách miền Nam: Hà Nội 1952 cũng thuật lại Hà Nội ăn uống, sinh hoạt, lịch sử và văn hóa. Đây là tác phẩm “đặt hàng” của báo Đời mới với mục đích “muốn đời sống ở Hà Thành được một đồng bào Nam Việt chưa từng biết đất Bắc ra sao tả ra theo sự trông thấy của người Nam, với cây viết người Nam… mà cũng làm cho đồng bào ở Bắc nhận ra chỗ người Nam thấy lạ.” Độc giả Sài Gòn còn được biết thêm về đời sống của đồng bào Hà Nội sau cách mạng tháng Tám qua những trang phóng sự của một số tác giả miền Bắc khác gửi đăng báo trong Nam như Huyền Trang với Những kẻ lạc loài (Tia sáng, 1954) hay Phan Tăng Phú với Đời sống học sinh nghèo (Tia sáng, 1954). Đời sống ở Huế thời kì này được kể lại qua phóng sự Huế muôn màu của Tô Kiều Vân (Đời mới, 1952) vàSau ánh sáng đô thành: Huế 1953 (Mới, 1953). Cả hai tác phẩm đều miêu tả Huế ở những góc tối của cuộc sống, nơi có những người lao động nghèo, những số phận hẩm hiu, những con người tội nghiệp, và cả những nghề nghiệp bất đắc dĩ. Đề tài của kí đô thị miền Nam còn đi xa hơn nữa, vượt ra khỏi biên giới quốc gia để tìm đến những miền đất lạ qua những trang du kí như Có gì lạ? Bên kia Thái Bình Dương (Tia Sáng, 1952) của Ngọc Văn hay ghi chép Người Việt ở Paris (Việt báo, 1949) của Thúy Lãnh.

Một bộ phận đáng chú ý nữa là những tác phẩm hồi kí đi đày như Côn Lôn ký sự (Tân Việt Nam, 1945) của Thiết Hán, Lao tù (1949) của Thiên Giang hay Tôi bị đày đi Bà Rá (1949) của Việt Tha. Đây là bộ phận ít ỏi của kí đô thị viết về thế giới của những người chiến đấu. Cho dù đó chỉ là kí ức về những ngày tranh đấu trước cách mạng và đã bị kiểm duyệt cắt bỏ khá nhiều, những trang viết này đã góp phần thổi lửa vào lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu ở đô thị, nơi mà thoạt nhìn vào chỉ thấy hào nhoáng ánh đèn, rối ren tệ nạn hay lê thê những nỗi lo áo cơm mệt mỏi. Việt Tha ghi chép lại quãng thời gian ông bị quản thúc ở Sa Đéc vì những hoạt động tranh đấu ông đã làm trong quá khứ và đã “trả nợ” bằng nhiều năm lao tù. Hồi kí của ông giàu giá trị thông tin với những mẩu chuyện về hiện thực đời sống tù nhân, những cuộc đấu tranh, những chuyến vượt ngục tự phát hoặc có tổ chức, với những nhân vật có tên tuổi cụ thể, trong đó có những người khá có tiếng tăm như Phan Văn Hùm, Trần Văn Giàu, Cao Văn Chánh… Thiên Giang hồi tưởng những ngày ông bị giam cầm ở nhà tù Lao Bảo, nơi từng giam cầm, tra tấn những nhà yêu nước và chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Bá Kiệm, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… Thiên Giang khắc họa lại chân dung những tù nhân - chiến sĩ đẹp can trường bên trong thân xác tả tơi, hơi thở nặng nhọc, giữa không gian tối tăm, ô uế, bế tắc và đau đớn.

Ngoài ra, trên báo chí Sài Gòn giai đoạn này thường có rải rác các tùy bút, tản văn, bình luận giàu cảm xúc trước những sự kiện của thời đại như Ta đã làm gì? (Thế giới, 1950), của Vĩnh Sanh, Thôi cho hết cái năm nay đi và Sài Gòn năm nay có mùa thu (Mới, 1953) của Vũ Xuân Tự, tùy bút An bình của Trần Cẩm và Đường miền xuôi của Ái Lữ (Nhân loại, 1953).

Vài nét về hình thức thể hiện
Kí đô thị Nam Bộ 1945-1954 tuy có biên độ phản ánh rộng và đa dạng về nhiều vấn đề, lưu giữ chi tiết và sinh động một phần lịch sử của đất nước trong những tháng năm sôi động và nhiều ý nghĩa, nhưng lại không có nhiều thành tựu mới mẻ về nghệ thuật khi đặt cạnh những cái bóng lớn của kí văn học giai đoạn trước như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam... Với sự trợ lực của báo chí đô thị lúc này vẫn rất sôi động, phóng sự và kí sự là các thể kí được sử dụng nhiều hơn cả, và tính ngắn gọn, trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề là đặc điểm khá tiêu biểu. Những phóng sự, kí sự đăng trên báo, có lẽ do hạn chế số chữ và số trang in, thường không thật dài. Nằm của Thiết Can, Dân cu-li của Ngụy Văn Thông, Huế muôn màu của Tô Kiều Ngân, Sau ánh sáng đô thành: Huế 1953 của Ngọc Diệu, Người thợ Ba Son của Việt Quang, Sài Gòn có gì lạcủa Việt Phương… chỉ dài từ ba đến năm kì báo, mỗi kì từ một đến hai trang báo. Có những phóng sự ngắn chỉ đăng trong một kì báo như Hạng người sống thiếu: đời sống của những trẻ đánh giày của Đằng Nhâm, Bên lề xã hội của Thanh Chương, Phật Mẫu giáng trần hay mấy ông khách trú làm tiền? và Nàng tiên Kiều của Nguyễn Duy Hinh. Trong vùng không gian giấy chữ hạn hẹp ấy, tác giả cố gắng dồn vào nhiều thông tin nhất có thể và chẳng mấy dụng công vào câu từ hoa mĩ, khai thác suy nghĩ của nhân vật hay phơi bày cảm xúc tác giả. Dưới mắt một người miền Nam: Hà nội 1952 giống như một mẩu tốc kí, tác giả cố dồn càng nhiều thông tin vào bài viết càng tốt: mục “Hà Nội sinh hoạt” được tái hiện trong những chi tiết về làng hoa Ngọc Hà với người lao động cần cù, lam lũ, những cửa hiệu ở phố Hàng Đào ế ẩm trong thời chiến, xích lô cũ kĩ xấu xí nhưng mô-tô lại khá thịnh hành, nhà cưới đắt đỏ, nhà tắm hơi phổ biến… tất cả chỉ trong nửa trang báo in. Trong lời giới thiệu phóng sự Sài Gòn có gì lạ? của Việt Phương, ban biên tập báo Mới đã thừa nhận rằng giá trị của phóng sự “không phải ở văn chương, giá trị của nó ở chỗ nó là một bằng chứng của sinh hoạt chính trị và văn hóa”. Không chuốt chữ tô lời nhưng những phóng sự này ít nhiều hấp dẫn ở chính những sự thật tươi rói căng chật trong từng câu chữ.

Bên cạnh đó cũng có một số tác phẩm đăng báo kéo dài khá nhiều kì và khai thác sâu sự việc cũng như thể hiện cá tính tác giả khá rõ như bút kí Hà Nội trong cơn lốc của Vũ Bằng đăng liên tiếp hai năm 1953-1954 trên báo Mới, phóng sự Những kẻ lạc loài của Huyền Trang đăng trong hai năm 1952-1953 trên Tia sáng.

Những tác phẩm kí xuất bản thành sách có vẻ dày dặn và được đầu tư công phu hơn đa số bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Tác giả có nhiều thời gian biên tập tác phẩm của mình, do đó về mặt nghệ thuật thể hiện, tác phẩm cũng có nhiều điểm hấp dẫn hơn. Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê không chỉ ghi chép những chuyện thu lượm được trong chuyến đi công tác Đồng Tháp Mười mà còn đan cài những biên khảo rất công phu, tỉ mỉ về địa lí, văn hóa xứ này. Cái tài tình của tác giả là ông đã đưa những thông tin khoa học, số liệu lịch sử một cách rất tự nhiên vào những cuộc trò chuyện vui giữa ông và các nhân vật trong tác phẩm. Người đọc có thể tìm thấy trong những trang kí của Nguyễn Hiến Lê nét quyến rũ riêng, vừa trí tuệ, vừa tình cảm. Tác giả thổi hồn vào những thông tin lịch sử khô khan nhờ biết tạo không khí thích hợp cho câu chuyện, lôi kéo người đọc chia sẻ cảm xúc cùng ông. Ở một đối cực khác, Vũ Xuân Tự cực kì hài hước với các phóng sự như Túi bạc Sài Gòn, Tấn công tài xỉu, Đả đảo phở tái, Muộn chồng… đến những phóng sự ngắn vui, phóng sự điều tra nặng tính thông tin hay các tùy bút đăng trên các báo như Đơ-dèm cúp-bắp, Trong cuộc săn voi Sài Gòn B, Những cô hồn tòa án, Đi bắt ngoại tình, Ế vợ! Ế vợ!, Thôi cho hết cả năm nay đi, Sài Gòn năm nay có mùa thu… Hai hồi kíTôi bị đày đi Bà Rá của Việt Tha và Lao tù của Thiên Giang cũng rất giàu chất văn học. Cùng là hồi ức về những ngày tù đày gian khổ, mỗi tác giả có một cách khai thác khác nhau. Việt Tha thể hiện phong cách nhà báo rất rõ khi những sự kiện ông tường thuật lại thường đi kèm với tên họ đầy đủ của nhân vật, địa điểm cụ thể và ngày tháng xảy ra sự kiện. Ông có cách đặt tít “giật gân” đậm chất báo chí nhằm thu hút sự chú ý của bạn đọc như Gặp Phan Văn Hùm ở khám mới, Trịnh Hưng Ngẩu làm lục lộ, Trần Văn Giàu trốn với mười một người “chánh hiệu”… Khác với hồi kí của Việt Tha, Lao tù của Thiên Giang không mang chút tính chất báo chí nào. Ông không đề cập đến thời gian cụ thể của những sự kiện diễn ra trong hồi kí, nhân vật cũng không được giới thiệu tên đầy đủ mà chỉ đơn giản là cố Thiều, ông Hai Cụt, bà Tư, anh Tiến, anh Long, anh Sơn, anh L., anh Đ., lão Xếp... Các tiêu đề của ông thiếu tính thông tin nhưng giàu xúc cảm và tính gợi mở văn chương như Dưới nắng hè, Trong chỗ quạnh hiu, Nguyện vọng cuối cùng… Thiên Giang không kể lại sự kiện theo trật tự thời gian với ưu tiên cung cấp thông tin về những gì đã xảy ra trong những năm tháng ông ở tù, mà chỉ chọn lọc những câu chuyện hướng về một đề tài chung: sự tàn bạo của nhà tù và tinh thần chiến đấu của người tù Lao Bảo. Những câu chuyện của ông không chỉ có sức lay động ở chính bản thân sự thật khốc liệt, mà còn ở cách ông xây dựng nhân vật, sắp xếp các chi tiết để tạo nên tình huống bất ngờ. Những người tù trong hồi kí của Thiên Giang đều được vẽ nên bằng những nét bút rất đẹp. Ở họ lúc nào cũng toát ra lòng tự tôn và tinh thần tranh đấu mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh. Tiến, Sơn là những nhân vật “sừng sỏ” trong việc tổ chức anh em tù nhân tuyệt thực để đòi những quyền lợi tối thiểu. Họ không nao núng cả khi bị tra tấn dã man mấy ngày liền, hay bị chiêu dụ bằng vật chất và quyền lực trong tù. Tiến cố giữ cho lòng mình không nao núng khi cai ngục lấy tình thương của người mẹ già tội nghiệp để làm mềm lòng chàng. Còn Sơn khi bị bắt, được cha mình là quan Huyện tìm cách cứu thoát, đã thẳng thừng trả lời với cha: “Thầy có đưa con ra khỏi chỗ này, thì một ngày khác con lại trở vô. Con không thể mang cái sỉ nhục mà sống đời được. Con làm sao yên hưởng lạc thú gia đình khi mà bạn bè của con còn ở đây.” Thiên Giang dành nhiều tình cảm cho các nhân vật trong hồi ký của mình đến mức họ hiện ra phảng phất nét đẹp của các nhân vật trong tiểu thuyết. Ông viết những dòng miêu tả tâm trạng ngồi tù của Tiến không khác gì tâm trạng những nhân vật trong tiểu thuyết: “Từ ngày ra đi đến nay, có lẽ chàng không có một dịp nào để nghĩ đến việc ở nhà. Mà nghĩ đến làm gì, người chiến sĩ “lên yên” đã nguyện thí thân cho gió bụi. Chàng không ngờ trong đời chàng lại có lúc nằm đếm bước thời gian để tưởng nhớ đến tất cả những chuyện mà chàng coi như đã vất qua bên lề đời…”

Nhìn chung, kí đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1954 tuy không có những thành tựu lớn về mặt nghệ thuật nhưng đã hoàn thành tốt vai trò của mình: ghi chép lại một giai đoạn lịch sử của thành phố nói riêng và đất nước nói chung một cách trung thành nhất. Đề tài của kí trải rộng từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, tranh đấu… hoàn thành sứ mệnh người thư kí của thời đại trong một giai đoạn lịch sử sôi động và nhiều ý nghĩa.

