Tin nhà văn Nguyễn Huy Thiệp bị tai biến thì nhiều người đã biết nhưng tin tác giả Tướng về hưu qua đời khiến giới văn chương và độc giả bất ngờ. Theo nhà thơ Văn Công Hùng, "văn đàn Việt vắng đi một bóng cây lớn".

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lúc sinh thời /// Ảnh: T.L

 Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lúc sinh thời (ẢNH: T.L)

Nhớ về kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh không quên những lần gặp gỡ tác giả Tướng về hưu. Nữ giảng viên trường ĐH KHXH và NV TP.HCM kể lại: “Tôi gặp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tổng cộng ba lần. Lần thứ nhất là do nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh rủ khi anh Thiệp vào Nam chơi. Lần thứ hai khi trường tôi mời nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và nhà thơ dân gian Bảo Sinh đến nói chuyện với sinh viên và lần thứ ba là khi tôi ra Hà nội dự hội thảo của Viện Văn. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đến dự với một túi lạc luộc và khoai lang rồi mời mọi người ăn. Anh vẫn nhớ tên tôi (có lẽ vì cái tên đặc biệt chứ không phải vì cái gì khác). Ngoài đời anh ít nói, không hoạt ngôn, cứ im im ngồi, thi thoảng nói vài câu. Người như vậy để hết tâm vào con chữ rồi..."

20210328 6

Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh (bìa trái) và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (thứ hai từ trái sang) cùng các bạn văn chương

(ẢNH: FBNV)

Gặp trực tiếp chỉ ba lần, nhưng với tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh “gặp” truyện của ông thì không biết bao nhiêu lần: Tướng về hưu, Không có vua, Những ngọn gió Hua Tát, Muối của rừng, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Trương Chi, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết... Cô nhận xét: "Những trang văn gai góc, không màu mè, xoáy sâu vào tim gan độc giả với những cảnh tình nhiều khi rùng rợn và không tưởng tượng nổi. Tôi đọc đi đọc lại nhiều tác phẩm, nhất là Không có vua, một mảnh vỡ chông chênh của những giá trị giao thời, mà khi đọc Tiệm may Sài Gòn của Phạm Thị Hoài, tôi chỉ phục thôi chứ không cảm và lặng người như đọc Nguyễn Huy Thiệp. Gần nhất, năm ngoái, khi dạy truyện Tướng về hưu qua bản dịch tiếng Anh, sinh viên Mỹ rất thích. Nhiều bạn trẻ bày tỏ rằng nhờ truyện này mà họ hiểu được cái tâm tình đổ vỡ của người lính hậu chiến, thì ra người chiến thắng cũng đổ vỡ chứ không phải chỉ người thua".

Cũng theo tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh: “Nếu chọn vài nhà văn lớn nhất nửa sau thế kỷ 20, có lẽ chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh (giống như tôi chọn Vũ Trọng Phụng là nhà văn lớn nhất Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 vậy). Một kiếp người gian truân, vất vả, nhưng để lại cho đời từng đó tác phẩm hay, âu cũng là phần thưởng xứng đáng".

Bạn văn thương nhớ Nguyễn Huy Thiệp, một kiếp người gian truân và tài hoa  - ảnh 2

Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (ẢNH: T.L)

 

Còn nhà văn Bùi Anh Tấn thì chia sẻ trên trang cá nhân với những dòng cảm động: “Dẫu biết đời người là một vòng quay sinh - bệnh - lão -tử, không ai tránh khỏi. Tuy nhiên biết tin, vẫn rất buồn. Ra đi ở tuổi 71 không gọi là trẻ nhưng cũng chưa hẳn là quá già. Xin tiễn ông, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp”.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cho biết: “Anh Thiệp biết tôi ra Hà Nội nên mời tôi đi ăn. Anh Thiệp là một nhân vật nổi tiếng nên thật ra người ta thường mời anh chứ anh ấy rất ít mời ai (!?). Điều này cũng dễ hiểu. Anh nói hụt hơi trong điện thoại: - "Minh, Minh. Phải gặp nhau nhé! Việc gì cũng phải bỏ! Chiều mai đến cà phê Nhân nhé! Tôi cũng sẽ cố gắng để ra sớm... Đúng rồi! Đúng rồi! Cái quán ấy. Góc ngồi ấy..".

Bạn văn thương nhớ Nguyễn Huy Thiệp, một kiếp người gian truân và tài hoa  - ảnh 3

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (phải) và nhà văn Trần Nhã Thụy tại sự kiện gặp gỡ cộng tác viên Viết & Đọc tại Hà Nội, tháng 10.2019 (ẢNH: NVCC)

Nguyễn Hữu Hồng Minh tâm sự: “Cả buổi chiều đó Hà Nội quá nóng, bất chợt đổ một cơn mưa lớn. Cơn mưa lớn đến nỗi, hai phụ bàn chạy lăng xăng đóng lại mấy cửa kính. Tôi phải đổi qua một cái bàn mới khuất sâu hơn để tránh mưa. Và gọi cho anh Thiệp. Tiếng anh lòe nhòe trong mưa: -"Đang tới Minh. Mưa to.Tắc đường. Tôi đang chờ ngớt mưa để đi....Tôi quay lại thì nghe loảng xoảng phía ngoài sân. Nhìn ra phía ngoài một giỏ hoa quán cà phê Nhân đã bị gió cuốn đứt xõa một đống trước sân. Nhân viên chỉ thò đầu ra, rồi rụt cổ thè lưỡi chứ không ai dám đổ ra dọn. Mưa Hà Nội. Hà Nội cũng bất thần có những cơn mưa lớn như thế mà lần đầu tôi được biết khi hẹn với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp".

Còn nhà văn Trần Nhã Thụy chia sẻ ngắn ngủi: "Vĩnh biệt ông, nhà văn - cây bút truyện ngắn tầm cỡ của văn học Việt Nam. Một cuộc đời trầm luân nhưng đáng giá. Danh càng lớn họa càng cao - đó là câu của Nguyễn Huy Thiệp mà tôi xem như là công án tu tập cho đời mình".

Lê Công Sơn

Nguồn: Thanh niên, ngày 20.3.2021.

Xét riêng thể truyện ngắn, phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là truyện kể qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.

20210322

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN

Trước khi gây chấn động văn đàn với tác phẩm Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã công bố trên báo Văn Nghệ hai truyện ngắn (Mỵ, Vết trượt). Nếu tiếp tục cách khai thác chất liệu sáng tác và bút pháp của những truyện ngắn này, có lẽ ông vẫn tìm được một vị trí trong văn học sử nhưng không thể trở thành hiện tượng độc đáo gây nhiều tranh cãi như chúng ta chứng kiến suốt ba thập niên văn học.

Trong thế kỷ 20 ở nước ta, trên lĩnh vực văn xuôi hư cấu xuất hiện nhiều văn tài đa dạng, tầm cỡ, nhưng thiết nghĩ hai người có tính cách tân và mang số phận kỳ lạ nhất là Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Huy Thiệp.

Một người cầm bút trong xã hội thuộc địa; một người trong bối cảnh đất nước thống nhất, hòa bình. Một người vào nghề và hoàn thành sự nghiệp khi tuổi đời còn rất trẻ; một người khởi nghiệp khi đã qua tuổi thanh niên và có nhiều trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời. Một người chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết; một người đạt đến đỉnh cao nghệ thuật của thể loại truyện ngắn.

Như những ngôn sứ trong Kinh Thánh từng không được chấp nhận trên quê hương mình, dư luận xã hội đã có lúc không chiều đãi, thậm chí phủ nhận hai văn tài nói trên.

Những mũi tên bắn vào tác phẩm Vũ Trọng Phụng chủ yếu khi ông đã nằm xuống, còn Nguyễn Huy Thiệp thì phải chịu trận và chống đỡ với những làn sóng đả kích khi còn đang sức sáng tạo để tiếp tục khẳng định chính mình.

Nói hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của thời Đổi mới có lẽ cũng đúng, nhưng tác động của thời cuộc may lắm là kích thích và tạo môi trường tương đối thuận lợi cho tác phẩm được công bố.

Còn sự thật thì Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của chính Nguyễn Huy Thiệp, với nội công thâm hậu mà ông rèn luyện trong mười năm dạy học ở Tây Bắc, miền đất của Những ngọn gió Hua Tát.

Xét riêng về thể truyện ngắn, có thể xếp Nguyễn Huy Thiệp bên cạnh Nam Cao. Phong cách Nam Cao thống nhất trong sự viên mãn; phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là những truyện kể qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.

Không có gì khó hiểu khi nhà thơ trong văn xuôi đó cũng là tác giả của những vở kịch đặc sắc mang chiều sâu tư tưởng. Tiếc là kịch của Nguyễn Huy Thiệp ít được dàn dựng trên sân khấu nên vẫn còn xa lạ với công chúng.

Khoảng trống Nguyễn Huy Thiệp để lại hôm nay có lẽ còn lâu lắm mới được lấp đầy. Người đọc chắc chắn sẽ đọc lại Nguyễn Huy Thiệp và lịch sử sẽ còn dành nhiều giấy mực để luận bàn về sự nghiệp của ông.

Nguyễn Huy Thiệp: người gợi lại dũng khí cho tất cả nhà văn

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - tên tuổi đáng chú ý nhất văn đàn Việt Nam trong vài chục năm qua - vừa qua đời lúc 16h45 ngày 20-3 tại nhà riêng sau một thời gian chống chọi với bệnh đột quỵ. Ông hưởng thọ 72 tuổi.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 20-4-1950 ở Thái Nguyên, nhưng nguyên quán ở Hà Nội.

Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như Tướng về hưu, Muối của rừng, Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê, Sang sông, bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết...

Ngoài ra ông còn viết tiểu thuyết, kịch bản, thơ, tiểu luận. Nhưng thành công hơn cả vẫn là truyện ngắn. Ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản gồm: Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm, Tuổi 20 yêu dấu.

Năm 2020, kỷ niệm 70 tuổi, Nguyễn Huy Thiệp cùng với Công ty sách Đông A đã cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn chọn lọc với những tranh minh họa của những họa sĩ xuất sắc, cũng là bạn bè của ông ở Hà Nội.

Cuốn sách tập hợp những truyện ngắn mà nhà văn ưng ý nhất. Từ hơn chục năm nay, ông hầu như gác bút, vui tuổi già với con cháu.

Nhà văn Nguyễn Bình Phương - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đánh giá Nguyễn Huy Thiệp là "một trong những nhà văn gần như là quan trọng số 1 từ sau Đổi mới, người đã gợi lại dũng khí cho tất cả các nhà văn, cho họ thấy thế nào là quyền năng một người viết, quyền thay đổi, quyền khám phá, phản biện xã hội, khiến ta nhìn thấy lại giá trị của nhà văn".

"Chắc chắn anh Thiệp sẽ ở lại với lịch sử văn học. Ông thật sự là một nhà văn lớn. Tôi thật sự tiếc bởi ông ra đi sớm. Ông còn thì anh em làng văn cảm giác ấm cúng hơn" - tác giả tiểu thuyết Mình và họ nói về bậc đàn anh văn chương vừa rời cõi tạm trong lúc đi bộ qua những con phố lướt thướt mưa phùn của Hà Nội.

Về con người cá nhân, Nguyễn Bình Phương rất trân quý Nguyễn Huy Thiệp, một con người rất lặng lẽ, quyết liệt, tôn trọng bạn bè, đồng nghiệp.

Nguyễn Bình Phương còn tiếc nuối hơn khi Nguyễn Huy Thiệp chưa được đánh giá xứng đáng, ông chưa được trao giải thưởng nhà nước, cũng chưa có giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam.

"Đây là món nợ lớn nhất của Hội Nhà văn với Nguyễn Huy Thiệp" - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nói.

Hội Nhà văn Việt Nam sẽ cùng gia đình nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tổ chức tang lễ cho ông, dự kiến tại Nhà tang lễ quốc gia.

Thiên Điểu

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 21.3.2021.

20201225

Văn học hiện đại Việt Nam đã và đang tiến hành giao lưu và hội nhập toàn cầu. Một trong khuynh hướng đổi mới nghiên cứu và giảng dạy của cơ sở đào tạo Đại học là chú ý phát hiện , khai thác và từ đó là đề cao , phát huy những hình mẫu tác gia tiêu biểu nhất trong lịch sử văn học. Đó cũng là một hình thức quảng bá, giao lưu văn học với tinh thần  hoà nhập bình đẳng ,tự hào, thể hiện bản sắc dân tộc theo phương châm  “hoà nhập mà không hoà đồng”.

Tác giả bài viết này xin nêu một minh chứng  cụ thể cho quan niệm trên khi dẫn ra trường hợp nhà văn Nguyễn Minh Châu

Năm vừa qua, tại Viện Văn học đã diễn ra Hội thảo khao học “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Năm nay,  90 năm ngày sinh nhà văn (1930 – 2020) cũng đã có  những  bàn  thảo tiếp tục .

Cho tới kỷ niệm 100 năm tới (2030), chắc rằng những hội thảo khoa học lớn sẽ mở ra. Tất cả những hội thảo với độ lùi lịch sử đáng kể đó đều nhằm đánh giá thêm về vai trò và ảnh hưởng của nhà văn với sự nghiệp văn học chung của đất nước.

Đã có sự đánh giá cao rất thời sự của Nguyễn Khải: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc của những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam, và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng say này”.

Bài viết này, trong tình hình và xu thế văn học hội nhập toàn cầu hiện nay , muốn khẳng định vai trò tầm cỡ của Nguyễn Minh Châu – một nhà văn lớn của văn học hiện đại. Và, khái quát hơn,  Nguyễn Minh Châu  còn là hình mẫu tiêu biểu nhà văn của thời đại mới, như một  “công dân toàn cầu” lý tưởng.

 

I/ Nhà văn có tầm nhìn cao xa, sâu rộng

Là nhà văn mặc áo lính, trong đời Nguyễn Minh Châu đã từng biết Những vùng trời khác nhau, từng được đặt chân tới nhiều vùng miền, quê hương đất nước với những đặc trưng khu biệt: vùng đồng bằng, trung du và miền núi, vùng duyên hải. Nhà văn cũng từng có những chuyến đi biển và hải đảo.

Cuộc sống trải nghiệm khiến nhà văn có con mắt nhìn bao quát – vừa cao xa, vừa sâu rộng. Từ đó là cái nhìn, tầm nhìn xuyên suốt, xuyên thấu về cuộc đời, về con người thể hiện qua tư duy và sáng tác.

Là người mác xít, cái quý giá trong tâm tưởng nhà văn là chất biện chứng. Sự vật, sự việc và con người luôn vận động, biến đổi và phát triển.

Đặc biệt là trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau.

Nguyễn Minh Châu đã đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã sống những ngày đất nước thống nhất và bước đầu đổi mới.

Một cách đại thể, có thể thấy Nguyễn Minh Châu là một người viết của một buổi giao thời: giữa chiến tranh và hoà bình như một thế hệ đồng đội.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam mang nét đặc trưng lịch sử.

Đã có thời, nửa nước hoà bình, nửa nước chiến tranh. Rồi tình trạng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa giữ nước, vừa dựng nước.

Sự chuyển biến giữa các trạng thái đó đều không thể đơn thuần. Nhất là từ chiến tranh chuyển sang hoà bình không hề đơn giản, mà thực chất có diễn biến mang tính chất dữ dội của nó – cuộc chuyển mình dữ dội từ đời sống đến văn học.

Là người trải nghiệm qua chiến đấu, Nguyễn Minh Châu thấm thía tất cả những điều đó.

Sáng tác của nhà văn trước và sau 1975 đã thể hiện những cái nhìn khác nhau về chiến tranh.

Ông vẫn là người trong cuộc, nhưng sự thể hiện chiến đấu trong Cửa sông, Dấu chân người lính có khác về sự chuyển biến nhận thức ở Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1977). Đây là những tác phẩm được ra đời ngay sau năm 1975.

Âm vang, âm hưởng của văn học sử thi vẫn còn, nhưng xu hướng nhìn lại chiến tranh, tìm thêm các giá trị nhân văn của chiến tranh khổng hẳn chỉ là của Nguyễn Minh Châu.

Cái nhìn về con người cũng không như trước – trong thời chiến. Nhà văn đã bám sát biện chứng tâm hồn để tìm ra những đổi thay và chuyển biến mới.

Tôi đã viết về nhận xét này, khi khẳng định dấu ấn sự nghiệp Nguyễn Minh Châu:

“Tuy nhiên, cách nhìn cuộc đời và con người của nhà văn đã dần dần khác trước thấy rõ được đa diện, sinh động và phức tạp mới trong tất cả cái đa sự, đa đoan. Nếu như trước kia là tìm con người trong sự kiện, trong chiến tranh, thì giờ đây là cuộc khám phá con người trong chính họ. Nổi lên là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc sau chiến tranh”.

Đó là cái nhìn xuyên suốt của nhà văn từ những năm sau 1975, kể từ cụm sáng tác 1977 kể trên, đến những tác phẩm cuối đời vào thập kỷ 80.

Rõ ràng, nhà văn có quan điểm Viết về chiến tranh (Tiểu luận đăng trên Văn nghệ quân đội, số 11, 1978).

Trước sau, Nguyễn Minh Châu chỉ “hành quân” trên một con đường lớn. Đó là đại lộ chiến đấu vì quyền sống, và quyền hạnh phúc của con người. Chỉ có điều là, ông nhìn ra phương hướng và xác định mục tiêu khác nhau, do lịch sử đề ra.

Trước 1975, Nguyễn Minh Châu “chiến đấu cho quyền sống của dân tộc”, sau đó chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người” .

Luôn nhìn xã hội và con người với cái nhìn tìm tòi, khám phá và phát hiện, nhà văn không bao giờ tự hài lòng với sự quan sát bên ngoài, hình thức chủ nghĩa.

Khi chuyển vào đời sống sau chiến tranh, nhà văn đã có cái nhìn tinh tường qua bao nhiêu ngổn ngang, bề bộn, xáo trộn, phức tạp.

Qua đó, là sự phát hiện thế giới tâm hồn của con người trong một xã hội dân sự mới. Đó là con người với muôn mặt đời thường, trong đó phần sáng bộc lộ, phần tối khuất lấp, cả tốt – xấu, thiện – ác đều đan xen, chen lấn và giao tranh với nhau.

Chính vì thế, mà thế giới nhân vật trong sáng tác thường đa dạng và phong phú hơn.

Cho đến cuối đời, Nguyễn Minh Châu vẫn đi sâu vào khám phá thế giới con người thẳm sâu đầy bí ẩn. Đó là cái nhìn và sự phát hiện con người trong chiều sâu triết học – thẩm mỹ. Nói như Bakhtin: “Con người trong con người”.

 

II/ Nhà văn có tư tưởng cao cả, sáng đẹp

Nhà văn chân chính nào, trước hết và xét cho cùng, cũng phải có tư tưởng. Đó có thể là tư tưởng về chính trị, về nhân sinh, xả hội, và tư tưởng về văn học – nghệ thuật.

Những sáng tác phẩm của họ đều có một thông điệp về tư tưởng ấy. Khi phân tích sàn phẩm nghệ thuật, bao giờ độc giả cũng tìm ý tưởng được phát ngôn của tác giả.

Như mọi nhà văn danh giá, Nguyễn Minh Châu là một nhà suy tưởng khi cầm bút . Hơn thế, ông còn là nhà tư tưởng lớn. Bởi, ông thực chất chính là người viết mang tư tưởng cao cả và sáng đẹp.

Là thế hệ nhà văn trải qua cả cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 30 năm, một cuộc đấu tranh onah liệt trong trường kỳ lịch sử của dân tộc, Nguyễn Minh Châu đương nhiên thấm nhuần tư tưởng của dân tộc trong thời đại. Đó là lý tưởng  “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” như động lực kỳ diệu đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

Cũng như thế, ông thấm đượm truyền thống nhân văn của dân tộc: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy trí nhân để thay cường bạo” (Nguyễn Trãi).

Tuy nhiên, là chủ thể tư duy và sáng tạo nghệ thuật, nhà văn có sự tiếp biến để thể hiện những nét bản sắc độc đáo.

Chủ nghĩa nhân đạo cách mạng kết hoà với truyền thống nhân văn của đạo lý dân tộc có biểu hiện đặc sắc của nhà văn.

Có thể coi ở một góc độ khái quát rằng, Nguyễn Minh Châu là nhà văn mang tư tưởng thời đại, mang lý tưởng nhân văn thời đại mới. Đó là thời đại mà đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trong Tuyên ngôn độc lập 1945: “Con người có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Cùng đồng đội mặc áo lính,nhà văn thực hiện chân thực, sinh động nhất lý tưởng giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại  “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba nghìn triệu trên đời” ( Tố Hữu).Một đời cầm súng và cầm bút, Nguyễn Minh Châu tuyên bố minh bạch, dõng dạc về cuộc chiến đấu  “ cho quyền sống của cả dân tộc” và  “ cho quyền sống của từng con người”. Nhà văn có dịp phát biểu về tính nhân văn của người nghệ sĩ mới “ Tình yêu này của người nghệ sĩ, vừa là niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải , một nỗi quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình”                        ,  .

Nhà văn chủ trương một tình yêu lớn như vậy có thể sẻ chia, thông cảm sâu sắc và hơn thế, nâng đỡ,bênh vực, trợ lực con người đứng vững và đi lên trong cuộc sống đầy gian nan, thử thách.

Giống như Nam Cao xưa kia, Nguyễn Minh Châu không chỉ quan tâm chia sẻ với một lớp người, loại người nào, mà thương cảm bao trùm những phận người, những kiếp người.Qua nhân vật truyện , ta thấy rõ cảm thức nhân loại của nhà văn. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành hay người phụ nữ trong Chiếc thuyền ngoài xa  là những nhân vật có vẻ dị biệt nhưng lại mang tính phổ quát, là nhân vật tư tưởng mang triết lý nhân sinh của nhà văn.Trong chiến tranh, nổi lên trên những trang viết Nguyễn Minh Châu là  cảm hứng anh hùng. Đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn đặc sắc trong thời cuộc. Cảm hứng này lại giao hoà với cảm hứng nhân văn sau chiến tranh để thực hiện một quan niệm nhất quán là “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nhà văn chuyên tâm, gắng sức . trước sau đi tìm vẻ đẹp tâm hồn .

Nhà văn từng phân tích, trước đây do hạn chế lịch sử,  ta thường theo quán tính nhìn một chiều, phiến diện.Gio72 đây, trong tình hình mới, với tư duy phản biện xã hội tích cực,, nhà văn đã có phát hiện mới về con người với đời sống  tâm hồn phong phú, phức tạp . Trong cơ chế thị trường nhà văn đã sớm  nhân thấy mặt trái là xuống cấp đạo đức . Từ đó là một đề xuất mới về xây dựng đạo đức xã hội.

Trước hết phải là sự tự vấn, tự phản tỉnh của cá nhân. Con người phải xem lại,  soi xet kỹ lại bản thân mình, tiến hành cuộc đấu tranh với chính mình để loại trừ những thói hư, tật xấu.đồng thời là sự xác định hệ giá trị nhân cách con người mới trong hoàn cảnh mới.

 Cũng rất giống với Nam Cao, nhà văn có thức tỉnh mới  với thông điệo tư tưởng lớn là hoàn thiện nhân cách. Đó là triết lý với các truyên Bức tranh, qua  cuộc sám hối âm thầm mà quyết liệt, truyện Dấu vết nghề nghiệp , qua sự tự thú muộn màng…Nhất là qua Một cuộc đối chứng- hiện tượng đối chứng giữa con người và con vật- để tìm ra bản chất đích thực của con người : tính chất người, hay chính xác hơn, tinh chất người.

Từ sự thoái hoá cuả nhân cách, nhà văn  đê xuất một thông điệp như một tư                                                  tưởng phái sinh. Đó là sự phê phán mặt trái tiêu cực của người nông dân lạc hậu.

Lão Khúng trong Khách ở quê ra  xa lạ thậm chí như dị ứng với cuộc sống đô thị.Lão vốn gốc gác  lâu đời nông thôn nên “ cận thị”, thiển cận, tầm nhìn quanh quẩn , chật hẹp nơi luỹ tre làng “người sản xuất nhỏ cổ sơ”.Do đó không khỏi có hạn chế tư tưởng là kinh nghiệm chủ nghĩa, bảo thủ, cổ hủ. Những con người quê biển tác giả gợi cảm tưởng như thuộc về một thế giới hoang sơ nào! Có một cảm xúc tâm linh : con bò Khoang lại quay về với lão như định mệnh gắn bó cuộc đời người-bò : “Con bò quay về gặp chủ nó là sự thảm hại “não nùng” của ảo tưởng tự do của lão Khúng”.Người nông dân cũng dễ bị tha hoá, dễ trỗi dậy mặt bản năng, thực dụng khi có cơ hội như trường hợp Dũng, con trai lão , định hành hung hàng xóm. Giấc mơ của lão Khúng có tính chất tượng trưng : chính lão đã dùng búa tạ bổ vào đầu con bò Khoang. Tác giả phác ra hai khả năng  giới hạn của số phận nông dân. Họ vẫn là nạn nhân của chế độ bóc lột nhưng vẫn có thể trở thành phạm nhân, kẻ tội đồ  : những  “ác ôn”, “ cường hào mới” ở nông thôn.Nguyễn Minh Châu từng có giả định kỳ lạ nhưng có yếu tố hiện thực : Chí Phèo  “ tái sinh” thành  lính nguỵ và chính tên pạc- ti- dăng  đã bắn chết Nam Cao có thể  chính là Chí Phèo.

Đã có thời dư luận chính trị lên án cái gọi là “chủ nghĩa nông dân”  và sự tác hại của nó, không phải chỉ ở đất nước ta mà nhìn rộng ra còn ở nơi có nền nông nghiệp lạc hậu từ lâu đời. Từ sự  khám phá, phê phán sâu sắc mặt trái trong phẩm cách nhân vật Khúng ,Nguyễn Minh Châu đề xuất việc giao lưu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong hoàn cãnh mới sẽ  phát huy mât tích cực trong quá trình phát triển mới của xã hội để biến họ thành người nông dân hiện đại trong xu thế  công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Với chức năng tiên tri, Nguyễn Minh Châu đã đưa ra những tiên cảm, dự báo và cảnh báo tầm xa như vậy.

Thi sĩ, văn nhân thường  “yêu cảnh thiên nhiên đẹp”.Hơn thế, Nguyễn Minh Châu còn có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn giá trị  tự nhiên với quan điểm có tính thời sự- thời đại. Nhà văn còn có tư cách nhà khoa học sinh thái môi trường.

Sống mãi với cây xanh rất tiêu biểu cho tư tưởng ấy.

Đó là một tư tưởng rất mới, rất hiện đại thời nay. Trong truyện, Nguyễn Minh Châu xây dựng mối quan hệ song trùng  giữa bác Thông và cây sấu cổ thụ trên phố.Khi cây sấu bị đốn hạ để mở đường, bác như rơi vào trạng thái bị chấn thương : “kiệt sức vì đau đớn và cô độc. Đó là hai thực thể bị tổn thương trong đời sống hiện đại. Đó là “ niềm tin pha lẫn âu lo” về tương lai đô thị hoá (Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh).

Thực ra quan niệm thiên nhiên như những thực thể độc lập vốn có từ xưa qua nhân thức tâm linh triết học đồng nhất Thiên – Địa – Nhân : vạn vật hữu linh, con người bình đẳng và hoà đồng với tạo vật.Tư tưởng của tác giả truyền vào truyện rất minh triết: ý thức về sự cần thiết bảo tồn  môi trường thiên nhiên, môi trường văn hoá, lịch sử cho tương lai  đô thị hoá, công nghiệp hoá hiện đại.Thế giới xanh đang là khẩu hiệu , lời hô hào khẩn thiết vì mục tiêu phấn đấu cho môi trường sinh thái của loài người ngày nay.

Có một truyện  rất thời sự mà lại mang tư tưởng rất thời đại là Mùa trái cóc ở miền Nam .

Sư già Thiện Linh, sau 20 năm nương nhờ cửa Phật, gửi trọn niềm tin và niềm hy vọng vào Toàn – đứa con trai duy nhất của mình, nay đã là sĩ quan của quân đội giải phóng. Cuộc gặp gỡ của “tình mẫu tử thiêng liêng” đã lại trở thành một tình huống bi kịch: “vui vẻ, cảm động, nhưng hoàn toàn bất ngờ và trái ngược như một phiên toà đại hình”.

Đó là thái độ vô cảm, vô ý thức, vì chỉ quan tâm đến lý lịch của mẹ khi sống trong vùng địch thời tạm chiếm. Toàn là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức cần lên án.

Dân tộc hoà hợp từ gia đình hoà hảo. Đó là tinh thần cốt yếu của chủ nghĩa nhân văn cách mạng: vị tha và bao dung. UNESCO có chủ trương Năm khoan dung (1995) vì sự nghiệp chung sống hoà bình, phát triển và ổn định của nhân loại.

Xoá bỏ hận thù với tinh thần hiện đại là không có kẻ thù vĩnh viễn. Đồng thời, vượt qua quá khứ, hướng tới tương lai là ứng xử nhân văn tiến bộ nhất của những địch thủ trong cuộc chiến. Quan hệ quốc tế mới, tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong vòng 25 năm qua là một minh chứng hùng hồn của lịch sử.

Nguyễn Minh Châu trong sâu thẳm tâm hồn chắc đã dự cảm được tương lai hoà hợp dân tộc, hội nhập quốc tế của tư tưởng thời đại.

 

III/ Nhà văn có quyết tâm đổi mới sáng tạo mạnh mẽ

Khuynh hướng đổi mới luôn tuân thủ quy luật của tiến bộ xã hội. Đổi mới xã hội kéo theo đổi mới văn nghệ như một tất yếu.

Nguyễn Minh Châu là người sớm nhận thức ra vấn đề và trở thành ngọn cờ tiên phong.

Thực ra, nhà văn thức thời này đã âm thầm tự đổi mới từ lâu.

Với nhận thức đổi mới như tư tưởng nghệ thuật chủ đạo, nhà văn đã mở đầu bằng loạt tác phẩm ngay sau kết thúc chiến tranh, từ năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra. Cho đến sau đó, vẫn là sự trăn trở để tìm đường và chuyển biến rõ rệt: Bến quê (1985), Mảnh đất tình yêu (1987), Chiếc thuyền ngoài xa (1987).

Như phát pháo lệnh bùng nổ, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn minh hoạ (Văn nghệ 49, 50  5,6/12/1987) là một tuyên ngôn đổi mới vang động mặt trận văn nghệ của Nguyễn Minh Châu. Tuyên ngôn này đã có điểm tựa là loạt tác phẩm thực nghiệm như đã nêu trên.

Tư tưởng chủ đạo là Đổi mới gắn liền với Sáng tạo. Đó là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc, và hành động mạnh mẽ, hiệu quả: nói và làm tốt qua thực tế mới có sức thuyết phục cao nhất.

Từ đây, sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu gắn liền với tiến trình đổi mới văn học: nhà văn là tiêu biểu cho tinh thần đổi mới. Ông như ngọn cờ tiên phong có sức vẫy gọi mạnh mẽ. Nhà văn được đánh giá là một trong những người mở đường “tinh anh và tài năng”.

Hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn tại Viện Văn học (10/10/2019) đã có sự đồng thuận cao về đánh giá vai trò và ảnh hưởng của nhà văn.

Cho đến nay, nhiều chuyên gia lý luận hàng đầu đã sơ bộ tổng kết mấy vấn đề trọng yếu căn cứ vào tuyên ngôn và thực tiễn sáng tác của Nguyễn Minh Châu.

