PV: Thưa giáo sư, xin giáo sư cho biết đôi nét về con đường đến với nghề dạy học của mình?

 

GS Lê Đình Kỵ: Thực tế nếu không dạy học, viết nghiên cứu, phê bình, tôi cũng chưa biết mình sẽ làm nghề gì. Bởi hồi đi học tôi đã thích văn chương, triết học. Tôi đã đỗ tú tài Ban Triết năm 1944. Lúc ấy phong trào cách mạng như vết dầu loang đến quê tôi, không khí khẩn trương lắm. Tôi cùng nhiều bạn bè tham gia hoạt động trong các tổ chức quần chúng như số đông người dân ở đây. Cách mạng tháng Tám thành công, tôi được cử làm chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng chiến xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thời đó, cách mạng có rất nhiều việc phải làm. Công việc chính của một chủ tịch xã “trí thức” như tôi là đi dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ. Có lẽ, tôi bắt đầu thích nghề giáo từ đấy, phần vì đây là nhiệm vụ cách mạng, phần vì thấy những kiến thức của mình đã mang lại ích lợi cụ thể, thiết thực cho người dân. Năm 1949 tôi vào bộ đội, làm phiên dịch ở bộ phận quân báo Liên khu V. Đây là dịp tốt cho tôi trau dồi vốn tiếng Pháp đồng thời tự học thêm được tiếng Hoa và tiếng Anh. Đến khoảng năm 1952 tôi trở về bục giảng ở trường trung học Lê Khiết, Quảng Ngãi – một trường không lớn nhưng có nhiều người nay đã thành danh. Năm 1955 tôi tập kết ra Bắc và tiếp tục dạy học ở trường cấp 3 Nguyễn Trãi, rồi xung phong đi vùng cao, lên trường Lương Ngọc Quyến ở Thái Nguyên mấy năm. Từ năm 1958, tôi được mời giảng dạy bộ môn Lý luận văn học tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Tổng hợp TP. HCM cho đến lúc nghỉ hưu. Có thể nói, con đường đến nghề giáo của tôi trước hết là cái duyên, cái duyên lớn với cách mạng rồi sau mới là cái nghiệp, cái nghiệp thanh bần như bao người dạy học khác.

 

            Còn con đường trở thành thầy giáo đại học của tôi thì ... nói như ngôn ngữ bây giờ là không được “chính quy” lắm. Chủ yếu là do tôi tự học, tự rèn luyện tích lũy kiến thức liên tục trong nhiều năm tháng. Tất nhiên cũng phải kể đến môi trường xã hội, không khí học thuật đặc biệt thời đó. Nó vừa như chất men vừa như mệnh lệnh. Nó kích thích, bắt buộc mọi người phải phấn đấu, phải nỗ lực tối đa, không ai được phép dừng lại, nghỉ ngơi. Không có điều kiện học chính quy thì phải tự học, tự đào tạo, tự hoàn thiện mình.

 

PV: Tính từ cuốn Những cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xo (dịch chung) năm 1961 đến cuốn Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam năm 1998, giáo sư đã có gần 20 công trình, tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật. Giáo sư có thể cho biết những nét chính trong các chặng đường nghiên cứu củamình?

 

GS Lê Đình Kỵ: Tôi bắt đầu chú ý đến việc nghiên cứu từ những năm 56, 57; khi tôi mày mò học tiếng Nga với một nữ bác sĩ người Nga, lúc bà ấy đang nghiên cứu bệnh sốt rét ở Thái Nguyên. Học tiếng Nga là để tìm hiểu lý luận và văn học Liên Xô, rồi từ đó vận dụng vào việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề cụ thể của lý luận và văn học Việt Nam. Đối với tôi, nghiên cứu là để phục vụ giảng dạy, muốn giảng dạy tốt thì không thể không nghiên cứu, mà tôi lại hơi thiên về nghiên cứu.