N.T.P.T
______

1. M.Gorki, dẫn theo Hoàng Ngọc Hiến, (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, tr.6.
 Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ngày 30.3.2018.

20171229 hoi dong chung khao

Ảnh: Hội đồng chung khảo

NVTPHCM - Như tin đã đưa, Từ kết quả xét chọn từ các hội đồng chuyên môn sơ khảo và hội đồng chung khảo giới thiệu lên, BCH Hội Nhà văn TPHCM đã họp thảo luận thống nhất giải thưởng năm nay có 03 loại hình: giải thưởng chính thức (01 giải), tặng thưởng (07 giải), tặng thưởng tác giả (02 giải).

GIẢI THƯỞNG CHÍNH THỨC:

1/ Văn chương phương Nam một vài bổ khuyết (Tập nghiên cứu LLPB) của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy.

TẶNG THƯỞNG:

1/ Đêm nay con có mơ không? (Tập tản văn) của tác giả Trương Gia Hòa

2/ Những ký âm ngân (Tập thơ) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Long

3/ Dưới mái nhà xanh (Tập thơ) của tác giả Tôn Nữ Thu Thủy

4/ Thơ trắng (Tập thơ) của tác giả La Mai Gia Thi

5/ Nghi lễ của ánh sáng (Tập thơ) của tác giả Lê Tuân

6/ Đi tìm ẩn ngữ văn chương (Tập LLPB) của tác giả Trần Hoài Anh

7/ Hoa rơi hữu ý (tập LLPB) của tác giả Lê Thiếu Nhơn

TẶNG THƯỞNG TÁC GIẢ:

1/ Ngàn năm biển gọi (Tiểu thuyết) của tác giả Trúc Phương và những đóng góp của ông trong suốt sự nghiệp văn học.

2/ Rượu với văn chương (Tập biên khảo, sưu tầm, chân dung văn học) của tác giả Trần Thanh Phương và những đóng góp của ông trong suốt sự nghiệp văn học.

Hội cũng tiến hành kết nạp 17 hội viên mới, trong đó có những cây bút quen thuộc như Nguyễn Công Lý, Phan Xuân Viện, Nguyên Trân, Mã Thiện Đồng, Bùi Phan Thảo, Đặng Tường Vy, Văn Nguyên Lương…

Lễ trao giải thưởng và kết nạp hội viên mới sẽ diễn ra vào dịp lễ tổng kết cuối năm.

HNV TPHCM

Bùi Diệp là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đoản văn rất đặc sắc. Anh đã có 3 tập đoản văn được xuất bản: Không gian tiệm nước, Về thương chim sẻ, Về ngang quán không và một số truyện ngắn đăng báo Tuổi trẻ, Tuổi trẻ cuối tuần. Anh cũng là nhà thơ với rất nhiều bài thơ có bản sắc được lưu truyền trên mạng. Sinh năm 1963, học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp TP.HCM khóa 1983-1987, do hoàn cảnh gia đình mà phải bỏ về quê ở Phan Rang. Vừa qua anh bị bệnh nặng, gia đình đã đưa vào TP.HCM để điều trị nhưng không qua khỏi. Anh qua đời ngày 6 tháng 3 năm 2018 ở quê nhà Phan Rang, hưởng dương 56 tuổi.

Hình như cảm nhận được cái ngắn ngủi của cuộc đời nên Bùi Diệp qua những trang văn, trang thơ của mình như muốn cố níu giữ những điều quý giá nhất của cuộc sống: những kỷ niệm đẹp thời ấu thơ, những nét đẹp của quê hương, và nhiều nhất là ký ức về tình bạn, tình thân yêu gia đình hay một tình yêu mơ hồ nào đấy… Bây giờ anh đã về nơi “quán không” vĩnh hằng, bạn bè vẫn nhớ về anh: một người bạn rất hiền và tử tế, độc giả vẫn xem văn của anh như theo sóng tìm nguồn mà tìm thấy gương mặt của anh, tâm hồn của anh.    

Website Văn học từng giới thiệu thơ anh, báo Tuổi trẻ cũng giới thiệu tập đoản văn mới nhất cảu anh: Về ngang quán không. Xin đăng lại dưới đây.

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/sang-tac/6439-th%C6%A1-b%C3%B9i-di%E1%BB%87p.html

Một lần lang thang trên Face book, tình cờ đọc được bài thơ hay Ờ thôi sau bài hát đó trên FB“Bùi Diệp”. Có một cái gì đó nghèn nghẹn, chất chứa không muốn nói ra, mà không thể không nói ra. Có thể là một kỷ niệm, một cuộc tình, mà cũng có thể là một cuộc đời: trái ngang, lỡ dở. Đọc mục Giới thiệu mới biết Bùi Diệp là cựu sinh viên Đại học Tổng hợp (ĐH KHXH&NV ngày nay), học Văn khóa 1983-1987. Học chưa xong anh bỏ về quê, làm ruộng, viết báo kiếm sống và làm thơ. Anh làm thơ khá nhiều mà có vẻ như mỗi bài làm ra không dễ. Tôi thích nhất mấy bài thơ sáu chữ của anh: ngang ngang, khô khô, phớt tỉnh. Đọc xong mấy bài này, tôi gõ vào comment trên Face của anh: Nhẹ mà xót, tỉnh mà đau. Lời ít tình nhiều . Viết xong được nhiều người Like.

(Đoàn Lê Giang)

(Báo cáo đề dẫn Hội thảo “Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp”)

                                Đoàn Lê Giang*

Hôm nay 30 tháng 10 năm 2017, ở Thành phố Quảng Ngãi các vị khách quý trong tỉnh nhà, các học giả từ Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành trong cả nước tụ hội về đây tham dự Hội thảo Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp, để trình bày những nghiên cứu mới nhất của mình, thảo luận về những đóng góp vào sự nghiệp văn hoá, văn học, báo chí nước nhà của một trong những gương mặt trí thức tiêu biểu của tỉnh Quảng Ngãi, cũng là của nước ta 70 năm từ đầu thế kỷ XX: nhà văn, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ.

Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được tất cả 36 tham luận của 35 nhà nghiên cứu, trong đó có: 29 nhà nghiên cứu ngoài tỉnh; 06 nhà nghiên cứu trong tỉnh và 9 người có báo cáo là thân nhân gia đình Nguyễn Vỹ. Điều ấy cho thấy tình cảm và sự đánh giá rất cao của giới nghiên cứu, phê bình văn học dành cho Nguyễn Vỹ. Các tham luận tập trung vào các vấn đề sau đây.   

1. Tiểu sử - cuộc đời làm báo của Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 tại làng Tân Hội (sau đó đổi thành Tân Phong, sau 1945 đổi là Phổ Phong), huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, trong trong một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm ở huyện Đức Phổ tỉnh Quãng Ngãi. Thân phụ ông là Nguyễn Thuyên từng làm quan ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để tham gia phong trào cần vương chống Pháp.

Bản thân Nguyễn Vỹ cũng là một học sinh yêu nước, có tinh thần chống Pháp. Khi còn là học sinh trung học ở trường Quốc học Quy Nhơn (1924 – 1927), Nguyễn Vỹ đã tham gia phong trào chống thực dân nên bị đuổi học. Sau đó, ông ra Hà Nội tiếp tục học ban Tú tài.

Trong cuộc đời làm văn, làm báo của mình, Nguyễn Vỹ hai lần bị bỏ tù: một lần bị tù thực dân Pháp, một lần bị tù phát-xít Nhật. Năm 1937, ông viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp đăng trên tờ Le Cygne (Bạch Nga, song ngữ Pháp-Việt, do ông sáng lập), nên tờ báo bị rút giấy phép vĩnh viễn, còn bản thân ông bị tòa án thực dân kết tội “phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia”, bị tuyên phạt 6 tháng tù giam và 3.000 quan tiền. Năm 1939, khi quân Nhật vào chiếm đóng Đông Dương, quân Pháp đầu hàng, Nguyễn Vỹ viết 2 quyển sách cảnh báo về nguy cơ của phát-xít Nhật: Kẻ thù là Nhật Bản (H. E'dition Jeunesse; Impr. Văn Lâm, “Thanh niên tùng thư”, 1939. - 62tr.); Cái họa Nhật Bản (E'dition Bảo Ngọc, “Thanh niên tùng thư”, 1939), nên hiến binh Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê cho đến 1945 mới được thả.

Nguyễn Vỹ cũng là nhà văn có khuynh hướng dân chủ, ông lập toá báo, viết báo bênh vực người nghèo, công kích nhà cầm quyền đương thời. Các tờ báo Tổ Quốc số đầu tiên xuất bản vào năm 1946,  tờ Dân chủ xuất bản ở Đà Lạt sau đó, tờ Dân ta (1952), sau này là Phổ thông bán nguyệt san (1958), tuần báo Bông lúa…đều thể hiện khuynh hướng đó.

Ngày 04 tháng 02 năm 1971, ông qua đời bởi tai nạn giao thông trên đường đi từ Tân An về Sài Gòn, thọ 61 tuổi. Ngoài tên gọi thường gặp là Nguyễn Vỹ, ông còn có nhiều bút danh khác như: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Với khoảng 40 năm hoạt động báo chí, văn học, ông để để lại một sự nghiệp đồ sộ, chỉ riêng về sách, ông đã xuất bản trên 20 đầu sách gồm nhiều thể loại: thơ, ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, biên khảo, nghị luận.

      Thơ:

  1. Tập thơ đầu - Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
  2. Hoang vu (thơ), Phổ thông xuất bản, Sàigòn 1962.
  3. Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970
  4. Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970.
  5. Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971.

Truyện ngắn, tiểu thuyết, ký:

  1. Đứa con hoang, tiểu thuyết, Minh Phương xuất bản, Hà Nội, 1936 (?), 1938, 180 tr.
  2. Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn), Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 1937
  3. Người yêu của hoàng thượng, tiểu thuyết, Minh Phương xuất bản, 1938.
  4. Thi sĩ Kỳ Phong, tiểu thuyết, 1938
  5. Chiếc bóng, tiểu thuyết, Cộng lực xuất bản, Hà Nội 1941
  6. Những cô gái hư, Impr. Đời mới, HN, 1941, 141tr
  7. Hận Hoàng Giang, tiểu thuyết, Impr. Quốc Gia, HN, 1942, 26tr
  8. Mười hòn đá, Impr. Quốc gia, HN, 1943, 26tr
  9. Chiếc áo cưới mầu hồng , tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn, 1957 , 187 tr
  10. Giây bí rợ, tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn 1957, 230 tr (đã có)
  11. Hai thiêng liêng I,  “Tình yêu và Tổ quốc: hai thiêng liêng”, 246 tr. Hai thiêng liêng II, tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn, 1957, in lần đầu trên nhật báo Dân ta từ tháng 5 đến tháng 11/ 1953 (Lời giới thiệu)
  12. Mồ hôi nước mắt, tiểu thuyết, Sống Mới xuất bản, Sàigòn 1965.
  13. Tuấn, chàng trai nước Việt I, tác giả xuất bản. Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Triêu Dương xuất bản, Sàigòn, 1970.
  14. Văn thi sĩ tiền chiến, (chứng dẫn của một thời đại), Nxb Khai Trí, Sàigòn, 1970, 528 tr.

Văn nghị luận, biên khảo:

  1. Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), (Thanh niên tùng thư), H. : Impr. Văn Lâm, E'dition Jeunesse, Hà Nội, 1939
  2. Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), (Thanh niên tùng thư), E'dition Bảo Ngọc xuất bản, Hà Nội, 1939.
  3. Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1947.
  4. Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1948.
  5. Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970.

Sau 1975 nhiều sách của ông đã được tái bản. Không kể thơ ông được tái bản trong các tuyển tập, thì có 2 quyển sách được tái bản và được yêu thích là:

Tuấn - chàng trai nước Việt,  NXB.Văn học, HN, 2006. Năm sau lại được tái bản, NXB. Văn học, 2007; 4 năm sau lại được NXB. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh tái bản 2011;

Cuốn Văn thi sĩ tiền chiến được  NXB.Hội nhà văn tái bản lần đầu tiên vào năm 1994, NXB. Văn học tái bản 2007.

Năm 2003 tác phẩm của Nguyễn Vỹ cũng được NXB Văn học xuất bản trong tùng thư văn học có tính chất tinh tuyển, đó là bộ: Văn học Việt Nam thế kỷ XX : Tiểu thuyết trước năm 1945, Mai Quốc Liên, Chu Giang, Nguyễn Cừ sưu tầm, biên soạn. Quyển 1, tập 7, bao gồm các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Vỹ.