Cơ sở nhận định quan trọng là: thực trạng văn học đang có thiếu sót là thiếu chân thật, phương pháp sáng tác có sai sót là chưa chú trọng phản ánh cái thực tại vốn có, nhà văn còn nặng giáo điều, thiếu bản lĩnh tự do sáng tạo.

Từ đó, Nguyễn Minh Châu đề xuất thay đổi thực tiễn sáng tác từ một hệ hình tư duy lý luận mới, với cái nhìn mới thật chân thực về cuộc sống và con người, một phương pháp mới hiện thực đích thực.

Đặc biệt, nhà văn cũng đề cao lương tri, tâm huyết nghề nghiệp, hết sức trung thực, nghiêm khắc, hết lòng trân quý con người:

“Văn học là như vậy: làm hiện hình lên những huyền diệu bí mật của cõi lòng người (...) Chỗ nào có con người, thì có văn học” (Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002).

Xét cụ thể, có thể thấy, trên hệ thống tư duy nghệ thuật: Quan niệm nghệ thuật về con người, Hệ thống đề tài. Nhất là nghệ thuật tự sự văn xuôi như đặc sắc cách tân của nhà văn.

Từ đây còn là sự phát triển mới những đặc sắc về phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Đây là những vấn đề phong phú dành cho công trình nghiên cứu công phu về sự nghiệp đổi mới văn học của nhà văn.

***

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu đã hoàn tất, nhưng ảnh hưởng của nhà văn còn lan toả mãi.

Sinh thời, đã có lúc dư luận văn đàn xôn xao về một tác phẩm, hoặc tiểu luận nảy lửa của ông. Tuy nhiên, theo thời gian, dư luận khách quan – khoa học đã đánh giá chính xác về tầm vóc của nhà văn.

Đó là sự nhất trí tôn vinh Nguyễn Minh Châu là nhà văn tầm cỡ hàng đầu, và một nhân cách văn hoá lớn. Đặc biệt là vai trò người mở đường tinh anh và quyết liệt cho đổi mới văn học:

“Nhà văn Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên, với một trái tim bỏng cháy như muốn thiêu đốt cả đất trời này, riết róng lo toan cho sự đổi mới văn chương Việt đương đại” (Đỗ Ngọc Yên, Nhà văn Nguyễn Minh Châu – Người lập ngôn “tử tế”, http://toquoc.vn, 11/7/2013).

Chỉ xin được nhấn mạnh điều quan trọng này: Nguyễn Minh Châu là nhà văn đồng hành sát sao với thời đại, luôn có khát vọng mãnh liệt hiện đại hoá tư duy văn học, cùng với bồi đắp cảm hứng nhân văn như cảm thức nhân loại.

Nguyễn Minh Châu thường trao đổi với bè bạn về vấn đề “Gia nhập vào đời sống văn học thế giới”, hoặc “hoà đồng cùng nhân loại”. Đó cũng là khát vọng lớn của nhà văn.

Bằng quan niệm và thực tiễn sáng tác thời Đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã hiện thực hoá giấc mơ đời viết. Có thể nói, ông cũng là một trong số những nhà văn hàng đầu của Việt Nam, sớm hội nhập thế giới.

Từ Cửa sông, Nguyễn Minh Châu cùng đồng đội đã tìm ra mênh mông Đại dương như  tiếp lời Biển gọi (Hồ Phương). Bến quê đã và sẽ là nơi neo đậu và qua lại của ngàn vạn những thuyền , tàu biển khơi./.

Đoàn Trọng Huy

PGS. TS Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

 

------

Tài liệu tham khảo

[1] Trần Hoài Anh (2019), Nguyễn Minh Châu với việc góp phần khai mở hệ hình tư duy lý luận văn học thời kỳ đổi mới, http://vanhocsaigon.com, 10/12/2019.

[2] Nguyễn Minh Châu (2002), Toàn tập (1, 2, 3, 4, 5), NXB Văn học.

[3] Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới đọc và bình văn, NXB Hội Nhà văn.

[4] Đoàn Trọng Huy (2015), Về con đường sáng tác Nguyễn Minh Châu, http://nguvan.hnue.edu.vn, 17/10/2015. 

[5] Đoàn Trọng Huy (2019), Nguyễn Minh Châu – Trái tim nhân hậu, quả cảm vì con người in trong Ánh sao đầu súng, NXB Văn hoá – Văn nghệ.

[6] Phạm Duy Nghĩa (2006), Nhà văn Nguyễn Minh Châu và cảm hứng nhân văn, NXB Hội Nhà văn.

[7] Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Minh Châu – Con người và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn.

[8] Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Minh Châu – Tài năng và sáng tác nghệ thuật, NXB Hội Nhà văn, Văn hoá Thông tin.

[9] Nhiều tác giả (2002), Nguyễn Minh Châu – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

[10] Nhiều tác giả (2009) Di cảo Nguyễn Minh Châu , NXB Hà Nội.

 [11] Trần Thị Thái (2009), Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học KH XH & NV-ĐHQGHN.

[12] Nguyễn Huy Thắng (2013), Nguyễn Minh Châu từ “Dấu chân người lính” đến “Lão Khúng” ở quê , NXB Kim Đồng.

TTO - Theo tin từ anh Nguyễn Phan Khoa - con trai nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Huy Thiệp vừa qua đời lúc 16h45 hôm nay, ngày 20-3 tại nhà riêng sau một thời gian chống chọi với bệnh đột quỵ. Ông hưởng thọ 72 tuổi.

20210320

Nguyễn Huy Thiệp ngoài tài văn còn rất ham vẽ trên đĩa gốm tặng bạn bè - Ảnh: Gia đình cung cấp

Con trai của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cho biết, cho đến trưa nay nhà văn vẫn ăn uống được nhưng chiều nay thì nhà văn từ từ ra đi trong nhẹ nhàng, bên đông đủ con cháu. 

 Hội Nhà văn Việt Nam sẽ đứng ra cùng gia đình tổ chức tang lễ cho nhà văn Nguyễn Huy Thiệp dự kiến tại Nhà tang lễ quốc gia.

Vậy là tên tuổi đáng chú ý nhất văn đàn Việt Nam trong vài chục năm qua đã ra đi trong một ngày mưa u ám của Hà Nội.

"Sinh lão bệnh tử/ Luật trời đã ban/ Thì đành chấp nhận/ Với nụ cười thôi… Nói chỉ nói vậy thôi/ Lòng buồn không tả nổi…".

Những câu thơ đã là cuối cùng trên giường bệnh của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - một tên tuổi lừng lẫy trên văn đàn Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI - khiến những người yêu thương ông và yêu tài văn của ông không khỏi đau thắt lòng.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời, văn đàn Việt Nam lòng buồn không tả nổi - Ảnh 2.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ký tặng sách chiều 11-8-2020 tại nhà riêng - Ảnh: YÊN BA

Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 20-4-1950 ở Thái Nguyên, nhưng quê gốc ở Thanh Trì - Hà Nội. 

Trước khi trở thành người viết chuyên nghiệp, ông đã có 10 năm là một thầy giáo ở miền núi phía Bắc. Đó là 10 năm ông “úp mặt vào núi mà đọc sách”. 

Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Ngay lập tức, ông trở thành trung tâm của những cuộc tranh luận văn chương sôi nổi bởi một giọng văn “phũ”, dám đi đến tận cùng cái ác của con người để mà tiêu trừ nó. 

Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như Tướng về hưu, Muối của rừng, Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê, Sang sông, bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… 

Ngoài ra ông còn viết tiểu thuyết, kịch bản, thơ, tiểu luận. Nhưng thành công hơn cả vẫn là truyện ngắn. Ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản gồm: Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm, Tuổi 20 yêu dấu

Trong đó cuốn Tuổi 20 yêu dấu thành công hơn cả, cuốn sách ông viết từ nguyên mẫu là con trai của mình, một cậu trai đã bị cơn bão ma túy và cơn bão của thời đại đô thị hóa mạnh mẽ cuốn đi. Ông vẫn còn có một cuốn tiểu thuyết hoàn thành đã lâu nhưng chưa xuất bản.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời, văn đàn Việt Nam lòng buồn không tả nổi - Ảnh 3.

Nguyễn Huy Thiệp nhiều năm về già đã thanh thản hơn với niềm vui chăm con chăm cháu và học đạo - Ảnh: Gia đình cung cấp

Năm 2020, kỷ niệm 70 tuổi, Nguyễn Huy Thiệp cùng với nhà sách Đông A cũng với những người bạn họa sĩ của ông đã cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn chọn lọc với những tranh minh họa của những họa sĩ hàng đầu hiện nay như Lê Thiết Cương, Thành Chương, Đào Hải Phong, Đặng Xuân Hòa, Lê Trí Dũng, Phan Cẩm Thượng… 

Cuốn sách tập hợp những truyện ngắn mà nhà văn ưng ý nhất, một cuốn sách ông gọi là “liên tài” khi tập hợp những họa sĩ xuất sắc nhất, cũng là bạn bè của ông ở Hà Nội vẽ minh họa. 

Từ hơn chục năm nay, ông hầu như gác bút, vui tuổi già với con cháu. 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng đánh giá Nguyễn Huy Thiệp là một trong số ít nhà văn Việt Nam xuất sắc nhất thế kỷ 20. Theo ông, sau Nam Cao thì Việt Nam chỉ có Nguyễn Huy Thiệp là một người viết có văn và có tư tưởng. Trong khi Nam Cao viết rất hay về người nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 thì Nguyễn Huy Thiệp cũng xuất sắc trong việc viết về người Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20. 

Cái xuất sắc của Nguyễn Huy Thiệp chính là một nhà văn có tư tưởng. Không nhiều nhà văn Việt Nam có được điều này. Và cái đặc sắc làm lên dấu ấn riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong văn chương, theo Phan Cẩm Thượng, chính là ông dám đi đến tận cùng cái ác của con người, làm một cuộc phẫu thuật vào cái ác của con người và phơi bày nó ra mà “chữa bệnh” cho con người. 

Đó là điều mà các nghệ sĩ Việt Nam trước ông nói chung luôn dè dặt không dám bước đến tận cùng. Tuy lột trần cái ác trong con người nhưng Nguyễn Huy Thiệp lại không bao giờ quên nhìn thấy chất người trong mỗi con người, dù là một tên cướp. 

Không có cái gì là đơn giản, một chiều trong thế giới người ở văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vương Trí Nhàn cũng nhìn ra phẩm chất này trong viết lách của Nguyễn Huy Thiệp và ông cho rằng chính cái lúc mà cái ác bị phơi bày là lúc cái ác được tiêu diệt. 

Ông nhận định: “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” (hay là “cây bút vàng”) dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 - và cả nửa đầu năm 1988 - người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. 

Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ Một thoáng Xuân Hương lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ Con gái thuỷ thần lẫn lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện”.

Thiên Điểu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.3.2021.

Yến Lan là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông sinh ra, lớn lên, học tập và làm thơ trên vùng đất cũ thành Đồ Bàn, thuộc làng An Ngãi, phủ An Nhơn. Ông là một trong những thành viên nòng cốt của nhóm thơ Bình Định.

20201213 16

Chân dung nhà thơ Yến Lan - Ảnh: internet

Tuy xuất hiện sớm muộn khác nhau, nhưng Bình Định là mảnh đất có duyên hội tụ những thi sĩ tài danh châu tuần đông vui: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan (tức Xuân Khai), Hoàng Diệp, Bích Khê, Quách Tấn, Quỳnh Dao, Nguyễn Viết Lãm…

Nhóm thơ Bình Định là cụm từ chỉ chung những nhà thơ gắn bó, sáng tác ở vùng đất này. Trường thơ Loạn chỉ là một bộ phận. Gọi là bộ phận, nhưng thực ra, họ cùng hòa hợp, đông vui và lấy việc đàm đạo, sáng tác thi ca làm lý tưởng nghệ thuật chung. Về sau vì công việc, hoàn cảnh, một số người phải chuyển địa bàn như Bích Khê, Hoàng Diệp... Các cây bút chủ chốt còn lại gồm: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Tất cả đều là thi sĩ tài danh của Phong trào Thơ mới. Riêng Quách Tấn là hiện tượng đặc biệt. Ông vẫn sáng tác thơ theo luật Đường. Nhưng qua các tập Một tấm lòng, Mùa cổ điển, ông vẫn được mọi người yêu quý và thừa nhận là có một sự giao thoa nào đó giữa ý và tình, tâm và cảnh mà trong lúc lơ đãng, ta không để ý là thơ cũ, thơ mới. Quách Tấn vẫn được Chế Lan Viên viết tựa và Hoài Thanh mời vào Thi nhân Việt Nam với vị trí xứng đáng.

Vì điều kiện xê dịch, công tác; hơn nữa, nghiêng về hướng cảm xúc khác, Xuân Diệu giai đoạn từ 1936 trở đi không còn ở Bình Định nữa. Ông học ở Huế, sau công tác ở Mỹ Tho, rồi Hà Nội nên ông không được xem là thành viên của nhóm thơ Bình Định như trước đây nữa. Còn lại bốn cây bút quen thuộc là Chế Lan Viên, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan mà nhân dân, độc giả ở đây yêu quý tấm lòng bằng hữu văn chương gắn bó của họ nên gọi với cái tên trìu mến là Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ ở thành Đồ Bàn).

Điểm cần lưu ý để thấy nét riêng của cả nhóm thơ này, đó là sự tìm tòi, đổi mới thi pháp thơ từ sự tích hợp thi ca Pháp và Trung Hoa trên nền tảng thi ca Việt, ngôn ngữ Việt và văn hóa Việt. Chất trữ tình lãng mạn giai đoạn đầu, giờ đây được các nhà thơ đẩy xa hơn sang khuynh hướng tượng trưng, siêu thực, tăng cường yếu tố khác lạ, dị thường, huyền ảo. Mỗi người mỗi xuất phát điểm nhưng đều gặp nhau ở mục đích: Muốn đưa những yếu tố hiện đại vào thi ca. Điều may mắn là trong quá trình đó, nhiều thi sĩ đã khẳng định thi nghiệp của mình ở những vị trí đỉnh cao. Đó là Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan... với những tác phẩm được thử thách qua thời gian. Hoài Thanh đã nhận xét: “Trái hẳn với lối thơ tả chân, có lối thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire, và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại, từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa. Cả hai đều cai trị Trường thơ Loạn và đã chiêu tập một số đồ đệ là Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai (Yến Lan). Tôi vừa nói Chế Lan Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi đến thơ tượng trưng Pháp có lẽ đúng hơn, tuy hai lối thơ này có chỗ giống nhau. Điều ấy thấy rõ ở tác phẩm một người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê” (Thi nhân Việt Nam) [5,tr.37].

Lời tựa tập Thơ Điên và tập Điêu tàn do chính Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên chấp bút chính là tuyên ngôn của Trường thơ Loạn do hai ông sáng lập 1938 đã nói lên sự kiếm tìm, đổi mới, sự phá rào để làm những thi sĩ “tiền trạm cho tương lai” (André Breton).

Trong bài viết ngắn này, tôi muốn nhìn nhận thơ Yến Lan trước 1945 từ góc nhìn địa - văn hóa, một trong những thi pháp chủ/ nổi trội (poétique dominante) của Trường thơ Loạn, qui định phong cách riêng và phong cách chung của cả Trường thơ.

Đặt thơ Yến Lan trước 1945 trong từ trường thi ca của Nhóm thơ Bình Định, ta sẽ thấy độc đáo riêng của ông, dù ông viết không nhiều và không đều tay. Đương thời, ông có tập thơ Bến My Lăng (chưa in), Giếng Loạn, những bài thơ rời in ở Phụ nữ, Tiểu thuyết thứ Năm, Nghệ thuật… và hai kịch thơ Bóng giai nhân, viết chung với Nguyễn Bính (1940), Gái Trữ La (1943). Qua các tác phẩm: Chơi giữa mùa trăng, Thơ Điên của Hàn Măc Tử; Tinh huyết của Bích Khê, Màu huyền diệu của Hoàng Diệp, một số bài thơ của Xuân Khai (tức Yến Lan), đặc biệt trong tập Điêu tàn, Vàng Sao của Chế Lan Viên... thì rõ ràng quan niệm về thi ca và thi sĩ của Trường thơ này đã có sự thay đổi quan trọng. Yếu tố dị thường thông qua liên tưởng, tưởng tượng có vẻ xa lạ, huyền hoặc trở thành điều quan tâm của các thành viên. “Họ muốn xác lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ quen thuộc của đời thường. Cái logique của thi ca đã trở nên khác biệt và nhiều khi đối lập với logique của cuộc đời. Nhà thơ, chủ thể sáng tạo là một nhân tố mạnh, xem mình như một trung tâm của vạn vật mà bộc lộ cảm xúc một cách khác thường.” (Hà Minh Đức) [1,tr.57].

Từ yếu tố địa - văn hóa trong thơ Yến Lan, tôi muốn nói đến địa danh Bình Định - là tên tỉnh, nhưng cũng là tên thành Bình Định cũ (thuộc huyện An Nhơn), nơi Yến Lan sinh sống, trưởng thành và định vị thi sĩ khi tuổi đời còn rất trẻ. Những cảnh vật và con người nơi đây đi vào thơ ông như những yếu tố ám ảnh mạnh, chúng như những cổ mẫu (archétypes), tạo thành những cảm xúc điển hình và tâm trạng điển hình trong thơ Yến Lan.

Suy cho cùng, thì nhà thơ nào chẳng lấy nền cảnh và nhân vật trữ tình của một vùng quê nào đó để làm chất xúc tác cho tâm lý sáng tạo. Thể hiện đậm đặc và kết tinh thành chất thơ riêng đến mức nào đó thì sẽ thành thi pháp và phong cách cá nhân thi sĩ. Chất thơ riêng và thi pháp cá nhân ấy sẽ để lại dấu ấn địa - văn hóa của vùng đất và con người nơi đó một cách sáng rõ. Thơ Yến Lan trước 1945 để lại dấu ấn này cụ thể và độc đáo hơn các giai đoạn sáng tác sau 1945. Có lẽ ông đã gắn với gia đình và cảnh huống quê hương suốt hết tuổi ấu thơ và tuổi học sinh ở đây trong từng cảnh vật u trầm với những đền đài, thành quách rêu phong và tháp Chàm hoen rỉ dưới thời gian, đặc biệt là dòng sông Côn trong những mùa lũ tràn bờ dũng mãnh… Tất cả đã gây ấn tượng mạnh trong tâm lý và cảm thức của ông để chúng thành những hình tượng thơ có sức vang ngân và biến ảo như vậy. Bình Định trong thơ Yến Lan chính là cái nền địa - văn hóa ấy. Ở đó: “Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt/ Trăng lạc loài gặp lại giữa đêm thu”. Trong không khí kháng Pháp giải phóng quê hương, Yến Lan đã kịp ghi lại những khoảnh khắc giao thời bừng bừng khí thế tranh đấu của của nhân dân quê hương mình: “Ôi Bình Định, đau thương gài trước ngõ/ Mẹ ru con trong bóng tối phập phồng/ Trong tay áo còn nghe dài tiếng thở/ Bỗng thấy quanh thềm hát núi, ca sông”. Ở đó, bao niềm vui hiện tại tiếp nối hiện về, bao nỗi sầu quá khứ lùi xa:

Ôi Bình Định buổi đèn mờ, nước lã.

Bóng nha môn nằm chặn lối ân tình,

Đêm bỗng dậy những ánh vàng xa lạ.

Sao mọc rồi, sông núi bớt lung linh.

Sông Côn chảy qua bảy tầng thác đập.

Tình Trung châu: hương mật nặng khoang thuyền.

Duyên cá nục, măng le về hội họp.

Phiên chợ Thành vụt tỉnh giấc cô miên.

Quá khứ đồng hiện cùng hiện tại, hiện tại lay thức quá khứ khiến cho cảnh tượng quê hương hội tụ không khí vui ca, vùng lên mạnh mẽ của cảnh vật và con người:

Qua trường cũ thấy rạt rào sóng ngói.

Lòng bỗng dưng thơm mùi giấy học sinh.

Trên trang sách của cuộc đời đổi mới.

Nghe thơ về bay vút cả trời xanh.

 

Lầu Cửa Đông có nghe Em tâm sự

Em đi trong tình sử của lầu thơ.

Hai chúng ta bước qua đêm quá khứ

Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ.

(Bình Định, 1945)

Thành Bình Định bây giờ khác với ngày xưa: “Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt/ Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền!/ Tịch dương liễu không biết mình đang biếc/ Tương tư trời, tương tư nhạc triền miên”. Cảnh và người thật đấy mà như mộng. Buồn lặng triền miên là một thực tế không thể cứu vãn nỗi buồn của tuổi trẻ một thời dai dẳng:

Ôi Bình Định, hương phong trường cách biệt,

Nhúng bâng khuâng trong đức hạnh sương hoa.

Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết,

Nam Quách sầu, Đông Phố quạnh, Tây Môn xa…!

 

Ôi Bình Định tự thành cao trao gửi.

Buồn xế tà qua mấy cửa rong xanh:

Nơi đã đọng những vũng đàn lạnh dợi

Cửa trăng gầy, gió lụy xuống mong manh.

Bình Định trở đi trở lại trong thơ Yến Lan chính là nỗi buồn một thuở, hằn sâu trong tâm khảm nhà thơ. Hai cuộc đời, hai cảnh trạng đi vào thơ như những nhân chứng nghệ thuật: Trước cách mạng (Bình Định 1935): Buồn; trong cách mạng tháng Tám (Bình Định 1945): Vui. Dấu ấn hiện thực và văn hóa thể hiện rõ trong từng hình tượng thơ, giọng điệu thơ:

Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc?

Em nằm thương xanh biếc của trời buồn!

Trên đài trán thơ hằn lên vọng nguyệt,

Trăng còn nương thuyền nhạc khuất trong sương.

 

Hoa tư tưởng phân thân chìu gió trải,

Trời Giang Nam hồ hải nói trong tâm.

Ôi Bình Định sao nằm trong mãi mãi…

Đĩa dầu vơi tim cháy ngọn âm âm...

(Bình Định 1935)

Bình Định trở thành “mắt thức” của nhà thơ để nhìn từng cảnh vật và soi vào từng tâm trạng của chính mình để tương cảm và tương sinh:

Cùng nhớ lại những nguồn vui nhỏ nhất

Bông gòn bay, chùm me rụng thành xưa

Bình Định đây, từng sợi tơ cái tóc

Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ

(Bình Định mắt thức)

Những yếu tố lặp lại với tần suất cao trong thơ chính là cơ sở để nhìn nhận đặc điểm riêng của vùng đất và những ấn tượng sâu nặng tạo thành chất thơ riêng của thi nhân. Chính vì vậy, phê bình thực chứng - lịch sử của G. Lanson (dựa vào lịch sử, xã hội, không gian địa lý và hoàn cảnh gia đình của nhà thơ để giải mã tác phẩm) và phê bình theo lý thuyết nhân học - xã hội của H. Taine được các nhà phê bình, nghiên cứu vận dụng độc lập hoặc vận dụng kết hợp với các phương pháp khác để nghiên cứu hiệu quả tác phẩm và tác giả. Nghiên cứu địa - văn hóa cần vận dụng và kết hợp thành tựu khoa học của các phương pháp này vào trường hợp Yến Lan, có lẽ là thích hợp và thỏa đáng nhất. Vì những ám ảnh tâm lý và vô thức sáng tạo trước 1945 của ông vận vào nhiều thi phẩm thì có sự tương tác, ăn khớp với những hoàn cảnh xuất xứ của chúng mà ông đã tâm sự trong nhiều bài viết và bài trả lời phỏng vấn của mình. Ví như bài thơ Bến My Lăng là một minh chứng điển hình. Chưa kể, gần đây, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái (ecocriticism) để nghiên cứu tác phẩm và tác giả. Lý thuyết này chú trọng đến sự biến đổi khí hậu, sự xuống cấp của môi trường sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người, trong đó, họ chú trọng đến những vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của môi trường sống, và điều đó ảnh xạ trực tiếp vào tác phẩm, nhất là đối với các nhà văn, nhà thơ đa cảm, giàu trắc ẩn và gắn bó, trăn trở với quê hương, gia đình, người thân…

Với thơ Yến Lan, có lẽ dấu ấn địa - văn hóa hiển minh nhất trong nhiều thi phẩm là dòng sông vầng trăng, chúng sóng đôi nhau như hai đối tượng phản chiếu, có khi nhập vào nhau làm một mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam khi bình về thơ Yến Lan đã xác quyết một cách cụ thể và tinh tế. Ông chỉ ra cái chất riêng mơ màng, lặng lẽ mà đắm đuối rất Yến Lan ấy: “Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông và nhất là cái vừng trăng cứ thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định.” (Thi nhân Việt Nam) [5,tr.155].

Trăng trong thơ Yến Lan đã trở thành những ám ảnh nghệ thuật, trở đi trở lại như những bí ẩn tinh khôi, nhưng gắn với cơn sinh hạ định mệnh của mình từ người mẹ tảo tần lỡ chuyến đò ngang: “Quê mẹ bên kia bãi cát vàng/ Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang/ Cơn đau trở dạ không giường chiếu/ Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng”. Cuộc trở dạ của mẹ “giữa bãi trăng”, về sau, giúp ông quan hệ gắn bó sâu nặng với vầng trăng: “Võng mẹ ru hời dưới mái trăng/ Hương đồng cỏ nội - mặc, kề bên/ Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh/ Đón những vầng trăng mẹ vớt lên”. Trăng là đối tượng mà cũng là chủ thể trong cảm nhận của tuổi thơ Yến Lan để ông trở thành người mắc “bệnh trăng”:

Trăng đi từ tóc, đi vào máu

Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân

Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá

Như má yêu môi, để đến gần

 

Tôi đã thành người mắc “bệnh trăng”

Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng

Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến

Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng

(Bệnh trăng)

Trăng tồn tại trong những mối liên hệ, trong những kinh nghiệm sống cụ thể của Yến Lan. Nhớ bạn, ông cũng mượn trăng để khuây khỏa nỗi niềm. Nhìn trăng ngần phản chiếu trên gương mặt người “khuyết cong mày bạc” là một phát hiện không chỉ thực tế mà có cả tâm linh và tâm cảm mãnh liệt. Ông đã sở hữu trăng như liệu pháp tâm lý để được thỏa mãn nỗi niềm mê đắm và huyền hoặc:

Sang canh, bìm bịp kêu đầu lán

Đất mới, nhà đơn, lạ láng giềng

Nhớ bạn nửa đêm ra tựa liếp

Khuyết cong mày bạc, ngần trăng in

(Nhớ bạn)

Và trăng trong đêm phụ họa những tiếng mõ chùa xa biến thành những xao động tâm hồn như những khúc xạ của sự im lặng đến mênh mang, xa vắng:

Khuya ơi có một khuya tràn

Bờ ao đầy cả trăng vàng như trăng

Gió đi theo gió nhọc nhằn

Chùa xa giữa kín những lằng mõ xa

Im thôi im cả canh gà

Một cầu nhìn nước chẻ ra một cầu

Thuyền chàng còn khuất nương dâu

Thuyền nàng đã ghé bên cầu nước reo

(Khuya)

Trăng trong thơ Yến Lan đủ trạng thái, nhưng vẫn là vầng trăng buồn gắn với từng cảnh vật và tâm trạng của chính người thơ. Khác với trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê - những thi sĩ tài danh cùng Trường thơ Loạn, ở chỗ, trăng của các thi sĩ này thường dựa vào một đối tượng và một tiền giả định, một không gian tưởng tượng cụ thể. Với Hàn Mặc Tử là trăng thật trong trạng huống bệnh tật và trăng trong Kinh Thánh; với Chế Lan Viên là trăng của nước non Chiêm Thành đã tan thành tro bụi. Riêng Yến Lan là trăng trên quê hương mình, trăng của cửa lầu thành Bình Định và trăng trên dòng sông hiện thực thời gian (sông Côn - sông An Thái - sông Trường Thi); trăng gắn với bao chấn thương tình cảm xa xót và hãi hùng tuổi nhỏ (6 tuổi) khi phải đi trong đêm gọi thuyền giữa không gian hoang lạnh và sợ hãi đến lạnh người mà bài thơ Bến My Lăng là một ám ảnh để trở thành vô thức sáng tạo.

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu

Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách

Ông lái buồn để gió lén mơn râu

 

Ông không muốn run người ra tiếng địch

Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao

Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch

Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao

Hai khổ thơ đầu là một không gian và thời gian buồn, ngưng đọng do ông lái đò không tự mình tạo thành một chủ thể tích cực để hóa giải thiên nhiên, để mặc cho thiên nhiên diễn ra như nó vốn có. Ông lái đò thì không buông câu, trăng thì vàng rơi đầy trên mặt sách, rượu không còn để tiếng sáo ngân đêm. Cảnh buồn, người buồn tương hỗ nhau tạo ra một cảnh mênh mông rợn ngợp. Buồn nhưng đẹp và thánh thiện. Ông lái đò là một người tài hoa, là một trí thức tài tử:

Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh

Tơ vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng

Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh

Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng

(Hai câu sau có sách ghi: Từng áo chiều, bọc vàng đua lảng tránh - Để trăng buồn bao phủ bến My Lăng).

Những câu thơ ưu tiên nhiều thanh bằng là một động thái logic vì chúng gắn liền với giọng điệu nội tâm của tác giả. Đây là mỹ học thơ mới nói chung, nhưng với Yến Lan, nó biểu hiện sắc thái riêng, phù hợp với tâm trạng và nỗi niềm hiu quạnh của ông. Giọng điệu thơ bao giờ cũng phản ảnh tâm trạng của nhà thơ gắn với chủng tộc, môi trường, hoàn cảnh và văn hóa mà nhà thơ sinh sống. Nhờ giọng điệu mà phong cách tác giả được tỏ lộ.

Toàn bài thơ, tác giả dùng nhiều từ mang sắc nghĩa buồn, xa ngóng và vợi trông: tĩnh mịch, đìu hiu, run rẩy, nẻo quạnh… Những từ này cộng hưởng ý nghĩa tạo thành tâm cảnh và ngoại cảnh… Vậy mà ông lái đò vẫn như hòa vào không gian thời gian xa vợi ấy để trầm tư về những gì đang đối lập với hiện thực chung quanh. Từ không gian “Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách” đến “ông lái buồn”, “ông lái đợi”, “chẳng buông câu” là một chủ động có điều kiện mà cũng do tình huống khách quan: “trăng võ vàng”, “Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch”, “những lá vàng quá lạnh”… Ở đây, có sự gặp gỡ những từ ngữ cổ phổ biến của thơ trung đại: chàng kỵ mã, ngọc lưu ly, tiếng địch, trời tĩnh mịch… Hình như Yến Lan muốn quay về không gian văn hóa và con người trong mệnh đề “thiên nhiên tương dữ” của thơ trung đại Loại ngôn ngữ và kiểu con người này trong thơ Quách Tấn (Một tấm lòng, Mùa cổ điển) hầu như tràn trên trang thơ. Hai thi sĩ cùng Trường thơ Loạn đã có sự gặp gỡ nhau về ngôn từ, dù khác nhau về tư tưởng và mỹ học sáng tạo. Một Yến Lan thơ mới, một Quách Tấn thơ Đường.

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã

Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly

Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả

Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

Xuất hiện hình tượng người kỵ mã uy nghi, lộng lẫy trên yên ngựa và sắc áo lưu ly dưới ánh trăng là một lãng mạn bất ngờ, làm rung động không gian tĩnh mịch. Bài thơ đến đây từ tĩnh bỗng trở nên động. Tiếng gọi đò hối hả làm chao động cả vầng trăng. Vậy mà ông lái đò đã không nghe thấy tiếng gọi hối hả như oán trách kia của chàng kỵ mã. Ông để hồn mình thoát ra ngoài không gian tâm tưởng bến My Lăng. Ông say trăng gối đầu trên sách, chàng kỵ mã gọi lay động, run rẩy cả ngành trăng. Sự đối lập về trạng thái này của hai chủ thể trữ tình đã cho thấy có sự đối lập hay hờ hững trong sự xa cách, dù cả hai đều muốn gặp nhau.

