1.     Quan niệm diễn ngôn

Cho đến nay, về cơ bản, các vấn đề như tác giả, tác phẩm, văn bản đã được giới thiệu rộng rãi ở ta. Song sự hình dung về diễn ngôn, sự lí giải diễn ngôn văn học, diễn ngôn thơ còn có những điểm chưa rõ ràng. Đã đến lúc và đã có những điều kiện bước đầu thuận lợi cho một sự tổng hợp, khái quát nhất định về các quan điểm diễn ngôn được giới thiệu tản mạn, hoặc không tự giác ở ta thời gian qua(1). Chúng tôi nghĩ, nếu nhận diện được diễn ngôn là gì và thao tác hoá được cách nghiên cứu diễn ngôn, bước đầu chúng ta sẽ có một cách tiếp cận mới đối với văn học, trong đó có các sáng tác thơ. Đọc thơ, theo quan niệm diễn ngôn, sẽ không còn chỉ quanh quẩn trong sự bình tán những nhãn tự, thần cú, cũng không thể chỉ đọc cảm xúc, thái độ của chủ thể, đọc thơ trở thành đọc cách tạo nghĩa, đọc cái hiện thực được thơ tạo ra, đọc các quan hệ quyền lực chi phối sự tạo thành và vận hành của chúng trong thực tiễn đời sống…

    
Với tiểu thuyết hiện thực phê phán của thế kỷ XIX, đặc biệt là bộ Tấn trò đời của Balzac, người ta tưởng như tiểu thuyết đã đạt tới đỉnh cao của mình và không có gì cần phải cải tiến, cách tân nữa. Với cấu trúc hướng ngoại, tiểu thuyết hiện thực phê phán đạt tới mô hình kể chuyện mẫu mực. Trong tinh thần đó, tác giả của nó thực hiện sứ mạng là “người thư ký trung thành” của thời đại khách quan xã hội, từ đó, tác giả trở thành “người biết tuốt” về mọi diễn biến của câu chuyện, điều khiển mọi sự vận hành của cấu trúc tiểu thuyết.

Gần đầy một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã gây ra tranh luận khác nhau. Nhiều ý kiến khen anh có cách viết khác lạ, độc đáo, tài hoa. Có người đã khẳng định rằng “ Mặc dầu với tất cả sự e dè cố hữu, người ra cũng không thể không khen rằng ông đã mang cho văn xuôi Việt Nam một cuộc cách tân” (Diệp Minh Tuyền – Văn nghệ số 37 – 38 năm 1988). Ngược lại, cũng có nhiều ý kiến phê phán thật nặng nề dữ dội, nhất là khi tuần báo Văn nghệ đăng hai truyện : Vàng lửa và Phẩm tiết. Có người xem Vàng lửa “ không phải là sự suy tưởng của của mộ đầu óc lành mạnh, khỏe khoắn” (Tạ Ngọc Liễn – Văn nghệ số 26 năm 1988). Có người cho Phẩm tiết không chỉ bắn súng lục mà là “bắc đại bác vào quá khứ” , là “ quả bom phá tan tành hình ảnh cao đẹp của người anh hùng áo vải” (Vũ Phan Nguyễn- Văn nghệ số 35 – 36 năm 1988) là “xúc phạm nghiêm trọng với lịch sử và người đọc” ( Nguyễn Thúy Ai – Văn nghệ số 35 – 36 năm 1988), là lọai truyện “viết qua bôi bác, tùy tiện rối rắm  và không trong sáng, vừa khi nhân ngạo vật, vừa xuyên tạc lịch sử” (Nguyễn Thanh – Tạp chí Văn số 1 năm 1988)…

 

 

Tôi đi tìm tiếng nói
 
Cho cổ họng của tôi
 
Thanh Tâm Tuyền

Thơ, sau 20 năm Đổi mới và Mở cửa, không chỉ có sự đổi mới của chính bản thân thơ, mà còn có cả sự đổi mới của cái nhìn về thơ, tức lý luận phê bình thơ. Trong đó, đáng kể là sự nhìn nhận lại một số hiện tượng cách tân thơ trong quá khứ không xa, mà Thanh Tâm Tuyền là một trường hợp khá tiêu biểu. Từ đỉnh cao Đổi mới, đọc lại Thanh Tâm Tuyền, đặt thơ ông vào nguồn mạch đổi mới thi ca dân tộc, có thể rút ra những kinh nghiệm không chỉ là lịch sử, mà đôi khi rất thời sự, có ích cho việc đánh giá “thơ 20 năm đổi mới” hôm nay.