Những vấn đề về cuộc đời, sự nghiệp văn học và báo chí của Nguyễn Vỹ được trình bày trong các tham luận của: PGS.TS. Nguyễn Công Lý: Vài ấn tượng về Nguyễn Vỹ và “Phổ thông bán nguyệt san”; TS. Trần Hoài Anh: Nguyễn Vỹ nhà báo với ý thức dấn thân trong cái nhìn của các nhà nghiên cứu ở miền Nam 1954-1975; Nhà nghiên cứu Thiện Mỹ: Quê hương – gia đình và nhân cách Nguyễn Vỹ qua tư liệu ở miền Nam trước 1975; PGS.TS. Nguyễn Phong Nam: Dấu ấn Nguyễn Vỹ trong lịch sử văn học Việt Nam; Nhà nghiên cứu Vu Gia: Người cố gắng làm mới nền văn học chữ quốc ngữ; Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân: Câu chuyện dựa vào hồi ức Nguyễn Vỹ để tìm dấu vết hoạt động báo chí của Phan Khôi, TS. Mai Bá Ấn: Nguyễn Vỹ: tầm – tâm – tài và tình của người làm báo; TS. Trần Hoàng: Nguyễn Vỹ, văn chính luận; Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Trác: Đà Lạt và Nguyễn Vỹ; ThS. Bùi Văn Quảng: Nhà báo Nguyễn Vỹ với tuần báo "Thằng Bờm" ; ThS.Võ Quốc Việt: Những gợi ý từ bài viết “Văn chương và tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Vỹ trên “Phổ thông tạp chí”.

II. Nguyễn Vỹ, nhà thơ

            Các tham luận tập trung nghiên cứu về sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Vỹ: kiểm kê lại các tác phẩm thơ của ông, giá trị nội dung nghệ thuật, cá tính sáng tạo, đặc điểm thi pháp trong thơ ông.

PGS.TS. Nguyễn Thành Thi với tham luận: Người thơ Nguyễn Vỹ qua những bài thơ đậm sắc thái chính luận; TS. Lê Nhật Ký: Thử mở rộng giá trị thơ Nguyễn Vỹ, TS. Cao Thị Hồng: Thân phận con người trong thơ Nguyễn Vỹ; TS. Nguyễn Đình Thu: Thực và mộng trong thơ Nguyễn Vỹ; Nguyễn Công Đức: Ẩn dụ ý niệm trong thơ Nguyễn Vỹ, thông qua từng thể tài, từng khía cảnh, tìm hiểu những cảm hứng, giá trị và cá tính sáng tạo trong thơ Nguyễn Vỹ.

Một trong những cách tân quan trọng về thơ của Nguyễn Vỹ là chú ý đến hình thức sắp đặt bài thơ: bài thì ziczac, bài thì hình thoi, bài thì bậc thang…điều mà sau này người ta gọi là “Thơ thị giác”. Thơ thị giác khá phát triển gần đây, được coi là một trong những cách tân quan trọng của thơ ca đương đại. Nhưng ít ai ngờ là người đưa thơ thị giác theo kiểu phương Tây vào Việt Nam là Nguyễn Vỹ với trường phái thơ Bạch Nga. Các tham luận của Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, PGS.TS. Võ Văn Nhơn và TS. Thái Phan Vàng Anh đều tập trung vào vấn đề này (lần lượt là các tham luận: Nguyễn Vỹ làm thơ thị giác, Thơ thị giác của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Vỹ và vai trò cách tân thơ tiếng Việt hiện đại).

Đã là thơ thì phải là thơ hay. Nói đến Nguyễn Vỹ người ta nhớ ngay đến bài Sương rơi và bài thơ mà nhà phê bình Hoài Thanh gọi là “kiệt tác”: Gửi Trương Tửu:

Làm báo làm bung chán mớ đời!

Anh đi che tàn một lũ ngốc

Triết lý con cừu, văn chương cóc!

Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,

Ra chợ bán văn ngày tháng qua!

Cho nên tôi buồn không biết mấy!

Ðời còn nhố nhăng, ta chịu vậy!

Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,

Bực chí, thành say mấy cũng vừa.

Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ!

Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ

Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,

Rốt cuộc chỉ còn… mộng với mơ!

Trong các tham luận, bài viết của nhà phê bình Nhật Chiêu: Ánh sáng và bóng tối trong “Đêm trinh” của Nguyễn Vỹ cố gắng phát hiện ra một kiệt tác mới trong thơ Nguyễn Vỹ là bài Đêm trinh, một bài thơ sâu thẳm, huyền bí, trau chuốt và sang trọng kỳ lạ của Nguyễn Vỹ:

                     Đêm nay tôi không muốn ngồi gục bên đỉnh trầm

                                       Nghe rượu cười trong ly,

                                Nhạc quay cuồng trong khói,

                                       Thời gian đọng trên mi.

                                Tôi muốn về bên giếng tối,

                                       Khu vườn âm u,

                                Quê hương hoang vu.

                                       Không một dấu vết.

                                          (…)

            Thơ Nguyễn Vỹ người khen thì khen đến tận mây xanh mà chê thì chê đến tận cùng. Thực sự thì trong mấy chục năm qua, giới phê bình đã đánh giá về thơ Nguyễn Vỹ thế nào? Các ý kiến ấy có thể có giá trị tham khảo gì cho chúng ta ngày nay không? Các tham luận Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nguyễn Vỹ của PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn, Có lẽ chúng ta đã hiểu lầm Hoài Thanh của PGS.TS. Đào Ngọc Chương; Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của  phê bình văn học ở miền Nam 1954 – 1975 của TS.Trần Hoài Anh đi theo hướng nghiên cứu đó.

III. Nguyễn Vỹ, nhà văn 

Sự nghiệp Nguyễn Vỹ để lại quan trọng nhất là thơ hay văn? Thơ Nguyễn Vỹ có những cách tân đi trước thời đại, tạo thành một dòng; thơ ông có những bài được liệt vào hàng “kiệt tác”, thế còn văn? Văn của ông để lại có đủ cả bộ ba quan trọng của văn xuôi nghệ thuật: ký, truyện ngắn, tiểu thuyết. 

Tham luận của TS. Lê Hương Thủy: Sáng tác của Nguyễn Vỹ, nhìn từ tiểu thuyết đi vào khảo sát nhiều cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Vỹ với mong muốn tìm ra giá trị và đặc điểm tiểu thuyết của ông. Nhưng có lẽ chỉ có Tuấn, chàng trai nước Việt là tác phẩm còn đọng lại qua thời gian. Có thể coi đây là tiểu thuyết tự truyện trường thiên có giá trị nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Giới phê bình từng đánh giá rất cao Thời thơ ấu của Nguyên Hồng, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, với tư cách là tiểu thuyết tự truyện, thế thì không thể không nhìn nhận đúng mức giá trị của Tuấn, chàng  trai nước Việt của Nguyễn Vỹ, cuốn tiểu thuyết ghi lại một cách trung thực những năm tháng chuyển mình của đất nước ta trên con đường hiện đại hoá, những tháng ngày đói khổ cùng cực trong chiến tranh khốc liệt, qua sự trải nghiệm của một chàng trai nước Việt đầy nhiệt huyết, thiết tha yêu nước, dám hy sinh, và cũng không hiếm lúc hoang mang, lầm đường… Nhiều tham luận trong hội thảo đã tập trung trình bày về giá trị tác phẩm này như: Nguyễn Vỹ, người trí thức nước Việt của TS. Đỗ Hải Ninh; “Tuấn, chàng trai nước Việt” – biên ký lịch sử văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX của TS. Nguyễn Diên Xướng; Vỹ - chàng chai xứ Quảng, TS. Trần Tuấn.

Cùng với Tuấn, chàng trai nước Việt là tác phẩm Văn thi sĩ tiền chiến. Tác phẩm này không phải là phê bình, nghiên cứu văn học, cũng không phải hồi ký, mà có thể nói đó là bút ký chân dung văn học: các nhà văn, nhà thơ nửa đầu thế kỷ XX qua con mắt với trải nghiệm trực tiếp của Nguyễn Vỹ. Tính xác thực, sinh động bằng trải nghiệm thực tế, tính sâu sắc bởi con mắt tinh đời của người viết, tính chất tinh tế của một trái tim nghệ sĩ đã tạo nên giá trị của tác phẩm này. Phân tích, đánh giá giá trị của nó trong hội thảo này, chúng ta có thể thấy qua các tham luận của các nhà nghiên cứu: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân với Nguyễn Vỹ và “Văn thi sĩ tiền chiến”, PGS.TS. Văn Giá: Đọc lại “Văn thi sĩ tiền chiến” của Nguyễn Vỹ, TS. Lê Thị Hường: Chân dung Nguyễn Vỹ nhìn từ hồi kí Văn thi sĩ thiền chiến, ThS. Phạm Tuấn Vũ: Văn thi sĩ tiền chiến – tác phẩm giá trị của Nguyễn Vỹ.

V. Những vấn đề đặt ra từ hội thảo

Từ các tham luận này chúng tôi thấy còn có nhiều vấn đề đặt ra mong muốn các nhà nghiên cứu làm rõ:

  1. Cần phải xác lập một tiểu sử đầy đủ, chính xác về cuộc đời Nguyễn Vỹ, đồng thời tìm hiều thêm về tư tưởng, tình cảm, cung cấp thêm các chi tiết về cá tính, phong cách của ông, để ông có thể hiện lên rõ ràng hơn đối với hậu thế. Ngay như năm sinh của ông cũng không thống nhất: ông sinh năm 1910 như Văn Thi sĩ tiền chiến (tr.6), Từ điển văn học (bộ mới) viết, hay 1912 như một số tài liệu khác?
  2. Sưu tầm, ghi chép chính xác các tác phẩm của ông. Sự nghiệp văn học và báo chí của ông hiện còn những gì, bao nhiêu cuốn, xuất bản lần đầu năm nào, tái bản bao nhiêu lần? Hiện nay do cái nạn “tam sao thất bản”, các tài liệu, ngay cả từ điển cũng ghi không thống nhất về tên thể loại, tên nhà xuất bản, nhà in, nơi xuất bản, năm xuất bản/ tái bản, số trang…
  3. Tìm hiểu giá trị, đặc điểm, thi pháp thơ, văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Vỹ. Đánh giá những đóng góp của Nguyễn Vỹ đối với nền văn học và báo chí nước nhà. Từ đó định vị Nguyễn Vỹ trên tiến trình phát triển của văn học dân tộc;
  4. Thảo luận về những cách thức đưa các giá trị của sự nghiệp văn học của Nguyễn Vũ đối với hậu thế: xuất bản tuyển tập, sách nghiên cứu phê bình về Nguyễn Vỹ, đưa Nguyễn Vỹ vào giáo trình đại học, sách giáo khoa ngữ văn phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa về chương trình địa phương…
  5. Thảo luận về mức độ cần thiết vinh danh Nguyễn Vỹ như một trí thức, văn nhân ưu tú của Quảng Ngãi: lập nhà lưu niệm Nguyễn Vỹ, đặt tên đường Nguyễn Vỹ ở TP.Quảng Ngãi như Đà Nẵng đã làm để tôn vinh Bùi Giáng, Lê Đình Kỵ…, như tỉnh Quảng Ngãi đã từng làm để tôn vinh Bích Khê mới đây.

Lời kết

            Nguyễn Vỹ là một nhà báo, nhà thơ, nhà văn… một gương mặt trí thức tiêu biểu của nước ta từ thập niên 1930 đến 1970. Cuộc đời của ông không dài nhưng sự nghiệp ông để lại hết sức phong phú, đa dạng. Hội thảo Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp có nhiệm vụ đánh giá những giá trị mà Nguyễn Vỹ để lại: những gì là giá trị đương thời, những gì là giá trị vượt thời gian, những gì là tích cực, đáng được vinh danh, những gì là những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử cần thông cảm... Chúng ta hy vọng thông qua Hội thảo này mà sự nghiệp của Nguyễn Vỹ được đánh giá đúng mức, tác phẩm của ông được định vị  trong lịch sử văn học dân tộc, tên tuổi ông được vinh danh ở ngay quê nhà, nối tiếp truyền thống Núi Ấn Sông Trà với những danh nhân văn học: Trương Đăng Quế, Lê Trung Đình, Tế Hanh, Bích Khê...  

Chú thích

  1. Hội thảo “Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp” do Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi và Trường Đại học KHXH & NV- ĐHQG TP.HCM tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2017 tại TP. Quảng Ngãi.

Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn, số chuyên đề Bình luận văn học, niên san 2017, số 34 (59) tháng 12/ 2018.

 


* PGS,TS. – Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM. 

