20200831 2

Đó là những thi sỹ sinh ra từ 1950 đến 1959. Họ là một lực lượng đông đảo chừng 80 người. Họ bước lên thi đàn Việt Nam hiện đại ở những thời điểm khác nhau từ khoảng 30 năm sau cùng của thế kỷ 20. Có người đã sớm tham dự vào phong trào thơ chống Mỹ cứu nước, cùng thế hệ cha anh đi trước viết những bản tráng ca anh hùng của thời đại những năm đánh Mỹ và chiến đấu bảo vệ biên cương từ ngút ngàn núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên... đến hải đảo ngoài khơi xa biển Đông sóng dữ. Thế hệ của họ hơn ai hết mang trên vai mình sự trăn trở, hồ hởi, lo âu và đầy mẫn cảm những biến thiên của thời cuộc những năm đổi mới, trước sâu thẳm của đời sống cá nhân con người với bao ước vọng, khát khao về hạnh phúc của số phận con người trong bể dâu vô cùng quyết liệt của đời sống. Và điều quan trọng hơn cả, thế hệ ấy đã mang đến tiếng hát của thi ca mới mẻ, những tâm trạng lắng sâu trăn trở cùng sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước trong tiến trình đổi mới để không ngần ngại bước vào một cuộc tìm tòi đổi mới thi ca. Tôi muốn nói tới thời điểm bước lên thi đàn Việt Nam của 5 người trong số họ. Vũ Đình Văn. Hoàng Nhuận Cầm. Trần Đăng Khoa. Nguyễn Lương Ngọc. Nguyễn Quang Thiều.

Vũ Đình Văn - Đợi ngày về anh chia lửa cho em.

Vũ Đình Văn tham dự phong trào thơ chống Mỹ mặc dù đã vào thời gian muộn và những sáng tác hay nhất trong số 19 bài cùng với khoảng thời gian làm thơ quá ngắn chỉ trong năm 1972, những bài thơ như nhật ký chiến trường ấy đã mang đến cho thời đại phong cách thơ độc đáo bằng trực giác tinh tế và mẫn cảm ẩn chứa trong nhiều câu thơ thật tự nhiên và tài hoa kết hợp với cái bản lĩnh trầm tĩnh của người lính trận hàm chứa sắc nét trong những bài thơ có dáng vẻ của một thi sỹ đã trưởng thành. Đất nước đã nâng họ đứng dậy trên các chiến hào đánh giặc. Đêm gác miền Trung 19-1-1972. Đêm hành quân qua phà Long Đại 5-1972. Nửa sau khoảng đời. Cây số bốn 10-1972. Dũng sỹ bạn tôi. Tiếng kẹt cửa 11-1972. Cái nhẫn 20-11-1972. Ở đây thơ với nhật ký của một cuộc hành quân là một.

Vũ Đình Văn viết thơ về những đêm chiến tranh bằng một trực giác lạ thường. Đó là Hà Nội Những đêm cuối bảy mươi, cành sấu gió không còn ngọt tiếng trong khi đậm đà từng ngách phố một màu nâu trăn trở với con người. Đêm chiến tranh dù ở đâu cũng vậy, khắp trên Tổ quốc ta trang nghiêm trầm tĩnh mà xúc động lạ thường cùng với tình quân dân ấm áp. Có những đêm miền Trung đầm đậm. Biển Nga Sơn vỗ vào rất ấm. Bọn mi lên đường, tau nhớ mần răng.

Những đêm trăng hành quân. Đêm ấy đêm trăng hành quân qua phà Long Đại, nghe tiếng nhắc của người con gái, nghe được cái ấm nóng của dòng sông mà những tưởng thời gian đứng lại. Mặc quân thù cứ xuống bến đi anh. Nước Nhật Lệ khuya rồi còn âm ấm. Tiếng côn trùng không kêu làm đêm đi rất chậm.

Đêm gác miền Trung người lính trẻ thức với quê hương mới hiểu ra cái đêm miền Trung đêm nhớ thế, là đêm lần đầu tiên nghe sóng bể, những ngọn sóng dài nóng bỏng lòng trai. Anh đứng gác để miền Trung bình yên ngủ. Rồi đêm khuya ở lại lán trong rừng nhắc ai: Việc khuya, chi đó, riêng chung. Có đi đánh giặc hãy dừng lán ta. Bỗng dưng bát ngát một câu hò có màu sắc tím: Khuya rồi vọng một tiếng chim. Ai hò tím cả đồi sim ai hò. Người lính ấy hình dung Tiếng kẹt cửa của đêm chuẩn bị vào trận đánh tiếng kẹt cửa khép dần yên tĩnh lại, đêm mông lung lắng đọng những màu xa. Những đêm ra trận thời đánh Mỹ cả nước là một chiến trường với Vũ Đình Văn đồng đội là những người anh em và họ chung một niềm vui: Ngày Vĩnh Linh mà đêm thành Quảng Trị, Miền Nam ơi! xin gửi phút giây này. Nhưng cái đích cuối cùng của trận đánh sinh tử là hòa bình, là tình yêu lứa đôi sẽ đoàn viên dù bây giờ là những đêm hành quân rất rội mà hy vọng không bao giờ tắt của hai người. Mắt em, mắt anh ngần ấy vì sao để có được lời hẹn bất tử không bao giờ chết.

Ôi! cái khoảng đời đêm nay cháy đỏ

Đợi ngày về anh chia lửa cho em.

Vào độ mấy ngày cuối tháng 7-2020, tôi đến số 47 Lãn Ông thắp hương bái lễ Vũ Đình Văn. Từ phố vào nhà phải đi sâu vào một con ngõ nhỏ, giống như bao nhiêu ngõ nhỏ của phố cổ Hà Nội. Chật và kín tựa một đường hầm tôi tối dài khoảng 100m; không có đường thông đi ra ở phía bên kia. Ở Hà Nội có hàng vạn đường hầm ngõ nhỏ như thế. Người Hà Nội đã ra đi từ đó không biết bao nhiêu thế hệ để bảo vệ Tổ quốc và phẩm giá con người. Khi ra đến đầu ngõ, nắng cuối hạ đã nhạt màu chớm thu, tôi chợt thấy rặng núi hồn nhiên của Văn hiện về sương khói trên phố Lãn Ông.

Ai gọi dải núi trước nhà là Giăng hạc

Để ấm lưng mình một dải Cù Êu

Hoàng Nhuận Cầm - Chày mùa thu gõ mãi lời nước non.

Tôi hình dung khi Hoàng Nhuận Cầm bước lên thi đàn giống như một Ga vơ rốt trên trận tuyến. Cầm đã mang tiếng nói tươi trẻ cuả tuổi học trò vào trong thơ. Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu nên trong ba lô người lính của Cầm giống như bao người khác cùng thế hệ ra trận thời đánh Mỹ. Tuổi học trò vô tư, đầy mơ mộng và chẳng biết sợ hãi gì lưỡi hái độc ác của chiến tranh. Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu. Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ. Trong những ba lô kia ai dám bảo là không có. Một hai ba giọng hát chú ve kim.

Tiếng ve thì đã rõ rồi. Nó khai mở những mùa thi. Những mùa hè. Những mùa phượng đỏ. Nhưng tiếng hát Hoàng Nhuận Cầm còn là tiếng chim của tuổi học trò đã lên tận một đồi chốt lắm chim. Giữa nơi trận mạc, người lính trẻ còn lọc biết được chuyện chim ri ngây thơ, sáo sậu thì khoác lác nhất nhì. Chú vẹt thì nhắc đi nhắc lại chuyện cũ. Tiếng chim Cuốc như máu chảy về tim khi đất nước còn chia cắt. Cuối cùng cũng lộ ra Hoàng Nhuận Cầm.

Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng

Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm

Đậm đà nhất cái chất học trò trong thơ Hoàng Nhuận Cầm là 4 khổ thơ đầu trong bài Anh bộ đội và tiếng nhạc la. Ở đấy cái lắng nghe của Cầm như được nhả tơ từ sự tò mò mà tinh tế của thi nhân. Tôi không thấy cái chất lính trong bài thơ này mặc dù nó mô tả về lính. Chỉ thấy yêu quý thêm hơn những người ra trận xem cái chết nhẹ như lông hồng mới viết được những vần thơ như thế. Người Việt Nam chiến thắng bằng niềm tin và ý chí sắt đá, bằng sự bình tĩnh phi thường và bằng cả cái chất học trò thản nhiên của thơ giống như Hoàng Nhuận Cầm.

Những cây nấm màu nâu, màu nâu già

Tự dưng thức dậy bên vòm lá

Những bông hoa chửa có tên hoa

Bỗng nhiên mở cánh ra nghe ngóng.

Sau những năm chiến tranh, Hoàng Nhuận Cầm còn tiếp tục đường thơ. Nhưng người ta vẫn chưa thoát được thơ Cầm với cái chất học trò vô tư đầy lạc quan thời chiến tranh. Cái chất học trò ấy có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương đất nước. Cầm viết hộ người xứ Đoài tình yêu quê hương mà chưa thấy ai trả được cái chất trầm tư lạ lùng của người xứ ấy.

Xa trung du nên tôi chửa thấy đồi

Nhà đá ong âm thầm mang lời đất.

Đất nước - mẹ Việt Nam hiện hình trong thơ Cầm như mùa thu tuyệt vời vùng châu thổ Sông Hồng, từ cái rung cảm mùa thu trong xa thẳm văn hóa dân gian đất Việt, nơi tháng 7 lác đác cành Ngô, nơi mùa thu của mẹ tảo tần nuôi ta khôn lớn.

Mẹ tôi giã gạo nuôi tôi

Chày mua thu gõ mãi lời non nước.

Trần Đăng Khoa - Những năm băng đạn vàng như lúa đồng.

Năm 2014, NXB Hội nhà văn in Thơ thế hệ các nhà thơ chống Mỹ cứu nước, với hơn 1600 trang, 328 thi sĩ. Gồm cả Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa. Nhưng trẻ nhất trong số hơn 300 người ấy, Trần Đăng Khoa ghi tên vào phong trào khi mới 9, 10 tuổi thôi. Khoa bước lên thi đàn Việt Nam như một cậu bé mặc hoàng bào phất trên tay lá cờ thêu 8 chữ vàng: Những năm băng đạn vàng như lúa đồng, xứng đáng là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử thi ca Việt Nam.

Ở lúc 9, 10 tuổi đã có những bài thơ với sức liên tưởng kỳ diệu. Hạt gạo làng ta. Ò...Ó...O. Sao không về vàng ơi. Mưa. Đám ma bác giun v.v... Những liên tưởng tươi mới mà ngộ nghĩnh về hạt gạo làng ta có vị phù sa của sông Kinh Thầy. Có lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay. Trong hạt gạo nhỏ bé ấy, Khoa đã thấy có bão tháng 7, mưa tháng 3 và những giọt mồ hôi của trưa tháng 6... Tất cả cái đó theo hạt gạo ra tiền tuyến đánh giặc quý giá như những hạt vàng. Từ đó có cơ sở để gọi đây là tám chữ vàng: Những năm băng đạn, vàng như lúa đồng... Sao không về vàng ơi! kể chuyện một con chó không về nhà sau một trận bom... nghe nói người phương Tây rất thích tứ thơ này. Chiến tranh cũng không thể lấn át những cảnh và tình của con người và đất nước Việt Nam. Dù bên cạnh thấy đạn giăng dày nhưng Khoa lại thấy: Thấy trời xanh biếc mênh mông, cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy. Hoa Lựu trầm tích chất suy tưởng: Cuốc kêu chưa dứt mà cành đầy hoa. Từ đó Khoa liên tưởng một cảnh chiến tranh theo con mắt tuổi thơ khi đêm về đạn quân ta bắn máy bay đỏ như chùm hoa lựu. Có lần Trần Đăng Khoa bảo đã hết tuổi thơ từ năm lên 8 mà đến giờ tôi vẫn chưa tin bởi những bài thơ Ò..Ó...O. Mưa. Đám ma bác giun, Chớm Thu... bộc lộ một tài năng thiên bẩm của thi sĩ bởi óc liên tưởng và quan sát kỳ lạ. Chiến tranh cũng không thể bắt Khoa làm người lớn ngay được. Mặc dù đã phất lá cờ thêu 8 chữ vàng.

Như một sự sắp đặt có sẵn của lịch sử, vào năm 1975, 1976 khi Trường Sơn vừa im tiếng súng đuổi giặc, Khoa được cử ra mặt trận mới - Mặt trận biển. Không phụ lòng tin của thời cuộc, anh lính thủy Trần Đăng Khoa đã cho ra đời một chùm thơ biển đảo đặc sắc. Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca. Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài. Ghi ở đảo chìm. Thơ tình người lính biển. Đợi mưa trên đảo sinh tồn v.v... Vang lên ở đây tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh và lòng dũng cảm. Tiếng gọi thiêng liêng của sự bất khả xâm phạm bờ cõi giữa đảo chìm đảo nổi dữ dội sóng biển khơi. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên với sự dạt dào tình yêu lứa đôi trong xa cách thăm thẳm sóng và mây trời... Vào năm 1975 khi Khoa 17 tuổi đã có bài thơ Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài. Kết của bài thơ này là những dòng sớm nhất, hay nhất của thơ thời biển đảo cam go.

Đảo tự giấu mình trong màu nước lam xanh

Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng

Tổ quốc ơi! Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống

Bóng chúng tôi chìm khắp đảo Thuyền Chài.

Người ta bảo Trường Sơn là của Phạm Tiến Duật. Trường Sa là của Trần Đăng Khoa có phải là từ những câu thơ như thế đó chăng?

Xuân Diệu đã có lần không mặn mà lắm với Trường ca của Khoa. Ở Khoa, tôi thích đoản thi hơn trường ca. Mấy năm nay Khoa tham gia lãnh đạo Hội nhà văn. Tôi lo hơn là mừng. Bởi vì tôi cũng như nhiều thế hệ độc giả sẵn lòng yêu thơ Khoa từ trước, mong muốn và chờ đợi những sáng tác mới của nhà thơ tài danh này. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp hay nói với tôi rằng Khoa sẽ là người giữ gìn bát văn của quốc gia không phải theo ý nghĩa hành chính mà theo ý nghĩa lĩnh xướng một thời đại trong thơ?

Nguyễn Lương Ngọc - Lau trắng đang nghiêng về sắc xám, có lẽ nó ngả màu vì sợ những hình như.

Nguyễn Lương Ngọc sinh 1958. Đến với thơ vào những năm 1990 là hơi muộn. Khi tuổi làm thơ đã gọi là già. Đời thơ ngắn ngủi của Ngọc có lẽ chỉ được khoảng 6, 7 năm - tức là đến năm 1996, khi nhà thơ lâm nạn nặng không thể gượng dậy làm thơ được nữa. Gượng mãi đến 2001 thì phải rời thị xã Sơn Tây để về chốn cao xanh. Nhưng chỉ 3 tập thơ - Từ Nước 1990. Ngày sinh lại 1991. Lời trong lời 1994 đã đủ tạo lập một sự nghiệp thơ ca đầy sắc thái cách tân và bước lên thi đàn với tư cách một thi sỹ khao khát đổi mới theo tiếng gọi của thời đại. Trong 3 tập thơ đó, thành công hơn cả ở Ngày sinh lạiLời trong lời, ngoại trừ một số bài thơ viết về miền Trung trong chuyến đi xuyên Việt tháng 8, 9-1993 tuy có câu thơ đặc sắc, nhưng ít bài hay và thường ở độ "rằng hay thì thật là hay"…

Thơ Nguyễn Lương Ngọc không tập trung quá nhiều vào việc dàn dựng câu tứ nhằm vào một ý tưởng nào đó. Chuyển biến mới mẻ của thi pháp Nguyễn Lương Ngọc ở chỗ cảm xúc và nhịp điệu của tư duy Thơ tự dâng lên, trào lên đôi khi bởi những ý thơ đột khởi khiến bài thơ tưởng như không có hồi kết mà sâu nặng ý nghĩa nhân bản của tình đời, tình người. Nó ẩn chứa một điều gì không đoán trước được của số phận con người. Nó mang lên tiếng nói lo âu chân thành như lau trắng kia ngả màu về sắc xám vì sợ những hình như, những suy đoán, những giả dụ của muôn nẻo đường trần trong cõi mưu sinh không ngơi nghỉ.

Bài Gió khô tặng Hoàng Trung Thông khởi đầu bằng ý thơ mời trăng uống rượu Người khuất vào trăng người không khuất vào người. Thi sỹ của Bài ca vỡ đất, Bộ đội về làng vui với trăng với bạn chẳng để tâm đến rượu trong rượu đục, Ngọc muốn gió khô đi đâu cho Ngọc được theo cùng, rồi đột nhiên trào ra một lý lẽ: Một thể chữ thế chấp bằng gần 70 năm mở mắt mà nó lại không phải là câu kết. Các bài thơ Trò chuyện với em gái đang quen, Lý do, Đàn giang .v.v... đều được viết trong cái thế Biển tan nát mà không tan nát được, như thể một sự hối hả tìm kiếm cách diễn đạt mới của Thơ.

Một số thử nghiệm của Ngọc chưa đưa đến kết quả mong muốn. Có những bài thơ Ngọc ngắt câu thơ theo dòng mà không theo nghĩa hạn chế sự bùng nổ của ngôn ngữ thơ. Hình như có lúc Ngọc quan niệm điều trước tiên của thơ không phải làm cho thật rõ ràng về nghĩa trong lời thơ, thậm chí cả bài thơ. Đồng hồ vĩnh cửu lời thơ chưa thật tương xứng với ý tưởng của toàn bài, mặc dù cái kết của bài thơ đó thật hay. Tưởng như Ngọc còn sống để được thỉnh tiếng chuông như vậy. Để bên kia sư nữ lại thở dài, tỉnh dậy tụng kinh lần tràng hạt nhưng nghĩ thế nào lại thôi.

Nguyễn Quang Thiều - Những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống, góc vườn khuya cỏ thức giấc một mình.

Nguyễn Quang Thiều xuất hiện ở cuối thế kỷ 20 như một sự kinh dị lạ lùng theo quan điểm của cả những người ủng hộ và không ủng hộ. Năm 1983 Thiều đã dắt nàng Tô Thị chạy bộ giữa miền biên viễn phía Bắc đang chiến tranh Biên giới giờ này đạn giặc xoáy vào đêm; Nàng Tô Thị bồng con đi lối tắt. Thiều đã đưa người hóa đá đó chạy tản cư đến được giải ba của cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội. 10 năm sau - 1993. Sự mất ngủ của lửa gây tranh cãi nảy lửa ở ban chấm giải Hội nhà văn và lửa của Thiều được giải. Hai năm sau 1995 Nguyễn Quang Thiều khăn áo đi thi một cuộc thi thơ của báo Phụ nữ Việt Nam bằng việc ứng thí dưới cái tên một người đàn bà. Kết quả người đàn bà mạo danh ấy lại là người đứng số nhất cuộc thi. Đời thế mà vui. Người ta xô nhau đi tìm đọc Thiều. Nhiều bạn trẻ làm thơ theo cách của Thiều. Thân phận ấy, tôi nhớ đến cuộc tranh luận thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi ở chiến khu Việt Bắc. Hồi năm 1948.

Không nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Quang Thiều là một phong cách thơ độc đáo vào những năm cuối thế kỷ 20 đầu 21. Có hai cảm hứng chủ đạo của hiện tượng mang tên gọi Nguyễn Quang Thiều. Đó là cảm hứng làm nên cái chất quê mùa kỳ dị mà đẹp lạ thường, cái vẻ đẹp trầm mặc theo lẽ vô thường, đôi khi cay đắng của làng quê vùng châu thổ Sông Hồng và cảm hứng về sự mất ngủ và thức dậy của thân phận con người với ý nghĩa là cá nhân con người và nhất là của thi ca như là tiếng gọi khao khát với bao xót xa đau đớn và hy vọng trong một thế giới đầy biến động với những gãy khúc của không gian, thời gian và chân lý đời sống.

So với làng quê của Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... ở thế kỷ trước, làng quê xứ Bắc trong thơ Thiều kỳ dị trong cái bình dị, cái tưởng như không đáng giá nhất lại trở thành thiết tha gắn bó và nhân bản nhất của đời một người nhà quê. Con giun đất bò âm thầm dưới vại nước bờ ao, bò qua những bãi tha ma người làng chết đói để đất đùn lên máu chảy ròng ròng. Con giun đất không phải gì xa lạ mà đôi khi lại còn bẩn thỉu dưới con mắt người đời lại là khúc nhau của mỗi chúng ta gửi lại cố hương khi cất tiếng chào đời. Quê hương đó bầy chó đã bao đêm sủa vào ánh chớp cuối chân trời, sủa vào những ngọn đèn dầu heo hắt trên bao khám thờ bằng đất ở xứ sở người ta đôi khi cả năm không dùng đến đồng tiền. Vì thế mới có ước mơ kiếp sau được làm một con chó nhỏ để canh giữ nỗi buồn như là báu vật của quê hương. Ở đó Những người đàn bà gánh nước sông để sông chảy vào đời ta, để sông gục mặt vào bờ đất lần đi trong day dứt. Những buổi hoàng hôn ở nơi nhà quê đó chẳng biết ai lén đổ vào chiều chút rượu để ngày cạn đến đâu, rượu cạn theo cùng. Quê hương mà cả đời ta thương nhớ mẹ già khuất bóng trên cánh đồng xa. Bỗng một hôm, ban mai thức dậy.

Chiếc bánh xe trâu một nửa đã qua đêm

Một nửa thùng cỏ tươi còn trong bóng tối.

Cái ranh giới mơ hồ đó trên chuyến xe trâu mở ra vẻ đẹp vô thường của thơ Nguyễn Quang Thiều.

Không phải ngẫu nhiên có cảm giác cả đời Thiều mất ngủ luôn mơ thấy sự thức dậy bởi những gì đã qua và sắp tới báo có tin mừng sinh nở một điều kỳ lạ trên thùng cỏ tươi kia.

Những ngọn gió thế kỷ sau ùa về làm tôi trở dạ

Tôi tìm mảnh gốm vàng cắt rốn trẻ sơ sinh.

Lúc ấy thi nhân thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình, thức đậy để chào đón một giọng nói. Trong khi những đêm mùa hạ thầm thĩ tạ từ, thức dậy cánh cửa gỗ mười năm mệt mỏi. Những thế hệ của thế kỷ này đã khác trước rất xa. Họ đi ngủ không giống. Nói mê không giống. Thức dậy không giống, như Sông Hồng rộng mê man chảy bên kia giấc mơ, chảy bên này giấc mơ đi tìm cái mới.

Sau những thử nghiệm thơ văn xuôi trong Cây ánh sáng, Bài ca chim đêm, Nhân chứng một cái chết... với sự xuất hiện của những câu thơ luận đề và thường được lặp lại, những câu thơ mở rộng v.v... Thiều đã đi đến cái mà có nhà thơ gọi là nhiệt đới hóa ngôn ngữ thơ… Đã là rừng nhiệt đới thì thường là rậm rạp nên hệ quả có thể là thơ thiếu những khoảng trống của ngữ nghĩa, những khoảng vang xa trong cái hàm xúc đến kỳ diệu. Thơ mới của Thiều đã ít xuất hiện hơn vài năm nay. Có thể nhà thơ đang nghiền ngẫm những sáng tạo không mệt mỏi của một tài năng thơ như cỏ vẫn thức một mình ở góc vườn khuya.

Thi ca thế kỷ 20 là chỉnh thể thống nhất của khí phách và tâm hồn Việt Nam. Tầm vóc của nó thật là kỳ lạ khi chia tay thân ái với kiểu thơ chữ Hán và chữ Nôm của 9 thế kỷ trước. Thi ca thế kỷ 20 không phải là kết quả chỉ trong vòng 100 năm mà của cả hơn 3 thế kỷ phát triển chữ quốc ngữ kể từ 1620 khi các ký tự abc bắt đầu được dùng để ghi âm tiếng Việt. Cho phép tôi không gọi là giai đoạn mà là thời đại thì 100 năm đã qua chúng ta đã có 4 thời đại trong sự tiến hóa không ngừng của thơ. Thơ Mới. Thơ thời chống Pháp. Thơ thời chống Mỹ. Thơ những năm đổi mới và đầu thế kỷ 21. Gọi là thời đại có nhiều lý do; nhưng có một lý do không thể thiếu được là sự hình thành và xác lập thi pháp mới bằng một số thi sĩ có vai trò lĩnh xướng. Ba thời đại trước thì đã rõ rồi. Vậy thời đại thi ca hiện nay những ai là người lĩnh xướng và họ đã đưa đến được những gì của thi pháp mới? Đã gần 10 năm nay, hàng năm tôi đều vào đền thờ văn học ở phố Quốc Tử Giám Hà Nội cầu nguyện. Cầu cho thi ca thế kỷ 21 phát huy bản sắc của những thời đại thi ca thế kỷ 20 và có những người lĩnh xướng tài ba ở tầm vóc mới.

Mùa thu 8/8/2020

Khuất Bình Nguyên 

Nguồn: Bài do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học

TTO - Dịch giả Huỳnh Phan Anh vừa qua đời lúc 16h45 ngày 30-8 tại San Jose, California, Hoa Kỳ (tức 6h45 sáng 31-8 - giờ Việt Nam) sau một thời gian nằm bệnh, hưởng thọ 81 tuổi.

20200831

Dịch giả Huỳnh Phan Anh (trái) chụp chung với nhà thơ Yves Bonnefoy tại Paris năm 1999 - Ảnh tư liệu

Dịch giả Huỳnh Phan Anh tên thật là Huỳnh Thanh Tâm, sinh năm 1940 tại Bình Dương, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Lạt và là giáo sư triết học tại miền Nam. Nhưng sự nghiệp của ông gắn liền với hoạt động dịch thuật và phổ biến tác phẩm văn chương triết từ các nước đến với người đọc Việt Nam từ trước 1975.

Theo những bạn bè của ông từ hồi còn gặp nhau ở tòa soạn báo Văn tại Sài Gòn, tác phẩm phê bình văn học đầu tay của Huỳnh Phan Anh là Văn chương và kinh nghiệm hư vô (NXB Hoàng Đông Phương, 1968), sau đó ông có tập truyện Người đồng hành (Đêm Trắng xuất bản 1969), kế đó là tập tiểu luận - phê bình Đi tìm tác phẩm văn chương (Đồng Tháp, 1972); ngoài ra ông còn truyện vừa Những ngày mưa (Đêm Trắng xuất bản), và tập truyện Phía ngoài viết chung với Nguyễn Đình Toàn.

Nhưng sự nghiệp dịch thuật của Huỳnh Phan Anh mới thật đáng nể, ông đã chuyển ngữ nhiều tác phẩm quan trọng, cả những tác phẩm kinh điển của văn chương và tư tưởng thế giới được in và tái bản nhiều lần trong mấy chục năm qua:

Một mùa địa ngục (thơ Arthur Rimbaud, NXB Văn Học), Tuyển thơ tình yêu (Paul Eluard, NXB Hội Nhà Văn), Thơ Yves Bonnefoy (NXB Hội Nhà Văn), Chuông gọi hồn ai (tiểu thuyết, Ernest Hemingway, NXB Văn Học), Tình yêu bên vực thẳm (tiểu thuyết, Erich Maria Remarque, NXB Trẻ), Sa mạc (tiểu thuyết, J.M.G Le Clézio, NXB Hội Nhà Văn), Lạc lối về (tiểu thuyết, Heinrich Boll, NXB Văn hóa Văn Nghệ), Tình yêu và tuổi trẻ (tiểu thuyết, Valery Larbaud, NXB Trẻ), Những cuộc đời tỏa sáng (nghiên cứu, André Maurois, NXB Trẻ), Ảo ảnh (Thomas Mann, Văn học), Cỏ (Claude Simon, Hội nhà văn), Thế giới của Sophie (Jostein Gaarder, Văn hoá thông tin, Nhã Nam tái bản), Bãi hoang (Jean-René Huguenin, Đồng Nai, Dtbook tái bản), Rimbaud toàn tập (Arthur Rimbaud, Văn hóa Sài Gòn), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe, NXB Văn nghệ TP.HCM).

Một số tác phẩm quan trọng đã được ông sớm dịch từ trước 1975 như Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann, Ngày Mới, 1974), Chuyến viễn hành trong đêm (Heinrich Böll, Vàng Son, 1973), Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật, Ngày Mới, 1973)…

"Tất cả cuộc sống của ông là ở đây, nó quá đẹp với đủ vui buồn của một chàng trai sớm già dặn và buồn bã vì bị văn chương chiêu dụ, bị triết học mê hoặc; một ngòi bút tài hoa sớm thành danh; một tên tuổi nức tiếng, nhưng ít ai thấy mặt, nghĩa là cô đơn trong chốn đông đảo, như một cách nói của ông" - Nhà văn - dịch giả MAI SƠN

Theo nhà thơ Phạm Chu Sa, một bạn văn của Huỳnh Phan Anh, ở độ tuổi 30, Huỳnh Phan Anh đã "cùng với các nhà văn - nhà phê bình Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Hữu Trí và Đặng Phùng Quân quy tụ thành nhóm Đêm Trắng.

Đêm Trắng là nhóm văn học có khuynh hướng hiện sinh, đi tìm cái mới trong văn chương để làm mới văn chương. Hầu hết thành viên của nhóm là nhà văn kiêm nhà giáo dạy văn học và triết học. Huỳnh Phan Anh rất ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng của Jean Paul Sartre, nhà văn - nhà triết học người Pháp, người có công xiển dương chủ nghĩa hiện sinh".

Cũng theo Phạm Chu Sa, "năm 2002, Huỳnh Phan Anh sang Mỹ định cư tại San Jose, một TP ở Bắc California có hơn 100.000 người Việt nhưng anh sống gần như khép kín, cách biệt, cả với giới văn nghệ sĩ - bạn bè cũ của anh. Phần do anh bị bệnh tim, phần không biết lái xe".

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo trong nước, dịch giả Huỳnh Phan Anh bộc bạch: "Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời, tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong".

Một cuộc đời sống và làm việc hết mình cho văn chương, phê bình và dịch thuật với lượng tác phẩm đồ sộ rất có giá trị, tên tuổi Huỳnh Phan Anh chắc chắn còn sống mãi với những người trân trọng ngôn ngữ và văn chương.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 31.8.2020.

Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

20200525

Gõ Google, thấy xuất hiện một vài bài viết đáng chú ý như bài Nguyễn Hành (1771 - 1824) nhà thơ tài hoa trong An Nam ngũ tuyệt của Phạm Trọng Chánh (TS. Khoa học Giáo dục Viện Đại học Pars V Srbonne) và bài Nguyễn Du qua cảm nhận Nguyễn Hành của Lê Quang Trường… Sở dĩ tên tuổi Nguyễn Hành còn ít người biết đến vì mấy lý do chủ yếu như: các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Hán như Quan Đông hải (Ngắm biển Đông), Minh Quyên thi tập (Tập thơ Tiếng kêu của chim Đỗ Quyên)…, số người giỏi chữ Hán ở nước ta hiện nay rất hiếm. Một vài bản dịch thơ Nguyễn Hành của Nhất Uyên và của nhóm biên soạn Minh Quyên thi tập (Nxb. Nghệ An, 2017) gồm Võ Minh Quang (chủ biên), Hồ Bách Khoa, Trần Thị Vinh, Hồ Công Lưu chưa có bản dịch nào thật hay, thật đặc sắc để có thể lưu truyền rộng rãi. Các nhà thơ tên tuổi thông thạo chữ Hán như Phan Huy Ích, Nguyễn Công Trứ, Tùng Thiện Vương, Tản Đà, Khương Hữu Dụng, Nam Trân… không biết vì lý do gì mà chưa hề dịch một bài thơ nào của Nguyễn Hành. Phần lớn thơ Nguyễn Hành được sáng tác trong thời nhà Nguyễn nhưng một lòng hướng về nhà Lê nên không được lưu hành rộng rãi, thậm chí còn bị nghi kỵ, cấm đoán. Đương thời, Nguyễn Hành xếp trong “An Nam ngũ tuyệt”. Hiện vẫn chưa biết chắc chắn 5 vị đứng đầu văn chương nước Nam ta thời ấy là những ai. Có thuyết cho là gồm: Nguyễn Du, Nguyễn Hành, Nguyễn Huy Tự, Phạn Huy Ích, Ngô Thời Vị. Cũng có thuyết cho là gồm: Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản, Nguyễn Đề, Nguyễn Du, Nguyễn Hành. Cả hai thuyết đều chưa có căn cứ khoa học.

Nguyễn Hành và Nguyễn Du có nhiều điểm tương đồng: Cùng dòng dõi họ Nguyễn Tiên Điền (Nguyễn Du là chú ruột của Nguyễn Hành); cả hai cùng sống trong thời kỳ lịch sử đầy biến động (cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn). Nguyễn Du (1766) lớn hơn Nguyễn Hành (1771) 5 tuổi và mất (1820) trước Nguyễn Hành (1824) 4 năm. Cả hai đều được cha, anh rèn cặp từ nhỏ và cùng chung hưởng những năm tháng tuổi thơ trong đại gia đình “danh gia vọng tộc”, tận mắt nhìn ngắm lâu đài nguy nga tráng lệ, cung vua, phủ chúa. Thời Tây Sơn, cả hai cùng lánh nạn (Nguyễn Du nương nhờ nhà vợ ở Hải An, Thái Bình, Nguyễn Hành nương nhờ nhà cậu ở Nam Sách, Hải Dương). Ngoài 30 tuổi, cả hai đều nổi tiếng là những bậc “danh sĩ” trong thiên hạ. Chỉ khác là Nguyễn Du có đi thi và đỗ Tam trường, còn Nguyễn Hành thì không dự bất kỳ một khóa thi nào. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn còn Nguyễn Hành thì cương quyết chối từ - một lòng trung thành với nhà Lê. Nguyễn Du có được trên 20 năm cuộc sống tạm gọi là yên ổn, còn Nguyễn Hành thì gần như suốt đời chịu cảnh nghèo túng “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng”. Nguyễn Du vừa viết bằng chữ Hán vừa viết bằng chữ Nôm, còn Nguyễn Hành chỉ viết bằng chữ Hán.

Người làm văn chương thời nào cũng có quan niệm riêng của mình. Nguyễn Hành không là ngoại lệ. Nhưng tôn thờ văn chương, đề cao văn chương, thấu hiểu cái vi diệu của văn chương thì ít ai bằng Nguyễn Hành. Trong bài Văn tại tư (Văn chương phải là chính nó), Nguyễn Hành viết: Văn chương bổn linh khí/ Tạo hóa giả ngô nhân/ Tinh chi xuất ư quỷ/ Diệu xử nhược hữu thần/ Vô cùng tỉ Hà Hán/ Bất trắc loại phong vân… (Văn chương là linh khí/ Tạo hóa tặng người trần/ Khi xuất thì như quỷ/ Khi nhập thì như thần/ Dài như mây, như gió/ Rộng như dòng sông Ngân…). Bài Ẩm trà sự (Việc uống trà), từ việc uống trà, Nguyễn Hành suy luận về bản chất của văn chương như sau: Tức thử ẩm trà sự/ Hà vi bất khả ngôn/ Văn chương vô định thể/ Đắc ý dữ thùy luân (Tỷ như việc uống trà/ Dư vị không thể tả/ Nếu ràng buộc văn chương/ Chẳng ai thèm đọc cả). Cái ý văn chương là chính nó, không thể ràng buộc, khống chế, điều khiển, được Nguyễn Hành đặc biệt lưu tâm. Có lẽ ở xứ ta, Nguyễn Hành là một trong những người đầu tiên đề cao và cổ súy cho quan điểm tự do sáng tác. Nguyễn Hành cũng giống như Nguyễn Trãi: Ung dung cứ nói điều ta thích, uốn lưỡi theo đời ta chịu đâu! Mặc dù sống dưới thời Tây Sơn hay dưới thời nhà Nguyễn, ông vẫn can đảm ca ngợi những trung thần thời nhà Lê, như: Lý Trần Quán, Nguyễn Huy Trạc… Trong bài Đan Nhiễm Ngự sự công (Ông Ngự sử ở làng Đan Nhiễm), nhà thơ tôn vinh khí tiết của Nguyễn Huy Trạc. Ông Ngự sử ở làng Đan Nhiễm không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn, đã tìm cách uống thuốc độc tự tử: Ẩm độc cam như thuần (Uống thuốc độc mà như uống rượu ngon). Nguyễn Hành còn nêu gương Thúy Ái phu nhân. Theo tiểu dẫn của tác giả: “Nàng họ Phan, tên tự Thuận Nương, người Trảo Nha, Thạch Hà, Hà Tĩnh, là vợ ông Tiền Suất đội họ Ngô. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn đánh chiếm sông Thúy Ái (Nhĩ Hà), quân nhà Lê thất trận, ông họ Ngô chết chìm, mất xác. Mấy hôm sau, bà Thuận Nương mặc áo quần mới, chèo thuyền ra giữa sông, trẫm mình tự vẫn theo chồng”: Nhĩ Hà vạn cổ lưu/ Bất tận phu nhân tiết (Tiết nghĩa của phu nhân/ Sông Nhĩ lưu truyền mãi). Nguyễn Du cũng hoài Lê nhưng chỉ thể hiện một cách kín đáo chứ không bộc trực như Nguyễn Hành. Chính cái tính bộc trực ấy mà nhà thơ từng rước họa vào thân. Có kẻ ngầm tâu với em trai Nguyễn Hành là Nguyễn Ngỗ - một ông quan to triều Tây Sơn - rằng: “Nguyễn Hành có ý khôi phục nhà Lê”. Nguyễn Ngỗ đã sai quân lính truy bắt anh trai. Nguyễn Hành vội vàng gửi hai cô con gái đang nhỏ dại cho một bà lão ở Ngãi Am (Nam Sách, Hải Dương) rồi chạy trốn. Phải 3 tháng sau cha con mới gặp lại nhau. Nhà thơ xúc động nghẹn ngào viết bài Hỉ nhị nữ lai tự Vĩnh Lại (Vui gặp hai con đến từ Vĩnh Lại): Huyết thuộc nan dung xử/ Tha nhân cánh tự chi/ Tương khan bi hỉ tập/ Hàm tiếu lệ song thùy (Anh em nuôi thù hận/ Người dưng tốt quá trời!/ Vui với buồn lẫn lộn/ Miệng cười, mắt lệ rơi). Chắc chắn Nguyễn Du chưa bao giờ lâm vào tình cảnh éo le như thế. Chỉ bốn câu ngắn gọn mà chất chứa bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu nghịch lý. Gặp lại hai con thì mừng rỡ, với bà cụ cứu giúp con mình thì vừa cảm phục vừa biết ơn. Nghĩ đến người em ruột quyết truy bắt anh bằng được để xử tội mà buồn, mà giận, mà xót xa, cay đắng cho cái sự đời. Bởi cái nghi án có mưu đồ làm phản đó mà ông phải vào hầu cửa quan không biết bao nhiêu lần. Trong bài Hữu trào chi giả (Có điều cười mỉa), nhà thơ tự trào: Tha niên hải nội tri danh sĩ/ Kim nhật thành trung khất thực nhân/ Tối thị nhất ban chân khả tiếu/ Công môn an dụng nhữ tần tần (Năm nào tên tuổi lừng danh/ Mà nay hành khất quanh thành nắng mưa/ Có điều này - nực cười chưa!/ Quan đâu cần, vẫn sớm trưa ra, vào). Nguyễn Du chỉ có mười năm gió bụi nhưng ngay những năm tháng đó, gia cảnh Nguyễn Du cũng không đến nỗi nào. Vì họ Đoàn bên vợ Nguyễn Du ở Hải An Thái Bình lúc bấy giờ vẫn rất sung túc. Nguyễn Hành thì trải qua gần 40 năm gió bụi. Ông chỉ nương nhờ gia đình cậu ruột ở Nam Sách, Hải Dương trong một thời gian ngắn. Gần 40 năm, ông và vợ phải “may thuê, viết mướn kiếm ăn lần hồi”. Nhiều ngày cái chum nhà ông không còn một hột gạo nào. Trong bài Mễ tận (Hết gạo), nhà thơ “cười ra nước mắt”: Thiên dữ trường bần lộc (Trời cấp cho ta cái lộc nghèo mãi). Ông rất biết ơn những người hàng xóm ở Nam Sách, ở bắc thành Thăng Long từng cưu mang, giúp đỡ gia đình ông trong năm tháng khốn khó. Người mang cho ông vài củ khoai lang, người mang tặng ông dăm ba đấu gạo. Ông đáp lại bằng những bài thơ mộc mạc, chân tình. Mùa đông đến, trong khi nhà giàu mua sắm áo lông cừu chống rét, còn ông thì “dùng lửa làm áo”. Bởi không có áo ấm nên mùa đông với ông chẳng khác gì mùa thu. Nói về cái nghèo, cái khổ ông không thua gì Đỗ Phủ. Có thể xem Nguyễn Hành là Đỗ Phủ của đất Việt. Nghèo thì nghèo nhưng nhà thơ vẫn yêu đời, lạc quan, vẫn ngắm hoa, thưởng nguyệt. Bởi hơn ai hết, ông bằng lòng với cái giáo lý mà cha ông từng truyền dạy cho ông: “Tôi trung không thờ hai vua”. Về điều này thì Nguyễn Du mềm dẻo hơn ông, linh hoạt hơn ông, khôn khéo hơn ông. Nhưng không phải vì thế mà ông né tránh, xa cách người chú ruột của mình. Ngược lại, Nguyễn Hành là một trong những nhà thơ đương thời gần gũi Nguyễn Du nhất, hiểu rõ tính cách và tài năng của Nguyễn Du nhất và cũng là người làm nhiều thơ tặng Nguyễn Du nhất (6 bài). Nghe tin Nguyễn Du cáo bệnh từ quan xin về quê nhà Hồng Lĩnh (thời làm tri phủ Thượng Tín, 1804), Nguyễn Hành cảm tác ngay bài thơ Hỉ thúc phụ Thường Tín tri phủ giải quan quy (Mừng chú từ quan tri phủ Thường Tín về quê), trong đó có hai câu sử dụng hình ảnh ẩn dụ đầy ngụ ý: Bạch vân bản thi vô tâm xuất/ Phi điểu nghi ư vị quyện hoàn (Mây trắng vô tâm rời hang núi/ Chưa mỏi, chim khôn chọn chốn về). Năm 1806, Nguyễn Du bất ngờ nhận được chiếu chỉ vào Kinh đô Phú Xuân giữ chức Đông các học sĩ. Nguyễn Hành có làm bài Tống thúc phụ Đông các học sĩ phó Nam kinh (Tiễn chú Đông các học sĩ vào kinh đô phía Nam): Hồng Ngư đa tú khí/ Phu Tử độc trì danh/ Bào mã đương triều quý/ Thuần lô cố viên tình… (Núi Hồng nhiều tú khí/ Hun đúc chú nổi danh/ Dẫu vinh hoa, phú quý/ Không quên túp lều tranh). Dịch sát nghĩa là: Dẫu được vinh hiển ở triều đình, mặc áo bào, cưỡi ngựa/ Mà tình cảm vẫn nhớ rau thuần, cá lô nơi quê nhà xưa. Phải hiểu lòng yêu quê hương của chú mình đến mức nào nhà thơ mới quả quyết như thế. Trong bài tiếp theo Thướng thúc phụ Đông các học sĩ (Thơ dâng chú là Đông các học sĩ), Nguyễn Hành một lần nữa khẳng định tài năng siêu việt của chú mình: Ngô môn tú xuất như Phu Tử/ Cửu thập cửu phong trung nhất phong/ Phấm tại ngọc đường kim mã quí/ Tâm tương mộc thực thảo y đồng/ Giang hồ lăng miếu nhiêu song thích/ Thi họa cầm thư thiện tứ công/ Khước vị thuần lô vong bất đắc/ Kỷ hà quý khứ tại thu phong (Chú kiệt xuất nhất họ ta/ Chín mươi chín đỉnh chú là đỉnh cao/ Dù đang lầu ngọc, áo bào/ Vẫn thích áo vải, cơm rau quê mình/ Giang hồ thỏa chí tang tình/ Cầm thư thi họa cung đình mấy ai/ Rau thuần, cá vược nhớ hoài/ Mùa thu gió nổi một hai tìm về). Ngày 10 tháng Tám (Âm lịch) năm 1820, Nguyễn Du mất. Một năm sau (1821), Nguyễn Hành làm bài thơ Ức công (Nhớ chú): Thập cửu niên tiền thúc Phi Tử/ Nhất thế tài hoa kim dã hử/ Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn/ Dịch lệ hà năng tốc công tử?/ Tam thu luân lạc thử thành trung/ Nam vọng phù vân mỗi ức công/ Quy khứ gia sơn văn dạ lữ/ Tinh linh hoang dữ năng thời đồng (Mười chín năm trước, chú ơi/ Lừng danh thiên hạ một người tài hoa/ Phúc dày cả họ nhà ta/ Dịch lan, chú mất sao mà quá nhanh/ Ba năm lưu lạc Bắc thành/ Phương Nam nhớ chú, cháu đành nhìn mây/ Về quê, nghe thú gọi bầy/ Tưởng trông thấy chú như ngày xa xưa). Câu đầu bài thơ này có bản chép: Thập cửu niên tiền Tố Như tử và dịch thành: “Mười chín năm về trước Tố Như mất” là không chính xác. Bởi Nguyễn Hành làm bài thơ này sau một năm, khi nghe chú mình mất thì không thể có chuyện 19 năm về trước được. Mười chín năm về trước là nhà thơ tính từ khi Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn (1802) đến 1821 (thời điểm Nguyễn Hành làm bài thơ này). Liên quan đến cái chết của Đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Hành còn có bài Đại dịch (Nạn dịch lớn). Qua diễn tả của tác giả, chúng ta được biết cái nạn dịch khủng khiếp xảy ra vào mùa thu năm 1820, khiến cho hàng vạn người phải rời bỏ thế gian: Lẫm nhược đại quân hành/Tao nhiên vạn lý kinh/ Cổ lai vô thử dịch/ Xiêm Lạp chí Long thành… (Như đại quân ào tới/ Kinh hãi cả núi sông/ Dịch lớn chưa từng thấy/ Chân Lạp đến Thăng Long…). Chính đại dịch này đã cướp mất của chúng ta thiên tài Nguyễn Du.