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

 

Bến My Lăng còn lạnh bến My Lăng

Ông lái buồn đợi khách biết bao trăng.

(Bến My Lăng)

Chàng kỵ mã thì: “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả”, “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách”. Còn ông lái đò thì: “Ông lái buồn đợi khách biết bao trăng”. Tại sao lại có sự tìm kiếm trong vô vọng và nghịch lý này? Có thể cắt nghĩa từ cái nhìn địa - văn hóa chăng. Những tháp Chàm lẻ loi và u trầm trong những đêm trăng vàng trên những miền quê Bình Định, trên thành cũ Đồ Bàn (Chà Bàn) nhất định có một tác động tâm lý và tạo nên những ấn tượng trực giác và tâm thức sáng tạo khi nhà thơ liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của vùng đất này trong sự điêu tàn và tiêu vong của một vương triều và những biến thiên của lịch sử thời hiện tại mà Hoài Thanh đã nhận xét và xem đó như một yếu tố có tính địa - văn hóa trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Và cũng thế, cả trong thơ của Yến Lan. Tiếng gọi đò trong đêm bên sông Trường Thi tuổi nhỏ ấy là hình tượng âm thanh đã ám ảnh Yến Lan đến trọn đời mà sau này trong bài thơ Chút lòng để lại viết ở tuổi thất thập, ông vẫn còn run rẩy với chính mình. Người gọi đò và ông lái đò, giờ đây tuy hai mà một. Họ đã tan trong nhau để thành tiếng gọi miên viễn, tiếng gọi trong chốc lát mà thành thiên thu, thành minh triết cho một hồn thơ:

Lòng thôi tròn khuyết theo trăng

Tình còn cắm bến My Lăng gọi đò

Giải mã thơ Yến Lan từ góc nhìn địa - văn hóa không phải là cách tiếp cận duy nhất, nhưng nó là cách tiếp cận có cơ sở để hiểu và làm đầy nghĩa, làm mới nghĩa cho thơ ông dựa vào phê bình thực chứng - lịch sử của G. Lanson và phê bình nhân học - xã hội của H.Taine. Những ký ức, cổ mẫu trong thơ Yến Lan như thành Bình Định, sông trăng, ông lái đò, người con gái đẹp, mẹ… chính là những hình tượng có nội hàm riêng gắn với vùng đất cũ thành Bình Định/ Đồ Bàn mà Yến Lan đã sống trải trong sinh quyển ấy trọn tuổi ấu thơ và tuổi thi ca. Vì vậy, nó không thể không ám ảnh và trở thành máu thịt của ông trên suốt hành trình sáng tạo. Điều này được Yến Lan suy nghĩ về nghề văn rất chân thành và trách nhiệm: “Qua hơn nửa thế kỷ học tập, tìm tòi, ôn luyện, tôi tự thấy mình xứng đáng là một người cầm bút có nhiều ấp ủ, nhưng cái chính là tâm hồn được soi sáng qua sự hiểu biết tâm lý xã hội, cuộc sống con người. Đó là yếu tố cho nội dung tác phẩm. Nhà văn phải tự tạo lấy vị trí của mình, thành tài năng đích thực của mình, tức là phong cách” [3, tr.1255]. Muốn vậy, phải chọn và gắn bó máu thịt với một vùng đất thi ca và biểu hiện vùng đất ấy thành ngôn từ - hình tượng - tư tưởng mang tâm thức địa - văn hóa riêng, tạo thành chất thơ riêng, thi pháp riêng.

*

Ngày nay, hơn nửa thế kỷ nhìn lại, nhóm thơ Bình Định đã làm tròn trọng trách lịch sử - thi ca của mình. Mỗi người mỗi hương hoa, mỗi âm thanh, mỗi màu sắc đã góp phần làm cho khu vườn văn học dân tộc thêm nhiều đỉnh cao, tỏa sáng, tỏa mát, tỏa hương trước dòng thời gian vĩnh hằng. Những biệt danh và cụm từ cao đẹp mà Hoài Thanh - nhà tiên tri, “người ca sĩ của Phong trào Thơ mới” (GS. Đỗ Đức Hiểu) đã gắn vào thơ của họ vẫn còn nguyên giá trị và được các thế hệ nghiên cứu lớp sau bổ sung nhiều định ngữ mới cao sang, quý giá. Hoàng Diệp mơ màng đã ra đi; Bích Khê - thi sĩ thần linh, Hàn Mặc Tử - ngôi sao chói lòa, rực rỡ đều đã ra đi từ rất sớm; Xuân Diệu - hoàng tử của thi ca cũng ra đi; rồi Quách Tấn ra đi; Chế Lan Viên - nhà thơ lớn, người làm vườn thi ca vĩnh cửu cũng ra đi. Chỉ còn lại Yến Lan - ngồi lại trong bảng lảng hoàng hôn vọng Bến My Lăng. Ông là người cuối cùng của nhóm thơ Bình Định chứng kiến hành trình thi ca đầy vinh quang, ngoạn mục của những tuấn mã thơ Bình Định, giờ cũng đã ra đi. Vâng, họ đã ra đi, nhưng những dòng sông thơ của họ vẫn dạt dào giữa cõi người.

Hồ Thế Hà

Nguồn: Tạp chí Sông hương, SDB38/09-2020, phiên bản trực tuyến ngày 04.12.2020.

Chán chương trình học và không khí ở Văn khoa trường Luật, bỏ học, đi làm thư kí riêng cho một tỉ phú, không bao lâu lại bỏ công việc ấy, về Nha Trang dạy học nhưng bị từ chối, chuyển lên Đà Lạt rồi lại bỏ Đà Lạt, mãi đến mùa hè năm 1964, với một xấp giấy pelure mỏng ố vàng, một cây bút, và một tháng trong đời, Nguyễn Thị Hoàng mới ngồi xuống và viết một mạch.

Bìa tái bản năm 2021 của tác phẩm “Vòng tay học trò”

Sau này, vị nữ sĩ đã kể lại như thế sự tích ra đời tiểu thuyết “Vòng tay học trò”, tác phẩm từng làm điên đảo giới thanh thiếu niên Sài Gòn một thuở, tái bản tới 4 lần trong vòng mấy tháng, cũng suýt chút nữa đã được Kiều Chinh và Đặng Trần Thức chuyển thể thành phim.

Sự tung hô, như bao giờ cũng vậy, luôn đi kèm với sự hạ bệ. Các nhà phê bình thời ấy không tiếc những lời cay nghiệt nhất cho “Vòng tay học trò”: "phi luân", "sự buôn lậu tư tưởng trong một con bệnh dâm thành phố", "trường hợp ngoại lệ, mất thăng bằng, bệnh hoạn". Khi nhà văn Dương Nghiễm Mậu so sánh Nguyễn Thị Hoàng với Quỳnh Dao, cây bút diễm tình nổi tiếng của Đài Loan, thì nhà văn Viên Linh đã phản đối ngay: "Quỳnh Dao viết về cái trong sáng, không viết về cái nhầy nhụa".

Những cụm từ sởn gai ốc được ném không thương tiếc vào một tác phẩm mà nói cho cùng chỉ là kể lại một mối tình dằn vặt giữa một cô giáo và một cậu học trò, một tình cảm thường bị coi là cấm kỵ. Tầm thời điểm này, ở Pháp cũng có hai tác phẩm với đề tài tương tự, một là “Un certain sourire”, cuốn thứ hai của nữ sĩ Francoise Sagan sau “Buồn ơi chào mi”, hai là “Mourir d'aimer”, một bộ phim rất ăn khách năm 1971 của đạo diễn André Cayatte. Không tác phẩm nào gây ra một vụ ì xèo ở quê hương của nó như “Vòng tay học trò” đã gây ra ở miền Nam Việt Nam.

Đem so với những cuốn "dâm thư" nặng đô như “Justine” của Marquis de Sade hay “Chuyện nàng O” của Pauline Réage, những cuốn tiểu thuyết cũng sục sạo đời sống tinh thần của những người đàn bà, thì khó có thể hiểu tại sao “Vòng tay học trò” lại bị coi là một văn hóa phẩm nguy hiểm và đồi bại. Không những trò tra tấn tình dục và không tình dục, thậm chí không cả khao khát hay huyễn tưởng tình dục, “Vòng tay học trò” giống hơn một bài thơ hiện sinh, hay đứa con lai của chủ nghĩa diễm tình Đài Loan của Quỳnh Dao, Trương Ái Linh và niềm hứng khởi với nhánh triết học hiện sinh phi lý do Jean-Paul Sartre khởi xướng đang được giới văn nghệ sĩ và thanh thiếu niên bấy giờ say mê, tin rằng "con người sinh ra không lý do, kéo lê cuộc đời vì nhu nhược và chết do ngẫu nhiên".

Sau hơn nửa thế kỷ im hơi lặng tiếng vì những đổi thay lịch sử, “Vòng tay học trò” và một số tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Thị Hoàng như “Một ngày rồi thôi”, “Tiếng chuông gọi người tình trở về”, “Tuần trăng mật màu xanh”, “Cuộc tình trong ngục thất” vừa được một đơn vị làm sách tuyển lựa và in ấn công phu, giới thiệu trở lại với bạn đọc đương thời về một nữ sĩ của văn chương miền Nam, một trong ngũ đại nữ sĩ hàng đầu của Sài Gòn xưa. Trong một tác phẩm của Haruki Murakami, ông từng cho một nhân vật tuyên bố rằng mình không muốn tốn thời gian cho những cuốn sách vớ vẩn và chỉ sờ vào những cuốn sách mà tác giả của nó đã chết được ít nhất 30 năm, vì chỉ những cuốn sách ấy mới đáng tin cậy mà thôi, hàm ý thời gian là thước đo duy nhất cho giá trị của một tác phẩm văn học. Nguyễn Thị Hoàng tuy vẫn còn đương thế, nhưng có lẽ 50 năm là quãng thời gian đủ dài để ta có thể nhìn lại “Vòng tay học trò” cùng các tác phẩm của bà với sự khách quan và sự "lạnh" cần thiết, triệt tiêu được những dung sai không đáng có gây ra bởi sức nóng hầm hập của những vụ ồn ào, của vòng kim cô mà cái gọi là "thuần phong mỹ tục" đội lên đầu chúng ta hay những lời phán xét được buông ra một cách cẩu thả trong quá khứ.

Vậy thì ở thời điểm này, đọc “Vòng tay học trò” còn hay không? Còn hay. Nhưng nó còn liên quan gì tới thời đại này không và liệu nó có mang cái phẩm chất bất tử, vượt thời đại của những tác phẩm kinh điển? Có lẽ là cả có và không. Ở mặt nào đó, cuốn sách đã lỗi thời. Vẻ diêm dúa trong nội tâm các nhân vật và sự thiếu vắng tính sáng tạo cho những màn cút bắt ái tình khiến “Vòng tay học trò” khó mà hấp dẫn được những độc giả ngày nay vốn đã được bọc đường trong trí tưởng tượng phong phú nơi những cuốn sách ngôn tình "ngược luyến tàn tâm" của Trung Quốc, những series phim tình cảm hoa hòe hoa sói của Hàn Quốc hay những bộ tiểu thuyết của những ông hoàng, bà hoàng lãng mạn châu Âu như Marc Levy, Guillaume Musso hay Cecelia Ahern.

Kể cả cái bi kịch mối tình "sư đồ" hay rộng hơn là người đàn bà lớn tuổi đắm say bên người tình trẻ thì thời đó có thể mới mẻ, còn ngày nay cũng đã sáo mòn và bị khai thác đến cùng tận, không còn tạo nên cảm giác hưng phấn kích thích khi khám phá "vùng đất cấm” ít ai dám bén mảng như đã từng. Nói tóm lại, mong muốn “Vòng tay học trò” được tìm lại như tìm lại một đứt gãy bị lãng quên trong lịch sử văn chương Việt Nam hiện đại, hay như tìm lại một toàn cảnh đầy đủ hơn về văn học nước nhà, thì sẽ khả thi hơn là mong muốn “Vòng tay học trò” được đón nhận nhiệt liệt, được trở thành sách gối đầu giường (hay sách chụp ảnh sống ảo) của những kẻ lãng mạn (hay ra vẻ lãng mạn) khăn gói lên Đà Lạt sống chậm (hay khoe sống chậm).

Nhưng, “Vòng tay học trò” có thể không còn phù hợp với thị hiếu đại chúng đương đại, nó lại nặng những tâm tư không bao giờ cũ với một tập hợp những người thuộc chủ nghĩa hư vô không mưu cầu sự đồng điệu với những giá trị chung của xã hội và có thể sẽ dần trở thành một "cult", nghĩa là một tác phẩm không dành cho tất cả nhưng lại được một nhóm người nhất định yêu thích điên cuồng. Thường xuyên trong “Vòng tay học trò” và các tác phẩm khác của Nguyễn Thị Hoàng, nhân vật hãi hùng bắt gặp mình lạc trong những vùng sương giá băng của thực tại, nơi không gì chờ họ, họ không chờ ai, họ chuội khỏi thế giới họ đang sống, chuội khỏi tình yêu, chuội khỏi vòng tay người tình, hay nói như Jean-Paul Sartre thì họ "không do ai tạo thành, không lý do, không có một tương quan nào với một hữu thể nào khác, hữu thể tự thân thực là thừa đến muôn đời".

Văn chương của Nguyễn Thị Hoàng bỏ qua mọi sắp đặt lộ liễu khác, diễm lệ đến mức khiến cho sự chán chường, nỗi buồn u tối, sự lẻ loi triền miên, sự chơ vơ không lối thoát, sự sầu bi ngột ngạt cũng lấp lánh một vẻ cuốn hút khôn nguôi. Ta không thể ngăn mình muốn được thử một lần lao đầu vào đời sống như họ: tự chôn mình dưới cát như Điệp trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” hay vui một đêm cùng người tình trên chuyến đò xứ Huế như Ý Lan và Đông trong “Tuần trăng mật màu xanh”. Ngay cả cách họ tự dày vò chính mình cũng cám dỗ làm sao, như cái cách mà cô giáo Trâm của “Vòng tay học trò” lấy 200 đồng của mình đưa cho người tình trẻ, rồi chỉnh áo quần cho cậu, dù biết là để cậu đi gặp một người con gái khác, hay cách mà một người vợ trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” mường tượng về người tình năm xưa của người chồng biến mất. Cuộc đấu tranh duy nhất mà họ phải đấu tranh là cuộc đấu tranh để tìm ý nghĩa cho sự tồn tại, vốn cũng là cuộc đấu tranh chỉ xảy ra khi rốt cuộc, người ta không còn phải đấu tranh vì bất cứ điều gì thực tế hơn và thiết thực hơn. Họ có lẽ đã sung sướng đến nỗi không mưu cầu hạnh phúc mà lại "thích hưởng thú đau thương", một sở thích có thể bị gọi là "trưởng giả".

Giờ đây, nhìn lại vị trí của văn chương Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn, ta có thể thấy đó dường như là một trong những trường hợp đầu tiên của văn chương hiện đại bị phê phán và ngờ vực vì tính bi lụy, ướt át, quẩn quanh những huyễn tưởng tầm thường, mà sau này những nhà văn ngôn tình, diễm tình sẽ trở thành nạn nhân chịu trận tiếp theo. Chính Nguyễn Thị Hoàng cũng đã từng tự trào về văn chương phái nữ. Bà để một nhân vật của mình trong “Vòng tay học trò” nói thế này về nữ văn sĩ George Sand của văn học Pháp, "nổi tiếng cũng chỉ vì phụ nữ hiếm trong làng văn, chứ thật ra sự nghiệp của bà ta có đáng gì so với những tác phẩm vĩ đại của các văn hào nam giới".

Cũng có thể là chẳng đáng gì thật. Và số phận của những tác phẩm như “Vòng tay học trò” sẽ lại tiếp tục chìm trôi cùng thời gian, cũng có thể sẽ bị lãng quên, bị chối bỏ, nhưng trải qua một đời đã nếm trải hết "mê lầm, oan khiên, bạc đãi, ngộ nhận, của khổ nạn triền miên tâm và cảnh", nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng nhận chân điều đó hơn ai hết: "Thế hệ đọc những trang cũ ngày xưa đã già cỗi hoặc lụi tàn. Tuổi trẻ ngày nay sẽ hoàn toàn xa lạ và có thể vô cảm với mớ đồ cũ trên tay, nhưng qua dòng trôi chảy của thời gian và thế sự, biết đâu vẫn còn có ai vớt lại chút bọt bèo mong manh của quá khứ. Chút bọt bèo có thể sẽ là mầm xanh cho mùa hoa trái mới, cũng có thể là phiến hóa thạch vô tri vì cuộc đợi chờ vô vọng mấy mươi năm mà kỳ thực đã mấy nghìn năm bên bờ ảo hóa”.

 

Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/Mot-9x-nghi-gi-khi-doc-Vong-tay-hoc-tro-633288/

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - nhà thơ cuối cùng của phong trào Thơ Mới - qua đời sáng 22/11, thọ 100 tuổi.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân - đồng nghiệp của cố thi sĩ - cho biết ông mất tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô vì tuổi cao, sức yếu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói ba ngày trước, ông kịp đến thăm đàn anh lần cuối ở phòng cấp cứu. Ông viết trên trang cá nhân: "Nhà thơ Mới cuối cùng đã vĩnh biệt chúng ta".

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh qua đời sau khi tròn 100 tuổi. Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh qua đời sau khi tròn 100 tuổi. Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam.

Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Đà Lạt. Từ nhỏ, ông theo học ở trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội. Ở tuổi 15, ông ra mắt trường ca Lạc loài, được nhà phê bình Lê Tràng Kiều - chủ bút Hà Nội báo giới thiệu, cho đăng liên tiếp 13 số báo. Tác phẩm đầu tay của ông phá vỡ những chuẩn mực thơ truyền thốngvới những câu như: "Gió trắng se mùa thơm dáng liễu/ Xa vời nẻo nhạt xanh buồn xanh...". Một năm sau, ông viết bài Xây mơ tặng Chế Lan Viên - người bạn hàng xóm thuở ấu thơ, được Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc thành ca khúc cùng tên.

Năm 1939, khi đã thành danh trên văn đàn, Nguyễn Xuân Sanh cùng 5 văn nghệ sĩ (Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát) thành lập nhóm Xuân Thu Nhã tập. Với đông đảo đồng nghiệp, ông là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ Mới sang thơ hiện đại. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, cố thi sĩ là người khởi động cuộc chạy tiếp sức của thơ Việt vào hiện đại với tác phẩm Buồn xưa: "Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi/ Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y/ Rượu hát bầu vàng cung ướp hương/ Ngón hường say tóc nhạc trầm mi...". Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Nguyễn Xuân Sanh đóng góp lớn trong việc cách tân thơ, đào tạo nhiều nhà văn, dịch giả trẻ, giới thiệu nhiều tác gia văn học lớn của thế giới với bạn đọc trong nước.

20201122Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh bên vợ - nhà văn Cẩm Thạnh - năm 1961. Ảnh tư liệu.

Gần 80 năm cầm bút, Nguyễn Xuân Sanh để lại gia tài thơ ca đồ sộ. Ông là tác giả của nhiều tập thơ: Chiếc bong bóng hồng (1957), Tiếng hát quê ta (1958), Nghe bước xuân về (1961), Quê biển (1966), Đảo dưa đỏ (1974), Đất nước và Lời ca (1978), Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991), Một vườn thơ năm châu (1997), thơ văn xuôi Đất thơm (viết 1940-1945, in 1995). Ông là dịch giả cho thi sĩ các nước Ba Lan, Nga, Luxembourg, Pháp... Năm 1951, ông nhận giải thưởng ngoại hạng Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Anh hùng Trần Đại Nghĩa. Năm 2001, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Hôm 9/11, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức chúc thọ nhà thơ tròn 100 tuổi.

Sinh thời, Nguyễn Xuân Sanh được biết đến với cuộc hôn nhân hạnh phúc cùng vợ - nhà văn Cẩm Thạnh. Ông từng viết bài thơ Trước xuân, thăm chùa Hương tặng người vợ hiền thục luôn sát cánh bên chồng. Ông bà có hai người con, trong đó, con trai đầu Nguyễn Việt Lưu đã hy sinh tại chiến trường Phú Yên năm 1968. Những năm về già, vợ chồng ông được con gái - PGS-TS Nguyễn Việt Triều - nguyên cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, phụng dưỡng.

Tam Kỳ

Nguồn: VnExpress, ngày 22.11.2020.

Tôi nhớ khi Nguyễn Tuân mất (tháng 7 năm 1987), Nguyễn Minh Châu trong bài báo Người cầm bút ấy... có viết rằng: “Đời người được cưng chiều. Thời nào ông cũng được người đời hết mực nâng niu chiều chuộng, vì lòng mến mộ một tài năng đích thực và đồng thời vì một khát vọng cháy bỏng của mọi con người: được sống giữa cõi đời này với tất cả các bản ngã đích thực của mình. Nhà thơ Chế Lan Viên một lần nói với tôi: Văn chương ta mà tất cả đều là Nguyễn Tuân thì mệt quá, nhưng thiếu đi một Nguyễn Tuân thì thiệt to quá, hổng lớn quá, thiếu đi nhiều quá!” Nhắc tới Nguyễn Tuân là nhớ đến mấy câu ngắn gọn nhưng thật đầy đủ về ông của nhà văn cùng thời Nguyễn Đình Thi: “Đây là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa.” Nhân tết đến xuân về xin kể cùng bạn đọc mấy mẩu chuyện về nhà văn lão thành người Hà Nội đặc sắc này.

20210301 2

Nhà văn Nguyễn Tuân.

1. Ôi Đại tướng ơi!

Mùa xuân năm 1948, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân theo bộ đội lên Việt Bắc đánh giặc. Ông đi với Trung đoàn Thủ đô. Ông kể trong bài Buổi thi chính trị rằng, có một lần ông và nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ- tác giả bài thơ Màu thời gian và vở kịch Ngã ba xuất bản từ trước Cách mạng tháng Tám - được mời tham gia làm giám khảo một cuộc thi chính trị của bộ đội nhân kết thúc cuộc vận động “Luyện quân lập công”.

Ông viết về cảm nghĩ của mình lúc đó như sau: “Thật là một điều mới mẻ cho đời tôi! Một người vốn chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi nổi bên dòng liễu nhân và thích những vùng mây xa quá tầm với của tay mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế này mà nhất đám phải đứng trước chỗ ba quân, để đố thách những người quân nhân cách mạng! Mà lại đột ngột! Mà lại không được chuẩn bị từ trước! Ôi, Đại tướng ơi! Thật chỉ có Cách mạng thì mới có những việc như thế này!” Và ông đã chứng tỏ được “sự thân thiết giữa anh em cầm bút và anh em cầm súng”.

Ông hỏi năm mươi anh em trong Trung đoàn một câu. Mới đầu định hỏi “Tại sao về chính trị, Trung đoàn Thủ đô lại giỏi hơn các đơn vị khác?”, song nghĩ hỏi như vậy sẽ dễ gợi cái “ý đố kị sai lầm” không tốt, nên trước khi ngồi vào ghế giám khảo cuộc thi vấn đáp chính trị ông đã đổi lại câu hỏi thành “Tại sao anh em Trung đoàn Thủ đô lại không được phép thua những đơn vị khác về chính trị?” Chỉ đổi mấy từ “phải giỏi hơn” thành “không được phép”, câu hỏi thi của Nguyễn Tuân đã không chỉ “chính trị” hơn mà còn toát lên một tinh thần rất “quân sự” nữa. Mới hay với Nguyễn Tuân dù là khi nói hay lúc viết thì ngôn từ luôn luôn được ông tính toán đắn đo rất kĩ. Ông đúng là một nhà văn có “trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện” và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại như nhận xét của người đời sau.

2. Để “tôi píp”

Năm 1950, ta mở chiến dịch lớn nhằm giải phóng biên giới, mở toang cánh cửa thông thương với Trung Quốc và các nước anh em. Trong chiến dịch này, Nguyễn Tuân được phái đi theo một đơn vị thiện chiến thuộc Đại đoàn Quân Tiên phong. Trong một trận đánh, quân ta thắng lớn, chiếm được đồn của quân Pháp. Trong đồn có rất nhiều thuốc lá Cotab và rượu cognac - những thứ mà khi còn ở Hà Nội, nhà văn rất thích. Nhưng ở chiến trường, kỉ luật của quân đội rất nghiêm không thể uống hút say sưa được. Nguyễn bèn nghĩ ra một cách là đổ cognac vào mũ sắt, ngâm tẩu thuốc vào đó suốt hai mươi tư giờ. Nhà văn bảo ấy là để “tôi píp” (ướp tẩu). Với sáng kiến độc đáo này, trong thời gian tham gia chiến dịch lúc nào bên ông cũng có hơi rượu bởi chiếc píp là vật bất li thân của ông.

3. Đã ngửi thấy mùi Hà Nội

Trong đội ngũ nhà văn đi kháng chiến hưởng ứng phong trào “Văn nghệ sĩ đầu quân” những năm chống Pháp (1946-1954) có nhiều nhà văn tiền chiến, trong đó có nhà văn lão thành Nguyễn Tuân. Đi kháng chiến, theo bước chân bộ đội vào Tây Bắc, lên Việt Bắc, Nguyễn đã viết được nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến Tình chiến dịch. Ông là người rất được bộ đội yêu và cũng thích đi cùng bộ đội kể cả dự những chiến dịch. Trong chiến dịch Biên giới, đi cùng một đơn vị thuộc Đại đoàn Quân Tiên phong (308), ông rất phấn khởi vì đây là trận đánh có ý nghĩa lớn: khai thông biên giới, chuẩn vị cho tổng phản công. Một đêm, khi cùng các chiến sĩ bò qua đường số 4 đánh sang Thất Khê, Nà Hang, ông đã tỏ ra... quyến luyến cái đường nhựa. Thấy vậy, người chỉ huy đã phải giục ông vượt nhanh lên kẻo nguy hiểm. Ông thì thầm, rằng ông rất xúc động khi thấy đường cái nhựa, rằng đã ra được đường cái nhựa tức là đã sắp đến ngày chiến thắng rồi và rằng thấy được đường nhựa, đường 4, tức là đã… ngửi thấy mùi Hà Nội. Quả nhiên, sau chiến thắng Biên giới, lực lượng kháng chiến liên tục giành thắng lợi và chưa đầy bốn năm sau nhà văn đã có mặt trong đoàn quân chiến thắng trở lại tiếp quản Thủ đô giải phóng (10/1954).

4. Cà phê ngon…

Thời kì Mĩ ném bom miền Bắc, Nguyễn Tuân đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Tuy là ở cách Thủ đô hàng trăm cây số, lại dưới trời bom đạn nhưng tác giả Vang bóng một thời vẫn không bỏ được thói quen rất người Hà Nội của mình. Ông không xài nổi thứ cà phê mậu dịch hai hào thơm nức... mùi ngô rang. Một hôm ông bảo Hoàng Gia Điền, người cán bộ địa phương (sau đi bộ đội và làm việc ở Tổng cục Chính trị) có trách nhiệm dẫn đường cho các nhà văn:

- Cháu có biết chỗ nào có quán cà phê tư không?

- Dạ thưa có, nhưng cháu không biết phân biệt thế nào là cà phê ngon, thế nào là cà phê không ngon - Anh Điền trả lời khiêm tốn và thật thà.

- Cà phê ngon à... đơn giản thôi. Thế này nhé. Trừ cà phê mậu dịch quốc doanh, cứ cà phê tư là ngon, nhưng loại ngon nhất phải là đen, đen như quỷ sứ; nóng, nóng như địa ngục và uống vào phải say, say như đàn ông gặp đàn bà...

Nắm được “công thức” ấy, người giao liên trẻ đã dẫn nhà văn đi đến được các hang cùng ngõ hẻm của Quảng Yên, Hòn Gai, Uông Bí, Đông Triều - nơi có những quán cà phê danh tiếng của đất mỏ.

5. Không thèm ăn

Nhà văn Nguyễn Tuân và nhà văn Tô Hoài là những người rất thuộc Hà Nội, biết rành rẽ nhiều lĩnh vực ở Thủ đô, từ chuyện cũ xưa như lời ăn tiếng nói, thói quen của người Tràng An đến phong cảnh, danh thắng. Trong lĩnh vực ẩm thực, hai ông cũng là những người sành điệu có tiếng, chẳng kém cạnh gì những Tản Đà, Thạch Lam, Vũ Bằng... trước đây.

Tô Hoài kể, trong quyển hồi kí Chiều chiều, rằng sinh thời Nguyễn Tuân thường cùng ông tới các hiệu ăn, tiệm giải khát nổi tiếng của Thủ đô. Cũng chẳng ăn cao lương mĩ vị gì, có khi chỉ là uống một li bia hơi, thưởng thức một đĩa bánh cuốn, một tô phở. Một lần, vào lúc chập tối, Tô Hoài cùng Phạm Khoa Văn và Nguyễn Tuân rủ nhau đến nhà hàng Bôđêga - một nhà hàng cao lâu nổi tiếng thời Pháp thuộc nằm ở phố Tràng Tiền định thưởng thức một món gì đó. Nhưng vừa vào đến cửa đã thấy Nguyễn Tuân quay ra ngay. Ông bảo những người cùng đi: “Lên cà phê Nhân, uống một cái phin rồi về.” Tô Hoài cùng Phạm Khoa Văn không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa, cứ phân vân. Sang đến bên kia bờ hồ Hoàn Kiếm rồi, Nguyễn Tuân mới nói: “Mặc quần áo ngủ đón khách vào ăn, bẩn quá không nuốt được.” Thì ra, khi cả ba văn nghệ sĩ bước vào, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy cảnh ông trưởng cửa hàng cao lâu mặc pizama xanh ngồi ở ngoài hiên, đứng dậy chào. Thế là Nguyễn Tuân không thèm vào, không thèm ăn nữa.

6. Để tiếp tục tranh luận

Theo Thanh Tịnh, sinh thời Nguyễn Tuân rất nghiệt ngã với các nhà phê bình. Một lần có người đến thăm hỏi nhà văn làm việc vào lúc nào, ông trả lời: “Viết vào lúc nửa đêm.” Hỏi tại sao, nhà văn bảo: “Lúc ấy các ông phê bình ngủ cả rồi.” Và một lần khác khi đang ốm nặng, có người hỏi ông có di chúc gì không, nhà văn nói: “Tôi chết hãy chôn tôi cạnh ông phê bình.” Hỏi tại sao thì được trả lời: “Để tiếp tục tranh luận cùng họ!”

7. Thơ phải đủ sắc hương, mùi vị

Nguyễn Tuân là người rất yêu hoa. Giáp Tết năm ấy có người đem đến tặng nhà văn một chậu hoa lan hàm tiếu rất đẹp. Nguyễn hi vọng đúng khi hoa nở sẽ có bạn quý tới chơi để cùng thưởng thức. Một người bạn đến, hoa chưa nở. Ông cảm thấy buồn tiếc bởi bạn cũ lâu ngày mới gặp, chẳng được cùng nhau thưởng hoa. Sáng xuân sau, Nguyễn dậy sớm, ngồi độc ẩm. Lạ thay, đúng lúc các nhành lan đua nhau nở và đưa hương thoang thoảng. Tức cảnh, Nguyễn Tuân đọc liền câu thơ:

Bạn cũ về rồi hoa mới nở
Nổi tăm lòng rượu một hương ai

Ấy là lần đầu tiên trong đời tác giả Vang bóng một thời làm thơ, làm chỉ đúng hai câu mà có đủ cả hoa, rượu và hương thơm. Và nhớ ông, tôi lại nhớ đến bài của nhà văn Kim Lân viết hôm giã biệt bậc đàn anh: “Anh Nguyễn Tuân ơi! Anh vốn là người yêu hoa, quý hoa. Trong phòng viết của anh quanh năm không lúc nào vắng hoa. Hôm nay, hoa Hà Nội tề tựu cả ở đây, cùng chúng tôi, các bạn bè thân thiết của anh, các bạn đọc xa gần từ lâu vẫn ái mộ anh..., tất cả hoa, và chúng tôi cùng đưa tiễn anh về nơi yên nghỉ cuối cùng… Thế thì anh Tuân ạ, trước sau anh vẫn đúng là người sung sướng nhất đời đấy!”

Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Thân sinh của nhà văn là cụ Tú Hải Văn - một nhà nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng đồng thời là người ảnh hướng lớn nhất đến hồn văn của Nguyễn Tuân sau này. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết nạp vào Đảng. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Năm 1996 ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Ngô Vĩnh Bình

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 20.02.2021.

Sẽ đẹp biết bao khi thế hệ trẻ nói những vấn đề của họ, của đất nước qua những tác phẩm văn chương - nghệ thuật lấy cảm hứng từ Kiều, viết ca khúc phổ nhạc từ Kiều, hay rap Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt.

Trong không gian và thời gian đương đại, chúng ta sẽ nói chuyện gì khi nói về Truyện Kiều của cụ Tiên Điền nhân giỗ Cụ 200 năm (1820-2020)? 

Chẳng có gì lạ nếu những việc như nữ quyền, bình đẳng giới, tự do luyến ái, hay dung hợp tôn giáo lập tức hiện ra trong tâm thức người đương thời khi nhắc đến Kiều.

20200622 2

Một cảnh trong vở ba lê Kiều của nghệ sĩ Tuyết Minh

Truyện Kiều và căn tính văn hoá Việt

Dẫu thế, đấy hẳn nhiên không phải là những khái niệm mà khi xưa cụ Nguyễn Du từng trăn trở, mà là lối hiểu, lối nghĩ, lối diễn giải của chúng ta ngày nay khi đọc kiệt tác của Cụ. Cô Kiều của cụ Nguyễn tựa hồ không tuổi, luôn được thanh xuân hoá để sánh bước bên ta, đặc biệt cùng những người trẻ. Vừa đi, Kiều vừa thủ thỉ, nhắc ta về căn tính văn hoá mà nếu không biết gìn giữ nó, ta sẽ dùng dằng nửa ở, nửa về giữa nghịch cảnh “hoà nhập” với “hoà tan”, e sao quên mất lối về nhà trong cõi người ta đang sầm sập toàn cầu hoá.

Chẳng phải là quá khi nói cái đẹp của Kiều chỉ người Việt mới chiêm ngưỡng được hết.  Nói thế cũng là để nhấn mạnh ý thức về căn tính dân tộc bước ra từ cái đẹp văn chương quan trọng đến nhường nào trong bối cảnh toàn cầu ngày nay. Trước khi là tư tưởng, cái đẹp ấy như duyên ngầm chảy trong từng con chữ được kết nối tài hoa tạo nên nhạc tính của cả bản tổng phổ mỹ lệ mang tên Kiều. 

Khi muốn báo hiếu tiếng Việt qua bản kể Kiều của mình bằng tiếng Anh, nhà thơ Dương Tường hẳn đã không ngại đối mặt với một thử thách vô song để ít nhiều đưa cái đẹp tổng thể của Kiều vào không gian Anh ngữ. Khi Thượng chi Phạm Quỳnh ngâm câu Kiều, Phong trần mài một lưỡi gươm - Những phường giá áo, túi cơm xá gì, ông “bỗng thấy trong lòng vui vẻ, trong dạ vững vàng, muốn nhảy múa, muốn reo hò, muốn ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ”.

Và khi dịch Kiều sang tiếng Pháp dưới thời thuộc Pháp, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã gửi nỗi niềm, ý thức dân tộc vào từng dòng thơ dịch, “Một quyển truyện Kiều, mà giả sử được ngọn Tây-bút nào tài, diễn dịch ra một thứ tiếng Âu-châu nào, cũng đủ chứng cho người Âu-châu phải công nhận rằng cái lối văn-chương, có tư-tưởng, có tâm-lý, có triết-học, không phải là một lối văn-chương riêng của các nước bên Âu-Mỹ; người Nam-Việt cũng có cái cảm-giác ấy, cũng có cái tư tưởng ấy”.

Rap truyện Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt
Poster phim Kiều của đạo diễn Mai Thu Huyền sẽ ra mắt vào đầu năm sau

Vậy nên, đọc Kiều không đơn thuần chỉ là thưởng ngoạn văn chương: lúc nếm trải khoái cảm thẩm mỹ ấy cũng chính là lúc ta ý thức rõ hơn căn tính văn hoá Việt của mình.

Tiếp nối từ cổ điển đến đương đại

“Văn hoá,” “truyền thống” không phải là di sản truyền đời cố định, bất biến, mà chúng ta chỉ là người tiếp nhận thụ động.  Trái lại, con người luôn là nhân tố tích cực tham gia (tái) kiến tạo văn hoá, truyền thống thời mình sống, hoặc ý thức, hoặc vô thức.  Tương tự, người đọc tạo ra những kiếp luân hồi cho tác phẩm văn chương bằng cách đọc vào đó những ý nghĩa mới, những vấn đề của thời đại mình trong khi diễn giải. Chúng ta cần nhận ra điều này và trở thành chủ thể ý thức trong việc kiến tạo văn hoá, truyền thống, cũng như xây dựng xã hội, thế giới của mình. 

Giáo sư Thanh Lãng đã vẽ nên một “Cuộc sống thăng trầm của Đoạn Trường Tân Thanh”, cho thấy các thế hệ người đọc đã nhận diện Kiều như thế nào, từ một “Kiều hài nhi” của thế hệ 1788-1820, sang “Kiều thần tượng - Kiều minh tinh” của thế hệ 1913-1932, cho đến những kiếp đời luân hồi không dứt của “Kiều đầu thai”, khởi sự với thế hệ 1954-1965.

Rap truyện Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt
Giáo sư Nguyễn Nam đưa sinh viên Fulbright đi thực địa tìm hiểu về lịch sử, văn hoá Việt Nam tại Huế

Việc những người trẻ hôm nay đọc ra trong Kiều những vấn đề của thời đại họ tự nhiên như hơi thở: nhờ thế mà Kiều không bao giờ là một di thể xơ cứng, không sức sống.  Thế nhưng quan trọng hơn là phải giúp lớp trẻ ấy ý thức vai trò chủ thể kiến tạo có trách nhiệm của mình qua việc họ đang làm: đó là thông hiểu, hân thưởng và phả hơi thở đương đại vào một tác phẩm văn chương kinh điển tầm cỡ thế giới của dân tộc.   

Kiều đầu thai vào đời sống hiện đại dưới nhiều hình thức: Kiều đi vào diễn văn ngoại giao của các vị Tổng thống Hoa Kỳ; Kiều sánh vai với văn chương thế giới, với triết lý duyên do sinh hiện gần với ikigai Nhật Bản; Kiều được kể lại bằng tiếng Anh qua sinh nghiệm một đời của người dịch; Kiều được đọc qua lăng kính của học giả Bắc Mỹ; Kiều tiếp hiện cùng với diễn hoá của văn hoá “truyền thống” Hà Tĩnh và cả nước; Kiều được người Pháp cải biên thành phim với dàn diễn viên của sân khấu truyền thống Việt đầu thập niên 1920; Kiều bước lên sân khấu cải lương, ba lê, hiển hiện trên màn bạc qua ngôn ngữ điện ảnh đương đại ở trong và ngoài nước. 

Việc vun bồi căn tính văn hoá Việt trong thế hệ trẻ như một trong những nhân tố cốt tuỷ xây dựng xã hội trong bối cảnh toàn cầu cho phép ta kỳ vọng một sự tiếp nối từ cổ điển đến đương đại: sẽ đẹp biết bao khi thế hệ trẻ hôm nay nói được những vấn đề của họ, của đất nước qua những tác phẩm văn chương - nghệ thuật lấy cảm hứng từ Kiều, viết nên những ca khúc phổ nhạc từ Kiều, hay thậm chí rap Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt. Sẽ chẳng phải là mâu thuẫn khi nói rằng với ý thức căn tính văn hoá được xác lập vững chắc, những người trẻ hôm nay sẽ đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển xã hội với tư cách công dân toàn cầu. 

Với những nội dung trên, hội thảo“Nguyễn Du với Đương đại” được tổ chức tại Đại học Fulbright Việt Nam (24/10) với sự tham gia của các nghệ sĩ, nhà giáo, nhà nghiên cứu là nén tâm hương nhân 200 năm năm mất của Đại thi hào Nguyễn Du. Hội thảo mở ra đối thoại xuyên thế hệ, gửi trọn niềm tin vào vai trò (tái) kiến tạo của thế hệ trẻ trong tương lai.

TS Nguyễn Nam (Đại học Fulbright Việt Nam)

Nguồn: Vietnamnet, ngày 18.10.2020.

Sáng 19.2 tại số 81 Trần Quốc Thảo, Q.3, Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức lễ trao giải thưởng năm 2020 và kết nạp hội viên mới trong không khí ấm áp, chan hòa tình đồng nghiệp trong ngôi nhà chung văn chương đầu năm mới.

Theo nhà văn Bích Ngân – Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM: “Hội đồng chuyên môn và Ban Chấp hành (BCH) Hội Nhà văn đã làm việc với tinh thần cầu thị, với nỗ lực không bỏ sót bất kỳ mọi khám phá, tìm tòi nào ...để tìm ra những tác phẩm xứng đáng trao giải thưởng hàng năm. Một mặt BCH luôn tôn trọng đánh giá của các Hội đồng chuyên môn; mặt khác tranh luận, phản biện để đi đến quyết định trao giải thưởng và tặng thưởng. Mặc dù từng có 10 năm trong BCH, dù không muốn so sánh nhưng theo tôi giải thưởng năm nay là đầy đặn và chất lượng nhất, với đủ các thể loại: văn, thơ lý luận phê bình...”.

 

Niềm vui của các tác giả nhận giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 2020: nhà văn - đạo diễn Xuân Phượng (thứ hai từ trái qua), nhà văn Bùi Quang Lâm và nhà thơ Cao Xuân Sơn.

 

Được biết, trong số ba tác giả được trao giải thưởng thì điều bất ngờ là hai tác phẩm hồi ký – truyện ký của hai tác giả chưa là Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM là đạo diễn Xuân Phượng (tác phẩm Gánh gánh gồng gồng...) và tác giả Bùi Quang Lâm (Đất K). Nhà văn đạo diễn Xuân Phượng (sinh năm 1929), dù tuổi năm nay đã cao nhưng bà...quá vui, có mặt ngay từ sáng sớm để nhận giải. Nhà văn Trầm Hương – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM đánh giá "những trang viết của bà đậm chất nữ tính sự từng trải, nhân hậu, trí tuệ đã làm sống dậy gần trọn một thế thế kỷ đầy biến động, đau thương, bi hùng của đất nước. Động cơ thôi thúc bà cầm bút là để hóa giải uẩn khúc được chôn giấu sau hơn nửa thế kỷ, tuôn ra cùng những giọt nước mắt đoàn viên".

Nhà văn Trầm Hương nói: “Dù đậm chất trữ tình, xót xa, bi phẫn... Nhưng trên tất cả là niềm tự hào về người phụ nữ Việt Nam không cúi đầu khuất phục nghịch cảnh, một người mẹ tràn ngập tình mẫu tử cao đẹp, một nghị lực phi thường vượt qua những khúc quanh nghiệt ngã của lịch sử và số phận... Một hồi ký nhưng đậm chất điện ảnh, sâu thẳm nhân sinh; lấp lánh nước mắt thấm ướt, kết nối các thế hệ và ngân vang tiếng cười lạc quan từ trong chiến tranh tàn khốc; trong đói khổ, bóng tối những ngày hậu chiến, khao khát hướng tới tương lai tươi đẹp bằng nỗ lực kết nối con người...”.

Ngược lại, truyện ký Đất K Bùi Quang Lâm lại là những lát cắt chưa xa về những ngày hậu chiến khó khăn của đất nước, về những người mẹ tần tảo lo từng cái ăn cái mặc cho gia đình lại tiễn những đứa con ra chiến trường ác liệt.

Bấm chân qua tuổi dại khờ là tập thơ duy nhất được trao giải thưởng của Hội Nhà văn TP.HCM năm 2020. Nói về sức hấp dẫn của tập thơ này, nữ văn sĩ Trầm Hương không giấu được cảm xúc khi trải lòng: “Ẩn đằng sau vẻ ngoài hầm hố, bặm trợn của người đàn ông không còn trẻ nữa là trái tim đa cảm, mềm yếu, mong manh của Cao Xuân Sơn. Anh đã tự hoạ chân dung mình:“Anh. Gã đàn ông lênh khênh, vạm vỡ/ đủ tự mình làm núi ngắm mình chơi. Nhưng vượt lên trên, giá trị cốt lõi của tập thơ được vinh danh giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM 2020 là sự lắng đọng, chiêm nghiệm, triết lý bật lên một cách hồn nhiên từ trải nghiệm cuộc sống của anh".

So với mọi năm thì số tiền được trao của giải thưởng của Hội Nhà văn TP.HCM năm nay có tăng khá hơn với 16 triệu đồng/giải và tặng thưởng 8 triệu đồng cho các tác phẩm Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối (nhà thơ - nhà báo Huỳnh Dũng Nhân - hồi ký - NXB Tổng hợp TP.HCM); Đoản khúc chiều phù dung (Vũ Văn Song Toàn - tập truyện ngắn - NXB Trẻ); Đi tìm mỹ cảm văn chương (Trần Hoài Anh - tiểu luận – Phê bình – NXB Hội Nhà văn).

21 nhà văn – nhà thơ được kết nạp lần này, gồm: Đỗ Thị Anh, Phan Thị Thanh, Trúc Thuyên (Tống Phước Bảo), Đoàn Minh Phong, Đới Xuân Việt, Bùi Quang Lâm, Lê Công Sơn, Trần Võ Thành Văn, Đinh Thị Phúc (Phúc Đinh), Võ Thị Mai (Hoa Mai), Nguyễn Thị Dung (Thanh Dung), Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Hân (Phương Hùng), Nguyễn Thị Nguyệt (Nguyệt Thu), Nguyễn Đinh Nhật Lân (Chiêu Dương), Đoàn Lâm, Hồng Ngọc Châu, Nguyễn Văn Thành, Lê Thị Lựu (Thiên Hương), Nguyễn Thanh Hoàng, Nguyễn Thị Hường (Thu Hường), cũng đã được BCH Hội Nhà văn TP.HCM trao thẻ nhà văn và tặng hoa chúc mừng cho các tân hội viên trong những tình thân.

Nguồn: https://thanhnien.vn/van-hoa/hoi-nha-van-tphcm-trao-giai-thuong-nam-2020-chan-hoa-trong-tinh-van-chuong-1343639.html

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 Tuổi trẻ có đăng bài thuật lại ý kiến của ông Lê Nghị và nhóm (từ đây gọi tắt là Lê Nghị) Thử “giải mã” lại Truyện Kiều, trong đó có trình bày nhiều quan điểm ngược hẳn với thành tự nghiên cứu xưa nay về Truyện Kiều, tác phẩm đỉnh cao của văn học cổ điển Việt Nam.

20201006

Trang cuối cuốn 7 của Thông tục Kim Kiều truyện, dòng 3 từ trái qua ghi năm xuất bản: Bảo Lịch thứ 13, Quý Mùi, chính nguyệt (tháng Giêng 1763) - Ảnh: Đ.L.GIANG

Những luận điểm lạ về nguồn gốc Truyện Kiều

Ý tưởng chung là nhóm tác giả này muốn chứng minh Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là sáng tác trên cơ sở cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, mà ngược lại Truyện Kiều có trước, sau đó nhóm Thanh Tâm Tài Tử người Việt Nam diễn thành Kim Vân Kiều truyện, từ đó truyền sang Trung Quốc thành Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, lưu ở thư viện Đại Liên (nơi vẫn coi là tìm ra một trong các bản cổ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc), và người Trung Quốc nhận là sáng tác của họ.

Quan điểm này đi ngược lại thành tựu nghiên cứu lâu nay của các học giả Việt Nam và nước ngoài, từ Phạm Quỳnh, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Giản Chi và các học giả sau này. Điều này dẫn tới những hệ lụy nghiêm trọng:

- Nó có thể gây mất niềm tin về toàn bộ nền khoa học xã hội nước nhà nghiên cứu về Truyện Kiều trước nay;

- Gây hoang mang cho các thầy cô giáo, sinh viên, học sinh đang dạy-học môn ngữ văn;

- Khiến cho các học giả nước ngoài không hiểu học giới Việt Nam đang ở tình trạng nghiên cứu và tâm lý nào;

- và cuối cùng người ta tưởng đưa ra kết luận ấy là đề cao Nguyễn Du, nhưng thực ra là hạ thấp ông, vì nếu sự thật ngược lại: Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều có sau thì hóa ra Truyện Kiều không có giá trị gì?

Dù bài báo có cẩn thận ghi ở cuối rằng: “còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác về xuất phát Truyện Kiều để tường minh hơn về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm đã đi vào lòng muôn đời người Việt”, nhưng dòng chữ ấy bị chìm vào những kết luận “động trời” của bài viết.

Xem qua các luận điểm của Lê Nghị, những người có quá trình nghiên cứu về Truyện Kiều thấy ngay tất cả đều sai. Ví dụ:

(1) Lê Nghị viết: “Minh Mạng chỉ đạo các văn thần, gọi tên chung là Thanh Tâm Tài Tử soạn một cuốn bình giảng thơ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Cuốn bình giảng đầu tiên là Kim Vân Kiều lục.”

Ý tưởng này có 2 chỗ sai:

Một là, Kim Vân Kiều lục không phải là cuốn “bình giảng” mà là cuốn truyện viết bằng văn xuôi thuật lại Truyện Kiều. Cuốn này Phạm Tú Châu đã dịch ra tiếng Việt và xuất bản 2015 (Dịch và nghiên cứu Kim Vân Kiều lục, NXB.KHXH);

Hai là, “Minh Mạng chỉ đạo…” đó chỉ là lời người viết tự kể chuyện, mà không có chứng cứ văn bản nào.

(2) Việc Minh Mạng xem và đổi tên Đoạn trường tân thanh thành Kim Vân Kiều truyện thì học giả Trần Văn Giáp đã nói từ lâu. Nhưng lạ một cái là khi trích đoạn này trong bản Kim Vân Kiều truyện Hán Nôm cổ (ký hiệu B60) Lê Nghị đã cắt xén một cách khó hiểu chỗ bất lợi cho mình. Xin chép lại đầy đủ:

“Sách Kim Vân Kiều truyện vốn là sách Thanh Tâm Tài Nhân lục của Bắc quốc, Nguyễn Du ở Tiên Điền diễn ra quốc âm, đặt tên là Kim Vân Kiều truyện, được vua Minh Mạng đọc và (cho) (đổi) (tên) (làm) Đoạn trường tân thanh

(Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, NXB.KHXH, 1990, tr.134).

Những ghi nhận ấy của sách Hán Nôm cổ cùng với quá trình nghiên cứu của các học giả 100 năm nay tưởng cũng đã đủ để kết luận: Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc có trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác trên cốt truyện ấy có sau, nhưng trở thành kiệt tác của văn học thế giới.

Tuy nhiên Lê Nghị tung ra luận điểm rằng Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc lưu ở Thư viện Đại Liên là sách giả. Đối với giới nghiên cứu chuyên nghiệp thì những kết luận như vậy là không có cơ sở, nhưng để cho rõ ràng, tôi xin đi đường vòng, không dùng tư liệu Trung Quốc nữa mà dùng tư liệu Nhật Bản.

Kim Vân Kiều truyện (1763) có ở Nhật Bản từ trước khi Nguyễn Du ra đời

Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra tiếng Nhật từ khá sớm, người dịch là nhà văn nổi tiếng Komatsu Kiyoshi. Người Nhật đặc biệt yêu thích Truyện Kiều qua bản dịch này, trong vòng 6 năm nó được tái bản đến 3 lần (Toho hakkosho, 1942; Toho shoten, 1943; Kaikosha xb, 1948). Nhờ thế các học giả Nhật Bản mới chú ý tìm xem có Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc truyền đến Nhật Bản không. Họ phát hiện ra ở Nhật có các bản dịch, phóng tác Kim Vân Kiều truyện khá phong phú.

Người đầu tiên đề cập đến vấn đề này là GS.Hatakenaka Toshiro 畠中敏郎(1907-1998) ở Đại học Ngoại ngữ Osaka. Năm 1959, Giáo sư Hatakenaka đã trình bày bài Kim Vân Kiều và văn học thời Edo, sau đó đăng trên tạp chí Văn học so sánh của Hội Văn học so sánh Nhật Bản (số 3, tháng 9-1960, tr.37-54) với nhan đề Kim Vân Kiều khảo. Năm 1972, ông trở lại vấn đề này với bài viết: Về Kim Vân Kiều đăng trên tạp chí Đại học Ngoại ngữ Osaka (số 27, ngày 25-01-1972, tr.11-21). Bài viết được đưa vào sách Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Takeuchi Yonosuke dịch (Kodansha xuất bản, 1975). Đoạn đầu bài nghiên cứu viết:

“Bản Kim Kiều truyện dịch sang tiếng Nhật thành Tú tượng thông tục Kim Kiều truyện 繍像通俗金翹伝 (Kim Kiều truyện thông tục có tranh minh họa) được xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763). So với niên đại nguyên bản được thuyền buôn đưa sang (1754, nói ở trên) thì khá sớm. Bản này được lưu giữ ở Thư viện Đại học Tenri天理図書館, gồm 7 sách, 5 quyển, 20 hồi. Cuối sách 7 có ghi: “Tháng Giêng, năm Quý mùi, Bảo Lịch 宝暦thứ 13 (1763) (…) Người dịch sách này là Nishida Korenori 西田維 則 người vùng Omi mất năm Minh Hòa thứ hai (1765)”. (Ảnh)

Những thông tin này tôi đã giới thiệu từ 25 năm trước trên Kiến thức ngày nay số Xuân 1996 và sau đó trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 năm 1999.

Năm 2003 tôi đến Thư viện Đại học Tenri (gần Nara) để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện và xin sao chụp lại (318 trang, khổ 28 cm x 36 cm, 20 tranh minh họa). Tôi được biết GS.Trần Đình Sử cũng có cuốn này từ năm 1996 khi ông đi Nhật.

Gần đây, nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu cũng đã tìm được những tư liệu mới nhất về Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản. Ông đã giới thiệu bài Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc -Trường hợp Bakin của GS.Isobe Yūko (trích từ Kỷ yếu của Đại học Takaoka, quyển thứ 18, xuất bản 2003 tại Nhật Bản). GS.Isobe Yūko cho biết:

"Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 - 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật. Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện của Nishida Korenori, được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất”. (Nguồn gốc Truyện Kiều trang Facebook Vương Trung Hiếu 18/9/2020).

Với tư liệu rõ ràng như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản, vấn đề Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này coi như đã rõ.

Trong văn học cổ điển thế giới, sự lưu chuyển cốt truyện là việc rất bình thường: từ bi kịch về hoàng tử Hamlet của F.Belleforest, Th.Kyd; từ kịch Những năm tuổi trẻ của Cid của Castro qua ngòi bút thiên tài của W.Shakespeare, P.Corneille, mà thành kiệt tác Hamlet, Le Cid.

Vì thế không vì yêu quý Nguyễn Du mà cố tình “cưỡng tình đoạt lý” chứng minh Truyện Kiều có trước và tạo ra Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc để làm gì. Dù có kế thừa tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, Truyện Kiều vẫn là một kiệt tác đỉnh cao của văn học Việt Nam và của văn học Đông Á, đó là điều mà Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không làm được.

Đoàn Lê Giang

(Bài đã trích đăng báo Tuổi trẻ, ngày 26.9.2020).

Vậy là những cố gắng cuối cùng của nhà thơ Đoàn Vị Thượng để trải qua cái Tết Tân Sửu 2021 vừa dừng lại: anh trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng lúc 11h04 ngày mùng 5 Tết (16-2) sau thời gian dài lâm bạo bệnh.

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng sinh năm 1959, tên thật là Trần Quang Đoàn, được bạn đọc nhiều độ tuổi yêu mến. Là người gốc Huế, lại sống suốt thời niên thiếu ở Quảng Ngãi, lớn lên lập nghiệp tại Sài Gòn, thơ ông có nhiều ý vị, những cảm xúc hồn nhiên tuổi mới lớn và cả độ trầm lắng suy tư sau khi đối diện với chìm nổi của cuộc đời.

Sự kiện mới nhất về thơ ông là buổi ra mắt tập Thơ Đoàn Vị Thượng hồi cuối tháng 12-2020, do gia đình và bạn hữu cùng NXB Hội Nhà Văn chung tay thực hiện. Tập thơ khiến ông vui hơn một chút trong những ngày cuối đời chống chọi với bệnh tật. 

Nhiều bạn bè yêu quý Đoàn Vị Thượng bắt đầu từ những vần thơ trong trẻo và cá tính. Trong các mối giao tình, họ nhận ra ở nhà thơ gốc miền Trung những độ rung trong tâm hồn có thể tạo ra nhiều giao cảm đồng điệu. 

Đoàn Vị Thượng sống một đời trong niềm yêu thương tin cậy của bạn bè, tránh xa thị phi và không dính dáng đến những được thua còn mất.

Dường như, tự thẳm sâu ông hiểu được sự tạm bợ của kiếp người, sự giả lập của thời gian, và chỉ gửi gắm suy tư vào câu chữ, vào thơ.

Trong buổi ra mắt tập thơ Đoàn Vị Thượng cách đây mới hơn một tháng, nhà nghiên cứu Tịnh Thy chia sẻ với mọi người một góc nhìn về bài thơ Tôi là ai trong tập. 

Theo Tịnh Thy, đây có thể là lời nhắn gửi của Đoàn Vị Thượng đến với mọi người, với cuộc đời: "Tôi là ai, em hỏi lúc gặp nhau/ Chợt câu hỏi cũng là tôi bối rối... Như thể rằng, tôi là một nhà thơ/ Hay là kẻ si tình, thì cũng thế/ Sự có mặt của tôi, có đôi khi không đáng kể/ Tôi lẫn chìm giữa cuộc sống quanh em/ Em yêu đời này, xin yêu một cái tên: Đoàn Vị Thượng".

Cái tên ấy hẳn sẽ còn được nhiều người nhắc mãi, như những vần thơ ông luôn được bạn đọc yêu thích, cho dù ông vừa làm chuyến từ biệt thi đàn để đi vào cõi vĩnh hằng.

Một số tác phẩm của Đoàn Vị Thượng xuất bản trước đây:

- Ngôi trường, hoa phượng và tôi (thơ, 1987)

- Thơ Đoàn Vị Thượng (1988)

- Chuyện tình chim hót (truyện dài, 1989)

- Môi thơm (truyện dài, 1990)

- Tóc em còn thả mùa đi học (truyện dài, 1991)

Hiện linh cữu nhà thơ Đoàn Vị Thượng quàn tại nhà: 41/9 Trần Kế Xương, phường 7, quận Phú Nhuận, TP.HCM.

Thông tin tang lễ: Lễ viếng bắt đầu sau 20h30 ngày 16-2, Lễ động quan: 6h ngày 19-2, sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-doan-vi-thuong-tu-biet-van-dan-o-tuoi-63-2021021614465951.htm

20200706

Nikos Kazantzakis có lần nói rằng “Nếu trọn tâm hồn tôi là tiếng thét thì tác phẩm của tôi là lời chú giải cho tiếng thét ấy.” Với Trương Văn Dân, ta như bắt gặp lại điều ấy. Gần 400 trang sách viết về cuộc trò chuyện với một đứa bé sắp chào đời và Trương Văn Dân đã nói với nó về mọi vấn đề, như là một Bách khoa thư, với 75 đề mục, khởi đi từ tình yêu và thiên chức của cha và mẹ, sợi dây liên kết thiêng liêng với con cái, hôn nhân và tình yêu cho đến những vấn nạn xã hội như ly dị, chủ nghĩa mackeno, cho đến những chủ đề bát ngát bao la như thân phận người Việt Nam hôm nay, trong một thế giới phẳng, tình trạng toàn cầu hóa, những vấn đề gai góc như ô nhiễm môi trường, phân biệt giàu nghèo, giới tính, chủng tộc, chiến tranh… Những câu hỏi vĩ mô: Thế giới sẽ về đâu? Nhân loại sẽ ra sao? Chúng ta sẽ bắt gặp trong tập sách này với những lời chú giải.

Tác giả nói với “thiên thần” về mục đích của sự chào đời rằng “ …vấn đề là chúng ta sinh ra để làm gì? Có phải chúng ta sinh ra để yêu nhau? Hay không được sinh ra để hiểu nhau?.. Tìm được câu trả lời về đời thật không dễ dàng… Bất trắc tai ương, chiến tranh, dịch bệnh, cô đơn luôn làm con người hãi sợ. Thế nên trong đời sống ai cũng cần được ở bên một người có thể giúp mình chịu đựng…. Ba mong là trong cuộc đời con sẽ gặp được một người biết biến những thứ vô vị trở nên ý nghĩa… Ba may mắn vì gặp mẹ và những người bạn quý…” Nhưng sau đó, Trương Văn Dân đi xa hơn với những chủ đề rộng lớn hơn. Anh để cho kiến thức của mình tuôn chảy trên những con chữ ngồn ngộn, tràn đầy số liệu và ví dụ, minh chứng cho một thế giới bất trắc mà thiên thần sắp bước vào. Ở đó có những vấn đề xã hội như thân phận phụ nữ lấy chồng xa xứ, thân phận người nghèo, tình trạng ly dị và phá thai… rồi đến thân phận người Việt Nam, rồi đến những vấn đề lớn lao như sự tha hóa quyền lực, cho đến chủ nghĩa toàn cầu hóa đang bế tắc vì bản chất thật sự của toàn cầu hóa bị xem là tàn ác một cách thông minhthông minh một cách tàn ác vượt mọi thời đại, sự chênh lệch quyền lợi giữa những thành phần kinh tế đến nỗi một học giả phương Tây đã cảnh báo “Tất cả chúng ta đều là những kẻ bóc lột, phồn vinh của chúng ta chính là nỗi khổ của kẻ khác.” Trương Văn Dân khi nói về chính trị đặc biệt cảnh báo “Chủ nghĩa dân túy (populism) nhân danh người dân nhưng lại phớt lờ nhân quyền, không nhận di dân, ngoại giao dựa trên sức mạnh quân sự,… phát triển kinh tế bất chấp nợ công, dẫn đến “Thời đại bất định toàn cầu”. Tác giả lên án tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, phá hủy môi trường, giết hại sinh vật biến hành tinh này thành nơi không thể sống…

Về chiến tranh trên thế giới, anh viết “Bên dưới lớp áo hoa hòe, chính nghĩa, bản chất chiến tranh vẫn luôn là một sự áp đặt, giành giật và cướp bóc trá hình.”

Trong Trò chuyện với thiên thần, câu hỏi “Thế giới rồi sẽ về đâu?” hay “Nhân loại sẽ ra sao?” được tác giả đưa ra nghiêm túc. Có lúc chúng ta thấy bi quan vì Trương Văn Dân nói đến những cuộc khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng xã hội và tài chính, kinh tế đang trộn lẫn vào nhau và tóm lại chúng ta đứng trước cuộc khủng hoảng văn minh, nhân chủng học… Anh kết luận “Nó tự hủy diệt trong hoang tưởng vì nó đặt nền tảng trên hoang tưởng.”