TS Phạm Văn Quang bảo vệ luận án với đề tài “Trật tự từ trong tiểu thuyết pháp ngữ của Cung Giũ Nguyên, Phạm Văn Ký và Phạm Duy Khiêm” năm 2004. Tiếp sau đó ông lại bảo vệ thành công đề tài sau tiến sĩ “Thiết chế văn học Việt Nanm Pháp ngữ” và năm 2009 - 2010 ông trở lại Pháp hoàn thành học vị postdoc (sau Tiến sĩ).  Lựa chọn dòng văn học Pháp ngữ cho các đề tài nghiên cứu của ông vì ông vốn là một thầy giáo dạy ngôn ngữ văn chương tại Đại học KHXH &NV TPHCM, chính trong “bể sâu” các tác phẩm này, ông đã “gặp” Cung Giũ Nguyên, một người viết đã làm cho ông “choáng váng”, đặc biệt là tác phẩm Le Boujoum (mà tác giả CGN tự dịch sang tiếng Việt là(Thái Huyền) với thi pháp mà “kungfu” đã đến đỉnh mà chính người Pháp cũng thừa nhận: một tác phẩm khó nuốt nhưng chiều sâu ngôn ngữ của nó thì vô tận.

* Tình cờ tôi có gặp giáo sư Cao Huy Thuần, ông rất ngạc nhiên khi nghe tôi hỏi về Cung Giũ Nguyên. Ông nói không phải tôi là người duy nhất mới hỏi ông, vừa có vài người nữa, trong mấy ngày gần đây có nhắc lại nhân vật, mà theo ông "rất ít người biết tới dù đã có một thời nổi tiếng". Đó cũng là điều tôi thắc mắc vì sao ông lại chọn nhân vật này cho luận án tiến sĩ của ông bảo vệ tại Pháp?

- Con người được biết đến tùy vào khung cảnh xã hội và lịch sử. Đối với nhà văn Cung Giũ Nguyên, tôi cho rằng có thể sử dụng khái niệm « được thừa nhận » thay vì « nổi tiếng », và việc ông được thừa nhận trong quá khứ, đặc biệt trong giới trí thức, có lẽ nhờ vào những hoạt động văn hóa, giáo dục và báo giới. Không gian văn hóa và tri thức bị biến đổi kéo theo những chọn lựa của cá nhân ; và biết đâu đó lại là cách chọn lựa hợp lí của nhà văn : « ẩn mình giữa đô thị », một hình thức đại ẩn, theo cách nói của nhà văn.

Tôi hoàn thành luận án tiến sĩ năm 2007. Việc chọn đề tài cho luận  án không phải là một công việc ngẫu nhiên vì, xét về mặt lý thuyết và phương pháp, đó là bước tiếp theo và chuyên sâu hơn của những gì tôi đã thực hiện trong giai đoạn làm thạc sĩ. Về mặt cứ liệu, tôi tạm thời « rời bỏ » Marcel Proust để làm cái gì đó liên quan đến Việt Nam. Chính lúc đó tôi nghĩ đến văn học Pháp ngữ và gặp được một số tài liệu về các nhà văn Việt Nam. Tôi quyết định chọn nghiên cứu trật tự diễn ngôn trong một số tiểu thuyết của Phạm Văn Ký, Phạm Duy Khiêm và Cung Giũ Nguyên. Đây là ba tác giả của Việt Nam được đề cập nhiều nhất trên diễn đàn văn học Pháp ngữ thế giới lúc đó. Như vậy tôi chọn nhà văn Cung Giũ Nguyên cũng như hai nhà văn kia với mục đích tìm lại hay đúng hơn là khám phá di sản nghệ thuật sáng tạo của người Việt, đồng thời có cơ hội chứng kiến sự vận hành của tư duy Việt trong vỏ bọc ngôn ngữ Tây.

* Ngoài Cung Giũ Nguyên, dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp còn có những nhân vật nào và những giá trị về mặt ngôn ngữ thông qua các tác phẩm của họ đã đóng góp thế nào cho nền văn chương thế giới nói chung và VN nói riêng, thưa ông?

- Năm 1953, nhà văn Pháp ngữ Nguyễn Tiến Lãng , con rể  của cụ Phạm Quỳnh, đã có bài viết trên tạp chí Nouvelles littéraires bàn về việc hình thành một « trường phái văn học Pháp ngữ Đông Dương », mục đích quy tụ những nhà văn trẻ sử dụng tiếng Pháp thời đó như Pierre Đỗ Đình (Đỗ Đình Thạch), Trần Đức Thảo, Phạm Duy Khiêm, Trần Văn Tùng, Phạm Văn Ký. Dù vậy, cho đến nay, những tác phẩm của họ, xét trên bình diện thiết chế, vẫn thuộc loại văn học « ngoại vi ». Đồng thời với họ, chúng ta có thể nói đến Nguyễn Phan Long, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Nho, Vy Huyền Đắc, Nguyễn Đức Giang, Trịnh Thục Oanh, Bà Lý Thu Hồ, vv. Thế hệ trẻ hơn, từ những thập niên 1980 trở lại đây, có sự xuất hiện đặc biệt của nhiều nữ văn sĩ như Kim Lefèvre, Anna Moï (Trần Thiên Nga), Nguyễn Tuyết Nga, Bach Mai, Kim Đoan, Kim Thúy, Trần Nhựt Thanh Vân, Flament Ngoc Thu (Phạm Ngọc Thu) Linda Lê, Trần Huy Minh, vv.

Tất cả đều có những đóng góp quan trọng vào tiến trình hình thành đời sống văn học Pháp ngữ thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Nhiều tác giả đã được trao giải thưởng cao quý (Phạm Văn Ký : Grand Prix du roman của Viện Hàn Lâm Pháp, Les Jeux Floraux, Trần Văn Tùng : Grand Prix de l’Empire, Bà Lý Thu Hồ : Prix littéraire de l’Asie, Kim Thúy : Grand Prix RTL-Lire, Linda Lê : Prix Fénéon, Prix Renaudot Poche, vv.). Mọi tác phẩm đều có giá trị nhờ ngôn ngữ và đều tạo cho ngôn ngữ những cơ hội thể hiện giá trị của chính nó. Các nhà văn sử dụng ngôn từ như phương tiện chuyển tải ý tưởng và hiện tại hóa những đối thoại ; Cung Giũ Nguyên đã từng phát ngôn : « Khi chúng ta diễn đạt ngôn ngữ, chúng ta nói những từ ngữ được cân nhắc, những từ ngữ được suy nghĩ, những từ ngữ thực, những từ ngữ có trách nhiệm […],  những từ ngữ-hành động có khả năng tạo ra bản chất cuộc sống và nền tảng lịch sử » (Ý chí sinh tồn)

Nhà  văn tìm thi vị trong sự « đam mê vui thú qua ngôn ngữ », nói theo kiểu Jean Michel Maulpoix. Chúng ta xác thực điều này nơi Phạm Văn Ký khi ông đặt ngôn ngữ vào cuộc đời và làm mới cuộc đời bằng ngôn ngữ : « Ta khởi đầu con đường tôi luyện văn học trên những bến đậu Paris, giữa những sạp sách cũ. Hỡi Tây Phương, ta đã trở thành nhà văn theo phong cách của ngươi. Ta chắt lọc từ đó một lối diễn đạt riêng có khả năng giải mã các vấn đề của ta bằng ngôn ngữ của ngươi : đó là những cuộc khai phá hình thức chứa đựng giai điệu của trí tuệ, gắn với ý nghĩa thanh tao, với âm vang mới lạ, với những tương giao thực sự, những hiệu năng cảm ứng ngôn từ của ngươi ! Ta tham vọng quay về cội rễ cái Mỹ của ngươi » (Anh em ruột). Thiết nghĩ một vài dẫn chứng trên cho thấy phần nào giá trị và những đóng góp của các nhà văn vào thế giới thẩm mỹ và không gian ngôn ngữ.

* Trở lại với các tác phẩm văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp của Cung Giũ Nguyên, ông đã nói: "Các phẩm tiểu thuyết của CGN là hành trình chiêm nghiệm và suy ngẫm về  thân phận con người hòa nhập với cộng đồng nhưng vẫn cô đơn với chính mình, chứng nghiệm hành trình của một con người cô đơn "bị lưu đày trên xứ sở" của mình". Ông còn cho rằng hành trình cô đơn của CGN còn chứa đựng những thông điệp về lịch sử, văn hóa...? Ông có thể nói rõ hơn về hành trình cô đơn này như thế nào không thưa ông, dĩ nhiên là của CGN (mà biết đâu cũng là của chính chúng ta, vì làm sao chúng ta tránh khỏi dự phần khi lịch sử chỉ là "sự lặp lại, biến tướng và điểm danh" - L.Borge)?

- Văn học và nhà văn « quý mến » sự cô đơn và lưu đày. Patrick Deville thậm chí đã nhìn nhận cô đơn như là yếu tính trong định nghĩa về nhà văn : « Tôi thực sự không có khả năng giải thích nhà văn là gì. […] Tôi chắc rằng trong định nghĩa này có yếu tố lưu đày và cô đơn, tự nguyện hay bắt buộc, và cũng có ý muốn không bám rễ với bất cứ thứ gì, hay bất cứ nơi nào trên thế giới […] Nhà văn là những kẻ di trú trên con đường tìm kiếm những xứ sở xa xôi, nơi những giấc mơ của họ được thỏa mãn […] Ước gì những nhà văn vĩ đại đã biết tạo ra từ sự cô đơn này một vẻ đẹp kỳ diệu […].(« Que pourrais-je savoir de l'exil ? », Le Matricule des Anges).

Ý nghĩa của lưu đày đã được khai mở và phần nào soi sáng cuộc đời nhà văn của Cung Giũ Nguyên. Ông lưu đày đúng nghĩa về phương diện nguồn gốc gia đình (tổ tiên ông là người gốc Hoa). Nhưng trên hết, chúng ta thấy nơi ông một sự cô đơn văn học, trên cả phạm vi thiết chế và biểu tượng : phần lớn các tác phẩm Pháp ngữ của ông đều phải xuất bản ở nước ngoài. Nếu như hai tiểu thuyết đầu Le Fils de la baleine (Kẻ thừa tự của ông Nam Hải) (1956) và Le Domaine maudit (Miền đất dữ) (1961) đều được nhà xuất bản Arthème Fayard của Pháp nồng nhiệt đón nhận, thì Le Boujoum (Thái Huyền) (bản thảo hoàn thành năm 1980) mãi đến năm 2002 mới ra đời và do chính các học trò của nhà văn chịu trách nhiệm xuất bản tại Texas (Cung Giu Nguyen Center). Vấn đề tiếp nhận tác phẩm này cũng khó khăn, vì lý do ngôn ngữ và hình thức lối viết. Theo tôi, tác phẩm không dành cho đại công chúng. Đó rất có thể là ý muốn của tác giả. Chấp nhận chân trời độc giả giới hạn là chấp nhận một lối đi riêng, một con đường vắng và rât dễ dẫn đến tình trạng cô đơn.

Từ lưu đày cội nguồn đến lưu đày văn phẩm, Cung Giũ Nguyên dẫn ta về khám phá sự cô đơn của căn cước chủ thể trong truyện kể, xuyên suốt chiều dài ba tiểu thuyết của ông. Xin nêu ra đây ví dụ hình ảnh nhân vật Mỗ trong Le Fils de la baleine :

« Mỗ đã hiện hữu ở đó từ hàng thế kỷ để chất vấn đêm đen và những vì sao về công việc mình phải làm trên bãi cát sỏi lạnh lùng và cô quạnh, trước mênh mông biển nước đang vô tình cuốn trôi số phận mình. Hắn có thể là người đầu tiên và cuối cùng, khi đứng giữa mảnh đất hoang vu, gần đống đổ nát từ chiếc thuyền của mình, có cảm nhận về sự chọn lựa đáng sợ đã áp đặt lên mình : một là sống hai là chết. Hắn chẳng còn hữu dụng cho thiên hạ nữa. Tình nhân loại toàn vẹn mà hắn thể hiện có thể biến đi mãi mãi mà không cần biển phải chuyển nhịp thủy triều, cũng chẳng cần mặt trời phảt tắt để mang màu tang tóc ».

Nhân vật không luôn đồng nhất với chủ thể sáng tạo, càng khó ghép hình ảnh nhân vật với nhà văn trong tư cách một chủ thể xã hội. Nhưng chúng ta dễ chấp nhận rằng nhà văn qua không gian văn bản là hình ảnh của người đi tìm xây dựng căn cước của mình. Nói cách khác, nhà văn cuối cùng là một nhân vật ẩn mình trong hình thức kết cấu diễn ngôn, biểu trưng của kết cấu xã hội-lịch sử, văn hoá và ý thức. Không gian diễn ngôn vì thế là không gian biểu hiện hình ảnh cái tôi như là chủ thể trong sự khủng hoảng, là chủ thể trong sự nghi vấn và bị ngộ nhận.

Có thể  nhìn nhận Cung Giũ Nguyên như một chủ thể xã hội bị lưu đày, bởi vì xã hội tạo ra những ranh giới, nhưng đối với Cung Giũ Nguyên nhà văn – chủ thể sáng tạo, thì cô đơn hay lưu đày là cảm nhận một không gian khác làm nảy sinh sáng tạo.