Đọc thơ vịnh cảnh, vịnh sử, vịnh nhân tình thế thái của Nguyễn Hành ta mới biết Nguyễn Hành có kiến văn rộng, rất nhạy cảm, tinh tế, thâm trầm và sâu sắc. Qua các bài: Đào hoa vịnh, Độc Cao Thích vịnh, Trấn Vũ quán, Vịnh sử, Hào kiệt khách vịnh, Thân Bao Tư vịnh, Tổng vịnh Tây Sơn… đã phần nào thể hiện điều đó. Chẳng hạn như bài Kính giải (Lý giải về cái kính). Đầu tiên tác giả đặt câu hỏi: Thế giới kinh trung hư/ Hà nhân năng cửu cư? (Thế giới ở trong gương là hư ảo/ Cớ sao người đời vẫn sống lâu với nó?). Tiếp đến tác giả chỉ ra rằng: Tâm tương diện bất như (Tâm với mặt chẳng giống nhau). Bởi thế cho nên tác giả ao ước: Dục tầm kính bối khán/ Ưng kiến bổn lai sơ (Muốn tìm chiếc gương xem được phía sau lưng/ Để thấy bản tính xưa nay của mình). Đúng là một phát hiện bất ngờ và độc đáo!

Trong Lời dẫn về khúc nhạc chim Đỗ Quyên hót, Nguyễn Hành tâm sự: “Chim Đỗ Quyên có tiếng kêu đau khổ, đến hết sức lực thì tất treo ngược trên cành cây mà thôi. Ta giờ lấy văn chương mà kêu lên, đến mức nói đầy đủ sự thống khổ của mình. Những mong bộc lộ được hết nỗi lòng chính mình thôi. Rồi sẽ có thanh âm đặc biệt nào đó có thể nghe (tiếng kêu ở thơ ta) mà có thể họa lại. Ta đã lấy tiếng kêu này để lắng nghe tiếng vọng ở đời”.

Nếu thơ Nguyễn Hành được dịch hay hơn (những đoạn dịch thơ trong bài viết là những thử nghiệm ban đầu của tôi), được quảng bá rộng rãi hơn, tôi tin là sẽ có nhiều “thanh âm đặc biệt cất tiếng họa lại”. Một tài năng thơ trác tuyệt như Nguyễn Hành mà bị người đời gần như quên lãng thật tiếc lắm thay!

Mai Văn Hoan

Nguồn: Tạp chí Sông Hương SDB36/03-2020, ngày 27.4.2020.

 

20200814

Nhà văn Kim Lân (1920 – 2007) là người quê gốc ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh, nay đã thuộc Hà Nội. Đó chính là miền đất xưa gọi là Kinh Bắc. Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh,... vốn nổi tiếng là vùng văn vật, thi thư.

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài. Người như tên, có tài và đã phát lộ tài năng. Ông trở thành nhà văn tài hoa của làng quê. Đồng thời, trong hoạt động kịch trường, phim ảnh, là một nghệ sĩ tài tử “tay ngang”, với những vai diễn nổi tiếng.

Sự nghiệp để lại tuy còn khiêm tốn, nhưng đều có giá trị đặc sắc trên hai phương diện chính yếu là văn họcnghệ thuật.

Ông có nét hao hao như Nguyễn Tuân, tuy ngồi “chiếu dưới” một chút so với bậc đàn anh. Nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta liên tưởng ngay đến Kim Lân. Đó là hân hạnh đặc sắc cùa nhà văn tài danh.

 

I/ Sự nghiệp khiêm tốn nhưng đặc sắc về văn chương

1/ Phác thảo sự nghiệp văn chương

Kim Lân từng tâm sự: “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc”.

Ban đầu, anh cầm bút như một sự giải thoát của cuộc kiếm sống, một giải toả tâm lý cho bằng mọi người, không thua kém ai. Tức là, nhà văn trẻ tìm kiếm một chỗ đứng xã hội, một tư cách bình đẳng với cộng đồng trong một xã hội còn nhiều đánh giá thật giả lẫn lộn, khinh trọng sai lệch về phẩm giá con người.

Dần dần, nghề viết đem lại cho nhà văn sự say mê và niềm ham thích thật sự. Anh thanh niên viết văn đã tìm ra một con đường riêng, một vùng thực tại, cũng là vùng thẩm mỹ cho hứng thú cá nhân.

Kim Lân tham gia tổ chức Văn hoá Cứu quốc từ năm 1944. Cách mạng và kháng chiến bùng nổ, ông làm phóng viên cho các báo của lực lượng vũ trang cách mạng như Chi lăng, Xông pha, Dân quân Việt Bắc.

Từ năm 1948, ông làm việc tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Truyện ngắn Làng xuất hiện trong thời gian này.

Sau hoà bình 1954, nhà văn liên tục công tác ở các cơ quan văn nghệ như báo Văn nghệ, nhà xuất bản Văn học, nhà xuất bản Tác phẩm mới, Trường bồi dưỡng viết văn... cho đến khi nghỉ hưu.

Vậy là, sáng tác coi như tạm dừng ở tuổi 50, nhưng nhà văn vẫn liên tục hoạt động trong lĩnh vực văn học, văn nghệ cho tới khi hoàn toàn “rửa tay, gác bút”.

Kim Lân không có những tiểu luận văn chương để công bố những “tuyên ngôn” gì lớn lao, nhưng qua tự bạch, nhà văn có những quan niệm minh xác, sâu sắc về sáng tác.

Những thông điệp ấy, cùng với những truyền thụ qua trường bồi dưỡng viết văn đã thể hiện tâm huyết của nhà văn dành cho thế hệ những người viết trẻ đầy triển vọng về khai thác vùng thẩm mỹ nông thôn với truyền thống nhân văn và văn hoá.

Từ đó, hình thành một sở trường là viết “tuyên ngôn” về “làng quê Việt Nam”.

Các tác phẩm chính của Kim Lân có thể kể đến:

-     Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn), 1955

-     Con chó xấu xí (tập truyện ngắn), 1962.

-     Kim Lân – Tuyển tập Kim Lân (Lữ Huy Ngôn tuyển chọn), NXB Văn học, 1996.

-     Kim Lân – Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, 2004.

-     Kim Lân – Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, 2007, 2012.

Con số tác phẩm đầy đủ được khảo sát và nghiên cứu là 27. Trong số đó, có 13 truyện viết trước năm 1945 đăng trên các báo Trung Bắc chủ nhật, Tiểu thuyết thứ bảy và 14 truyện viết sau này.

Nhà văn trình làng truyện Đứa con người vợ lẽ trên tuần báo Trung Bắc chủ nhật (1942). Gần 30 năm sau, ông có truyện Bà mẹ Cẩm (1969). Cả hai giai đoạn, nhà văn đều để lại dấu ấn qua những tác phẩm đặc sắc.

2/ Đặc sắc truyện ngắn và nghệ thuật văn xuôi

Nhiều nhà văn đã thử bút trên nhiều thể loại và có những thành công đặc sắc. Nguyễn Đình Thi là một trường hợp rất tiêu biểu.

Cũng rất nhiều người viết đã bao quát được hầu hết văn xuôi – như ký sự, phóng sự,tuỳ bút, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, và cũng gặt hái được thành công.

Tuy nhiên, có người chỉ thích dùng món “độc tấu” – như Nguyễn Tuân nổi tiếng nhất với tuỳ bút. Kim Lân trước sau chỉ chuyên viết truyện ngắn, và cũng là người có tác phẩm xuất sắc nổi tiếng.

Truyện ngắn, vì vậy, có thể coi là đặc sản của Kim Lân. Nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá như vậy.

Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.

Nhà văn Nguyễn Khải – cây bút sung sức và có thành tựu lớn của văn học đương đại, cũng đã từng nhận xét đầy thán phục:

“Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này, viết lách được cái gì, thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”.

Nhận xét về Làng Vợ nhặt của Kim Lân, nhà văn Nguyễn Khải vô cùng ngạc nhiên: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ” (Nghề văn cũng lắm công phu, 2005).

Từ thành tựu đặc sắc truyện ngắn Kim Lân, có thể qua đó nghiên cứu nhiều vấn đề, không chỉ riêng về thi pháp và phong cách nghệ thuật mang cá tính sáng tạo của nhà văn, mà còn cả một loạt vấn đề có ý nghĩa chung về lý luận và sáng tác:

-     Nghệ thuật kết cấu truyện ngắn.

-     Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn.

-     Nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật truyện ngắn.

-     ........................

Đã có nhiều luận văn thạc sĩ về đề tài tác gia Kim Lân trong các trường Đại học trên cả nước.

Sau đây là một thống kê sơ bộ, theo thời gian, có thể còn chưa đầy đủ:

[ 1 ] Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 2 ] Nguyễn Quốc Thanh (2006), Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 3 ] Đinh Thị Ngọc Mai ( 2010), Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ( Ngữ Văn 12- tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp học, Trường Đại học Giáo dục. Luận văn Sư phạm Ngữ văn mã số 60.14.0.11 Lý luận văn học và Phương pháp dạy học.

[ 4 ] Nguyễn Thị Ngọc Quyên ( 2010 ), Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

[ 5 ] Khổng Thị Minh Hạnh, (2012), Cái nhìn thời gian, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

[ 6 ] Nguyễn Thị Nha Trang (2012), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 7 ] Ngô Thị Thu Trang (2014), Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

[ 8 ] Kiều Thị Hà (2014), Dạy học tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ở trường Trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội

[ 9 ] Nguyễn Văn Minh ( 2015), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

[ 10 ] Nguyễn Hồng Diễm ( 2016), Văn hoá phong tục làng quê trong sáng tác của Kim Lân. Luận văn Ngôn ngữ - Văn hoá Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Như vậy, những nhà văn có tầm cỡ như Kim Lân, sự hiện diện ở trong sách giáo khoaTrung học cơ sở(lớp 9) và Trung học phổ thông ( lớp 12) là một đóng góp rất có ý nghĩa.

Thêm nữa, ở bậc Đại học Kim Lân cũng là một tác gia được nghiên cứu về mặt Văn học, Ngôn ngữ Lý luận văn học kể cả liên ngành khoa hoc như Phương pháp dạy học - Khoa học Giáo dục

Đây cũng là một đóng góp đáng kể về sự nghiệp văn học của một nhà văn trong số có tên tuổi được chọn lọc trong thế giới học đường.

 

II/ Sự nghiệp đáng kể diễn xuất trong kịch nghệ, điện ảnh

Có những hoạt động nghiệp dư của một số các nhà văn sang địa hạt nghệ thuật cũng nổi tiếng trong giới nghệ sĩ.

Nguyễn Huy Tưởng viết kịch và được trình diễn trên sân khấu như tác phẩm Những người ở lại. Tô Hoài viết kịch phim Vợ chồng A Phủ được dựng thành phim trình chiếu, tức chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Nguyễn Tuân xưa kia từng sang tận Hongkong đóng phim Cánh đồng ma. Sau này ông cũng tham gia đóng phim ở Việt Nam.

Kim Lân cũng vậy, thời thanh niên đã là “cây” văn nghệ của làng: vẽ tranh, nặn tượng, tổ chức nhóm diễn kịch. Sau này ông bước vào nghệ thuật như dạo chơi một cách hứng thú, say mê. Kim Lân thích hội hoạ nhưng không có điều kiện và hoàn cảnh để theo học Mỹ thuật. Có năng khiếu diễn xuất ông tham gia vào kịch nghệ. Theo tự bạch, ông đã từng tham gia vào đoàn kịch cùng một số nghệ sĩ từ thời trước, sau 1945 như Trần Hoạt, Hoàng Cầm…

Được mời đóng kịch và phim, ông bén duyên và gắn bó với nhiều thể loại: hài kịch (Cái tủ chè - Vũ Trọng Can), kịch thơ (Kiều Loan - Hoàng Cầm) phim chuyển thể (Con - Đoàn Lê)…

 Những vai đầy ấn tượng có thể kể:

-     Ông già say trong kịch Kiều Loan (1946)

-     Pú Pạng trong phim Vợ chồng A Phủ (1972)

-     Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy (1982)

-     Lý Cựu trong phim Chị Dậu (1986)

-     Cụ lang Tâm trong phim Hà Nội 12 ngày đêm (1999, 2002)

Việc lựa chọn người đóng phim thường là khó khăn.Các đạo diễn thường phải chọn người phù hợp nhất với nhân vật kịch bản điện ảnh về ngoại hình và đặc biệt là về diễn xuất, tất nhiên là qua hoá trang.

Đức Lưu nổi tiếng với vai Thị Nở. Bùi Cường cũng thành danh trong vai Chí Phèo trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Còn Trà Giang lại lưu danh với các vai diễn trong phim Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm.Đó là những minh chứng sinh động.

Kim Lân nhập vai các nhân vật phim, kịch căn bản và trước hết vì có chiều sâu tâm lý, nhập thân với nhân vật. Nói cách khác là diễn xuất rất có hồn, thể hiện chân thật tâm hồn nhân vật. Đó là sự sâu lắng tinh tế, cố gắng để đi đến tận cùng những nỗi niềm tâm trang của con người, phận người. Điều ấy đã góp phần làm nên một vị thế riêng của Kim Lân trong kịch trường và phim trường. Ông hơn hẳn các diễn viên khác, kể cả trẻ và có tuổi nghề, chính là ở chỗ ấy. Họ thường phải đọc đi đọc lại tác phẩm nhiều lần, cũng như phải học đến mức “thuộc lầu” kịch bản chuyển thể nhằm nhập tâm cũng là để hoá thân vào nhân vật.

Những vai diễn kịch nhất là điện ảnh thành công “để đời” của Kim Lân là những mẫu mực vươn tới của nhiều diễn viên, nhất là số còn non trẻ. Và, đó cũng là một mong muốn chính đáng của họ.

*

Có những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng vì đa tài. Nguyễn Đình Thi xứng đáng là nhà văn- nghệ sĩ chủ yếu trên phương diện sáng tác văn, thơ, nhạc, kịch.Văn Cao tài hoa ở nhạc và cả thơ. Lớp đàn em Nguyễn Trọng Tao, Hữu Ưóc cũng bước sang hoạt động nghệ thuật ngoài văn chương. Nguyễn Thị Hồng Ngát vừa công tác điện ảnh vừa làm thơ.

Kim Lân đã được tôn vinh chủ yếu về vai trò của người viết văn nhưng cũng được đánh giá cao cả ở hoạt động diễn xuất. Có thể vinh danh ông lên hàng nhà văn - nghệ sĩ vì những đóng góp toàn diện trong địa hạt văn chương và nghệ thuật.

Có nét tương đồng với Tô Hoài về khuynh hướng đi sâu, khám phá phát huy phong tục làng quê, hồn Việt và như vậy Kim Lân cũng xứng đáng với mệnh danh nhà văn – nhà văn hoá.

Có thể đây cũng là cái nhìn ở tầm thế kỷ với một nhà văn đã trải qua cuộc đời hoạt động văn chương và nghệ thuật “trong cõi người ta”.

 

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văm Kim Lân.

Ngày 1/8/2020

 

Đoàn Trọng Huy

(PGS.TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Bài viết do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học

 

Tài liệu tham khảo

[ 1 ] Kim Lân (1996, 2012, 2017), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học.

[ 2 ] Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn.

20200423

Tóm tắt: Từ việc “đọc lại” Cẩm Cù của Y Ban và Chuyện ông Móng của Nguyễn Huy Thiệp chúng ta có thể thấy mạch ngầm sinh thái trong những tác phẩm văn học là rất phong phú và đa dạng. Nội dung cả hai tác phẩm gợi đến một khái niệm thuộc phê bình sinh tháí, lý thuyết về cái bẩn . Những vấn đề xoay quanh cái bẩn giờ trở nên phức tạp. Câu trả lời dẫn chiếu tới sự mâu thuẫn giữa cái nhìn trong và ngoài cuộc hay mối quan hệ đầy bất ổn giữa tự nhiên và văn hóa

Từ khóa: lý thuyết về cái bẩn, sự mơ hồ về cái bẩn, nông nghiệp truyền thống, mạch ngầm nội dung sinh thái, chất thải của con người

Abstract:In “re-reading” Hoya and Mr. Mong’s story, we can recognize the rich and diverse eco-subtexts in these literary works that bring to mind the ecocritical concept of dirt theory. What is considered dirty becomes a complicated question whose answer refers to a conflict between outsider's and insider's perspectives or to an unstable relation between nature and culture.

Keywords: dirt theory, dirt ambiguity, traditional farming, eco-subtext, human waste.

Nếu định nghĩa “phê bình sinh thái là nghiên cứu văn học được định hướng về chủ đề môi trường”[1] thì có thể thấy rõ tại Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện phê bình sinh thái. Đã có hai cuốn chuyên luận về phê bình sinh thái được xuất bản, cuốn Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương (Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb Khoa học xã hội, 2017) và Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Thị Ánh Nguyệt - Lê Lưu Oanh, Nxb Giáo Dục, 2016). Những bản dịch về phê bình sinh thái được công bố khá nhiều trên các tạp chí nghiên cứu văn học. Đã xuất hiện một cuốn tuyển tập dịch những bài viết của các học giả quốc tế về phê bình sinh thái với tiêu đề Phê bình sinh thái là gì? (Hoàng Tố Mai chủ biên, Nxb Hội nhà văn, 2017).

Dường như sự phát triển của phê bình sinh thái tại Việt nam tỷ lệ thuận với tình trạng ô nhiễm môi trường ngày một gia tăng. Càng ngày, nó càng được bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình chú ý hơn. Đã có hai hội thảo quốc tế về phê bình sinh thái được tổ chức tại Việt Nam gần đây, đó là hội thảo Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, 14/12/2017) và Những vấn đề sinh thái trong văn học Đông nam Á: Huyền thoại, lịch sử và xã hội (Đại học khoa học xã hội và nhân văn, 26-27/1/2018). Cho đến nay vẫn chưa thấy một nhà vănViệt Nam nào tuyên bố công khai là mình đang viết văn học sinh thái, vẫn chưa thấy thấy những tác phẩm lớn được định hướng chủ đề môi trường rõ rệt như Dòng suối imlặng (Silent Sping) (Rachael Louis) hay Oryx và Crake (Oryx and Crake) (Margaret Atwood). Thế nhưng những tác phẩm ẩn chứa mạch ngầm sinh thái lại rất dồi dào. Sự ảnh hưởng của trào lưu phê bình mới mẻ này đã tạo ra hiện tượng “đọc lại” nhiều tác phẩm văn học việt nam đương đại dưới góc nhìn sinh thái. Trong quá trình viết những tác phẩm này, dường như các nhà văn không chủ ý tạo ra những tác phẩm thân thiện môi trường, nhưng từ một số sự kiện trong tác phẩm của họ, bạn đọc có thể cảm nhận được nỗi âu lo trước những hư tổn của thế giới tự nhiên do con người gây nên, có thể là rất thâm sâu nhưng cũng có khi chỉ là một chút bận tâm lướt thoáng qua. Những mạch ngầm sinh thái này đã được trực giác nhạy bén của những cây bút phê bình phát hiện và khai thác. Những tác phẩm được khai thác dưới góc nhìn sinh thái có thể kể đến Muối của Rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Thị Ngọc Tư)…, chúng cũng đã được một số nhà nghiên cứu trẻ “đọc lại” với mong muốn khơi gợi ra những ý nghĩa ngầm ẩn (subtext) về sinh thái. Trong bài viết này, hai tác phẩm văn học Việt Nam đương đại khác cũng sẽ được “đọc lại” với tinh thần như vậy. Đó là Cẩm Cù và Chuyện ông Móng, hai sáng tác trào lộng đặc sắc của Y Ban và Nguyễn Huy Thiệp. Khá nhiều chi tiết trong hai truyện ngắn này khơi gợi tới những vấn đề mà lý thuyết về cái bẩn (Dirt theory) đã đề cập tới. Lý thuyết này do Heather I. Sullivan đề xuất, nó được tạo ra ra để chất vấn lại những thành kiến về cái bẩn, hay chính xác hơn là những hành vi bị liệt vào hạng mục những vi phạm quy định về vệ sinh trong cộng đồng.Trong bài Lý thuyết về cái bẩn và phê bình sinh thái vật chất, tác giả Heather I. Sullivan đã viết:

Khi “tư tưởng xanh” thờ ơ với những thành phần ít sắc màu và ít quyến rũ của cái bẩn ở cả môi trường được tạo ra và những cảnh quan khác, điều này đã mạo hiểm góp phần tạo ra sự phân chia lưỡng phân môi trường vật chất quanh ta thành một nơi có hai thứ tách bạch, “tự nhiên thuần khiết, sạch sẽ” và khu vực con người bẩn thỉu. Xét cho cùng, chúng ta sống trên trái đất, và phụ thuộc vào trái đất và đất trồng cho hầu hết nhu cầu thực phẩm của chúng ta, và chúng ta được bao quanh bởi cái bẩn. Cái bẩn này hiện lên từ thân thể của chúng ta, từ vấn đề bụi bẩn của ô nhiễm không khí, từ vật liệu trong các tòa nhà cao tầng, từ những cảnh quan khô hạn của một thế giới ngày một ấm lên. Tự nhiên bẩn (dirty nature) đối với chúng ta như một phần của những tương tác đang diễn ra trong tất cả những loại tác nhân vật chất, và vì vậy, nói một cách khác, mang tính quá trình hơn là nơi chốn. Tôi đề xuất “lý thuyết về cái bẩn” như như một liều thuốc giải độc tới những quan điểm xưa cũ, cái mà diễn dịch tự nhiên thành nơi chốn “sạch sẽ” mơ màng một cách máy móc, để rồi từ đó đưa ra nhận định rằng không có ranh giới tuyệt đối giữa chúng ta và tự nhiên. Chúng ta lọt thỏm trong cái bẩn dưới nhiều hình thức của nó…[2]

Như vậy, trả lời những câu hỏi như thế nào là bẩn và như thế nào là sạch giờ đây sẽ không còn giản đơn như trước. Câu trả lời phụ thuộc vào cái nhìn bên trong (insider perspective) hay bên ngoài (outsider perspective) dành cho đối tượng được tham chiếu. Khách du lịch (outsiders) đến một đồng cỏ và nhăn mũi khi ngửi thấy mùi phân bò nhưng dân bản địa (insiders) thì lại thấy rất đỗi bình thường. Những bãi phân bò rải rác trên cánh đồng sau một thời gian sẽ phân hủy và trở thành nguồn phân bón hữu cơ quý giá giúp cho đồng cỏ tươi tốt hơn hay nói một cách khoa học là chúng đã góp phần làm cho hệ sinh thái tại nơi đó đó đạt đến tình trạng cân bằng, ổn định.Tác giả Sullivan đã phân biệt giữa cái bẩn và cái ô nhiễm: “Chúng ta phải xây dựng một cách có ý thức một vị trí mang tính biểu tượng trong phê bình sinh thái cho cái bẩn và cái ô nhiễm, một biệt hiệu hay hình tượng cho phép chúng ta trao cho cái bẩn quyền của nó (Sullivan 2012, 515)[3]. Sullivan đã rất có lý khi cho rằng “không có ranh giới tuyệt đối giữa chúng ta và tự nhiên”. Con người, xét cho cùng cũng là một động vật trong thế giới tự nhiên, thân thể của nó, những “cái bẩn” liên quan đến thân thể của nó đương nhiên cũng thuộc về tự nhiên. Vậy mà cuộc sống hiện đại đã khiến chúng ta lạc lối và quên mất bản chất thực sự của thân xác chúng ta, chúng ta tự cho phép mình nhìn nhận tự nhiên như một đối tượng mà chúng ta có thể phán xét và định đoạt. Chúng ta đã thờ ơ, đã bỏ qua và thậm chí loại bỏ rất nhiều món quà của tự nhiên ban tặng cho loài người.

Trở lại với tác phẩm Cẩm Cù, Chuyện ông Móng của Y Ban và Nguyễn Huy Thiệp. Trong hai truyện ngắn này đều có những chi tiết khơi gợi tới một đặc điểm của canh tác nông nghiệp truyền thống, đó là việc sử dụng chất thải tự nhiên của con người và gia súc làm phân bón cho cây trồng. Những chi tiết này gợi ra những ưu việt của canh tác nông nghiệp truyền thống, chúng như một sự tương phản rất rõ rệt với những tác hại nghiêm trọng mà canh tác nông nghiệp hiện đại mang lại. Tác phẩm đầu tiên được đọc lại là Cẩm cù.

Đây là một truyện vừa mang dáng dấp tự truyện dài gần 70 trang khổ 19x13. Nó không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không cóquà…. Giới phê bình thường không đánh giá cao nghệ thuật viết của Y Ban, chị ít khi nhận được những bài viết “ngợi khen”. Nhưng trên thực tế, Y Ban lại là một trong những nhà văn viết nhiều và được các nhà xuất bản chào đón. Văn phong của chị không trau chuốt, đó là một lối viết mộc mạc, tự nhiên, gần với khẩu ngữ. Điều đáng nói ở đây là thế giới quan dị biệt của tác giả, nó thật khác thường, tuyệt đối độc lập, và luôn gây ấn tượng mạnh mẽ. Trong tác phẩm của Y Ban cái Đẹp không chỉ là cái mĩ miều, đôi khi nó là sự khơi gợi, ám ảnh khiến người đọc hưng phấn, chết lặng hoặc sững sờ. Cẩm Cù là một tác phẩm được viết ra để tạo nên những cảm giác như vậy.

Người kể chuyện trong tác phẩm được viết từ ngôi thứ nhất (tôi). Chị ta kể lại thời thơ ấu của mình. Nó được diễn ra trong bối cảnh chiến tranh rồi tiếp đến là thời bao cấp khốn khó. Những gì nhân vật kể không phải là những câu chuyện quá xa lạ với những độc giả đã trải qua thời bao cấp, thế nhưng đưới ngòi bút của Y Ban chúng đã biến thành những sự kiện thực sự dị biệt.

Lời kể chuyện trong Cẩm cù được thể hiện bằng một giọng văn bình thản, chậm rãi, như biết bao tác phẩm tự truyện khác.Có vẻ như tác giả không hề có ý định tái hiện một tuổi thơ êm đềm, trong trẻo. Phần lớn truyện kể là những ám ảnh của nhân vật về sự khốn khó, nhếch nhác và sự thích nghi kỳ lạ của con người ở những điều kiện sống tồi tệ trong quá khứ. Ám ảnh lớn nhất của nhân vật kể chuyện chính những nhà vệ sinh công cộng bẩn thỉu trải dài theo những tháng năm tuổi thơ nay đây mai đó. Gia đình của cô bé trong truyện không có nhà riêng, cứ đi ở nhờ hết nhà này đến nhà khác. Chính thế cô bé có cơ hội “trải nghiệm” tới hàng chục nhà vệ sinh đủ loại. Nhà vệ sinh thứ nhất được kể đến là “một nhà xí làm trên một ụ đất cao và không hề có một cái gì để che cả. Tôi không hiều rằng ngày mưa mọi người đi kiểu gì, chắc là sẽ nhịn cho đến khi tạnh mưa”[4]. Những nhà vệ sinh sau này ngôn ngữ miêu tả có phần còn trào lộng hơn, các tình tiết gia tăng gây ấn tượng mạnh mẽ hơn. Chẳng hạn, khi cô bé kể về nơi đi vệ sinh rất hoang dã ở nhà bác mình. Đó là một ngôi nhà rất khang trang, có sập gụ tủ chè đẹp đẽ nhưng lại không có nhà vệ sinh riêng.

Mỗi lần buồn đi xia chúng tôi ra bờ sông mọc đầy cỏ lác, rắn rết vì thế một người đi ít nhất phải có một người đứng canh chừng. Mỗi lần giải quyết xong cái bầu tâm sự ấy chị em tôi sung sướng lắm. Một lần sau cái sự vụ ấy về nhà chị em tôi rải chiếu xuống sàn nhà nằm, rồi hát nghêu ngao.

Chợt em tôi kêu lớn:

- Thối thế, kiểm tra xem ai dẫm phải cứt.

Thế là xăm xoi chân nhau rồi quần, cuối cùng cũng phát hiện ra thủ phạm. Trên cánh tay trắng nõn nà của chị tôi là một mảng phân đã ải”[5].

Có lẽ thời nay, sự cố của nhân vật “chị tôi” kia thì sẽ bị xem như một tai nạn đáng sợ. Những người xung quanh sẽ tỏ ra kinh tởm, thậm chí xa lánh . Thế nhưng trong Cẩm cù những sự cố thế này được xem như chuyện thường. Trong quá khứ nghèo nàn, lạc hậu đó, chất thải tự nhiên của con người tuy hôi thối, khó nhìn nhưng được xem như vô hại, thậm chí còn rất có ích cho nhà nông. Giọng điệu thản nhiên của Y Ban khi mô tả những sự cố liên quan đến phân cũng là một đặc trưng nổi bật, nó cũng thể hiện phần nào sự đồng cảm của tác giả với cuộc sống thiếu thốn, lạc hậu nhưng cũng lại rất mộc mạc, hồn nhiên. Trong cuộc sống thiếu thốn văn minh này, những gì thuộc về “tự nhiên bẩn” sẽ không bị cô lập và cách biệt khỏi tự nhiên, nó tồn tại khá bình thường trong đời sống hàng ngày. Đôi khi nó còn được đem ra làm trò đùa, kiểu như chuyện tiếu lâm về những chuyện xảy ra tại nhà vệ sinh công cộng, tác giả đã “dùng hẳn một chương để nói về cái nhà vệ sinh công cộng”. Vô số những chuyện bi hài diễn ra ở những chỗ như thế này. Chẳng hạn, nhân vật kể chuyện trong Cẩm Cù đã từng cho rằng nhà vệ sinh công cộng có thể là nơi “rèn tiếng Việt rất hay”. Một anh chàng táo bón bị người bên ngoài gõ cửa giục giã thì gắt lên: “Còn xơi”. Một anh Tây nghe vậy liền hỏi anh chàng vừa gõ cửa: “Cái anh ấy xơi gì trong đó vậy?”.

Trong chương VI của Cẩm cù, chương sách mà tác giả đã dốc sức để lột tả cho ra cái nhà vệ sinh công cộng của khu tập thể của cán bộ bệnh viện, nơi mà gia đình cô bé sinh sống. Năm 1972, khi cha cô nhận lệnh đi B cũng là lúc gia đình cô được phân nhà, chấm dứt những năm tháng nay đây mai đó. Nhà vệ sinh công cộng của khu tập thể là loại tự hoại. Khi mới xây dựng nó chẳng đến nỗi nào. Trẻ con thường trốn bố mẹ mang truyện vào đấy đọc hàng tiếng đồng hồ. Bởi vậy nhiều bà mẹ tìm con là chạy ra nhà vệ sinh gọi gọi: “Trời ơi mày đi ỉa ở đâu vậy? Ở Hà Nội hay ở Hải Phòng”. Thế nhưng những ngày tháng tốt đẹp ấy khá ngắn ngủi. Đầu tiên là mất nước. Nước sinh hoạt còn chẳng có lấy đâu ra nước cho nhà vệ sinh. “Cái kiểu nhà vệ sinh xây tự hoại nên không có nước thì không trôi được phân. Thế là cứ đi chồng đổ đống lên nhau. Tuy vậy nội quy của khu tập thể vẫn phải được duy trì, mỗi ngày một nhà dọn vệ sinh một lần. Cứ rình lúc nào người ta vừa dọn xong mà đi thì sạch.Tuy nhiên cái vấn đề ở đây liên quan đến sinh lý chứ không phải là cỗ máy đơn thuần”[6]. Vấn đề nan giải thứ hai chính là cánh cửa. Chúng dần dần bị tháo trộm đi. Đa phần cư dân trong khu đều là y, bác sĩ nên để đỡ ngượng khi đi vệ sinh ai cũng phải đội nón, nếu có ai nhìn thấy thì cụp nón xuống để che mặt cho đỡ xấu hổ. Cuối cùng là cái nắp bể phốt. Nó bị vỡ toang hoác, đi đứng không cẩn thận ngã xuống bể phân như chơi. Cái bể phân lộ thiên là một nỗi ám ảnh kinh hoàng với nhiều người lớn tuổi. Bản thân bố cô bé cũng từng kể là nằm mơ “ngã xuống bể phân ngập đến tận cằm”. Thế rồi cái sự cố kinh hoàng liên quan đến bể phân ấy đã xảy ra nhưng ngoài sức tưởng tượng. Một bà y tá tên là Mơ sau khi đốt xong đống giấy vệ sinh liền hất đám tro vẫn còn cháy âm ỉ xuống bể phốt. “Thế là: Bụp – một tiếng nổ kinh hoàng, phân bắn tóe lên. Kết quả là bà Mơ hứng trọn một quả bom phân từ đầu đến chân”[7]. Tới khi câu chuyện kết thúc, cũng là lúc cô bé năm xưa giờ đã trở thành cô giáo trở về thăm nhà, cái nhà vệ sinh vẫn còn đó. Vài nhà khá giả hơn đã làm nhà vệ sinh riêng, số đông còn lại cuộc sống chẳng thay đổi gì…

Đa số bạn đọc sẽ cảm nhận những chi tiết trào lộng trên như những hồi ức không thể phai nhòa về một thời bao cấp nghèo khó, lạc hậu. Nhưng đường như những trang viết này còn gợi ra sự những vấn đề liên quan đến bản tính tự nhiên của thân xác con người. Ở nông thôn, do sân vườn rộng rãi, mỗi nhà đều có thể có nhà vệ sinh riêng, và họ sẽ tận dụng triệt để chỗ chất thải tự nhiên đó cho trồng trọt. Còn ở thành phố thời bao cấp thì lại khác hẳn. Những khu tập thể chật chội kiểu cũ với hệ thống nhà vệ sinh công cộng bỗng khiến việc đi vệ sinh trở thành một cơn ác mộng. Ở đây có có sự va đập dữ dội giữa nhu cầu sinh lý tự nhiên và những chuẩn mực văn hóa. Chẳng biết từ bao giờ “đi vệ sinh” lại trở thành một hành vi khiếm nhã. Con người không phải “cỗ máy đơn thuần”, nó có nhu cầu “sinh lý” như muôn loài động vật khác, đây cũng là một cách nhìn chất vấn lại những thành kiến về bản tính tự nhiên trong con người. Xét đến cùng, bài tiết và chất thải của nó là một chuyện thường, giống việc việc như ăn, ngủ hay hít thở vậy.

Có một số lý do khiến cho Cẩm cù không được nhiều bạn đọc biết tới. Nó khá dài (gần 70 trang) nên không thể đăng trên báo và tạp chí thông thường. Còn một lý do nữa, đó là nội dung “gớm ghiếc” của nó khiến các biên tập viên e ngại. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ bạn đọc sẽ nhận thấy Cẩm Cù không chỉ đơn thuần là một tác phẩm trào tiếu đặc sắc, có một mạch ngầm ý nghĩa khác ẩn sau những diễn ngôn trào lộng táo bạo. Có hai tình tiết trong truyện đã khơi gợi tới phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống mà ngày nay bị xem như lạc hậu. 

* Nhân vật kể chuyện ngay sau khi ca ngợi vẻ đẹp và hương thơm đầy quyến rũ của hoa hồng, liền nghe thấy lý do đầy khiếm nhã khiến hoa hồng có được vẻ đẹp tuyệt vời đến thế: “Loài hoa là biểu tượng cho tình yêu lãng mạn nhất, đẹp nhất là loài hoa thích phân bắc. Một bác nông dân đã kể với tôi rằng: muốn hoa hồng to và đẹp, tươi mơn mởn, thơm hương, nở đúng vụ thì phải cho anh này ăn phân người”[8].

* Nhân vật kể chuyện viết về những cảm giác rung động khi chiêm ngưỡng hoa cẩm cù. “Đẹp, đẹp đến mê hồn. Tôi chưa khi nào nhìn thấy giàn hoa cẩm cù đẹp như vây. Giàn hoa to bằng cái nong, xanh rờn. Và hoa, những bông hoa to bằng cái đĩa tây, phơn phớt trắng, phơn phớt hồng, phơn phớt xanh, phơn phớt vàng, cứ rung rinh rung rinh… Giàn hoa đẹp đến độ tôi không ồ à được câu nào mà cứ lặng người đi ngắm rồi bỗng thấy nước mắt tràn mi”. Thế nhưng liền sau đây người trồng hoa lại tiết lộ, “Cái đẹp cũng phải có cái giá của nó” vì muốn hoa đẹp như vậy phải đốt giấy đi vệ sinh ở nhà vệ sinh công cộng rồi trộn với nước, sau đó đổ vào gốc[9].

