Trước khi nổi tiếng với ba cuốn tiểu thuyết Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao Tràm vào đầu những năm 1980, Nguyễn Mạnh Tuấn đã khẳng định chỗ đứng của mình trong nghề văn bằng những tập truyện ngắn. Từ ấy đến nay ông là một trong ít người kể chuyện dài hơi và bền bỉ nhất trong văn học ta. Ông có cả một kho chuyện thu hút mọi người: chuyện năm hòa bình đầu tiên, chuyện thời quan liêu trăn trở phá rào, chuyện làm ăn đầy cạm bẫy thời kinh tế thị trường, chuyện gia đình ly hợp, chuyện tuổi trẻ hoang mang vào đời... Ông kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi rồi bằng ngôn ngữ kịch bản điện ảnh; trước đây công chúng gặp ông trên sách báo, về sau còn gặp thường xuyên hơn trên màn ảnh nhỏ.

GS. Lê Đình kỵ bàn về chủ nghĩa lãng mạn trong nhiều bài viết nhưng trào lưu văn học này được trình bày một cách có hệ thống nhất ở các giáo trình lí luận văn học và hai công trình nghiên cứu: Thơ mới, những bước thăng trầm và Những vấn đề của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam. Qua những công trình nghiên cứu của mình, ông tập trung nêu lên những vấn đề chung, những vấn đề liên quan đến việc phân tích, đánh giá thơ ca và văn xuôi lãng mạn. ... Ông phân biệt kĩ những đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn trong văn xuôi, chủ yếu là trong tiểu thuyết với thơ ca để từ đó, phân tích, đánh giá những tác phẩm và tác giả của hai thể loại quan trọng này. Một trong những điều mà ông đòi hỏi để nghiên cứu hiện tượng văn học này là phải “khách quan, khoa học, không để cho những định kiến, những động cơ ngoài văn học làm cho lạc hướng”. Và ông đã thực hiện đầy đủ điều đó trong những công trình nghiên cứu của mình.

Tóm tắt

Giáo sư Lê Đình Kỵ là người đã nghiên cứu và dịch thuật lý luận văn học Xô viết, và lý thuyết về loại hình lịch sử chắc chắn không ít thì nhiều tác động đến những công trình viết về văn học Việt Nam của ông, đặc biệt là khi ông bàn về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lê Đình Kỵ trong các bài viết về Truyện Kiều, cũng như trong chuyên luận Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực dù chỉ ra những gần gũi của Truyện Kiều với văn học hiện thực chủ nghĩa trên nhiều phương diện bởi đó là một hiện tượng văn học đặc biệt có tính chất tiên báo cho sự phát triển của văn học Việt Nam hàng thế kỷ sau đó, nhưng vẫn khẳng định rằng về cơ bản nó thuộc loại hình văn học trung đại, mà phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, xét từ quan điểm loại hình lịch sử, không nằm trong đó.

TỪ KHÓA: Lê Đình Kỵ, lý luận văn học Xô viết, loại hình lịch sử, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực

Trần Thị Phương Phương 

PGS.TS

 Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM

1. Phương pháp loại hình hay loại hình học (typologie), thuật ngữ Typologie là tiếng Pháp, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp typologos với nét nghĩa “dấu tích, hình mẫu” mà ngữ căn là type (thể loại, kiểu). Đây là một phương pháp nghiên cứu khoa học tổng hợp, ra đời khoảng nửa sau thế kỷ XX và được ngành Nhân chủng học áp dụng đầu tiên khi nghiên cứu xếp loại con người thành từng nhóm để phân biệt con người này khác với con người khác, dân tộc này khác với dân tộc khác trên cơ sở phát hiện ra những nét giống nhau (tính cộng đồng, tính cùng họ) của các dân tộc. Nói cách khác là xác định để tìm ra nét tương đồng về mặt nguồn gốc, ngôn ngữ, sắc tộc… Tính cùng họ này, xét đến cùng, biểu hiện ở hai khía cạnh: một là, cấu trúc bên trong của đối tượng; hai là, tìm ra những quy luật phát triển của nó. Điều này, như viện sĩ M.B. Khrapchenkô đã tổng kết trong công trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học là “nó sẽ tìm đến loại hình (type) và cấu trúc (structure) bên trong của đối tượng nghiên cứu” ([1]). Từ đó, vào những năm 70 của thế kỷ trước, giới nghiên cứu – lý luận văn học đã vận dụng để xếp loại các hiện tượng văn học từng giai đoạn, của từng dân tộc trên thế giới với mục đích là tìm ra những nét tương đồng về mặt loại hình, tức tìm ra tính cộng đồng về mặt loại hình. Điều đó có nghĩa là loại hình học xem văn học như là một hiện tượng thế giới, là những cộng đồng loại hình của từng giai đoạn lịch sử văn học, dĩ nhiên nó không loại trừ tính cá biệt và tính đặc thù của văn học. Tính cộng đồng không có nghĩa là sự lặp lại một cách giản đơn hoặc giống nhau về hình thức mà đây là hiện tượng văn học cùng họ với những đặc điểm bản chất nhất của nó như giống nhau về nguồn gốc, về cơ cấu bên trong, về quá trình phát triển, về ngôn ngữ, về số phận lịch sử, về hệ thống thể loại miêu tả, về hệ thống thế giới quan v.v.. Phương pháp này có tính ưu việt đáng kể bởi nó là sự tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích lôgic, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp so sánh nên được nhiều nhà nghiên cứu văn học có uy tín vận dụng. Có lẽ  GS. Viện sĩ M.B. Khrapchenkô và GS. Viện sĩ B.L. Riptin là những người đầu tiên ở Liên Xô cũ vận dụng phương pháp này từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX để nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể với những khám phá mới cùng những đóng góp về hệ thống lý luận([2]). Nó cũng đã được giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam vận dụng vào những năm cuối thập kỷ 70 rồi những năm 80 của thế kỷ trước  để nghiên cứu một bộ phận văn học, một thể loại văn học, một tác phẩm văn học cụ thể và kết quả là đã có những đóng góp mới đáng kể ([3]).

Tóm tắt

 

Từ lâu, đá vốn gắn bó với đời sống con người, có mặt khắp nơi trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Chính vì vậy, nhiều dân tộc trên đất nước Việt Nam có tục thờ “Linh Thạch”, thờ “Thần Đá”. Với người dân Việt Nam, từ ngàn xưa, đá đã trở thành những biểu tượng tinh thần trong đời sống con người. Đi dọc hành trình của đất nước, đâu đâu chúng ta cũng nhận ra dáng hình đất nước, cũng cảm nhận được tinh thần dân tộc, chiều sâu văn hoá và tâm thức Việt Nam qua những dáng hình của đá. Trong văn học, đá trở thành hình tượng nghệ thuật gợi cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ. Bài viết đi sâu tìm hiểu nguồn cảm hứng thẩm mĩ về “đá” trong văn học Việt Nam: Đá và cảm hứng cội nguồn; Đá và cảm hứng về sức mạnh tinh thần; Đá và cảm hứng về sự vĩnh cửu... để hiểu hơn đời sống tâm hồn và nhân cách Việt Nam.   

1/ Từ khuôn khổ đến sự xác định một số đặc tính của sách bách khoa này

− Được biết, Bách khoa thư Văn học được trù định biên soạn lần này nằm trong trên 30 tập Bách khoa thư bằng chữ Việt đang được dự kiến biên soạn đồng thời. Mỗi cuốn sẽ giới hạn trong khoảng trên dưới 1.000 trang khổ lớn (nếu theo khổ “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam”, 4 tập đã xuất bản, sẽ là khổ 26,5x20 cm)

Đặt vấn đề: Hệ thống lý luận văn học của nước ta hiện nay về cơ bản được tiếp nhận từ lý luận văn học phương Tây qua thế kỷ XX và những thập niên đầu thế kỷ XXI. Đó là kết quả tất yếu của tiếp xúc văn hóa Đông Tây và được đẩy mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa đương đại. Ý nghĩa tích cực, các kết quả tốt đẹp của việc tiếp nhận này không có gì phải nghi ngờ. Lý luận văn học phương Tây đã đem lại cho tư tưởng văn học Việt Nam tính hệ thống chặt chẽ, khoa học, các khái niệm công cụ phân tích văn học mới mẻ, bao trùm các đối tượng phân tích cơ bản như văn bản, thế giới, tác giả và người đọc. Nếu quan niệm lý luận văn học phương Tây là sản phẩm văn hóa tinh thần phương Tây thì công cuộc tiếp nhận này đã đem giá trị văn hóa phương Tây bổ sung, làm giàu cho văn hóa Việt Nam như một thành tố của văn hóa phương Đông. Bài viết này xem xét việc tiếp nhận lý luận văn học phương Tây ở nước ta từ góc nhìn toàn cầu hóa.