* Sau khi SGTT đưa tin về buổi nói chuyện về CGN của ông, bạn đọc đã thắc mắc, nhắc đến C.G.N, không thể không nhắc đến nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng. Trong quá trình nghiên cứu các tác phẩm của C.G.N, ông chắc cũng biết con người không thể chạy trốn số phận (nếu có), và có phải cuộc gặp gỡ và "scandal" với nữ sĩ này đã mở cho nhà văn C.G.N một hành trình khác vì trước đó ông vốn nổi tiếng là mô phạm và được tất cả các giáo sư và học trò kính nể. Sau vụ scandal này, ông thu mình và cô độc hơn ai hết trước những lời phỉ báng và cả sự khinh rẻ của đồng nghiệp... Nếu nghiên cứu của ông mà bỏ qua chuyện này, tôi thấy thật tiếc...

- Theo tôi, trước hay sau Cung Giũ Nguyên vẫn là con người mô phạm. Tôi không nghĩ rằng đồng nghiệp thực sự của ông khinh rẻ ông sau cuộc gặp gỡ giữa ông với cô Nguyễn Thị Hoàng. Có chăng thì, ở khía cạnh người nghiên cứu, sự kiện đó giúp tôi hiểu hơn bản chất của con người và tiến trình xây dựng hình ảnh con người. Cuộc đời nhà văn đã chứng kiến nhiều ngộ nhận cho chính mình và cho cộng đồng mình nên việc ông thu mình lại không phải là một sự thất bại hay chạy trốn mà có lẽ điều đó là cần thiết cho một cuộc siêu nghiệm.

* Và phải chăng câu chuyện trên cũng dẫn đến lời tâm sự này: "Tôi là con người nội tâm, một con người suy tư- tư duy hơn là nói. Tôi muốn viết để tống khứ cái con ma trong tôi. Con ma đó là sự mặc cảm, sự khao khát, cả sự hèn yếu...". Con ma của C.G.N, theo ông, đó là gì?

- Như chị vừa nói đó, Cung Giũ Nguyên tự xếp mình vào hạng người hướng nội, có khuynh hướng rút lui về mình và hướng về tư duy. Chỉ khi con người bị cuốn hút vào thế giới nội tâm mới có khả năng khám phá « con ma » của mình. Con « ma » của Cung Giũ Nguyên có thể là ký ức dai dẳng hay cảm giác ám ảnh, nhưng cũng có thể là ý thức về một sự đau đớn nào đó khi bị tước đoạt. Nhắc đến « con ma » của Cung Giũ Nguyên làm tôi liên tưởng đến « con ma » của Phạm Văn Ký trong truyện ngắn Pháp ngữ Bóng ma xác thực (Fantôme de la précision) và thấy có một sự đồng nhất nào đó giữa hai nhà văn : « Đến lượt bạn hãy tin tôi đi. Sự thật thường thốt ra từ miệng những con ma. Nhưng con ma của tôi không giống những con ma khác : nó không lấp ló phập phờ ; sức nặng cuộc đời đã buộc chặt nó vào thế gian ; nó đáng giá những lo âu, hối hận, phiền muộn. Nó chưa chết hẳn ». Nghiên cứu văn học dưới góc độ phân tâm học sẽ giúp ta hiểu hơn tình trạng ám ảnh tâm lý tác giả

* Dù vậy, tôi rất n tượng khi nghe ông nói về  văn chương của C.G.N, ông viết về sự thống khổ,đau đớn nhưng không hề hằn học, thù ghét, oán hận mà chỉ đầy tính triết lý. Ông có đoạn văn nào biểu hiện cho điều này không?

- Tôi rất thích hình ảnh nhân vật Mỗ trong tác phẩm Le Fils de la baleine trong tiến trình tìm lại ý thức và vị trí giữa cộng của mình khi bị khước từ :

« Thời tiết trở nên xáo động đẩy thân xác hắn trôi giạt trên cát như một kẻ thân tàn ma dại. Nhưng Mỗ lại thích thú với nhịp trôi bồng bềnh ấy ; nó lay động và thanh lọc những giấc mộng của hắn. Áp sát tai xuống mặt cát, hắn nghe thấy tiếng ồn ào của cuộc sống dưới lòng đất của những con vật nhỏ bé đang chuyển hướng ẩn náu. Và từ sâu thẳm quá khứ của hắn bỗng trỗi dậy một âm giọng rời rạc :

… chính con cua thợ ấy

với bộ càng yếu mềm

nạo khoét cát biển đông

lấp đầy vực thẳm mênh mông… »

Nhưng Amdo trong Le Boujoum làm tôi liên tưởng đến sự trải nghiệm và lòng tin mạnh mẽ của nhà văn vào cuộc đời, dù cho thời cuộc đã không luôn như dòng sông bình lặng :

« Tôi ở lại vị trí của tôi. Và nếu phải trải qua một kinh nghiệm khác nữa, thì, mặc kệ, chẳng còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên, dù cho đó là sự phối hợp giữa thiên đàng với địa ngục, hay là lễ cưới của nàng ốc sên với chàng cá mập, kể cả sự ám ảnh của Thái Huyền, của điều cảm nhận mà không giải thích được, của bâng khuâng về ý nghĩa dệt bằng vô nghĩa ».

* Cũng có bạn đọc phản hồi, nhà văn C.G.N cũng là một cây bút sắc bén của báo chí miền Nam thời bấy giờ. Xin ông cho biết thêm về điều này?

- Trong những hình thức giao thoa giữa các phạm vi hoạt động, đam mê với một loại tiếng Pháp trong sáng, Cung Giũ Nguyên khai mở trong thế giới báo chí, không chỉ ở một tiếng nói có khả năng giúp cho con người suy nghiệm chính xác về các giá trị văn hóa và đạo đức. Từ năm 1939, cùng với Raoul Serène, tiến sỹ viện trưởng Viện Hải học Nha Trang, Cung Giũ Nguyên đồng chủ nhiệm tờ nguyệt san Les Cahiers de la Jeunesse (Tập san Tuổi Trẻ), rồi cùng năm trở thành chủ bút nhật báo Le Soir d’Asie (Á châu Buổi tối) xuất bản tại Sài Gòn. Chính trong nhật báo này Cung Giũ Nguyên đã cho xuất bản chuyên mục nhiều kỳ Notes marginales (Tạp ghi bên lề). Các bài viết đó chứng minh một phong cách trưởng thành chất chứa sắc thái của một tinh thần trẻ bị chao đảo và xáo động bởi những biến động của thời đại, nhưng cũng mang vẻ diễn ngôn của tinh thần trách nhiệm và ý thức về các giá trị xã hội và nhân văn. Diễn ngôn văn học vì thế được cưu mang trước tiên trên nền tảng các yếu tố cơ bản mang tính giai thoại và nhạy cảm của những sự kiện đời thường, để rồi đạt đến đỉnh cao diễn ngôn xã hội. Độc giả có thể tìm thưởng thức phong cách đặc thù đó trong nhiều tạp chí khác như France-Asie (Pháp-Á), La Tribune (Diễn Đàn), La Presse d’Extrême-Orient (Viễn Đông báo chí).

Báo chí  với tư cách là không gian trao đổi, giao thoa và  kết tụ những đặc trưng của một ngòi bút, một tiếng nói, một quan điểm, đã cho phép Cung Giũ Nguyên phần nào xác định hay giả định trước khung trời độc giả hay thế giới tiếp nhận của mình. Nghĩa là qua đó tác giả khẳng định khả năng tiến triển trên con đường văn nghiệp. Sự ra đời của tiểu luận Volontés d’existence (Ý chí sinh tồn) năm 1954 trong tạp chí France-Asie là một minh chứng cụ thể. Trong bối cảnh của Việt Nam đương thời, việc xuất bản trong các ấn phẩm định kỳ đã trở thành nền móng dọn đường cho các diễn ngôn mang tính chất hùng biện. Volontés d’existence chắc chắn vừa là một diễn ngôn văn học, vừa là diễn ngôn văn hóa và cũng mang sắc thái của một diễn ngôn về ý thức hệ.

Ngoài ra, Cung Giũ Nguyên còn cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ như Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dânBạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa... Ông cho đăng những sáng tác hay các bài viết về văn hóa. Chẳng hạn trong tạp chí Bách Khoa Sài Gòn, Ông có loạt bài khảo cứu về « Ý niệm quốc gia trong thời đại mới » hay những bài giới thiệu như : « Daniel­Rops », « Gauss, một thần đồng toán học », « Toán số với càn khôn », vv.

* Theo ông, đến bao giờ dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp mới được dịch sang tiếng Việt và phổ  biến ở VN thưa ông?

- Công việc này còn tùy thuộc một phần lớn vào các cơ quan thiết chế văn hóa trong chính sách phát triển giao lưu văn hóa và tri thức. Tác phẩm văn học là kết quả sáng tạo cá nhân nhưng đồng thời là một sự kiện xã hội, nó mang yếu tố xã hội và có vai trò chuyển tải văn hóa và lịch sử. Dịch những tác phẩm của các nhà văn Pháp ngữ của chúng ta để phổ biến cho công chúng ở Việt Nam là hành động xây dựng ký ức cộng đồng, điều cần thiết cho xã hội tương lai. Trước mắt, chúng ta trông chờ ở những cá nhân thầm lặng và yêu quý di sản văn học này. Chúng ta đã và đang tiếp nhận Phạm Văn Ký hay Linda Lê qua các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng một ngày không xa độc giả sẽ có trong tay bản tiếng Việt của các nhà văn khác.

* Người viết có khả  năng sáng tạo ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn chương không nhiều?

Như đã nói trên đây, mọi nhà  văn đều có những sáng tạo ngôn ngữ. Vì văn học chính là ngôn ngữ và phải khởi đi bằng ngôn ngữ. Viết là làm cho ngôn ngữ nảy sinh. Tuy nhiên, nếu không tính đến các tác giả thuộc thi phái Biểu tượng hay Siêu thực, thì từ nửa sau thế kỷ XX xuất hiện rộng rãi loại « văn chương khó tính » ; tác phẩm thể hiện « cuộc phiêu lưu của lối viết chứ không phải lối viết của cuộc phiêu lưu », nói theo cách của Jean Ricardou. Trên văn đàn Việt Nam Pháp ngữ, Cung Giũ Nguyên được xem là điển hình của thể loại này với tiểu thuyết Le Boujoum, một cuộc hội ngộ của các kí hiệu ngôn ngữ, một cuộc đi xuống để làm phục sinh ngôn ngữ ; và ý nghĩa của tác phẩm đươc nảy sinh từ những cọ xát và phản chiếu giữa các kí hiệu. Chúng ta cũng có thể thấy lối viết này ở Linda Lê.

* Trong buổi trò chuyện về Cung Giũ Nguyên tại cà phê thứ bảy, đã có một nhà  nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tự nhiên cho rằng sau khi nghe ông trình bày về hành trình ngôn ngữ  của Cung Giũ Nguyên, ông ta đã có cảm giác như ai đó đã chạm đến đáy sâu tâm hồn ông, bằng ngôn ngữ, và làm tăng giá trị cảm nhận của ông về văn học nói chung và ngôn từ của Cung Giũ Nguyên nói riêng. Ông nghĩ thế nào về điều này?

- Tôi may mắn được tiếp xúc sớm với tác phẩm của Cung Giũ Nguyên và mong muốn được chia sẻ cảm nhận của mình với người khác. Một tác phẩm chỉ « sống » khi nó được đọc. « Đọc » tác phẩm với tất cả ý thức và dấn thân là cùng với tác giả tạo ra ý nghĩa cho tác phẩm và cho chính cuộc đời mình. Xem xét hành trình ngôn ngữ của Cung Giũ Nguyên trong Le Boujoum chỉ là một trong nhiều hướng tiếp cận tác phẩm. Hy vọng giá trị văn học của các tác giả Việt Nam Pháp ngữ sẽ được khám phá nhiều hơn.

* Xin cám ơn ông về buổi trao đổi thú  vị này.

Ngân Hà thực hiện.

Vài nét về nhà văn Cung Giũ Nguyên

Sinh năm 1909, tại Huế, Cung Giũ Nguyên theo học tại Trường Quốc Học Huế. Ông sống chủ yếu tại Nha trang và dấn thân trong nghiệp báo chí và dạy học. Cung Giũ Nguyên cộng tác và làm chủ bút của nhiều tạp chí và nhật báo Pháp ngữ : Les Cahiers de la jeunesse, Le Soir d’Asie, France-Asie, La Tribune, La Presse d’Extrême-Orient, La Gazette de Huê, cũng như Việt ngữ : Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dânBạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa...

Từ năm 1950-1975, Cung Giũ Nguyên là giáo sư trung học và là Hiệu trưởng trường Trung học bán công Lê Quý Đôn Nha Trang. Từ năm 1972, ông giữ chức vụ Trưởng Bộ môn tiếng Pháp của Đại học Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang. Từ  năm 1989-1999, ông được mời giảng môn Pháp văn trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang. Đã từng là Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Năm 1972, Cung Giũ Nguyên chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Pháp ngữ (Association des Écrivains de langue française (ADELF).

Tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt là một truyện ngắn nhan đề Tình ái mỹ đăng trên Đông-Pháp thời báo (1928). Tác phẩm cuối cùng là tiểu thuyết Pháp ngữ Le Boujoum do Cunggiunguyen Center Publications xuât bản (2002).

Truyện và ký :

Tình ái mỹ đăng

Nhân tình thế thái

Ngàn đời nhớ anh

Nung lửa thử vàng

Những ngày phiêu bạt

Nửa gánh tang bồng

Sổ tay Huế 62 - Một chuyến về

Rứa chứ răng

Duyên nợ miền Nam

Le génie en fuite

Les eaux noires

Le pseudonyme

Journal du Kauthara

Notes marginales

L’actualité vieillit vite

Tiểu thuyết :

Một người vô dụng

Nợ văn chương

Le Fils de la baleine(bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Thành Thống : Kẻ Thừa tự của ông Nam Hải) (tác phẩm đã được dịch sang tiếng Đức với nhan đề Der Sohn des Walfischs và xuất bản năm 1957 tại Genève và Francfort)

Le domaine maudit(tạm dịch Miền đất dữ)

Le Boujoum (Thái Huyền,bản dịch tiếng Việt của nhà văn)

Le Serpent et la couronne(chưa xuất bản)

Un certain TsouChen (chưa xuất bản)

La tache de vermillon(chưa xuất bản)

Tiểu luận, nghiên cứu và chuyên khảo :

Volontés d’existence

Đọc Thoreau – Kèm bản dịch Walden, Đời phóng khoáng

Đọc Bertholt Brecht – Kèm bản dịchCơn Khát

Đọc Simone Weil – Kèm bản dịch Áp bức và tự do

Đọc Kafka – Kèm bản dịch Biến hình

Đọc Berdiaeff – Kèm bản dịch Năm suy gẫm về cuộc sống

Tâm linh kỳ bí

  • Quyển 1 : Đời sống tâm linh và những đại tông sư
  • Quyển 2 : Ma thuật
  • Quyển 3 : Hiện tượng dị thường của tâm linh
  • Quyển 4 : Mộng – ý nghĩa và giá trị của mộng
  • Quyển 5 : Biểu tượng
  • Quyển 6 : Dị thường và tôn giáo
  • Quyển 7 : Tâm lý học về dị thường
  • Quyển 8 : Dị thường và khoa học

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/cung-giu-nguyen,-mot-cay-but-cua-dong-van-hoc-viet-nam-viet-bang-tieng-phap

Nguyễn Đình Thi trở thành nghệ sĩ đa tài là trường hợp đặc biệt thuận với lịch sử vận động trong tiến trình hiện đại của văn nghệ Việt Nam.

 Ông là điển hình cho số phận nhà văn Việt Nam mà tài năng được phát lộ, tỏa sáng viên mãn về nhiều phương diện trong thời tiết đặc thù của cách mạng Tháng Tám, và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kéo dài suốt từ những năm 40 của TK XX, khi Nguyễn Đình Thi còn đầu xanh tuổi trẻ, cho đến ngày ông về cõi, năm 2003, đầu TK XXI.

  Sinh vào những năm 20 của TK XX, Nguyễn Đình Thi không trải qua hành trình triết học-mỹ học như  Chế Lan Viên từng nghiệm sinh “từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. “Ta là ai như ngọn bấc siêu hình/Cơn gió hư vô thổi nghìn nến tắt/Ta là ai khẽ xoay chiều ngọn bấc/Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh”. Ông đến với Cách mạng Tháng Tám bằng tấm tình trong trắng của một thanh niên “Tây học”, yêu nước như yêu tình đầu: “ Anh yêu em như anh yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. Cuộc lột xác của ông theo kháng chiến cũng là một cuộc lột xác lãng mạn, dù cho “ rớm máu”

 Với những lý do lịch sử-thẩm mỹ đặc trưng ấy, đường văn nghệ của ông không ngẫu nhiên, khởi đi từ thơ tự do, mối tình đầu, và càng không tình cờ, khép lại ở thể loại kịch, như mối tình cuối.

Một: Tự do thơ từ ngọn nguồn triết học

 

 Từ góc nhìn triết học- mĩ học, tôi nghĩ ông đã đi từ mùa thu nghĩa hẹp (của riêng Hà Nội, với “sáng mát trong” như lòng ông trong sáng. Ngày mùa thu ấy ông không thể nào quên. Vào mùa thu cách mạng, vào tự do thơ của Nguyễn Đình Thi đã được triết học của ông dâng lên thành mã thi ca của riêng ông. Quên sao được “sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy). Và dù ông đã lưu luyến để lại cả sáng mùa thu Hà Nội ấy sau lưng, khoác ba lô lên rừng theo kháng chiến chống Pháp, rồi sau đó cùng đoàn quân trùng trùng như nước về giải phóng thủ đô, tràn ngập 5 cửa ô màu xanh quân phục bộ đội cụ Hồ, màu thắm tươi cờ đỏ sao vàng, ông đã mê say  ăn ở cùng Hà Nội, “nơi lắng hồn núi sông” cho đến cuối TK XX, (ngoài đoạn chót, ông ở TP.HCM). Lúc sắp về cõi, thấm thía buồn, ông chạnh thấy mình chỉ còn gặp “Bóng mùa thu”. Mùa thu đầu đời quá xa xôi, đã mờ phai, như cánh chim bay mỏi về cuối trời, đã nhuốm màu tục lụy, nhiễm buồn hơn, bởi: “Tôi đã thấy mái tóc bạc/ Người ấy ngồi một mình giữa rừng/ Lặng im hút thuốc/ Nhặt chiếc lá rụng cầm lâu trên tay/ Dưới trời chói lòa tôi đã gặp/ Em bé cười chạy vào ngàn sóng thơm vàng/ Hôm nay dọc đường phố ồn ào đầy quảng cáo/ Bóng mùa thu bay trong cây/ Gió hỡi thổi đi những bụi bậm hủy hoại/ Đôi mắt buồn cô gái kia nhìn. (Viết năm 1994)

 Hình ảnh “Người ấy” trong thi phẩm này đã hiển thị đậm đặc tâm trạng chủ thể trữ tình Nguyễn Đình Thi, cả đời thơ đã chỉ muốn lui vào nội tâm, một mình cô đơn ngẫm nghĩ. Cả đời thơ chỉ muốn tự vạch đường, đi theo tự do thơ “riêng ra một lối”. Khôngchút tình cờ, người thanh niên thi sĩ Nguyễn Đình Thi đã nghĩ, đã cảm bằng tự do thơ-thơ tự do, với tất cả lòng tin triết học trinh bạch, trong vắt về khả năng diễn đạt tối ưu của thể thức thơ mới mẻ ấy, cho cái nghĩ, cái cảm của mình về cuộc đời, mà ngay từ những ngày trai trẻ, và trong trẻo nhất, số phận Nguyễn Đình Thi đã gắn chặt như định mệnh vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Thử đặt mình vào trạng huống sáng tạo “độc trọi” của Nguyễn Đình Thi trên hai điểm nối kết mà tôi cho là quan trọng bậc nhất, đặng “tìm thấy” trong hai loại hình sáng tạo, mở đầu và kết thúc sự nghiệp sáng tác của ông: thơ tự do đầu đời và kịch cuối đời, nhằm lý giải, biện luận và đánh giá ông, tôi thấy Nguyễn Đình Thi đúng là một tài năng muôn mặt, xứng đáng là một trong mấy nhà văn hóa khai sáng văn nghệ cách mạng Việt Nam, ngay từ cuộc Kháng chiến chống Pháp, trên nền tảng “Tây học” chắc chắn, vững vàng của chính ông.

 Không hề tình cờ, Nguyễn Đình Thi rất mê triết học phương Tây,  và tư duy của ông mang rất đậm phẩm chất lý thuyết. Trước khi mặc khải cử chỉ tự do thơ, mê đắm điệu tâm hồn phóng túng ngang tàng, mang tình điệu thơ từ bên trong, không chịu gói mình trong câu thúc vần luật của các thể thơ cố điển: song thất lục bát, lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn, Nguyễn Đình Thi đã khát khao gửi mình cho triết học.

Trong “Thi Nhân Việt Nam”[1], khi tìm cách gọi tên và lý giải hiện tượng Thơ Mới, là mới mẻ thực sự như sự hiện diện của một thời đại mới trong thi ca Việt Nam, Hoài Thanh “quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tràng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” Cắt nghĩa trên tinh thần triết học, Hoài Thanh cho rằng, có sự xuất hiện cả một thế hệ thi sĩ cùng một lần với sự khác biệt, cách biệt đa dạng giữa những cá tính thơ, là do những cá tính ấy “bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng chốc được giải phóng”. Sự giải phóng này, chắc chắn, “chỉ làm giàu cho thi ca”. Theo Hoài Thanh, nó là “sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm” đã được “tung bờ vỡ đê”, chỉ bởi “một điều rõ: ảnh hưởng phương Tây, hay đúng hơn, ảnh hưởng Pháp, cho dù “có chia đậm lạt khác nhau”. Tuy nhiên, khi minh định điều đó, chính Hoài Thanh cũng“cảm thấy khó chịu. Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Song, là một thiên tài Việt về bình luận Thơ mới, Hoài Thanh lại khẳng định: “Sự thật đâu có thế. Tiếng Việt, tiếng Pháp khác nhau xa. Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn”.

Nguyễn Đình Thi là kẻ hậu sinh, sinh sau những nhà thơ Mới hàng thế hệ. Ông không có diễm phúc ra đời trong dải Ngân Hà Thơ Mới, được   lấp lánh cùng một lượt với các vì sao “thơ mới”. Trên đầu ông cũng không mang  nặng ảnh hưởng của nhà thơ Pháp nào. Song chắc chắn, ông chịu ảnh hưởng của các nhà triết học Pháp[2], đủ để “tự giải phóng”, chứ không phải “được/bị giải phóng”, để tự thành lập một trầm tư triết học nội tâm sâu thẳm, trước khi ông òa đến với thơ tự do, như một chỉ định thi ca tất nhiên của số phận. Về căn bản, Nguyễn Đình Thi là số phận một thi nhân. Chính vì thế,  số phận này đã khiến cuộc chiếm lĩnh chữ nghĩa đầu tiên của ông, được chỉ định là thể thức thơ tự do. Và cũng vì thế, triết học về thơ tự do đã dẫn dắt ông căn bản vượt qua cuộc tranh luận rất gay gắt về thơ tự do của ông, trong đó nhiều phần là ý kiến phê phán kịch liệt thơ của ông trong chiến khu Việt Bắc[3]. ( 25-28.9.1949).

Nguyễn Đình Thi không quan trọng cái tên người ta gọi thơ ông là “thơ  tự do”, hay “thơ không vần”. Theo ông, vần điệu của thơ nằm trong tình điệu nội tâm thi sĩ, thuộc về giọng thầm bên trong, mang nhạc cảm nội tâm, hắt sáng từ tâm hồn thi sĩ, tuyệt nhiên không phải thứ niêm luật bên ngoài, với nhiều ràng buộc lễ lạt của hình thức. Nghĩ và làm thơ như thế, dĩ nhiên chủ thể thơ Nguyễn Đình Thi đã nỗ lực tự thiết kế công cuộc sáng tạo thơ của chính mình trên nền tảng triết học phương Tây, với nội lực nằm rất sâu trong bản thể phương Đông. Bình tĩnh lắng nghe, nhất là những ý kiến phê phán, Nguyễn Đình Thi công nhận sự sáng tạo nghệ thuật của ông, vì được thiết kế trên nền tảng lý luận, nên “cái tìm tòi” của ông cũng nhuốm đậm màu lý luận: Tôi hay lý luận. Cái tìm tòi của tôi cũng hay lý luận. Nhưng nói đến thơ, đó là cái thiết tha nhất của tôi, và cũng là cái tìm tòi rất khổ của tôi (tuy nó có cái vui của nó). Cảm giác tiếp theo của ông rất lạ (so với chính cái cuộc “phê bình” hồi bấy giờ), đó là cảm giác “rất áy náy”. Ông nói rõ hai lý do: Một là vì thơ ấy là thơ của tôi. Hai là thơ ấy là thơ tự do( dài, ngắn, vần, không vần, không quan hệ). Đáng lẽ thơ của tôi là thơ của tôi. Còn vấn đề thơ tự do thì rộng hơn thơ tôi nhiều. Rồi ông khéo léo tiếp, với sự minh triết rất Nguyễn Đình Thi: Vậy phải tách ra làm hai: trước hết, tôi tự phê bình thơ tôi. Sau xin bênh vực thơ tự do.