Đọc Cẩm cù, đặc biệt là hai tình tiết nêu trên, có thể thấy rõ tác giả liên tiếp đặt cái thanh bên cạnh cái tục, thậm chí đồng hiện. Thủ pháp này làm nên giọng điệu trào lộng khiến cho hành trình đến tận cùng thế tục trong Cẩm cù không vượt quá sức chịu đựng của độc giả. Cũng có thể xem như đây chính là nghệ thuật tương phản, một thủ pháp hài hước khá phổ biến trong những tác phẩm trào lộng. Ở đây, nó không chỉ tạo ra tiếng cười sảng khoái mà còn khiến độc giả lờ mờ nhận thấy ẩn ý về những giá trị hữu dụng của thứ chất thải từ lâu đã bị loại bỏ ra khỏi thế giới văn minh. Những chất thải tự nhiên của thân thể con người trước đây vốn được coi như chất liệu bón thúc quý giá của người nông dân (Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống) thì sau này ngày càng bị xem thường, thậm chí ghê sợ. Khi chưa bị người da trắng đồng hóa, một bộ phận người Eskimo vẫn sử dụng nước tiểu để làm đẹp cho khuôn mặt. Thậm chí họ còn để xô nước tiểu ngay trong nhà để thuộc da và sống chung hòa bình với mùi của nó. Ở những vùng nông nghiệp bị cho là lạc hậu, chất thải của con người như phân và nước tiểu luôn là những chất liệu hữu ích hỗ trợ canh tác nông nghiệp. Nhưng thời nay, khi điều kiện sống đã thay đổi rất nhiều, thứ chất thải đó chẳng cần đến nữa, nhà vệ sinh công cộng kiểu cũ đã trở thành biểu tượng cho sự nhếch nhác, bẩn thỉu. Canh tác nông nghiệp truyền thống gần gũi với tự nhiên đã có một thời gian dài bị rẻ rúng, xem thường vì năng suất thấp và không đủ điều kiện vệ sinh tối thiểu trong một thế giới hiện đại. Những quan niệm trong một xã hội văn minh về “cái bẩn” đã dẫn chiếu tới mối quan hệ đầy vênh lệch và va đập giữa văn hóa và tự nhiên. Xã hội càng phát triển thì văn hóa càng có nguy cơ lấn át thậm chí “nuốt chửng” tự nhiên[10]. Trong bài viết Môi trường luận và phê bình sinh thái, tác giả Richard Kerridge cho rằng “điều ưu tiên ở đây là tìm ra cách thức để loại bỏ những phong tỏa văn hóa đang cản trở những hành động có hiệu quả nhằm chống lại sự khủng hoảng môi trường”[11]. Việc con người đặt quá nhiều niềm tin vào canh tác nông nghiệp hiện đại thường kéo theo theo sự lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học, điều này đã tạo ra những tổn thất nghiêm trọng cho môi trường tự nhiên.

Chủ đề chất thải, nhà vệ sinh công cộng kiểu cũ thực ra khá hiếm hoi trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, có lẽ ngoài Y Ban chỉ còn có một nhà văn nữa dám thử sức, đó là Nguyễn Huy Thiệp với truyện ngắn Chuyện ông Móng. Người kể chuyện trong truyện ngắn này cũng được viết từ ngôi thứ nhất (tôi). Anh ta tò mò và muốn tìm hiều một chợ mua bán phân tại ngoại thành Hà nội chỉ tụ họp vào lúc 3, 4 giờ sáng.Tại đây anh ta đã quen biết ông chủ chợ tên là Móng (trùng với tên một dụng cụ dùng để vét phân), người có vai trò thẩm định chất lượng của từng sọt phân. Ông làm việc này một cách thích thú với tinh thần tự nguyện, không vụ lợi. Trong truyện ngắn này ta cũng thấy có những chi tiết gợi đến canh tác nông nghệp truyền thống

  • Chợ phân họp chừng một giờ đồng hồ từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng ở ngay bên đường đi Sơn Tây. Đây là vùng trồng rau, trồng cà nổi tiếng. Giống cà pháo, cà bát rất hợp với việc bón phân tươi, nhất là phân người[12].
  • Phân lợn quý vì nó mát, có thể dùng ngay, bón được ngay cho cây, mà cây nào cũng hợp. Phân gà cũng quý nhưng phân gà nóng, chỉ hợp bón cho cây ớt mà thôi[13].

Trên đây là kinh nghiệm làm nông dường như phổ biến tại mọi vùng quê Việt Nam. Tác giả liệt kê tác dụng của từng loại phân bằng một thứ ngôn ngữ tối giản, lời lẽ như được thốt ra từ một nông dân nào đó. Chỉ vài dòng ngắn ngủi độc giả có thể cảm nhận được ngay lý do vì sao mà phiên chợ phân tồn tại, vì sao lại xuất hiện những nhân vật như ông Móng. Trong truyện ngắn này, một lần nữa chúng ta lại thấy được những câu liên quan đến thứ chất thải tự nhiên bốc mùi này được xem như chuyện thường. Giọng kể trào lộng khá tự nhiên của Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn này đã đưa ra một cái nhìn hoàn toàn khác về thứ chất thải vốn được xem như là biểu tưởng của sự dơ bẩn. Đó là chất thải tự nhiên, là một nguyên liệu rất hữu ích cho canh thác truyền thống vốn rất thân thiện với môi trường. Trong quá trình xây dựng nhân vật ông Móng, Nguyễn Huy Thiệp còn gửi gắm khá nhiều ẩn ý sinh thái. Là một nhà văn bậc thầy của Việt Nam, ông là tác giả của nhiều truyện ngắn đặc sắc, nhưng có lẽ Chuyện ông Móng có vẻ dị biệt nhất. Việt Nam là một quốc gia ảnh hưởng Nho giáo sâu đậm, việc một nhà văn chỉ chăm chú đặc tả phân người và những câu chuyện liên quan đến nó là chưa từng xảy ra. Bản thân nhân vật Móng, chủ chợ phân, cũng được đặc tả đậm chất nghịch dị (grotesque). “Ông ta khoảng 60 tuổi, dáng người thấp đậm, đầu húi cua, mắt trố, quai hàm bạnh, ngực nở nang, chân tay rắn chắc. Ông ta không đeo khẩu trang hay bịt mặt, hoàn toàn chẳng có vẻ gì sợ hãi hay ghê tởm khi phải tiếp xúc, đụng chạm với các thùng phân bẩn thỉu và các dụng cụ dơ dáy ở đây”[14]

Dung mạo cũng như những hành vi khác thường của ông Móng sẽ khiến ông biến thành kẻ quái dị trong mắt người thường. Nhưng trong phiên chợ phân ông ta lại giống như “một vị nhạc trưởng, như người giữ nhịp điệu cho cả phiên chợ quái đản này”[15]. Ông ta không mua bán, đi lại nhanh nhẹn hoạt bát, đánh giá chất lượng từng thùng phân, vừa bình phẩm vừa bông đùa. Chẳng hạn, khi bị dìm giá, một phụ nữ chạy ra “cầu cứu” ông : “Bác Móng! Phân này của cháu mà chê là chua thì có ức không?[16] Sau khi xem xét ông chủ chợ phán rằng: “Phân tốt đấy, không chua đâu! Chắc hố xí nhà này gần chỗ làm đậu phụ nên có nước đỗ tương lẫn vào”[17]. Rồi ông phán thêm: “Phân của mày hôm này không đậm như phân hôm qua! Nát nhẽo, nát nhèo…Thôi thì giảm đi một giá…”[18]. Với một phụ nữ khác đang than phiền gánh phân nặng quá thì ông cũng không quên chỉnh huấn: “Cho chết! Ai bảo tham múc nhiều nước vào… Mày phải chắt cho kiệt nước đi thì phân mới ngon!”[19]. Sở thực nửa hư. Khi còn trẻ ông có đi lính, tại nơi đóng quân ông có yêu một cô gái người Chăm xinh đẹp, cô gái có đưa ông ra đền thờ bắt thề nguyện. Ông đã thề như sau: “Nếu tôi không chung thuỷ với em thì suốt đời tôi đi hót cứt!”[20]. Sau này ra quân ông về quê lấy vợ, quên luốn mối tình thời quân ngũ. Có lẽ vì vậy cả đời ông cứ quanh quẩn ở chợ phân, như một sự trả giá cho hành động bội ước.

Những sự kiện liên quan đến ông Móng đều rất hài hước, như sự trân trọng đặc biệt của ông đối với mặt hàng bốc mùi đó. Người thành phố nhắc đến nghề lấy phân thì rất đỗi ghê sợ nhưng với người nông dân như ông Móng thì đó lại là một nghề lương thiện mang lại nhiều lợi ích. Người buôn bán phân có thể kiếm lời, người mua phân hứa hẹn sẽ có được những sản phẩm nông nghiệp như ý. Thực sự thì mùi phân hôi thối xem ra vẫn an toàn hơn những hương liệu nhân tạo thơm tho nhưng độc hại. Những con vật không bao giờ sợ mùi phân và nước tiểu của chúng, bằng bản năng sinh tồn mạnh mẽ, chúng biết rất rõ những gì là an toàn hay nguy hại cho sự tồn vong. Con người thì không như vậy, đặc biệt là trong thời hiện đại. Sự mơ hồ về cái bẩn đã khiến cho con người có những ảo tưởng về cái sạch. Sẽ là thiếu công bằng nếu quy kết một nông trại hôi hám sẽ tạo ra những nông sản mất vệ sinh vì thực sự một nông trại sạch sẽ tinh tươm chưa chắc đã chắc tạo ra những sản vật an toàn Những người nông dân như ông Móng thực sự thấu hiểu điều này. Chính vì vậy ông luôn cho rằng nghề kinh doanh phân bón cũng cao quý như nhiều nghành nghề khác. Ông đã từng chỉ cho nhân vật người kể chuyện một thanh niên thu muaphân trong chợ rồi sau đó bình luận: “Làm được nhà, lấy được vợ chỉ nhờ vào phân! Thế là nhất!”. Kết thúc truyện ông cũng đưa ra một tuyên ngôn nghề nghiệp rất hóm hỉnh: “Không vụ lợi, không “xếch-xy” – Ông Móng bảo tôi: Nghề hót phân trên đời là nhất!”[21]

Thực ra, Nguyễn Huy Thiệp đã không cường điệu quá mức khi để nhân vật của ông ca ngợi cái nghề vốn bị khinh rẻ này. Thu dọn phân là một nghề đã có từ rất lâu đời. Nó đã từng được vua Lê thánh Tông tỏ thái độ hết sức trân trọng. Sử sách vẫn còn ghi lại câu chuyện thú vị như sau. Nhân dịp đầu năm mới, vua Lê Thánh Tông mặc thường phục vi hành để xem xét tình hình dân chúng. Ði tới đâu, nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, trong lòng vui mừng lắm. Riêng nhà nọ, chẳng treo đèn, kết hoa mà cũng chẳng thấy đối liễn gì.

Vua lấy làm ngạc nhiên, rẽ vào hỏi. Chủ nhà trả lời rằng: “ Chẳng giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám khoe khoang gì với ai cho thêm tủi!”.

Vua ngạc nhiên, hỏi: “ Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?”.

Chủ nhà thưa: “ Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi… mót phân người để bán thôi ạ!”.

Nghe xong, vua cười nói: “ Nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng là vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!”.

Rồi vua gọi lấy giấy bút, đề giùm cho một đôi câu đối như sau :

Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự,

Đề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.

Nghĩa là :

Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ,

Cầm ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.

Nhà vua đã ví chiếc áo lá tơi và cái hốt phân (bằng xương vè trâu) của người dân như áo bào và thanh kiếm của người hảo hán. Có thể thấy rằng Lê Thánh Tông đã đánh giá cao vai trò của người nông dân và quý trọng mọi nghề, miễn là nghề đó phát triển sản xuất làm cho dân no ấm.

Khách qua lại nhìn thấy câu đối, ai cũng kinh ngạc xôn xao[22].

Trở lại với Chuyện ông Móng, bạn đọc có thể nhận ra ngụ ý của tác giả trong một đoạn viết khá dài mô tả thành phố, nó như một sự tương phản với vùng quê lạc hậu với khu chợ phân bẩn thỉu, hôi hám. Phiên chợ phân kết thúc khi bình minh hé rạng, cũng là lúc thành phố bắt đầu một ngày mới. Tác giả đã nhân cách hóa thành phố, gọi nó là “hắn”, coi nó như một nam nhân đầy quyền năng, vừa quyến rũ vừa tiềm ẩn nhũng hiểm họa khó lường.

Thành phố bắt đầu cựa mình thức dậy như một con mãnh thú to lớn, như một tên khổng lồ vĩ đại có rất nhiều tham vọng phàm tục, có rất nhiều ước mơ táo bạo cùng với năng lực ẩn tàng. Hắn vừa chậm rãi, lại nhanh nhẹn, vừa ngáp ngủ, lại tỉnh thức. Người ta không thể lường được một ngày của hắn rồi sẽ thế nào, hắn sẽ làm gì, hắn sẽ bắt đầu bữa tiệc thịt người ngay tức khắc hay sẽ hào hiệp vung tay gia ân rải bạc vàng lên khắp chốn cùng nơi như một đế vương. Thành phố! Đấy là bao nhiêu nỗi kinh hoàng, bao nhiêu niềm vui hoan lạc! Thành phố! Ở đấy có cả biết bao cảnh giới thiên đường và sự đoạ đầy trong tầng tầng địa ngục![23]

“Thành phố và nhà quê”, “văn minh và lạc hậu” từ rất lâu đã trở thành những cặp phạm trù đối lập và từ đó, những chuẩn mực về văn minh ngày một ám thị sâu nặng đến mức hầu hết chúng ta ngộ nhận rằng đó là bản tính tự nhiên đã được mặc định sẵn từ khi con người sinh ra. Thế nhưng trong Chuyện ông Móng đã có một mạch ngầm văn bản thách thức lại những mặc định dường như không thể lay chuyển đó.Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp thì phiên chợ vô cùng “mất vệ sinh” kia bỗng trở nên sinh động và tràn ngập những tình tiết kỳ dị gây ấn tượng kiểu grotesque, sự bẩn thỉu của nó dần dà dịch chuyển tới một phương diện khác của cái bẩn, đó là tự nhiên bẩn, một khái niệm mang đầy tính chất vấn của phê bình sinh thái trong bài viết của Sulivan, nó hoàn toàn khác biệt tự nhiên ô nhiễm, một trong những sự trả giá lớn nhất của loài người trong tiến trình thúc đẩy văn minh………. Thực sự thì, cái bẩn thuộc về tự nhiên thường vô hại với cả con người và tự nhiên, nó có lý do để tồn tại,thậm chí nó trở nên hữu ích nếu như con người biết cách tận dụng .

Có thể thấy rằng, chủ đề “chất thải tự nhiên của con người” rất hiếm trong văn xuôi Việt Nam, có lẽ cũng chỉ có mỗi Y Ban và Nguyễn Huy Thiệp dám thử sức, thế nhưng trong thơ ca truyền miệng nó lại xuất hiện phong phú, tất nhiên là với mục đích trào tiếu.

Thanh niên Cổ Nhuế xin thề

Chưa đầy hai sọt chưa về quê hương

hay:

Yêu em đâu phải bạc vàng

Yêu vì nhà nàng hố xí hai ngăn

Thậm chí còn có những giai thoại mà không rõ tính xác thực thế nào. Ở một nhà vệ sinh công cộng, người ta cưa đôi vỏ một quả bom đặt vào đó với mục đích khuyến khích mọi người đi vệ sinh đúng chỗ sau đó định tận dụng nước tiểu đó để tưới rau. Trên tường nhà vệ sinh đó có đề những câu thơ sau:

Hỡi ai đi đâu về đâu

Lại đây mà đái lên đầu Nich-Xơn

Căm hờn lại giục căm hờn

Lại đây mà đái còn hơn đái ngoài

Không chỉ có thơ truyền miệng, Bút Tre còn viết những câu thơ thực sự khác thường:

Anh đi đồng ruộng lắng nghe

Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn[24]

Những câu thơ lục bát dạng này này xuất hiện khá nhiều trong thời bao cấp, khi mà các nhà vệ sinh kiểu cũ vẫn chưa được thay thế bằng tự hoại như bây giờ. Nội dung của chúng bộc lộ rõ thói quen sử dụng chất thải của con phục vụ canh tác nông nghiệp truyền thống. Một điều đáng lưu ý ở đây là tiếng cười trong những câu thơ trên cũng như trong Cẩm Cù, Chuyện ông Móng đều không có sự ác ý. Hài hước thường hướng về một đối tượng bị cười, nhằm vào những khuyết điểm , nhược điểm của đối tượng này. Nếu như tác giả hài hước có tinh thần khoan hòa với con người của đối tượng thì nụ cười hài hước đậm đà hương vị nhân văn. “Tinh thần khoan hòa có thể làm dịu đi “máu” châm chọc và tinh quái, nhưng không phải vì vậy tiếng cười hài hước trở nên tẻ nhạt. Đậm đà hay tẻ nhạt là ở sự hóm hỉnh, trí tuệ sắc sảo của tác giả hài hước”[25]. Tiếng cười nhân văn và trí tuệ trong những tác phẩm trên đã dẫn chiếu tới một khái niệm thường được dùng nhiều trong phê bình nghệ thuật hiện đại - mỹ học về cái bẩn (dirty aesthetics). Thực ra ngay từ thế kỷ XIX Nietzsche đã có một nhận định đi trước thời đại, ông cho rằng nghệ thuật có thể biến đổi mọi kinh nghiệm thành cái đẹp. Những ai yêu nghệ thuật đương đại hẳn đều biết đến tác phẩm Đài phun nước (Fountain) của họa sĩ Marcel Duchamp (1887-1968). Ngay từ lần đầu được giới thiệu năm 1917, Đài phun nước đã gây nên một cơn địa chấn trong giới nghệ thuật khi Duchamp lấy một bồn tiểu nam, ký tên R. Mutt, dựng nó lên một góc 90 độ so với vị trí bình thường và gọi đó là một tác phẩm nghệ thuật. Sự ra đời của Đài phun nước được coi là một cột mốc quan trọng của nghệ thuật thế kỷ XX, lần đầu tiên một đồ vật trở thành tác phẩm nghệ thuật dưới sự sắp đặt của người nghệ sĩ. Có thể thấy rằng, mỹ học về cái bẩn đã ra đời để kịp thích ứng với những chuyển biến mạnh mẽ của nghệ thuật hiện đại. Nội dung của nó là một gợi ý trực tiếp cho cho sự ra đời của một khái niệm khá gần gũi - lý thuyết về cái bẩn (dirt theory). Cũng giống như mỹ học về cái bẩn, lý thuyết mới mẻ này được tạo ra để thách thức những thành kiến về cái bẩn, phân biệt cái bẩn thuộc về tự nhiên và cái bẩn hình thành do ô nhiễm. Nội dung của lý thuyết này hàm chứa những giá trị sinh thái nhân văn, đó thực sự là một đóng góp quan trọng cho sự phát triển phê bình sinh thái.

Lý thuyết về cái bẩn có thể bao quát được nhiều vấn đề sinh thái của thời hiện đại, một trong những “vấn đề của thời hiện đại đó là việc sử dùng sản phẩm công nghiệp và ứng dụng các phương pháp công nghiệp vào trồng trọt và chăn nuôi truyền thống”[26]. Việc lạm dụng phân hóa học cũng như thuốc trừ sâu cũng như một loạt những hóa chất kích thích sinh trưởng, tạo mẫu mã đẹp mắt cho nông sản đã khiến cho thực phẩm ngày một trở nên không an toàn. Rất nhiều gia đình đã tìm cách tự trồng rau để đảm bảo sức khỏe cho các thành viên trong gia đình. Nhiều ban công, sân thượng ở thành phố bây giờ biến thành vườn rau củ hữu cơ. Trong khi nhiều gia đình tự hào là đã gây dựng được những vườn rau sạch xanh tươi giữa đô thị thì nhiều người thành phố lại cho rằng đó là một dấu hiệu đầy bất ổn của một xã hội hiện đại.Sự bất ổn này chính là một trong những lý do khiến bạn đọc thích nội dung của Cẩm cù, và Chuyện ông Móng, chúng khiến họ nhớ lại những ký ức về canh tác nông nghiệp truyền thống, tuy bị coi là lạc hậu nhưng thực sự lại rất an toàn và hữudụng.Từ việc “đọc lại” Cẩm Cù, Chuyện ông Móngdưới góc nhìn sinh thái, mà cụ thể hơn là lý thuyết về cái bẩn , chúng ta có thể thấy mạch ngầm sinh thái trong những tác phẩm văn học là rất phong phú và đa dạng. Xét cho cùng, nhà văn cũng chính là con người, và con người dưới con mắt của các nhà khoa học cũng chính là những sinh thể thuộc về cả văn hóa và tự nhiên. Thậm chí, con người gắn kết với tự nhiên nhiều hơn chúng ta đã hình dung (đời sống sinh lý, bản năng sinh tồn, sự nhạy cảm với thời tiết, linh cảm..). Vì vậy, không có gì là khó giải thích khi trực giác nhạy bén của nhà văn (hay con người nhà văn) luôn sớm cảm nhận được những thương tổn của tự nhiên, những thương tổn mà đa phần do chính con người gây nên.

Hoàng Tố Mai

TS. - Viện Văn học.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 07.04.2020.


[1]KarenThornber, “Ecocritical and Literary Futures”, East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader Literatures, Cultures, and the Environment), ed. by Simon C. Estok and Won-Chung Kim, NY: Palgrave MacMillan (2013), tr.237

[2]Heather I. Sullivan, “Dirt Theory and Material Ecocriticism”, Interdisciplinary Studies in Literature and Environment 19.3 (Summer 2012). Published by Oxford University Press on behalf of the Association for the Study of Literature and Environment, tr.515

[3]Heather I. Sullivan, “Dirt Theory and Material Ecocriticism”, Interdisciplinary Studies in Literature and Environment 19.3 (Summer 2012). Published by Oxford University Press on behalf of the Association for the Study of Literature and Environment, tr.515

[4]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 122.

[5]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 126.

[6]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 129.

[7]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 171

[8]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 175

[9]Y Ban, “Cẩm cù”, tập truyện vừa Thần cây đa và tôi, Nxb Hội nhà văn, 2005, tr. 177.

[10]Câu đầy đủ là: “Liệu có phải những hòn đảo đông dân như Anh và Nhật dễ tạo ra những cảm giác thấm thía rằng thiên nhiên nhanh chóng bị văn hóa nuốt chửng”, nguồn Peter Barry (Eds), “Ecocriticism”, Beginning theory: An introduction to literary and cultural theory,. Manchester University Press, 2009, tr. 254.

[11]Richard Kerridge, “Environmentalism and ecocriticsim”, Writing the environment: ecocriticism and literature , Zed Books, Mar 15, 1998, tr.532/

[12]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 290.

[13]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 290.

[14]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 292.

[15]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 292.

[16]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 292.

[17]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 293.

[18]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 293.

[19]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 293.

[20]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 296.

[21]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 298.

[22]Đặng Việt Thủy biên soạn, “Vua Lê Thánh Tông vui Tết với dân”, 101 chuyện xưa – tích cũ , Nxb Quân đội 2005, tr. 43.

[23]Nguyễn Huy Thiệp (2011), “Chuyện ông Móng”, Tướng về hưu, Nxb. Văn hóa thông tin năm, tr. 295.

[24]Những câu thơ này được cho là ca ngợi đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Năm 1961, đại tướng được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Ông đã liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp miền Bắc.

[25]Hoàng Ngọc Hiến (2008), “Những ghi chú về hài hước”, Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, tr. 405.

[26]Richard Kerridge (1998), “Environmentalism and ecocriticsim”, Writing the environment: ecocriticism and literature, Zed Books, Mar 15, tr.533

Nhà văn Mang Viên Long vừa qua đời lúc 14h ngày 22/7 vì một cơn đột quỵ tại nhà riêng ở thị xã An Nhơn- Bình Định, hưởng thọ 76 tuổi.

Nhà văn Mang Viên Long sinh ngày 4/6/1944 tại An Nhơn - Bình Định. Ông từng có nhiều năm dạy học tại Tuy Hòa- Phú Yên. Sau năm 1975, ông về lại quê nhà làm thợ sửa khóa và tiếp tục viết văn. Ông là một tác giả tên tuổi ở khu vực Nam Trung bộ.

Từ cuốn sách đầu tay là tập truyện ngắn Trên đỉnh sa mù xuất bản năm 1969 đến nay, nhà văn Mang Viên Long đã có 30 tác phẩm. Nhắc đến nhà văn Mang Viên Long, độc giả nhớ ngay đến những trang viết mộc mạc và thâm trầm qua các trang văn Mùa thu trống trải, Biển của hai người, Trái tim còn lại, Người lưu giữ bản thảo, Quán cà phê Tulip, Cũng chỉ là giấc mơ...

Ngoài sở trường truyện ngắn, nhà văn Mang Viên Long còn có thế mạnh ở thể loại tùy bút và tiểu luận. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông ở mảng này là Như những giọt sương.

Nhà văn Mang Viên Long sống giản dị, lạc quan và hòa nhã, đúng cốt cách một người từng làm thầy giáo. Sau khi rời bục giảng, ông từng đi làm khuân vác, làm phụ hồ, rồi sửa xe gắn máy. Thế nhưng, căn bệnh thấp khớp mãn tính đã khiến ông phải chọn nghề khác để phù hợp với sức khỏe. Vậy là ông chuyển sang làm thợ sửa khóa ở phố chợ An Nhơn - Bình Định.

Hành trình từ một thầy giáo trở thành một thợ sửa khóa, được chính nhà văn Mang Viên Long kể lại như sau:             

“Một lần đi Qui Nhơn thăm ông bà ngoại của các con, tôi đi lang thang dọc đường phổ Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, bổng thấy chiếc tủ gỗ nhỏ của một cậu thanh niên đặt ở góc đường. Đến gần, xem, hỏi han, chuyện trò cho vui. Cậu ấy rất nhiệt tình trả lời các câu hỏi của tôi như đã thân nhau. Khi biết rõ hoàn cảnh và ý định của tôi muốn “học nghề”, cậu đã vui vẻ giới thiệu tôi đến gặp “sư phụ” đang hành nghề sửa khóa và làm chìa ở đường Phan Bội Châu.

Tôi đã mời “sư phụ” lên nhà tôi một ngày để “truyền nghề” với sự đãi ngộ xứng đáng! Tôi vừa học, vừa làm công việc này suốt mấy chục năm qua. Để có thêm thu nhập, tôi làm thêm công việc bơm quẹt ga và sửa kính đeo mắt. Tôi phải làm ba việc cùng một lúc như vậy mới đủ sống.    

Có ai ngờ được rằng cái nghề mình đã đầu tư liên tục từ thưở lên sáu, ròng rã gần 20 năm (nghề dạy học) mà chỉ nuôi sống nổi mình được 12 năm , trong lúc, một cái nghề khơi khơi , đến với tôi một cách bất ngờ, lại giúp tôi và gia đình đủ sống trong hơn 30 năm. Cũng vui, trong ngần ấy năm, tôi cũng đã “truyền nghề” cho 10 “đệ tử” trong và ngoài tỉnh”.

Nguồn: https://nongnghiep.vn/nha-van-mang-vien-long-qua-doi-o-tuoi-76-d269137.html

20200416 2

1. Sẽ rất bất công nếu chúng ta chỉ biết đến Lưu Trọng Lư như một nhà thơ, mặc dầu ông là nhà thơ nổi tiếng. Lúc còn sống, Lưu Trọng Lư chỉ xuất bản 4 tập thơ, kể thêm tập di cảo Bài ca tự tình được nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành là 5 tập. Văn xuôi mới thực là sự nghiệp của ông. Lưu Trọng Lư đã để lại cho chúng ta 38 tác phẩm văn xuôi, trong đó có 17 cuốn tiểu thuyết, 8 tập truyện dài và vừa, 5 tập bút ký, 6 vở kịch, 2 tập tiểu luận, phê bình và còn rất nhiều bài tiểu luận và các bản thảo kịch bản khác. Riêng về lý luận phê bình được xuất bản công khai trước Cách mạng tháng Tám 1945, thì tác phẩm Văn chương và hành động do Lưu Trọng Lư là đồng tác giả với Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều là một tập tiểu luận có giá trị, đặc biệt gần gũi với quan điểm mác-xít về văn nghệ. Vì tính chất tiến bộ của nó, cuốn sách đã bị thực dân Pháp cấm lưu hành và tái bản.

Lưu Trọng Lư là một mỏ quặng lớn, tôi chỉ xin được tiếp cận một vỉa nhỏ của ông mà thôi.

Trước khi trực tiếp đi vào cái vỉa ấy, tôi xin nhắc lại kỷ niệm nhỏ, như một cuộc tiếp xúc đầu đời với văn chương Lưu Trọng Lư. Năm 1963, học xong phổ thông, thay vì về Hà Nội để cùng dự thi vào Đại học Tổng hợp văn với hai người bạn cùng tổ cùng lớp với tôi ở Trường cấp III Trần Phú, Vĩnh Yên là anh Vũ Duy Thông và Nguyễn Ngọc Thiện (nay cả hai đều là hai vị phó giáo sư, tiến sĩ văn học), tôi nhập ngũ làm lính xe tăng tại Trung đoàn 202, là trung đoàn xe tăng đầu tiên của quân đội ta. Gian khổ thế nào tôi cũng theo được anh em. Nhưng không đọc sách và không có sách đọc thì tôi không thể chịu được. May mắn đại đội của tôi chỉ cách thư viện Trung đoàn một khoảng sân hẹp và tôi có nhiều bạn học cùng nhập ngũ, được phân về đại đội thông tin. Các bạn ấy đã cho tôi những chiếc pin cối cực lớn được thải ra sau khi đã được sử dụng trong Tổng đài của Trung đoàn. Với những chiếc pin cối ấy, tôi đã chế ra một chiếc đèn để “bí mật” đọc sách. Với chiếc đèn đó, tối tối sau tiếng kèn lệnh đi ngủ của Trung đoàn, tôi lên giường, tung chăn bịt kín đầu để đọc sách. Bằng cách đó, tôi đã đọc được khá nhiều sách một cách an toàn. Nhưng đến một hôm, tôi bị lộ. Số là lần ấy, tôi đang đọc cuốn Chuyện cô Nhụy của Lưu Trọng Lư, mới được NXB Văn học xuất bản trước đó một năm. Cuốn sách kể lại cuộc đời của một cô gái tên Nhụy với biết bao oan ức, khổ lụy, đau đớn đã khiến tôi không ghìm được nước mắt, càng đọc càng nức nở. Có lẽ tôi khóc to quá, rung cả giường, đã khiến cho hạ sĩ, tiểu đội trưởng Lê Minh Tâm quê ở Triệu Sơn - Thanh Hóa ngủ bên cạnh phát hiện ra. Anh tung màn, lật chăn lên, hỏi:

- Tại sao đồng chí khóc, nhớ nhà à?

Tôi ậm ừ:

- Dạ, em...

Thấy tôi luống cuống, sợ sệt, lại nhìn thấy cuốn sách và chiếc đèn tự tạo, tiểu đội trưởng biết rõ tôi khóc không phải vì nhớ nhà, anh lặng lẽ tịch thu luôn chiếc đèn pin tự tạo và ra lệnh:

- Đi ngủ. Ngày mai kiểm điểm.

Trong cuộc kiểm điểm được tổ chức rất chóng vánh vào buổi sinh hoạt tiểu đội tối hôm sau, tôi bị phê bình gay gắt về ba khuyết điểm:

- Ủy mị, yếu mềm, tiểu tư sản.

- Vi phạm nội quy đại đội.

- Đọc sách vàng.

Hai khuyết điểm trên, thì tôi nhận. Nhưng khuyết điểm đọc sách vàng, đồng nghĩa với sách cấm, thì tôi cãi. Tôi chìa quyển sách trước mặt mọi người và nói: “Sách vàng mà thư viện lại mua về cho bộ đội đọc à? Đây, dấu thư viện Trung đoàn 202 đây”. Tiểu đội trưởng Lê Minh Tâm cầm lấy quyển sách, và sau khi nhìn thấy rõ dấu son đỏ chót của thư viện Trung đoàn thì anh tuyên bố giải tán cuộc họp, bỏ lửng cái khuyết điểm thứ ba của tôi. Hơn tuần sau, anh đưa trả tôi cuốn sách và bảo:

- Chỉ vì một nốt ruồi mà cô Nhụy khổ quá, tớ cũng khóc cậu ạ.

Chao ơi, gần nửa năm trời nhập ngũ tôi mới được nghe hai tiếng cậu - tớ, ngọt xớt. Được vậy, tôi tấn công lại tiểu đội trưởng:

- Đấy, anh tin em chưa? Thế từ nay anh cứ cho em đọc sách nhé.

- Được, nhưng không được khóc, trực ban đại đội đi kiểm tra, phát hiện thấy thì vỡ mặt.

Thế đấy, trong đời nghệ sĩ, Lưu Trọng Lư có nhiều vinh quang. Nhưng ông đâu có biết, vào một tối mùa đông năm 1963 ấy, ở Trung đoàn xe tăng 202, đóng trong một địa điểm rất bí mật dưới chân núi Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, có một người lính binh nhì đã nghẹn ngào dâng tặng ông những giọt nước mắt nóng hổi, thành thật và trong suốt của tuổi hai mươi.

Bây giờ xin đi vào một vỉa Lưu Trọng Lư, đó là thơ.

2. Bênh vực, tranh đấu cho Thơ mới, tưởng không ai bằng Lưu Trọng Lư. Từ việc diễn thuyết ở Học hội Quy Nhơn, đến việc chào đời hàng loạt sáng tác mới, chứng tỏ một sinh lực tràn trề của người tự nguyện nhận lấy sứ mệnh mở đột phá khẩu cho Thơ mới. Cho đến khi Thơ mới hoàn toàn thắng thế, Lưu Trọng Lư vừa là người vỗ tay cổ vũ mạnh nhất, lại là người nhận ra sớm nhất những hạn chế của nó.

Cái làm nên một nẻo riêng của Lưu Trọng Lư còn là tâm hồn. Cũng giống như các nhà Thơ mới khác, ông hay nói đến sầu mộng. Nhưng trong lúc các nhà thơ khác nhấm nháp với sầu mộng, chìm đắm trong sầu mộng, thì Lưu Trọng Lư quẫy đạp trong sầu mộng để muốn thoát ra khỏi nó. “Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc/ Mộng nở trong lòng, sắc đỏ hoe”.

Với thi nhân, sầu muộn là một bệnh tổ tông truyền. Thơ cổ Trung Hoa, nâng sầu lên thành thành sầu, và nhờ rượu làm quân lính để phá: “Thành sầu nan phá tửu vi binh”. Với Nguyễn Du thì “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Chàng trai trẻ Huy Cận nhân sầu ra trăm ngả cộng thêm một nỗi bơ vơ: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Lưu Trọng Lư không phải là người muốn pha màu đậm nhạt của nỗi sầu, anh chưa cạn nỗi sầu, nhưng trong sâu thẳm của hồn anh đang nhú lên những mầm sống. “Vài chàng trai trẻ sầu biêng biếc”Sầu biêng biếc là sầu gì? Đây là cái sầu lạ nhất và mới nhất trong Thơ mới. Đó là sáng tạo của tâm hồn hay sáng tạo của ngôn ngữ? Có lẽ là cả hai. Tâm sự này, thêm một lần chúng ta còn bắt gặp trong Mưa... mưa mãi“Mưa mãi, mưa hoài!/ Nào biết trách ai!/ Phí hoài đời trẻ dại”.

Buồn thì thật là buồn, nhưng trong nỗi buồn, ta thấy đã manh nha một tín hiệu mới. Cũng như xưa, khi đọc câu thơ sau của Cao Bá Quát: “Kim cổ miên man tình đất nước/ Sao mình làm mãi một thi ông”.

Ta đoán ông sắp buông bút cầm gươm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. Và đọc tâm sự sau đây của Nguyễn Tuân, người bạn thân thiết trọn đời của Lưu Trọng Lư, ta đoán chắc Nguyễn Tuân sắp sửa nhập vào dòng thác của cách mạng. Nguyễn Tuân viết “Lúc này là lúc cần phải chụm lửa cho nhiều để hun nóng quả tim thiu, ỉu trong sự thờ ơ” (Muốn sống, 1938). Khi một người đã tự ý thức, tự phê phán, tự kết tội những ngày sống của mình là “phí hoài đời trẻ dại” thì nhất định người ấy sẽ chống gối đứng dậy đi tìm một lối thoát. Mưa mãi, mưa hoài đó có lẽ là cơn mưa dài nhất và buồn nhất trong đời Lưu Trọng Lư. Đó là những ngày mưa Huế, Lưu Trọng Lư và Hoài Thanh kéo nhau ra bờ sông Hương để khóc cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, khóc Nguyễn Thái Học bị hành hình, và cả hai ông cùng bị đuổi học một ngày vì những hoạt động yêu nước tại trường Quốc học Huế. Những ngày mưa ấy, Lưu Trọng Lư tá túc dài ngày trong nhà cụ Phan Bội Châu và cụ Võ Liêm Sơn. Trong những ngày bị đuổi khỏi trường Tây, Lưu Trọng Lư đã được nhận vào một ngôi trường mới, trường của lòng yêu nước do hai bậc chí sĩ nổi tiếng dìu dắt.

Bước chuyển biến này của Lưu Trọng Lư đã thể hiện ra rất rõ trong các tiểu thuyết Người Sơn nhân (1933), Con voi già của vua Hàm Nghi (1938) và Chạy loạn (1939) v.v… Thế là, sau khi khởi xướng và góp phần làm cho Thơ mới thắng thế, Lưu Trọng Lư giao lại cho các kiện tướng đến sau. Còn ông lẳng lặng rẽ sang một nẻo khác. Ông tìm về với dân tộc. Tìm về với dân tộc là tìm về với cái có sẵn từ trong hồn cốt của Lưu Trọng Lư từ lâu. Đó là “nụ cười đen nhánh sau tay áo” của mẹ ông, đó là cả một rừng dân ca và ca dao mà ông đã trích ra một phần rất đặc sắc trong Chuyện cô Nhụy nổi tiếng.

Tìm về và vững bước trên đại lộ của đất nước và dân tộc, có ai ngờ và thú vị làm sao sau 25 năm cơn mưa Huế đáng nhớ ấy, Hoài Thanh và Lưu Trọng Lư được trân trọng giao trọng trách cùng làm việc trong Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương. Đó là cơ quan có nhiệm vụ tư vấn cho Đảng và Nhà nước xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, văn học nghệ thuật của nước Việt Nam mới.

Theo tôi, trong những nhà văn nổi tiếng trước 1945, Lưu Trọng Lư là một trường hợp đặc biệt nhất. Đó là một dòng sông hợp lưu cả ba dòng Lãng mạnHiện thực và Yêu nước. Trong bối cảnh văn học trước Cách mạng, tuy rất đa dạng, phức tạp, nhưng nếu gọi tên bất cứ nhà văn nào, ta dễ nhận ra khuynh hướng nghệ thuật của họ. Tố Hữu là ai, Vũ Trọng Phụng là ai, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính là ai, vân vân, cứ nhắc tên là ta biết là văn thuộc khuynh hướng nào, dòng nào, theo sự phân loại phổ biến được chấp nhận cho đến nay. Còn đối với Lưu Trọng Lư, bảo ông là nhà thơ lãng mạn, rõ quá rồi, không ai phản bác được. Nhưng ông lãng mạn trong thơ, lại đồng thời hiện thực trong văn xuôi. Cùng lúc đó, trong lý luận phê bình, đặc biệt trong Văn chương và hành động và trong thực tiễn ông hiển hiện là một nhà văn yêu nước. Cùng một lúc vừa là thế này vừa là thế kia, đó chính là Lưu Trọng Lư. Đó là sự đa dạng về mặt khuynh hướng. Còn một sự đa dạng khác về mặt thể loại, Lưu Trọng Lư cũng là một cây bút sử dụng nhiều thể loại nhất. Ông làm thơ, viết báo, viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận, kịch, kịch thơ và bút ký văn học. Với trên 40 tác phẩm đủ các thể loại, Lưu Trọng Lư quả thực là một tiềm năng văn học. Theo dõi hành trình sáng tác của ông, ta thấy từ năm 1940 đến 1945, Lưu Trọng Lư lúc sống ở quê, lúc ra Hà Nội và lại từ Hà Nội trở về Huế. Chính tại Huế, ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc cùng với Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Chế Lan Viên. Trong bài thơ Mẹ, Lưu Trọng Lư nói về sự tỉnh giấc sau những ngày “nửa đời úp mặt trong đêm tối” thật cảm động: “Mẹ đến rồi, Mẹ đến bên/ Chan chứa nhìn anh mắt dịu hiền/ Tay nâng bát cháo, tay nâng dậy/ Lưỡi còn tê đắng, mắt còn hoen/ Cửa bé cửa nhớn: mở tung ra/ Đạp chiếu đạp chăn: đứng dậy/ Có tiếng chim kêu/ Có tiếng suối chảy/ Tiếng triệu triệu con ong/ Mật hoa thơm ngoài cánh đồng/ Hoa ơi hoa, lại nở trên cành/ Nầy Mẹ, đời con đã tái sanh”.

Trở về với dân tộc, đứng vững trên mảnh đất dân tộc là một bài học lớn về đời và về thơ của Lưu Trọng Lư. Sống cuộc sống của đất nước, của dân tộc, Lưu Trọng Lư thoát khỏi bế tắc, ông cảm thấy hoàn toàn phóng khoáng, tự do trong một tư thế nhập cuộc hết mình. Nhìn chung, các kiện tướng Thơ mới không có bài thơ nào thật hay trong kháng chiến chống Pháp. Cần phải có thời gian cho một tiến trình, cho một chuyển hóa. Trong tình hình chung đó, Ngò cải đơm hoa của Lưu Trọng Lư là một cố gắng đáng trân trọng: “Giặc có đốt thiêu đồng/ Lúa mùa sau lại mọc/ Giặc có dồn cướp thóc/ Thóc lại cướp trở về/ Hôm trước giặc dựng tề/ Hôm sau mình lại hạ/ Giặc bắn cả lợn gà/ Gà vịt lại tăng gia/ Giặc phá tan khung cửi/ Nhưng vải đã dệt xong/ Kịp chiến dịch thu đông/ Gửi cho anh, anh mặc”.