 

            Trong những năm 60, tôi dành thời gian cho việc dịch, giới thiệu lý luận Liên Xô và quan tâm nhiều đến vấn đề phương pháp sáng tác và trào lưu văn học. Sở dĩ như vậy là vì bấy giờ, tôi thấy bên cạnh những thiên kiến về chính trị, lý luận của Pháp tuy có bề dày truyền thống và khá nhuyễn nhưng không đặt ra những vấn đề cụ thể, thiết thực như lý luận của Liên Xô. Tuy nhiên, khi biên soạn các giáo trình tôi đều có ý thức đưa vào những ý riêng của mình. Đôi khi vì những ý riêng ấy mà tôi suýt phải trả giá, như trường hợp cuốn Các phương pháp nghệ thuật năm 1962. Tôi và các đồng nghiệp tôi lúc ấy đều viết giáo trình, phần vì niềm đam mê nghiên cứu, phần vì trách nhiệm với sinh viên. Không phải như bây giờ, sách vở vô cùng phong phú.

 

Trong thập niên 70, tôi hướng sự nghiên cứu của mình vào việc bình giá các hiện tượng văn học quá khứ và đương đại ở Việt Nam. Các công trình, bài viết của tôi về Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Tú Xương, thơ Hồ Chủ Tịch, thơ Tố Hữu... đều nhận được sự chia sẻ quý báu từ bạn đọc và đồng nghiệp. Lúc này, thơ ca có nhiều thành tựu khởi sắc đã góp phần giúp tôi thể hiện được lòng yêu thơ của mình qua một số trang phê bình với ít nhiều “cảm xúc và tinh tế” như ai đó đã có lần động viên, khuyến khích tôi trên lĩnh vực này.

 

Gần đây, nhất là từ lúc đất nước chuyển mình đổi mới, tôi có cố gắng cày xới lại các hiện tượng văn học hiện đại vốn được coi là “có vấn đề” như phong trào Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn với hy vọng góp thêm một tiếng nói về các hiện tượng đó. Tôi nghĩ, đối với văn học không có chuyện “tiếng nói cuối cùng” nhưng cũng đã đến lúc, trong điều kiện thuận lợi – cả về mặt tư  liệu lẫn môi trường học thuật như hiện nay – thì việc nhìn lại các hiện tượng văn học phức tạp như vậy là hết sức cần thiết. Bước sang thế kỷ XXI hẳn chúng ta cần lắm một bộ giáo trình hoàn chỉnh về lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX chứ?

 

Là người làm công tác khoa học không ai muốn mình bị rơi lại phiá sau. Tôi tự nhủ mình phải luôn cố gắng đuổi kịp nhịp đi của thời đại. Nhưng sức khỏe, tuổi tác, năng lực đôi khi không chìu mình...

 

PV: Trong số các tác phẩm, công trình của mình, giáo sư ưng ý nhất là cuốn nào?

 

GS Lê Đình Kỵ: Là những đứa con tinh thần, ra đời vào những thời điểm khác nhau, gắn bó với những vui buồn cả đời, hỏi thương đứa nào nhất, kể cũng khó trả lời... Nếu được, tôi xin nói đôi điều về cuốn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực. Cuốn này được tôi chuẩn bị từ năm 1965, hoàn tất khoảng năm 67, 68 và in năm 1970. Những cuốn khác có thể viết được bằng kiến thức sách vở, bằng lòng yêu thơ nhưng cuốn này đòi hỏi phải có nghiên cứu, có tư chất nghiên cứu, có phương pháp nghiên cứu. Lúc bấy giờ có quan niệm cho rằng Truyện Kiều hay, Truyện Kiều lớn hẳn là Truyện Kiều phải được sáng tác theo phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Tôi không chia sẻ lối suy luận giản đơn như vậy. Tôi cố gắng tìm hiểu những tư liệu lịch sử về thời đại và cuộc đời Nguyễn Du; căn cứ vào chính văn bản và các hình tượng trong Truyện Kiều đề thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại không chỉ vì phương pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bởi vì thực ra, những gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng ta chỉ có thể hình dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn sơ kỳ của nó mà thôi. Rất may và rất mừng là những luận điểm chính của cuốn sách, nói chung được nhiều người cho là “có lý”. Sau cuốn này, tôi tự tin hơn trên con đường nghiên cứu, học thuật của mình.