Thế nhưng khi được hỏi về mục đích khi viết tác phẩm này, nhà văn nói: “Tôi viết vì tôi yêu quý cuộc đời và trong lòng có những điều không thể không nói, dù ý nghĩ có khi mâu thuẫn và những con người khác nhau trong tôi luôn tranh cãi với nhau. Tôi xem những dòng tự sự này như một cách trò chuyện, tâm sự cùng độc giả và cuộc đời”. Cuộc đời mà như anh trích dẫn, thi sĩ Tản Đả định nghĩa “Đời là cõi bắt người ta phải sống” và “Cuộc đời không bao giờ có một hình thù cố định. Nó như giọt nước. Khi tròn lúc vuông. Khi dài như sợi khi ngắn và mỏng như tờ giấy… hình thù nó tùy vào vật chứa. Mỗi hình dạng là một trạng thái tâm hồn.” Thế nên tác giả cũng trải qua nhiều tâm trạng: khổ đau - hạnh phúc - giận dữ - buồn phiền - mừng vui và bị tác động do những ngoại lực xung quanh: các yếu tố môi trường, xã hội, văn hóa, gia đình và bạn bè ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm hồn. Anh vẫn yêu đất nước nồng nàn:

“Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu” (Trần Vàng Sao )

và khi anh nhắc thơ Lưu Trọng Lư, anh nhắc cả những người trên ngôi cao chín bệ

“Mỗi ngày anh phải trả lời câu hỏi
Những việc làm nào là có ích cho dân?”

Chúng ta thấy tác phẩm không chỉ đem lại những suy nghĩ tiêu cực vì Trương Văn Dân cũng viết: “… theo ba chỉ có tôn giáo mới có thể giúp mình vượt thoát khỏi những khổ đau và sống bình an…” Anh nhấn mạnh “Việc thờ phượng đức Phật là do người đời sau bày vẽ, thậm chí mọi người còn mải mê thờ (tượng) Phật mà quên mất việc chính là thực hành con đường hạnh phúc ngài đã chỉ dạy.”

Như vậy Trò chuyện với thiên thần vẫn có những âm ba vọng lại từ tiếng thét của Trương Văn Dân, đồng cảm, chia sẻ, xa hay gần tùy vào người đọc vì ở đó vẫn có những điểm sáng như lòng yêu thương cuộc đời, như con đường của hạnh phúc nếu người ta biết sống mà yêu nhau dù trên mảnh đất còn nhiều thiếu thốn vì như anh viết: “Cõi thiên đường không liên quan gì đến sự bất tử mà là một thế giới trong đó con người biết tôn trọng và sống tử tế với nhau.” Trong tâm thế khai phóng ấy, hãy đọc và ngồi xuống cùng Trò chuyện với thiên thần.

Sài Gòn 7.7.2020  

Nguyên Cẩn

        Theo tin từ gia đình, nhà thơ Tường Linh, tên thật Nguyễn Linh (1931-2021), đã từ trần tại TP Hồ Chí Minh ngày 05-02-2021, hưởng thọ 91 tuổi.

       Tường Linh có lần nói với người viết bài này, ông sinh đầu năm 1931 (trong khi giấy khai sinh ghi muộn là ngày 12-12-1931), âm lịch là Canh Ngọ, nên tự nguyện làm con ngựa thồ văn chương, thồ nhân nghĩa và ân tình xứ Quảng. Quê ông ở làng Trung Phước, huỵện Quế Sơn, tình Quảng Nam. Ông là tri kỷ của hai văn nhân đồng hương nổi tiếng là Bùi Giáng và Tạ Ký. Bút hiệu Tường Linh đứng tên trên 11 tập thơ, trong đó có tác phẩm được giải thưởng Văn học Nghệ thuật Việt Nam Cộng hòa. Ông còn viết tiểu phẩm với bút hiệu Út Cầu Sơn (có thời nhà ông ở gần Cầu Sơn, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh).

        Tuyển tập thơ Tường Linh xuất bản mười năm trước (NXB Văn Học, 2011), khi nhà thơ đã qua tuổi 80. Hơn sáu thập niên làm thơ, vắt dòng qua hai thế kỷ, chọn lại 396 bài in trong tập sách, cho thấy Tường Linh là một nhà thơ thuộc thế hệ trước, một nhà-thơ-mới-cổ-điển. Ông là nhà thơ dụng công về kỹ thuật, chú trọng niêm luật và vần điệu của từng thể loại mà không gây cho người đọc cảm giác gượng ép, có lẽ một phần là vì thuở thiếu thời, ông đã được tập luyện nhuần nhuyễn khi làm các thể thơ cổ. Sở trường của ông là thơ bảy chữ, tám chữ và lục bát. Có đôi lần ông làm thơ cách tân - thơ tự do hay thơ văn xuôi - nhưng cảm hứng và tình điệu vẫn không rời mạch thơ truyền thống của dân tộc. Thơ ông được nuôi trong nguồn mạch đó và hoà vào tiếng nói trữ tình của người Việt một cách tự nhiên như hơi thở.

         Tuyển chọn từ tám tập thơ in riêng (tập đầu tay nhan đề Thơ tập làm thuở nhỏ, in thạch bản ở Tam Kỳ năm 1950), ba tập thơ in chung, Tường Linh cấu trúc cuốn sách nói trên theo ba phần: Nhánh hồn sông Thu, Chim bay biển Bắc Thao thức phương Nam. Thơ ở cả ba phần đều thấm đẫm một “dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn” và nồng nàn tình người, tình nhà, tình quê, tình nước. Không bao giờ thơ Tường Linh thôi âm vọng những tiếng gọi Trung Phước, Đại Bình, Cà Tang, Hòn Kẽm Đá Dừng..., lúc xôn xao trên sóng nước Thu Bồn, lúc hun hút trong mưa ngàn gió núi.

         Ở Sài Gòn từ năm 1956, thơ ông luôn hướng vọng về “ngoài ấy”, “phương xưa”, phương của mẹ, phương của quê nhà:

                  Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa

                  Xiêu xiêu quán nhỏ mé đường trưa

                  Vườn cau của mẹ hoa cau rụng

                  Giọt sáng rơi dường giọt nước mưa.

         Khi thơ ông cất tiếng “Thu ơi, từ đó…”, thì hình ảnh sông Thu, mùa thu quyện chặt hình ảnh người thương mến:

                  Anh mất mùa thu, mất cả em

                  Lạc nhau từ thuở mới vừa quen

                  Trùng trùng dâu bể đau hồn bút

                  Đêm mịt mù sương lụn ánh đèn.

          Thi ảnh trong tác phẩm Tường Linh gắn liền hình tượng đất và người xứ Quảng, với tần số xuất hiện cao, vậy mà không thấy trùng lặp, mỗi lần đọc lại gợi lên những rung động mới. Những bài thơ như Tháng bảy, Tin bão miền Trung... được tác giả viết hơn nửa thế kỷ trước mà tưởng như là chuyện vừa mới tái hiện năm ngoái đây thôi, khi mùa bão lũ gây bao thảm cảnh cho đồng bào trên đất mẹ.

          Phong vị cổ điển trong thơ Tường Linh còn thể hiện ở chỗ dường như nhà thơ làm nhoà đi hình ảnh chính mình mặc dù những điều ông nói đều bắt nguồn từ gan ruột. Phải chăng ông nghĩ rằng những “gió dập sóng nhồi” của cuộc đời ông có thấm gì so với những chìm nổi của đất nước, quê hương. Nhưng dù ông đứng lùi về phía sau thì tấm lòng ông, cái tình trong thơ ông vẫn hiện lên dạt dào ở phía trước. Dễ nhận ra chất nhạc trong thơ Tường Linh là yếu tố gây men cho những ca khúc phổ từ thơ ông của Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng, Minh Kỳ, Bắc Sơn… Khi viết những bài thơ thế sự về những thảm họa do thiên tai hay chiến tranh, về những ngang trái đắng cay của cuộc đời, Tường Linh vẫn giữ vẹn nguyên chất giọng nhỏ nhẹ, kín đáo mà làm chứng cho những bể dâu và “cuộc tỉnh say” của kiếp người.

         Hồi 50 tuổi, Tường Linh viết về mình:

                       Ta năm mươi tuổi rồi sao?

                 Đời như một thoáng chiêm bao chưa tàn

                       Nửa phần thế kỷ thời gian

                  Trăng tàn sau núi, mây tan cuối trời

                        Quê xưa: bóng nhớ xa vời

                  Thề xưa câm nín như lời cỏ cây.

          Cái tôi của nhà thơ như tan loãng vào thiên nhiên, vào giấc mơ, vào cả niềm thinh lặng. Đến khi viết lời từ biệt chuẩn bị cho “ngày về”, ông vẫn muốn gửi lại mọi người giọng thơ chân thành, lão thực ấy:

                  Bởi ta về phía mặt trời sẽ lặn

                  Không gặp ai, cả chiếc bóng của mình

                  Đi tay trắng thì trở về tay trắng

                  Thơ một đời gửi lại phía bình minh.

        Đọc một tập thơ, hiểu một tâm hồn, luận đề quen thuộc ấy càng đúng với thơ Tường Linh. Đó là một tâm hồn rất mực khiêm cung mà chất chứa bao nỗi niềm tâm sự để viết ra những vần thơ, như “tiếng trúc trầm luân”, thấm sâu vào những tấm lòng Việt Nam bình dị.

         Xin tiễn ông đi bình an về phía mặt trời sẽ lặn.

20200905 2

1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

Tuy nhiên, cũng có thể khảo sát “điểm”. Cụ thể là khảo sát một khía cạnh, một chi tiết nghệ thuật trong thơ Thiền Lý - Trần. Chẳng hạn như chúng ta có thể trình bày một số cảm nhận của mình về việc miêu tả sắc thân trong thơ Thiền giai đoạn trên. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu một chi tiết nghệ thuật chọn lọc, có thể phát hiện ít nhiều về những quan niệm nghệ thuật về con người, về cách cảm nhận thế giới cũng như khuynh hướng nghệ thuật của thời đại Lý - Trần.

2. Thuộc phạm vi khảo sát của đề tài này không phải là toàn bộ thơ Thiền Lý - Trần nói chung mà chỉ là những bài thơ tiêu biểu trong tập Thơ Thiền Lý - Trần1. Cụ thể:

- Trước tiên là những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân. Dấu hiệu dễ nhận ra là ở chúng có sự xuất hiện của từ thân trong bản phiên âm của bài thơ. Có điều, hàm nghĩa của từ này phải là chỉ sắc thân, ngoại hình chứ không phải là chỉ thân thế (Thân thế quang âm nhược phi tiễn - Thân thế và tháng năm tựa như mũi tên bay), chỉ sự thân thiết giữa các đối tượng (Dữ vật vô thân - Cùng vật không thân)…

- Hoặc là chỉ đề cập một vài bộ phận của thân thể như: đầu, tóc, chân, tay, mặt, mũi, ngực, bụng… Ví dụ: Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Thị chúng kệ (Giác Hải), Phàm thánh bất dị (Tuệ Trung Thượng Sĩ), Đăng Bảo Đài Sơn (Trần Nhân Tông), Địa lô tức sự (Huyền Quang), Giới am ngâm (Trần Minh Tông)…

- Hoặc là chỉ miêu tả những hiện tượng có liên quan đến sắc thân như sinh, lão, bệnh, tử. Chẳng hạn như: Thị đệ tử Bản Tịch (Thuần Chân), Sinh lão bệnh tử (Diệu Nhân), Sinh tử nhàn nhi dĩ (Tuệ Trung Thượng Sĩ)… Đôi khi lại khéo dùng cách nói ẩn dụ quen thuộc để kín đáo bàn luận về sắc thân như Thị tịch (Ngộ Ấn), Mộc trung hữu hỏa (Khuông Việt)…

3. Thử khảo sát, thống kê những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân trong tuyển thơ đã đề cập, chúng tôi nhận thấy chúng đã hiện diện với một số lượng không nhỏ: 20/80 bài. Điều này chứng tỏ rằng vấn đề sắc thân cũng là một trong những ám ảnh thơ ca, trở thành một trong những vấn đề quan yếu của những nhà thơ Thiền tông Lý- Trần.

Có thể đi tìm một vài nguyên nhân của hiện tượng trên từ nguồn cội văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Phật giáo Thiền tông dù đi trực tiếp từ Ấn Độ sang hoặc theo đường vòng từ Trung Hoa lại bao giờ cũng phải dung hợp với tư tưởng truyền thống Việt Nam - yêu nước và nhân đạo - để trở thành Phật giáo Thiền tông Việt Nam, một khuynh hướng Phật giáo giàu tính thực tiễn, đại chúng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trong tư tưởng nhân đạo của văn học truyền thống, chữ thân cũng là một ám ảnh ghê gớm, một ý thức thường trực. Tục ngữ Việt Nam đề cao tư tưởng nhân ái giữa người với người thì “thương thân” vừa là xuất phát điểm vừa là cái đích để hướng tới (Thương người như thể thương thân). Các nhà nghiên cứu ca dao Việt Nam thường hay nhắc tới motif “Thân em như” trở đi trở lại trong nhiều bài ca dao trữ tình: “Thân em như tấm lụa đào”, “Thân em như lá đài bi”, “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như chổi đầu hè”, v.v. Motif này góp phần khẳng định bi kịch số phận của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đồng cảm với bi kịch số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp biến nhiều cách nói, cách cảm nghĩ, cách dùng từ ngữ của ca dao dân tộc. Do vậy, chữ thân có nhiều lí do để chiếm một số lượng đáng kể bên trong kiệt tác của nhà thơ thiên tài. Thống kê sơ bộ cũng có thể bắt gặp sự hiện diện của nó trong Đoạn trường tân thanh trên dưới 40 lần, đặc biệt là những thời điểm quan trọng trong cuộc đời Kiều, nhân vật trung tâm gánh chịu một chuỗi những bi kịch của “phận đàn bà” trong xã hội cũ:

- Thà rằng liều một thân con (Gia biến).

- Thân nghìn vàng để ô danh má hồng (Thất thân với Mã Giám Sinh).

- Thân lươn bao quản lấm đầu (Quyết định tiếp khách).

- Đục trong thân cũng là thân (Quan hệ với Thúc Sinh).

- Tấm thân rày đã nhẹ nhàng (Sống với Từ Hải).

- Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương (Dằn vặt trước khi tự trầm).

- Thân tàn gạn đục khơi trong (Đoàn viên).

Mục đích của Thiền là “hiểu rõ thân tâm” (Liễu ngộ thân tâm - Nguyện Học), là tìm đến “Niết bàn tâm tịch tịch” (Mê ngộ bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Song, muốn tâm ngộ trước hết phải nhận thức về sắc thân một cách rốt ráo. Nhìn chung, các nhà thơ Thiền Lý - Trần hay khẳng định, nhấn mạnh tính chất huyễn ảo, vô thường của thân:

- Thân như bóng chớp có rồi không (Thị đệ tử - Vạn Hạnh).

- Thân như tường vách đã đến lúc đổ nát (Tâm không - Viên Chiếu).

- Thân là hiện tượng sinh ra và mất đi (Thị đệ tử Bản Tịch - Thuần Chân).

- Vốn từ không tịch ảo thân sinh (Thị tịch - Bản Tịch). - Thân như băng gặp nắng trời (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Tấm thân nổi rồi lại chìm (Nhật mộ vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Không biết tấm thân là hư ảo (Bán dạ vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Thân như gương ảo, nghiệp như bóng (Vạn sự qui như - Tuệ Trung).

- Cái thân do huyễn ảo hóa thành rồi cũng phải diệt (Sinh tử nhàn nhi dĩ - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Thân từ vô tướng vốn là không (Phàm thánh bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Tại sao các nhà thơ thiền Lý - Trần lại cho rằng sắc thân là huyễn ảo, vô thường? Có lẽ phải đi tìm lí do từ trong cảm thức thế giới của văn học trung đại nói chung và quan điểm bản thể luận của Phật giáo Thiền tông nói riêng. Trong cảm nhận của con người trung đại thì thế giới với con người là một (thiên nhân hợp nhất). Đi vào lĩnh vực văn hóa, văn học, con người cảm thấy có mình trong tự nhiên bắt đầu từ thân thể. Đây là cơ sở cho luận điểm “thân thể vũ trụ” của M. Bakhtin, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô (cũ) khi phân tích một số hình tượng trong nghệ thuật cổ đại, trung đại. Và ngược lại, họ, những con người trung đại, cũng tự nhận thấy trong bản thân có cả vũ trụ. Nói như thiền sư Tăng Triệu là “thiên địa dữ ngã đồng căn - Vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất với ta cùng một gốc - Muôn vật với ta cũng cùng một thể). Mới hiểu vì sao các nhà thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV đã cụ thể hóa luận điểm này bằng một loạt những so sánh giữa sắc thân với những hiện tượng tự nhiên: hoa sen, cành mai, mùa thu, hoa bướm, mây ngàn, nước suối, ánh trăng, cây cỏ, giọt sương… Thậm chí quan hệ giữa thiên nhiên và sắc thân giàu tính huyễn ảo đã hóa thành tứ thơ trong một bài thơ thiền cụ thể:

Thông reo trăng nước sáng

Không ảnh cũng không hình

Sắc thân cũng thế vậy

Hư không tìm tiếng vang

(Tầm hưởng - Minh Trí)

Sắc thân là hư ảo cũng như “bướm hoa đều huyễn ảo”. Cũng theo quan điểm Phật giáo thì toàn bộ thế giới sự vật, hiện tượng này - thế giới hình tướng - cũng là huyễn ảo. Bởi lẽ, Phật giáo quan niệm rằng cái sắc thân của mỗi người mở rộng ra là toàn bộ thế giới chỉ là “giả hợp”, “vốn từ chỗ trống không lặng lẽ mà sinh ra” (Thị tịch - Bản Tịch). Chúng sinh ra từ bốn yếu tố - “tứ đại” - (đất, nước, lửa, gió) tùy thuộc nghiệp duyên, theo luật nhân quả của nhà Phật. Do vậy, con người tu hành chớ nên “chấp” vào sắc thân mà nên biết “quên thân”, “buông bỏ hình hài” xem chuyện “sinh lão bệnh tử - Lẽ thường tự nhiên” (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân). Một khi cái tâm đã “ngộ” về lẽ vô thường của sắc thân, giọng điệu thơ Thiền Lý - Trần, đặc biệt ở khá nhiều bài thơ dặn dò đệ tử trước khi viên tịch - sẽ mang cái vẻ ung dung, thanh thản hiếm có.

4. Cái nhìn ung dung, tự tại đối với sắc thân đồng thời cũng là cái nhìn biện chứng. Một mặt, các thiền sư thi sĩ Lý - Trần xem thân là sắc tướng, là “có”. Mặt khác, họ lại cho rằng thân là “tứ đại”, “vốn dĩ đều là không” (nguyên lai nhất thiết không - Sắc thân dữ diệu thể I, Đạo Huệ). Thân đi từ sinh đến diệt: “Thân như bóng chớp có rồi không” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh). Những bậc tu chứng một khi đã giác ngộ “thực tướng” (Niết bàn, Chân như) có thể vượt lên lẽ sinh diệt, chuyển sắc thân thành pháp thân. Bấy giờ con người sẽ là “một thân nhàn nhã dứt muôn duyên” (Thị tịch - Pháp Loa), “vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung) ung dung đi lại giữa “ba cõi mênh mông”. Trái lại, “bậc chân nhân chưa thành Phật cũng chỉ là một khối thịt đỏ hỏn” (Vô vị chân nhân xích nhục đoàn - Phổ thuyết sắc thân kệ, Trần Nhân Tông). Chưa có điều kiện để bàn đến cái nhìn duy tâm, trừu tượng về một thế giới khác trong những ý thơ trên ; ở đây, chúng ta chỉ lưu tâm tới cái nhìn bình đẳng, không phân biệt giữa phàm và thánh trong thơ Trần Nhân Tông (bài Phổ thuyết sắc thân kệ), thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ (bài Phàm thánh bất dị), thơ Trần Minh Tông (bài Giới am ngâm) nói riêng, tiêu biểu cho thơ Thiền Lý - Trần nói chung. Điều này thật đáng quí. Nó khiến cho Phật giáo Thiền tông vừa giống vừa không giống với những tôn giáo khác. Giống ở ý nghĩa nhân bản khẳng định, đề cao con người. Khác ở tính chất vô thần vốn xa lạ với bản chất của tôn giáo nói chung. Phải chăng đây cũng chính là cơ sở cho thấy Thiền tông gần gũi với cách sống, lối sống hơn là một nguyên lí triết học?

Đi sâu hơn nữa vào mảng thơ Thiền miêu tả, đề cập đến một số bộ phận của thân thể trong thơ của những thiền sư Lý - Trần, chúng ta sẽ càng thú vị, ngạc nhiên hơn khi chứng kiến nhiều suy tư, cảm nhận rất người về cách sống, lối sống.

Trước tiên, các nhà thơ hay nói đến một lối sống phù hợp với những qui luật của tự nhiên mang ý vị Lão - Trang. Họ hay nhắc đến trong thơ của mình hình ảnh tuổi già, tóc trắng, điều mà người đời xưa cũng như nay thường luôn lo nghĩ: “Trên đầu già đến rồi” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh); “Tóc xuân ngầm điểm trắng” (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông) ; “Biết dùng gái đầu bạc (Thị chúng kệ - Giác Hải)”. Song khác với thơ Nho ở cái giọng cảm khái, bùi ngùi khi miêu tả tuổi già, đầu bạc2, trong thơ Thiền Lý - Trần, hình ảnh đầu bạc biểu hiện lẽ biến dịch, tính chất vô thường của sắc thân. Người tu chứng ngộ tiếp nhận nó với giọng thơ ung dung, thanh thản của những con người lúc nào cũng có cái nhìn “lạc đạo tùy duyên”) luôn luôn gắn bó với hiện tại, trong cái đổi thay, sinh diệt vẫn đạt được cái không đổi thay, sinh diệt (Biết dùng gái đầu bạc). Hình ảnh “ông sư già bận bịu” trong bài thơ Địa lô tức sự của thiền sư thi sĩ Huyền Quang chẳng phải là cách sống “lạc đạo tùy duyên” tích cực, giàu giá trị nhân bản của các lão sư Lý - Trần hay sao?

Điểm đáng chú ý thứ hai là một số câu thơ miêu tả cử chỉ, tư thế của các thiền sư có liên quan đến sắc thân. Có những tư thế, cử chỉ rất “động”: “Tài trai lập chí xông trời thẳm” (Thị tịch - Quảng Nghiêm); “Xoay mình một ném vượt ra lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung Thượng Sĩ); “Bước trên đầu Phật trèo lên đỉnh (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ)”. Xưa nay, các nhà nghiên cứu văn học như Lý Tử Tấn, Lê Quý Đôn, Đặng Thai Mai, Đinh Gia Khánh… cứ ngờ ngợ cho rằng đây là những câu thơ “phi Thiền” chủ yếu phản ánh bản lĩnh, khí phách của con người thời đại Lý - Trần. Thật ra, những con người ấy, nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, “vẫn nằm trong giáo lí Thiền tông”. Chất Thiền ở đây vẫn là tinh thần phá chấp của Thiền tông đồng thời còn là những biểu hiện trạng thái chứng ngộ của các thiền sư bấy giờ. Thơ Thiền Lý - Trần là thế, rất Đạo mà vẫn rất Đời, quyện hòa giữa thiền vị và thi vị. Đặc biệt là những câu thơ miêu tả những cử chỉ, tư thế rất “tĩnh” của những thiền sư:

- Uổng miệng không nói (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân).

- Giữa nhà không nói chỉ ngồi yên

Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên (Ngẫu tác - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Đứng tựa lan can cầm ngang sáo ngọc

Trăng sáng rọi đầy cả ngực bụng (Đăng Bảo Đài sơn - Trần Nhân Tôn).

- Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng (Xuân vãn - Trần Nhân Tông).

- Khách ra về tăng không nói gì

Khắp mặt đất ngát mùi hương hoa thông (Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều).

- Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Những câu thơ trên, đặc biệt là những câu thơ đời Trần (của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tôn, Trần Quang Triều, Huyền Quang) bộc lộ sự hòa điệu tự nhiên, trọn vẹn giữa con người và ngoại vật. Khó mà phân biệt đâu là mùi tục, đâu là vị thiền. Thiên nhiên vừa được chiêm ngưỡng qua cái nhìn ung dung, tự tại của thiền sư, vừa hiện lên một cách hồn nhiên, gợi cảm dưới đôi mắt của thi nhân. Chất triết lí (đạo học) và chất trữ tình (chất thơ) hòa quyện, gắn bó.

5. Cuối cùng, chúng tôi muốn bàn đến một hiện tượng thơ ca có liên quan đến sắc thân trong thơ Thiền Lý - Trần. Đó là cách dùng một loại ẩn dụ từ vựng nhằm chỉ cái tính nguyên thủy của vạn vật (bổn tánh), cái tâm bản thể chứa đựng trong mỗi sự vật:

- Muốn biết đâu là khuôn mặt thực (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Khuôn trăng người mẹ ai hay biết (An định thời tiết - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Khúc kì diệu “bản lai” nên cất giọng hát (Thị chúng - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Một buổi sáng chợt phát hiện ra khuôn mặt người mẹ (Độc đại tuệ ngữ lục hữu cảm - Trần Thánh Tông).

- Nhận ra được bộ mặt thật vốn có (Tự thuật - Trần Thánh Tông).

Ở đây có hiện tượng dùng “thân” để chỉ “tâm”. Dùng một bộ phận tiêu biểu của “sắc thân” để chỉ “diệu thể”. Hiện tượng này, một mặt, bắt nguồn từ cái nhìn triết học “vạn vật nhất thể” trong tư tưởng trung đại, mặt khác, gần gũi hơn, nó đến từ cái nhìn biện chứng, không phân biệt của Thiền tông. Bởi, theo các thiền sư:

- Sắc thân và diệu thể

Chẳng hợp chẳng chia lìa (Sắc thân dữ diệu thể II - Đạo Huệ).

Để gây ấn tượng mạnh mẽ về sự thống nhất, hài hòa giữa “thân” và “tâm”, các thiền sư thi sĩ thường dùng một hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ: hoa sen trong lò lửa:

- Trong lò một cành hoa (Sắc thân dữ diệu thể I - Đạo Huệ).

- Trong lò sen nở sắc thường tươi (Thị tịch - Ngộ Ấn).

- Một đóa sen trong lò lửa hồng (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Đôi khi các nhà thơ Thiền Lý - Trần lại dùng một hình ảnh ẩn dụ khác:

- Cái thân vàng cao quí của Di Đà ở ngay trong lòng (Thị du Tây phương bối - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Có lẽ các thiền sư muốn nhắc nhở chúng ta rằng Phật tính không ở đâu xa, Phật tính có sẵn trong tâm mỗi người?

Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng vừa sâu sắc, vừa dung dị. Sâu sắc về triết học, dung dị về lối sống. Albert Einstein (1879-1955), một trong những bộ óc vĩ đại của loài người ở thế kỉ XX, rất có lí khi cho rằng trong tương lai của loài người Phật giáo sẽ trở thành người bạn đồng hành với khoa học, đồng hành cùng nhân loại trên bước đường mưu cầu bình yên, sự thanh thản thân tâm.

Phan Đình Dũng

Nguồn: Tạp chí Sông Hương SDB37/06-2020, phiên bản trực tuyến ngày 04.9.2020.

-----

Chú thích

1. Đoàn Thị Thu Vân - Thơ Thiền Lý - Trần, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1998.

2. Cảm hoài của Đặng Dung; Tự thán I, II; U cư I, II; Mạn hứng I, II của Nguyễn Du.

Nhà văn Ngô Phan Lưu, thường được gọi là 'nhà văn nông dân', qua đời sáng nay 8-2 tại quê nhà Phú Yên, thọ 78 tuổi.

Nhà văn Ngô Phan Lưu - Ảnh: ĐÀO ĐỨC TUẤN

Sáng nay 8-2, người thân nhà văn Ngô Phan Lưu cho biết ông vừa qua đời lúc 6h55 cùng ngày sau nhiều tháng điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên vì bệnh nặng.

Ngô Phan Lưu sinh năm 1943, tại xã Hòa Mỹ Đông (huyện Tây Hòa, Phú Yên). Ông đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn 2006-2007 của tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) với hai truyện ngắn "Buổi sáng biến mất" và "Cơm chiều", sau đó được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngô Phan Lưu trình làng văn chương bằng tập thơ "Bếp lửa chiều đông" (1997). Sau đó, ông chuyển hẳn sang viết truyện ngắn, tản văn và xuất bản nhiều tác phẩm: "Người không giăng câu Kiều" (2004), "Cơm chiều" (2008), "Xoa tay và cười" (2009), "Con lươn chép miệng" (2010), "Tờ lịch gỡ mỗi ngày" (2012)...

Từng học khoa triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975, sau này Ngô Phan Lưu về quê làm ruộng, nuôi bò, chụp ảnh dạo…... để mưu sinh. Vì thế khi nổi danh với nghề văn, ông được bạn bè hay gọi là "nhà văn nông dân".

Người nhà của nhà văn cho biết lễ viếng ông sẽ bắt đầu vào sáng 9-2, linh cữu ông được hỏa táng vào sáng 10-2.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-nong-dan-ngo-phan-luu-qua-doi-20210208093316414.htm

Phan Văn Trị (1830 - ?), quê quán ở thôn Hưng Thạnh, tổng Bảo Phước, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre) đỗ kỳ thi Hương tại Trường thi Gia Định năm Kỷ dậu (1849, Tự Đức thứ 2)  (Cao Xuân Dục, 1893). Thế nhưng không hiểu vì lý do gì, Phan Văn Trị lại không nhận chức quan nào ít ra từ khi thi đỗ cho đến khi quân Pháp chiếm đánh Gia Định. Do đó, các nhà nghiên cứu thường thiếu khuyết quãng đời này của Phan Văn Trị, hoặc dựa vào phỏng vấn dân gian, hoặc dựa vào một ít tư liệu thơ văn của Phan Văn Trị và của người khác để viết thêm nhằm hình dung sơ bộ về cuộc đời Phan Văn Trị.

20200916

Ảnh: Tư liệu liên quan đến Phan Văn Trị  trong Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, 1893.

Từ năm 1849 Phan Văn Trị đỗ cử nhân cho đến khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Đà Nẵng, trong khoảng 10 năm này, Phan Văn Trị đã ở đâu làm gì? Sáng tác của Phan Văn Trị như thế nào? Không thấy có một sử sách nào ghi chép về tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị, cho nên cuộc đời hành trạng của Phan Văn Trị còn cần được tiếp tục tìm hiểu và đưa ra những chứng cứ thuyết phục hơn.

Nhất Tâm trong khảo luận về Phan Văn Trị, cho rằng sau khi thi xong ông “chẳng ra làm quan, về ẩn dật, dạy học trò, khi cày cuốc, khi lại đi câu” và “cho đến năm Canh tuất 1910, Phan mất tại Phong Điền là nơi Phan đã ngồi dạy học, thọ 81 tuổi” (Nhất Tâm, 1956). Sau đó, các nhà nghiên cứu khác như Bảo Định Giang trong Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX cũng cho là như thế dù có vài chi tiết về số tuổi khác nhau do cách tính[1]. Từ năm 1974, Nguyễn Văn Hầu đã biên soạn xong công trình Văn học miền Nam lục tỉnh, nhưng cho đến năm 2012, công trình này mới được in ra mắt công chúng, trong đó có chương 26 viết về Phan Văn Trị, phần tiểu sử cũng theo thuyết của Nhất Tâm, phần thơ văn của Phan Văn Trị ông có tham khảo tập chép tay thơ văn Hán Nôm Sưu tập cổ thi văn của một người hiệu là Thất Hiền Cuồng Sĩ  (Nguyễn Văn Hầu, 2012)[2]. Nguyễn Q. Thắng trong sách Tiến trình văn nghệ miền Nam cho rằng, sau khi thực dân Pháp chiếm trọn miền Nam, Phan Văn Trị rời đất Gia Định, về quê rồi xuống “tỵ địa” ở Thất Sơn, An Giang, cuối cùng lại về ở tại Phong Điền, Cần Thơ mở trường dạy học và làm nghề đông y cho đến cuối đời và mất tại đấy (Nguyễn Q. Thắng, 1990)[3]. Sau đó sách Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm trên cơ sở tư liệu của Phan Thành Tài đã công bố cũng cho ra kết luận tương đối thống nhất (Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, 2001).