Nếu ai muốn đo sức khỏe của dân tộc qua sức khỏe của thơ ca thì đoạn thơ trên có thể đem đến một dẫn chứng sinh động.

Từ dòng mạch này, Lưu Trọng Lư đã trở nên chín và nhuyễn hơn với những bài thơ đấu tranh thống nhất. Trong những năm đó, ở miền Nam, Giang Nam, Thanh Hải, Văn Công là ba tác giả có thành tựu nhất, thì ở miền Bắc, Tố Hữu, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư là ba nhà thơ có nhiều bài thơ hay nhất về đề tài này. Những năm đó, thế hệ chúng tôi thường được nghe giọng đọc thơ xúc động nồng nàn của Lưu Trọng Lư trên Đài Tiếng nói Việt Nam: “Xin hỏi các bạn bè thế giới/ Sao chiều nay/ Đứng ở mũi đất này/ Chân tôi không bước tới/ Chân tôi không có quyền bước tới/ Bởi vì đâu bạn hỡi/ bởi vì đâu? Ngoài khơi con chuồn con nục/ Mùa nước trong hay mùa nước đục/ Cũng thung thăng biển Bắc bờ Nam/ Trên đầu tôi mây xanh hay mây bạc/ Theo gió chiều mây cứ bạt bay qua/ Con nhạn, con én, bên bờ/ Cũng qua đầu tôi lướt sóng/ Trời trong hay trời rộng/ Con chim, con cá cũng thẳng cánh thẳng vi/ Sao đến chỗ ni/ Trước mắt tôi như có hào sâu ngăn lại/ Đất Việt Nam, người Việt Nam không bước tới/ Mắt mải nhìn, mắt mòn nửa con ngươi/ Lời tôi nói, lời tôi nghe đứt đoạn” (Sóng vỗ cửa Tùng).

Năm tháng trôi qua, Sóng vỗ cửa Tùng viết năm 1958 cho đến nay vẫn là một trong những bài thơ hay nhất của Lưu Trọng Lư sau 1945.

3. Nếu chỉ dừng lại ở Từ đất này, là tập thơ thứ 4 của ông xuất bản năm 1971, Lưu Trọng Lư hoàn toàn đã được xem một nhà thơ nổi tiếng rồi. Nhưng thật đáng quý, vào những ngày chuẩn bị lễ kỷ niệm 100 năm sinh của ông, gia đình đã công phu sưu tập và cho xuất bản tập thơ dầy dặn gồm nhưng bài thơ chưa công bố của Lưu Trọng Lư có tên là Bài ca tâm tình. Tập Di cảo này cho ta thấy rõ thêm sự nghiệp thơ ca và nhân cách văn hóa của ông.

Sinh thời sau Thanh Tịnh, Tố Hữu và Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư có tình bạn đặc biệt với Nguyễn Tuân. Lưu Trọng Lư gọi Nguyễn Tuân là “tên ngất ngưởng”, Nguyễn Tuân kêu Lưu Trọng Lư là “lão chồm chồm”. Cái tên ấy nói một phần phẩm hạnh đặc biệt của Lưu Trọng Lư. Ông hầu như không sống ở đâu yên. Và ở đâu khó khăn nhất, gian nan nhất đều thấy ông xuất hiện. Từ Sông Tuyến những năm hai miền chia cắt, vào Khu 4 những năm chống chiến tranh phá hoại, lên Cao - Bắc - Lạng những năm xảy ra chiến tranh biên giới, đến đâu ông cũng có thơ và thơ hay. Gắn bó với dân tộc, với đất nước, là yêu cầu cao nhất của văn học.

Đó cũng là quan điểm sống và quan điểm nghệ thuật của Lưu Trọng Lư: “Tôi là kẻ thù của khuôn sáo, của thờ ơ, của cỗi cằn/ Với dân tộc của tôi, thơ tôi không chệch ngoài quỹ đạo”.

Có thể nói Bài ca tâm tình là một bản hợp âm với những nỗi niềm, những tâm sự của thi nhân trước biết bao những đổi thay, những sàm sỡ và hư hỏng, những chuyển động, những vỡ da, những hy vọng trước một cuộc lên đường mới. Trước những tiêu cực xã hội, ông như lão tướng đập bàn quát mắng: “Trên mảnh đất máu người thân ta đổ/ Có những bữa cơm láo xược, đế vương, thừa mứa/ Hỡi người thơ mái tóc bồng bềnh/ Người có nghe từ cuộc sống sớm chiều những tiếng lanh canh”.

Ông phê phán bệnh xa dân, là nguy cơ của mọi nguy cơ: “Gần dân hai tiếng gần dân/ Tưởng như bên nách bên thềm/ Bên da bên thịt/ Mà sao ngàn trùng xa cách/ Âm dương hai ngả tách rời”.

Là nhà thơ trữ tình, ông tôn trọng và đề cao cảm xúc. Nhưng khi cần, ông sẵn sàng đem đến những triết luận sâu sắc cho thơ sau biết bao trải nghiệm từ đời sống: “Trong muôn sai trái ở đời/ Thì giọt mồ hôi/ Ít phạm điều sai trái nhất” (Tâm sự đêm).

Ông quan niệm, đổi mới là con đường duy nhất để đưa sự nghiệp lên phía trước: “Từ trong điệu vần khổ đau nhức nhối/ Ta đổi mới đời ta/ Ta đổi mới thơ ta/ Tiến lên và cùng hát/ Lương tâm đã chắn hết nẻo lui rồi” (Đường vào chân lý).

“Lương tâm đã chắn hết nẻo lui rồi”, câu thơ của Lưu Trọng Lư cũng có nghĩa “Đổi mới hay là chết”. Đổi mới là cả một sự nghiệp lớn, có được và có mất, có giằng xé rớm máu để tiến lên. Trước bao nhiêu choáng ngợp, có lúc bối rối, lại nhớ: Trong lúc ngổn ngang phức tạp nhất, rất cần phải trở về với những vấn đề cơ bản nhất. Vấn đề cơ bản nhất đối với thi sĩ Lưu Trọng Lư là một chữ Nhân. Đêm giao thừa năm 1988, Lưu Trọng Lư thức trắng với biết bao tâm sự: “Không đủng đỉnh, không mơ hồ/ Biết cầm chắc những gì Tổ quốc trao đưa”.

Và, trong giờ phút thiêng ấy, nhà thơ tuyên bố: “Ta chỉ xin quỳ trước một chữ Nhân/ Cuộc giao ban trời đất”.

Lỗ Tấn cúi đầu làm ngựa cho nhi đồng, Cao Bá Quát cúi đầu trước hoa mai, Lưu Trọng Lư xin quỳ trước một chữ Nhân.

Sống và viết vì một chữ Nhân ấy, đó là bài học lớn nhất mà Lưu Trọng Lư đã để lại cho chúng ta.

Hữu Thỉnh

Nguồn: Hồn Việt, ngày 01.12.2017.

20200701 2

Nỗi nhớ quê đôi khi là nỗi đau đáu khôn nguôi về vùng đất chôn nhau cắt rốn, về những tên phố, tên làng mà lâu lắm rồi những người con xa quê ấy chưa được một lần quay trở lại. Đó còn là nỗi nhớ về những con sông tắm mát tuổi thơ êm đềm chảy mãi trong ký ức, là vùng biển quê hương nơi có thân xác người thương yêu của họ gởi lại sau những cơn thịnh nộ của đất trời. Nỗi nhớ quê ấy đôi khi được gắn với hình ảnh người con gái xứ Quảng dung dị hiền lành chịu thương chịu khó, với tiếng nói quê hương “chi mô răng rứa” quê mùa mà nghe thân thương đứt ruột. Tiếng nói mà thỉnh thoảng giữa những nơi chốn không phải quê hương, bất ngờ nghe được đôi tiếng đồng hương mà thấy thương đến trào nước mắt. Nỗi nhớ quê ấy đôi khi thiết thực và đơn giản chỉ là nỗi nhớ những món ăn đã thành ký ức từ thưở các nhà thơ còn là những cô bé, cậu bé theo mẹ ra chợ xuân trong những ngày giáp tết… Nỗi nhớ quê ấy đã được viết nên thành những dòng thơ về mớ cá mớ rau, về cái vị mắm đậm đà của xứ biển miền Trung, về tô mì quảng thơm lừng bởi củ nén đập dập phi dầu phụng ép, bởi miếng bánh đúc gạo mùa chan với chút mắm nêm, bởi cái vị béo ngậy của tô cao lầu Hội An, bởi chén chè đậu đen nấu đường bát ngọt ngào dung dị…

Nhưng có lẽ không một nhà thơ nào, không một nhà văn nào hay một người con nào khi xa quê và thương nhớ quê hương mà nỗi nhớ ấy không gắn liền với mẹ. Người mẹ đau xé châu thân khi sinh con ra, người mẹ bầm gan tím ruột tiễn con ra chiến trường mà không dám khóc, người mẹ xót xa tiễn biệt đứa con mà mẹ cứ ngỡ còn dại khờ đi mưu sinh xa xứ… Đó là những người mẹ Quảng, người mẹ xứ sở, người mẹ quê hương, người mẹ cuộc đời, người mẹ của họ, người mẹ của tất cả chúng ta. Và… hình ảnh người mẹ trong thơ của các nhà thơ Quảng xa xứ đã khiến tôi chạnh lòng nhớ thương mẹ tôi đến rơi nước mắt. Bởi, tôi cũng có khác gì họ đâu, một người con xứ Quảng đã bỏ mẹ, bỏ quê mà đi tròn hai chục năm trời.

 Có lẽ cần nhắc đến đầu tiên trong bài viết này là một nhà thơ Quảng Nam đáng kính, đáng ngưỡng vọng vừa qua đời cách đây hơn 10 năm. Một nhà thơ mà tên tuổi đã vượt ra khỏi bờ cõi quê hương từ khi còn rất trẻ - Thu Bồn. Trong gia tài thơ đồ sộ của ông có không ít những bài thơ về mẹ, trong đó có hình ảnh người mẹ gắn liền với hình ảnh con sông quê hương mà nhà thơ đã chọn làm bút danh của mình, bút danh của một người con đã làm rạng danh quê hương xứ sở.  Trong bài thơ Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam, hình ảnh người mẹ hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ là một người mẹ quê đang đẩy nhẹ những chiếc tao nôi đưa con ngủ trong tiếng hát ru. Lời ru của mẹ chẳng phải luôn là bài ca đầu đời hay nhất, dịu êm nhất mà mỗi đứa trẻ từng được nghe trong suốt cuộc đời của mình hay sao? Phút tình cờ nghe tiếng hát của một cô gái đã khiến ông vời vợi nhớ thương tiếng ru ngày xưa của mẹ dường như đã thấm sâu trong tim ông từ thời thơ dại đến giờ:

Có phải một thời son trẻ 
Tiếng mẹ ru ngọt lịm cả nắng chiều”

Tiếng hát ru con của mẹ trong ký ức của nhà thơ trong vắt như bầu trời xanh thẳm của tự do và cũng nghẹn ngào chứa chan nước mắt khi mẹ phải hát ru con trong cảnh đọa đầy:

“Tiếng trong sao như con chim hót 
Bay giữa vòm trời xanh vợi đến bao la 
Nước mắt nhỏ ròng trong mỗi tiếng ca 
Tiếng mẹ khóc òa vào trong tiếng hát ”

Và rồi, tiếng hát của mẹ, tiếng khóc của mẹ, mẹ Thu Bồn, mẹ Quảng Nam bỗng chốc hóa thân thành tiếng hát hòa tiếng khóc của người mẹ Việt Nam trong nỗi đau thương mất mát của nhà thơ hay là của tất cả chúng ta hôm nay khi “Tiếng hát mẹ đau làm dựng sóng Thu Bồn”.Rồi khi nhà thơ thảng thốt kêu lên:

“Thế kỷ chúng ta thế kỷ dài dằng dặc
Niềm đau thương vì nỗi mẹ không còn”

Ta đều biết nỗi mất mát của nhà thơ khi ấy không chỉ là nỗi đau mất mẹ mà còn là nỗi đau mất cả quê hương. Bởi có mẹ là có quê hương, còn mẹ là còn quê hương, còn mẹ là còn yêu thương, còn mẹ là còn tất cả.

“Quê hương bỗng trở thành khoảng trống lặng im
Đường không hoa không 
gió không chim
Tất cả trở thành dĩ vãng
Mẹ không còn nữa ở trên đời
(Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam)

Trong khi đó, người mẹ trong thơ Tường Linh lại hiện ra trong hình dáng thơ ngây của người con gái Duy Xuyên tuổi 15 trong trẻo hồn nhiên:

“Cô gái 15 hái hoa bắt bướm…                                                                                                                                                                 

Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên”

Nhưng cũng chính người con gái hồn nhiên ấy đã trở thành một người mẹ Quảng Nam trung hậu anh hùng trong ngày đưa con trai của mẹ ra chiến trường cho cuộc chiến vì dân vì nước. Lời thề sắc son của mẹ và cha trước ngọn núi Ngũ Hành của quê hương mãi mãi không thể nào quên được trong nỗi nhớ của nhà thơ trong những tháng ngày mưa bom bão đạn:

“Mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành

Năm cụm núi không thể nào thiếu một

Năm ngón tay không thể chia lìa

Lời mẹ đều đều

Sương rụng vườn khuya”

Và người mẹ trong thơ Tường Linh cũng như muôn người mẹ quê khác, rưng rưng đón con về trong đôi mắt mừng vui đến trào lệ khi được nhìn tận mặt, ôm tận tay đứa con trai đã vượt qua bom đạn chiến trường để về với mẹ, dù thân thể ngày nào mẹ cho anh đã không còn lành lặn:

Mẹ già đón anh mừng vui bỡ ngỡ

Mẹ khóc, mẹ cười, mái tóc rụng hoa sương”

(Năm cụm núi quê hương)

Người mẹ trong nỗi nhớ của nhà thơ Sơn Thu lại là hình ảnh người mẹ quê với đôi quang gánh gánh những đứa con của mẹ trên vai. Những đứa con trong hai đầu quang gánh đã bao lần say giấc theo từng bước chân gập ghềnh của mẹ. Người mẹ với cây đòn gánh gánh con trên đôi vai gầy trong thơ ông đã hóa thân thành hình ảnh của người mẹ miền Trung gánh trên vai hai đầu đất nước:

Mẹ gánh chúng con

Mỗi đầu một đứa

Đòn gánh cong cong thương đất nước quê mình

Trăng đổ xuống đôi vai gầy của mẹ

Giấc ngủ chúng con say theo bước mẹ gập ghềnh (Mẹ tôi)

Còn đối với nhà thơ Nguyễn Vân Thiên, cây đòn gánh trên đôi vai bé nhỏ của người mẹ xứ Quảng lại có khả năng gồng gánh ước mơ lẫn những gieo neo đời mẹ, gánh đời con trẻ đi qua gian lao và gánh cả vũ trụ đầy nắng đầy mưa… đi về sớm tối:

“Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo

Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo

Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi- về” (Cây đòn gánh)

Có lẽ đối với người dân miền Trung, hình ảnh người mẹ gánh hai đứa con thơ trên đôi quang gánh hoặc một bên là con một bên là rau củ, thịt cá cho buổi chợ phiên đã chẳng có gì xa lạ với những ai được sinh ra và lớn lên ở vùng đất khốn khó đầy mưa bão và nắng gió này….

“Một đời gánh nắng và mưa

Mòn vai mà mẹ vẫn chưa yên lòng (Cây đòn gánh)

Vì ai? Vì ai? Hỏi mà chẳng chờ trả lời vì trong thâm tâm nhà thơ và trong tất cả chúng ta đều đã có lời đáp, có nỗi gian lao nào mà mẹ chẳng thể vượt qua vì hạnh phúc bình yên cho những đứa con của mẹ?

Người mẹ trong nỗi nhớ của nhà thơ Ý Nhi lại gắn liền với nỗi ân hận chân thành và lòng xót xa day dứt của bà. Ý Nhi từ lâu đã được biết đến như là một trong những nữ nhà thơ hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam, thơ của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và bà được đánh giá là một trong những nhà thơ Việt Nam đương đại tiên phong sau thời kỳ đổi mới. Trong bài thơ Kính gởi mẹ, Ý Nhi nhắc về người mẹ trong nỗi day dứt xót xa với cảm giác ân hận khi đã lớn khôn và rời xa mẹ. Bà tự nhận mình như những quả cây chín mọng tự bứt mình rời khỏi thân cây đã cho mình sự sống, nơi mình đã hút nhựa thơm và chất dinh dưỡng để trưởng thành. Quả rời cây như con rời mẹ, như người rời khỏi quê hương, rời khỏi mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình:

“Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây

Như trời xanh nhẫn nại sau mây” (Kính gởi mẹ)

nhưng điều đó cũng có hề gì đâu khi “cây đã tự quên mình trong quả”, sức lực của mẹ, linh hồn mẹ, tuổi trẻ của mẹ và ước mơ của người đã gởi hết vào con. Con từ mẹ mà được sinh ra, lớn lên và rời đi nhưng từ lúc con rời khỏi mẹ cũng là lúc mẹ đã ở trong con mãi mãi thì dẫu con có đi đến đâu, ở nơi xa nào thì đôi mắt mẹ, tâm tư mẹ cũng theo con đến đấy:

“Và lòng con yêu mến, xót thương hơn

Khi con nghĩ đến cuộc đời của mẹ

Khi con nhớ đến căn nhà nhỏ bé

Mẹ một mình đang dõi theo con”

Trái tim của người mẹ bao giờ cũng là nơi trú ẩn an toàn nhất cho những đứa con, là bến bờ cho những con thuyền mãi miết vượt khơi xa có nơi tìm về tránh bão. Ý Nhi là một nhà thơ nữ, cũng là một người mẹ, người đàn bà đa cảm. Bà viết cho mẹ mà như viết cho thân phận chung của những người đàn bà luôn luôn nhận về mình phần chờ đợi, sẵn sàng là bờ bến yên bình cho những con thuyền đi xa quay về trú ẩn, nghỉ ngơi. Dù ngay sau đó, khi trời yên biển lặng những con thuyền lại giương buồm ra khơi xa, mãi mết đuổi theo những ước mơ và khát vọng của riêng mình. Bến bờ mẹ sau những tháng ngày rộn rã lao xao lại trở về vắng vẻ, lặng yên rồi lại tiếp tục dõi theo những cánh buồm xa kia chờ ngày được rộn ràng yêu thương và trao yêu thương dù chỉ là trong chốc lát:

“… đời mẹ như bến vắng bên sông

Nơi đón nhận những con thuyền tránh gió”

Mất mẹ khi còn rất nhỏ, chưa đầy 7 tuổi nhà thơ Bùi Nguyễn Trường Kiên đã theo cha vào Nam tìm kế mưu sinh, nhưng lạ thay chỉ vài tuổi đời ngắn ngủi được sống có mẹ nơi chôn nhau cắt rốn cũng đủ hun đúc nên một con người Quảng, một tâm hồn rất Quảng bên trong nhà thơ này. Nỗi nhớ quê hương trong thơ ông cũng không nguôi thương yêu về một người mẹ có lẽ phải rất mờ nhạt trong trí óc non nớt của đứa bé mới chỉ vài tuổi đầu. Nhưng lại không phải vậy, người mẹ quê cứ hiện lên trong thơ ông rõ nét, đầy day dứt và ăm ắp yêu thương. Có lẽ Bùi Nguyễn Trường Kiên là một trong những nhà thơ Quảng viết về mẹ rất nhiều và bài nào của ông cũng khiến tôi cảm động. Người mẹ với đôi vai gầy và đôi chân trần trong bài thơ Ca dao và mẹ của ông, cứ ngỡ là nhỏ bé mong manh mà như gánh chịu được cả những cơn thịnh nộ của đất trời để chở che cho con của mẹ, để con được bình yên trong tiếng cười giòn trên đôi môi thơ dại:

“Vai gầy mẹ gánh những cơn giông

Chân trần mẹ lội đầu non

Che giông giữ tiếng cười giòn cho ai…”

Để rồi một chiều nào đấy, người con xa xứ nghe tiếng ru vọng từ đâu tới mà cứ ngỡ là tiếng ầu ơ của mẹ ngày xưa vọng về như muốn xé nát tim gan mình, nỗi ngậm ngùi khôn nguôi ứ đầy bóng hình mẹ đã xa biết chứa vào đâu cho đủ? Loay hoay mơ cả cuộc đời liệu có được phút giây nào được nghe lại lời ru vĩnh viễn đã không còn của mẹ nữa hay không?

“Ầu ơ tiếng vọng xé tim

Lời ru xưa bỗng tìm về cơn mơ” (Ca dao và mẹ)

Lời ru của mẹ trong tâm thức nhà thơ có lẽ đã hằn sâu bao lớp bao tầng, ông viết về lời ru mà như viết về nỗi đau mất mát của mình, đọc những câu thơ viết về lời mẹ ru của Bùi Nguyễn Trường Kiên, tôi chợt nghĩ có lẽ nào lời ru hay nhất là những lời ru chỉ còn trong ký ức của mỗi chúng ta?

Tiếng mẹ ru êm như là… tiếng mẹ

Thằng bé bạc phần đánh mất thưở còn thơ!  (Mẹ ơi)

Lời ru cứ trở đi trở lại trong những bài thơ của nhà thơ khi ông viết về mẹ, ông đôi khi “tự dưng thèm là trẻ con” chỉ vì một hôm nào đó nhớ quá, thương quá “lời Mẹ ru thưở tóc chỏm trên đầu”. Đọc những câu thơ dưới đây của ông có ai mà không nghe ngậm ngùi đến mức xót xa:

“tự dưng thèm là trẻ con

để được sống cho đã thèm với mẹ (Thèm là trẻ con)

 Lê Minh Quốc là một nhà thơ Quảng viết khỏe, viết nhiều và viết hay. Và đương nhiên, với một nhà thơ lúc nào cũng đau đáu nỗi niềm đối với quê hương như thế thì thơ ông chẳng thể nào vắng được hình ảnh của người mẹ Quảng, người mẹ quê hương, người mẹ xứ sở, người mẹ của ông. Trong bài thơ Giấc ngủ của mẹ, ông viết về một bà mẹ chân chất với đầy những nỗi lo toan nhọc nhằn cả trong giấc ngủ. Bà mẹ ấy cũng như hàng trăm hàng ngàn bà mẹ quê khác có thể chưa bao giờ được đến lớp, chưa biết lấy một chữ cắn đôi nhưng có thể dạy con bằng những bài học đạo lý ngàn đời của dân tộc từ ca dao cổ tích.

“mẹ ta nhớ nhiều cổ tích với ca dao 
dù chữ cắn đôi mẹ không biết đọc 
ta chưa thấy mẹ cười, chưa nghe mẹ khóc 
gương mặt đăm chiêu ngay lúc ngả lưng nằm”

Những người mẹ quê ấy không chỉ nuôi dạy con mà còn truyền vào trong ký ức con, huyết quản con lòng mến yêu quê hương xứ sở, tự hào về những giá trị văn hoá tốt đẹp của cha ông. Chính những vốn liếng văn hóa đơn sơ mẹ trao từ ca dao cổ tích lại là nền tảng tri thức chắc chắn cho những đứa con dù bay cao bay xa đến đâu trong thế giới này cũng vẫn mãi mãi không bao giờ quên được nguồn cội của mình.
Khi đọc bài thơ Mẹ quê hương tôi biết điều ông muốn nói còn nhiều hơn những câu thơ mà ông đã viết ra, người mẹ của ông, người mẹ Quảng, người mẹ quê hương, người mẹ của tất thảy chúng ta ấy đã tay níu trời chân không chạm đất, oằn mình trong cơn lũ xiết... cho biển hoá nương dâu, cho thảy thảy chúng ta được sống cuộc đời mà chúng ta đang sống, cho hiện tại mà chúng ta đang tồn sinh, kết nên từ những niềm vui hay những giọt lệ buồn của mẹ?

Vẫn một mình mẹ trong nước xiết. Chân không chạm đất. Mẹ đưa tay níu rách cả bầu trời

Đất hóa thành sông. Sông lạc cội nguồn. Biển hóa nương dâu qua nhọc nhằn đời mẹ, thành niềm vui rơi xuống giọt lệ buồn (Mẹ quê hương)

Một Thu Bồn, một Tường Linh, một Sơn Thu, một Nguyễn Vân Thiên, một Ý Nhi, một Bùi Nguyễn Trường Kiên, một Lê Minh Quốc... có lẽ chẳng đủ để đại diện cho những nhà thơ Quảng xa quê luôn không nguôi nỗi nhớ về quê cha đất mẹ. Trong bài viết này, tôi mạo muội sắp xếp một cuộc “họp đồng hương” từ những vần thơ viết về mẹ của những nhà thơ xa xứ này. Có nhà thơ vẫn còn sung sức, còn viết rất nhiều rất khỏe nhưng cũng có những nhà thơ lâu rồi không cầm bút và cũng có nhà thơ đã kịp để lại cho chúng ta một di sản đáng giá trước khi rời xa chúng ta và cõi tạm này mãi mãi. Nói như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương thì “như những cuộc gặp mặt đồng hương khiến người ta chờ đợi, những cuộc đoàn viên trong thơ ca Quảng Nam bao giờ cũng gây cảm động”. Và càng cảm động hơn nữa khi những nhà thơ trong cuộc đoàn viên thơ ca này đều nói chung một tiếng thơ của người Quảng, tiếng thơ về tình yêu với mẹ, tiếng thơ về nỗi nhớ quê hương.

La Mai Thi Gia

Nguồn: Tạp chí Non Nước, 12/2019

 

Ở tuổi 86, Dương Tường toan "rửa tay gác kiếm", nhưng ông tiếp tục thử thách bản thân mình khi dịch kiệt tác văn học nước nhà sang tiếng Anh.

Nói tới Dương Tường nếu bạn là người thích đọc sách văn chương, nhất lại là văn chương nước ngoài, thì hẳn bạn biết. Ông là một dịch giả nổi tiếng đã chuyển ngữ từ tiếng Anh, tiếng Pháp sang tiếng Việt hơn 50 tác phẩm văn chương lớn của nhân loại ở nhiều nền văn học trên thế giới, ví như Anna Karenina (Lev Tolstoi - Nga), Đi tìm thời gian đã mất (Marcel Proust - Pháp), Đồi gió hú (Emily Bronte - Anh), Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell - Mỹ), Cái trống thiếc (Gunter Grass - Đức), Lolita (Vladimir Nabocov - Nga-Mỹ), Cội rễ (Alex Haley - Mỹ), Bức thư của người đàn bà không quen (Stefan Zweig - Áo), Kafka bên bờ biển (Haruki Murakami - Nhật Bản)…

Sau bản dịch tiểu thuyết Chết chịu của nhà văn Pháp Céline, ở tuổi 86 ông đã tính nghỉ ngơi. Nhưng với một người suốt đời cặm cụi với trang văn và con chữ như ông thì không thể nào ngồi không được, không thể “ăn gian thời gian sống” như lời ông nói. Ông lại mở sách ra, nhưng lần này là sách tiếng Việt, và ông tìm về kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du để lại được “nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời” (thơ Huy Cận).

20200406 4

Cuốn Kiều in Dương Tường's Version được in trang trọng. Ảnh: T. Điểu

 

Đến một ngày ông bỗng muốn dịch Kiều ra tiếng Anh để trả ơn tiếng mẹ đẻ đã cho ông được làm người và làm nghề và cũng để góp một chút phần đưa kiệt tác văn chương dân tộc ra thế giới. Mắt ông đã lòa nên con cháu phải giúp một cái máy tính để phóng to chữ lên màn hình. Và ngày ngày ông cặm cụi ngồi dịch. Sau hai năm bản dịch 3254 câu Kiều Việt sang 3254 câu Kiều Anh hoàn thành. Và tháng 4 này, bản Kiều tiếng Anh Dương Tường (Kiều in Dương Tường’ version) đã ra mắt bạn đọc.

Trước bản dịch của Dương Tường, theo thống kê chưa đầy đủ về những bản dịch toàn bộ tác phẩm và đã xuất bản, Truyện Kiều đã có hơn 30 bản dịch ra hơn 20 thứ tiếng nước ngoài (Pháp, Trung, Anh, Hungary, Nhật, Đức, Mông Cổ, Tiệp, Nga…). Bản sớm nhất là tiếng Pháp, năm 1884. Riêng về tiếng Anh, theo một nhà nghiên cứu, đã có 17 bản dịch. Trong đó có bốn bản được đánh giá cao là: “The Soul of Poetry inside Kim Van Kieu” (1963, 2010) của Lê Xuân Thủy, The Tale of Kiều (1973, 1983) của Huỳnh Sanh Thông, Kieu, The Tale of a Beautiful and Talented Girl (1994, 2011) của Michaell Counsell, và Kim Van Kieu of Nguyen Du (2004) của Vladislav V. Zhukov. Như vậy bản Kiều tiếng Anh Dương Tường là bản dịch tiếng Anh thứ 18.

Kiều qua trích dẫn của các chính khách Mỹ

Chưa thể đi sâu phân tích bản dịch, bây giờ tôi thử lấy bản Kiều-English Huỳnh Sanh Thông là bản được đánh giá cao nhất làm đối chứng với bản Kiều-English Dương Tường để nêu lên mấy nhận xét bước đầu. Huỳnh Sanh Thông (1926 - 2008) là một giáo sư tại Đại học Yale (Mỹ), bản dịch Kiều của ông ra lần đầu 1973, mười năm sau (1983) được sửa chữa, tái bản. Trong quá trình dịch ông có tham khảo các bản dịch tiếng Pháp tiếng Anh và ý kiến những đồng nghiệp Mỹ cùng trường.

Dương Tường khi dịch không tham khảo bản dịch Kiều tiếng Anh tiếng Pháp nào, một mình dịch trong hai năm. Ông cho biết chỉ trong quá trình dịch có một người Mỹ gửi cho bản dịch của Timothy Allen ông đọc thấy dịch không đạt và càng có thêm tự tin cho bản dịch của mình.

Cả hai bản của Huỳnh Sanh Thông và Dương Tường đều để nguyên chữ “Kiều” như tiếng Việt, đều dịch đúng 3254 câu Việt sang câu Anh.

Trước hết ta hãy xem hai câu mở đầu:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Huỳnh Sanh Thông: “A hundred years - in this life span on earth / talent and destiny are apt to feud”. Dương Tường: “In the one-hundred-year span of a human life, / Destiny implacably sets upon Talent”. Câu của Sanh Thông mang tính khái quát, quy luật đời người hơn. Để dịch chữ “cõi”, cả hai ông, và ông Lê Xuân Thủy nữa, khi dịch câu này đều dùng từ “span” nghĩa đen là “gang tay”, từ đó rộng nghĩa là “khoảng thời gian ngắn ngủi”.

Cổ nhân nói “đời người ngắn chẳng tày gang” (“Our life but a span”). “Cõi người ta” với Sanh Thông là “khoảng đời trên cõi trần” dùng “earth” không mạo từ. Dương Tường thì cho đó là hạn hẹp đời người đúng một trăm năm “one-hundred-year span”.

Bản Huỳnh Sanh Thông đã được hai nhà lãnh đạo Mỹ, Tổng thống Bill Clinton (2000) và Phó tổng thống Joe Binden (2015) sử dụng khi trích dẫn Kiều trong bài phát biểu của mình trước người Việt. Ta hãy đối chiếu những câu Kiều được dùng trong văn bản chính trị này ở hai bản dịch.

Gan 90 tuoi van dich Kieu, nguoi dich tre dang o dau? hinh anh 2 Kieu_1.jpg
Dịch giả Dương Tường và cuốn Kiều in Dương Tường's Version. Ảnh: T. Điểu

 

Đầu tiên là hai câu 1795-1796 được ông Bill Cliton dùng trong bài phát biểu năm 2000 tại Hà Nội:

“Sen tàn cúc lại nở hoa,

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”.

Bản dịch Huỳnh Sanh Thông: “Just as the lotus wilts, the mums bloom forth, / Time softens grief, and the winter turns to spring” (“Ngay khi sen héo úa thì cúc nở / Thời gian làm dịu nỗi đau và đông chuyển sang xuân”). Bản dịch Dương Tường: “As seasons go, with lotus wilted, mum start blossoming forth / Sorrow while time away and soon winter ushers spring in (“Theo nhịp mùa đi, với sen tàn, cúc bắt đầu nở / Nỗi buồn theo thời gian trôi và chẳng mấy chốc đông đưa xuân tới”. Sanh Thông chỉ nói “Ngay khi” (“Just as”), còn Dương Tường muốn thơ hơn “Theo nhịp mùa đi” (“As seasons go”).

Còn đây là hai câu 3121-3122 mà ông Joe Binden dùng trong bài phát biểu tại Wasington (2015):

“Trời còn để có hôm nay,

Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”.

Bản dịch Huỳnh Sanh Thông: “Thank heaven we are here today, / To see the sun through parting fog and cloud” (“Nhờ trời hôm nay chúng ta ở đây hôm nay / Để thấy được mặt trời xuyên qua sương mù và mây đang tan ra từng mảng”). Bản dịch Dương Tường: “Heaven blesses us with this day - from our gate, / mist has cleared; high up, clouds are dispelling” (Trời đã ban phúc chúng ta ngày này - từ ngoài cổng ngõ nhà ta / sương đã hửng lên, trên cao mây đang tan ra). Dương Tường theo đúng bản gốc chỉ nói trời quang mây tạnh, còn Sanh Thông thì thêm vào là “thấy mặt trời” (“To see the sun”).

Một tổng thống Mỹ khác là Barak Obama cũng đã dùng Kiều trong bài phát biểu của mình tại Hà Nội (5/2016). Đó là hai câu 355-56:

“Rằng: Trăm năm cũng từ đây,

Của tin gọi một chút này làm ghi”

Trong văn bản bài nói của ông tổng thống hai câu này được dịch là: “Please take from me this token of trust, so we can embark upon our 100-year journey together” (“Xin nhận lấy từ tôi biểu hiện niềm tin này, như thế chúng ta có thể cùng nhau đi cuộc hành trình trăm năm”).

Bản dịch Huỳnh Sanh Thông: “Henceforth I'm bound to you for life," he said./ "Call these small gifts a token of my love” (“Từ nay tôi đã buộc tôi vào đời em / Xin gọi món quà nhỏ này là biểu hiện tình yêu của tôi”. Bản dịch Dương Tường: “From now on, I’m yours for life, take these small things as a token of my love” (“Từ bây giờ, đời tôi đã là của em / Xin nhận món đồ nhỏ này như là biểu hiện tình yêu của tôi”). Sanh Thông xa xưa (“Henceforth”), Dương Tường gần nay (“From now on”).

So sánh chỉ mấy câu trên đã có thể thấy hai cách dịch của Huỳnh Sanh Thông và Dương Tường là “đại đồng tiểu dị”. Ý chính họ truyền đạt giống nhau, tuy có khi người này dịch sát, người kia dịch thoát. Khác nhau chỉ ở đôi chỗ dùng từ ngữ.

Xin đưa thêm câu nữa để thấy hơn những chỗ gặp nhau của hai bản dịch.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Câu 41-42)

Huỳnh Sanh Thông: “Young grass spread all its green to heaven's rim; / some blossoms marked pear branches with white dots”. Dương Tường: “Young grass spread its green carpet as far as the horizon / Pear branches adorned themselves with white blossoms”. Sanh Thông cho hoa điểm cành, Dương Tường cho cành điểm hoa và thêm một tấm thảm xanh (“green carpet”) cho đồng cỏ...

"Giới thiệu Nguyễn Du tới Shakespeare"

Như đã nói, tôi chưa thể đi sâu vào bản Kiều tiếng Anh Dương Tường, chỉ mới nêu mấy nhận xét sơ bộ qua việc đối chứng nó với một bản dịch đã có trước gần nửa thế kỷ ở Mỹ và được đánh giá cao nhất. Nhưng chỉ nội chừng đó đã đáng ghi công cho Dương Tường khi ông dám đặt cho mình một bài thử tột đỉnh (Supreme Test) là giới thiệu Nguyễn Du với Shakespeare (introducing Nguyen Du to Shakespeare - tức là đưa Kiều sang tiếng Anh), nói như nhà báo Nguyễn Công Khuyến trong lời giới thiệu cho sách này.

Gan 90 tuoi van dich Kieu, nguoi dich tre dang o dau? hinh anh 3 Kieu_7.jpg

Cuốn sách in nhiều tranh của các họa sĩ đương thời lấy cảm hứng từ Truyện Kiều.

Ảnh: T. Điểu

Bởi ông làm việc này khi tuổi đã cao, mắt đã gần như lòa, tai đã nghễnh ngãng, mà lại làm với Truyện Kiều. Nhưng ông đã vượt qua được thử thách đó một cách ngoạn mục. Giờ đây, Nguyễn Du/Kiều/in Dương Tường’s version đã thành sách với nhiều phụ bản tranh minh họa đẹp của các họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Quân, Đặng Xuân Hòa, Đinh Quân, Trần Lương, Hà Trí Hiếu, Thanh Bình, Lý Trần Quỳnh Giang, Nguyễn Công Cừ.

Thế là thêm một dịch phẩm Kiều ra thứ tiếng phổ biến toàn thế giới để đưa nàng văn Việt quốc sắc thiên hương đến với nhân loại muôn nơi. Với người trong nước, ai đọc được tiếng Anh có thể đọc để thưởng thức Kiều trong một bộ dạng ngôn ngữ khác. Họ có thể bàn luận, góp ý về cách dịch cho dịch giả. Và điều quan trọng hơn, có thể từ tấm gương của Dương Tường họ sẽ được tiếp thêm cảm hứng và động lực để nguyện làm “con ngựa thồ văn hóa” chở văn chương nước nhà ra nước ngoài bằng những bản dịch trong những thứ tiếng khác nhau.

Tôi đang viết những dòng này thì đọc được trên trang cá nhân của Trưởng khoa Việt Nam học (ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn TPHCM) thông tin có một người từng bỏ ra hàng chục năm để dịch Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Người dịch này đã trên 80 tuổi, mang bản dịch tới Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn muốn được giới thiệu với bạn đọc. Trang Facebook này viết thêm: "Không biết có Nhà xuất bản, Công ty sách nào có ý định giới thiệu bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp thứ 14, ra tiếng Anh thứ 17 thì liên hệ để chúng tôi giao bản thảo. Năm nay là năm kỷ niệm 200 năm ngày mất (1820 - 2020) Nguyễn Du, nếu tập sách này ra đời thì sẽ là một đóng góp lớn đối với việc giới thiệu văn hóa nước nhà".

Mong sẽ có nơi nhận xuất bản những bản dịch này. Và các bạn trẻ: Chẳng lẽ cứ để những người già chạy tiếp sức trên con đường dịch thuật văn chương này sao?

Phạm Xuân Nguyên

Nguồn: Tạp chí điện tử Tri thức trực tuyến Zing news, ngày 05.04.2020.

Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).

20200627

Tập thơ in khổ lớn, trình bày trang nhã, bìa là ảnh tác giả đứng nhìn sang làng Chuồn (làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) từ bên kia sông Như Ý. Đó là quê hương và tuổi thơ Từ Hoài Tấn, nơi chỉ cách thành phố Huế tám cây số theo quốc lộ 49 qua cầu Vỹ Dạ mà như một thế giới riêng biệt được phản chiếu trong thơ ông.

Buổi sáng Sài Gòn cuối năm, nắng mật ong ánh vàng trước tượng Đức Mẹ Hòa Bình, chim bồ câu vui đùa mổ thóc trong nhịp chuông nhà thờ; nghe những kỷ niệm về đường đời và đường thơ Từ Hoài Tấn được gợi lại, bỗng thấy thơ ông như đan kết không - thời gian những phút giao mùa mà một tâm hồn trôi dạt giữa gió bụi còn giữ lại trong ngôn từ.

Phục hưng tuổi trẻ

Những bài thơ làm thời tuổi trẻ của Từ Hoài Tấn đã đăng rải rác trên báo chí miền Nam trước 1975 hay lưu truyền trong vòng thân hữu, được tập hợp trong Phục hưng tôi và em (2013) sau khi đã in Hành tinh phiêu lạc (2003), Đi, đứng và chạy… với thời gian (2012) gồm những tác phẩm của “một thời thất lạc”.

Làng Chuồn nổi tiếng rượu ngon và con người cứng cỏi; còn thơ Từ Hoài Tấn thời trẻ chỉ có hơi rượu nhẹ và giọng thơ dịu mềm như thoáng tình đầu: Em đã sắp về chưa/ Trên những nhánh cây khô cuối mùa héo úa/ Và có ai đi dưới con đường nhạt nhòa/ Hơi thở kín trong lòng tay buốt/ Hỡi ngày mai của một rạng đông/ Nụ cười phơi trên giàn hoa gạo cũ/ Người cười vui con mắt long đong/ Ấm lòng ta những canh khuya lặng lẽ.// Em đã sắp về chưa/ Những ngày tháng mười hai nhịp mùa trở đổi/ Gió không ngừng reo/ Bên kia núi đồi/ Băng qua những dòng sông/ Những cây cầu/ Và những chia cách của lòng người/ Gió thổi tới/ Xóa nhòa khuôn mặt thù hận của đêm tối/ Và gió thổi tới/ Bước chân em/ Từ nghìn trùng xa biệt. (Những buổi chiều cuối năm ngoài đường).