 

 


Thế là Xuân Diệu ra đi đã được năm năm (18. 12. 1985 – 18. 12. 1990). Nhưng cái di sản tinh thần mà ông để lại còn mãi mãi. Tôi nhớ một đoạn trong Điếu văn của Hội Nhà văn, đọc trong buổi lễ truy điệu ông : “Những di sản tinh thần mà Xuân Diệu đã để lại cho chúng ta là những di sản đẹp đẽ và lâu bền, có thể truyền tư thế hệ này đến thế hệ khác, di sản không chỉ có giá trị trong nước mà còn có giá trị quốc tế”.

Hiện nay, nhiều lý thuyết mỹ học và nghiên cứu văn học của thế giới đã được giới thiệu ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều người khi giới thiệu các lý thuyết đó đã tỏ ra thiếu cái nhìn hệ thống, cho nên đã trình bày một cách rối rắm, thậm chí sai lệch. Đó là khi người ta đề cập đến các lý thuyết liên quan đến người đọc.


Hình như là người Việt Nam không mấy ai lại không biết bài ca dao Thằng Bờm. Trẻ con bắt đầu học nói đã được học Thằng Bờm rồi. Hiện có nhiều bản chép bài ca dao này rất khác nhau. Chúng tôi xin chép ra đây theo bản của Vũ Ngọc Phan in trong cuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam :
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu,
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng : Bờm chằng lấy mè,
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim,
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi,
Phú ông xin đổi hòn xôi: Bờm cười

Vô minh thì vọng động - Phật

  Người đọc, một trong những vấn đề trung tâm của lý luận và phê bình văn học thế giới từ nửa sau thế kỷ trước, đã bắt đầu được quan tâm ở Việt Nam. Hẳn thế mà bài viết Khi người đọc xuất hiện của tôi in trên Văn học nước ngoài 9-2009 và Văn hoá Nghệ An số 170 ngày 10-4-2010 được bạn đọc để ý. Là một nhà phê bình, nhất là phê bình học thuật, nhất thiết phải biết lý thuyết, nhưng không phải để trình bày kiểu giáo khoa, mà từ thực tiễn phê bình của mình kết hợp với lý thuyết xây dựng nên những mô hình nghiên cứu như là giả thuyết làm việc nhằm xử lý tốt hơn những hiện tượng văn học Việt Nam. Hơn nữa, bài viết trên là một chương sách, nên khi in một cách độc lập, hẳn không tránh khỏi cảm giác đột ngột. Bởi vậy, tôi viết bài này nhằm nói rõ hơn cơ sở của bài kia và, quan trọng hơn, quyền hiểu khác.

I. “Thi ngôn chí” - Hình thành, ý nghĩa

 

Thiên Thuấn Điển trong sách Thượng thư có đoạn chép:

 

Đế viết: Quỳ, mệnh nhữ điển nhạc, giáo trụ tử trực nhi ôn, khoan nhi lật, cương nhi vô ngược, giản nhi vô ngạo. Thi ngôn chí, ca vịnh ngôn, ... Nghĩa là: Này ông Quỳ, ta giao cho ông quản âm nhạc, ông hãy dùng nó để dạy con em, để chúng trở thành người chính trực ôn nhu, rộng lượng kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn. Thơ dùng để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ,...

Châu Minh Hùng (*)

1. Một ngàn năm là hơn mười đời người, có thừa thời gian cho sự diệt vong hoặc những  biến đổi sinh học, nhưng hơn cả ngàn năm Bắc thuộc, người Việt vẫn không bị Hán hóa trong chừng mực bảo tồn bộ gene dân tộc tính của mình. Trung tâm hoạt động văn hóa của một dân tộc là ngôn ngữ, dù bị kiểm soát bởi gươm giáo và hàng rào quyền lực của các đế chế Trung Hoa (1), người Việt vẫn duy trì tiếng nói của mình, thậm chí còn Việt hóa thứ diễn ngôn quyền lực kia để chứng tỏ khả năng nội sinh bất khả chinh phục của một dân tộc.