Tư duy nghệ thuật là một loại tư duy mang tính chỉnh thể nhằm phản ảnh và biểu hiện thế thái nhân tình vô cùng phong phú phức tạp muôn màu muôn vẻ, cho nên ngoài tư duy hình tượng là cơ sở, nó còn thu nạp nhiều yếu tố khác của các loại tư duy thể nghiệm, lô-gic đa trị mơ hồ, vô thức và nhất là trực giác nữa.

Tóm tắt 

Năm 1922, Nishiwaki Junzaburo (1894-1982) sang Anh du học và ba năm sau trở về nước, mang theo chủ nghĩa siêu thực cùng những trào lưu hiện đại khác. Vài năm sau chuyến xuất ngoại của Nishiwaki, Nguyễn Tường Tam (1906-1963) từ Việt Nam sang Pháp du học, từ 1927 đến 1930. Sau Nguyễn Tường Tam, năm 1930, Yang Chichang (1908-1994) từ Đài Loan đến Nhật, cũng để học tập. Mỗi cá nhân trên đây, khi trở về nước, đều đóng góp lớn trong việc cách tân văn học nước nhà. Cũng nằm trong khu vực ngoại biên như Đài Loan, Việt Nam… nhưng Nhật Bản đã trở thành một cường quốc siêu thực, trong khi những nỗ lực đưa chủ nghĩa siêu thực vào Đài Loan, vào Việt Nam đều thất bại. Nhật Bản đã làm điều đó như thế nào, trong bối cảnh nào? Tìm hiểu điều này sẽ gợi mở mối quan hệ giữa văn học với những thành tố xung quanh văn học. 

ThS. Lê Thuỵ Tường Vi

Khoa Văn học và Ngôn ngữ

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

Đại học Quốc gia TPHCM

Sau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm. Ít có người cầm bút nào thoát khỏi sự ảnh hưởng của ý thức hệ. Cái tôi của nhà văn trước sức ép của hoàn cảnh lịch sử buộc phải mang tâm thế nâng cao trình độ chính trị để có thể “nhìn ra những công việc lớn của cách mạng”, chính nhiệm vụ chính trị và quán tính của một hình thái ý thức đã đòi hỏi nhà văn, nhà thơ

ThS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh

TÓM TẮT

              Lê Đình Kỵ là một nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho khoa nghiên cứu văn học của Việt Nam. Riêng với chủ nghĩa hiện thực, ông đã tiếp cận vấn đề với tư cách là nhà lý luận văn học, nhà phê bình văn học, đồng thời là nhà văn học sử. Ở lĩnh vực nào, những nghiên cứu của ông cũng mang tính tiên phong và gây sự chú ý lớn với giới chuyên môn, kể cả những tranh luận. Tuy nhiên, bất chấp những ý kiến trái chiều và những hạn chế nhất định, đóng góp của Lê Đình Kỵ trong việc nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực nói riêng và uy tín của ông đối với lý luận phê bình văn học Việt Nam nói chung là không thể chối cãi.

TRẦN TỊNH VY (*)

LTS: Bài viết này gồm 3 phần: I. Các vấn đề lý thuyết; II.Tìm hiểu văn bản: các vấn đề về tác giả, tác phẩm; III. Khoảng cách thế hệ và câu chuyện về "cộng đồng tưởng tượng". Do khuôn khổ có hạn của Tạp chí, BBT xin trích đăng phần III.  