 

PV: Có nhận xét sách lý luận văn học trước đây, trong đó có sách của giáo sư, nặng nề trích dẫn qúa. Giáo sư có ý kiến gì?

 

GS Lê Đình Kỵ: Việc trích dẫn trong các sách lý luận trước đây quả có hơi nhiều, đôi khi làm rối mắt người đọc. Điều này có lý do lịch sử của nó. Thời ấy, đội ngũ giảng dạy lý luận còn mỏng, phần lới mới vào nghề, vốn kiến thức tích lũy chưa dồi dào, phong phú... và với mong muốn đặt “cơ sở” cho nền lý luận văn nghệ mácxít chân chính nên việc trích dẫn tác phẩm kinh điển là điều khó tránh khỏi, nếu không muốn nói là cần thiết. Lý luận phải là lý luận trên cơ sở nào chứ! Vả lại, tôi nghĩ, giáo trình đại học nhất thiết phải mang tính kinh viện, phải có chất hàn lâm. Sinh viên không chỉ là người đi học mà còn là người nghiên cứu, tập làm quen với công việc nghiên cứu. Qua các trích dẫn, người viết còn có thể gián tiếp giới thiệu các khuynh hướng tư tưởng, các trường phái triết học và mỹ học trong lịch sử đến người đọc, miễn là trích dẫn cẩn thận, có xuất xứ rõ ràng, chính xác.

 

            Ở đây, cũng nên phân biệt loại sách gì và phục vụ cho đối tượng nào. Loại sách phổ biến kiến thức, sách giáo khoa cho học sinh phổ thông dĩ nhiên là phải hạn chế trích dẫn rồi, nhưng giáo trình đại học, chuyên luận cho học viên cao học, nghiên cứu sinh mà không trích dẫn ... thì sao nhỉ?

 

            Đội ngũ nghiên cứu, lý luận, phê bình hiện nay đông đảo hơn, được đào tạo căn cơ bài bản hơn, có nguồn và kênh tư liệu phong phú hơn, chắc chắn họ sẽ đi xa hơn thế hệ chúng tôi, và thực tế cũng đã phần nào cho thấy điều đó. Lý luận văn học mỗi thời chỉ có thể giải quyết được một phần việc của nó mà thôi.

 

PV: Trong cuốn Tác gia lý luận phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam 1945 – 1975, tập I, có nhận xét: “Lê Đình Kỵ đã với quan điểm văn nghệ Mác – Lênin mà tìm tòi, nghiên cứu, góp phần xây dựng lý luận về phương pháp nghệ thuật và vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu văn học dân tộc”. Giáo sư cảm nhận thế nào về nhận xét ấy?

 

GS Lê Đình Kỵ: (...) Nói thế nào nhỉ, như anh gì trên VTV3, anh Lại Văn Sâm: “Xin cảm ơn!”. Thực ra làm nghiên cứu, lý luận phê bình mà đem lại tí gì gọi là mới, “có đóng góp” cho văn học quả là khó. Nhà lý luận, phê bình nổi danh bao giờ cũng thưa thớt hơn những nhà sáng tác tên tuổi. Gần 50 năm qua, tôi đã làm việc hết sức mình nhưng chưa phải là nhiều lắm. Tôi nghĩ, đó là lời động viên, khuyến khích chân tình về những gì mà tôi đã làm được.

 

PV: Đời sống và công việc của giáo sư hiện nay ra sao?

 

GS Lê Đình Kỵ: Tôi đã về hưu, nhưng vẫn được mời tham gia giảng dạy, đào tạo ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM và một vài trường đại học khác ở phiá Nam. Tôi đang hướng dẫn 3 nghiên cứu sinh và 6 học viên cao học làm luận án tiến sĩ và thạc sĩ. Còn thường ngày tôi tham gia sinh hoạt trong câu lạc bộ hưu trí, tập dưỡng sinh và đọc sách báo. Nói chung tôi an tâm với chính mình. Lão giả an chi mà.