Những điều chúng ta biết về Phan Văn Trị hiện nay, thông qua các sách vở đương thời hầu như rất ít. Nguyễn Liên Phong (Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, in lần đầu 1909) cho biết về tình trạng “gàn” của Phan Văn Trị (Cử Trị ăn ở lạ lùng,/ Áo quần xịt xạt điên khùng quá tay,/ Gặp Tường thời Trị mắng ngay,/ Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè), hoặc từng hoạ thơ Tôn Thọ Tường (Hoạ thơ chống chỏi chê dè,/ Tai ngơ danh lợi chẳng nghe chẳng cầu…) và còn cho biết thông tin quan trọng: Phan Văn Trị và cả Tôn Thọ Tường lúc này đã mất (Đều là tương trợ thành danh,/ Đã lâu về cõi âm minh xa miền)  (Nguyễn Liên Phong, 2014)[4]. Lại có người cho rằng Tôn Thọ Tường từng làm thơ khóc Phan Văn Trị với bài “Bái công khóc Hạng Võ” nghĩa là Phan Văn Trị phải mất trước Tôn Thọ Tường, nhưng cũng lại là một tư liệu chưa đáng tin cậy, có thể là thơ khóc Trương Định hơn là Phan Văn Trị. Do đó, việc xác định năm mất của Phan Văn Trị là vấn đề cần tiếp tục làm rõ.

Một hiện trạng cần chú ý khi nghiên cứu văn học Hán Nôm Nam Bộ là tính lưu truyền trong dân gian, văn bản được sao chép không ghi tên tác giả, khiến cho việc xác định các tác phẩm của các tác giả đôi lúc trở nên khó khăn bất khả. Nếu cứ theo các ý kiến của các nhà nghiên cứu về cuộc đời Phan Văn Trị trước đây, khả năng cho thấy thơ của Phan Văn Trị vẫn chưa được sưu tầm hết, chưa minh định xong các tác phẩm tạm cho là của Phan Văn Trị. Như vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu là tiếp tục tìm kiếm nguồn tư liệu về hành trạng tiểu sử Phan Văn Trị cũng như minh định thêm các tư liệu thơ văn của ông.

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều xem Quốc âm thi hiệp tuyển (Lê Quang Chiểu, 1903)[5] là tư liệu khả tín, vì bởi hai lý do, một là tập tuyển thơ quốc âm đầu tiên xuất bản ở Nam kỳ, hai là có quan hệ gia đình với vợ của Phan Văn Trị. Lê Quang Chiểu là anh em cô cậu với bà Đinh Thị Thanh, bà Thanh là vợ của Phan Văn Trị  (Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, 2001)[6]. Nếu cho rằng tập này là khả tín, thì vì sao có những bài thơ về sau cho là của Phan Văn Trị, mà lúc bấy giờ ông Lê Quang Chiểu lại không biết? Cần nhớ rằng, nếu Phan Văn Trị mất năm 1910, tập sách của Lê Quang Chiểu xuất bản năm 1903, bản thảo hẳn nhiên phải định hình trước thời gian xuất bản, tại sao ông Chiểu lại không minh định tác phẩm khi ông có quan hệ gần gũi với Phan Văn Trị? Vấn đề đặt ra là, hoặc Phan Văn Trị mất trước khi tập sách ra đời; hoặc có thể Phan Văn Trị tuổi cao khó nhớ được chính xác; hoặc công tác sưu tầm văn bản Nôm chưa được ông Chiểu thực hiện kỹ càng; hoặc vấn đề tác phẩm văn học Nôm ở miền Nam lưu truyền theo hình thức truyền miệng dân gian. Các khả năng ấy đều có thể xảy ra. Chính vì thế qua nhiều lần sưu tầm, giám định, các nhà nghiên cứu văn học miền Nam đã đưa thêm và thừa nhận một số bài thơ trong tập thơ quốc âm của Lê Quang Chiểu là của Phan Văn Trị (như Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Nhất Tâm, Bảo Định Giang, Nguyễn Văn Hầu…). Thế nhưng trong công trình Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân đã đưa các bài thơ vịnh vật vào phần tồn nghi.

Ngoài những bài của Phan Văn Trị được minh định sẵn trong sách Quốc âm thi hiệp tuyển của Lê Quang Chiểu ra, thì trên Nam Phong tạp chí, Lâm Tấn Phác có sao lục các bài thơ của Phan Văn Trị như công bố 10 bài hoạ vần thơ tự thuật Tôn Thọ Tường của Phan Văn Trị (tập XIII, số 78-1923, tr.517-518), các bài Chùa hư, An Giang phong cảnh, Vĩnh Long hoài cổ, Hột lúa, Thợ may, Ông câu (hai bài) (tập XV, số 88-1924, tr.352-353). Văn bản 10 bài thơ cảm hoài của Phan Văn Trị, lần đầu tiên được Lâm Tấn Phác công bố trên Nam Phong tạp chí ở mục Văn uyển, Thơ cũ Nam kỳ (tập XVIII, số 105-1926, tr.394-395). Nhưng bấy giờ Lâm Tấn Phác chỉ cho là của Phan Văn Trị làm, không ghi đề bài là gì. Dưới chân trang 394 có ghi chú là của Phan Văn Trị làm lúc nước Pháp mới sang chiếm đóng mảnh đất Nam kỳ.

Có lẽ từ đó Nhất Tâm (Phan Văn Trị cuộc đời và thơ văn, 1956), Thuần Phong (Phan Văn Trị thi tập, 1959), Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh (Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, 1962, 1976), Lãng Nhân (Giai thoại làng Nho, 1972), Nguyễn Văn Hầu (Văn học miền Nam lục tỉnh, 1974 – 2012),… thừa nhận và tuyển vào trong các công trình của họ. Nhưng từ Nhất Tâm 10 bài thơ thủ vĩ liên hoàn của Phan Văn Trị có tên là “Cảm hoài”. Các công trình về sau đều gọi theo như thế.

Phan Văn Trị xuất thân từ nho học, thi đỗ cử nhân tại Trường thi Gia Định, nhưng cho đến nay điều lạ là chưa tìm thấy bài thơ nào của Phan Văn Trị viết bằng chữ Hán, hầu như được viết bằng quốc ngữ (Nôm). Điều ấy lý giải ra sao? Trong khoảng gần 10 năm sau khi thi đỗ (1849), khi thực dân Pháp chưa nổ súng gây hấn và đánh chiếm Gia Định, thời gian ấy nếu Phan Văn Trị được cha mình đưa đến ra mắt Phan Thanh Giản tại sao không phải là thơ chữ Hán mà là thơ chữ Nôm? Tại sao phải là thơ Con mèo, thơ Hột lúa ngụ ý châm chọc? Cần nhớ khoảng thời gian này, Phan Thanh Giản ở kinh và sau đó làm Tổng đốc Bình – Phú, đến năm 1851, Phan Thanh Giản mới chuyển làm Phó sứ Kinh lược Nam kỳ, Tuần phủ Gia Định, kiêm coi các đạo Biên Hoà và Long Tường, An Hà đến năm 1852 trở về kinh. Thời gian đó, Phan Thanh Giản vẫn là một trọng thần trong triều, tại sao Phan Văn Trị lại đưa thơ có ý châm biếm? Còn nếu Phan Văn Trị gặp Phan Thanh Giản trước thời gian thi thì cũng thật khó có khả năng xảy ra. Cho nên các dật sự ấy cũng khó có thể tin được. Mà cái quan trọng nhất là tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị cho đến nay vẫn còn mù mờ về dòng họ và lai lịch. Cho nên việc tìm hiểu thơ của Phan Văn Trị có nhiều điểm chưa thể làm sáng tỏ.

Đọc lại thơ của Phan Văn Trị trong tình hình tư liệu tạm chấp nhận hiện nay, người viết cảm giác có hai bộ phận thơ trong một tác giả. Bộ phận thơ vịnh vật với một giọng điệu khác hẳn với bộ phận thơ 10 bài hoạ thơ Tôn Thọ Tường và 10 bài thơ cảm hoài của ông. Điều đó cho phép suy luận khả năng có một phần sáng tác lâu nay được cho là thơ của Phan Văn Trị hay không phải của ông cũng cần tiếp tục thẩm định.

Phan Văn Trị là nhà nho trước một thời cuộc mới. Vì thế trong người Phan Văn Trị tồn tại tư tưởng, hành động của một nhà nho bên cạnh cái phi nho. Nếu thừa nhận một bộ phận thơ vịnh vật là sáng tác của Phan Văn Trị thì bộ phận thơ này thể hiện tính phi nho rất rõ bên cạnh những bài thơ cảm hoài mang tính nho của ông. Vì thế nhiều bài viết trước đây cũng đưa ra vấn đề “nho” và “phi nho” trong con người Phan Văn Trị (Đoàn Lê Giang), vấn đề Phan Văn Trị “ở ẩn” hay “dấn thân” (Lê Thu Hà) trong hội thảo về Nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1830 - 1910) tổ chức tại Hậu Giang năm 1985 (in năm 1990) đã làm rõ vấn đề ấy. Trên cơ sở văn bản còn nhiều nghi vấn như hiện này, người viết đã chú ý đến việc đọc lại và lý giải tư tưởng nho trong chùm thơ cảm hoài của Phan Văn Trị (trên cơ sở tiếp cận thông diễn học và quy chiếu tư tưởng nho học).

Về 10 bài Cảm hoài của Phan Văn Trị, có thể được sáng tác vào khoảng thời gian đầu khi thực dân Pháp xâm lược (1859 - 1862), vì thế nó thể hiện một niềm nuối tiếc và hy vọng về một tương lai mới xoay chuyển tình thế của đất nước. Tác giả dùng thể thơ Nôm thất ngôn bát cú thủ vĩ liên hoàn kể về nội dung lẫn hình thức đều cho người đọc hình dung về một mối lo nghĩ cho thời cuộc, khát vọng xây dựng lại cảnh tượng đất nước thanh bình của một nho gia.

Cái tâm sự của tác giả cảm hoài thể hiện trong toàn 10 bài, có thể quy nạp mấy ý sau:

- Nuối tiếc về cảnh thanh bình của đất nước, cảm nỗi đất nước bị xâm lăng, chờ mong thay đổi vận mới:

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình,

Trời đất gây nên cuộc chiến tranh.

Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách,

Nước non vun quén nước non mình.

(Cảm hoài, 1)[7]

Nhìn Nam chạnh tủi nhành hoa ủ,

Ngó Bắc ngùi thương khóm bạch vân.

(Cảm hoài, 2)

Nỡ nghe tiếng loạn đem tai rửa?

Đành thấy thằng gian để mắt trừng!

(Cảm hoài, 4)

Thế sự băng xăng cờ túng nước,

Nhân tình tráo chác gió rung cây.

(Cảm hoài, 5)

Kìa nước nọ non cờ thế cuộc,

Đầy vơi tròn khuyết có sai rầy.

(Cảm hoài, 6)

Tạo hoá một bầu xoay khí vận,

Đông qua xuân lại trở màu tươi.

(Cảm hoài, 8)

Tiêu trưởng cơ trời dễ dám khinh.

(Cảm hoài, 10)

- Trước cảnh mất nước, hy vọng những trang anh tài giúp vua giúp nước thống nhất sơn hà để lưu tiếng muôn đời:

Những trang dụng thế đành ngơ mặt?

Mấy kẻ trung quân nỡ phụ tình?

Bao thuở đem về cơ nhất thống,

Ngàn thu bia tạc đấng trung trinh.

(Cảm hoài, 1)

Mấy mặt anh hùng sao nép dấu?

Vạc nghiêng há dám một tay nâng?

(Cảm hoài, 2)

Trăm năm bởi gặp khi nguy biến,

Bốn biển chưa gây cuộc diễm tình.

Nhà nước một mai xoay vận thới,

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình.

(Cảm hoài, 10)

- Tâm sự thân phận cá nhân, gìn lòng ngay thẳng để chờ thời cơ giúp nước:

Trung trinh dốc trọn đạo vi thần,

Nạn khổ xưa nay biết mấy lần…

Cái nợ tang bồng than thở phận,

Đành đem dập giã giữa phong trần.

(Cảm hoài, 2)

Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,

Biết mượn tay ai gỡ mối phiền.

Áo mũ ba đời ơn rất trọng,

Binh qua một cuộc nghĩa chưa tuyền.

… Phấp phới bụi hồng đà trải dấu,

Tấm trinh chìu uốn thú hàn huyên.

(Cảm hoài, 3)

Hàn huyên nghĩ phận luống bâng khuâng,

Tình cảnh xem qua lệ ngập ngừng.

Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,

Dây oan rối mối hãy lo chừng…

(Cảm hoài, 4)

Như vầy trung nghĩa bấy lâu nay,

Dầu những người xưa cũng sánh tày.

Trướng vải lai rai cơn gió thổi,

Cảnh thu hiu hắt hột mưa bay….

(Cảm hoài, 6)

Sai rầy cũng bởi cuộc phân băng,

Huỷ dự nhân vì lúc ái tăng.

Gió bụi trăm chiều quen mặt cũ,

Đá bia một tiết giữ lòng hằng.

Hòn Nghê gọi chút tình mây nước,

Bến Nghé buồn riêng phận cỏ săng.

Cung kiếm cầm thi cam hổ phận,

Sao cho tỏ rạng bậc tài năng?

(Cảm hoài, 7)

Tài năng chi đó khéo trêu ngươi,

Cái phận nam nhi luống nực cười.

Ngược đậu xuôi đi hiềm thế nước,

Sâu dầm cạn vén thuận tình đời.

Quan san dặm thẳng đường liền bước,

Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người…

(Cảm hoài, 8)

Màu tươi sắc tốt dám se sua,

Giàu cũng chẳng khoe khó chẳng dua.

Mấy kỷ tuyết sương bền chí trẻ,

Chín từng mưa móc gội ơn vua.

Thuỷ lưu xa ruổi ngoài ngàn dặm,

Tòng bá cao xây giữa bốn mùa.

Lời sáng nết cao tuỳ thuở biến,

Mặc người lưỡi múa lại môi khua.

(Cảm hoài, 9)

Môi khua khéo học dạng cầu vinh,

Tiêu trưởng cơ trời dễ dám khinh.

Ấn hổ xa ban miền Bắc khuyết,

Cờ chiên an dẹp mé Nam minh.

Trăm năm bởi gặp khi nguy biến,

Bốn biển chưa gây cuộc diễm tình.

Nhà nước một mai xoay vận thới,

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình.

(Cảm hoài, 10)

Nếu xét trong toàn bộ sáng tác của Phan Văn Trị, rõ ràng thấy 10 bài Cảm hoài này vẫn còn hoài vọng tin tưởng về khả năng cứu nước của quan quân triều đình, nhân dân hay cả khả năng góp sức của cá nhân. Tâm sự này là tâm sự của một nhà nho yêu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lược. Nó giống với tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu “Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,/ Chúa xuân đâu hỡi có hay không” hay “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,/ Nỡ để dân đen mắc nạn này?”. Nỗi niềm này cũng khá phù hợp với chí khí quyết tâm giữ đạo luân thường, phê phán đả kích sự xu thời, đánh mất phẩm chất quân tử của Tôn Thọ Tường trong 10 bài thơ hoạ thơ Tôn của Phan Văn Trị.

Xét về tư tưởng nho học, từ nội dung của 10 bài Cảm hoài, cốt cách nho gia của Phan Văn Trị thể hiện ở chỗ: hoài vọng đất nước thanh bình, tư tưởng chờ đợi thời cơ “kiến cơ” (thấy máy), đợi vận thái “bĩ cực thái lai”, đầy vơi tròn khuyết “doanh hư tiêu trưởng”, là giữ đạo luân thường “đá bia một tiết giữ lòng hằng”, trau dồi đức sáng “lời sáng nết cao”, “tùng bá cao xây”,“giàu cũng chẳng khoe khó chẳng dua” (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất), gắng sức mình “dốc trọn trung trinh”, sẵn sàng dấn thân để báo đáp nước nhà ơn vua,… Hàng loạt các từ ngữ có tính tượng trưng cho việc thể hiện phẩm đức quân tử nhà nho được sử dụng trong thơ cho thấy tính nho rất rõ.

Trên cơ sở thông diễn học, nếu đọc kỹ từng câu chữ trong các bài Cảm hoài và thơ hoạ của Phan Văn Trị, ta thấy có mấy điểm cũng cần trao đổi, tìm hiểu thêm. Cảm hoài chính là bộc lộ những tâm trạng, nỗi lòng của tác giả trước thế sự, thời cuộc, tình hình đất nước. Việc giải mã các câu thơ ý thơ trong từng bài thơ đôi lúc có thể đi tới chỗ cực đoan, áp đặt và sai lệch. Tuy nhiên, nếu không lý giải nó sẽ khó để hiểu cho kỹ càng tư tưởng trong thơ. 10 bài thơ cảm hoài này, bởi các bản có chép khác nhau, nên sẽ được lý giải khác nhau dù chỉ sai khác vài chữ. Đọc kỹ từng bài để thấy tâm sự của nhà nho bộc lộ rất rõ, và bên cạnh đó, có thể có những lý giải hơi khác với các bản lý giải, chú giải trước đây.   

Bài Cảm hoài 1, sự cảm khái trước tình hình đất nước bị chiếm đóng, mong ước được thống nhất như xưa. Có thể diễn nghĩa ra là: “Cõi trời Nam đang yên bình, trời đất gây ra cuộc chiến tranh, xe giặc đi lại rộn ràng, dù thế mình vẫn phải lo vun bồi cho đất nước, những người hữu dụng trong đời sao đành làm ngơ, kẻ trung với vua đâu nỡ phụ tình cảm vua, biết bao giờ mới khiến cho nước nhà thống nhất để ngàn thu còn lưu tên người trung trinh”. Cho thấy lòng quan tâm và trách nhiệm của tác giả đối với đất nước, triều đình. Ông không hề có kiểu oán giận triều đình như giai thoại về ông với Phan Thanh Giản. Bốn câu thơ sau có thể hiểu theo hai nghĩa vừa chê trách (nếu để dấu !, nếu để dấu ? thì sẽ khác) vừa mong đợi.

Bài Cảm hoài 2, cảm thân phận mình lưu lạc ngay trong nước bị giặc chiếm đóng. Có thể diễn ra: “Đạo làm bầy tôi con dân phải dốc trọn hết lòng trung trinh, dầu xưa nay đã trải qua nhiều khổ nạn, ở trong nước đành phải phò vua trong nước (dù là vua kém, lợn Hán), oán giặc nên ra sức đuổi giặc (hươu Tần, giặc Tây), nhìn cảnh phương Nam tiêu điều vì vong quốc (hoa ủ), phía Bắc ngậm ngùi thương nhớ quê hương (bạch vân), than thở cho cái phận làm trai phải ra sức (dập dã) giữa cõi trần bụi bặm”. Bài này có thể nào là của một người ở quê phía bắc không? Hay bạch vân mây trắng kia chỉ là tượng trưng cho một đất nước thống nhất?

Bài Cảm hoài 3, trước cảnh gió bụi phải chịu theo thời. Tạm diễn nghĩa ra là: “Trong cơn gió bụi chiến tranh lòng ta có khi sầu buồn nhưng không biết làm sao, ba đời chịu ơn vua rất sâu nặng, một trận binh đao khởi nghĩa vẫn chưa thành, tạo hoá trêu người bày nhiều chuyện khó biết trước, anh hùng thiếu niên cũng còn nhiều thử thách, đường đời bụi bặm ta từng trải qua, tấm lòng trinh phải chịu uốn mình trong tình đời ấm lạnh”. Câu 3, 4 có người cho là nói chuyện cha con Phan Thanh Giản (như Bảo Định Giang). Hoặc có thể đây cũng là một bài thơ của người đã từng làm quan chăng? Câu ba đời chịu ơn vua sâu nặng cũng có người cho là ba đời Phan Văn Trị.

Bài Cảm hoài 4, trong cảnh ấm lạnh của tình đời vẫn quyết giữ mình, “độc thiện kỳ thân”. Tạm diễn nghĩa như sau: “Trong cảnh ấm lạnh cuộc đời bâng khuâng nghĩ về phận mình, nhìn thấy tình hình mà lệ tuôn, chưa phải lúc dứt hết cảnh roi vọt (chiến chinh?/hình phạt), hãy coi chừng thêm rối mối oan, đâu nỡ nghe tiếng loạn tà phải lánh đi rửa tai (bất hợp tác giặc/ở ẩn), luôn để mắt trừng mấy kẻ gian, sao chưa thấy anh hùng ra mặt, thế nước ngả nghiêng ta đâu dám một mình đỡ nâng!”. Có thể nào là tâm sự của một người từng bị án phạt và chịu nỗi oan khuất mà vẫn gìn lòng giúp nước chăng?

Bài Cảm hoài 5, cảm trách thế nước nghiêng ngả, một mình khó chống chọi. Có thể diễn nghĩa: “Một mình há dám đỡ được thế nước ngả nghiêng, kẻ bàn ngược kẻ bàn xuôi (kẻ bắc người nam) làm rối loạn lòng ta, chuyện đời (việc nước) rối ren như cờ bí nước, tình người thay đổi tựa gió lay cây, bởi mưu kế cứu nước kém nên phải hoà, chuyện cắt đất nên cứng rắn (kiên/ kiêng = không nên) để tỏ sức trí mạnh mẽ (chỗ này có người hiểu theo nghĩa chê trách, mỉa mai), thử hỏi những người trên cõi Việt có ai có tấm lòng sắt đá mà làm như thế không?”.

 Bài Cảm hoài 6, cảm người trung nghĩa gặp cơn nguy biến. Có thể diễn nghĩa như sau: “Người trung nghĩa đời này bấy lâu nay cũng sánh ngang với những người trung nghĩa xưa, nơi màn trướng (nhung trướng) chịu cảnh gió mưa hiu hắt (trong cảnh cô đơn), như thuyền nhỏ đi trên sông sâu sóng cả, như cọp xuống đồng bằng bị lũ chó vây hãm, nước non bị hãm như bàn cờ thế, quy luật tròn khuyết đầy vơi có sai đâu”.

Bài Cảm hoài 7, cảm cuộc đời vẫn hứa giữ vẹn đạo thường, đợi ra sức cho nước nhà. Có thể diễn nghĩa như sau: “Dẫu có sai cũng bởi thế cuộc chia lìa (nước mất nhà tan/phân băng), khen hay chê cũng là do lúc yêu hay ghét, ta đã quen với việc phong trần gió bụi trăm chiều, lòng vẫn nêu cao giữ vững một tiết đạo thường (ngũ luân, ngũ thường/vô hằng sản hữu hằng tâm), nơi hòn Nghê còn chút tình mây nước (ẩn), ở chốn Bến Nghé thêm buồn phận cỏ cây (bị giặc chiếm?), cam hổ thẹn phận nam nhi được dùi mài văn võ, mà chẳng biết làm gì để thêm tỏ rạng tài năng với nước nhà?”. Tâm sự này dường như của một người có tài văn võ nhưng trước thời cuộc xoay chuyển khó thi thố.

Bài Cảm hoài 8, tự trào về tài năng của mình, muốn được trở về quê ẩn dật, mong thời thế xoay đổi. Có thể diễn nghĩa ra sau đây: “Tài năng có là chi, trời thật trêu người, lại cười cho cái phận nam nhi, cứ theo thế nước nếu ngược thì đậu thuyền, xuôi dòng thì đi, sâu thì dầm, cạn thì vén cho thuận tình đời (tuỳ thời xử thế/ có người cho rằng có ý phê trách những kẻ tráo trở xu thời), cảnh cũ non sông còn chút tình hoài vọng (bản Bảo Định Giang)/dặm đường quan san ta cứ dong ruổi luôn (Đông Hồ, Nhất Tâm, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Khắc Thuần - Nguyễn Quảng Tuân), mảnh vườn xưa nơi quê nhà chắc đã nhớ ta, nếu trời xoay lại khí vận mới, như đông tàn xuân đến muôn hoa tươi sắc”. Có thể nào là thơ của một người đã làm quan muốn trở về quê cũ sau các nguy biến chăng?

Bài Cảm hoài 9, cảm vọng được đội ơn vua trở lại, mặc ai khen chê. Tạm diễn nghĩa ra sau: “Nếu được tươi màu trở lại cũng đâu dám khoe khoang, bởi tính giàu cũng không khoe, nghèo cũng chẳng dua nịnh (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di), mấy mươi năm dầu dãi tuyết sương thêm bền chí trẻ, được gội ơn mưa móc của vua nơi ngôi cao, ta vẫn như dòng nước trôi xa ngàn dặm (nguyên thêm lưu viễn), như cây tùng bách vẫn vươn xanh bốn mùa (quân tử tùng, kiên tâm bền chí), lời cốt sáng nết cốt phải cao theo thời mà biến (ngôn hạnh), mặc cho ai múa mỏ khua môi cầu vinh (siểm nịnh, xảo biện)”. Có thể nào là thơ của một nhà nho đã từng chịu ơn mưa móc của vua chăng?

Bài Cảm hoài 10, hy vọng về một tương lai đất nước thanh bình, góp sức cứu nước. Tạm diễn nghĩa như sau: “Kẻ khéo khua môi để cầu vinh thân, hãy nên sợ cơ trời doanh hư tiêu trưởng, khi ấn hổ (tướng ấn) đã ban nơi cửa khuyết (xa ban)/khi đeo ấn tướng băng nơi miền bắc (xa băng), lúc cầm cờ tướng đi dẹp yên cõi nam, trăm năm khi gặp cơn biến loạn, tiếc là bốn bể chưa tạo được sóng lớn, nếu nước nhà một mai xoay lại vận thái, toàn cõi Nam lại chung hưởng thái bình”.

10 bài cảm hoài thể hiện một nỗi lòng dường như của một nhà nho, một bầy tôi giữ trọng trách, bị bức bách trong thời cuộc đổi thay, có những khát vọng cứu nước, lại có ước mong lui ẩn, có hoài cảm nuối tiếc về tài năng, phê trách những kẻ xu thời cầu vinh… Một tâm trạng khá phức tạp nhưng lại khá thống nhất trong tư tưởng của nhà nho.

Dưới một hướng khác, về văn bản văn tự, 10 bài thơ cảm hoài này được viết bằng chữ Nôm miền Nam, nhưng việc chép trước hay sau hay cùng thời sáng tác lại là vấn đề cần bàn. Bởi tình hình văn bản sáng tác văn thơ ở Nam Bộ trước sau khoảng thời kháng Pháp và thuộc Pháp khá phức tạp, chủ yếu bằng con đường truyền miệng, các tập thơ văn sao chép có khi không ghi tên tác giả, tên người chép… khiến cho việc lý giải đích xác vài từ ngữ có phần khó khăn. Ví như:

“Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,/ Gây oan rối mối hãy lo chừng.” (Lâm Tấn Phác, tr.395)

“Roi vọt dứt lòng chưa phải vận,/ Dây oan rối mối hãy lo chừng.” (Nhất Tâm, tr.40)

“Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,/ Dây oan rối mối hãy lo chừng.” (Bảo Định Giang, tr.155)

Hoặc:

“Giao hoà bởi Tống mưu mô cạn,/ Cắt đất nên Kim trí lực dày” (Lâm Tấn Phác trên Nam Phong, 105-1926, tr.395)

“Giao hoà bởi sóng mưu mô cạn,/ Cắt đất nên kiên trí lực dày” (Nhất Tâm, 1959, tr.41)

“Giao hoà bởi sóng mưu mô cạn,/ Cắt đất nên kiêm chí lực dày” (Bảo Định Giang, 1976, tr.156)

“Giao hoà bởi sợ mưu mô cạn,/ Cắt đứt nên kiên trí lực dày” (Nguyễn Khắc Thuần-Nguyễn Quảng Tuân, 2001, tr.119)

Đó cũng là lý do các bản chú thơ hiện nay vẫn để trống nhiều câu chưa lý giải được. Tình hình văn bản nêu trên đã cho thấy tính phức tạp của việc lý giải xác định để mang lại văn bản tốt nhất và đặt đúng vào cho chủ nhân của nó, vì thế công tác chú giải, thuyên thích, khảo hiệu cần tiếp tục để ngày càng khẳng định tác phẩm của Phan Văn Trị.

Bản thân người viết cũng từng đã sưu tầm được một quyển thơ Nôm chép tay các bài thơ tiền bối, trong đó cũng không thấy đề tên tác giả. Khảo sát trong đó có chép những bài mà ta cho là của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa,… và nhiều bài thơ Nôm khác chưa biết ai là chủ nhân của nó.

Từ nội dung thơ Cảm hoài, người đọc cảm thấy nếu đây là thơ của Phan Văn Trị thì tính chiến đấu của nó chưa thể hiện cao độ như ở 10 bài hoạ thơ Tôn Thọ Tường hay ở các bài thơ vịnh vật của ông. Vì vậy, Đông Hồ Lâm Tấn Phác cho rằng 10 bài thơ này làm lúc Pháp mới chiếm Nam Bộ, tức là Phan Văn Trị lúc bấy giờ chưa hẳn bất mãn triều đình, ngả hẳn về phía nhân dân. Lại có người cho rằng nó được làm vào khoảng những năm 1885 bởi nó thể hiện niềm tin xoay chuyển sơn hà như Bảo Định Giang đã nghĩ. Dù là thời gian nào, tính nho trong Phan Văn Trị vẫn còn đậm hơn tính phi nho, giả sử không như thế, Phan Văn Trị sao có thể ẩn dật dạy học kiểu của một nhà nho “tiến vi quan thoái vi sư” hay như kiểu lời của Khổng Tử: “bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu” như Nịnh Võ Tử (Luận ngữ, Công Dã Tràng), “bang hữu đạo tắc sĩ, bang vô đạo tắc khả quyển nhi hoài chi” kiểu Cừ Bá Ngọc (Luận ngữ, Vệ Linh Công), “nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc ẩn. Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sĩ dã; bang vô đạo phú thả quý yên, sỉ dã” (Luận ngữ, Thái Bá).

Dầu sao, 10 bài thơ Cảm hoài đã thể hiện tinh thần khá mạnh mẽ, dứt khoát, không yếu đuối trước nạn ngoại xâm và tình thế đất nước bị chia cắt như kiểu Tự Đức: “Thương xích ngô dân bất hạnh nhi,/ Tinh chiên dị loại nhiễu biên thuỳ./ Phong đình chỉ kiến cầu hoà sách,/ Du tái vô văn báo tiệp kỳ./ Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu,/ Văn quan thoái lỗ khước vô thi./ Thiên tâm như dục khai bình trị,/ Thuỳ thị Hương hài Giáp Mã nhi.”[8] (Đau đớn dân ta bất hạnh này,/ Hôi tanh khác giống quấy biên tây./ Triều đình chỉ kế cầu hoà hiến,/ Biên ải không tin thắng trận về./ Tướng võ giải buồn trong cuộc rượu,/ Quan văn chống giặc chẳng thơ hay./ Lòng trời dẫu muốn cho bình trị,/ Ai kẻ anh tài trong buổi nay?) (trích Hiếu cổ đường thi tập - Lê Quang Trường dịch).