III.                   KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ VÀ CÂU CHUYỆN VỀ “CỘNG ĐỒNG TƯỞNG TƯỢNG”

Các tác phẩm về văn học di dân chính là những nguồn tư liệu cho phép ta tìm hiểu về cuộc sống của cộng đồng lưu vong, được đặc biệt chú ý trong bài viết này là vấn đề về khoảng cách thế hệ và “cộng đồng tưởng tượng”. Và không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi bắt đầu việc khảo sát từ vấn đề về khoảng cách thế hệ. Dựa trên giả thuyết rằng, mâu thuẫn thế hệ, cụ thể là giữa người mẹ và con gái, chính là một trong những biểu hiện của quá trình xung đột về văn hóa, chúng tôi cho rằng đây chỉ là bề nổi của quá trình gầy dựng một “cộng đồng tưởng tượng” trong tâm thức của những người di dân. Nói một cách khác, câu chuyện về những bất đồng trong ngôn ngữ, sự khác biệt về cách nhìn nhận vấn đề hay hiện tượng chính là câu chuyện về ‘cộng đồng tưởng tượng’.

ĐOÀN TRỌNG HUY (*)

                  Hình ảnh: Nhà thơ Chế Lan Viên

              Chế Lan Viên là một hồn thơ độc đáo bởi sức cảm, sức nghĩ biến hoá và phong phú khôn lường, thậm chí đến mức biến ảo.

               Nhà thơ nào cũng có nhiều cách nhìn. Huy Cận nổi trội về thi pháp, là một cái tôi trữ tình với nhiều đối cực. Hơn thế nữa, Chế Lan Viên có thể được xem là một tâm hồn đa cực. Đó là biểu hiện của cá tính sáng tạo độc đáo, là dấu ấn sâu đậm của chủ thể trữ tình.

 

            Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã bắt đầu vận dụng các lý thuyết và phương pháp của phương Tây để khảo cứu và thẩm định văn chương. Nhưng việc áp dụng các phương pháp khoa học đôi khi cũng bộc lộ sự lệ thuộc vào lý thuyết mà chưa căn cứ xác đáng vào thực tiễn sáng tác, từ đó ít nhiều đã để định kiến chi phối một số nhận định của mình, dẫn đến những kết quả thiếu chính xác, làm giảm chất lượng và hiệu quả của phê bình. Ở giai đoạn này, các khiếm khuyết nói trên có thể được biện minh bởi tình trạng non trẻ của khoa nghiên cứu văn học. Nhưng ngày nay, tình trạng phê bình lệ thuộc vào định kiến lý thuyết hình như vẫn đang chi phối một bộ phận trong giới nghiên cứu. Dù việc áp dụng lý thuyết là rất cần thiết, song không phải các lý thuyết đều có thể áp dụng như nhau. Khi áp dụng một lý thuyết, chúng ta nên xem xét thực tiễn văn học để thấy có phù hợp với lý thuyết đó không, nếu phù hợp thì phù hợp đến mức nào.

Người dịch: Trần Đình Sử, Lã Nguyên

Vinh quang nào cũng phải trả giá. Một số tác giả vẫn đang được hậu bối tìm đọc và nghiên cứu thể nào cũng chạm trán với thứ phê bình hoạnh hoẹ văn bản, thứ phê bình mà rốt cuộc, nếu không phủ nhận được sự tồn tại về mặt nhân thân của các tác giả ấy, thì chí ít nó cũng phủ nhận sự thống nhất ở trước tác của họ và quyền sở hữu chúng thuộc về một cá nhân. Các nhà ngữ văn Hy Lạp thì cãi nhau rất lâu về “vấn đề Homer”, cánh nghiên cứu ngữ văn Anh Cát Lợi lại không sao dứt ra khỏi những cuộc tranh luận xem ai là người đã viết các vở kịch của Shakespeare, giờ đây cũng đang diễn ra một cái gì tượng tự như thế với Bakhtin.

Tôi gặp và quen nhà văn Nguyên Minh thật tình cờ: Hôm ấy nhà báo Nguyễn Hoà vcv, người quản lý trang mạng Văn Chương Việt gọi điện bảo đến cà phê “Điểm Mới”, khi đến nơi tôi thấy có mấy người đã có mặt. Ngoài Nguyễn Hoà còn có nhà thơ Âu Thị Phục An, nhà văn Lữ Kiều (Hoạ sĩ Thân Trọng Minh), nhà văn-dịch giả Hiếu Tân, vợ chồng nhà văn Đặng Kim Côn mới từ Mỹ về và nhà văn Nguyên Minh. Ấn tượng ban đầu anh Nguyên Minh gây cho tôi là sự đôn hậu. Cảm nhận ấy đến với tôi từ ánh mắt màu xanh dương rất sáng và trong lúc trò chuyện tôi thấy mình được lắng nghe.