 

PV: Cuối cùng, với tư cách một nhà giáo nhân dân, giáo sư có tâm sự gì với các nhà nghiên cứu trẻ, các sinh viên?

 

GS Lê Đình Kỵ: Các bạn trẻ bây giờ có nhiều khả năng chọn lựa, nhiều điều kiện và phương tiện để hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, nên xem lại việc tự học, đọc thêm, đọc thường xuyên như là một nhu cầu tất yếu để tồn tại. Mà học, đọc phải có mục đích rõ ràng, thiết thực mới có kết quả. Chúng tôi tự học tiếng Nga thành công là nhờ có vốn tiếng Pháp nhưng cái chính là học để sử dụng, để đọc sách, để dịch tài liệu, để nghiên cứu khoa học, nên học khá nhanh và nhớ lâu. Thời đó không học tiếng Nga không thể nghiên cứu khoa học được. Như giáo sư Hoàng Xuân Nhị, mặc dù rất giỏi Pháp ngữ và Hán ngữ nhưng vẫn thấy cần phải học thêm tiếng Nga.

 

            Cũng nên chọn cho mình một mảng, một vấn đề nào đó để hướng sự quan tâm và đầu tư công sức dần vào. Đi đôi với đọc là ghi chép – cả phần xuất xứ cho đầy đủ – để sau này có dịp dùng đến. Rồi phải tập viết nữa, viết cẩn thận, bắt đầu từ những vấn đề nhỏ, như là một cách rèn luyện tư duy và bút lực.

 

            Làm khoa học, nhất là khoa học về văn học, luôn phải khiêm tốn, biết chú ý lắng nghe nhưng cũng phải kiên trì với những xác tín của mình, miễn là nó không nhằm vào việc đề cao hay đả kích cá nhân và không là nguy hại gì cho đất nước, dân tộc.

 

PV: Xin cảm ơn giáo sư. Kính chúc giáo sư luôn được nhiều sức khỏe.

 

Tháng 3 năm 2000

 

NGUYỄN HÀ thực hiện.

 

Nguồn: Tạp chí Văn học, số 3 năm 2000

 

Trước hết về sưu tầm, phải nói ngay đến công trình đồ sộ Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam 1900-1945 do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên (Văn học, H.1997). Bộ sách gồm năm tập, trên dưới 2500 trang, biên soạn rất công phu, cẩn trọng. Ngoài phần Văn tuyển là chính, có phần tiểu luận khái quát chung ở đầu, phần tiểu dẫn về tác giả ở sau, lại có bảng tra cứu theo vần tên chín mươi tác giả kèm theo tiêu đề của mấy trăm tác phẩm được trích tuyển. Quy mô khá đồ sộ, qua đây mới thấy được rất nhiều tác giả và công trình có phần lạ lẫm hầu như ít ai biết đến như Cao Văn Chánh với Mặt trận văn chương: Nội dung và hình thức. Chức vụ của nhà văn; Hoàng Duy Từ với Thiên chức của thi sĩ; Trúc Hà với Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết v.v...

Nói đến GS.NGND Lê Đình Kỵ trước hết là nói đến một nhà sư phạm. Một nhà sư phạm không qua trường lớp chính qui nào, kiến thức chủ yếu tự học. Một nhà sư phạm với gần 60 năm gắn bó bục giảng, dạy từ cấp 2,3 đến đại học, cao học và hướng dẫn luận án tiến sĩ. Con đường đến với nghề giáo của Lê Đình Kỵ rất ngẫu nhiên. Năm 1944 sau khi đỗ tú tài 2 trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, ông định học tiếp đại học nhưng không có trường nào hợp với nguyện vọng. Trường luật, toán thì ông không thích. Trường y, ông có thích đôi chút, nhưng do học lực các môn sinh, hóa đều yếu nên sức khó kham nổi. Vì vậy, chàng tú tài xứ Quảng đành rời Sài Gòn “qui cố hương” dạy học tư kiếm sống.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, văn học ta đã có những thành tựu đánh dấu một bước phát triển quan trọng mà lịch sử đã ghi nhận. Nhưng trong hoàn cảnh chung, nó không tránh khỏi những hạn chế, mức độ sâu rộng, nghiêm trọng như thế nào khó mà lường hết được, cũng như không thể lường hết được những gì mà lẽ ra nó có thể đạt tới nếu không bị những vướng mắc, ràng buộc đã xảy ra trong đời sống kinh tế, xã hội chung trước đây.