           
Nhà văn Trần Đình Sử (ký theo họ tên thật, ngoài ra còn dùng các bút danh Sử Hồng, Trần Minh) sinh ngày 10-8-1940, quê gốc Thừa Thiên – Huế, hiện thường trú tại Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm1990.
Sau khi tốt nghiệp Đại học trong nước, nhà văn Trần Đình Sử đã tu nghiệp ở Trung Quốc và Liên Xô, là Giáo sư, Tiến sĩ, ủy viên Hội đồng LLPB Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản các tập nghiên cứu – phê bình văn học Thi pháp thơ Tố Hữu, Lý luận và phê bình văn học, Một số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Dẫn luận thi pháp học, Văn học và thời gian, Thi pháp Truyện Kiều...

Nhà văn Trần Đình Sử đã được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt nam (1997) và Giải thưởng Nhà nước (2000).

Trong tiểu thuyết đầu tay của Bích Ngân, Thế giới xô lệch, câu chuyện gói gọn chỉ trong một gia đình, với ba thế hệ. Một gia đình Việt Nam bình thường cùng những câu chuyện rất bình thường của thời hậu chiến - kinh tế thị trường.

 

Nhân vật của Bích Ngân có vẻ hiền lành so với thực tế ngoài đời. “Kẻ xấu” của chị cũng chỉ xấu một cách vừa phải. Đó là nhân vật Anh Ba, đã biết tận dụng uy tín của ông bố cán bộ, để có một vị trí trong ngành xây dựng, “ăn” các thứ sắt thép, xi măng, xây biệt thự và sống cuộc đời khá phủ phê so với gia đình mình, bên cạnh một cô vợ tầm tầm. Đó cũng là anh tài xế vẫn rút trộm xăng từ chiếc xe riêng của sếp hoặc khai khống tiền sửa xe, suýt trở thành kẻ gây ra bi kịch hôn nhân cho con trai út của sếp.

 
 

“Người tốt” của Bích Ngân thì tốt một cách sâu sắc hơn, trong đó có Tôi, nhân vật chính, đã bị mất cả đôi chân trên chiến trường và không thể không trở nên yếm thế, khi ý thức được sự bất lực của mình trong cuộc chiến mới với vũ khí là đồng tiền.

 
 

Lơ lửng giữa anh em trai của mình, lãng mạn và sách vở, nhân vật Chị Hai lại đánh mất một thứ vô hình nhưng rất quan trọng sau cuộc nổi loạn nhỏ và ngỡ rằng đã tìm được thứ mà mình khao khát: tình yêu đích thực, được đồng hóa với niềm tin đích thực.

 
 

Luôn gánh vác, hy sinh và chịu đựng một cách bao dung như một hiền triết dân gian đầy thấu hiểu, nhân vật Người Mẹ là điểm tựa vô điều kiện và có lẽ vĩnh cửu của cái gia đình ba thế hệ ấy, hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

 
 

Trong khi đó, nhân vật Người Cha giống như một hình mẫu giản đơn hơn là một con người đúng nghĩa với đầy đủ hỉ nộ ái ố, luôn hành xử theo một quy tắc bất biến, với quan niệm mình sinh ra cho những việc “đại sự” chứ không dành cho những chuyện “nhỏ bé” của gia đình. Khi cần có mặt giữa người thân, ông luôn ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho mình (một chiếc ghế cũng không lành lặn mấy), đưa ra những lời truyền phán có tính giáo huấn và răn đe, không thấy chút bóng dáng nào của sự trìu mến thân thương vốn là bản chất tự nhiên giữa những người cùng huyết thống. Và khi ông quyết biến cô con dâu ít học xuất thân nông dân thành một “người nhà nước”, ông đã khiến cho con trai út suýt nữa mất vợ...