Hồn thơ Từ Hoài Tấn nhạy cảm với những chuyến xe chiều cuối năm, những ngày sắp tàn khi ngoài phố mùa đông trôi đi những bóng người lặng lẽ: Những ngày sắp hết năm tàn nữa/ Một bóng người qua lặng lẽ buồn/ Sông núi mười thu chờ tiếng bước/ Nhẹ lướt qua đời những bến sương (Những ngày cuối năm); Ngày đã vơi với tiếng cười buồn/ Thu mình ngồi trong khoang xe chật/ Ai hát bên đời nghe tang thương/ Chiều mới hết hoàng hôn xô mãi/ Những tiếng đàn trầm hư không. (Buổi chiều cuối năm trên một chuyến xe buýt).

Thơ Từ Hoài Tấn là thơ của “những đêm chờ bình minh”. Chỉ dấu tâm hồn này có thể thấy trong thơ của một thế hệ đương thời. Dưới ngòi bút Từ Hoài Tấn, hình ảnh “thời đại tật nguyền”, “đầy dẫy những vết tích hoang phế”, “vực thẳm”, kết tụ trong những cảnh tượng dữ dội của chiến tranh: Năm năm tôi mơ một mái nhà/ […] Ta đi hai bên những gọng kềm/ Những con mắt là lưỡi đao tàn ngược/ Tên đao phủ mỗi ngày thoáng bóng qua đêm/ Những lời hô từng giờ, từng phút. (Trên đường tới một mái nhà).

Đối lập với những hình ảnh đó là viễn cảnh về một ngày mai hy vọng với, “những khu vườn rực rỡ, cây trái tái sinh”, “những búp non báo hiệu”, “hừng đông rựng sáng”, “nắng mai hồng trên cánh đồng thơm”, “tiếng chim trắng bay về ngoài vuông cửa”, “gió hiền hòa không ngừng thổi tới”. Nhưng nỗi “hoài vọng rạng đông” ấy chỉ gieo lên niềm tin mơ hồ về một “mùa phục hưng” ảo tượng. Tháng chạp kéo dài thành những câu thơ u uẩn mà tháng giêng và mùa xuân chập chờn đâu đó chưa hiển lộ: Trời đã cuối năm đất trở mình/ Những canh khuya nghe trong lòng tôi/ Lời chim khuyên thức dậy/ Đời đã lên men/ Rượu tình ai đã rót/ Nhấp chén tương tri/ Của một người cuối đời trở lại. (Tình khúc cuối năm trên gác xép)

Đất trời, cỏ cây và tình nhân như hòa cùng tiên cảm với nhà thơ về một nỗi niềm không xác định của đời sống: Sách vở em buồn trong ngăn kéo/ Những ngày hoa báo hiệu mùa xuân/ Tôi thu nhặt lại năm tàn cũ/ Gửi gió sông hồ bay mênh mang (Những ngày cuối năm).

Xa Huế, ra đi bốn phương trời, trở về Huế, rồi lại lang bạt, những câu thơ hay nhất của Từ Hoài Tấn thời trẻ, dù không gọi tên, vẫn mang âm hưởng cố đô. Lãng đãng, bàng bạc trong không gian. Dằng dặc, ngập ngừng trong thời gian. Tính cấu trúc chỉ nhận ra được nhờ giọng điệu và điệp ngữ: Những chiều thở không ra hơi/ Đầm đìa cơn mê sảng/ Linh hồn động kinh/ .../ Nhìn lên dãy hành lang của trường đại học/ Bây giờ còn tiếng chân ai lướt nhẹ xa xăm/ Mười năm nữa ai sẽ dắt nhau qua đây/ Hát một bài nuối tiếc/ Mười năm nữa mây trên núi cao sẽ còn bay về/ Xin nở đóa hoa hoài niệm/ Và mười năm tôi dưới đường heo hút/ Tóc trắng chờ mong/ Mà những cánh chim đen không thôi lượn quanh mùa bão tố. (Những cánh chim mùa bão tố).

Mong đợi một ngày trở về, giã từ những chuyến phiêu linh không định hướng, nhưng thời cuộc lại bắt buộc nhà thơ giang hồ một lần nữa với con đò và mái chèo lang thang một vùng sông rạch miền Nam.

Gió bụi giang hồ

Từ Hoài Tấn xa gia đình từ nhỏ, gia đình ông cũng rời quê hương từ sớm, lúc đi tản cư, lúc tìm đường lập nghiệp. Thời chiến, ông đã đặt chân đến Nam Bộ nhưng âm sắc miền này chưa đậm trong thơ ông. Phải đến ngày hòa bình, số phận đun đẩy ông tìm kế sinh nhai suốt 15 năm ở miền Tây. Trong “Khúc dạo đầu” tập thơ Bản tình ca của gió bụi (2018), Từ Hoài Tấn bộc bạch: “Đầu tiên tập thơ này được đặt tên Nhật ký của bể dâu, ghi dấu những năm giang hồ vùng bưng biền sông nước của tỉnh Long An. Từ những đồng bưng mênh mông Đồng Tháp Mười vùng Đức Huệ - Mộc Hóa đến sông nước hai con sông Vàm Cỏ Đông - Vàm Cỏ Tây với những cánh đồng trồng thơm và tràm bông vàng bên những con kinh xáng múc ở các khu kinh tế mới Củ Chi, tôi đã phiêu dạt nhiều năm với chiếc ghe bầu hai tấn rưỡi.

Tất bật với cuộc mưu sinh, thời gian này chắc Từ Hoài Tấn viết không nhiều, được in lại càng ít; nhưng 15 năm gió bụi đó còn ám ảnh những câu thơ ông qua hình ảnh rượu nhòa trong nước mắt một người đàn ông sầu cố xứ: Ai hay lữ khách chiều tê tái/ Nhỏ giọt lệ hoài rượu cố hương/ Nhớ con sông cũ chiều xa ngái/ Đêm dài mưa ngập cả mùa đông. (Chiều cuối năm đứng bên bờ sông Vàm Cỏ).

Về với sông nước miền Tây là một cách nhà thơ giã từ khung trời quá vãng, chia tay những năm ảo mộng, tìm cách làm khác mình theo cái khác trong cuộc xoay vần của thời đại: tìm ra sông lớn băng qua rạch gần/ chiếc xuồng trôi cùng nỗi tự do/ thênh thang vùng sông nước/ tôi vừa ra khỏi cuộc xoay vần/ tìm niềm cô đơn vui cùng lau lách/ tôi sống xa cách những ngày tháng vết hằn đau quá vãng/ thời tuổi trẻ sương mù/ cùng em bơi trong bể cạn/ tôi sống đùa vui sông nước miền Tây… (Sông nước miền Tây).

Trong hai tập Mấy khúc đoạn giang hồ (2016) và Bản tình ca của gió bụi nói trên, có nhiều bài thơ viết vào chiều cuối năm, ngày giáp Tết, đêm ba mươi với giọng điệu u hoài. Nhưng thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa từ ngoại cảnh vào tâm cảnh của một người tha phương cam chịu tìm nơi nương náu giữa cõi đời phiền nhiễu: Xứ sở cuộc đời tôi/ Hoa tràm vàng nội cỏ/ Bông bàng phấn bụi bay/ Không có núi và đồi/ Không có rừng và biển/ Nhưng có em và con/ Có cha già em nhỏ/ Hương và mật ngàn năm/ Sớm và chiều lan tỏa/ Nhiều năm qua dịu dàng/ Thả cánh chim gió lộng/ Rộng đường bay tháng năm/ Nhiều năm qua như thế/ Cơn gió mát bên lòng. (Những ngày sống ở Bình Thành).

Có thể nói những ngày gian nan làm lưu dân bên bờ sông Vàm Cỏ đã thêm sức cho Từ Hoài Tấn trụ lại với cuộc đời và thêm sức cho thơ Từ Hoài Tấn đến với mọi người.

Sài Gòn gọi về

Thật ra, từ sâu kín, Từ Hoài Tấn vẫn mang hồn thơ thị dân. Khung cảnh thường gặp trong thơ ông là những chuyến xe, những quán cà phê, những cuộc tụ hội bạn bè phố xá. Thời chiến, bảy năm ông lui tới Sài Gòn: Nơi tôi sống, căn gác cao nhìn ra ngoại ô/ Những ánh đèn vàng của đêm hiu quạnh/ Ở bên kia ngôi nhà thờ/ Gác chuông không bao giờ rung tiếng/ Ngoài tiếng rít trên đường ray vào lúc hoàng hôn/ Chuyến xe lửa cuối cùng của một ngày đã hết. (Hẻm 332 Phú Nhuận).

Sau những năm trôi dạt miền Tây, ông tìm về thành phố này như chỗ an trú dài lâu. Sài Gòn có thể là chỗ nghỉ chân sau tháng ngày phiêu lãng, nhưng không hẳn là chỗ để người ta thảnh thơi, dù mỗi sáng vẫn ngồi nơi quán nhỏ góc phố đó, nhìn ra con kênh nước lững lờ trôi đó. Những suy nghĩ năm nào giờ trở lại, không phải để giết chết niềm hy vọng, mà để giúp bình tâm trước số phận: Cuộc sống chúng ta ví như ngôi nhà lớn/ Với nhiều cánh cửa/ Những khung cửa chật hẹp để chui vào/ Ta đã thu thân người bao nhiêu năm/ Vẫn lang thang ngoài hư vọng.// Thời gian không có lấy một giây/ Thấy đời sống có ý nghĩa/ Không có lấy một chỗ/ Để gối đầu tạm nghỉ/ Ta vẫn lang thang ngoài trái đất. (Khúc hoài đêm ba mươi tết).

Sài Gòn dù đổi mới bao nhiêu cũng chỉ nuôi dưỡng những niềm vui thoáng chốc mà không phục sinh được tình yêu và ước vọng tuổi trẻ: có một tấm lòng ước vọng trinh nguyên/ như tuổi xanh như chồi biếc/ tôi sẽ không dậy lớn với thời gian/ sẽ không thành lá xanh trên ngọn/ để cuối con đường vật vã biệt tăm (Sài Gòn, mùa xuân).

Thơ Từ Hoài Tấn viết ở Sài Gòn sau này có nhiều chất nghĩ hòa trong chất cảm. Nghĩ trong âm thầm đêm sâu. Nghĩ giữa sáng mai trên vỉa hè lát đá. Nghĩ trong cơn mưa chiều tháng sáu. Nghĩ khi đạp xe ra ngoại ô. Dưới áp lực của tuổi đời và thời cuộc, đến một lúc nào đó người ta chỉ biết nghĩ gì thay cho làm gì. Và cái nghĩ của nhà thơ là cái nghĩ trong ngày thường giữa một “khí hậu không bình thường”, đôi khi tự trào như một người “bám víu vào những giấc mơ cuối mùa huyễn hoặc”.

Nhưng lẽ nào đã vượt qua ngần ấy biến động của hoàn cảnh để có thể bình thản trước bước đi của thời gian, thơ đã không mang trong sâu thẳm một niềm can đảm?

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 375/05-2020, phiên bản trực tuyến ngày 16.6.2020.

-----

(*) Từ Hoài Tấn sinh ở Huế, hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh, sáng tác từ 1964. Tác phẩm đã xuất bản: Hành tinh phiêu lạc (Nxb. Thuận Hóa, 2003); Đi, đứng và chạy… với thời gian (Nxb. Hội Nhà văn, 2012); Phục hưng tôi và em (Nxb. Hội Nhà văn, 2013); Đạp xe ra ngoại ô (Nxb. Hội Nhà văn, 2018); Thơ Từ Hoài Tấn (Nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, 2020), v.v.

 

 

     Những ngày này đồng bằng sông Cửu Long vừa cùng cả nước căng mình chống dịch Covid-19, vừa gian nan đối mặt với nạn hạn hán, nhiễm mặn làm đảo lộn cuộc sống của cư dân. Virus corona chắc có lúc cũng phải dừng, còn biến đổi khí hậu thì sẽ lâu dài khi nước biển ngày càng dâng cao, những con đập ở thượng nguồn sông Mekong vẫn tiếp tục làm cạn nguồn và đảo chiều dòng chảy.

20200331 2

      Nhớ đồng bằng, tôi tìm đọc lại thơ viết về miền Tây thuở còn bình yên của Trần Hữu Dũng, một người con của sông Tiền: Sông Tiền vừa chảy vừa gọi/ Tôi mê mải chạy vừa khóc vừa cười/ Chẳng biết làm sao phát sáng giấc mơ quê nhà/ Vô tình những cánh chim câu bay lạc/ Vô tình câu hò sông nước lay lắt bờ bụi tăm tối/ Nhắc nhớ bao điều con mắt phía xa xăm/ Và những cơn mưa trôi đất trôi đồng. Người sông Tiền bây giờ đi xa nơi nào cũng muốn gắn kết với quê hương trong một chuyến trở về, dù chỉ là trong tâm thức: Chỉ muốn làm giọt nắng, hạt mưa, bụi đất/ Hay bọt nước nhỏ nhoi/ Chạy giỡn tung tăng, chảy triền miên/ Luân chuyển trong mạch huyết đồng bằng. (Giăng mắc giấc mơ đồng thiếp Mỹ Tho).

      Trần Hữu Dũng gọi đó là “tâm thức đồng bằng”, một tâm thức không dễ xác định, hình thành từ sự chưng cất của thiên nhiên, tính cách con người, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, âm điệu câu hò, bài Dạ cổ hoài lang...: Nhiều đêm giấc ngủ bềnh bồng tôi nghe/ nước réo sôi cuốn trôi mây trời/ ẩn trong hồn tiếng chim kêu khắc khoải/ câu hò sông nước mênh mang bờ bụi/ giăng giăng lũ đom đóm soi đèn/ sấm rền mưa giông nhịp chuông chùa cứu rỗi. (Tâm thức đồng bằng).

      Hầu hết những bài thơ của Trần Hữu Dũng đều ngắn, những câu thơ phức cảm đan cài mà không làm chìm khuất ngôn từ mềm mại mang dáng vẻ dân ca: Tôi về nhẹ cánh chuồn chuồn/ Vô tình chạm phải mùi hương năm nào (Trở lại Mỹ Tho). Ở Cà Mau ơ thờ con nước đẩy/ ngọn đèn dầu chao đảo lung linh. (Ghi vội ở đầm Thị Tường); Nhạc tài tử - năm cung bướm lượn/ Khúc thương hồ - xuôi ngược bến đời (Chữ đàn). Tuy tác giả là người có ý thức hiện đại hóa ngôn ngữ thơ, nhưng người đọc đại chúng vẫn dễ cảm và nhớ những câu thơ dung dị mà sâu nặng nghĩa tình hơn cả.

     Bài thơ đầu tiên của Trần Hữu Dũng viết về miền Tây mà tôi được đọc gần 30 năm trước, đến bây giờ vẫn là bài thơ của ông tôi thích nhất, là Người chăn dắt bầu trời. Người len trâu và người chăn vịt rong là hai hình ảnh đẹp in trên nền trời châu thổ. Dưới ngòi bút tác giả, người chăn vịt rong cũng là người nghệ sĩ của đồng đất: Thanh thản người chăn vịt rong/ Chăn dắt những dòng sông, bờ bãi/ Chăn dắt những ngày tháng long đong, tả tơi/ Đùa nắng rát da/ Nhảy múa với bóng mình cô tịch/ Người thuộc những bài thơ hoang sơ ít ai còn nhớ/ Am hiểu những đợt thủy triều, tiếng ca lẻ loi chim, dế/ Mùi bùn non, thối rữa lá mục/ Hương hoa, mật ong, vị chát trái non. Người chăn vịt sống chan hòa với đất trời, cùng thiên nhiên cất lên “khúc hòa âm điền dã không lời”: Lang thang người chăn vịt rong/ Dắt lưng xị đế, vài con khô làm mồi/ Ngủ ổ rơm vương thơm lúa chín/ Bạn cỏ cây, chim cá bời bời. (Người chăn dắt bầu trời).

      Là kỹ sư nông nghiệp, một chặng đời trẻ tuổi của Trần Hữu Dũng đổ bóng xuống những con kênh và cánh đồng miền Tây heo hút. Trải theo đường thơ ông, cảnh quan vùng châu thổ cũng đổi thay, những cây cầu dây văng hiện lên, những chiếc phà lui vào ụ sắt, đời người trôi đi nhanh hơn, chỉ còn tình bạn tình yêu với gặp gỡ và chia xa còn lưu lại trong tâm tưởng: Bìm bịp hụt hơi kêu nước lớn/ Sông dài chiều lạnh vắng đò ngang/ Gặp bạn lâu ngày buồn thắt ruột/ Xuống câu xề tâm sự rưng rưng/ Phố thị chồn chân con ngựa mỏi/ Đêm đêm hú vọng bóng trăng suông. (Gặp bạn ở bến phà Mỹ Thuận). Những bóng người đã mất hút, để lại những món nợ tình không ai trả, hay chỉ trả bằng nước mắt: Ăn Tết miệt vườn/ Xênh xang nhịp phách/ Thương người mắc nợ/ Bỏ xứ đi luôn/ Có đêm nằm mớ/ Nước mắt ướt tuôn. (Ăn Tết miệt vườn).

     Người bây giờ ở đâu, Daegu hay Đài Loan? Người còn xa xôi trông ngóng, hay đã ôm con thơ trở về, chiều hôm qua bước xuống sân bay và nay trong trại cách ly coronavirus? Rồi mai này người cũng sẽ rời xa đồng bằng nắng gió khi xứ lạ bình yên trở lại. Làm sao em phải xa quê lâu quá/ Núi vọng âm rền những ngày mưa/ Tôi nằm trên võng ru chiều/ Gió cứa những lát dao vô tình/ Quay mặt về phía nào cũng rát/ Phải chi nắng ấm em về sưởi tóc. (Chuồn chuồn kim).

     Nay tôi ngồi chép lại những dòng thơ gửi về miền châu thổ thì cũng chỉ như gửi vài gáo nước ngọt hiếm hoi làm mát cổ giữa mùa hè bỏng cháy này.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Nguồn: Báo Người Lao Động ngày 22/3/2020.

TTO - Khán phòng của chương trình Cà phê thứ Bảy vào chiều 20-6 chật kín khiến người hâm mộ Truyện Kiều của Nguyễn Du phải đứng đầy bên ngoài hành lang để nghe buổi nói chuyện của thầy giáo Nhật Chiêu và TS Bùi Trân Phượng. 

Một góc khán phòng buổi trò chuyện về Kiều chật kín người nghe - Ảnh: L.ĐIỀN

Giá trị của Truyện Kiều kết tinh thành một phần của đời sống người dân Việt kể từ khi 3.254 câu lục bát được tác giả trình làng. 

Trong âm hưởng của dịp kỷ niệm 200 năm ngày thi hào Nguyễn Du tạ thế, một buổi trò chuyện về Kiều thu hút đông công chúng trẻ đến như vậy đã khiến cô Bùi Trân Phượng phải thốt lên: "Như vậy là tôi yên tâm, vì người đồng điệu yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn còn nhiều đến như vậy".

Ba cuộc rượu khác nhau của ba người phụ nữ

Nghệ thuật trước hết là phải đẹp. Và hai diễn giả trò chuyện về Kiều hôm nay đã chọn cách tiếp cận từ cái đẹp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, được chính thi hào dùng chữ là "cái hồng nhan". 

Hai diễn giả tập trung vào ba trường hợp trong Truyện Kiều để nói về "cái hồng nhan", là Thúy Kiều, Thúy Vân và Hoạn Thư. 

Phát hiện mới của ông Nhật Chiêu là có một thứ gắn kết ba nhân vật này lại, không chỉ thế còn làm cho cả ba nhân vật bộc lộ mình ra, "phơi ruột phơi gan" để người đọc qua đó có thể hiểu được ba thân phận người phụ nữ, đó là rượu. 

"Cả ba nhân vật nữ trên đều bộc lộ chân tướng khi gặp rượu, cả tâm hồn, dục vọng. Suy nghĩ của họ cũng đều lộ ra khi ba người này uống rượu", ông Nhật Chiêu giới thiệu.

Và quả thật, Nguyễn Du đã chuẩn bị cho các trường hợp rượu của Thúy Kiều, Thúy Vân và Hoạn Thư đều khác nhau và đều thật độc đáo. 

Thúy Kiều uống rượu với Kim Trọng ở đầu Truyện Kiều được Nguyễn Du mô tả đầy hứng khởi ở hai chữ "tàng tàng" trong câu "Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng". 

Thúy Vân lộ tâm can khi cuối truyện trong khung cảnh đoàn viên, tác giả dùng lại hai chữ "tàng tàng" của bữa rượu Thúy Kiều mười lăm năm trước nhưng nay ở một không gian khác, một trường nghĩa khác: Thúy Vân muốn nhắc lại một nỗi éo le chẳng những của đời mình đã qua mà còn của cả hai chị em đang gặp phải trước một chàng Kim Trọng bây giờ. 

Và cũng vì rượu, thái độ Thúy Vân mới bộc lộ qua ngữ điệu của câu:

Cũng là phận cải duyên kim

Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao

Còn rượu của Hoạn Thư chính là bữa uống cùng Thúc Sinh có cả Thúy Kiều góp mặt trong thân phận người phục rượu. Nguyễn Du lại một lần nữa tài tình khi dùng chữ "Vợ chồng chén tạc chén thù", cuộc rượu vợ chồng Thúc - Hoan sao nghe xã giao quá, cái tình chồng vợ kiểu này tự nó cũng nói lên phần nào diễn biến có tính nhân quả của mối (ngoại) tình Thúc Sinh - Thúy Kiều.

Tính cách của người phụ nữ Việt trong cốt cách Thúy Kiều

TS Bùi Trân Phượng lại tâm đắc ở tính cách của người phụ nữ Việt trong cốt cách Thúy Kiều. 

Mặc dù không gian truyện là đời sống phong kiến, nhưng Thúy Kiều hoàn toàn không có ý thức rằng mình là phận liễu bồ cần núp bóng tùng quân. Trong khi nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân lấy lý do rằng Kiều là phận gái vốn xem là ngoại tộc, mai sau không gả chỗ này cũng sẽ về chỗ khác thôi, thì Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều phát biểu một câu chí tình: 

Thà rằng liều một thân con

Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây

Thái độ hi sinh cho gia đình, chủ động bán mình cứu cha là sự đánh đổi vì chữ hiếu, vì thương cha và hiểu được vị trí của người cha cần thiết như thế nào cho mái ấm cả nhà lúc bấy giờ. 

"Đây cũng chính là quan niệm "ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng" trong gia đình người Việt: người chị cả thường nhận phần hi sinh, chịu thiệt cho các thành viên khác" - cô Bùi Trân Phượng nêu ra.

20200622

TS Bùi Trân Phượng (trái) chia sẻ những tâm đắc về Truyện Kiều - Ảnh: L. ĐIỀN

"Hơn nữa, trong Truyện Kiều, Thúy Kiều có ba mối tình và đều là ba mối tình đẹp, không hề có mô thức chân dài - đại gia như thường thấy, mà cả ba mối tình đều xuất phát từ sự kính phục của người đàn ông, kính phục tài, sắc, cách cư xử của Kiều mà đến với nàng. Đây chính là mẫu hình truyền thống của phụ nữ Việt" - TS Bùi Trân Phượng chia sẻ.

Cũng theo bà Phượng, chính đặc tính của phụ nữ Việt là gắn với lao động, không ăn bám, phụ nữ Việt không học theo cách bó chân như người Trung Quốc mà quan niệm "tay làm hàm nhai", như vậy thì từ nội tại đã có tinh thần tự do, dẫn đến việc xem chuyện quan hệ nam nữ là bình thường, là hạnh phúc, là nhân tính. 

Cái này nằm sâu trong tâm thức người dân Việt, đủ để lý giải hành động "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" của Thúy Kiều, hay nhiều hoàn cảnh yêu đương của những người phụ nữ trong Truyện Kiều tựu trung thành "cái hồng nhan" rất Việt Nam.

Đóng góp lớn của Truyện Kiều là ngôn ngữ

Bà Phượng chia sẻ khởi đi từ những ngày còn thơ với người thầy đầu tiên dạy Kiều cho mình chính là bà nội, Truyện Kiều đã khiến bà dần nhận ra đây là một kiệt tác "bởi nó cắt nghĩa cho thấy người Việt Nam là như thế nào".

Trong khi đó, ông Nhật Chiêu nhấn mạnh rằng đóng góp lớn của Truyện Kiều của Nguyễn Du là ngôn ngữ. 

"Tiếng Việt đến Nguyễn Du bỗng phi thường hẳn lên, có ai vào thời đó dùng chữ "nỗi nàng" như cụ Nguyễn, và có ai dùng được chữ "âu" tài tình như trong câu Càng âu duyên mới càng dào tình xưa như Nguyễn Du khi viết về thái độ Kim Trọng khi ăn ở cùng Thúy Vân.

"Âu, vừa mang nghĩa âu yếm, vừa hàm nghĩa âu lo, vừa có nghĩa âu là, cũng như mấy chữ đầu tiên của Truyện Kiều "trăm năm" mang nghĩa tình duyên chứ đâu chỉ có nghĩa là đời người... Chính điều này khiến cho câu chữ của Nguyễn Du thường chuyển tải nhiều trường nghĩa.

"Đọc Nguyễn Du ráng mà lặn vào ngôn ngữ của ông. Nguyễn Du kéo - căng - đào - khơi tiếng Việt ra, đi vào sơn cùng thủy tận của cõi ngôn ngữ. Mạch ngầm trong ngôn ngữ Nguyễn Du, ngoài Nguyễn Du không có người thứ hai. - Nhà giáo Nhật Chiêu

Nâng mình lên để hiểu Nguyễn Du

Đóng góp thú vị của ông Nhật Chiêu trong lần trình bày về Kiều lần này là những phát hiện mới. Trước hết là mô thức phản hướng, trong trường hợp cái phòng của Thúy Vân vui duyên với Kim Trọng được gọi là phòng xuân - chữ xuân mang nghĩa tình ái, thì phòng của Thúy Kiều được gọi là phòng thu (Từ nay khép cửa phòng thu/ Không tu thì cũng như tu mới là), và phòng thu chính là phản hướng của phòng xuân.

Hoặc quan trọng hơn là phát hiện về dấu hiệu chơi chữ bằng cách nói lái trong Kiều. Ông Nhật Chiêu nêu trường hợp câu "Dải là hương lộn bình gương bóng lồng" với chữ "lộn" được dùng rất bất thường, bởi vị trí đó có thể chọn các chữ khác nhã hơn, hay hơn, như "hương đượm", "hương đậm", "hương thắm", "hương ngậm"... 

Vậy tại sao Nguyễn Du lại chọn chữ "lộn" để thành một cấu trúc "là hương lộn" rất độc đáo siêu phàm như vậy?

Những phát hiện mới thú vị về Truyện Kiều - Ảnh 4.

Buổi trò chuyện nhận được nhiều ý kiến từ các bạn trẻ tham dự - Ảnh: L. ĐIỀN

Thao tác ấy, ông Nhật Chiêu nhận xét rằng: "Tiếng Việt như bị Nguyễn Du kéo căng ra, bộc lộ hết chiều kích, và Nguyễn Du đã đi đến chỗ sơn cùng thủy tận của tiếng Việt. Đây cũng chính là lý do không có một bản dịch sang tiếng nước ngoài nào diễn đạt hết được ý nghĩa Truyện Kiều".

Và Nhật Chiêu hình dung: Nguyễn Du là như vậy, ông viết Truyện Kiều để người đời sau mãi bàn bạc hoài không dứt. 

"Và nếu cụ Nguyễn đã tinh tế đến như vậy thì người đọc như mình cũng phải ráng tinh tế lên một chút để hiểu Nguyễn Du chứ" - ông Nhật Chiêu chia sẻ.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.6.2020.

Đứng trước cuốn sách Học thuyết Freud của S.Zweig, được Tô Kiều Phương, tức Kiều Thanh Quế, dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 1943, có nhiều vấn đề được đặt ra. Câu hỏi lớn nhất là: Vì sao Kiều Thanh Quế dịch Học thuyết Freud?

20200325 1

Các nhà khoa học, nhà văn tìm hiểu tác phẩm của nhà văn, chiến sĩ Kiều Thanh Quế được trưng bày tại hội thảo “Thân thế, sự nghiệp nhà văn, chiến sĩ Kiều Thanh Quế” do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức, tháng 12/2019.

Cùng với đó, từ công trình do Kiều Thanh Quế biên dịch, chúng ta sẽ hiểu hơn về nhãn quan học thuật, tư tưởng của một cái tên nổi bật trong đời sống văn chương học thuật đầu thế kỷ XX nhưng do những xáo trộn của thời cuộc đã đột ngột “biến mất” cả về nhân thân và sự nghiệp.

Tại sao phải trở lại với Kiều Thanh Quế?

Kiều Thanh Quế (bút danh Mộc Khuê, Tô Kiều Phương, Quế Lang, Nguyễn Văn Hai) sinh năm 1914 tại Bà Rịa – Vũng Tàu, mất 1947 (theo tư liệu gia đình xác nhận). Ông tham gia làm báo, nghiên cứu, phê bình văn học, văn hóa, dịch thuật, là một “Nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ” (Hoài Anh).


Cuộc đời và sự nghiệp Kiều Thanh Quế đến giờ đã minh chứng cho những nỗ lực dấn thân của một trí thức trước các thách thức và vẫy gọi của thời đại. Từng cộng tác với nhiều tờ báo của Việt Nam cả trong Nam ngoài Bắc khoảng thập niên 20, 30, 40 của thế kỷ XX (Mai, Tin điện Sài Gòn, Văn Lang tuần báo, Nam Kỳ tuần báo, Đông Dương tuần báo, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tri tân,…), Kiều Thanh Quế xác lập vai trò và tư cách của mình như một nhà bách khoa khi hiện diện ở nhiều lĩnh vực: nghiên cứu, phê bình, dịch thuật văn hóa, văn học.


Tuy nhiên, sự “biến mất” của ông cả về nhân thân và sự nghiệp đã khiến cho việc tìm hiểu trở lại Kiều Thanh Quế trở thành một đòi hỏi thích đáng, nhằm định vị một cách sáng rõ hơn vị thế của nhà trí thức này trong lịch sử phát triển của văn chương, học thuật, văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Về sự nghiệp, hiện nay có thể nhìn nhận Kiều Thanh Quế là một học giả lớn của văn học, văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Các tác phẩm chính của ông bao gồm: Phê bình văn học (1942), Ba mươi năm văn học (1942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Thi hào Tagore (1943, ký Nguyễn Văn Hai), Hai mươi tuổi (tiểu thuyết - 1940), Đứa con của tội ác (tập truyện, 1941), Đàn bà và nhà văn (biên dịch, 1943), Học thuyết Freud (biên dịch, 1943 – ký Tô Kiều Phương),… Ngoài ra, ông còn hai tập Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa tả thiệt xã hộiCuộc vận động cứu nước trong “Việt Nam vong quốc sử” hiện chưa tìm thấy. Cộng tác với nhiều báo, trải rộng các vấn đề nghiên cứu trên cả phê bình, nghiên cứu, dịch thuật, biên khảo, tranh luận…


Là một trí thức dấn thân, Kiều Thanh Quế vừa say sưa làm khoa học vừa tham gia vào đời sống chính trị xã hội một cách tích cực. Ông gắn bó với lực lượng vũ trang cách mạng và trở thành người của Quốc vệ đội. Tuy nhiên, do đòn phản gián của Pháp, ông cùng một số đồng chí trong Ty Công an và Quốc vệ đội Bà Rịa (Trưởng ty Công an Huỳnh Công Vinh, Chỉ huy trưởng Đoàn Hồng Tâm) bị bắt giam (và có lẽ đã bị xử tử vào ngày 7/4/1947).


Sau kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự việc đã được lật giở lại, các nhân vật trên dần được minh oan và được công nhận là cán bộ cách mạng (Theo Lịch sử Công an Nhân dân Đồng Nai 1945 – 1954, tập 1, NXB Đồng Nai, 1992, tr. 66-70). Gần đây nhất, tháng 12/2019, Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu đã tổ chức Hội thảo “Thân thế và sự nghiệp văn học của nhà văn, chiến sĩ Kiều Thanh Quế” với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước. Các tham luận - khảo cứu khoa học tại hội thảo đã một lần nữa tái lập vị thế của Kiều Thanh Quế trong di sản học thuật cũng như tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.

Học thuyết Freud của S. Zweig ± phương thuốc cho Việt Nam

Học thuyết Freud là công trình biên khảo của S.Zweig. Cả hai đều là người Áo và sống cùng thời với nhau - Freud (1856-1939), S.Zweig (1881-1942). Có lẽ, chính vì những điểm chung thuộc về thời đại ấy, S.Zweig đã dành thời gian khảo cứu Học thuyết Freud bên cạnh việc sáng tác văn chương. Cuốn sách này được Kiều Thanh Quế (ký tên là Tô Kiều Phương) dịch, nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1943, gồm 158 trang cả bìa. Ngoài Lời tựa có lẽ của Tô Kiều Phương, Lời nói đầu của S.Zweig và Kết luận, sách được chia làm 8 chương: Chương 1: Một tài năng xuất hiện; Chương 2: Bức chân dung; Chương 3: Bước đầu; Chương 4: Cõi vô thức; Chương 5: Chiêm bao; Chương 6: Kỹ thuật của Phân tâm học; Chương 7: Quan niệm tình dục; Chương 8: Buổi tàn niên. Có thể nói, bản dịch Học thuyết Freud của Kiều Thanh Quế là tài liệu phổ biến S. Freud sớm ở Việt Nam - cùng với công trình Hồ Xuân Hương – Tác phẩm, thân thế, văn tài của Nguyễn Văn Hanh, Kinh Thi Việt Nam của Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, một số bài viết tranh luận “Dâm hay không dâm” (1936-1939) có vận dụng hoặc nhắc đến Freud.

Căn cứ trên niên đại của tác giả, tác phẩm, dịch phẩm và năm xuất bản tại Việt Nam, có thể hình dung rằng, Kiều Thanh Quế (1914-1947) đã sống cùng thời đại với S. Freud, S. Zweig và Học thuyết Freud là một sản phẩm cho thấy tính đồng đại của Việt Nam và châu Âu.

Trong Học thuyết Freud, S.Zweig đã chỉ ra, công lao “phá đổ rồi kiến thiết của học thuyết Freud” khi nhìn lại nền luân lý phong kiến và các học thuyết trước Freud. Nền luân lý ấy bằng mọi giá chế ngự bản năng ở con người, giam hãm tâm hồn con người trong các thành trì của đạo đức, luân lý, giáo lý, tri thức… Tình dục trở thành một thứ bị xa lánh, bị ghê tởm, cấm kỵ trong những cộng đồng muốn duy trì luân lý cứng nhắc.

Kiều Thanh Quế và những trí thức thế hệ ông nhận ra sự giam hãm, kìm kẹp của luân lý Khổng Giáo, phong tục Á Đông, lạc hậu và lỗi thời. Đặc biệt, ông nhạy cảm với sự nguy hại có thể nảy nòi từ những ràng buộc, che giấu đam mê ái tình, bản năng tự ngã. Một khi, những đòi hỏi dục tình, những ham muốn vô thức không được thỏa mãn (một cách đúng đắn, lương thiện). Sự giằng co giữa tư tưởng bảo thủ, phong kiến, luân lý lạc hậu và khả năng chữa trị cho xã hội từ học thuyết Freud như một hoạt lực không ngừng giao tranh trong tinh thần Kiều Thanh Quế. Hẳn là như vậy khi ông vừa viết phê bình, báo chí, dịch thuật, khảo cứu… Một sự can dự khá toàn diện vào đời sống văn chương, học thuật, tư tưởng Việt Nam của Kiều Thanh Quế nói lên tầm vóc cũng như ý nguyện của ông.




 Lý thuyết Freud có thể giúp thảo luận những vấn đề mà trước đó ít được đề cập cởi mở trong văn hóa Việt Nam như con người cá nhân, ái tình. Tranh vẽ Hồ Xuân Hương. 

Sự phù hợp một cách đầy hân hoan của tư tưởng Freud với sự trỗi dậy của con người cá nhân, bản ngã trong môi trường văn hóa, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng có thể là một động lực khiến ông hăng hái dịch và giới thiệu Freud.


Một điều rất lý thú là, trước khi Freud được dịch, S.Zweig cũng được dịch khá sôi nổi ở Việt Nam. Cả Freud và S.Zweig đều là những tên tuổi rất được thời đại của Kiều Thanh Quế hâm mộ... Cùng thời điểm đó, các tiểu thuyết của Trương Tửu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Vỹ, Thơ mới và sự trỗi dậy của con người cá nhân – cá thể, cái tôi vô thức, bản ngã, là một sự vẫy gọi, mời chào Kiều Thanh Quế. Ông phê bình những tiểu thuyết ấy, ủng hộ giáo dục tình dục và sự phổ biến tri thức tình dục cho mọi người. Ông dịch S.Zweig – qua đó truyền bá Freud cũng là bày tỏ lòng háo hức được tham dự vào những dòng tư tưởng, ý thức, tri thức của thời đại mình.


Sớm hơn, từ năm 1937, công trình nghiên cứu – phê bình ứng dụng phân tâm học của Nguyễn Văn Hanh vào trường hợp Hồ Xuân Hương qua công trình Hồ Xuân Hương – Tác phẩm, thân thế, văn tài dường như càng cổ vũ Kiều Thanh Quế. Thế nên, có lẽ trong một thời gian dài, trước 1943, ông đã để tâm vào việc nghiên cứu Freud và quyết định dịch khảo cứu của S. Zweig.


Năm 1942, trong bài “Phê bình triết học Bergson của Lê Chí Thiệp” (Tri Tân, số 52, tháng 6-1942), Kiều Thanh Quế đã muốn đối chiếu quan niệm về chiêm bao của Bergson với quan niệm chiêm bao của Freud. Ở một thời đại mà con người nhận ra tính chất cứng nhắc, “phi nhân” của lý trí, tri thức, giáo lý, luân lý phong kiến…, sự xuất hiện của thuyết trực giác (Bergson), vô thức – tính dục – bản năng (Freud), thuyết tương đối (A. Einstein) tại châu Âu, lại không quá xa lạ với Việt Nam, quả thực như một thứ ánh sáng, một sự vẫy gọi không dứt với các trí thức thuộc địa đầy khao khát. Kiều Thanh Quế thuộc về phía những trí thức có tinh thần canh tân, cải cách ấy.


Cuộc tranh luận Dâm hay không dâm kéo dài từ 1936 – 1939 hẳn cũng đã tác động lớn đến tinh thần, tư tưởng và ý chí của Kiều Thanh Quế. Dâm hay không dâm, “dâm lành mạnh” hay “dâm uế” có nguồn gốc từ chính nhận thức và hành vi, sâu hơn nữa, từ trong vô thức của con người bản năng. Bởi vậy, dịch S. Zweig, truyền bá Freud có lẽ là một cách để Kiều Thanh Quế cảnh báo cho cộng đồng về việc nên quan tâm đến vấn đề tình dục như thế nào. Vô thức và xung năng tình dục (libido) là phát kiến kinh thiên động địa của Freud, mở ra hướng giải quyết các bế tắc mà tư tưởng, luân lý cũ không dám đối diện, mặc nhiên phủ nhận hoặc cố tình lảng tránh. Trật tự và luân lý mới, nhìn từ phát kiến của Freud, cần phải được tái tạo trên cơ sở hiểu rõ tâm hồn con người cùng các cơ chế hoạt động nội quan của nó. Có thể nói, thời đại xuất hiện Học thuyết Freud có nhiều điểm tương đồng với xã hội Việt Nam. Những tương đồng về các hiện tượng, biểu hiện trong xã hội đã khiến Freud dốc sức vào việc truy tìm một phương thức chữa bệnh mới – Phân tâm học. Điều đó cũng đem đến cho Kiều Thanh Quế một sự liên hệ, và chắc hẳn, ông đã nhìn ra tương lai của Freud tại Việt Nam. 

Nguyễn Thanh Tâm

Tài liệu tham khảo

1.Kiều Thanh Quế, Cuộc tiến hóa Văn học Việt Nam, Nguyễn Hữu Sơn, Phan Mạnh Hùng biên soạn, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2009.

2.R.M. Albreres, Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX (1900 - 1959), Vũ Đình Lưu dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2017.

3.S.Zweig, Học thuyết Freud, Tô Kiều Phương dịch, NXB Tân Việt, Hà Nội, 1943.

 

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 22.03.2020.

Dịch giả, nhà thơ Nhật Chiêu bình "Truyện Kiều" - tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du - tại buổi nói chuyện chủ đề "Kiều và cái hồng nhan".

Chương trình nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của đại thi hào (1820-2020), diễn ra vào 14h ngày 20/6 tại Cà phê thứ bảy, TP HCM, có sự tham gia của Tiến sĩ Bùi Trân Phượng. Về cách gọi "cái hồng nhan", Nhật Chiêu lấy ý tưởng từ câu Kiều: "Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?".

Nhà thơ cho biết: "Không bao giờ nói hết được ý nghĩa và vẻ đẹp của Truyện Kiều. Điều ta có thể nhận thấy ngay trong kiệt tác của Nguyễn Du là cái đau đớn đọa đày ở đàn bà qua hình tượng nàng Kiều. Kiều là hình bóng đau khổ của người nữ, cái khổ mà Nguyễn Du gọi là 'cái hồng nhan' ".

20200619

Nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu là một trong những chuyên gia về "Truyện Kiều". Ảnh: Facebook.