 

Vào những năm học cuối bậc phổ thông (1980-1981), tôi đã biết tên thầy qua mục Thường thức văn học trên báo Văn Nghệ TP.HCM do thầy phụ trách. Những bài viết ấy gieo trong lòng chúng tôi ấn tượng ban đầu về những khái niệm và quan điểm lý luận văn học còn khá mới mẻ đối với phần đông học sinh, sinh viên miền Nam lúc bấy giờ.

Phan Nhật Chiêu từ lâu đã trở thành cái tên quen thuộc đối với những người nghiên cứu và yêu thích văn chương. Ông là dịch giả, nhà “Nhật học”, một “cư sĩ” gắn bó với Thiền và Phật giáo, là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.

[Image]

 

Nhà văn Đặng Tiến định cư và lập nghiệp ở châu Âu từ giữa những năm 1960, nhưng vẫn có mặt trong đời sống văn học miền Nam với những bài phê bình thơ cổ điển và hiện đại thường xuất hiện trên các tạp chí thời đó. Năm 1972, tập tiểu luận đầu tay của ông nhan đề Vũ trụ thơ được xuất bản ở Sài Gòn. Hơn một phần ba thế kỷ sau đó ông không hề in sách, dù sự theo dõi và quan tâm không lúc nào ngưng nghỉ của ông đối với văn học dân tộc luôn được ghi dấu trong những bài viết tài hoa trên các phương tiện truyền thông, gần gũi với chúng ta là các báo Văn nghệ, Thanh niên, Đất Quảng, Sông Trà

Chau Minh Hung, MA

(Quy Nhon University)

 

ABSTRACT

Chinese poetics paralleled with Vietnamese poetry history and played an orthodox role in Vietnamese literature until the begining years of 20th century. However, this influence did not destroy the Vietnamese poetics, but always was generative by the inner movement of  the national poetry. The structure and prosody of Chinese poetics has been Vietnamized in two ways: 1)  by  changing the line of verse, like seven word mixed with six word. 2)  by hybridizing syntagms, like Ca trù artists.


 

Có lẽ người đầu tiên gieo rắc tư tưởng phục cổ cho bài thơ Tống biệt hành là Hoài Thanh – Hoài Chân. Khi tuyển bài thơ vào tập Thi nhân Việt Nam, nhà tuyển tập – phê bình chỉ viết vẻn vẹn mấy dòng sơ lược nhưng sau đó trở thành uy lực trong tiếp nhận và phê bình văn học: “Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài thơ dưới đây lại thấy sống lại không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bấy giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”:

Không hăm hở giương “mục kỉnh phê bình” lên xộc vào trang viết, chị đọc, trước hết với những cảm xúc tự nhiên, như mọi người đọc bình thường; sau đó mới phân tích và ghi lại cảm nhận của mình, một cách chăm chút, rất chăm chút, như để đáp lại thạnh tình mà nhà văn đã có công mang đến cho đời sống. Không hề có “bảng xếp loại”, cũng không có các thứ khung tiền chế để gò nhà văn vào, theo kiểu phê bình áp đặt.

 

Trong nửa thế kỷ qua, các học viện trên khắp thế giới, nhất là ở Âu Mỹ, đã chứng kiến những chuyển biến quan trọng liên quan đến giới tính. Chẳng những số lượng nữ giáo sư và nữ sinh viên  tăng nhanh trong các học viện,  mà học thuyết nữ quyền còn ảnh hưởng đến nhiều bộ môn học thuật khác, từ triết học, lịch sử,  đến ngôn ngữ học, xã hội học,  nhân chủng học, truyền thông đại chúng, kinh tế, luật… Nhưng trước tiên và căn bản trong vòng ba thập niên qua, học thuyết nữ quyền có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn nhất đến phê bình văn học, đã làm thay đổi lớn lao cách đọc văn bản, việc bình giảng văn chương, sự định giá kinh điển trong nhà trường, ảnh hưởng đến cảm thụ văn học của công chúng và chuyển đổi cả ngành xuất bản. 