Về sự “tự phê bình thơ tôi”, cũng thật là tinh tế và rành rõ, theo cách của ông. Phản hồi ý kiến Xuân Diệu cho thơ ông “già”, Nguyễn Đình Thi nhận: Gần đúng. Vì thơ của tôi không phải những bài thơ vui. Đó là những bài thơ đau đớn. Lúc tôi làm nó, tôi cũng nghĩ rằng trong lúc này, có nên đưa ra cái đau đớn đó không? Có. Vì cuộc kháng chiến của ta có bao nhiêu cái đau đớn, những đau đớn chính đáng; miễn là cái đau thương ấy không phải cái đau thương đi xuống(…). Rất đau thương mà không nói. Đó là thái độ nội dung của tôi. Khi tôi nói cái đau thương của tôi ra, nó ẩn ở một chỗ rất kín.(Ví dụ trong bài Không nói: Môi em, đôi mắt còn ôm đây).

Nhưng nội dung ấy khách quan mà xét, thì nó không đúng với cuộc kháng chiến bây giờ, cái đau đớn của kháng chiến không giống cái đau đớn trong thơ tôi. Ở nhiều chỗ của kháng chiến, còn đau đớn hơn nhiều, nhưng cái đau đớn không như thế(…). Vì cái nội dung đã u uất rồi, cho nên khi nó thể hiện ra ngoài, nó cũng có vẻ khắc khổ gò bó. Trong khi tôi đi tìm một hình thức tự do, thì cái nội dung của tôi lại gò tôi lại. Tôi muốn có cái mộc mạc đơn sơ, thì trái lại nó lại cầu kỳ.

Tiếp thu phê bình, Nguyễn Đình Thi nhã nhặn nhận hai ý kiến. Ý kiến Xuân Diệu về  thơ ông: già, đau đớn, u uất về nội dung, sự khắc khổ gò bó về thể hiện. Ý kiến Xuân Thủy cho thơ ông “trúc trắc khó ngâm”, “đọc khó hiểu”. (…). “Trong thời kỳ này, cần phải phục vụ quần chúng, thì không nên dùng lối thơ mà quần chúng không hiểu. Nên phổ biến lối thơ dễ nhớ, mà quần chúng có thể cảm thông với thi sĩ được”.

Đồng ý với ý kiến của Xuân Thủy, Nguyễn Đình Thi “rất mừng vì có dịp để bộc lộ một thái độ minh bạch. Chỉ quan niệm không mà thôi, nhất định là không đủ. Phải được sống nhiều hơn, sống rộng rãi, vui, tin tưởng, khỏe lành. Không thể quay vào mình thôi mà tìm được.

Còn về “thơ tự do”, Nguyễn Đình Thi sau khi đã tiếp nhận phê bình theo lối độc đáo như thế, ông biểu đồng tình với ý kiến Xuân Thủy: “đó là một câu chuyện rộng rãi, vượt qua tôi nhiều. Khi tôi nói đến thơ tự do, xin hiểu cho là tôi nghĩ đến cái gì chung”. Và Nguyễn Đình Thi  trở nên đặc biệt sắc sảo, thuyết phục, khi bênh vực thơ tự do, trên một tinh thần triết học đổi mới. Ông khẳng định chắc thiệt: “Cái hình thức gọi là “thơ mới”nó sẽ cứ có, dù ngăn nó cũng không được.Vần hay không vần, câu dài hay câu ngắn, cái đó đã thường lắm rồi. Kháng chiến đã làm ra như thế. Những bài thơ hiện nay đã chứng tỏ điều này. Có vần là một lợi thế rất đắc lực cho sự truyền cảm. Nhưng không phải hết vần là hết thơ. Khi làm thơ, thái độ của người làm là ghi cho đúng cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp được vần thì hay. Nhưng gặp khi nó gò bó, hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật (các luật bằng trắc) phải tự thân nó ra. Khi gạt luật bên ngoài đi, phải có luật bên trong rất mạnh. ( Người viết bài nhấn mạnh).

Rất sòng phẳng, Nguyễn Đình Thi tự thức, và cùng lúc, ông trả lời cả cho Xuân Diệu và cử toạ lúc bấy giờ: “Có thể có sự bỡ ngỡ đối với thơ không vần. Hồi “thơ mới”(1932) mới ra đời, người ta cũng bảo không hiểu. Thơ tôi bây giờ có gì là không hiểu?(…).Nếu trên đường cởi mở, có rất nhiều người làm thơ ấy, thì mới đầu có loạn thật, nhưng rồi cũng quen như thơ lục bát”.Vậy, Nguyễn Đình Thi vững tâm làm thơ “tự do”, là vì “ không thích những bài thơ nói ra tâm tình. Nó phải nói ra cảm xúc, cảm xúc là tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, tay sờ, cảm thế nào nói thế ấy.” Thơ hay, theo  minh định của ông, là “không kể lể tình cảm, chỉ nói cái sống ra bằng những hình ảnh, thành cảm xúc” và “có sợi dây nối liền những hình ảnh đó lại. Đó là một thứ dây lý luận rất khéo. Chính lối thơ nói “hình ảnh bằng cảm xúc” hoặc “cảm xúc bằng hình ảnh” này của ông đã mặc nhiên “chống hẳn lối thơ kể lể mười mấy năm trước đây”. Và ông rút ra kết tinh (thi pháp) quan trọng cho sáng tác thơ tự do theo cách riêng: “ Khi đã bỏ luật lệ rồi, đủ cảm xúc tự nhiên thì cứ nói, thành vần cũng được, không thì thôi. Nói như lời nói thường vậy(….). Nói như lời thường. Tôi mong đi tới những câu thơ như lời nói thường mà đến một độ cảm xúc mãnh liệt. Nếu cần nói một hơi dài, dùng những câu dài. Nếu hơi ngắn, nói ngắn. Những hình ảnh thơ mới bây giờ, tôi tưởng tượng nó cần phải khỏe, gân guốc, xù xì, chất phác,chung đúc, tự nhiên. Những bài thơ cũ, cùng một nhịp điệu đều đều, tôi không thể chịu được. Bài thơ chất phác kia tác động vào tâm hồn ta hơn(…). Rồi đây, tiến độ hơn nữa của tình cảm, thơ sẽ trở về cái hình thức đều hòa hơn(…). Người dùng những điệu đều đặn mà nói được nội dung mới phải là thiên tài. Hình thức cũ để tả nội dung cũ. Nội dung mới, tự  nó sẽ tìm đến hình thức mới.”

Điều khá lạ lùng nữa là lời kết cuộc tranh luận của Tố Hữu, một thi sĩ cách mạng “toàn phần”, một lãnh đạo văn nghệ cao nhất của kháng chiến chống Pháp trong chiến khu Việt Bắc. Có lẽ chịu tác động từ cách “tự phê” độc đáo, đầy tinh thần tranh biện triết học, cũng rất thành thật của Nguyễn Đình Thi, mà Tố Hữu thông cảm được “cái khổ tâm của người làm thơ”, thực chất là mối quan hệ biện chứng giữa nỗi đau đớn về tình cảm, đã dẫn đến nỗi “ khổ vì trí tuệ” trong thơ tự do của Nguyễn Đình Thi. Tố Hữu bày tỏ: “Làm thơ không phải do trí tuệ muốn, mà do sự sống bản thân của mình. Có những lúc tôi yêu thơ anh Thi, và cũng có lúc tôi thù ghét nó. Những lúc mà tôi buồn bực, nhọc mệt, có những lúc nhớ, tôi thích đọc thơ anh Thi. Tôi đọc những bài Sáng mát trong…Thơ là một điệu hồn, tìm đến với những hồn đồng điệu. Những lúc thấy cần làm việc, tôi thấy ghét thơ anh Thi ghê lắm vì tôi thù ghét cái cá nhân nó trở về với tôi. Rồi tôi lại dè chừng với tôi. Nhiều khi thấy bài thơ hay mà chưa chắc nó hay. Vậy lấy gì làm chuẩn cho cái hay…”. Thế mới thấy là khi “va chạm” với Nguyễn Đình Thi về lý luận thơ, chính cách thơ của Nguyễn Đình Thi đã khiến Tố Hữu lộ rõ sự mâu thuẫn trong  bản thân Tố Hữu, giữa con người thi nhân và con người chính trị, nhất là khi Tố Hữu ở vị trí lãnh đạo văn nghệ.

 Âu cũng là cách hiểu, cách đọc thơ của một thời, và điều đó chỉ minh chứng rằng, thơ tự do của Nguyễn Đình Thi là khởi đầu cho một cách thơ lãng mạng cách mạng, một cuộc đổi mới thơ ca, tuy khá đơn độc, song có tính chất ngang hàng với Thơ Mới, tất yếu hiện diện trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà Nguyễn Đình Thi là tiêu biểu Và vì thế, sau đó, thơ tự do đã trở thành hiện thực như “thơ mới”, không thể cưỡng chống.

Cưỡng chống làm sao, những câu thơ trong vắt tình yêu Hà Nội, một tình yêu đầy nhung nhớ, khắc khoải. Từ chiến khu Việt Bắc, năm 1948, Nguyễn Đình Thi nhớ Hà Nội, nhớ một sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em/ Gió thổi mùa thu vào Hà Nội/ Phố dài xao xác heo may/ Nắng soi ngõ vắng/ Thềm cũ lối ra đi/ Lá rụng đầy…Dù tên bài thơ này có thay đổi, sửa sang, thay tên gọi mới, được biên tập mới do Nguyễn Đình Thi (có thể vì lý do “tiếp thu phê bình”), nhưng với cái tên nào, sửa chữa thế nào, thì đó vẫn là những bài thơ và câu thơ lộng lẫy trong thể thức tự do, với vẻ đẹp đặc sắc chỉ có trong thi pháp Nguyễn Đình Thi.[4] (Thực ra, bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, ngoài tên đầu tiên này, còn có tên Sáng mát trong, rồi mới mang tên Đất nước, đang phổ biến hiện nay trong các sách giáo khoa và giáo trình).

Không phải ngẫu nhiên, những bài thơ hay nhất  của Nguyễn Đình Thi là thơ tình, viết về tình yêu trong kháng chiến chống Pháp, và sau này, chống Mỹ. Nhân vật trữ tình Em láy đi láy lại trong thơ ông. Một người tình không chân dung, không tên, hoặc chỉ nằm trong một chữ cái viết tắt đề tặng  lặng lẽ, kín đáo đầu bài thơ, nhưng đã theo ông, ám ảnh ông suốt một đời thi sĩ, dù có thể không thực sự có mặt trong đời thường. Đó là một “mã thi ca” sáng chói nhất, ám ảnh nhất trong thế giới thơ buồn lắng sâu, thăm thẳm suy tư, lộng lẫy hình ảnh lạ về “một thời để yêu, một thời để chết” của riêng ông, trong thời thi sĩ trẻ trai, đã một lòng theo kháng chiến chống Pháp ngay từ những ngày đầu gian khổ.

 Không nói là bài thơ gần như đầu tay của Nguyễn Đình Thi, đúng nghĩa thơ tình, thể thức tự do, viết năm 1948, chứa đầy những khoảng im đa nghĩa trong ý thức kiệm chữ rất nhất quán với quan niệm riêng của Nguyễn Đình Thi về thơ tự do. Kể cả tên, bài thơ gồm 37 chữ, với ba khổ thơ, với  cố ý rất Nguyễn Đình Thi trong ngắt câu dài ngắn, nhịp điệu buông bỏ tự do, tiết tấu dùng dằng ngẹn ngào được nén thật chặt dưới đáy chữ thơ, biểu đạt một lần gặp thoáng chốc trên nẻo đường chiến tranh, rồi đôi người yêu vội vã chia ly. Và phía dưới cuộc chia ly, chữ thơ của Nguyễn Đình Thi đã ngậm một nghĩa chìm sâu: không bao giờ còn gặp lại. Ai biết trước điều gì sẽ xảy ra trong chiến tranh? Khi một lần gặp nhau, vội đến mức không nói được một lời: Dừng chân trong mưa bay/ Ướt đầm mái tóc/ Em em nhìn đi đâu/ Môi em đôi mắt/ Còn ôm đây/ Nhìn em nữa/ Phút giây/ Chiều mờ gió hút/ Em/ Bóng nhỏ/ Đường lầy. Trong tứ thơ “không nói”, cả bài thơ ngập trong chuyển động của những cử chỉ lặng im và lặng im. Người trai, chủ thể trữ tình, đã chỉ  có thể nhìn, thấy mái tóc ướt đầm, thấy môi, thấy đôi mắt, thấy mình còn ôm đây. Em em nhìn đi đâu. Trong bài thơ, cặp tình nhân thời chiến tranh không nhìn vào mắt nhau, có lẽ để đỡ đau đớn trong cuộc gặp đấy, mà cũng là chia ly ngay đấy. Nguyễn Đình Thi bảo con chữ độc nhất, nặng tình nhất, ngời sáng nhất, ngay cả với ông trong bài thơ ngắn này là chữ còn. Còn ôm đây, đang ôm em trong vòng tay mà biết sẽ phải buông tay biệt ly. Chỉ trong phút giây ngắn ngủi, cái đang còn, đồng hành với cái sắp mất. Ý nghĩa triết lí thật mạnh, về cái tình mong manh đến hư vô trong chiến tranh, khi cả hai “không nói”, vì chỉ gặp nhau trong một lát ngắn ngủi, chỉ nhìn, mà không cùng một hướng. Em em nhìn đi đâu. Còn anh chỉ nhìn em: môi, mắt…Nhìn lần nữa, một cái nhìn hoang hoải vô thường, để biết em phải đi, đi thật, xa hút, phút chốc chỉ còn thấp thoáng bóng nhỏ khuất dần trong chiều mờ, xiêu xiêu mưa, đường lầy, gió hút … Và mưa cứ bay từ đầu đến cuối bài thơ trong nỗi chia ly đau đớn đến không nói xuyên suốt bài thơ.