Không những thế Tự Đức còn có phần cam chịu “Hoà hiếu vu kim sự dĩ thành,/ Ngã cam nam đệ nhượng tây huynh… Cử quốc tận tri cân quắc nhục,/ Tại quan do luyến tử chu vinh./ Tống Cao bất giải mê Tần Cối,/ Không sử sơn hà xã tắc khinh.” (Hoà hiếu từ nay việc đã yên,/ Cam làm em nhỏ lũ Tây phiên… Nỗi nhục đàn bà, ai cũng biết,/ Quan tham đai mũ, vẫn còn chen./ Tống triều che mắt - mưu Tần Cối,/ Luống khiến sơn hà xã tắc nghiêng) và đổ lỗi cho thuộc cấp cả triều chẳng kể một ai sau khi ký hoà ước năm Nhâm tuất 1862, kéo dài đến năm Giáp tuất 1874 và Giáp thân 1884: “Nội ngoại quan liêu náo cẩm bào,/ Bất tằng trợ trẫm nhất ti hào./ Sổ hoàng bôi tửu quần lê huyết,/ Bán trản thanh trà vạn tính cao… Như kim thuỳ vị thương sinh mục,/ Đố quốc thương dân tại nhĩ tào.” (Áo gấm xon xen khanh tướng đầy,/ Chưa từng giúp trẫm chút mưu hay./ Máu pha chén rượu muôn dân đó,/ Mỡ váng bình trà trăm họ đây… Từ nay ai kẻ chăn dân trẫm?/ Hại nước hại người tại lũ bây) (Hiếu cổ đường thi tập - Lê Quang Trường dịch). Tự Đức đã không nhìn thấy hay cố tình không nhìn thấy những tác phẩm văn chương giai đoạn này tại Nam Bộ đã trở thành nguồn năng lượng tác động rất lớn đến sức mạnh chiến đấu trên cả hai địa vực chiến trận và tư tưởng. Điều mà Miên Thẩm nhìn thấy ở Nguyễn Đình Chiểu: “Điếu văn đọc lại áng biên cương,/ Ngỡ gió vi vu tiếng chiến trường./ Quốc ngữ văn ngang lời tín sử,/ Quỷ hùng phách sánh điệu từ chương./ Tầm vông áo vải danh còn mãi,/ Binh bại thân vong chuyện đã thường./ Canh cánh nghĩ thương lòng kẻ sĩ,/ Chỉ còn ngọn bút báo ơn suông.” (Độc Nguyễn Đình Chiểu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn, nguyên tác Hán văn, Cao Tự Thanh dịch) hay như Miên Ký, hoàng tử thứ 75 của vua Minh Mệnh cảm nhận: Lần đọc bài văn quốc ngữ đây,/ Cn Vương chống giặc, nghĩ thương tài./ Dng c khởi nghĩa muôn người đến,/ Pháo n phi thuyn vạn dặm mây./ Chiến địa oan hồn vang tiếng khóc,/ Sa trường chinh chiến luống còn ai?/ Áng văn điếu c vô cùng hận,/ Gió thổi điệu buồn thảm thiết thay!” (Độc Điếu nghĩa dân trận tử văn, nguyên tác Hán văn trong Hiếu Cổ đường thi tập. Lê Quang Trường, Tường Vi, Thanh Phương dịch).

Phan Văn Trị đã chọn con đường ấy, trên những gì tư liệu hiện còn, cho thấy ông đã vận dụng các tư tưởng nho học để ứng xử trước một thời cuộc mới với nhiều biến cố. “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” cho nên Phan Văn Trị đã không trở thành chiến sĩ trên mặt trận thực địa đánh giặc trực tiếp, mà trở thành một nhà thơ nhà giáo dùng ngòi bút của mình để cứu đời như Nguyễn Đình Chiểu. Tiếc là, tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị còn vài điểm chưa được sáng tỏ, nên việc vận dụng thông diễn học, thuyên thích học chú giải thơ của ông chưa thể hữu hiệu nhất, cần tiếp tục nghiên cứu. Nhưng không thể phủ nhận những bài cảm hoài ấy là tiếng nói tâm sự, những phê trách khá mạnh mẽ, một quyết tâm giữ vững chính khí trước thời cuộc thay đổi điên đảo của một nhà nho quân tử hết lòng vì đất nước. Vì thế nó xứng đáng được tồn tại trong bộ phận thơ ca yêu nước Nam Bộ nói riêng và trong dòng chảy của cả nước nói chung.

PGS. TS. Lê Quang Trường*

Nguồn trích từ: Danh nhân Phan Văn Trị, một thế kỷ nhìn lại, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2020, tr.100-116.


* Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM. 

 

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân. (2001). Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ.

Thất Hiền Cuồng Sĩ. (n.d.). Sưu tập cổ thi văn.

Lê Quang Chiểu. (1903). Quốc âm thi hiệp tuyển. Sài Gòn: Claude & Cie.

Bảo Định Giang. (1976). Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn học giải phóng.

Nguyễn Q. Thắng. (1990). Tiến trình văn nghệ miền Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp An Giang.

Nguyễn Văn Hầu. (2012). Văn học miền Nam lục tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Nguyễn Liên Phong. (2014). Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca. (T. N. Cao Tự Thanh, Ed.) Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Văn hoá - Văn nghệ.

Cao Xuân Dục. (1893). Quốc triều hương khoa lục. Đại Nam: Quốc sử quán triều Nguyễn.

Nhất Tâm. (1956). Phan Văn Trị (1830-1910), Phụ: Học Lạc - Nhiêu Tâm. Sài Gòn: Tân Việt.

Miên Ký. (n.d.). Hiếu Cổ đường thi tập. Hồ Chí Minh: Phòng Nghiên cứu Hán Nôm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

 


[1] Bảo Định Giang, Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn học giải phóng, 1976, tr.116-120, 116-160

[2] Nguyễn Văn Hầu, Văn học miền Nam lục tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2012, tr.178-217.

[3] Nguyễn Q. Thắng, Tiến trình văn nghệ miền Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp An Giang, 1990, tr.96-100.

[4] Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Cao Tự Thanh – Trương Ngọc Tường chỉnh lý, chú thích và giới thiệu. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Văn hoá – Văn nghệ, 2014, tr.171-172.

[5] Lê Quang Chiểu, Quốc âm thi hiệp tuyển. Sài Gòn: Claude & Cie, 1903, 98 trang.

[6] Tư liệu của Phan Thành Tài, dẫn lại từ Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2001, tr.61-64.

[7] Các trích dẫn thơ dưới đây được lấy theo Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2001, tr.114-125.

[8] Hương hài Giáp Mã nhi: đứa trẻ thơm ở doanh Giáp Mã, chỉ Triệu Khuông Dận, thời Tống. Do lúc Triệu Khuông Dận sinh ra, hoa mẫu đơn trong nhà nở rộ, ngát hương nên lấy tên Đứa bé thơm (Hương hài) đặt cho. Khuông Dận thuở nhỏ không thích sách vở chỉ thích luyện tập võ nghệ, sau làm nên nghiệp lớn, dựng triều Tống.

Lý do khiến Phan Khôi (1887 - 1959) phải tìm gặp bằng được Vũ Hoàng Chương - tác giả “Bài ca sông Dịch” - là sau khi ông được nghe đọc bài thơ này.

20210102 3

Phan Khôi (1887 - 1959) và Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976). Ảnh: TL


Ngày 6.7.1946 Phan Khôi ra tới Hà Nội để dự Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ nhất, dự định khai mạc vào đầu tháng 8, nhưng do tình hình chiến sự ngày một căng thẳng, Hội nghị phải lùi đến ngày 24.11. Phải chờ đợi chừng đó thời gian là một cực hình đối với Phan Khôi, nhưng ông ra Hà Nội là để dự Hội nghị, thì cứ phải chờ thôi.

Kể từ năm 1941 Phan Khôi gác bút, từ Sài Gòn về quê, ông chưa có dịp trở ra Hà Nội, cũng không có điều kiện quan tâm đến đời sống văn nghệ ở đất Hà thành. Bây giờ phải chờ đợi đến mấy tháng mới tới ngày Hội nghị, tự nhiên bị rơi vào cảnh vô công rỗi nghề, ngày rộng tháng dài, nên ông tận dụng bằng hết thời gian, không bỏ sót một cuộc họp mặt nào của giới trí thức và văn nghệ sĩ cả nước đang tề tựu về Hà Nội để dự Hội nghị như ông.

Ông có mặt trong ngày giỗ Vũ Trọng Phụng do Nhà xuất bản Minh Đức tổ chức trong dịp ra mắt tiểu thuyết Số đỏ của cố nhà văn. Ông tham dự buổi liên hoan của trí thức và văn nghệ sĩ Hà Nội tổ chức để chào đón trí thức và văn nghệ sĩ Trung - Nam - Bắc. Ông ngồi với tốp này, ngồi với người kia ở bất cứ chỗ nào, vào bất cứ lúc nào để thăm hỏi, để đàm đạo chuyện làng văn, làng báo.

Những cuộc gặp mặt lớn, nhỏ đó giúp ông nhận thấy một điều lạ, là người ta bàn luận rất nhiều về các quan niệm văn nghệ khác nhau, như hồi trước đã có một dạo bàn luận trên mặt báo về “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” vậy.

Hồi này thấy giới “nghệ thuật vị nhân sinh” như là thắng thế, nhiều người lớn tiếng cổ xúy cho một nền văn nghệ chỉ nhằm phục vụ cho giới cần lao. Có người mới hôm qua còn là trí thức như ông, tôn trọng tự do cá nhân như ông, thì nay tuyên bố từ bỏ tự do cá nhân để chỉ sáng tác phục vụ cho công nhân, cho nông dân.

Ông chưa hiểu ra thế nào, chỉ thấy nếu không có tự do thì sẽ không có văn nghệ, đơn giản thế thôi. Mấy năm vừa qua phe Trục làm mưa làm gió, với những Đức, Ý, Nhật đã chẳng chứng tỏ điều đó rồi sao? Chính chế độ phát xít và nền độc tài đã giết chết văn nghệ. Trong các cuộc gặp gỡ, một đôi lần nghe phải những điều chướng tai, ông cũng định trao đổi lại đôi câu, nhưng rồi thấy mình là khách, làm thế không tiện, nên thôi.

Ngày nay, chúng ta cần thấu hiểu Phan Khôi ở một điểm rất quan trọng, đó là cái cách hiểu của ông về chủ nghĩa cá nhân, cụ thể là tự do cá nhân; trong văn nghệ, là tự do sáng tác. Ngay từ những năm 30 thế kỷ trước, dưới ách cai trị của triều Nguyễn và chế độ bảo hộ của người Pháp ở Việt Nam, Phan Khôi đã hiểu đúng nội dung chủ nghĩa cá nhân của xã hội phương Tây đương thời.

Trong các bài báo của mình, ông đã cố gắng diễn đạt để người Việt Nam hiểu đúng về chủ nghĩa cá nhân mà ở xã hội phương Tây thời đó người ta đang chủ trương và đang sống trong các nguyên tắc của nó; cụ thể là nhân quyền, là quyền và lợi ích hiển nhiên của cá nhân mỗi người trong xã hội. Không ai và không thế lực nào được phép tước bỏ các quyền thiêng liêng đó của mỗi người.         

Một số sách đã xuất bản tập hợp từ các tác phẩm của Phan Khôi. Ảnh: TL


Trong một buổi liên hoan, kịch sĩ Hoàng Cầm được Ban tổ chức đề cử ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Trung - Nam - Bắc. Tình cờ trong bốn bài thơ ấy có Bài ca sông Dịch của Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976), một nhà thơ trẻ mà ông chỉ mới nghe tên chứ chưa biết mặt.

Ngồi nghe đọc bài thơ, Phan Khôi rất cảm kích, ông nghĩ tác giả phải là người thế nào mới sáng tác được một bài thơ hào hùng đến như vậy và nóng lòng muốn được gặp mặt tác giả ngay. Với một người như Phan Khôi, không dễ gì có chuyện đó xảy ra bởi một bài thơ khác, bởi một tác giả khác! Qua cử chỉ đó của ông, có thể hiểu giá trị của bài thơ và tài năng thơ của Vũ Hoàng Chương. Nếu không, làm gì Phan Khôi lại phải nhọc lòng đến thế!

Đối với Vũ Hoàng Chương thì lại khác. Ngay từ khi bước chân vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của người cầm bút, Vũ Hoàng Chương đã nghe đại danh ông Tú Phan Khôi như sấm dậy vang tai. Nhưng phải chờ đến cuối mùa thu năm Bính Tuất (1946) ấy, Vũ Hoàng Chương mới dó dịp cùng Phan Khôi hạnh ngộ tại Hà Nội. Với thi sĩ họ Vũ, buổi nhất kiến đó như đã được định trước bởi duyên trời!

Hôm đó mới cuối thu mà cái lạnh như đã thấm vào lòng người thi sĩ vốn ưa họp bạn ngâm văn. Để thỏa nỗi nhớ bạn văn, Vũ Hoàng Chương từ Nam Định đáp xe lửa lên Hà Nội để tự cởi mở lòng mình theo niềm hứng khởi, để được hòa vào nhịp sống vừa tao nhã vừa sôi động của đất ngàn năm văn vật, của hồ Trúc, của sông Hồng.

Bước xuống ga Hàng Cỏ, nhà thơ đi về trụ sở Ban kịch Đông Phương. Ông lấy làm tiếc lắm vì buổi liên hoan bắt đầu từ năm giờ chiều, mà lúc ông đặt chân lên vỉa hè phố Hàng Lọng thì ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.

Vũ Hoàng Chương ngồi cùng họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện chưa đi hết một tuần trà, thì Nguyễn Tuân đã lừng lững hiện ra từ cái cầu thang dẫn lên gác. Nguyễn Tuân lấy bộ trịnh trọng, lên tiếng:

- Xin lỗi toàn thể Ban kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ quân đây!

Vừa nói, Nguyễn Tuân vừa đưa tay hướng về phía Vũ Hoàng Chương. Mọi người phá lên cười, có tiếng trả lời:

- Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!

Thế là Vũ Hoàng Chương cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường. Nguyễn Tuân nói giọng quan trọng, vừa đủ nghe:

- Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Sao, đi chứ?

Nói rồi, không đợi Vũ Hoàng Chương trả lời, Nguyễn Tuân vẫy luôn một chiếc xe kéo, rồi lệnh cho “cọp” lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi Thế Lữ có một túp nhà. Đến nơi, Nguyễn Tuân chỉ tay về phía một ông già cao gầy, vai rộng, râu dài, mắt sáng, mặc bộ vét phẳng phiu, đầu đội mũ phớt, tay chống ba toong, có vẻ như đang nóng lòng đợi ai.

Linh tính giúp Vũ Hoàng Chương nhận ra đó là Phan Khôi, trong lòng không khỏi hồi hộp pha chút ngại ngùng. Thế nhưng cái phút hai người họ - một già một trẻ - nhìn mặt, cầm tay thật đã hào hứng phi thường. Đó là lần đầu tiên Vũ - Phan hạnh ngộ, để rồi không lâu sau đó, con tạo xoay vần, bể dâu thay đổi, biến cuộc hạnh ngộ bắt đầu từ phút ấy trở thành duy nhất cho cả hai người!

Hai người họ nói chuyện thâu đêm suốt sáng, toàn chuyện văn. Chiều hôm sau, Vũ Hoàng Chương ngỏ lời cáo biệt để về lại Nam Định khiến Phan Khôi trầm ngâm nửa khắc, gương mặt lộ rõ vẻ tiếc nuối, bởi đối với ông, câu chuyện chỉ vừa mới bắt đầu, còn dang dở. Ông quyết định ngay, giọng dứt khoát:

- Được, hai ta sẽ cùng đi!

Vũ Hoàng Chương mừng thầm, tự nhủ: “Thế là gió đã lên!”. Rồi bắt chước kiểu Nguyễn Tuân “mượn tạm” mình ở Ban kịch Đông Phương, ông chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép Ban kịch Thế Lữ cho “mượn tạm” ông Tú Khôi ít bữa(1). Rồi cùng Vũ Hoàng Chương, Phan Khôi đáp tàu lửa thẳng đường về bến Vị, non Côi, mảnh đất không mấy xa lạ với ông từ bốn mươi năm trước, lúc còn đầu xanh tuổi trẻ, đã tìm đến nhà thầy Nguyễn Bá Học để học tiếng Pháp. Mươi năm nay mảnh đất đó còn trở nên gần gũi với ông hơn vì nó là quê hương người vợ hai do ông tự chọn cho mình sau này!

Xuống ga Nam Định, Vũ Hoàng Chương mời Phan Khôi ngồi xe kéo về phố Bờ Sông, chui vào một căn gác xép dài như cái ống và tối như cái “hũ Xuân Thu”, đó là theo nhà thơ tả lại như vậy. Ông nhận thấy Phan Khôi rất hào hứng, vẻ như trẻ lại, và hai người coi đây mới thực sự là thời gian dành riêng cho họ, chứ không như một đêm với nửa ngày trên nhà Thế Lữ ở bãi Phúc Xá Hà Nội, người đông quá, ồn ào quá.

Vũ Hoàng Chương (1915 - 1976). Ảnh: Đặng Tiến sưu tầm


Ngồi trước người bạn trẻ, Phan Khôi không hề giấu giếm nỗi cảm kích của mình đối với Bài ca sông Dịch. Ông thẳng thắn nói rằng: nghe đọc bài thơ, là ông thấy thú tác giả liền! Tự coi mình là kẻ trẻ người non dạ, Vũ Hoàng Chương thật lòng không dám nhận lời khen đó. Ông cố hiểu rằng Phan Khôi bảo thú là thú cái tinh thần hào hiệp, cái lòng can đảm của người anh hùng đã quyết một đi không trở lại, của người anh hùng đã đánh đổi tính mạng mình trong vụ giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia, chứ đâu phải thú tác giả bài thơ!

Vũ Hoàng Chương nhận thấy lời bộc bạch chân tình đó của Phan Khôi đã nói lên tất cả con người ông! Phan Khôi hỏi về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, Vũ Hoàng Chương kể rằng ông bắt đầu thai nghén Bài ca sông Dịch từ năm 1940 kia, nhưng chưa kịp động bút vì các đề tài khác cứ cuốn ông đi. Nhưng rồi Ban kịch Thế Lữ thúc đẩy ông bằng mọi phương tiện để bài thơ sớm chào đời, vì vậy mà nó ra đời năm 1943. Lập tức Ban kịch Thế Lữ mượn bài thơ làm lời khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc (1899 - 1976) trong năm đó được công diễn tại Hà Nội.

Nhắc đến Thế Lữ và Ban kịch Thế Lữ, câu chuyện của hai người họ càng có cái vẻ hào hứng lạ. Phan Khôi bảo đó là chỗ quen biết cũ của ông, và mới năm ngoái đây, Thế Lữ dẫn ban kịch của mình vào Bảo An diễn liền mấy tối, ông mời cả đoàn về nhà mình ăn ở rất vui vẻ. Còn Vũ Hoàng Chương thì nói không hiểu sao cái Ban kịch đó lại cũng rất có duyên nợ với mình, cái duyên đó cũng lại diễn ra lần nữa hồi năm 1944 đây thôi.

Năm đó, Thế Lữ đề nghị Vũ Hoàng Chương viết lời khai từ cho vở kịch Nguyễn Thái Học, hạn bốn mươi tám giờ phải hoàn thành, để kịp công diễn. Như có phép thần nhập vào ngòi bút, nguồn cảm hứng mỗi phút một dâng trào, nhà thơ cắm cúi trên trang giấy suốt đêm, đến nỗi trời sáng lúc nào không hay, thì cũng vừa làm xong bài thơ Trả ta sông núi dài 120 câu!

Lời khai từ hùng hồn vang lên trong đêm diễn vở kịch Nguyễn Thái Học hôm đó khiến cho kẻ thù khiếp sợ, bọn hiến binh Nhật xộc vào rạp gây khó dễ, nhưng nhờ tài chống chế của đạo diễn, chúng buộc phải rút lui và đêm diễn lại tiếp tục trong sự hân hoan nức lòng của người xem. Nghe chuyện, Phan Khôi lấy làm thích thú lắm. Ông thấy quả là mình nhìn người không sai, anh bạn trẻ này là người có tài thơ rất đáng khâm phục.

Rồi câu chuyện của họ, khởi đầu từ Bài ca sông Dịch, chuyển sang hai nhân vật lịch sử Tần Thủy Hoàng, Kinh Kha cùng cuộc hành thích bất thành, khiến Kinh Kha phải bỏ mình. Câu chuyện về lịch sử của nước Trung Hoa cổ đại cũng không kém phần hào hứng vì là sở đắc của cả hai người, chưa kể là nó đã trở thành đề tài cho một bài trường thi mà mới được nghe đọc lần đầu, Phan Khôi đã cho là rất hay.

Tần Thủy Hoàng (259 - 210 TCN) vốn có tên Doanh Chính, là vua thứ 36 của nước Tần, là hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa do chính tay ông ta làm cuộc thống nhất sau khi giành chiến thắng trong cuộc Chiến quốc thất hùng, thôn tính sáu nước Hàn, Ngụy, Sở, Tề, Triệu, Yên vào năm 221 TCN. Doanh Chính nối ngôi vua nước Tần năm 13 tuổi - gọi là Tần vương - làm hoàng đế Trung hoa năm 38 tuổi, là người khởi đầu của nhà nước phong kiến Trung Hoa thời cổ đại cho đến khi nó sụp đổ ở triều Mãn Thanh năm 1912.

Sau khi xưng đế, Tần Thủy Hoàng ban bố hàng loạt cải cách lớn về kinh tế, chính trị và xã hội: thiết lập hệ thống quan lại ở địa phương do triều đình chỉ định (thay vì phân chia ban tước cho các quý tộc như trước đây); cho phép nông dân sở hữu đất đai; thống nhất hệ thống đo lường, tiền tệ; xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ; tiến hành nhiều đại dự án: như đặt nền móng cho việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành, kênh Linh Cừ, cung A Phòng, lăng mộ Tần Thủy Hoàng được bảo vệ bởi đạo quân đất nung hàng ngàn người; chinh phạt phương Nam mở rộng lãnh thổ.

Dưới bàn tay tàn bạo của Tần Thủy Hoàng, tất cả được tiến hành với cái giá đắt của hàng triệu, triệu sinh mạng. Để dập tắt sự phản ứng của nhân dân và áp đặt tư tưởng Pháp gia, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh thiêu cháy vô số những pho sách quý, chôn sống nhiều học giả.

Với 37 năm trị vì, Tần Thủy Hoàng xưng vương 25 năm, xưng đế 12 năm, chết vì ngã bệnh năm 49 tuổi, có vô số thê thiếp và khoảng 50 người con, nhưng sử sách không nhắc đến tên một người vợ nào. Dù làm Tần vương Chính hay làm Tần Thủy Hoàng, thời nào ông ta cũng có rất nhiều kẻ thù, đã ba lần bị hành thích, nhưng vẫn bảo toàn được mạng sống. Lần thứ nhất, năm 227 TCN bởi Kinh Kha. Lần thứ hai, bởi Cao Tiệm Ly. Lần thứ ba, năm 218 TCN bởi Trương Lương(2).

Còn với Kinh Kha thì thiên Thích khách liệt truyện trong bộ Sử ký của Tư Mã Thiên cũng có chép cả. Kinh Kha người nước Vệ, là môn khách của Thái tử Đan nước Yên. Thái tử Đan là bạn của Doanh Chính, nhưng Tần vương Chính cũng không tha trong công cuộc chinh phạt sáu nước láng giềng. Khi quân Tần tiến sát biên giới nước Yên, vì sức yếu, Thái tử Đan lập mưu ám sát Tần vương Chính, chứ không tổ chức chiến đấu chống lại, và giao Kinh Kha thực hiện.

Có một vị tướng nhà Tần là Phàn Ư Kỳ từng bị Tần vương Chính cho thất sủng, cũng là môn khách của Thái tử Đan. Tần vương Chính rất tức giận Phàn Ư Kỳ, một hai muốn lấy đầu Kỳ bằng được. Biết vậy, Phàn Ư Kỳ quyết định tự sát để Kinh Kha lấy thủ cấp của mình làm vật làm tin để tiếp cận Tần vương Chính. Khi lên đường, tới bờ sông Dịch thuộc biên giới nước Triệu, Kinh Kha ứng tác hai câu thơ để tiễn biệt đoàn người đưa tiễn:

Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê

Tráng sĩ một đi không trở về

Cùng đi với Kinh Kha có Tần Vũ Dương. Vật làm tin với Tần vương Chính là thủ cấp của Phàn Ư Kỳ và tấm bản đồ nước Yên được cuộn tròn lại, bên trong giấu một thanh chủy thủ. Bước chân vào triều đình nhà Tần, Kinh Kha bưng thủ cấp Phàn Ư Kỳ, Tần Vũ Dương bưng cuộn bản đồ nước Yên. Tự dưng Tần Vũ Dương hoảng sợ, mặt biến sắc, Kinh Kha vội cầm lấy cuộn bản đồ trong tay Tần Vũ Dương để tự mình dâng nộp cho Tần vương Chính. Khi mở cuộn bản đồ ra, Kinh kha rút thanh chủy thủ đâm Tần vương Chính, nhưng trượt, binh lính Tần xông vào giết chết Kinh Kha(2).

Tranh Kinh Kha ám sát Tần Vương được người đời sau vẽ lại. Ảnh: TL


Cái chết oanh liệt của Kinh Kha thức tỉnh lòng dân trước mọi thứ cường quyền. Dân chúng bảy nước Tần, Hàn, Ngụy, Sở, Tề, Triệu, Yên; cho đến dân chúng của nước Trung Hoa thống nhất sau này; đều coi Tần Thủy Hoàng là bạo chúa và tôn vinh Kinh Kha là vị anh hùng. Đã có biết bao thiên truyện, bài thơ, vở kịch, phim điện ảnh, phim truyền hình… của Trung Quốc và của các nước ca ngợi cái chết bất tử của Kinh Kha.

Vở kịch Kinh Kha được công diễn tại Hà Nội năm 1943 với lời khai từ là Bài ca sông Dịch của Vũ Hoàng Chương, gây được tiếng vang lớn, là một ví dụ sinh động cho việc cổ võ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam đứng lên đánh đuổi mọi thứ giặc ngoại xâm.

Sau một khoảng lặng đầy suy tư giữa câu chuyện, Phan Khôi đề nghị Vũ Hoàng Chương cho ông được nghe một lần Bài ca sông Dịch(3) do chính tác giả của nó đọc. Vũ Hoàng Chương như được nhập thần, lúc khoan thai, lúc dồn dập, ông đọc từng câu, từng chữ với giọng vừa ấm, vừa nóng, vừa như có tiếng gươm khua lạnh người trong đó:

Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu

Bàng bạc trường giang lạnh khói

Đìu hiu điệp khúc ly sầu

Đã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch

Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Đông Châu

Ôi sông ngát dư linh! trải bao đời có biết

Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu

Phải chăng ngươi! phải chăng kìa dấu vết

Tình anh rờ rỡ ngàn sau

Nước trôi đây nước trôi bờ cõi Việt

 Âm u gợn tiếng ghê màu

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu

Kinh Kha hề Kinh Kha

Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách

Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca

Biên thùy trống giục

Nẻo Tần sương sa

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà

Buồn xưa giờ chưa tan

Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn

Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới

Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên

Nhịp vó câu nẻo Hàm dương tung bụi

Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên

Tám phương trời khói lửa

Một mũi dao sang Tần

Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ thây ngã hai bên

Một triều rối loạn ngai vàng xô nghiêng

Áo rách thân rung hề ghê hồn bạo chúa

Hùng khí nuốt sao Ngâu hề nộ khí xung thiên

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ

Hiệp sĩ Kinh Kha hề người thác đã nên

Ta há quan tâm gì việc thành hay bại

Thế gian ơi kìa bãi bể nương dâu

Cung điện Hàm Dương ba tháng đỏ

Thành xây cõi dựng là đâu

Nào ai khởi nghiệp đế

Nào ai diệt chư hầu

Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư

Dù lăng ngà hay cỏ khâu

Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa

Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu

Một nét dao bay ngàn thuở đẹp

Dù sai hay trúng cũng là dư

Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại

Đã trùm lấn Yêu Ly hề át Chuyên Chư

Ôi Kinh Kha

Hào khí người còn sang sảng

Đâu đây lòa chói giấc mơ

Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn?

Gương anh hùng vằng vặc sáng thiên thu!

Vũ Hoàng Chương đọc xong bài thơ dài, cả hai người ngồi lặng! Rồi câu chuyện của họ lại tiếp tục, và không biết từ lúc nào, câu chuyện đang từ một sự tích của lịch sử cổ đại, bắt sang câu chuyện văn nghệ của nước Việt Nam thời hiện tại với nỗi quan tâm của cả hai: rồi ra, tương lai của văn nghệ nước nhà sẽ đi về đâu? Hai người, một già một trẻ, sẵn sàng nghe nhau, nhưng cũng sẵn sàng tranh luận với nhau, không dễ dàng nhượng bộ.

Chuyển qua câu chuyện văn nghệ, Phan Khôi như sống lại cái không khí văn nghệ mấy tháng vừa qua ở Hà Nội; cảm xúc của ông tuôn trào, ông cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc như chém đinh chặt sắt. Ông bày tỏ sự căm thù bạo lực, sự phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu.

Vũ Hoàng Chương ngồi nghe, thấy Phan Khôi có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tang bất khuất, cộng thêm khối kiến thức sâu rộng của một bản lĩnh lịch lãm, giang hồ. Lắm lúc Phan Khôi nói như gào, như quát, giọng cứ sang sảng lạnh người. Nhiều lần ông nhắc đi nhắc lại:

- Không thể được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ. Thiếu tự do, thà ném bút đi, cầm lấy một mũi nhọn khác!

Vũ Hoàng Chương ngồi nghe ông nói mà không khỏi nghĩ thầm trong bụng: phải chăng hào khí Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? Không, còn hơn thế! Lòng phẫn nộ của Phan Khôi còn có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ một đi không trở lại trên bến Dịch nữa kia(1)!

Trong cái dài dằng dặc và tối mò mò của căn gác xép hình ống ở phố Bờ Sông, mới đó mà câu chuyện của hai văn nhân đã tiêu béng mất hai ngày dài và hai đêm trắng. Rồi cũng đến lúc họ tạm biệt nhau để Phan Khôi trở về Hà Nội. Tàu chuyển bánh, ông rời ga Nam Định, nơi có người bạn trẻ tài danh mới quen mà đã trở thành tri âm, tri kỷ; ông biết rằng mình khó mà quên được con người ấy. Cũng như vậy, Vũ Hoàng Chương nghĩ rằng: người bạn già ấy, buổi hạnh ngộ ấy, ông lại có thể quên được ư? Rồi đây cả đời ông sẽ còn ghi nhớ mấy ngày ngắn ngủi của tháng 9.1946 ấy, tính chi li thì vừa đúng 13 tháng trời kể từ ngày triều Nguyễn bị chấm dứt!(1)

Về Vũ Hoàng Chương, trong cái lưng vốn học vấn ít ỏi của mình, tôi không thấy có bóng dáng của ông! Đôi điều được biết từ ghế nhà trường về nhà thơ lại là những điều chẳng hay ho gì, đáng bị rũ sạch đi cho rảnh. Hồi đó đi học, tôi bị gieo vào cái đầu non nớt của mình rằng ông là nhà thơ của rượu, của gái, của say, của trụy lạc.