Nhật Chiêu là một trong những chuyên gia về Truyện Kiều. Không chỉ tham gia giảng dạy ở các đại học về tác phẩm này và về đại thi hào Nguyễn Du, ông còn có nhiều bài phân tích, nghiên cứu về giá trị Truyện Kiều qua thời gian như: Nói lái trong Truyện Kiều, Triết lý Tarot và Truyện Kiều: Từ ngây thơ đến thế giới... Ông cũng sáng tác nhiều thi phẩm lấy cảm hứng từ tác phẩm của Nguyễn Du, được bạn đọc yêu thích, như: Trong cõi tình không, Tố Như là áng thơ bay... với lời thơ như:

"Về đây ta khóc với lòng
sông Lam khói tỏa núi Hồng mù mây
với người ta khóc hôm nay
chẳng mong ai khóc một ngày mai sau
hai trăm năm đã thế nào
những điều trông thấy mà đau hơn Kiều
tiếng đàn ai đã phiêu diêu
tiếng thơ ta vẫn còn chiêu liêu buồn
lòng người ra một cỗi nguồn
về đây mà vượt nhiễu nhương đời này
Tố Như là áng thơ bay
cõi người ta hát cho ngày phục sinh"

(Tố Như là áng thơ bay

Dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du, trong nước diễn ra một số chương trình, sự kiện như: khởi quay phim tài liệu Đại thi hào Nguyễn Du kinh phí 15 tỷ đồng, vở ballet truyện Kiều lần đầu được dựng của Nhà hát Giao hưởng Nhạc vũ kịch TP HCM (HBSO) - diễn tối 20/6 tại Nhà hát TP HCM, 14/8 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. 

Nguyễn Du, hiệu Tố Như (1765-1820) quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Ông sống vào cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn, là nhà thơ lớn được người Việt kính trọng gọi là "Đại thi hào dân tộc". Ông có ba tập tác phẩm tiếng Hán là Thanh Hiên thi tậpNam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát. Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) là tác phẩm truyện Nôm nổi tiếng nhất của ông. 

Ở Việt Nam, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.

Thoại Hà

Nguồn: VnExpress, ngày 19.06.2020.

20200319 HL

Ảnh: Ký họa về thi sĩ Hữu Loan - Nguồn ảnh: Báo Tuổi trẻ

Việc bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan được Công ty Vitek VTB mua bản quyền với giá 100 triệu đồng là một sự kiện nổi bật trong đời sống văn nghệ năm 2004. Có thể xem đây là bài thơ có số phận đặc biệt vào bậc nhất trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Từ chỗ bị phê phán, lãng quên, giờ nó được phục hồi, tôn vinh và trở lại với đời sống văn học bằng cửa chính. Bài thơ nay có “chủ” mới và đang được xác định lại văn bản chính xác của nó. Tuy nhiên, văn bản này cũng đã trải qua nhiều lần sửa đổi, thêm bớt của tác giả, lại được bồi đắp, điều chỉnh bởi các thế hệ bạn đọc từng được/ bị bài thơ hớp hồn; nhất là khi sự cảm thụ của nhiều người trong số họ nằm trong tầm chi phối của ca từ đã được cải biên qua các ca khúc phổ thơ của Phạm Duy, Dzũng Chinh, Anh Bằng...

Như nhiều hiện tượng văn học độc đáo khác, bài thơ Màu tím hoa sim cũng được cất riêng trong kỷ niệm và bộ nhớ của từng người yêu thơ. Và cái “tác phẩm” nằm trong bộ nhớ đó đôi khi có một độ chênh nhất định với văn bản do chính tay nhà thơ viết ra. Đó là điều kỳ lạ của sự tiếp nhận văn học, và dù có thể trái ý nhà thơ, nó vẫn đem lại hạnh phúc và niềm tự hào về đứa con tinh thần đang được nuôi dưỡng trong tâm thức của bạn đọc.

Là người yêu và thuộc Màu tím hoa sim từ hồi còn nhỏ, tôi cũng có cách cảm nhận của mình về bài thơ. Nhân dịp bài thơ được phổ biến với văn bản mới, tôi muốn nêu một vài suy nghĩ của mình, mong rằng sẽ không làm phật lòng tác giả và không dám – cũng như không có quyền – thay đổi gì văn bản đã ổn định của bài thơ.

Khổ thơ đầu tiên lưu trong trí nhớ tôi là:

Nàng có ba người anh đi bộ đội

những đứa em nàng

có em chưa biết nói

khi tóc nàng đang xanh.

Tôi nghĩ những đứa em nàng thì cụ thể, gần gũi và thân mật hơn những em nàng. Tóc xanh xanh thì miêu tả trạng thái, còn tóc đang xanh thì vừa miêu tả trạng thái, vừa miêu tả diễn biến của trạng thái. Vả chăng đang tương ứng với chưa ở câu trên và cụm từ tóc nàng xanh xanh để dành đến khổ thứ năm sẽ xuất hiện.

Câu cuối cùng của khổ thứ năm tôi vẫn thích đọc thật chậm rãi: không-được-trông-thấy-nhau-một-lần. Nếu đọc không được trông nhau một lần e câu thơ hơi bị hụt hẫng.

Khổ thơ tiếp theo, với tôi, là khổ thơ hay nhất trong toàn bài, tôi thuộc như sau:

Một chiều rừng mưa

ba người anh từ chiến trường Đông Bắc

được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

gió sớm thu về rờn rợn nước sông

đứa em nhỏ lớn lên

ngỡ ngàng trông ảnh chị

khi gió sớm thu về

cỏ vàng chân mộ chí.

Có bản ghi ba người anh trên chiến trường…, từ trên nghe hợp lô-gích hơn, nhưng lại không hay về âm điệu và cũng không nói lên sự xa xôi, cách trở, dẫn đến tình cảnh oái oăm được tin em gái mất trước tin em lấy chồng. Cũng vì coi trọng âm điệu mà tôi thích trông ảnh chị hơn là nhìn ảnh chị. Xin nói thêm là câu cuối khổ này còn có bản in là cỏ vàng quanh mộ chí.

Chỗ khó nghĩ nhất hiện nay trong văn bản bài thơ là đoạn thơ mới được phổ biến sau này, không rõ cụ thể từ khi nào, có lẽ là từ sau Đổi mới. Theo thiển ý, đoạn thơ này bộc lộ rõ hơn tình cảm tác giả và cũng hòa nhập vào cấu trúc chung của toàn bài, nhưng lại làm loãng đi chất tự sự và làm giảm độ nén của bài thơ. Một trong những cái hay làm nên chất thơ của bài này là tác giả khai thác tính chất lặp lại ở một hình dáng ngữ pháp hay ngữ âm, lặp lại nhưng mà cải biến và vận động, chứ không giữ nguyên vẹn, để thay đổi “khẩu vị” của người đọc. Nhưng nếu đẩy đến triệt để qua những định ngữ và điệp ngữ bộc lộ cảm xúc như da diết, tím tình trang lệ rớm, tím tình ơi lệ ứa, tôi ví vọng về đâu, tôi với vọng về đâu… thì bài thơ sẽ “phô” quá và tạo nên một giọng điệu thê thiết có thể vượt quá ngưỡng tiếp nhận của bạn đọc. Đặc biệt ở đây có hai câu thơ, thiển nghĩ, hơi lộ ý và cũng chưa được tinh tế lắm: Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa Ai hát vô tình hay ác ý với nhau.

Nhưng phải nói là thú vị khi qua đoạn thơ mới này, ta phát hiện mấy câu thơ hay (từ Ráng vàng ma… đến chiều hoang màu tím) làm ám ảnh cái không khí chiến tranh chỉ thoáng hiện ở những khổ thơ đầu. Thành ra, nếu được phép chọn lựa, thì tôi sẽ chỉ chọn mấy câu này để “hòa mạng” vào chung bài thơ và tạo thành khổ thơ cuối như sau:

Chiều hành quân

qua những đồi hoa sim

những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

ráng vàng ma

và sừng rúc điệu quân hành

vang vọng chập chờn

theo bóng những binh đoàn

biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím

nhìn áo rách vai

tôi hát trong màu hoa

“Áo anh sứt chỉ đường tà

vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…”.

Nghĩa là tôi vẫn muốn kết thúc bằng hai câu ca dao quen thuộc đã được tác giả đổi khác hai từ. Và bài thơ đọng lại với tiếng hát côi cút của người lính lẩn khuất trong hàng quân giữa chiều hoang thăm thẳm.  

Nhưng đó là cảm nhận chủ quan của một người đọc bị ràng buộc bởi kỷ niệm và tâm tình riêng, cả bởi thiên kiến thẩm mỹ nữa. Từ góc độ của người sáng tạo, chắc chắn nhà thơ có lý khi cung cấp cho các phương tiện truyền thông đại chúng văn bản như hiện nay. Vì vậy, xin nhà thơ Hữu Loan và Công ty Vitek VTB lượng thứ cho điều mạo muội của tôi, một người đọc quá sức yêu thích bài thơ này.

                                                      Tháng 12 năm 2004.

Huỳnh Như Phương

20200615

Trước Tết Canh Tý 2020 vừa rồi độ mươi, mười lăm ngày, Ông Thiệp nhắn xuống nhà chơi ở dưới Khương Hạ. Nhân thể vẽ tặng tôi bức chân dung ông có ý định làm từ lâu mà còn dang dở. Chưa thực hiện xong được. Cách đây mấy năm Thiệp đã đưa tôi sang Bát Tràng để vẽ thẳng lên đĩa mộc. Loay hoay cả một buổi chiều không thành. Vía tôi nặng quá. Ông đành phải thôi.

Chuyện hẹn vẽ lên đĩa chờ mãi đến Tết 2020 mà không thấy ông ấy gọi về dưới Khương. Sau Tết thì rộ lên Covid 19 tấn công loài người. Giãn cách xã hội. Người ta không thể đến được với nhau. Độ giữa tháng 5 mới hay nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lâm nạn.

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, Tôi về Khương Hạ thăm nhà văn. Ở trước cửa hiên nhà, gần pho tượng Phật mà nhiều lần đến đây tôi cứ nghĩ đó là hình bóng Con gái Thủy Thần với những đường nét trên khuôn mặt rõ ràng, đôi mày thanh tú, quả cảm. Người đã ám ảnh Thiệp cả một đời văn. Có một cái gì đấy kéo sững chân tôi đứng lại – Một ông già may ô quần đùi ngồi trên ghế nhựa; đầu tròn lưa thưa tóc ngắn. Từ trán lên đỉnh đầu khoảng bằng bàn tay lộ ra mảng màu xam xám nổi lên dăm bảy đốm lang đỏ mờ vuông vuông nhỏ như mặt quân súc sắc. Miệng hơi chéo thành một đường dưới đôi mắt chừng như mệt mỏi. Gò má bên trái thâm tím vì vừa bị ngã đêm qua. Tay và chân trái bị liệt đang được dần hồi phục. Thiệp đây rồi. Tôi nghẹn lại vì thương ông bạn già. Thiệp nói nhỏ với tôi: Nguyễn Huy Thiệp … xong rồi. Thì ra Thiệp bị tai biến mạch máu não từ ngày 4/3. Gia đình đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai. Chỉ đến 10/3 Bạch Mai lại bị phong tỏa vì ổ dịch Covid 19. Thiệp phải chuyển sang bệnh viện y học dân tộc phố Lương Thế Vinh. Bây giờ thì nằm nhà. Chữa bệnh ngoại trú. Nắng nôi thế này mà Thiệp lại tập đi từng bước nặng nề hơn đứa trẻ, phải có người dìu. Trong Dăng lưới bắt chim Thiệp viết: Con đường của nhà văn thật là dài…  bây giờ nó dài hơn thực sự. Điều kỳ lạ Thiệp còn trí nhớ tuyệt vời, tuy ngắt quãng nhưng nói liên tục, cùng với cái dái tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Thiệp gọi Bách, con trai đầu lòng lấy cuốn sách ở đầu giường ra. Đó là 1 quyển chuyên luận của Đại học Huế viết về Thiệp vừa gửi tặng ông. Hỏi mượn tôi cây bút viết, tay phải nhà văn run run… được mấy chữ ngắt quãng, hết cả trang bìa lót nguyên văn như sau: Thân quý… tặng lại… ông Nga. Đang ốm… đang tập đi. Nhưng ngay 26/5/2010. Ông đã tự ý lùi thời gian lại 10 năm.

Nghiệp chướng văn chương như vận vào cuộc đời của Thiệp. Xuất hiện đầu tiên vào hồi cuối những năm 1980, bằng chùm truyện ngắn dưới tên gọi chung: Những ngọn gió Hua Tát. Đó là phần thưởng của núi rừng Tây Bắc ban tặng sau 10 năm làm giáo học cho cán bộ vùng cao ở Hát Lót – Cò Nòi. Nơi có lần Thiệp bị một cô gái Thái lừa giữ hộ ngựa ở chợ Mường La. Ngay từ lúc ấy, văn chương Thiệp đã cất lên tiếng kêu ai oán và cay đắng của thân phận con người, cảnh báo những hiểm họa không lường được của thế giới nhân sinh. Trong bản nhỏ Hua Tát. Đó là chàng Khó quyết chí giết con hổ dữ để lấy Trái tim hổ chữa cho đôi chân bị liệt của cô Púa xinh đẹp. Khó thì tử nạn, còn Trái tim hổ thì có kẻ lấy cắp mất rồi. Đó là Con thú lớn nhất đời thợ săn lại không phải là thú mà là người vợ già của kẻ đi săn do bị chính người đó bắn nhầm… Đó là chàng Lủ bỏ bản Hua Tát đi tìm chìm nổi vận may trong cuộc đỏ đen. Kiếm được một tay nải đồng bạc hoa xòe. Khi về đến bản, chỉ thấy vôi bột trắng xóa rải khắp nơi, trên những khau cút nhà sàn đầy những quạ đen béo núc. Lủ bới mộ để tìm vợ vì vẫn nghe tiếng rên rỉ ở dưới đất vọng lên. Lủ kéo được vợ ra khỏi huyệt mộ thì cả hai vợ chồng đều tử nạn vì nạn dịch. Người ta lấp họ bằng vôi bột trắng và những đồng bạc trắng hoa xòe… Tôi kinh sợ với lối kể chuyện lãnh đạm của Thiệp ngay khi ông mới bước vào nghề văn. Ngày hôm nay khi đến thăm ông, tôi nhắc lại cái quan niệm sáng tác của Thiệp rằng văn học mà lẩn tránh nỗi đau của thân phận con người thì đâu phải là văn học nữa.  Trong lúc thăng hoa, ở tại thời điểm bệnh tình ác liệt như vậy, Thiệp vẫn còn tỉnh táo và rành rọt để biện minh. Thiệp nói: Phải từ nỗi đau để tìm được tiếng cười. Nguyễn Khải nghiêm chỉnh quá không cười được. Nguyễn Tuân cũng không cười. Chỉ Phụng, Vũ Trọng Phụng mới cười được mà thôi. Mới từ nỗi đau để tìm đến tiếng cười…

Nhưng Con gái Thủy Thần chỉ cho Thiệp xuất hiện như vậy. Dù có ý vị nhưng chưa gây được tiếng vang gì thực sự. Người có đôi lông mày thanh tú quả cảm đã cho Thiệp đợi đến Tướng về hưu, Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Mưa Nhã Nam, v.v.. thì tên tuổi Thiêp mới nổi như cồn. Thiệp đứng vào hàng ngũ của một trong những nhà văn có bản sắc nhờ sự đổi mới của đất nước. Con gái Thủy Thần đã mách Thiệp hãy cho các nhân vật anh hùng thử thách, đặt họ vào trong cuộc sống đời thường, buộc họ cư xử như những người bình thường và bao giờ Thiệp cũng như được sự dẫn dắt của người con gái có bộ mặt sắc nét kia tìm đến cái khía cạnh bi kịch và đau đớn cuả những thân phận người thường, bắt họ phải hành xác, vật vã. Thiếu tướng Thuấn. Quang Trung Nguyễn Huệ. Nguyễn Ánh. Quan Đề Thám đều được Nguyễn Huy Thiệp xử lý bằng bút pháp nghệ thuật mà có người cho là đạp đổ thần tượng. Nhất là ở thể loại truyện ngắn, Thiệp rất sành sỏi lối dẫn những câu chuyện động trời, động đất mà cứ dửng dưng như không, lại thường pha chút huyễn hoặc với lối diễn tả và từ ngữ của người phương Bắc, tạo ra cái chất cổ cổ, kim kim. Giọng văn của hắn ta lạ; lắm khi như người La Hủ thổi khèn lá. Xen vào đó lại thường dùng biện pháp đùa nhả trong văn chương khiến không ít người bực bội như Quang Trung đương đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp chạy đến nhà Vinh Hoa hay Nguyễn Ánh khi nhìn thấy Vinh Hoa đẹp quá thì bỗng nhiên xây xẩm mặt mày, ngã quay ra đất, ngất lịm đi. Còn Quan Đề Thám, sau khi trả cô Xoan yêu dấu về với nhà chồng, vừa phi ngựa vừa khóc vì bi kịch của bổn phận làm người. Thiệp không có ác ý như vậy. Ông chỉ giành lấy cái quyền của nhà văn được thử thách những nhân vật của mình để từ đó làm sáng lên những giá trị nhân bản của con người. Dù có khác biệt và vĩ đại đến đâu, họ vẫn là con người theo nghĩa viết hoa của từ đấy. Chỉ có một lần Thiệp thành công mỹ mãn trong trường hợp Tướng về hưu. Cả thế kỷ 20 người Việt Nam đi qua 4 cuộc chiến tranh lớn đầy bi tráng. Văn chương của thế kỷ ấy đã giành nhiều trang viết cho các vị tướng anh hùng. Trên mình ngựa chiến. Trên bãi chiến trường. Đến lượt Thiệp, nhà văn cho ông tướng ấy về hưu và sống một cuộc đời thường. Vị tướng ấy đã không chịu nổi sự sa đọa về tinh thần của một thế hệ người đang sống quanh ông. Họ là người thân của ông. Thiệp đã cho ông trở lại chiến trường và hy sinh trên mình ngựa chiến. Có bao nhiêu thông điệp về bản chất con người muốn nói ở đây đây ?

Hôm nay, tôi ngờ rằng Con gái thủy thần hiện hình trong bức tượng đang ngồi ở sân nhà Thiệp  muốn dùng chính văn chương của ông như là một sự thử thách đối với một nhà văn đặc sắc không thể không nhắc đến trong thế kỷ 20, phải đối mặt với bi kịch loài người, làm một người thường trong nỗi khổ đau trần thế. Cao Bá Quát có lần nói văn thiêng là như thế hay chăng? Và tôi tin nhà văn của chúng ta sẽ vượt qua, bởi vì Con gái thủy thầnmẹ cả luôn ở bên cạnh cứu giúp ông ngay từ khi Thiệp còn là đứa trẻ đi đánh vật và bởi vì Thiệp đã sống đúng với những điều mình viết. Ngày hôm nay, bên bức tượng này, tôi đã thấy ở Thiệp toát lên một trí tuệ thật tuyệt vời tưởng như không bao giờ vơi cạn. Trên khuôn mặt mệt mỏi và hoang vắng của ông rạng lên những niềm tin không tả xiết về sự chiến thắng của con người với số phận. Trên vừng trán liền với mảng da đầu đây đó có hình vuông nhỏ mặt quân súc sắc kia thầm lặng một khát vọng sống, khát vọng viết trong sự truy hoan điên rồ của bi kịch lạc quan.

Sông Cà Lồ đoạn chảy qua Kim Anh bên quốc lộ số 2 buồn và đẹp. Thiệp đã đi qua đây. Nghe được bài hát đồng dao mà viết nên thiên truyện ngắn Chảy đi sông ơi ám ảnh cả đời văn của ông. Bây giờ trẻ con lại hát bài đồng dao khác. Chảy đi, Thiệp ơi.

Chảy đi Thiệp ơi,

Chảy ra tận biển,

Con gái Thủy thần,

Tìm sông, sông lở,

Tìm đời, đời trôi.

Cay đắng phận người.

Anh hùng kiêu bạc

Giữ lấy chữ thường.

Mây lòa ngũ sắc,

Xóm nghèo Hạ Khương,

Kìa ai tập bước một mình…

Hội nhà văn Việt Nam, nhiều văn nhân tài tử cùng bạn đọc đã đến bên Thiệp để chia sẻ ân tình. Có một người ở bên Mỹ gửi thuốc chữa bệnh về cho ông. Đó là một Con gái Thủy thần

Mùa Hạ 2020

Khuất Bình Nguyên

Nguồn: Báo Văn nghệ, ngày 13/6/2020

(Nguyên tác tiếng Ý: gioia di vivere)

Bản dịch của Trương Văn Dân

Tất cả chúng ta ai cũng đều thiết tha đi tìm hạnh phúc, nhưng có lẽ rất ít người biết cách nắm bắt và nếm được hương vị cốt lõi của cuộc sống.

Một trong số ít đó, theo tôi là nhà văn nhà báo Nguyễn Quang Thân.

Ngay từ lúc mới quen anh tôi như vừa bắt gặp chân dung một con người sáng suốt và nhận ra sự thanh thản chỉ có ở một cuộc đời được sống trọn vẹn.

Nhiều năm trước, có lẽ anh là một trong những nhà văn đầu tiên và người bạn đời yêu dấu Dạ Ngân đã đón tiếp tôi tại nhà mình. Ngay lập tức giữa chúng tôi liền phát sinh một mối thiện cảm, quý mến và ngưỡng mộ nhau. Thoạt đầu chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên về rất nhiều chuyện mà chúng tôi có thể trao đổi cùng nhau, có lẽ bởi vì anh hiểu sâu sắc và rất yêu thích văn hóa Italia, đất nước có một nền văn học nhân bản và những tượng đài không nơi nào có. Anh thông thạo tiếng Pháp nên chúng tôi trò chuyện rất dễ dàng, thoải mái bình luận về các đề tài văn học hay triết học, từ những suy gẫm và về Zola, Sartre, Camus… đến những câu chuyện nóng hổi đời thường mà và nhiều lần thú vị đến nỗi chúng tôi quên cả thời gian.

      Có thể nói là khó thể nhàm chán khi trò chuyện cùng anh Thân. Chúng tôi cười rất nhiều về cách anh chơi chữ của anh, về tính hóm hỉnh (humor) hay đơn giản là cùng chia nhau niềm vui với một đĩa bánh xèo hay một ly rượu Bordeaux. Anh trình bày ý tưởng của mình một cách mạch lạc, lập luận chặt chẽ bằng giọng nói thân tình. Nếu người đối diện có ý tưởng khác anh bình tĩnh đưa ra ý kiến để thảo luận chứ không bao giờ lớn giọng hay lên gân. Ngược lại anh lắc đầu nhẹ nhàng khi chưa được thuyết phục rồi tập trung ý tưởng để nói lý do.

Trong những lần trò chuyện, nếu đề tài có liên quan, anh cố gắng giải thích ý nghĩa các thành ngữ hay giai thoại Việt Nam để giúp tôi hiểu và yêu hơn đất nước xinh đẹp này.

 Qua những tiếp xúc thân tình đó mà tôi có thể hiểu thêm được nhiều góc nhìn về văn hoá, không chỉ về Việt Nam mà còn có ý nghĩa rộng hơn về diện mạo cuộc đời. Tôi luôn tìm thấy ở anh một lòng nhiệt thành và hăng say mà ngay cả lớp người trẻ hiện nay cũng không có. Nó lóe lên như một tia lửa mà vắng nó cuộc đời sẽ thiếu sắc màu. Vì nó cho phép chúng ta sống trọn vẹn hơn, bắt đầu từ việc xác định mục tiêu cá nhân đến việc thưởng thức những thành quả sau khi thực hiện.

Xung quanh ta hiện nay có bao nhiêu người sống đời nhàm chán, thiếu ước muốn, thiếu khát khao và chỉ chạy theo những điều thường nhật một cách máy móc. Nhưng chúng ta có thể thay đổi, nắm bắt tia lửa đó cùng lòng nhiệt thành cho cuộc đời để sống từng phút giây mạnh mẽ, ước muốn thành công và tận hưởng những điều thú vị bắt gặp trong cuộc hành trình.

            Trong tình bạn với anh Thân tôi đã có được cái sức mạnh ấy. Chưa bao giờ tôi thấy anh gục ngã vì chán nản hay buồn phiền. Tôi biết là sức mạnh tinh thần ấy anh được thừa hưởng từ người mẹ mà anh vô vàn kính mến và điểm tựa là chị Dạ Ngân, tình yêu vĩ đại trong đời anh.

            Với Dạ Ngân, anh chị là một cặp đôi đặc biệt, trong lòng người này luôn cảm nhận được sự hiện diện của người kia, dù cũng có những điểm khác biệt nhưng họ luôn dành cho nhau tình yêu và lòng quý mến, họ đã cùng thực hiện được cả hai vai của người được nói và người biết lắng nghe. Tay nắm tay đế đối mặt cuộc đời, cùng một niềm phấn khởi.

Tôi luôn nghĩ về họ bằng hình ảnh này trong khi đang nhớ lại ngày ra mắt quyển tiểu thuyết mới nhất của chị Dạ Ngân, có tựa đề là Người Yêu Dấu: nụ hôn bất ngờ mà anh đã đặt lên má chị sau khi nói lời phát biểu, đó chính là một cảm xúc không thể dồn nén, không thể chờ đợi, một sự thân mật riêng tư đã thoát ra khỏi những thẹn thùng. Một cử chỉ tự nhiên, đơn giản mà vô cùng dịu dàng, đầy ắp tình yêu, vượt ra ngoài mọi quy ước đời thường.

Anh Thân là người mà lúc nào cũng giữ vững được mình, luôn đi qua cuộc đời bằng một bầu nhiệt huyết và một niềm phấn khởi khác thường, anh biết nắm bắt sự phong phú của từng phút giây với sự thích thú và đam mê.

Với phong cách sống đó anh vẫn còn đang tiếp tục dạy cho tôi rất nhiều điều, nhất là cách thưởng thức niềm vui cuộc sống, và vì thế, lúc nào anh cũng hiện diện trong lòng tôi.

Xin thắp một nén nhang để tưởng nhớ anh, với lòng trân trọng và quý mến.

19/01/2018

                                                                                 

TTO - Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, biệt hiệu Sơn Núi, vừa trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 83 lúc 3h ngày 11-6, giã biệt đồi thông Phương Bối và núi rừng Bảo Lộc sau một thời gian dài nằm bệnh tại nhà riêng.

20200611

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tại nhà ở rừng Phương Bối - Ảnh: HUỆ QUANG

"...Khi người ấy làm thơ, thì khi ấy, con người thơ, và cõi mộng của thơ, là ẩn ngữ huyền nhiệm. Tôi biết, và cũng có thể chỉ là biết một cách tưởng tượng, rất nhiều người, những người làm thơ, đọc thơ, và cả những người nguyền rủa thơ; có rất nhiều người nhìn anh với cái nhìn ngạc nhiên, tò mò, như đang nhìn một vật thể rất lạ, rất quái lạ. Tôi nhìn anh cũng thấy rất lạ. Nhưng không lạ hơn khi tôi nhìn chính khuôn mặt mình. Cho nên, tôi thấy mình quen biết anh nhiều hơn là quen biết chính mình. Người ta hỏi tôi, Sơn là ai? Làm sao tôi trả lời được. Tôi vẫn chưa biết mình là ai."

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - một tâm hồn thơ ít nhiều đồng điệu - cũng từng dành cho Sơn Núi những lời đầy cảm xúc.

Sinh năm 1937 tại Ninh Thuận, Nguyễn Đức Sơn nổi lên như một nhà thơ đầy cá tính tại Sài Gòn với tập thơ Bọt Nước in năm 1965. Sau đó, tên tuổi ông vang khắp miền Nam như một cây bút kỳ tài không chỉ ở ý tứ cả thơ và truyện, mà cung cách chơi đùa với ngôn ngữ tiếng Việt, ý thức dùng diễn ngôn dâm tục để chuyển tải triết lý nhân sinh, cảm thán về thời cuộc và cả thái độ trước tình người, tình đời...

Ông có bút hiệu là Sao Trên Rừng, nhưng đồng nghiệp, bằng hữu và người hâm mộ vẫn biết đến ông nhiều hơn ở biệt hiệu Sơn Núi, và biết nhiều hơn nữa ở các tác phẩm thơ của ông như một trường hợp kỳ lạ hiếm hoi xuất hiện trên thi đàn tiếng Việt không biết bao giờ mới gặp lại.

Tác phẩm của Nguyễn Đức Sơn xuất bản hầu hết trước năm 1975, về thơ có: Bọt nước (1965), Hoa cô độc (1965), Lời ru (1966), Đêm nguyệt động (1967), Vọng (1972), Mộng du trên đỉnh mùa xuân (1972), Tịnh khẩu (1973), Du sĩ ca (1973); và ba tập truyện: Cát bụi mệt mỏi (1968), Cái chuồng khỉ (1969), Xóm chuồng ngựa (1971).

Theo thông tin lúc Nguyễn Đức Sơn xuất bản tập truyện ngắn Xóm chuồng ngựa năm 1971, ông còn một số bản thảo chưa in gồm: Tạp văn, các bản thảo thơ đã đặt tên: Độc thoại, Đám cưới trên hư không, Tâm tư, Tạ từ, Ngọn suối đời; bản thảo truyện đã đặt tên có Ngồi đợi ngoài hành lang (truyện ngắn), Chỗ nằm của Thạch (truyện dài); và tập Mười lăm năm thi ca Miền Nam (Phóng bút).

Mới đây, trong lúc nhà thơ Nguyễn Đức Sơn nằm bệnh, người thân và giới mộ điệu, đặc biệt là Thư viện Huệ Quang ở TP.HCM đã thực hiện một tập thơ lấy tên Chút lời mênh mông (NXB Đà Nẵng), đây được xem là ấn phẩm cuối cùng của Nguyễn Đức Sơn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn - Sơn Núi - vĩnh biệt đồi thông Phương Bối - Ảnh 3.

Chùm thơ của Nguyễn Đức Sơn vừa được giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ ngày 5-5-2020 - Ảnh: L.Đ.

"Người ta đa phần có ý ngần ngại khi đọc thơ Nguyễn Đức Sơn vì thấy sự dâm tục quá nhiều, riêng tôi cũng thấy ngần ngại, nhưng không phải vì sự dâm tục trong thơ ông, mà ngần ngại vì mình không đủ thanh khiết để đọc. Mặc dù là một tu sĩ, tôi thấy mình cần phải thanh lọc tâm hồn mình thêm nữa để có thể bước vào thế giới thi ca của ông... Nhưng đọc những vần thơ tục của Nguyễn Đức Sơn chỉ thấy tục, không thấy cái gì khác thì đó là điều bất hạnh đối với người đọc!"

Trong lần xuất bản tập thơ Chút lời mênh mông, thầy Không Hạnh ở thư viện Huệ Quang có nhận định về nét dâm tục trong thơ Nguyễn Đức Sơn bằng một ý quan trọng

Nhận định về tác phẩm của Nguyễn Đức Sơn, văn đàn miền Nam từng dành cho nhiều giấy mực, tựu trung vẫn là những ghi nhận về nhiều điểm độc đáo trong sáng tác của ông.

Nhà văn, dịch giả Bửu Ý nhìn thấy ở Nguyễn Đức Sơn hình ảnh của một con tê giác, "từ tính tình đến cách ăn nói, dáng đi, húc bừa về phía trước không kể thiệt hơn, không tính hậu quả. Thêm thù và bớt bạn. Đơn độc quắc queo. Dã man nghiệt ngã. Chỉ thong dong ở chốn không người: rừng và biển …".

Họa sĩ Đinh Cường - một người bạn thân của Sơn Núi - sinh thời vẫn ám ảnh với quyết định đem vợ con lên ở hẳn trên rừng Phương Bối của Nguyễn Đức Sơn. "Không ai đánh đổi cả đời mình với rừng như Sơn Núi. Sơn vẫn ở riết trên Phương Bối Am từ sau 1975 đến nay" - Đinh Cường viết.

Nay Nguyễn Đức Sơn đã vĩnh biệt đồi thông Phương Bối, vĩnh biệt núi rừng Bảo Lộc từng gắn bó mấy chục năm với ông. Giới hâm mộ hẳn sẽ còn quan tâm những di thảo của ông chưa xuất bản liệu có còn cơ hội để ra mắt bạn đọc trong một dịp nào đó?

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn - Sơn Núi - vĩnh biệt đồi thông Phương Bối - Ảnh 5.

Chút lời mênh mông - tập thơ cuối cùng của Nguyễn Đức Sơn, vừa ấn hành đầu năm 2020 - Ảnh: L.ĐIỀN

Hiện linh cữu nhà thơ Nguyễn Đức Sơm quàn tại nhà riêng (tổ 9, thôn 2, xã Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng). Thông tin từ gia đình cho biết lễ nhập quan vào lúc 13h30 hôm nay 11-6; lễ di quan đi hỏa táng lúc 6h ngày 13-6.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 11.06.2020.

Truyện Kiều là câu chuyện về cái đẹp bị đày đọa. Nhưng cái đẹp bao giờ cũng được cứu vớt từ một tâm pháp nào đó. Từ tâm quán thiên thu của Nguyễn Du, đến lượt cái đẹp lại cứu vớt con người

Mùa xuân lại mở trang Kiều. Dù người thơ đã ra đi hai trăm năm rồi (1820-2020), bao nhiêu cuộc bể dâu chứ đâu phải là một, mà thơ Kiều vẫn còn vang ngân. Hơn 70 bản dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau lưu hành trên thế giới. Cõi người ta của Tố Như Nguyễn Du đã gặp nhân loại trong sâu thẳm của nỗi buồn và niềm vui. Ánh mắt và tâm của Tố Như đã được xưng tụng xứng đáng từ lâu, từ năm 1820 ấy:

Nhãn phù lục hợp

Tâm quán thiên thu.

Tranh của họa sĩ Trần Thị Nguyệt Mai

Ðó là lời của Mộng Liên Ðường chủ nhân, mà ta có thể chuyển thành:

Mắt trôi sáu cõi

Tâm tràn thiên thu.

Sáng tạo 3.254 câu thơ lục bát về Kiều, Tố Như đã đưa con mắt sáu cõi và tấm lòng thiên thu của mình không những đi qua cõi thực mà còn đi vào cõi huyền với những ảnh tưởng (hình ảnh đẫm mơ tưởng) nguyên sơ là các nguyên tố cơ bản Ðất, Nước, Gió, Lửa (tứ đại).

Chính vì thế mà thơ Kiều mới xuyên không gian và thời gian, lay động tâm hồn con người khắp nơi đến thế.

20200206

Tranh của họa sĩ Ðình Quân vẽ Kiều và Thúc Sinh

Những mối quan hệ của Kiều với các nhân vật chính đều được lọc qua những ảnh tưởng về nước, đất, lửa, gió.

Với Kim Trọng, ảnh tưởng nước trở nên nổi bật. Và lần lượt là ảnh tưởng đất với Thúc Sinh, ảnh tưởng gió với Từ Hải và ảnh tưởng lửa với Giác Duyên.

Tất nhiên, các ảnh tưởng ấy có thể xuất hiện với bất kỳ nhân vật nào. Nhưng ở đây ta chỉ chú ý đến cái nổi bật và điểm nhấn thấy rõ.

NƯỚC

Nước là biểu tượng của tình yêu và nữ tính. Nước vừa dịu dàng vừa dữ dội. Mọi thứ trôi chảy đều là nước. Vì thế khi Kiều yêu thì ảnh tưởng nước luôn xuất hiện, nhất là quan hệ của nàng với Kim Trọng.

Có thể thấy: dưới lòng nước chảy, cạn dòng lá thắm, giọt sương chíu nặng, nước ngâm trong vắt, sóng tình, mây mưa, ngọn nước thủy triều, sóng gió, nước đục bụi trong, lạ nước, nước đời, nước xuôi, giọt mưa, nước dẫy sóng dồi, hơi nước, sông nước cát lầm…

Nước trong chén rất nhiều, đó là: chén xuân tàng tàng, chén thề, chén vàng, chén nước, chén quỳnh, chén cúc, chén mồi, chén đưa, chén mừng…

Ðó là chưa kể lệ và máu!

Ðó cũng chưa kể những ảnh tưởng liên quan đến nước như: vũng lầy, dầm dề, bèo dạt, hoa trôi, nước vỏ lựu, đĩa dầu vơi, sụt sùi, áo dầm giọt tủi, tuyền đài, suối vàng, đầm đầm, máu say…

Ðêm trao duyên cho em gái, Kiều đã đau đớn kêu lên:

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Và sau 15 năm, gặp lại Kim Trọng, với đêm “động phòng trắng” Kiều đã phải thốt:

Thân tàn gạn đục khơi trong

Là nhờ quân tử khác lòng người ta.

Thân mà có thể “gạn” có thể “khơi” ư? Ðó là ảnh tưởng nước về thân.

Ảnh tưởng nước như thế đã được Nguyễn Du đẩy trôi qua tình yêu Kiều - Kim một cách tinh tế, kỳ diệu. Họ gặp nhau lần đầu bên dòng nước rồi 15 năm sau đó tái hợp bên dòng sông sau khi Kim làm lễ chiêu hồn, cũng như Kiều từng chiêu hồn Ðạm Tiên, cũng như nàng từng muốn Vân - Kim dùng chén nước chiêu hồn mình. Một chén nước lã cho cuộc đoạn trường đầy nước mắt của cái đẹp lưu ly, phản chiếu cả thực tại lẫn người mơ.

Viết về nước, triết gia Pháp Bachelard cho rằng: “… nước, nhờ tính phản chiếu, nhân đôi bội trùng thế giới, nhân đôi bội trùng sự vật. Nước cũng nhân đôi bội trùng người mơ…”.

Tấm thân Kiều, như một dòng nước gạn đục khơi trong, phản chiếu những thân phận hồng nhan lưu lạc khác của đời, chiếu soi như gương:

Làm gương cho khách hồng quần thử soi.

ĐẤT

Ðất là biểu tượng của thực tế. Ðất sinh sản mọi thứ và chôn vùi mọi thứ. Ðất là phong nhiêu mà cũng là cát bụi. Ðất là nơi luân chuyển bốn mùa và luân chuyển những buồn đau hoan lạc, nụ cười là mặt nạ, nước mắt là đáy sâu tương ứng với hoa trái và lòng đất. Mặt đất bày ra của cải, gia sản, tiền bạc, những con đường và mê lộ. Bachelard viết về đất, nêu lên những ảnh tưởng: hang động, nhà cửa, cái bên trong và bụng dạ.

Quan hệ giữa Kiều và Thúc Sinh có thể biểu hiện qua ảnh tưởng đất. Thật vậy, không quan hệ nào khác mà Kiều phải lưu lạc qua nhiều “hang động”, nhà cửa, con đường và mê lộ đến thế.

Có thể kể ra các ảnh tưởng về đất như sau: dặm rừng, vuốt đâu xuống đất, lầu xanh, hơi đồng, luồn xuống mái nhà, đầu tường, đường sá, đường xa, quan san, muôn dặm, dặm trường, dọc đường, đường bộ, lục trình, đường hải đạo, mọi đường, đất thấp trời cao, ai ra đường nấy, nẻo xa, lần đường, quê khách, dặm cát đồi cây…

Còn về hang động và nhà cửa thì đầy: hành viện, nơi buôn người, sân ngõ, cửa công, phủ đường, sân hoa, một sân lầm cát, trong nhà, lạc nhà, đến nhà, phòng đào, viện sách, lầu trang, lầu thư, lâu đài, môn phòng, tòa rộng, dãy dài, cửa người, biết đâu là nhà, nhà vàng, thư trai, gác kinh… và địa ngục!

Về tiền bạc thì: quen thói bốc rời, trăm nghìn, hơi đồng, của dẫn tay trao, nghìn vàng, lễ công, đồ kim ngân, gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, giường thất bảo…

Còn cái bên trong và bụng dạ nữa, ta gặp: e thay những dạ phi thường, mà trong nham hiểm, người trong khóc thầm, nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng, một mình âm ỉ đêm chầy, khôn lường hiểm sâu…

Và khi đất kết hợp với nước thì ra “vũng lầy”.

Khi gặp lại Thúc Sinh ở Quan Âm Các trong vườn nhà Hoạn Thư, Kiều đã cay đắng nói:

Chút thân quằn quại vũng lầy,

Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?

Liệu bài mở cửa cho ra

Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!

Ðến rày phải van sinh tình nhân “mở cửa cho ra” thì mới biết tình yêu này thực tế ra sao. Ðây là tình đất u tối nặng nề chứ không phải là tình đất phong nhiêu cởi mở. Thế nên Kiều mới đòi “mở cửa”. Bao nhiêu cánh cửa Kiều phải thoát ra trên mặt đất đoạn trường trước khi trở về với Vườn Thúy xanh màu tơ liễu của mình?

GIÓ

Gió có thể đưa ta đi xa, nâng cánh ta bay lên và gió có thể hủy diệt ta trong xoáy lốc của nó. Gió mang tính quyền lực với biểu tượng gươm đao. Khi gió thành giông bão, chỉ còn có bạo lực.

Kiều với Từ Hải là bi kịch. Ân oán đã trả rồi thì sao? Kiều là gió hay Từ là gió? Có một quyền lực lớn hơn gió của họ. Kẻ thì chết, người thì trầm mình. Quyền lực lôi cuốn quyền lực, gươm đao lôi cuốn gươm đao.

Từ cánh hồng bay bổng tuyệt vời đến một cung gió thảm mưa sầu thì có xa xôi gì!