Đúng như thú nhận của Nguyễn Đình Thi, chùm thơ 3 bài đầu tay của ông đều buồn thẳm, hơi có vẻ lạc ra ngoài cuộc kháng chiến. Song, nếu nhìn từ triết học- thẩm mĩ, có thể thấy đây là những bài thơ tình phản đề lộng lẫy vẻ đẹp riêng của thơ tự do Nguyễn Đình Thi.  Nó xác tín vẻ đẹp trí tuệ thâm trầm riêng của thi sĩ - nhà văn hóa Nguyễn Đình Thi, người thực sự theo cách mạng và kháng chiến bằng toàn bộ ý thức triết học, cùng trái tim đa cảm của mình. Sau này, trong cuộc chiến chống Mỹ, Nguyễn Đình Thi lại có một cuộc gặp và chia tay thoáng chốc trong một bài thơ khác: Lá đỏ.

Có điều, chủ thể thơ không một mình, nhân vật trữ tình em của ông cũng không một mình. Người đi trong đoàn quân xanh màu lá, gặp em gái tiền phương trong rừng Trường Sơn, trên cao lộng gió, áo ào rụng đầy lá đỏ. Em đứng bên đường, thân mật như quê hương, vai áo bạc, quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi vội vã, chào vội vã em gái tiền phương, hẹn gặp nhé, trong thắm đỏ ngày giải phóng Sài Gòn. Màu lá thắm đỏ bài thơ, thắm đỏ cuộc hẹn gặp ngày chiến thắng, khác với nỗi buồn lặng, màu không xác định của mưa bay, trong “ Không nói” của giữa thế kỉ trước. Nhưng, thời gian cứ trôi mặc lòng, cốt lõi vẻ đẹp thơ tự do của Nguyễn Đình Thi vẫn còn nguyên, sự nhất quán của tình thơ với nhân vật Em vẫn còn nguyên. Và dường như, nỗi buồn lãng mạn cách mạng cũng vẫn còn nguyên…

 


[1] Hoài Thanh-Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam. NXB Văn học,H.,2000, tr.41,42,47,48

[2] .Nguyễn Đình Thi là tác giả của những sách: Siêu hình học, Triết học Kant, Triết học Nietzsche, Triết học Descartes,… đều do Tủ sách triết học Tân Việt,  NXB Tân Việt, 49, phố Takou, Hà nội, xuất bản, năm  1941, 1943.

[3] Sách Nguyễn Đình Thi, về tác gia và tác phẩm.( Hà Minh Đức và Trần Khánh Thành giới thiệu và tuyển chọn. NXB Giáo Dục, từ tr.215 đến tr. 229. Bài  “ Cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi”. XD ghi theo biên bản Hội nghị, chiều 28). Tạp chí Văn nghệ số 17,18, tháng 11,12-1949.

 Theo chú thích, bài tường thuật này do Xuân Diệu ghi. Những người tham gia cuộc tranh luận này: Xuân Diệu, Tâm Trung, Thanh Tịnh, Văn Cao, Ngô Tất Tố, Tố Hữu, Phan Thị Nga, Thế Lữ, Nguyên Hồng, Xuân Trường, Nguyễn Huy Tưởng, Hữu Tâm, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Văn Khoa, Xuân Thủy,… với lời kết của chủ tịch đoàn: Tố Hữu. Hối đó, Nguyễn Đình Thi 24 tuổi, mới in 5 bài thơ ngắn. Nguyến Đình Thi coi chùm thơ: Đường núi, Không nói, Sáng mát trong như sáng năm xưa in trên Văn Nghệ hồi Việt Bắc là những bài đầu tay. Không nói in đầu tiên trên  Tạp chí Văn nghệ số 6. 11.1948.

[4] Sdd, Nguyễn Đình Thi-về tác gia và tác phẩm.  Nguyễn Văn Nam, tác giả bài “Thơ Nguyễn Đình Thi”, tr.245, đã chú thích như sau: Các bài thơ trong bài này đều lấy ở tập Người chiến sĩ in lần thứ 2, NXB Văn học, 1960 Bài thơ Hắc Hải, NXB Văn học, 1959. So với các bản in trước, có những thay đổi. Ví dụ: bài Đêm sao nguyên là bài Đêm mít tinh trong Tập văn cách mạngvà kháng chiến. Bài Đấtt nước nguyên là bài Sáng mát trong như sáng năm xưa nói trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc. Cũng cần nói thêm, Nguyễn Đình Thi còn một số thơ nữa chưa đưa được vào hai tập thơ này.

 

Nguyễn Thị Minh Thái, PGS.TS nghệ thuật học

Chủ nhiệm Bộ môn Văn hóa truyền thông

Khoa Báo chí, trường ĐH KHXH&NV. HN

(Bài viết do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học)

chu phoong arial moi copy - Hơn 30 năm của thời kì đổi mới, xã hội và nền văn học Việt Nam có nhiều thay đổi thức thời nhưng có lẽ, viết về chiến tranh vẫn là nguồn đề tài vô tận. Tuy nhiên, gần đây, có thể thấy rõ ràng là ngày một ít hơn những tác phẩm về chiến tranh. Tọa đàm Viết về chiến tranh thời đổi mới do Tạp chí VNQĐ phối hợp với tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học tổ chức sáng 6/12 lại mở ra cho những người sáng tác, nghiên cứu lí luận phê bình những cách nhìn mới về chủ đề này.

Không có những bài tham luận dài được đem ra đọc, tọa đàm là buổi gặp mặt của những cây bút cứng tay viết về chiến tranh như Chu Lai, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Anh Ngọc,… và những nhà nghiên cứu như PGS Nguyễn Hữu Sơn, PGS Lưu Khánh Thơ, TS Lê Hương Thủy, TS Đỗ Hải Ninh… Những người làm nghề nói về công việc của mình một cách khách quan khiến buổi tọa đàm thực sự có được những ý kiến giá trị,  gần gũi, cởi mở về đề tài cũ mà không cũ này.

3
Nhà văn, Đại tá Nguyễn Bình Phương, Tổng biên tập tạp chí VNQĐ mở đầu tọa đàm 

Cần tháo lỏng cách nhìn về chiến tranh 
Các sáng tác thay đổi nhiều về thể loại nhưng không có nhiều thành tựu là nhận định của PGS Lưu Khánh Thơ qua các  nghiên cứu về chiến tranh trong trường ca và thơ hiện đại. Cũng theo bà, thơ không có nhiều thành tựu trong thời kì đổi mới như văn xuôi. Do có đặc trưng về thể loại nên vẫn có sự phát triển theo cách khác như cái nhìn về chiến tranh, nhưng vẫn tập trung kiểu âm vọng – chủ yếu là hào hùng, ca ngợi chứ chưa trực diện, thậm chí còn né tránh. Cũng hiểu cho các nhà thơ khi áp lực thời đại lúc nào ảnh hưởng đến cách viết. Việc đánh giá, xuất hiện đề tài đi vào chiều sâu cần thẳng thắn mới tạo ra được dòng chảy mạnh mẽ. Điều này theo bà chỉ có được khi có sự thay đổi về cách nhìn và khai thác chiến tranh ở mảng giới, tình cảm nam nữ, giới trẻ…

Từ góc độ sáng tác, nhà văn Chu Lai nói thành tựu văn học có được hay không là do cảm nhận của chính độc giả. Theo ông, lịch sử Việt Nam là lịch sử trận mạc đa đoan và có nhiều điều để khai thác, thậm chí càng khai thác càng màu mỡ. Nếu như sợ thế hệ sau không viết nhiều về chiến tranh thì chúng ta nên hiểu rằng, người viết cần thời gian để chiêm nghiệm, cũng như cần một độ lùi cần thiết, ví dụ như Chiến tranh và hòa bình, được Lev Tolstoy viết sau khi chiến tranh kết thúc 50 năm. Chiến tranh không phải ngày hội, chủ đề chiến tranh bây giờ dù có thế nào với tất cả sự trần trụi vẫn phải toát lên phẩm chất con người bởi văn học chính là đi tìm bản ngã con người.

Tuy nhiên, tác giả Ăn mày dĩ vãng chia sẻ, hiện nay vẫn còn tồn tại cái nhìn định kiến về văn học. Điều này khiến cho các nhà văn có thể sẽ thiếu thẳng thắn trong chính các tác phẩm của mình. Nếu không tháo lỏng cách nhìn về chiến tranh thì chúng ta sẽ mãi sợ nó. Nhưng cũng có thể thấy rằng, việc các nhà xuất bản mở cửa, khoáng đạt và cởi mở với các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh ở những góc nhìn mới là minh chứng về việc chúng ta đang sẵn sàng đón nhận nhiều góc tiếp cận mới trong chiến tranh hơn nữa.

Nhà văn Bảo Ninh cho rằng đổi mới là cuộc cách mạng trong tư duy dân tộc. Và đổi mới làm thay đổi bộ mặt văn học, có nhiều cơ hội, thách thức nhưng đôi khi một số người đọc tự mình khép lại thành quả văn chương khi cho rằng văn học Việt Nam mang tính định hướng và không đọc các tác phẩm nào của văn học Việt Nam. Nhưng thực tế đó là thói quen "vớ vẩn" làm ánh sáng văn chương không phát ra được bên ngoài. Do đó, không có nhiều tác phẩm của Việt Nam được dịch và quảng bá với độc giả quốc tế.

24824230 1328029747342985 1650068959 n
Toàn cảnh tọa đàm


Văn học chiến tranh Việt Nam mới là tiếng nói của một phía
Đó là ý kiến nhà nghiên cứu Trần Đăng Trung, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn sau những nghiên cứu của mình về văn học viết về chiến tranh Việt Nam. Anh chia sẻ rằng, văn học Mỹ về chiến tranh Việt Nam có hơn 600 tiểu thuyết ở mọi góc nhìn. Tuy nhiên, vẫn dừng lại ở việc phản ánh đơn nhất với mỗi nhóm tham gia ở những góc nhìn, quan điểm khác nhau khi tham gia vào cuộc chiến. Trong vòng một thập kỉ gần đây, các nhà văn, học giả Mỹ chú ý đến mảng đề tài kí ức chiến tranh bởi chính họ cũng nhận ra rằng có sự bất bình đẳng và nhiều kí ức có sự lần át kí ức chiến tranh của những dân tộc khác. 

Nhà thơ Anh Ngọc có quan điểm về sự đổi mới trong thơ: Người làm thơ hãy tự đọc lên những câu thơ của mình, mới hay không nằm ở phía cảm nhận của bạn đọc. Các nhà văn trong lúc tôn trọng đề tài thì cần có tính độc lập trong cách viết. Ví dụ như bài thơ Cây xấu hổ của tôi nhận được nhiều lời khen và chính nhà thơ Xuân Diệu cũng khen là “tươi xanh quá” nhưng tôi tự nhận thấy rằng tôi chưa có 50% sự thật của mặt trái chiến tranh trong đó. Hay trong bài thơ Vị tướng già, tôi viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm ông 84 tuổi có câu: “Tám mươi tuổi ông lại như đứa trẻ/ Nở nụ cười ngơ ngác thơ ngây”. Tôi đã nhận được rất nhiều phản hồi phản đối bài thơ vì miêu tả vị tướng “thơ ngây”. Nhưng sự thật là tôi chỉ miêu tả lại Cụ đúng như những gì tôi thấy ở độ tuổi 84. 

Nhà văn Khuất Quang Thụy, người cả đời viết về đồng đội lại cho rằng câu chuyện đổi mới không còn mới nữa mà đã cũ rồi. Câu chuyện sau này không phải do chúng ta viết mà là của những người trẻ sau này, chỉ cần nghĩ là cứ làm với tinh thần độc lập mà thôi. Văn học của chúng ta là nền văn học khác biệt với những nền văn học khác ở chỗ có tổ chức, được tổ chức và tạo được dấu ấn, làn sóng trong đời sống. Việc của những nhà văn là lựa chọn tiếp tục đối thoại hay đối mặt với lịch sử.

Dấu ấn chiến tranh không thể phủ nhận trong chính cuộc sống hôm nay nhưng để dòng chảy đó chảy mãi trong nền văn học đòi hỏi sự cố gắng của không chỉ các nhà văn mà còn có cả sự tiếp nhận của chính độc giả, những nhà quản lý và nghiên cứu lý luận phê bình văn học.

THU OANH

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 6.12.2017.

Thông tin truy cập

60963986
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
6318
7971
60963986

Thành viên trực tuyến

Đang có 185 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website