 
 

Từ một truyện vừa là tác phẩm tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du được viết từ năm 1992, Bích Ngân đã phát triển thành một tiểu thuyết 300 trang, trong đó chị đặt vấn đề về sự “xô lệch” trong một gia đình mà mỗi thành viên đều có những bi kịch dù hiển nhiên hay thầm lặng. Ông bà nội, mẹ, cô chú, các anh chị em ruột, dâu rể, và cả một con chó Phèn trung thành, tất cả đều ở trên cùng một vòng quay mà người đứng ở trục trung tâm chính là người cha, người đưa ra quyết định cho vận mệnh những người khác, nhưng lại luôn “vắng mặt” trong ngôi nhà của mình.

 
 

Có thể đặt câu hỏi: Tại sao lúc nào ông cũng đặt mình cao hơn người khác, và chỉ luôn phát ra những mệnh lệnh một chiều? Ông đã không độ lượng với người cha lầm lỗi nhưng tại sao ngay với người mẹ bất hạnh của mình, ông cũng không hề có được sự xốn xang để cố đi tìm bằng được nắm xương xiêu lạc của bà? Luôn tin vào sự anh minh công chính của mình nhưng ông lại không ý thức được rằng, con trai tật nguyền của mình là kẻ yếu trong cuộc chinh phục người vợ đẹp nhưng còn đầy mông muội, bản năng...

 
 

Người cha chính là nhân vật có tính tiểu thuyết nhất, cho dù chân dung của ông thiếu hấp dẫn, thế nhưng hiểu theo một nghĩa nào đó, ông mới chính là nhân vật có tính “bi kịch” nhất. Cho đến trang cuối của tiểu thuyết, có vẻ như ông đã bắt đầu nhận ra một điều gì đó, nhưng tác giả đã không làm rõ.

 
 

Các nhân vật Anh Ba, Tài xế, Cô Vợ đều đã biết quay đầu về phía sáng, cho dù chỉ bởi những tính toán thực dụng, chỉ còn “vấn đề” cuối cùng của tiểu thuyềt: Người Cha. Nếu Người Cha vẫn không chịu thay đổi cái đầu chỉ chấp nhận các định đề, vẫn tin rằng sự bất tử chỉ tồn tại nhờ ở sự tưởng niệm thì, sự bất tử trong đầu ông vẫn còn một khoảng cách quá diệu vợi so với sự bất tử hằng có trong đời thực.

 

 

 

(*) Đọc Thế giới xô lệch, tiểu thuyết của Bích Ngân, NXB Hội Nhà văn, 2009.

 

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201010/20100304231715.aspx

Bích Ngân, tên thật là Trịnh Bích Ngân, sinh năm 1960 tại Cà Mau, học chuyên ngành Văn học, Khoa Ngữ văn, khóa 1980 - 1985. Hiện là Phó giám đốc, Phó Tổng biên tập NXB Văn Nghệ TP.HCM. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn TP.HCM, Hội Nhà báo Việt Nam.

 

Thơ Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân khiến người ta phải chú ý vì cái dư vị cổ kính tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi.

 

Theo hồi ức của một vài văn thi sĩ tiền chiến, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Thâm Tâm là ba người bạn rất thân, họ thường nhóm nhau ở vùng Cống Trắng, Khâm Thiên, hoặc sau ga Hà Nội hồi những năm 1940. Không những thế, bằng một mảng tác phẩm rất riêng của mình, họ còn tự biệt ra thành một phái trong Thơ Mới: phái “Áo bào gốc liễu”. Có thể, về ý nghĩa văn học sử, phái “Áo bào gốc liễu” còn xa mới có được tầm vóc như “Trường thơ Loạn” của các nhà thơ miền Trung Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, nhưng dù sao thì nó cũng không lặp lại ở các nhóm phái thơ ca khác. Bởi thế, nó cũng đã góp phần tạo nên sự đa diện trong và cho Thơ Mới. Thật lạ, vì trong Thơ Mới lãng mạn, khi đại đa số nhà thơ cởi mở cõi lòng để đắm say với ái tình chàng chàng thiếp thiếp, để tận hưởng cảnh thiên nhiên đẹp và những giấc mơ viễn xứ, hoặc ít ra, để trốn vào làng quê Việt với dăm ba nét xưa cũ còn sót lại trong cuộc thay da đổi thịt lớn lao, thì con người “Áo bào gốc liễu” lại xuất hiện, như một nghịch phách, qua thơ Nguyễn Bính - đặc biệt là qua thơ của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân - và khiến người ta phải chú ý. Chú ý vì cái dư vị cổ kính mà các tác giả đó đã tạo được qua thể “ca”, “hành” mượn từ cổ thi. Chú ý vì giọng điệu ngang tàng và phẫn hận trong lời thơ, một giọng điệu quả thực không mấy phổ biến trong Thơ Mới.

Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 03 (397), ra tháng 3 năm 2005, có đăng bài “Lời bình của thi hào Nguyễn Du trong Hoa Nguyên thi thảo” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Na, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi bài nghiên cứu của Phó giáo sư đến tay công chúng, thì người viết này đang dốc hết tâm trí của mình để hoàn thành luận án Tiến sĩ Ngữ văn tại Đại học Nam Kinh, Trung Quốc, nên không có dịp bái đọc.Sau khi về nước, với mục đích cập nhật thông tin, bù đắp lỗ hổng kiến thức chuyên ngành, chúng tôi đã dành nhiều thời gian cho việc đọc, nhất là đọc các công trình, bài báo liên quan đến những vấn đề mà chúng tôi quan tâm, và bài báo khoa học nói trên là một trong số đó.

1. Chắc không phải là ngẫu nhiên khi Lee Dong Soon lại chọn tên bài thơ Miss Sài Gòn làm nhan đề chung cho cả tập thơ – một nhan đề mà tự nó đã cho thấy một sự đan trộn văn hóa, đan trộn không – thời gian. “Miss Sài Gòn” là cách gọi của một người lính Hàn Quốc dành cho người phụ nữ Việt Nam mà anh ta đã gắn bó trong thời gian sống trong quân ngũ. Người đàn ông Hàn Quốc trong bài thơ thì đã bỏ đi và chưa biết đến ngày nào quay lại nhưng tác giả của tập thơ – một đồng bào của người lính Hàn Quốc năm xưa - thì đã đến Việt Nam. Với cá nhân ông thì đây là lần đầu tiên. Nhưng với tư cách của một người Hàn Quốc thì đó là một sự trở lại. Điều này đưa đến hai hệ quả:

 

Nói về thơ Nguyễn Bính, trước nay người ta vẫn sử dụng một định thức quen thuộc: thi sỹ chân quê. Thì cũng chẳng sai. Nhưng trong thơ Nguyễn Bính còn hiện diện cả một phần thành thị, vừa như một đối trọng lại vừa như một sự bổ sung cho cái phần quê kiểng đậm đặc mà ai cũng nhận thấy kia.

1. Đuổi bắt thế giới

 

 Có thể nói, từ những thập niên đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam mới thực sự tham dự vào cuộc hành trình rời quỹ đạo khu vực để gia nhập quỹ đạo thế giới. Hành trình hiện đại hóa này, trước 1945, hầu như trùng khít với phương Tây hóa. Bởi, thế giới hiện đại trong mắt đa số người Việt Nam bấy giờ chỉ là phương Tây. Còn từ 1945 trở đi, Việt Nam đã có những nẻo khác, như Liên Xô, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á, nhưng, theo tôi, con đường chính vẫn là phương Tây hóa, còn các nước kia chỉ nên coi là những đồng hành sau trước.

 

Khả năng cầm bút của Nguyễn Nhật Ánh tỏ lộ khá sớm. Những năm học ở trường phổ thông, anh đã có những bài thơ đăng báo. Được biết như một nhà thơ trước khi là nhà văn, nhưng chính các tác phẩm văn xuôi của anh đã giúp anh chiếm lĩnh cảm tình của đông đảo bạn đọc. Anh là nhà văn được yêu thích nhất ở thành phố Hồ Chí Minh trong các năm 1989, 1990, theo cuộc thăm dò dư luận độc giả do Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức – và năm 1991 – do bạn đọc của Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và tập san Bạn Ngọc bình chọn (2). Mới đây Nguyễn Nhật Ánh được Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh biểu dương về những đóng góp trong văn học, nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam.

Trước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

Thông tin truy cập

66563983
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
8826
9734
66563983

Thành viên trực tuyến

Đang có 203 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website