Cứ thế mà ta thấy những: gió quét mưa sa, e dè gió dập, ầm ầm sát khí, oan khí
tương triền…

Và gươm đao, chao ôi là gươm đao: thanh gươm yên ngựa, đặt gươm cởi giáp, bóng cờ tiếng hoa, dựng cờ nổi trống, kéo cờ lũy, phát súng thành, trống trận nhạc quân, dưới cờ gươm tuốt nắp ra, chỉ ngọn cờ đào, gươm lớn giáo dài, bác đòng, chật đất, truyền xuống nội đao, đông mặt pháp trường, sấm sét ra tay, rạch đôi sơn hà…

Thân Kiều là cỏ bồng, thường bay theo gió cũng như bèo dạt theo nước: Bình bồng còn chút xa xôi.

Trong cuộc đền ân báo oán, Kiều chỉ cảm nhận làn gió nhẹ trong lành tươi mát từ Giác Duyên khi nàng nói cùng sư:

Rồi đây bèo hợp mây tan,

Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu?

Hạc nội mây ngàn bất định như gió nhưng là không gian của tự do. Gió là tự do. Là “mây bay” (mây bay hạc lánh). Sau này, về với Giác Duyên lần cuối, Kiều mới tìm thấy ánh sáng của tự do.

LỬA

Lửa, cũng như ba yếu tố kia (gió, đất, nước) có hai mặt. Lửa hủy diệt, để lại tàn dư là tro: “bốn bề lửa dong”. Lửa gây đau đớn bên ngoài cũng như bên trong: lửa phiền cháy gan, lửa tâm càng dập càng nồng. Nhưng có một thứ lửa khác có thể thanh tẩy tâm hồn, soi sáng đường đi và đưa đến thức tỉnh. Kiều đã “biết” hai thứ lửa đó bằng cả xác thân và tâm hồn của mình. Nàng đã vào địa ngục và thoát khỏi địa ngục trong hang động của Tú Bà, Bạc Bà… Nàng cũng vào thiên đường “một gian nước biếc mây vàng chia đôi” khi được Giác Duyên cứu vớt.

Ánh lửa từ tâm của Giác Duyên đã cứu Kiều. Cho dù về với gia đình, với vợ chồng Kim - Vân, nàng vẫn giữ được tâm bình an, tâm không đó. Nên cũng bình an cho Vân và cho Kim. Chờ trăng lên, ánh sáng trong đêm. Và tâm cũng hóa trăng, đầy ánh chiếu dịu dàng từ ái.

Những ảnh tưởng về lửa ở đây không cần nhiều nhưng đầy ý nghĩa, như: ngọn đèn khêu nguyệt, hương đèn, cửa thiền, nâu sồng, hương dầu hôm mai…

Hình ảnh đẹp nhất cuối tập thơ:

Sư đà hái thuốc phương xa,

Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?

Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,

Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.

Một khi nhìn thấy ánh sáng thiên đường rồi, sớm chiều không quên.

 

Truyện Kiều là câu chuyện về cái đẹp bị đày đọa. Nhưng cái đẹp bao giờ cũng được cứu vớt từ một tâm pháp nào đó. Từ tâm quán thiên thu của Nguyễn Du, đến lượt cái đẹp lại cứu vớt con người.

Và vì thế, cái đẹp không chết. Kiều là cái đẹp. Truyện Kiều là câu chuyện về cái đẹp bị đày đọa. Nhưng cái đẹp bao giờ cũng được cứu vớt từ một tâm pháp nào đó. Từ tâm quán thiên thu của Nguyễn Du, đến lượt cái đẹp lại cứu vớt con người.

Cái đẹp đi qua đất, nước, gió, lửa. Rồi cái đẹp hợp nhất bốn yếu tố đó - thành Nhất Thể.

Nhật Chiêu

Nguồn: Phụ nữ online, ngày 30.01.2020.

Tóm tắt:

Khoa cử phương Đông truyền thống do mục tiêu đào tạo các quan chức phục vụ cho bộ máy nhà nước phong kiến chứ không phải các nhà khoa học kỹ thuật nên chú trọng giáo dục năng lực luận thuật kinh điển Nho giáo (kinh thuật) và năng lực văn chương để diễn đạt các nguyên lý của kinh điển (văn chương).

Tuy nhiên, trong lịch sử khoa cử Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, có những thời kỳ nổi lên những cuộc thảo luận giữa khuynh hướng thi thiên về kinh thuật (luận thuật kinh điển Nho gia) với khuynh hướng coi trọng văn chương, tạo ra cái nhìn nhị nguyên, hoặc kinh thuật, hoặc văn chương. Ở Trung Quốc, thời Đường và ở Việt Nam thế kỷ XVIII là thời kỳ như thế. Chúng tôi dùng khái niệm "văn chương" chứ không dùng "văn học" để tránh đồng nhất với kiểu sáng tác văn học hiện đại.

Lê Quý Đôn là một nhà khoa bảng nổi tiếng nhưng giữ quan điểm cân bằng giữa kinh thuật và văn chương, tức là ông đã tiến hành “giải cấu trúc” quan điểm nhị nguyên về khoa cử. Các ý kiến của ông được trình bày trong một số trước tác, đặc biệt trong Vân đài loại ngữ . Bài viết lần đầu tiên hệ thống hóa các ý kiến này, so sánh với ý kiến của một số nhà nho cùng thời phê phán lối học nặng về từ chương để chỉ ra đặc điểm thực tế khoa cử thời trung đại và  đóng góp riêng của Lê Quý Đôn cho văn hóa Việt Nam. 

Từ khóa: kinh thuật, văn chương, văn, đức, văn thể, văn thể Hồng Đức, văn và đạo.

Đặt vấn đề

Lê Quý Đôn trong quyển V của sách Vân đài loại ngữ , mục Văn nghệ bàn về tầm quan trọng của “văn chương”, viết : “Văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh thế. Người nhà Đường nói: lấy kẻ  sĩ nên phải nhằm đức hạnh trước, còn văn nghệ sau. Đó là nói cách lấy thư phán mà xét người lúc bấy giờ, chứ không phải nói chung.

Chu Tử nói : Lời không văn vẻ thì không đi được xa; bốn điều dạy (tứ giáo) của Khổng Tử, tất lấy văn làm trước, muốn tóm tắt lấy lễ tất phải biết rộng văn trước. Vậy văn không khi nào bị coi là việc ngọn. Sách Luận ngữ nói : “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ”, nghĩa là: lấy đạo làm hướng cho sự lập chí, lấy đức làm chỗ căn cứ, lấy nhân làm nơi nương tựa, lấy nghệ làm thú vui chơi. Xem đó, người xưa cũng chỉ nói ngang nhau, chứ không chia điều nào là gốc, điều nào là ngọn.

Truyện Kinh Thi của họ Mao nói về chín điều hay: 1) Khi xây dựng một nước thì biết bói rùa; 2) Khi đi săn bắn thì biết ra mệnh lệnh; 3) Khi làm đồ đạc gì thì biết làm được bài Minh; 4) Khi đi sứ có thể tạo được từ mạng; 5) Khi lên cao thì biết làm thơ ca; 6) Trong việc sư lữ thì biết làm lời thệ quân; 6) Về núi sông thì có lý thuyết; 7) Trong việc tang ma thì biết làm bài văn tế; 8) Trong việc tế tự thì biết khấn.  Người quân tử có được chín điều hay ấy thì gọi là người có đức, có thể làm được quan đại phu. Đó là cách tuyển sĩ của nhà Chu, đại khái như thế, sao gọi văn là việc ngọn được ? Đại để anh hoa phát tiết ra ngoài, là do ở trong có chứa nhiều hòa thuận; cho nên người có đức tất biết ăn nói; người có hạnh tất có học, như con phượng thì có cánh, sắc lông sặc sỡ; con báo thì có lông trơn mượt; trang sức ở ngoài với chứa đựng bên trong vẫn là một.

Chu Tử nói : “Uy nghi đúng mức, nói năng phải lẽ, đều là văn”. Ông lại nói : “Ngày xưa đem các môn lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (cầm cương ngựa), thư (viết chữ), số (tính toán) dạy người ta; lẽ nào một người đã học các môn văn ấy mà lại bảo là người thiếu sót về đức hạnh được ? Muốn biết người, nên lấy đó mà bàn, nghĩa là nên nhận xét ở các điều đó, chớ nên lầm lẫn (cho đức với văn là hai)”(Lê Quý Đôn a, tr. 235-237), tôi có chỉnh lý lời dịch một vài điểm cho đúng nguyên văn)[1] .

            Đọc những dòng này, có cảm giác Lê Quý Đôn đang tranh luận với một ai đó, hay với một luận điểm nào đó liên quan đến mối quan hệ giữa đức hạnh và văn chương. Và ông tìm cơ sở lý luận từ các diễn ngôn của các nhà kinh điển của đạo Nho như Khổng Tử và Chu Tử (Chu Hy), tác giả Mao thi (Thi đại tự). Đây không phải là những lời bàn về văn học nghệ thuật thuần túy. Nếu chúng ta đặt chúng vào ngữ cảnh rộng hơn, dễ thấy nhà bác học đang thảo luận một trong những vấn đề trọng yếu nhất của thể thức khoa cử Nho học thời trung đại, vấn đề quan hệ giữa luận thuật kinh điển và văn chương. Ý nghĩa của vấn đề mà Lê Quý Đôn đặt ra vốn đến nay chưa được giới nghiên cứu cả về triết học, văn hóa, sử học, văn học chú ý sẽ là mục đích nghiên cứu của luận văn này.

Khoa cử dưới các triều đại lấy Nho giáo làm quốc giáo thì tất nhiên nội dung thi phải nằm trong việc diễn giải kinh điển Nho giáo, sĩ tử phải thể hiện được sự am tường và năng lực vận dụng kinh điển cho việc giải quyết các vấn đề thời sự của quốc gia. Tuy nhiên, các kiến thức và năng lực vận dụng đó đều phải được trình bày dưới hình thức văn chương vì văn chương là một công cụ chuyển tải rất hiệu quả tư tưởng, như chính Chu Hy đã nói “ngôn chi vô văn hành chi bất viễn”-lời nói không có văn không đi được xa. Khi nói về khoa cử, người xưa có khi dùng khái niệm “văn chương”. Văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám khoa thi 1481 viết: “Kẻ sĩ sinh ở đời này gặp gỡ thánh minh, có tiếng tăm văn chương, gội nhuần giáo hóa” (Ngô Đức Thọ, tr.2) Văn bia khoa thi năm 1481 cũng có đoạn: “Danh là bề ngoài của thực, tốt là đối tượng của xấu. Có danh có thực, há chẳng phải tốt sao ? Có danh không thực, há chẳng phải xấu sao ? Những người được ghi tên vào đá này, cố nhiên phải lấy đạo nghĩa đức hạnh để tu dưỡng bản thân, phải dùng văn học mà dùi mài tâm tính”.  (Ngô Đức Thọ, tr. 216).

Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ khi dâng khải lên chúa Trịnh Sâm bàn về sửa đổi văn thể, viết: “Văn chương quan hệ đến thế đạo, mà muốn cầu người giỏi, phải lấy giáo hóa làm đầu. Bản triều ở đời Hồng Đức, phép dạy phép thi cũng chỉ có kinh nghĩa, lấy nghĩa tùy ý đặt lời, nếu không phải là người đọc rộng hiểu sâu thì không làm nổi; tứ lục dùng cả cổ sử và công việc bản triều; thơ phú thì hoặc theo lối lý tao hoặc theo văn tuyển, không cứ thể cách thất ngôn hay ngũ ngôn, lối bát vận của Lý Bạch hay lối liên châu, có khi dùng sử truyện hay sách ngoài, cùng tả cảnh…” (Phan, tr. 33-34). Rõ ràng văn chương trong quan niệm của các tác giả trên là văn chương khoa cử.  

Khi sử viết: “Năm 1363, thi học trò, lấy người có văn nghệ vào làm việc trong quán các” (Phan Huy Chú, tập 2, tr. 11) thì khái niệm “văn nghệ” dùng chỉ người có năng lực từ chương, vừa nắm vững kinh điển lại có khả năng biểu đạt tư tưởng bằng văn chương.

Trong đoạn văn trích dẫn ở phần mở đầu, ta thấy Lê Quý Đôn dùng các khái niệm 文章 “văn chương”, 文 “văn” 文藝 “văn nghệ” với nội dung tương đồng nhau. Để tránh nhầm lẫn với khái niệm “văn học” của người hiện đại, một lĩnh vực rất rộng, với những đặc trưng riêng khác với nội dung mà Lê Quý Đôn trình bày, chúng tôi xin dùng khái niệm “từ chương” có một nghĩa tương đối, chỉ loại văn chương trong khoa cử như là một khái niệm công cụ cho riêng bài viết này.

  1. 1.     Điểm lại lịch sử khoa cử từ góc nhìn quan hệ giữa kinh thuật (luận thuật kinh điển) và từ chương trong lịch sử khoa cử:

Do lịch sử khoa cử ở Việt Nam thời trung đại tiếp nhận nhiều quan niệm về nội dung và quan niệm của khoa cử Trung Quốc nên chúng ta cần thiết nhìn lại dẫu là một cách sơ lược lịch sử khoa cử Trung Quốc với những đường nét chính của nó để hiểu chính khoa cử Việt Nam. 

  1. 1.1.          Tại Trung Quốc :

Nghiên cứu lịch sử khoa cử, về phương pháp luận, không thể tách rời với bối cảnh lịch sử của mỗi thời đại. Nhà nghiên cứu Benjamin A. Elman viết:  “Khoa cử từng là một vũ đài văn hóa ở đó những quan tâm khác nhau về chính trị và xã hội tranh đấu nhau và cân bằng” (Benjamin A. Elman (2000), tr. xxiv). Nghiên cứu lịch sử khoa cử Trung Quốc hậu kỳ (từ đời Minh đến đời Thanh), ông cũng nhận thấy: “các bậc hoàng đế, các quan lại cung đình, hoạn quan đều nỗ lực kiểm soát giới sĩ phu thông qua các kỳ thi. Các sĩ phu trong và ngoài cung đình thường gắng thoát khỏi sự kiểm soát đó và lật ngược tình thế thành công bằng cách dùng các kỳ thi gây ảnh hưởng đến chính sách nhà nước hay làm sống lại các giá trị của kẻ sĩ”. Đó là một kinh nghiệm quí cho những người nghiên cứu khoa cử hiện nay.

Dưới các triều đại phong kiến cả ở Việt Nam và Trung Quốc, thi cử tất nhiên phải luận thuật kinh điển Nho giáo. Kinh điển Nho giáo dạy người học đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nên là nội dung học, thi chủ đạo. Khoa cử là một công cụ thống trị tư tưởng của các triều đại theo Nho giáo, dẫu là thi Minh kinh hay thi Tiến sĩ thì sĩ tử đều phải học thuộc lòng Tứ thư, Ngũ Kinh.  Đế chế Hán dùng chế độ 察举“sát cử” , cũng gọi là 荐举 “tiến cử” để tìm kiếm nhân tài. Từ các hương, lý bình nghị, qua khảo sát ở các quận, giới thiệu đến triều đình, triều đình dùng hình thức “sách vấn” hỏi các vấn đề kinh truyện Nho giáo. Khi đó chưa có hình thức thi văn chương. “Sách” nguyên là tấm thẻ trúc trên đó viết vấn đề cần hỏi, người ứng thí hồi đáp lại (đối sách).  Tuy nhiên, hình thức sát cử không có vị trí quyết định, quyết định vẫn là chế độ “thôi cử”, nằm trong tay các quan viên cao cấp thao túng. Mặt khác, để được “thôi cử”, không ít người “ngụy quân tử”, tỏ ra có đạo đức tư cách để mê hoặc nhân thế.

Lịch sử khoa cử Trung Quốc chính thức bắt đầu năm 605, khi Tùy Dạng Đế đặt ra khoa Tiến sĩ, Minh Kinh, thi sách vấn để chọn kẻ sĩ, mở ra trang mới trong lịch sử tuyển bạt nhân tài ở Trung Quốc. Cần phân biệt rõ, ở đời Đường, khoa thi Tiến Sĩ có nội dung chủ yếu thi văn chương,[2] còn khoa thi Minh Kinh, sách vấn dùng để kiểm tra hiểu biết về kinh điển, từ đây, hai phương diện kinh thuật và từ chương dần trở thành nội dung khoa cử. Đến đời Đường, khi Võ Tắc Thiên trị vì, thiết lập các hình thức khảo thí như thiếp kinh, tạp văn, sách văn. Tạp văn chỉ loại văn chương các loại văn thư chốn cung phủ, về sau phát triển thành thi phú. Thời Đường và Tống là thời kỳ từ chương (văn chương khoa cử) thịnh hành nhất. “Sau 680-81 diễn ra việc chuyển dịch tầm quan trọng từ thi minh kinh -kiểm tra hiểu biết về kinh điển bao gồm ba câu hỏi về chính trị sang văn chương của kỳ thi tiến sĩ trong đó vẫn có một câu hỏi về chính trị thì tiêu chí văn học còn thống trị trong thi tuyển kẻ sĩ đời Đường cho đến tân cuối triều đại này” (Benjamin A. Elman , 2000, tr.10). Theo Từ điển lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc (tr. 150) : “Nội dung khoa thi tiến sĩ, đời Đường xem trọng thơ phú, đời Tống thì có lúc trọng thơ phú, có lúc trọng kinh nghĩa hoặc cả hai, nhưng nghiêng về trọng kinh nghĩa hơn”.

Đời Đường và Bắc Tống là hai triều đại duy nhất trong lịch sử khoa cử Trung Quốc dùng thơ phú để tuyển chọn kẻ sĩ, tức trọng thơ phú hơn kinh thuật, lấy việc khảo thí thơ phú làm nội dung chủ đạo dẫn đến những cuộc tranh đấu giữa hai nội dung kinh thuật và từ chương. Triều Đường có đặt khoa thi Minh Kinh (hiểu biết kinh điển nho gia) song trong cái nhìn xã hội, sự trọng thị vẫn dành cho tiến sĩ là những người có tài văn chương (熊庆年, tr.8).

Về nguyên nhân của việc đời Đường đề cao thơ phú trong kỳ thi tiến sĩ, có nhà nghiên cứu lý giải : “Các vấn đề chính sách thi hành trong các triều đại Đường và Tống là những phương tiện để gửi gắm các vấn đề về thiết chế, chính trị, văn hóa, đôi khi bao gồm cả những ý kiến phi chính thống và người ta khen ngợi xu hướng thiên trọng văn chương hướng về thơ, phú trong các kỳ thi ở Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thiên trọng ở thời Đường cho các vấn đề thơ ca và hình thức văn học trong chương trình thi tiến sĩ sau năm 681 phản ánh sự thay đổi quan trọng : sự nhấn mạnh vào thơ phú và văn hóa trong giới quý tộc tinh hoa đời Đường, những người bất mãn với chuẩn mực của kinh học được qui định trong kỳ thi minh kinh. Các bài văn sách vẫn rất quan trọng ở thời Đường và còn có cả những kỳ thi chuyên biệt (chư khoa) về luật, toán, cổ ngữ, lễ, Đạo giáo, lịch sử, song năng lực của sĩ tử viết được các thể văn khác nhau nhanh chóng trở thành báu vật văn hóa mà giới trí thức thời Đường tìm kiếm”.    (Benjamin A. Elman , 2000, tr. 9-10). Nhưng theo Hùng Khánh Niên, sở dĩ sĩ  đời Đường đa phần coi trọng khoa thi Tiến sĩ hơn khoa Minh kinh vì những người đỗ Minh kinh chỉ được tuyển bạt làm quan lại cấp châu quận; thêm nữa, vào những thời điểm  gặp khó khăn về kinh tế, như hồi loạn An Sử, năm 757, quốc khố trống rỗng, triều đình bất đắc dĩ phải cho phép nộp tiền để được công nhận minh kinh xuất thân, nhưng đối với khoa Tiến sĩ, không có việc đó (熊庆年, tr. 8).

Tuy nhiên, ngay từ đời Đường, đã diễn ra những cuộc tranh luận không ngớt về khuynh hướng kinh thuật hay từ chương trong khoa cử. Thời Thịnh Đường, Đường Huyền Tông là thời kỳ coi trọng việc dùng văn chương tuyển kẻ sĩ, khoa thi tiến sĩ còn gọi là 词科“từ khoa”. Năm 674, Lưu Hiểu dâng sớ nói : Bộ Lễ lấy kẻ sĩ, chuyên dùng văn chương phân biệt thứ hạng, nên kẻ sĩ trong thiên hạ đều bỏ đức hạnh mà chạy theo văn nghệ, có kẻ sáng đăng giáp khoa mà chiều rơi vào chỗ hình tội, tuy hàng ngày tụng vạn ngôn mà có quan hệ gì với lý thể, bảy bước thành văn mà chưa đủ giáo hóa mọi người. Huống tận tâm ở chốn cây cỏ, cực bút ở chốn mấy ráng, đến mức thành tục, há có phải là nói bậy ư. Ôi con người mà chuộng danh, như nước chảy xuôi, lên trên thì tốt, xuống thấp là hỏng. Bệ hạ thủ sĩ lấy đức hạnh làm đầu, văn nghệ là ngọn, tất nhiều kẻ sĩ nô nức, bốn phương phong động” (chuyển dẫn theo 刘海峰, tr. 7). Đã có một sự hòa giải bằng cách áp dụng cả nội dung thi Minh kinh cùng với thi Tiến sĩ ngay năm 752. 

Đầu đời Tống, tiếp tục tranh luận giữa hai phái kinh thuật và văn học. Đại biểu cho phái kinh thuật có Phạm Trọng Yêm, Tư Mã Quang, Vương An Thạch, đại biểu phái văn học có Âu Dương Tu, Tô Thức. Phạm Trọng Yêm “Khoa thi lấy tiến sĩ, dựa theo các đời thịnh trị, xin tấu: tiến sĩ trước thi sách luận sau thi thơ phú, ngoài các khoa mặc nghĩa đã thông kinh điển, khiến cho người không chuyên từ tháo, tất phải sáng rõ đạo lý, tất việc giảng học trong thiên hạ hưng thịnh, kẻ phù bạc biết là phải cố gắng, đó là điều hết  sức trọng yếu” (chuyển dẫn theo刘海峰, tr. 8). Vương An Thạch đề nghị cải cách văn thể, bãi bỏ các hạng mục khảo thí như thơ, phú, thiếp kinh, mặc nghĩa, yêu cầu các sĩ tử mỗi người chuyên trị một kinh trong số các kinh Dịch, Thi, Thư, Chu Lễ, Lễ Ký, kiêm luyện tập Luận ngữ, Mạnh Tử. Cuộc cải cách về  nội dung và phương pháp khảo thí này đề cao tác dụng của kinh nghĩa, sách, luận trong việc tuyển chọn kẻ sĩ.  Khảo thí được phân làm tứ trường: trường 1) hỏi 10 điều về đại kinh, đại nghĩa; trường 2) kiêm cả kinh và đại nghĩa mười điều; trường 3) một bài luận; trường 4) văn sách hỏi ba điều. Vào điện thí chuyên dùng văn sách. Cuốn Tam kinh tân nghĩa do Vương An Thạch biên soạn được triều đình dùng làm tài liệu học tập và đáp án tiêu chuẩn (刘海峰, tr. 9). Tư Mã Quang tiếp tục duy trì quan điểm tương đồng với Vương An Thạch về tiêu chuẩn thi chọn kẻ sĩ. Ông viết : “Đường lối thủ sĩ tất trước tiên phải dựa vào đức hạnh, sau đó mới đến văn học. Nói đến văn học thì kinh thuật tất đi trước từ chương”[3]. Lối văn kinh nghĩa của Vương An Thạch đặt nền tảng cho lối văn bát cổ là lối văn nặng về thử thách, gò bó, hạn chế năng lực sáng tạo của thí sinh.

Năm đầu niên hiệu Nguyên Hữu (1086), khi vừa lên ngôi, Tống Triết Tông lại chủ trương cân bằng giữa kinh thuật và văn chương, lập hai khoa Kinh nghĩa và Từ phú. Năm Nguyên Hữu thứ 2 (1087) thay đổi phép thi, khôi phục vị trí của thơ phú theo đó, khoa Tiến sĩ có bốn trường: trường 1) hỏi hai đề về kinh nghĩa chuyên về một kinh, Luận ngữ Mạnh Tử mỗi sách hỏi một đề; trường 2) thi thơ phú kiêm luật thơ mỗi môn một đề ; trường 3) một đề viết luận; trường 4) thi hai đề về chư tử, sử, thời vụ sách. Theo một bản tấu của Trung Thư tỉnh năm Nguyên Hữu thứ 8 (1093), sĩ tử phần đông luyện tập thi phú, trong số hơn hai ngàn một trăm Thái học sinh, chỉ có 82 người không kiêm thơ phú. Vua hạ chiếu năm sau vào Ngự thí, những người luyện tập thơ phú thi ba đề, những người chuyên trị kinh điển thi bài sách luận (刘海峰, tr.9). Như vậy, không phải chỉ ở các kỳ thi cấp tỉnh mà cả điện thí, thơ phú, văn học là một nội dung thi quan trọng. Tuy nhiên, chủ trương của nhà Tống về khoa cử diễn biến khá phức tạp: đến 1094, lại hạ chiếu thi tiến sĩ bãi bỏ thơ phú, chuyên tập kinh nghĩa, vào Đình đối, thi sách.

Sang đời Nguyên, những ảnh hưởng của Lý học Tống Nho bắt đầu thấy rõ trong chính sách khoa cử. Năm 1313, lấy nghị luận kinh nghĩa làm nội dung khảo thí chính. Nguyên Nhân Tông tiếp thu kiến nghị của các đại thần về việc “dĩ kinh thủ sĩ”, đã xác định mục đích khảo thí là để tuyển bạt kẻ sĩ “minh kinh tu thân” nên thiết lập khoa thi “đức hạnh minh kinh”, nội dung khảo thí chủ yếu là tri thức về kinh nghĩa, có bao gồm cổ phú, các thể văn ứng dụng như chiếu, cáo, biểu. Từ đây đến cuối đời Thanh, khoa cử đều lấy kinh nghĩa làm nội dung khảo thí chủ yếu.

Qua các đời Tống, Nguyên, thể chế khoa cử đã định hình thành quy phạm nhưng đến đời Minh, triều đình đã có cái nhìn phê phán khoa cử từ Hán đến Đường, Tống vì tình trạng thiên về văn chương. Chu Nguyên Chương, năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ (1370) nói trong chiếu thư “Từ các đời Hán, Đường đến Tống, việc chọn kẻ sĩ đều có định chế nhưng quý trọng văn học mà không truy cầu sự toàn diện của đức nghệ…Bắt đầu từ tháng 8 năm nay, thiết lập nền khoa cử cốt nhằm lấy những người hiểu biết kinh điển, tu dưỡng đức hạnh, uyên bác việc cổ kim, danh và thực tương xứng” (chuyển dẫn theo 柴志明, tr. 149). Năm thứ 12 niên hiệu Vĩnh Lạc (1413), Minh Thành Tổ sai tu soạn Tứ thư đại toàn, Ngũ Kinh đại toàn phố, Tính lý đại toàn  ban hành rộng rãi tiếp tục khẳng định chủ trương đó.  Tuy nhiên, Minh Thái Tổ và những người nối nghiệp chỉ lấy thể văn bát cổ bó buộc tài năng sáng tạo của sĩ tử vào một thể tài cứng nhắc. Thể văn bát cổ là một thể tài văn chương trong khảo thí khoa cử thời Minh-Thanh. Để trang trọng, người ta gọi đây là loại “chế văn” hay “chế nghệ” ý nói văn chương phụng mệnh sáng tác; còn nói sự thực, người ta dùng tên gọi “thời văn”, “thời nghệ”, với ý nói thứ văn ứng tác, đối phó với khảo thí, không dùng bên ngoài trường thi, khó mà lưu truyền hậu thế. Vương An Thạch đã từng đề nghị phế bỏ thi thơ phú, chỉ dùng kinh nghĩa khảo sát người ứng thí. Nội dung thể văn bát cổ xác định, về hình thức phải tuân thủ khuôn phép. Thí sinh phải đứng trên quan điểm nho gia để giải thích ý nghĩa của Tứ thư, phải dựa trên Tứ thư tập chú của Chu Hy, Lý học gia thời Tống. Đồng thời phải mô phỏng khẩu khí của thánh hiền cổ đại để hành văn (熊庆年, tr. 76). Thể văn bát cổ gò bó, công thức, không có tính sáng tạo. Cố Viêm Võ (1613-1682) phê phán thể văn bát cổ : “Cái hại của văn bát cổ ngang với việc đốt sách chôn nho; làm bại hoại nhân tài như chôn người ở Hàm Dương” (chuyển dẫn theo柴志明, tr. 150).    

  1. 2.          Khoa cử tại Việt Nam

Khoa cử tại Việt Nam phản ánh sự vận động của tư tưởng chính trị và văn hóa  Việt Nam thời trung đại. Ở đây chúng tôi chỉ bàn đến quan hệ giữa kinh thuật và từ chương.

Trong các khoa thi đầu tiên diễn ra vào đời Lý, nhà nước phong kiến chủ yếu dùng khoa cử để truyền bá, phổ biến Nho giáo. Theo Lịch triều hiến chương loại chi –Khoa mục chí, năm 1075 thi Minh kinh bác sĩ tức là tìm những người học rộng về kinh điển Nho giáo và thi Nho học tam trường. Các tài liệu lịch sử còn lại ghi chép chung chung, không cho biết rõ tam trường thi những nội dung cụ thể nào. Năm 1086 thi người có văn học, nhưng khái niệm văn học như đã nói, hoàn toàn không đồng nghĩa với văn học hay từ chương. Năm 1185, thi chọn người thông Kinh Thi, Kinh Thư thì liên quan đến kinh thuật. Điều này có thể hiểu được: giới văn học ở Đại Việt hồi đó chưa lớn mạnh và đông đảo. Thi tam giáo ở các năm 1195, 1227 phản ánh tư tưởng của triều đại Lý-Trần tranh thủ các giới trí thức cả ba giáo trong khi vẫn tiếp tục truyền bá Nho giáo ngày một sâu rộng bằng các khoa thi. Đến đời Trần, vào năm 1305, đã xuất hiện kỳ thi bốn trường mô phỏng thể thức thi thời Tống-Nguyên trong đó kết hợp cả luận thuật kinh điển và từ chương: trường 1 thi Kinh nghĩa (và Kinh nghi), trường 2 thi thơ cổ thể ngũ ngôn trường thiên lấy bốn chữ tài, nan, xạ, trĩ làm vần; phú dùng thể 8 vần; trường 3: thi chiếu, chế, biểu; trường 4 : thi văn sách (Phan Huy Chú, tr. 10-11). Có thể nói, bắt đầu  từ khoa thi này, dù có những biến động nhất định, song thể thức thi tứ trường kết hợp kinh thuật và từ chương là xu thế chính.  Khoa thi 1396 theo thể thức nhà Nguyên, phép thi bắt đầu chặt chẽ, hạn định số chữ của mỗi thể văn, ví dụ như bài kinh nghĩa từ 500 chữ trở lên, trường nhì thi một bài thơ Đường luật, bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao, văn tuyển, hạn định dung lượng từ 500 chữ trở lên; trường ba thi Chiếu, chế, biểu dùng thể tứ lục đời Đường; trường tư thi văn sách, đề hỏi về kinh sử, thời vụ, độ dài từ 1000 chữ trở lên (Phan, tr. 13). Định lệ này sẽ có ảnh hưởng  lâu dài đến khoa cử Việt Nam trung đại.   

Theo khảo cứu của Nguyễn Thế Long, chọn 7 khoa thi từ đời Trần đến đời Nguyễn, hầu như bốn kỳ thi (trường thi) mỗi khoa đều có sự phối hợp hai nội dung lớn là luận thuật kinh điển và từ chương, trừ khoa 1858.

Năm

Kỳ 1 Kỳ 2 Kỳ 3 Kỳ 4 Kỳ 5

1396

Trần Thuận Tông

Kinh nghĩa Thơ, phú

Chiếu, chế,

Biểu

Văn sách  
1406 Hồ Hán Thương Kinh nghĩa Thơ, phú Chiếu, chế biểu Văn sách Viết và toán
1434 Lê Thái Tông Kinh nghĩa Chiếu, chế, biểu Thơ, phú Văn sách  
1832 Minh Mệnh Kinh nghĩa Thơ, phú Văn sách Phúc hạch: 1 bài biểu  
1850 Kinh nghĩa Văn sách Chiếu, biểu, luật Thơ, phú  
1858 Tự Đức Kinh nghĩa Chiếu, biểu, luật Văn sách    
1876 Tự Đức Kinh nghĩa Thơ, phú Văn sách Phúc hạch : một bài chiếu hay biểu  

(Nguyễn Thế Long 1995, tr. 132)

Ở Đàng trong, năm 1674, Khoa thi chúa Nguyễn tổ chức cũng có ba kỳ gồm cả Kinh thuật và văn chương, kỳ 1 làm một bài tứ lục; kỳ 2 thi thơ phú; kỳ 3 thi văn sách.  Hồng Đức 1470-1497

Đó là nhìn chung, nói khái quát. Đi vào nghiên cứu chi tiết, thực tế phong phú, phức tạp hơn. Như quan sát của nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc chỉ ra, trong các bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long, ít nhất có 6 văn bia các khoa thi năm 1481, 1496, 1502, 1511, 1565, 1646 phê phán Công Tôn Hoằng và Vương An Thạch (Nguyễn Vinh Phúc, tr. 324). Phải chăng trong khoảng thời gian này, khoa cử Việt Nam chưa bị ảnh hưởng bởi chủ trương thiên trọng kinh thuật, đè nén từ chương với lối văn bát cổ phản tiến bộ của Vương An Thạch ? Nhưng chính văn bia do Nguyễn Đôn Phục soạn vào đời Hồng Đức năm thứ 15 (1484) cho khoa thi 1478 ghi nhận việc dùng kinh nghĩa, sách luận để thi tuyển sĩ tử đã được chú ý từ thời Lê Thái Tổ: “Thái tổ Cao Hoàng Đế ngay từ khi sáng lập ra triều ta đã dùng kinh nghĩa,  sách luận để thi học trò, khoa mục khởi thủy từ đấy. Thái Tông Văn Hoàng Đế kế nghiệp, mở mang kỷ cương…Nhân Tông Hoàng Đế nối theo phép cũ không dám sơ xuất” (Ngô Đức Thọ, tr. 202). Có lẽ điểm này cần được xác minh thêm bằng nhiều tư liệu khác.

Những biến động trong văn thể ở thế kỷ XVII, tức là sau khi nhà Lê đánh bại nhà Mạc, khôi phục được quyền lực mà nhà nho xưa định danh là Lê Trung hưng, được phản ánh trong các chủ trương nhiều lần được nhắc lại: cần trở lại với văn thể đời Hồng Đức. Năm Chính Hòa thứ 14, 1693, có lệnh trở lại văn thể đời Hồng Đức. “Từ Trung Hưng đến nay những người học hành, chuyên chuộng tầm chương trích cú, văn chương ngày càng thấp kém và dở. Bài trường thiên đến chỗ trực đoạn tất dùng một câu khai giảng. Để chiếu ứng toàn đoạn thì đặt chữ “nhiên”, nhưng ở đầu thì gọi là ‘quá tiếp thể” (thể chuyển tiếp),cứ nhắm mắt mà viết thẳng ra, cho nên thực ra không có cấu tứ gì. Thi, phú, tứ lục đều rập theo thể văn cũ, không ngại trùng lặp. Đến đây mới ra lệnh chấn chỉnh lại: từ nay phép thi nhất thể dùng thể văn đời Hồng Đức. Lúc làm bài thì tùy câu hỏi, cốt dùng ý mình nghĩ mà viết ra,hơi văn hồn nhiên, không được viết trầm theo lời văn cũ [đã thuộc] (Đại Việt sử ký tục biên, tr. 38).

Đến năm Cảnh Hưng thứ 12 (1751),  “Chỉ dụ cho các học quan khôi phục văn thể đời Hồng Đức. Buổi quốc sơ về văn chương hùng hồn chứ không cần cân đối. Cốt nói được điều cốt yếu, đại thể, chứ không phân biệt từng mục nhỏ. Khoảng niên hiệu Thiệu Bình (1434-1439), Hồng Đức (1470-1498), môn kinh nghĩa không câu nệ ở chương nào, như câu “Nhặng xanh kêu vo ve, đậu ở tấm phên”[4] . Sĩ tử nếu không phải là người thông kinh truyện, thì không thể làm được kinh nghĩa. Về môn tứ lục, thơ, phú, khi thì dùng cổ sử, khi thì dùng sách ngoại thư [ngoài kinh điển qui đinh] hoặc dùng chính sự đương thời, ví như những đề ra sau đây : bài chế “Cho Lê Niệm giữ chức Bình Chương”, bài biểu “Về việc Chiêm Thành cống voi” và các đề thơ phú như “Độ nghĩ kiều”, “Nghiễn trì ngưu”, “Ngư phủ nhập đào nguyên”, “Hải đường thụy vị túc” v.v…nếu không phải người giỏi về từ phú thì không thể làm được thơ phú và tứ lục. Văn sách cũng thế. Đầu đời Trung Hưng, một lần biến thành lối văn tầm chương trích cú. Khoảng năm Chính Hòa, Giáp Tuất (1694) bàn khôi phục lại văn thể Hồng Đức. Vũ Thành, Ngô Vi Thực nối nhau chấn chỉnh và chỉ thi ở hai kỳ xuân thu. Những kỳ văn sách thi hội lại khôi phục thể chế cũ. Năm ngoái, kỳ phúc khảo ở bãi Trung sa, Ngô Đình Oánh và Trần Huy Bật ra đề, lại chia ra nhiều mục. Nhữ Đình Toản ghét, xin với Chúa ban dụ chỉ xuống rằng: văn sách cổ hỏi về sự đúng sai của chính thể đại lược, văn sách kim hỏi việc thời sự cơ nghi, các kỳ thi hương, hội, đình đều theo văn thể Hồng Đức” (Đại Việt sử ký tục biên, tr. 220-221). Về hiện tượng này, Phan Huy Chú bình luận như sau “Văn chương thi cử đời Lê, sau khi Trung hưng so với khi mới khai quốc khác nhau rất xa. Trước văn gọn mà ý sâu, đến sau Trung hưng thì văn rườm rà mà ý cạn. Khi trước văn lưu loát mà rộng, đến sau Trung hưng thì văn hẹp hòi mà quê mùa…Ngay như lúc này bàn theo văn thể đời Hồng Đức, mà cũng chỉ thi hành được hai khoa, rồi sau lại chia mục từng chương, ra đề lại y như thói cũ. Đến cuối đời Cảnh Hưng, càng tủn mủn tìm tòi, chương cú vụn vặt, không còn chút khí cách hùng hồn nữa. Ôi đổi suy ra thịnh, đổi kiêu bạc ra thuần hậu, thật có quan hệ đến vận đời, muốn một phen chấn tác, có lẽ cần phải đợi chăng” (Phan Huy Chú, tr. 33). Ông còn dẫn lời khải lên chúa Trịnh của Ngô Thì Sĩ : “Văn chương quan hệ thế đạo, mà muốn cầu người tài giỏi phải lấy giáo hóa làm đầu. Bản triều ở đời Hồng Đức, phép dạy phép thi cũng chỉ có kinh nghĩa, lấy nghĩa tùy ý đặt lời, nếu không phải là người học rộng hiểu sâu thì không làm nổi; tứ lục dùng cả cổ thể và công việc bản triều; thơ phú thì hoặc theo lối Ly tao, hoặc theo lối văn tuyển, không cứ thể cách ngũ ngôn hay thất ngôn, lối bát vận của Lý Bạch, hay lối liên châu, có khi dùng sử truyện và sách ngoài, cùng tả cảnh, nếu không xem rộng chư tử và các sử, và không có văn nghệ dồi dào, cũng không làm được” (Phan Huy Chú, tr. 33-34).

Để đánh giá đúng các ý kiến nói trên của người xưa thực ra chúng ta cần có nhiều tư liệu để so sánh văn thể Hồng Đức với văn thể sau Trung hưng, một nhiệm vụ lớn, phức tạp không thể giải quyết ngay trong bài này. Điều khó khăn mà thú vị của người đọc hiện đại là tìm ra mạch ngầm ẩn dưới những diễn ngôn phê phán văn chương từ sau Trung hưng và yêu cầu phục hồi lại văn thể đời Hồng Đức. Có hiểu được diễn ngôn này thì mới hiểu được ý kiến của Lê Quý Đôn và hiểu được không gian văn hóa nửa cuối thế kỷ XVIII.

Việc lấy mốc Lê Trung hưng để đánh giá phê phán văn thể khoa cử, việc lấy văn thể thời Hồng Đức làm chuẩn mực là thực tế suy nghĩ phổ biến không chỉ trong văn bản chính thức mang tính quan phương như lời khải của Ngô Thì Sĩ, lời bình luận của sử gia như Phan Huy Chú mà cả của các văn nhân thi sĩ viết với tư cách cá nhân. Phạm Đình Hổ viết trong Vũ trung tùy bút “Từ đời Lê Trung hưng trở về sau, văn thể càng ngày càng kém…Khoảng đời Minh Đức, Đại Chính khí thế càng ngày càng kém. Những kẻ tao nhân văn sĩ đều đua nhau theo lối văn phù phiếm, so với đời Tiền Lê, lại càng kém lắm. Song thói học còn chưa đến nỗi hủ lậu, nên học vấn, văn chương, chính sự , công nghiệp, cũng không đến kém cổ nhân mấy. Đến đời Lê Trung hưng thì cái danh nghĩa khôi phục, tuy chính đáng thật, nhưng quyền về Trịnh súy phủ. Những người thân sĩ Thanh Nghệ phần nhiều được giữ vị trí trọng yếu; phong thanh, khí tập có khác với thói khoan hòa, giản dị đất Tứ Tuyên. Vả lại cái đức chính của đời Minh Đức, Đại Chính nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên vận trời đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết. Những nhà nho đời bấy giờ còn nhiều người còn nhiều người còn náu hình giấu bóng không chịu ra. Còn những kẻ ra ứng dụng cho đời thì phần nhiều là những phường hủ lậu, ít người tài giỏi. Học trò Thanh Nghệ trải qua buổi loạn lạc, không được học mấy; khi ra làm quan, chiếm được địa vị trọng yếu coi giữ việc công, chỉ làm theo ý riêng của mình, muốn thắng cả tiền nhân. Những khi giảng học và mở khoa thi, phàm những đại nghĩa kinh truyện và nguồn gốc trị loạn từ xưa tới nay, điều hay điều dở không mấy người để ý khảo sát cho tinh, chỉ chuyên học những bài chú thích, những bài nghị luận của các bậc hậu nho và nhặt lấy những câu đầu đề hiểm hóc để ra văn cho hay. Những kẻ chuộng công danh lúc bấy giờ chỉ theo đòi hóng gió, tập làm lối văn chương hoa hòe, chứ không có căn bản gì cả…Học tập như thế mà mong làm những việc kinh bang tế thế thì sao được”  (Phạm Đình Hổ , tr. 176-178).