Mới đây, Ngô Tự Lập có bài viết Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin – câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bợm và một cơn mê sảng tập thể” của Jean – Paul Bronckart và Cristian Bota. Bài này được công bố trên số 1/2014 Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, sau đó được đăng tải trên các trang mạng khác nhau (như http://www.viet-studies.info, 16/4/2014). Khá nhanh chóng, trên http://www.vanhoanghean.com.vn ngày 20/6/2014, với bài Mấy suy nghĩ về việc nghiên cứu Bakhtin Trần Đình Sử và Lã Nguyên đã có nhận xét phản hồi về bài viết này. Hai giáo sư viết: Ngô Tự Lập gọi cuốn sách ấy “là một quả bom đối với giới nghiên cứu”. Có lẽ đó là cảm nhận riêng của Ngô Tự Lập và những người thiếu thông tin do chưa có dịp tiếp xúc nhiều với di sản của M. Bakhtin (1895 – 1975) và lịch sử nghiên cứu di sản của ông trên phạm vi toàn thế giới”.

Sự kết hợp giữa lý luận với phê bình khiến cho các tác phẩm thi thoại trong lịch sử văn học cổ điển Trung Hoa luôn có được sức hấp dẫn và ưu thế riêng. Nó giúp người viết có thể phát biểu những quan niệm cá nhân về thơ ca một cách sinh động và thuyết phục thông qua việc chọn lọc, bình phẩm những hiện tượng cụ thể để chứng minh cho các luận điểm khái quát có ý nghĩa đúc kết quy luật sáng tác và thưởng thức văn học. Xu hướng chung của các tác phẩm nổi tiếng như Lục Nhất thi thoại của Âu Dương Tu, Thương Lang thi thoại của Nghiêm Vũ (thời Tống); Tứ Minh thi thoại của Tạ Trăn (thời Minh); Đàm long lục của Triệu Chấp Tín, Khương Trai thi thoại của Vương Phu Chi, Thạch Châu thi thoại của Ông Phương Cương (thời Thanh),... là lựa chọn tác phẩm của những chân dung thơ tiêu biểu thời Hán, Nguỵ, Đường, Tống, hoặc những nhà thơ nổi tiếng đương thời làm đối tượng bình phẩm khen, chê hay dẫn dụng để chứng minh cho quan điểm nghệ thuật của người viết.

 

“This is Play” [Chơi] – đó là chủ đề của tạp chí New Literary History số 1 -2009. Một lần nữa, sự chơi/trò chơi (play/game) lại khơi dậy những tranh luận trong giới học thuật, cho thấy đây là một chủ đề được quan tâm bậc nhất trong nghiên cứu văn hóa-văn học từ thế kỷ XX. Quan sát diễn ngôn khoa học nhân văn trong thế kỷ XX, có thể nhận thấy trò chơi đã trở thành một từ khóa, một khái niệm công cụ để tư duy lại hàng loạt những vấn đề hiện sinh cốt lõi: thế giới, con người, bản sắc, ngôn ngữ, ý nghĩa… Trò chơi hiện diện như một phạm trù then chốt trong thông diễn học của Hans Georg- Gadamer, thuyết giải cấu trúc của Jacques Derrida, hệ thống triết học của Ludwig Wittgenstein và Jean –Francois Lyotard. Nó liên đới với hàng loạt khái niệm quan trọng của nhiều học giả hàng đầu như phạm trù “carnival” của Mikhail Bakhtin, khái niệm “readerly/writerly text” [văn bản khả độc/khả tác] và “myth” [huyền thoại] của Roland Barthes, khái niệm “performative” [tính biểu hành] trong lý thuyết về phái tính của Judith Butler, khái niệm “simulacra” [bản thế vì] của Jean Baudrillard… Trò chơi không chỉ có giá trị như một ẩn dụ hiệu nghiệm để con người nhận thức được nhiều mặt của đời sống, nó còn là phương thức để con người kiến tạo nên những giá trị của đời sống và chính bản thân mình.

1.  Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn học thế kỉ XX, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để, mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng biến đổi nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.

Thông tin truy cập

61122309
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
6645
7300
61122309

Thành viên trực tuyến

Đang có 150 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website