Lối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.

                                                                                    (R. Barthes, Độ không của lối viết)

Chủ nghĩa lịch sử mới (New historicism) là một trong những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại từ chỗ giải cấu, phản nghịch, vứt độ sâu, phá bỏ tất cả, nhưng đó chỉ là triệt để phá để mà xây cái mới, và tất yếu sẽ hồi quy văn học về bình diện lịch sử xã hội, hiển nhiên là với những khía cạnh mới trên cơ sở những cách nhìn mới.

 

 

Một lần, nhân nói chuyện thơ ca mà “tranh thủ” quảng bá thắng cảnh quê mình, nhà thơ Tế Hanh kể rằng Quảng Ngãi có ba dòng sông bắt đầu bằng chữ “Trà”, tính từ Bắc vô Nam: Trà Bồng, Trà Khúc, Trà Câu. Sông Trà Câu nằm trên địa phận huyện Đức Phổ, chảy qua làng Tân Phong của nhà thơ Nguyễn Vỹ rồi xuống cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Khúc chảy ngang thành phố tỉnh lỵ, ở giữa hai huyện Sơn Tịnh và Tư Nghĩa, đổ ra cửa Cổ Luỹ, gần thị trấn Thu Xà của nhà thơ Bích Khê. Còn sông Trà Bồng chảy đến huyện Bình Sơn thì tách dòng làm đôi ôm lấy làng Đông Yên của Tế Hanh như ôm một hòn đảo nhỏ trước khi xuôi về cửa Sa Cần: “Tuổi nhỏ của tôi đã trôi qua giữa cái mùi mằn mặn của những mẻ cá và trong tiếng ru vừa bát ngát vừa êm đềm của bốn bề sóng vỗ. Trên làng tôi, quay mặt về phương nào cũng thấy những tấm lưới, những mái chèo và nhất là những cánh buồm căng gió…”

  Nguyen Huy ThiepHiện tượng đa thanh (polyphonie) là một phát hiện mới của thi pháp học và ngôn ngữ học hiện đại. Những phát ngôn phức hợp nhiều lời, nhiều giọng của nhiều chủ thể khác nhau là điều không có gì mới trong ngôn ngữ đời sống. Sự sống luôn là cuộc đối thoại vô tận với sự tác động, hoặc ảnh hưởng hoặc phủ định lẫn nhau giữa các quan niệm, tư tưởng.

BaudelaireTrong giao lưu với văn học nước ngoài, Thơ Mới Việt Nam chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, trong đó có thơ tượng trưng là một thực tế không phủ nhận. Các tác giả thơ tượng trưng như Baudelaire, Arthur Rimbaud, Paul Verlaine…, thậm chí cả nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ Edgar Allan Poe đã để lại dấu ấn âm nhạc khác nhau trong sáng tác của một bộ phận của các nhà thơ mới. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh, Hoài Chân đã khẳng định: “Các nhà thơ mới không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy”. Ở chuyên luận “Thơ Mới”, Giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Từ năm 1936 trở về sau, trường phái thơ tượng trưng được người ta chú ý hơn cả”. Trong lời tựa tập thơ “Những bông hoa Ác”, Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã phân biệt hai “làn sóng” thơ, trong đó làn sóng thứ nhất chịu ảnh hưởng nhiều ở thơ lãng mạn, còn làn sóng thứ hai với các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng. Bản thân Xuân Diệu, một trong những trụ cột của thi đàn Việt Nam cũng đã thừa nhận một cách không dấu giếm: “Với Baudelaire, tôi đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”.1

Thông tin truy cập

66563961
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
8804
9734
66563961

Thành viên trực tuyến

Đang có 198 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website