Về nội dung thi, Phạm Đình Hổ viết trong bài Phép thi : “Từ đời Lê Trung Hưng trở về sau, thi Đình thi bài chế sách, thi Hội, thi Hương cũng toàn thi văn chương cả” (Phạm Đình Hổ , tr. 179). Về thể văn bát cổ, Phạm Đình Hổ phản đối ý kiến Lê Quý Đôn (Lê Quý Đôn nói trong Kiến văn tiểu lục rằng lối văn bát cổ không có quan thiết gì đến trị thế). “Lối văn bát cổ tuy không có quan hệ gì đến phép trị nước, nhưng tập làm được lối văn ấy, nếu không phải là người học quán xuyến cả kinh truyện, thì không thể hạ bút mà viết được” (Phạm Đình Hổ, tr. 181).  

Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục tranh luận với quan điểm chủ trương dùng văn bát cổ đương thời: “Gần đây, có người nói văn bát cổ ở Trung Quốc mới mẻ, sắc sảo, trang nhã, dồi dào, quan Tham tụng Nguyễn Công Hãng muốn dùng thể văn ấy để thi lấy sĩ tử. Tôi thiết nghĩ như thế là không đúng. Bởi vì đặt ra khoa cử, tuy có thi, từ, phú, sách, luận, thể thì văn hoa, thể thì chất thực, thể chế khác nhau, nhưng tóm lại, chỉ là dùng lời nói suông để chọn người, mà người ta cũng dùng lời nói suông ứng đối lại, thực ra thì đến khi thi thố ra việc làm, vẫn không phải ở những điều ấy, vả lại căn cứ vào mấy bài thi nơi trường ốc, chỉ biết sơ lược đại khái,  làm gì mà có thể xem xét hết được nhân tài ? …Vậy khoa điều cử nghiệp cần phải bớt đi, trình thức cần phải giản dị, thì sĩ tử không phân tán chí ý, mà việc học được chuyên mà văn từ mới có thể khả quan, nhân tài không đến nỗi bỏ sót. Nếu không thế thì không tránh được mối lo như người đi nhiều đường tìm dê mà dê vẫn bị mất. Nhà Tống chia kinh nghĩa và thơ phú làm hai khoa, cho sĩ tử được tùy ý làm bài thi, quan trường đều phân biệt phê duyệt lấy đỗ; phép thi triều nhà Minh, nhà Thanh, chỉ có kinh nghĩa, phú, văn sách và bài luận, chia làm ba kỳ, sĩ tử đều được làm cả các bài, quan trường duyệt cả các bài mới định được thủ xả. Nay phép thi của bản triều, kỳ đầu thi kinh nghĩa, kỳ hai thi chiếu, chế và biểu, kỳ ba thi thơ phú, kỳ bốn thi văn sách. Bốn kỳ được hợp cách mới là trúng tuyển, mỗi kỳ một lần duyệt, đã sàng sảy đi rồi, nếu lại thay bằng văn bát cổ thi vào kỳ đầu, để hạn chế bó buộc sĩ tử, thì còn được mấy người dự tuyển nữa. Sáo văn kinh nghĩa thật là vụng về quê kệch không có văn chương, cốt yếu đều theo ý nghĩa ông Trình, ông Chu, bắt người ta phải học thuộc lòng những bài truyện chú, rồi xén bớt biến hóa đi cho hợp với thể cách, đã là khó rồi, nhưng cứ như thế cũng có thể biết được người thông suốt tinh tường nghĩa sách, việc gì phải dùng thể thức mới nữa” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, 104-105).

Tổng hợp lại, có thể xác định hai tư tưởng có liên hệ chặt chẽ với nhau ngầm ẩn sau các diễn ngôn phê phán văn thể hậu Lê Trung hưng và yêu cầu khôi phục lại văn thể thời Hồng Đức. Tư tưởng thứ nhất là mượn thực trạng khoa cử với rất nhiều tệ lậu, không phải chỉ ở phạm vi văn thể với sự lợi hay hại của văn bát cổ mà trong nhiều lĩnh vực khác như vấn đề đề thi, vấn đề mua bán danh vị, việc thu tiền “thông kinh”… để phê phán chính trị từ sau Lê Trung hưng, thời kỳ kéo dài từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thập niên tám mươi của thế kỷ XVIII-thời kỳ các chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, biến vua Lê thành bù nhìn, ngai vàng vua Lê thành hư vị. Khoa cử có quan hệ mật thiết với chính trị. Giáo dục của đạo Nho coi trọng nhất ở lòng trung quân, nhưng chính người lãnh đạo tối cao, nắm thực quyền là các chúa Trịnh từ sau đời Lê Trung hưng cậy công lao đánh bại “ngụy Mạc”, dấy nền trung hưng, đã nắm thực quyền, chà đạp lên danh giáo. Chúa Trịnh công nhiên ra đề thi trong kỳ thi Đình, một công việc mà các hoàng đế trước đây thường làm. Danh phận, lễ nghĩa bị vùi dập. Vậy thì luận kinh nghĩa để làm gì, và ai dám bàn trực diện về đạo trung hiếu nữa đây. Văn chương khoa cử cuối cùng né tránh những vấn đề bức thiết của thời vụ, sa vào hoa hòe, tầm chương trích cú, sa vào nội dung trống rỗng, không cơ bản[5]-thực trạng đáng phê phán đó của khoa cử mà rất nhiều diễn ngôn về khoa cử của người đương thời thực ra chỉ là bề nổi của một thực trạng khác đáng phê phán hơn mà các nhà nho bàn về khoa cử không tiện, không dám nói ra nhưng muốn gửi gắm. Tư tưởng thứ hai là cần khôi phục lại trật tự đạo đức Nho giáo đã bị phá vỡ sau Lê Trung hưng, mà việc khôi phục văn thể đời Hồng Đức chỉ là hình thức diễn ngôn, là phương tiện gửi gắm. Ở trên chúng tôi đã lưu ý đến một số văn bia tiến sĩ đời Hồng Đức và sau đó ở thế kỷ XVI khẳng định nguyên tắc chọn kẻ sĩ tiên đức hạnh, hậu văn chương, nguyên tắc đã được chính Vương An Thạch nhà Tống đề cao.  Có thể nói, luận điểm trở lại văn thể đời Hồng Đức được phát biểu là cách gián tiếp phê phán tình trạng “lưỡng đầu chế” của xã hội Việt Nam kể từ sau Lê Trung Hưng. Cải cách văn thể có liên quan mật thiết đến thay đổi chính trị chứ không chỉ thuần túy dừng lại ở văn thể.

  1. Quan điểm văn của Lê Quý Đôn

Đến đây thì chúng ta có thể nhận ra Lê Quý Đôn muốn đối thoại với ai, với quan điểm nào khi ông viết thiên Văn nghệ trong Vân Đài loại ngữ. Những người trước và đương thời với Lê Quý Đôn chủ trương trở lại văn thể Hồng Đức như đã phân tích trên đây đã tách rời “văn” và “đức” (như ngày nay gọi là văn và người), điều mà theo Lê Quý Đôn, không thể làm được. Văn và đức là hai mặt của một bản chất không tách rời. Ông muốn trình bày có lý luận, bài bản nhất mối quan hệ này, điều mà  hầu như chưa có một nhà nho nào làm được trong lịch sử Việt Nam  trung đại.

  1. 2.1.          Lý luận về quan hệ giữa văn và đức     

Mục đích của khoa cử thời cổ, trung đại là tuyển chọn nhân tài cho hệ thống chính quyền nhà nước. Nhưng tài năng là một cái gì trừu tượng, mơ hồ, không nhìn thấy được.  Một câu hỏi tất yếu đã được đặt ra từ thời cổ đại : căn cứ vào cái gì để đo đếm được tài năng của một con người ?  Các nhà tư tưởng cổ đại đã đề cập đến mối quan hệ giữa năng lực biểu đạt ngôn từ với tài năng. Khổng Tử đã nói đến các cặp quan hệ “đức” và “ngôn”, “chất” và “văn”. Hình thức cao nhất của năng lực ngôn từ chính là thi ca. Ông nhắc nhở học trò “Bất học thi vô dĩ ngôn (Không học Kinh Thi lấy gì để nói). Thiên Nghiêu điển (Thượng Thư) khẳng định ngắn gọn “Thi ngôn chí”, Trịnh Huyền chú “Thi sở dĩ ngôn nhân chi chí ý dã” (Thơ nói ý chí của con người). Theo khảo cứu của nhà nghiên cứu Chu Tự Thanh, “chí” là “hoài bão”, điều ôm ấp trong lòng. Người có tài năng, khát vọng chính trị phải dùng thi ca để biểu lộ hoài bão- điều ấp ủ trong lòng. Thời cổ đại, theo khảo cứu của Chu Tự Thanh, có nhiều cách thực hành chức năng, công dụng của thi như “hiến thi trần chí”, “phú thi ngôn chí”, “giáo thi minh chí”, “tác thi ngôn chí”…

Khái quát lý thuyết về mối quan hệ giữa văn và đức, thiên Nguyên đạo của Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp viết: “Con rồng, con phượng có vẩy, có lông để phô bày sự rực rỡ, con hổ con báo có vằn có đốm để ngưng tụ vẻ ly kỳ. Mây ráng có sắc màu như họa công vẽ tranh. Cây cỏ tươi hoa lá như Chức nữ dệt gấm. Mọi thứ đều có vẻ ngoài trang sức, đó cũng là tự nhiên. Đến như gió thổi trong rừng như đàn cầm đán sắt, suối reo trên đá như tiếng khánh tiếng chuông. Cho nên có hình thì thành chương, thanh phát thì thành văn vậy. Các vật vô tri vô giác mà cũng tự nhiên có văn. Huống hồ con người có tâm lại không có văn hay sao ?” (Lưu Hiệp, tr. 49). Vũ trụ luận cổ đại mà Lưu Hiệp cũng như Lê Quý Đôn trình bày đều chú ý đến tính phổ quát của “văn” như là một phương thức biểu đạt một phẩm chất nội tại. Lưu Hiệp kết thúc thiên Nguyên đạo “Kể từ Phục Hy truyền đến Khổng Tử, các huyền thánh sáng tạo khuôn mẫu, bậc Tố Vương thuật giảng giáo huấn, tất thảy đều do đạo tâm mà phô bày, từ thần lý mà thiết giáo, tìm tượng hình ở Hà Đồ, Lạc Thư, hỏi vận số ở cỏ thi mai rùa. Xem văn của trời mà suy thấu lẽ biến chuyển, xét văn của người mà giáo hóa thành công; nhờ đó mà kinh luân được quốc gia, chỉnh lý được pháp độ, làm vẻ vang cho sự nghiệp, làm giàu đẹp cho văn từ. Mới hay: Đạo nhờ thánh nhân mà truyền văn, thánh nhân nhờ văn mà minh đạo, nơi nơi thông suốt mà không trì trệ, ngày ngày sử dụng mà không thiếu hao. Kinh Dịch nói rằng, “Lời nói sở dĩ có thể cổ vũ được thiên hạ, đó là văn của đạo vậy” (Lưu Hiệp, tr. 49-50). Văn tâm điêu long chỉ rõ, văn trước hết là thứ văn học chức năng có khả năng làm rõ tư tưởng thánh hiền (trưng thánh) và làm sáng tỏ lục kinh (tông kinh). Ông viết “Theo cách chọn người bằng cửu năng thì việc chính trị và từ hàn (từ chương) là một thể” “những người nào cho văn chương là cành, là lá thì thật chưa biết điều đó” (Lê Quý Đôn b, tr. 96).

  1. 2.2.          Chủ trương rèn tập từ chương văn học :

Sau khi lập luận về mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa văn và đức, Lê Quý Đôn mượn quyền uy phát ngôn của cổ nhân, trình bày các mẫu mực văn chương ở các thời theo quan điểm của ông, như muốn chống lại lối văn mẫu, lối văn trường ốc bán tràn lan đương thời, khiến sĩ tử ai nấy đều mua, học thuộc lòng, một xu hướng rất có hại tư duy và thực học của sĩ tử. Đây là một quan điểm khai phóng, mở rộng phạm vi đọc, học hỏi của sĩ tử, văn nhân, không chỉ gói gọn trong phạm vi Tứ thư, Ngũ kinh. Các sách được ông liệt kê có : Trang Tử, Hoài Nam Tử, Sử ký, Tả truyện, Sở từ, Quốc ngữ, Tam quốc chí…Ông dẫn các lời bàn của cổ nhân về nghệ thuật đọc sách, nghệ thuật viết. Ông dường như muốn giới thiệu cho giới sĩ tử các thể văn mẫu mực cần đọc “Văn nghị luận thì phải lấy sách của Đổng Trọng Thư và Lưu Hướng làm chủ. Ông dẫn Văn tâm điêu long  bàn về các loại tác phẩm mẫu mực thực sự : “Sách Văn tâm điêu long chép :  Luận thuyết, từ, tự thì Kinh Dịch làm đầu. Chiếu sách chương tấu thì Kinh Thư khởi nguồn. Phú tụng ca tán thì Kinh Thi dựng thể cách. Minh, châm, lụy, chúc thì Kinh Lễ mở mối. Ký, truyện, di, hịch thì Kinh Xuân Thu làm gốc. Tăng Nam Phong nói “Văn chương nguồn gốc ở Lục Kinh, thật đã thấy rõ điều đó ở đây” (Lê Quý Đôn b, tr. 103). “Chu tử nói : “Người nào muốn biết làm văn phải đọc văn của bộ Tây Hán, văn của Âu Dương Tu, văn của Nam Phong và văn của Hàn Dũ”. Ông dẫn nhiều lời bàn của Âu Dương Tu, ví dụ, “Văn chương thánh nhân mượn đó để diễn đạt tới chỗ lòng mình muốn nói, đã đạt tới thì thôi, đã cùng lý thì thôi, không phải cố ý đề cao nó, hay hạ thấp nó, hay làm tỏ tường nó, hay làm giản lược nó. Cho nên chỗ đồng nhau hay khác nhau về văn chương là do ở khí cách cao hay thấp, ở ý tứ cạn hay sâu, chứ không phải ở việc cắt phân chương cú, phế bỏ thanh vận” (Lê Quý Đôn b, tr. 106). Ông dẫn các lời bàn của cổ nhân, bàn  rất sâu về các thể loại, đặc biệt là thơ hay.

Về bản chất cái hay, cái đẹp của văn chương, ông đặc biệt đề cao sự chân thực, điều thường rất thiếu trong thức văn chương nói chí, kể cả văn khoa cử, khi kẻ sĩ có điều chất chứa trong lòng thì không nói ra, điều nói ra lại giả tạo. Ông viết “Tư Mã Thiên và Ban Cố chỉ căn cứ vào sự thật mà chép, vốn không có ý làm văn chương, cho nên văn hay. Đầu đời nhà Tống thì có ý lấy việc tu chỉnh bộ sử làm văn chương, cho nên văn không hay”. Không chỉ sự thật khách quan mà cả sự chân thật từ trong tâm của kẻ làm văn chính là những yếu tố quyết định cái hay của văn chương. “Thơ khởi phát tự lòng người. Ba trăm thiên trong Kinh Thi phần nhiều xuất phát từ điền phu, khuê phụ mà các văn sĩ đời sau không thể theo kịp được, là vì nó chân thành. Những bài ca, bài hành trong Nhạc phủ đời nhà Hán, nhà Ngụy còn có ý vị đời xưa. Từ đấy trở về sau, thơ bị thanh luật bó buộc, bị âm vận giới hạn, người có tài thường lo về phóng túng, kẻ bất tài thường khổ về câu nệ mà những gì phát tự cõi lòng đều không chân thật” (Lê Quý Đôn b, tr. 124). Bản chất vấn đề không phải ở cải cách văn thể mà ở sự chân thực trong tâm của người viết.

Lê Quý Đôn cân bằng giữa từ chương và kinh thuật nhưng về kinh thuật, ông lưu ý đến cách học “Cuối đời Nam Tống, người học Lục kinh không đọc bổn văn và phần truyện, phần chú của các nhà nho đời trước, chỉ lấy những bài văn trúng tuyển trong khoa cử đời gần đây đọc lên bắt chước theo. Chọn lấy những câu có thể làm đề mục trong kinh rồi đem ý nắn nót làm càn lấy chủ trương. Đó là điều mà ông Khảo Đình (Chu Hy) phải than thở và là cái tệ hại thông thường của hậu lai. Chọn kẻ sĩ lại không chuyên thực hành, giảng học lại không chuyên kinh thuật thì không thể ngăn cấm việc phù phiếm khô khan rối loạn được” (Lê Quý Đôn b, tr 113-114).  

Cách tiếp cận của ông đối với các kinh điển Nho giáo rất khác, rất ít thấy ở các nhà nho khác thời trung đại : ông nhấn mạnh đến khía cạnh điển phạm về từ chương, văn thể của Ngũ Kinh như để lưu ý cho kẻ học, người đi thi cần học tập những gì ở các kinh điển đó. Ông nhất quán với bản thân mình, không khi nào tách rời văn và đạo. Luận thuật kinh điển và nắm vững chính nghệ thuật từ chương của kinh điển là một điểm mới rất đáng ghi nhận ở tư tưởng Lê Quý Đôn. 

Không phải ngẫu nhiên, Hoàng Việt văn hải (Lê Quý Đôn biên tập) và Hoàng Việt văn tuyển (Bùi Huy Bích biên tập) chỉ chọn các thể loại chức năng như phú, hịch, cáo, chiếu, chế, biểu mà không quan tâm đến các tác phẩm văn xuôi có cốt truyện. Phải chăng các vị muốn giới thiệu cho kẻ sĩ đương thời những mẫu mực thơ văn nên học theo ?

Kết luận

Lịch sử khoa cử và các diễn ngôn về khoa cử không thể xem xét tách rời lịch sử chính trị và văn hóa xã hội của đất nước.

Lê Quý Đôn đối thoại lại với chủ trương khôi phục văn thể Hồng Đức, một chủ trương tách rời “văn” và “đạo”, đạo trước mà văn sau. Ông chủ trương một quan điểm “biện chứng” cả về lý thuyết và thực tiễn, theo đó văn và đạo không thể tách bạch được; ông phê phán, tranh luận với quan điểm nhị nguyên luận, hoặc A hoặc B. Lê Quý Đôn có lẽ  là nhà “giải cấu trúc” sớm nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Viết phần Văn nghệ trong Vân Đài loại ngữ, nhà bác học không chỉ khẳng định tầm quan trọng của văn đối với việc đánh giá lựa chọn con người và đối với việc thực hành sống, thực hành chính trị của kẻ sĩ đã đỗ đạt, ông còn lần đầu tiên cố gắng giảng thuật những nhân tố làm cho văn chương hay, tức là thực hành từ chương học, không bàn suông về đạo lý, về thời chính như khá nhiều nhà nho quan tâm đến xã hội Việt Nam sau Trung hưng. Lê Quý Đôn thuộc số hiếm mẫu nhà nho quan tâm đến không chỉ nội dung giáo huấn mà cả giá trị văn học của kinh điển Nho giáo. Những người được đào tạo để tham gia vào bộ máy chính quyền cần nắm vững đồng thời cả kiến thức kinh điển Nho giáo và có năng lực biểu đạt kinh điển một cách văn chương, tức là phải nói và viết hay, đẹp. Quan điểm này đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị. Thực hành từ chương học như Lê Quí Đôn chủ trương có thể là độc đáo không chỉ trong lịch sử khoa cử Việt Nam mà cả ở Trung Quốc, một nhận xét cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn.  

Tài liệu tham khảo

Trần Thị Kim Anh (2009), Sách văn và kinh nghĩa trong khoa trường Nho học ở nước ta, Tạp chí Hán Nôm, số 2 (93).

Phan Huy Chú (2002) Lịch triều hiến chương loại chí (Bản dịch), tập 2, NXB

Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) (2012), NXB Hồng Đức-Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông-Tây, Bản dịch của Ngô Thế Long-Nguyễn Kim Hưng.

Nguyễn Tuấn Cường (2010), Nghiên cứu Tứ thư ước giải (Lược tả văn bản và giải đọc bài tựa của Lê Quý Đôn) Tạp chí Hán Nôm, số 6 (103).

Vũ Phương Đề (2001) Công dư tiệp ký, NXB Văn học

Lê Quý Đôn a (2006), Vân đài loại ngữ, bản dịch Trần Văn Giáp 1961, NXB Văn hóa –Thông tin tái bản

Lê Quý Đôn b (1995), Vân đài loại ngữ, bản dịch Tạ Quang Phát, tập 2, NXB Văn hóa –Thông tin tái bản.

Phạm Đình Hổ (2001) Vũ trung tùy bút, Nguyễn Hữu Tiến dịch và chú thích, NXB Văn học.  

Ngô Thế Long 1995, Nho học ở Việt Nam –giáo dục và thi cử, NXB Giáo dục.

Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến thời Pháp thuộc, NXB Đại học Quốc gia Thành phố HCM.

Nguyễn Vinh Phúc (2000), Các bia tiến sĩ Văn Miếu Hà Nội đã nói những gì ( in trong Vit Nam học : Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, NXB Thế giới, 2000)
Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Viện sử học, tập I, NXB Giáo dục.
 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Viện sử học, tập II, NXB Giáo dục.
Chu Phát Tăng, Trần Long Đào, Tề Cát Tường (2001), Từ điển lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc, Nguyễn Văn Dương dịch, NXB Trẻ. 
Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, in lần 4, NXB Tổng hợp Thành phố HCM.
Benjamin A. Elman (2000), A Cultural History of Civil Examinations in Late Imperial China, University of California Press.

Benjamin A. Elman (2013), Civil Examinations and Meritocracy in Late Imperial China, Harvard University Press.

朱自青, (1998), 朱自青说诗,  上海古籍出版社

熊庆年(1997), 中国古代科举百态, 东方出版中心

林白, 朱梅苏 (2002), 中国科举史话, 江西人民出版社

李元华 (1994), 中国古代科举与 考试, 北京出版社

刘海峰 (2009), 科举制与儒学的传承繁衍, 中国地质大学学報(社会科学版), 第9 卷第一期 2009 年1月.

柴志明 (2004) 试论科举文化熏陶下的明代文人, 浙江大学学报人文社会科学版, 第34 卷第3其2004年5月.  

张希清 (1993), 中国科举考试制度, 新华出版社

Bài đã in trên Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số  tháng 4/2020

 


[1] ) Chữ Hán : 文章者立身之大本經世之大務. 唐人言取士必以德行為先文藝為末, 盖為當日書判言耳, 非迪論也. 朱子曰: 言之無文行之不遠, 四教必先之, 以文約禮必先博文, 未嘗指為末事. 論語: 志於道據於德依於仁游於藝, 亦只平面說云不曾分本末. 毛詩傳說九能云 : 建 邦能命龜, 田能施命, 作器能銘, 使能造命, 升高能賦, 師旅能誓, 山川能說, 喪紀能誄, 祭祀能祝. 君子能九者,可謂有德音, 可以為大夫. 周家取士大概 如此, 是可謂為末乎. 大柢發外之英华由於銜中 之和順. 故有德者必有言, 有行者必學. 鳳爛其羽, 豹澤其毛, 修飾蕴依表裏一致. 朱子謂: 威儀之中度,言語之當理, 皆文也.  又云: 教以禮樂射御書數之文, 安有人既從事於此而謂有歉於德行者乎 ? 觀人者正當於此論, 不宜岐視 (Lê Quý Đôn b, tờ 1b, 2a)

[2] ) Khảo thí đời Đường có nhiều khoa mục như thi Tú tài, Minh kinh, Tú sĩ, Minh pháp, Minh tự, Minh toán v.v…Khoa Tiến sĩ đời Đường lấy thơ, phú làm chủ đạo. Khoa thi Minh kinh yêu cầu ứng thí thuộc kinh điển Nho gia và các bản chú sớ có quyền uy. Theo Hùng Khánh Niên, so với khoa Tiến sĩ thì khảo thí Minh kinh có phần dễ dàng hơn vì chủ yếu yêu cầu nhớ tốt, công phu học thuộc. Tuổi trẻ trí nhớ còn mạnh mẽ nên khá nhiều người đỗ Minh kinh khi còn trẻ tuổi, còn người đỗ Tiến sĩ thường ở độ tuồi đã cao. “Ngũ thập thiếu Tiến sĩ/Tam thập lão Minh kinh” (Năm mươi tuổi đỗ tiến sĩ còn là trẻ/Ba mươi tuổi đỗ Minh kinh đã là già” (五十少进士, 三十老明經 ) 熊庆年, tr.7).

[3] Nguyên văn “Thủ sĩ chi đạo, đương tiên đức hạnh, hậu văn học . Tựu văn học ngôn chi, kinh thuật hựu tiên ư từ thái”. Luận điểm này thường bắt gặp trong diễn ngôn về khoa cử tại một số thời kỳ ở Việt Nam trung đại. Ví dụ Văn bia Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 6 (1475) do Lê Ngạn Tuấn soạn có câu “Lựa chọn kẻ sĩ ắt trước hết phải xét đức hạnh sau mới xét văn chương, tức là phép tốt của lệ hương cử vậy” (Ngô Đức Thọ, tr. 190) (kỳ thủ sĩ tất tiên đức hạnh nhi hậu văn chương, tức hương lý cử tuyển chi lương pháp dã). Trong bài văn bia Tiến sĩ khoa Giáp Tuất năm Hồng Thuận thứ 6 (1514) của Vũ Duệ có nói:  “Trước phải trau dồi khí tiết, sau mới tới tài nghệ; trước phải nên đức hạnh, sau mới tới văn chương” (Ngô Đức Thọ, tr. 282) (tiên khí thức nhi hậu tài nghệ, tiên đức hạnh nhi hậu văn chương).

[4] ) Một câu trong thơ Thanh dăng, thiên Tiểu nhã, Kinh Thi, ý nói giống nhặng xanh làm cho thứ sạch thành bẩn, chỉ bọn tiểu nhân hay gièm pha.

[5] ) Phạm Đình Hổ nói về thơ khoa cử đời Lê Trung hưng “những bài thơ cử tử, cẩu thả xu thời; toàn là thô kệch cả”. Ông dẫn chứng hai câu trong một bài thơ ứng chế Thời hân phùng chí trị/ Thần nguyện thú tam thê (Mừng gặp thời thịnh đạt/ Muốn lấy đủ ba bà) (Phạm Đình Hổ, tr. 187). Ca ngợi thời thịnh trị thì phải nói cảnh vua sáng tôi hiền, nhưng sĩ tử biết nói gì khi chúa Trịnh lấn át quyền vua Lê, chà đạp danh giáo. Họ đành quay ra nói những điều viển vông cho qua chuyện. 

20200124 DP

Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.

Bằng những sáng tác thơ văn cùng với các hoạt động xã hội khác như: đăng đàn diễn thuyết, hoạt động báo chí, viết xã luận, thành lập các tổ chức hiệp hội của nữ giới, nghiên cứu, biên dịch… những người phụ nữ đi tiên phong đó đã tạo ra một cuộc cách mạng về ý thức nữ quyền trong đời sống văn chương, xã hội nửa đầu thế kỷ XX. Tâm huyết và nhiệt tình của họ đã làm nên một phong trào Nữ lưu và văn học sôi nổi, có ý nghĩa xã hội về nhiều mặt. Sự xuất hiện của các cây bút nữ giới đã khiến cho diện mạo văn học trở nên đầy đủ, trọn vẹn hơn. Từ diễn đàn báo chí (đặc biệt trên các báo Nữ giới chung, Đàn bà, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…), sau đó là xuất bản, sáng tác của các tác giả nữ đã tạo thành một mảng riêng, hài hòa trong bức tranh chung của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ. Tuy số lượng chưa phải là nhiều, nhưng các nữ sĩ đã bộc lộ một bản sắc riêng, tạo được sự chú ý trong dư luận xã hội và công chúng.

Vượt lên, tự khẳng định và gây được ấn tượng đối với người đọc, đó không phải là điều dễ dàng với người cầm bút. Nó lại càng trở nên khó khăn với các tác giả nữ, sống trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc đó với bao nhiêu ràng buộc, hạn chế của tư tưởng phong kiến phương Đông vốn trọng nam khinh nữ. Có thể thấy rằng việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy đủ về những tác giả của giai đoạn văn học này vẫn còn là một món nợ đối với các bậc tiền bối và cả các thế hệ sau. Trong đó tác giả Đạm Phương nữ sử cũng là một trường hợp điển hình, bởi đóng góp về nhiều mặt của bà trong đời sống văn hóa, xã hội nửa đầu thế kỷ XX.

Đạm Phương nữ sử hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Bà là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo dục, nhà hoạt động xã hội hiếm có của dân tộc từ những năm đầu thế kỷ XX. Bài viết của chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một khía cạnh trong sự nghiệp phong phú của bà. Đó là những đóng góp ở lĩnh vực thơ ca.

Bà Đạm Phương, tên thật là Công Tôn Nữ Đồng Canh sinh ra và lớn lên trong gia đình Hoàng tộc ở thành phố Huế. Bà là cháu nội của vua Minh Mạng. Một ông vua thuộc triều đình nhà Nguyễn mà ở thời nào, cây phả hệ của dòng tộc ông cũng sinh ra những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng trên văn đàn nước Việt. Ngay từ hồi nhỏ, ngoài sự giáo dục chu đáo bằng việc được học cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp, bà Đạm Phương đã được hít thở bầu không khí văn chương nghệ thuật thấm đẫm trong truyền thống của dòng tộc mình. Bà được người cùng thời đánh giá là có tài thơ văn, thường xuyên xướng họa với các nhà thơ và các nhà sư ở kinh đô Huế. Thơ Đạm Phương ra đời trong buổi giao thời của thơ Việt từ thơ Hán sang thơ Nôm, rồi từ thơ Nôm sang Quốc ngữ, do đó in đậm dấu vết của sự giao thời này, từ đề tài, thể thơ, thi liệu cho đến các hình thức phô diễn.

Số lượng các bài thơ của Đạm Phương để lại không nhiều lắm, nếu so với các trước tác trong sự nghiệp giáo dục và báo chí của bà. Cho đến nay tổng cộng có khoảng gần bốn chục bài được in trong Tuyển tập Đạm Phương nữ sử do Lê Thanh Hiền sưu tầm, biên soạn, giới thiệu; Nguyễn Khoa Điềm bổ sung, sửa chữa, Nhà xuất bản Văn học, năm 2010. Ngoài ra còn khoảng chục bài in trên báo Lục tỉnh Tân văn từ các năm 1922 đến 1924, mới được gia đình sưu tầm, bổ sung.

Thơ Đạm Phương cũng như thơ của một số cây bút nữ thời kỳ này như Sương Nguyệt Anh, Cao Thị Ngọc Anh, Sầm Phố… đi theo phong cách cổ điển, đặc biệt là rất đậm đà với nghĩa nước tình nhà, chung một nguyện vọng, một chí hướng với các nhà thơ chí sĩ yêu nước của thời kỳ Cần Vương, Duy Tân. Vượt ra khỏi những nỗi niềm riêng nhỏ bé, những tâm sự quẩn quanh trong chốn khuê phòng, thơ của các nữ sĩ thường kín đáo thể hiện tư tưởng yêu nước và ý thức về nữ quyền. Có thể nói lần đầu tiên tiếng thơ của nữ giới đã công khai bày tỏ suy nghĩ và tình cảm của mình trước vận mệnh non sông, đất nước. Đồng thời họ cũng thấy được vai trò và bổn phận của mình trong cảnh dầu sôi lửa bỏng khi Tổ quốc đang lâm nguy. Đạm Phương cũng có những cách bày tỏ lòng mình thật phong phú. Khi thì gửi gắm qua những vần thơ ca ngợi tấm gương anh hùng tiết liệt của các nhân vật lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, nàng Mỵ Châu, bà Mỵ Ê. Khi thì cảm khái với một người đồng hội đồng thuyền lúc cách xa nhau:

Dựng cờ nương tử rạng nghìn thu

Nợ nước thù nhà đáp báo phu

Bao quản sóng dầm da phấn nhạt

Miễn cho bia tạc tiếng thơm lâu

Xông pha trăm trận thành vương nghiệp

Đánh đổ ba quân cản sứ Tàu

Chị tiết em trinh đều vẹn cả

Làm cho rõ mặt gái năm châu.

(Hai Bà Trưng)

Ý thức nữ quyền không chỉ được thể hiện ở những vấn đề xã hội rộng lớn mà còn được phô bày trong việc thể hiện con người cá nhân với muôn mặt đời thường. Thật thú vị khi chính người phụ nữ cất lên tiếng nói ca ngợi vẻ đẹp của giới mình. Chùm thơ gồm bốn bài: Người đẹp chơi đàn, Người đẹp câu cá, Người đẹp tiễn bạn, Người đẹp điểm trang của nữ sĩ Đạm Phương miêu tả các trạng thái và hành động của người con gái đã mang đến cho người đọc một cách nhìn mới lạ về phái đẹp. Đằng sau những lời thơ cổ, trang trọng là vẻ khoan hòa êm ái của bậc nữ nhi gia giáo.

So với những bạn thơ cùng thời, Đạm Phương nữ sĩ có một khối lượng khá lớn những bài thơ dành cho tình bằng hữu. Những bài thơ tặng bạn được làm bằng nhiều thể thơ: tứ tuyệt (Nhân xem các chị em làm việc tại Hội Nữ công, tức cảnh vịnh bốn bài thơ tả cảnh thêu tranh, dạy các trò gái học Quốc văn, chăn tằm, dệt vải khung máy) thất ngôn (Nhớ bạn, Tiễn bạn), lục bát (Viếng người đạo hữu), thể từ khúc (Ngày xuân nhớ bạn). Các bài thơ này vừa thể hiện tình cảm ân cần, gắn bó vừa chuyên chở quan niệm “thi dĩ ngôn chí” của các bậc túc nho.

Vốn là một người phụ nữ năng nổ, hoạt động trên nhiều lĩnh vực xã hội, nên các mối quan hệ bằng hữu của bà Đạm Phương khá rộng. Ngoài tình cảm riêng, bà đặc biệt quan tâm đến các hoạt động công ích vì cộng đồng của giới nữ. Với sự theo dõi sát sao, bà đã kịp thời biểu dương những việc làm hữu ích của chị em và mong muốn những điều tốt đẹp đó được nhân rộng ra toàn xã hội. Tấm gương của bà Trần Thị Thọ ở Nam Kỳ có lòng tốt hai lần quyên góp tiền bạc giúp dân làng Phương Trung làm nhà Bảo Anh nuôi dạy trẻ mồ côi cùng hội Khai trí Tiến đức khiến Đạm Phương rất xúc động. Bà đã viết hai bài thơ nhân sự việc này, một bài trường thiên và một bài đường luật với đầu đề Lời tạ ơn bà Trần Thị Thọ ở Nam Kỳ. Bài đường luật như sau:

Nghìn năm nước cũ dấu chung linh,

Nòi giống thông minh vốn sẵn dành,

Nam, Bắc đều nhuần nền đức hóa,

Nghĩa, nhơn từng “mắng tiếng” khuê anh.

Phương Trung, Khai Trí đôi nghìn bạc,

Tây cống, đông kinh mấy vạn danh.

Nữ giới ai là người hữu chí,

Gương bà Trần Thị đã treo tranh.

Đạm Phương làm thơ không chỉ để bày tỏ tình cảm của mình mà còn tuyên truyền cho các hoạt động của Nữ công học hội Huế mà bà là người sáng lập năm 1926 và trực tiếp làm Hội trưởng. Tôn chỉ, mục đích và chương trình hoạt động của Hội như việc tổ chức học văn hóa, nâng cao hiểu biết về nhiều mặt, học nữ công gia chánh, học một số nghề phụ để kiếm sống, tạo điều kiện cho chị em rèn luyện, làm quen với các hoạt động tập thể để tiến tới tham gia công việc xã hội v.v cũng đã được thể hiện phần nào trong thơ của Đạm Phương. Có thể nói đây cũng là cơ sở đầu tiên tiến tới nữ quyền, bình đẳng với nam giới. Nếu như ở loạt bài nghị luận và các công trình giáo dục đề cập đến nhiều vấn đề trong đời sống phụ nữ Việt Nam, đã thể hiện tư duy phong phú và sắc sảo của Đạm Phương thì ở phần thơ ca lại cho thấy tâm hồn mẫn cảm với rất nhiều sự đồng cảm sẻ chia và những xúc cảm chân thành của một người phụ nữ có tầm nhìn xa rộng. Bằng hoạt động xã hội và văn chương, nữ sĩ Đạm Phương đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng, đặc biệt là giới nữ lưu đương thời.

Tiếp nối truyền thống vịnh thơ, xướng họa, “tức cảnh sinh tình” của người xưa, thơ Đạm Phương có khá nhiều bài miêu tả phong cảnh thiên nhiên, cùng với những danh lam thắnh cảnh của kinh đô Huế và đất nước. Hàng chục bài thơ như: Nhớ cảnh núi, Cảnh mùa thu, Trời thu cảm hoài, Vịnh cờ hoa lau, Trùng du Trúc Lâm tự, Qua đèo Ngang tức cảnh, Thược dược mới nở, Lên chùa tức cảnh, Trả lời cho người hỏi thăm Xuân Thành phong cảnh, Đề núi Bàn A ở Thanh Hóa, Thu gian cảm hoài, đã thể hiện sự tinh tế, nhẹ nhàng cũng như nỗi niềm của một bậc nữ lưu ưu thời mẫn thế. Thiên nhiên phong cảnh thường là cái cớ để nữ sĩ bộc bạch tâm trạng. Khi là nỗi nhớ về một khung cảnh mây núi trập trùng trong quá vãng xa xôi:

Phất phất mành tương gió quạt lầu

Thềm hoa xem đã bóng trăng thâu

Bâng khuâng chạnh nhớ miền lâm hác

Vắng mặt Lư Sơn những mấy lâu

(Nhớ cảnh núi)

Lúc êm đềm tĩnh lặng cùng núi non, hoa cỏ nơi cửa thiền nhưng trong lòng vẫn miên man hoài niệm:

Đẹp thay phong cảnh chốn lâm tuyền

Biết có duyên chi gặp mấy phen

Với núi non này như đã hẹn

Cùng hoa cỏ ấy vốn từng quen

Sóng tùng giấp giố mây ngàn liệng

Gió trúc vo ve nước suối chen

Khiến cảnh ưa tình ngâm mấy vận

Trông tre chạnh nhớ dấu tiên hiền

(Trùng du Trúc Lâm tự)

Sự nghiệp thơ ca của Đạm Phương nữ sĩ chỉ kéo dài trong vòng 15 năm, từ 1918 đến 1933. Bài thơ viếng chồng Khóc Thanh Nguyên Quân chất nặng nỗi đau chia biệt đã khép lại tiếng thơ của một bậc nữ lưu trên thi đàn nước Việt. Kể từ sau đó không còn thấy tên Đạm Phương xuất hiện dưới các bài thơ. Có thể lúc này những biến cố trong xã hội và gia đình đã tác động và làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm thế của Đạm Phương, khiến bà không còn cảm hứng để sáng tác. Trong mấy năm liền bà phải gánh chịu nỗi đau liên tiếp vì mất chồng, mất con. Tại Sài Gòn, ông Nguyễn Khoa Tú, con trai đầu của bà Đạm Phương hoạt động cách mạng, bị giặc Pháp bắt tra khảo đến chết. Ông Hải Triều Nguyễn Khoa Văn cũng bị bắt, khi được thả tự do vẫn phải chịu sự quản thúc tại gia. Sau khi ông Nguyễn Khoa Tùng mất, bà Đạm Phương lập một am thờ Phật ở gần mộ chồng lấy tên là “Quan tâm tịnh thất”, hằng ngày bà tới đó đọc kinh, thắp hương cho ông.

Như trên đã nói, thơ ca chỉ là một bộ phận nhỏ trong sự nghiệp phong phú của nữ sĩ Đạm Phương, nhưng qua đó chúng ta có thể hình dung rõ nét và đầy đủ hơn chân dung tinh thần của một nữ trí thức ưu tú trong buổi giao thời của xã hội Việt Nam. Thơ Đạm Phương và thế hệ đương thời của bà thực sự có một vai trò quan trọng, cần thiết cho sự phát triển của thơ Việt ở các giai đoạn sau.

Lưu Khánh Thơ

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 370/12-2019, phiên bản trực tuyến ngày 03.01.2020.

Thông tin truy cập

60981351
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
12649
11034
60981351

Thành viên trực tuyến

Đang có 481 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website