Câu thơ của Vũ Hoàng Chương được trích dẫn mà chúng tôi nhớ đến thuộc lòng, là: Say đi em! / Say đi em! / Say cho lơi lả ánh đèn / Cho cung bậc ngả nghiêng, cho điên rồ xác thịt! / Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết! (1940). Tôi có biết đâu, dù cuộc đời có dẫn ông đi muôn nẻo và buộc ông kiếm sống với đủ thứ nghề, thì từng giây từng phút của cuộc đời ông đều dâng mình cho thơ, với sức viết phi thường: mười lăm tập thơ với hơn năm trăm bài thơ, cùng ba vở kịch thơ Trương ChiVân muội và Hồng Diệp; ông hai lần được Giải thưởng văn chương (Sài Gòn, 1959 và 1972), được tôn vinh là Thi bá Việt Nam.

Điều tôi nhắc lại ở đây là một bằng chứng bác bỏ cách nhìn nhận, đánh giá về nhà thơ Vũ Hoàng Chương theo lối thiển cận, sai lệch, đầy ác ý và tất cả đều nằm ngoài khung trời xanh của thơ ca. Trong thời khắc hết sức ngặt nghèo của Tổ quốc, của nhân dân trước họa xâm lăng từ các loại kẻ thù, Vũ Hoàng Chương đã dốc cạn lòng yêu nước của mình để sáng tác hai bài trường thi bất hủ. Hai bài trường thi đó là lời khai từ - lời mở đầu - cho hai vở kịch lịch sử của những người yêu nước ở Hà Nội thời đó.

Trong văn giới lúc đó, có ai làm được như ông?

Sau cuộc hạnh ngộ cuối mùa thu năm 1946, cuộc đời dẫn Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương mỗi người đi một ngả. Vũ Hoàng Chương lúc ở Hà Nội, lúc ở Thái Bình, Nam Định, làm nhiều nghề mà nghề chính là dạy học, nhưng trên tất cả là ông dâng mình cho thơ. Còn Phan Khôi thì tự ông đi thẳng lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp chứ không ai bắt buộc, cũng không ai rải thảm đỏ đón chào. Sau đó mấy năm, còn có một sự kiện nữa xảy ra giữa hai người, rồi bặt vô âm tín, cho đến lúc chết hai người họ không còn gặp nhau lần nào nữa.

Chính cái sự kiện đó đã biến cuộc hạnh ngộ của Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương vào mùa thu năm 1946 ở Hà Nội, trở thành cuộc gặp gỡ tri âm của hai người tri kỷ. Thiển nghĩ, cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi, của Vũ Hoàng Chương đã đi vào văn học sử nước nhà, thì cuộc gặp gỡ tri âm của họ cũng rất đáng được ghi lại vì nó thật là hiếm có! Muốn lý giải ngọn ngành sự kiện đó, tôi đã phải lần theo từng bước đi của Phan Khôi trên Việt Bắc thông qua một số bài thơ của ông.

Phan Khôi (người đội nón) chụp chung với Tố Hữu (bìa phải), Văn Cao (bìa trái) và Tú Mỡ tại Việt Bắc - Ảnh: TLGĐ


Phan Khôi là nhà báo tự do, ông đề cao tự do cá nhân, đề cao tự do sáng tác; nhưng từ Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ nhất cùng bản Đề cương Văn hóa Việt Nam với ba nguyên tắc Dân tộc - Khoa học - Đại chúng, mà ông là người có can dự, thì ông biết cuộc đời mình rồi đây sẽ phải đổi khác, nhưng ông không mấy bận tâm. Lúc đó, ông chỉ chăm chăm một điều, là thế nào giặc Pháp cũng sẽ quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, và ông cần Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thật tâm đánh Pháp, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia.

Được như thế thì ông ủng hộ, thì ông sẽ đi cùng để góp chút sức lực còn lại. Và quả có thế thật! Đêm 19.12.1946, đang trú trong nhà một người dân ở Láng, ông được trực tiếp chứng kiến hơn 60 phát đại bác của ta từ Pháo đài Láng bắn vào nội thành Hà Nội, mở đầu cho cuộc kháng chiến, đã xác nhận quyết tâm đánh Pháp của Chính phủ Việt Minh, khiến ông quên cả tuổi già, vừa hăm hở, vừa bươn bả lao theo, với quyết tâm đánh đến khi nào thắng mới thôi.

Mùa hè năm 1947, nghe có nhiều lời bàn không nên tiếp tục đánh Pháp vì chúng mạnh lắm, không thể thắng chúng được, chi bằng điều đình với chúng có khi lại hơn, ông liền phản đối. Ông ngồi viết luôn bài Cứ đánh đi, không điều đình gì hết, rồi gửi ngay cho báo Cứu quốc. Có thể nói Phan Khôi gạt hết tất cả lại phía sau, đi kháng chiến với tâm trạng phơi phới, quên cả tuổi già, ông như trẻ lại với cuộc kháng chiến của dân tộc!

Năm 1947, cơ quan Đoàn Văn hóa Kháng chiến nơi ông làm việc đóng trụ sở tại xã Xuân Áng, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Lần đầu tiên sống ở vùng đất trung du lắm núi nhiều đồi, lắm sông nhiều suối, vốn là vùng đất cổ, là trung tâm sinh tụ đầu tiên của nước Đại Việt thời Âu Lạc, cư dân đông đúc, phong tục thuần phác, khiến ông rất xúc động.

Ông quên đi cuộc sống thiếu thốn, kham khổ để thả hồn thơ còn nguyên vẹn của mình vào hai bài thơ chữ Hán Xuân Áng tức cảnh 1 và Xuân Áng tức cảnh 2. Năm 1975, tại Sài Gòn, nhà thơ Đông Xuyên dịch hai bài thơ này:

Bài 1: Ba mặt non xanh đứt lại liền / Giữa là xóm núi, ruộng đồng chen / Thật thà quen thói, dân theo cổ / Thừa thãi hằng năm, lúa được rền / Khói sớm, đùm cơm, trâu đuổi tới / Đá tầng, ống trúc, nước đeo lên / Rừng xanh lánh nạn, đùa chim vượn / Cái thú lâm tuyền được ngẫu nhiên!

Và bài 2: Biếc biếc, xanh xanh, vun vút xa / Lùm cây, nương lá ngó bao la / Chiều vàng, lửa đỏ ven rừng đốt / Đập biếc, làn trong suối mỏ pha / Tóc gió tắm về, hong mụ trẻ / Bừa trăng cày đoạn, vác ông già / Lom khom dãy núi như mời khách / Muốn dọn nhà lên... sống tuổi già(4). Xem đó thì thấy Phan Khôi đi kháng chiến với một tấm lòng thật thanh thản, một tâm hồn thơ vẫn rất nguyên vẹn và nhạy cảm.

Học giả Phan Khôi cùng vợ con. Ảnh:TLGĐ


Sau Tết Mậu Tý 1948 được mấy tháng, một hôm Phan Khôi nhận được thư nhà, ông vui lắm. Trong thư gửi về Quảng Nam cho vợ con, ông gửi theo bài thơ Nhớ nhà 1 và 2 ông làm trước đó ít lâu:

Bài 1: Vì có trông người, nhớ đến ta / Nhà Hai, nhà Cả, cả hai nhà / Tài không tháo vát, nhưng cần kiệm / Họa có ghen tuông, vẫn thuận hòa / Tình nặng nhớ nhung, thơ vụng tả / Biệt ly khao khát, tuổi quên già / Loạn ly, sống chết, còn chưa biết / Đã một, hai rồi, chẳng lẽ ba.

Và bài 2: Hai nhà cộng lại có mười con / Năm gái năm trai nhắm cũng giòn / Gả cưới tạm yên nguyền một nửa / Sữa măng riêng mủi máu ba hòn / Tư trào thôi hẳn đành chia rẽ / Nhân cách còn mong được vẹn tròn / Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi / Tên mày ghi cái nhục sông non(5).

Đất nước đã gần 80 năm nằm trong tay thực dân, sau lại rơi vào tay phát xít, là nỗi quốc nhục. Nay Việt Minh làm cuộc kháng chiến chống Pháp, thì ông vì nghĩa lớn mà để lại vợ con ở phía sau để ra đi phục vụ kháng chiến, âu đó cũng là cách giữ tròn nhân cách của một người yêu nước vậy.

Tuổi cao, sức yếu, lại không quen cuộc sống kham khổ nơi rừng thiêng nước độc, nhưng ông vui vẻ vượt qua, tận tâm với công việc, các bản dịch Lỗ Tấn, các bài nghiên cứu tiếng Việt của ông được xuất bản ngay trên Việt Bắc. Phan Khôi tự khép mình lại, tự giác hòa vào cuộc kháng chiến với niềm tin như nhất, với lòng yêu thương rất cảm động dành cho tất cả mọi người, không kể gần gũi hay xa lạ. Năm 1948, trong bài Thơ tặng một vệ quốc đoàn, ông viết: Vượt suối trèo non tôi đến đây / Gặp anh ngồi nghỉ dưới chân mây / Chúc anh mạnh khỏe rồi ra trận / Máu sức càng hăng để đánh Tây / Đánh đến bao giờ độc lập thành / Tôi dù già rụi ở quê anh / Cũng nguyền nhắm mắt không ân hận / Nằm dưới mồ nghe khúc thái bình(6).    

Hội nghị Văn hóa lần thứ hai họp từ 16 đến 20.7.1948 tại thôn Đông Lĩnh, xã Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ với bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam, đã làm rõ bản Đề cương Văn hóa Việt Nam với các nội dung cụ thể: về xã hội lấy giai cấp công nhân làm gốc; về chính trị lấy độc lập, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc; về sáng tác lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc. Liền sau đó là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc từ 23 đến 25.7.1948 tại thôn Dộc Phát, xã Yên Kỳ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ với nội dung cũng từa tựa như Hội nghị Văn hóa, dành riêng cho các văn nghệ sĩ.

Theo một định hướng như thế, cỗ máy văn hóa - văn nghệ chạy bằng năng lượng chuyên chính vô sản cứ quay với tốc độ mỗi ngày một cao. Các văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, tức là tự nguyện làm một cái đinh ốc trong cỗ máy - không phân biệt trường phái lãng mạn hay hiện thực, nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh - tất cả đều vận hành đồng tốc, hết lòng cho công cuộc kháng chiến.

Trong một môi trường như thế, văn nghệ sĩ tự hòa tan, như tuyệt đại đa số trường hợp. Riêng Phan Khôi nằm ngoài cái đại đa số trường hợp đó, ông hăng say làm việc, nhưng hòa tan thì không; có thể vì ông cao tuổi, mọi thứ đã trở nên cố định làm hạn chế khả năng thích ứng với hoàn cảnh; cũng có thể ông không chấp nhận bởi có quan điểm riêng.

Trên thực tế không phải chỉ có chừng đó thứ. Tư tưởng Mao Trạch Đông với chính trị là thống soái, tư tưởng là hàng đầu, đã từ biên giới phía Bắc, theo chân những Lý Ban, những La Quý Ba cùng các đoàn cố vấn, xâm nhập mọi ngõ ngách của cuộc kháng chiến với đầy rẫy tài liệu, với các cuộc chỉnh đảng, chỉnh phong, chỉnh huấn từ cao đến thấp.

Trong mọi cuộc tắm rửa, kỳ cọ tư tưởng đó, theo phương châm trị bệnh cứu người, mỗi cá nhân đều không được nói về ưu điểm của mình, mà chỉ nói mọi thứ khuyết điểm mình đã phạm phải, thành thử sau đó, mỗi người thấy mình bé nhỏ như con sâu cái kiến, chỉ còn biết tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa, trung thành với đường lối.

Phan Khôi chấp nhận tất cả để đi đến ngày kháng chiến thắng lợi. Đến cuối năm 1949, người ta vẫn còn chứng kiến hình ảnh lồng lộng của ông giữa hàng quân, trong một cuộc xuất quân của văn nghệ sĩ đi chiến dịch cùng với một đơn vị bộ đội chủ lực.

Một trí thức cũ như ông, tuổi tác như ông, mà chịu đựng đến như thế, cũng đã là can trường. Nhưng càng ngày, Phan Khôi càng nhận thấy sự cách biệt giữa đảng viên và những người không phải đảng viên; giữa lãnh đạo văn nghệ với quần chúng văn nghệ; nhận thấy không khí nguội lạnh của cơ quan; nhận thấy phê bình và tự phê bình chỉ là dịp tốt để cấp dưới rót những lời đường mật vào tai cấp trên. Phan Khôi nhận ra tất cả và thử ra tay cải tạo tình hình bằng vài lần phát biểu trong các cuộc họp cơ quan, chỉ ra khuyết điểm, đề nghị sửa chữa, nhưng thảy đều không đi đến đâu.

Lâu dần ông rơi vào tâm trạng lẻ loi, cô độc, rõ nhất là từ đầu năm 1950 với một bài thơ chữ Hán có tên Giao thừa năm Canh Dần. Về sau, nhà phê bình văn học Thiếu Sơn dịch nghĩa và in trong bài Bài học Phan Khôi của sách Những văn nhân chính khách một thời xuất bản ở Sài Gòn trước năm 1975: Một mình đêm giao thừa / Đến ngọn đèn làm bạn cũng không có / Đắp lên thân suy tàn một tấm mền kép / Chợp mắt mơ là nhấm miệng chua cay / Có vợ con mà cam sống chia cách / Không sinh kế phải ăn nhờ / Nghe gà gáy mừng vùng dậy / Kháng chiến bốn xuân rồi(7).

Phan Khôi (thứ 2 từ phải qua) tại Trung Quốc, trong dịp tưởng niệm 20 năm ngày mất văn hào Lỗ Tấn. Ảnh: TLGĐ


Phan Khôi tham gia kháng chiến trong tư cách một nhân sĩ yêu nước, một nhà Hán học giỏi tiếng Pháp, chuyên về nghiên cứu và dịch thuật, chứ không phải nghệ sĩ sáng tác, nên “cái tôi” của ông ít có cơ hội biểu lộ trong tác phẩm. Nói vậy thôi, chứ “cái tôi” của ông không phải không bị cọ xát, chưa kể là ông chứng kiến nhiều cuộc cọ xát “cái tôi” của những nghệ sĩ sáng tác chung quanh ông, buộc ông phải bày tỏ thái độ của mình.

Nhân thấy ở Việt Bắc có một thứ cây mà lá giống y như lá hồng, nhưng chỉ có gai mà không có hoa, ông liền làm bài thơ Hồng gai: Hồng nào hồng chẳng có gai / Miễn đừng là thứ hồng rài không hoa / Là hồng thì phải có hoa / Không hoa, chỉ có gai mà ai chơi / Ta yêu hồng lắm hồng ơi / Có gai mà cũng có mùi hương thơm(8). Đã là nghệ sĩ thì phải có cá tính, không có cá tính thì bất thành nghệ sĩ. Ví như cây hồng, có gai, có hoa và hoa thơm; đừng bắt cây hồng chỉ được ra hoa mà không được có gai. Bắt thế là vô lối, vì gai là thứ cây hồng phải có để tồn tại cùng muôn loài, nó có tồn tại thì mới có hoa đẹp, hoa thơm!

Bị bệnh sốt rét quật lên quật xuống, sức khỏe ngày một tệ, nên năm 1951 lúc đang là người của Sở Văn nghệ Trung ương, Phan Khôi được nghỉ làm việc để dưỡng sức. Đầu năm 1952 ông lại bị đau dạ dày, được đưa vào bệnh viện quân y để mổ. Trước khi ra viện, trong tâm trạng buồn bã và cô độc, ông làm bài thơ Hớt tóc trong bệnh viện quân yTuổi già thêm bệnh hoạn / Kháng chiến thấy thừa ta / Mối sầu như tóc bạc / Cứ cắt lại dài ra(8).

Lúc này cơ quan ông đã di chuyển về Thái Nguyên. Ông ra viện trở về cơ quan thì tiết trời đã chuyển từ xuân sang hè. Cuối hè, cơ quan cử ông và nhiều người khác đi dự một lớp chỉnh huấn kéo dài một tháng ở Phủ Bình, Thái Nguyên. Cuộc chỉnh huấn này chủ yếu làm rõ vai trò của văn nghệ là phục vụ chính trị, không chấp nhận thứ văn nghệ chung chung, phi giai cấp và đả phá tư tưởng đòi văn nghệ độc lập với chính trị hay đứng ngoài chính trị.

Theo đó, những người làm văn nghệ như ông phải tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Đảng yêu cầu thế nào phải làm đúng thế ấy, phải quên cái riêng của mình đi để phục vụ cái chung. Ông thấy mình đã tự nguyện rồi, có tự nguyện thì ông mới đi kháng chiến, mới vui vẻ làm được chừng đó việc. Nhưng ông vẫn nghĩ ngợi: văn nghệ cứ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, văn nghệ cứ phục vụ kháng chiến, nhưng muốn làm được thứ văn nghệ đó thì người nghệ sĩ phải xuất phát từ cảm xúc nghệ thuật của riêng mình, chứ sao lại bắt họ phải quên cái riêng của mình đi?

Trong nghệ thuật ngụ cái cá tính của mỗi người một khác, do đó cái nghệ thuật tính của mỗi tác giả cũng một khác. Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm loài cúc đều nở ra hoa cúc vạn thọ hết! Cái lỗi đó không phải của loài cúc, không phải của nghệ sĩ, mà là lỗi của người làm vườn, của người lãnh đạo. Văn nghệ là công việc của sáng tạo mà không xuất phát từ cái riêng của mỗi người, thì sáng tạo làm sao? Đòi quên cái riêng đi, là quên thế nào?

Ông biết nhiều người cũng nghĩ như ông, nhưng khi ông nêu ý kiến đó trong buổi thảo luận, thì tất cả đều lặng ngắt. Nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn, nổi tiếng từ trước 1945 bởi những áng văn, những thi phẩm xuất phát từ chính “cái tôi” rất riêng của họ; không hiểu sao trong cuộc chỉnh huấn lại quay ra phản đối ý kiến của ông!? Đến cuối cuộc chỉnh huấn thì ông hiểu ra rằng: hóa ra những nhà văn, nhà thơ đó đã kịp trở thành đảng viên hết cả, và nay họ đều có chỗ ngồi cao hơn người trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ.

Không biết những người tổ chức cuộc chỉnh huấn đánh giá thế nào về kết quả chỉnh huấn một tháng ở Phủ Bình, riêng với Phan Khôi thì ông thấy không có mấy kết quả, tệ hơn nữa là ông thấy bế tắc. Mấy năm nay, trong các cơ quan, đã có nhiều người “dinh tê”, tức là rời bỏ kháng chiến, trở về sống ở vùng Pháp tạm chiếm. Người ta “dinh tê” với những lý do khác nhau, người thì không chịu được cuộc sống kham khổ, người thì bất đồng chính kiến, tất thảy họ đều bị phê phán kịch liệt, bị coi là đầu hàng giặc.

Ông thì không, ông cho là mỗi người có quyền lựa chọn con đường đi của mình: anh có quyền đi với kháng chiến, cũng có quyền không đi với kháng chiến, miễn là đừng theo giặc. Ông chỉ thấy tiếc cho những người “dinh tê”: giá kể trước đây họ cứ ở yên trong thành, đừng đi kháng chiến, là hơn!

Ông không ân hận vì đã đi kháng chiến bởi kháng chiến là nghĩa lớn, kháng chiến lại đang mỗi ngày một tấn tới, giặc Pháp rồi sẽ phải đầu hàng, sẽ phải cút khỏi Việt Nam. Nhưng ông thất vọng, rất thất vọng về cái mình đã tin, đã hy vọng và chờ đợi! Trong nỗi thất vọng đó, ông chợt nhớ đến người bạn trẻ ở Hà Nội mà ông được làm quen và đàm đạo suốt mấy ngày đêm hồi cuối thu năm 1946, chính là tác giả Bài ca sông Dịch.

Quan điểm về tự do sáng tác của Phan Khôi thế là bị tổn thương, tâm hồn thơ của ông thế là bị tổn thương, nhưng ông vẫn sống cách nghiêm túc và cần mẫn với công việc nghiên cứu, dịch thuật, không rơi vào tình trạng mà người ta thường gọi là bất mãn.

Ông vẫn rất thành tâm với kháng chiến, chủ động tìm tiếng nói chung với kháng chiến một lần nữa bằng cách tự mình đề nghị được đi dự một lớp chỉnh huấn khác dài tới ba tháng ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang vào năm 1953. Và năm sau, ông chủ động giúp Hội Văn nghệ trong việc xuất bản các tác phẩm của Lỗ Tấn. Đặc biệt ông hoàn thành một chuyên đề nghiên cứu rất công phu là Thử tìm sử liệu Việt Nam trong ngữ ngôn ngay trước ngày ta giành chiến thắng ở trận Điện Biên phủ.

Hồi ký Ta đã làm chi đời ta - Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký (Sài Gòn) in năm 1974, được tái bản dưới tên gọi bút ký bởi NXB Văn Hóa - Văn Nghệ, DominoBooks tháng 10.2018


Trong tập bút ký Ta đã làm chi đời ta, sau khi kể về cuộc hạnh ngộ cuối mùa thu năm 1946 ở Hà Nội, Vũ Hoàng Chương kể tiếp: khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Nhà thơ phải tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu, lòng nhớ bè bạn làng văn của ông càng như thiêu như đốt.

Bỗng một hôm ông nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thư thắm buông theo dòng nước biếc, mà là một lá thư trao theo kiểu chim xanh. Ngoài phong bì chỉ có hai dòng, dòng trên: Vũ Hoàng Chương, dòng dưới: Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi! Thật không sao kể xiết những cảm xúc của Vũ Hoàng Chương phút ấy. Cảm xúc dâng tràn đến nỗi ông suýt quên rằng phong thư gửi cho ông, nhưng chưa chắc ông là người đầu tiên mở ra đọc… chỉ vì là thư tay, không dán kín(1)!

Bài thơ luật Đường không có đầu đề ấy, bây giờ tôi tạm đặt tên là Thơ gửi Vũ Hoàng Chương. Nó như thế này:

Ngừng tim lặng óc bặt dòng tình

Tai mắt như không phải của mình

Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc

Nghe trong tiếng ếch một màu xanh

Suối tiên đắm đuối bao cho chán

Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh dậy buồn tênh

Những năm tháng ấy Vũ Hoàng Chương không sống cùng Phan Khôi, nhưng qua bài thơ, ông có vẻ như hiểu tất cả những gì người bạn cao niên đang gặp phải. Tâm hồn thơ của Vũ Hoàng Chương thốt kêu lên: Ôi! Câu phá đề sao mà u uất thế? Cả một dòng máu bị thắt nút đang sôi sục, phá phách, đòi tự do! Con người cầm bút đó sẵn sàng vì tự do mà lưu huyết.

Câu thừa đề mới lại mỉa mai, não nuột đến đâu! Tai mắt còn không phải của mình, hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào là của mình được nữa chứ? Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt thế là loạn rồi ư? Mà không loạn sao được? Không phải của mình kia mà! Đến như suối tiên đắm đuốikhối mộng vờn mơn, niềm khát khao tự do quả đã tuôn tràn đè trĩu khắp trang giấy. Ôi! Thật là hiển nhiên với hai câu kết:

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh dậy buồn tênh

Thú ấy là thú nào? Nếu không phải là cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng, có khi!

Vũ Hoàng Chương nằm trong túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan Khôi mà cả một bầu tâm sự đột nhiên được cởi tung, mở phắt. Một tiếng xướng đòi tự do như thế, phải được muôn tiếng họa lại, mới là công bằng. Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng bằng lòng lấy văn chương làm nghiệp dĩ, hay sao?

Nhà thơ hiểu tính Phan Khôi nóng như lửa, nếu khoảng giữa tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là Vũ Hoàng Chương đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó. Cho nên Vũ Hoàng Chương, ngay lập tức, họa nguyên vận bài thơ của Phan Khôi:

Trời vô tâm quá, đất vô tình…

Biết gửi vào đâu cái “chính mình”?

Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng

Màu đen lại ngả xuống màu xanh

Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận

Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành

Tưởng tới nguồn đào thôi lại tiếc

Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh

Vũ Hoàng Chương gửi đi ngay tức khắc. Thơ trao đi mà lòng còn thắc mắc cho mãi đến sau này. Không biết Phan Khôi có tiếp được thư không, mà từ đó bặt vô âm tín!(1)

*

Trong cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi - Vũ Hoàng Chương, có vẻ như trước, sau, phần chủ động đều thuộc về Phan Khôi. Trước, là mùa thu năm 1946 do Phan Khôi được nghe Bài ca sông Dịch mà chủ động tìm gặp tác giả. Sau, là từ cuộc chỉnh huấn một tháng ở Phủ Bình, Thái Nguyên vào mùa hè năm 1952(9), trong tâm trạng bế tắc và thất vọng, Phan Khôi làm bài thơ để trang trải lòng mình, ông không gửi cho ai, mà gửi cho Vũ Hoàng Chương.

Có vẻ như từ năm 1946 Phan Khôi đã phát hiện ra Vũ Hoàng Chương và tìm thấy ở người bạn trẻ một tài năng thơ và một tâm hồn thơ chân chính, rất đáng tin cậy, để mình có thể gửi gắm, chia sẻ mọi nỗi niềm. Nhưng chính Phan Khôi lại hoàn toàn im lặng, không có lấy một dòng viết về cuộc gặp gỡ tri âm của hai người, mà chỉ có Vũ Hoàng Chương ghi lại và đưa vào sách, nên người đời sau mới được biết.

Chắc chắn bài thơ họa nguyên vận của Vũ Hoàng Chương, do hoàn cảnh kháng chiến, đã không đến được tay Phan Khôi, nên cuộc gặp gỡ tri âm của họ phải dừng lại ở đó và Phan Khôi mất đi một cơ hội để chứng giám tấm thịnh tình của người bạn trẻ đối với mình. Thật đáng tiếc cho Phan Khôi và thật đáng ghi lòng tạc dạ tấm thịnh tình của Vũ Hoàng Chương đối với người bạn văn cao niên!

Còn bằng cách nào mà Phan Khôi từ Thái Nguyên là vùng Việt Minh lại gửi được bài thơ cho Vũ Hoàng Chương ở Nam Định là vùng Quốc gia, là một câu hỏi khó trả lời cho chính xác. Tôi chỉ suy đoán rằng: Phan Khôi đã nhờ một văn nghệ sĩ “dinh tê” - người này cũng biết Vũ Hoàng Chương - cầm cái phong thơ không dán kín, về Nam Định trao tận tay người nhận. Tôi ngẫm đi ngẫm lại, thấy chỉ có cách đó là khả dĩ nhất. Và tôi tin như thế!

Tôi đã đi đến tận cùng cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi - Vũ Hoàng Chương để bày tỏ lòng ngưỡng vọng của mình đến hai cố nhân có đường đời khác nhau, nhưng cùng yêu tự do và cùng chết trong cảnh mất tự do!

Phan An Sa

Nguồn: Người đô thịngày 15.11.2020.


Chú thích:

 (1) Theo cuốn hồi ký của Vũ Hoàng Chương Ta đã làm chi đời ta, Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1974, từ trang 110 đến 114; bản e-book (PDF) của độc giả Phạm Quang Ái gửi tặng ngày 29.9.2020 qua e-mail.

 (2) wikipedia tiếng Việt.

(3) www.thivien.net: Trang thơ Vũ Hoàng Chương, Rừng phong (1954). Đăng bởi Vanachi vào 3.6.2005, sửa lần cuối bởi Vanachi vào 4.4.2006.

(4) Đông Xuyên, Tuyển tập thơ Hán - Việt, Nhà xuất bản Cảo Thơm, Sài Gòn, 1975; trang web www.thivien.net: Trang thơ Phan Khôi, hạng mục “Những bài thơ mới nhất”, đăng bởi hongha83 vào ngày 19.4.2020, sửa 2 lần.

(5) Phan An Sa, Nắng được thì cứ nắng - Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân văn, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, 2013, trang 442.

 (6) Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi - Phan Khôi, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001, trang 162.

(7) Phan An Sa trích đăng, sách đã dẫn, trang 349.

(8) Giai phẩm mùa thu 1956, tập III, nhà xuất bản Minh Đức, Hà Nội, tháng 11.1956. Dẫn theo Lại Nguyên Ân, Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, in sách 1948 - 1958, Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2019, trang 222.

(9) Chủ nhân một trang facebook cá nhân, ngày 1.6.2020 có bài Nhà thơ Vũ Hoàng Chương họa thơ nhà báo Phan Khôi, viết rằng: “Năm 1946, lúc gia đình ông đang ở tại lỵ phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định thì nhận được thư của Phan Khôi đến từ Thái Nguyên”. Viết 1946 là sai, gây sự nhầm lẫn rất có hại cho việc tìm hiểu Phan Khôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Văn bút ký của Vũ Hoàng Chương có một đặc điểm là đọc lên như thơ, cứ lơ lửng, lửng lơ, như bay, như liệng; người đọc thiếu cẩn thận một chút là bị nhầm lẫn liền. Người sở hữu trang facebook nói trên viết sai, chính là do sự nhầm lẫn đó. Tôi đã mất cả sáu tháng trời loay hoay trong sự nhầm lẫn do đọc phải các thông tin trên, khiến không thể lý giải được sự bất hợp lý giữa thời điểm Vũ Hoàng Chương nhận được bài thơ và địa danh Thái Nguyên là nơi Phan Khôi gửi bài thơ đi. Cho đến khi được trực tiếp đọc tập bút ký Ta đã làm chi đời ta, mà đọc rất kỹ, mới luận ra được, mới thoát khỏi sự nhầm lẫn tai hại lúc đầu.

Nên nhớ rằng, chỉ khi Vũ Hoàng Chương kể về cuộc hạnh ngộ giữa ông với Phan Khôi tại Hà Nội thì ông mới nhắc đến năm 1946. Ông còn viết kỹ càng thế này kia mà: “Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy, tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời!”.(Lấy 19.8.1945 làm mốc, 13 tháng trời, thì tôi đoán cuộc hạnh ngộ của hai người diễn ra vào hạ tuần tháng 9. 1946).

Còn về việc nhà thơ nhận được thư của Phan Khôi gửi từ Thái Nguyên, thì ông viết thế này: “Sau đó ít lâu… khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu… Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu… Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu đốt…” . Tôi gạch chân cụm từ hết xuân rồi lại thu để nhấn mạnh rằng: nhà thơ viết như thế là để chỉ thời gian đã trôi ra khỏi năm 1946 rồi, đã trôi đi nhiều năm nữa rồi, chính Vũ Hoàng Chương cũng không còn nhớ chính xác là năm nào nữa.

Nghiên cứu kỹ quá trình Phan Khôi tham gia kháng chiến chống Pháp, thì thấy rằng: Từ 19.12.1946 cho đến đầu năm 1947 ông vẫn còn ở Hà Nội và các vùng phụ cận. Chỉ từ sau Tết năm 1947 trở đi ông mới di chuyển lên Phú Thọ, rồi Tuyên Quang, rồi Thái Nguyên.

Từ lời văn nói trên của Vũ Hoàng Chương, từ hành trạng của Phan Khôi mấy năm đầu đi kháng chiến, thì không thể có chuyện ông làm bài Thơ gửi Vũ Hoàng Chương và gửi cho nhà thơ vào năm 1946 được.

Mấy năm tiếp sau đó như 1947, 1948, 1949 cũng khó xảy ra vì không khí kháng chiến đầy hứng khởi còn đang cuốn hút ông, những bài thơ ông làm trong mấy năm này đều rất ấm áp, tình cảm, như đã kể ở trên. Từ năm 1950 trở đi thì có thể, nhưng đáng tin nhất là vào cuối mùa hè 1952 sau khi ông dự lớp chỉnh huấn một tháng tại Phủ Bình, Thái Nguyên, khiến ông bị rơi vào bế tắc và thất vọng. Trong hoàn cảnh đó, ông làm bài thơ Đường luật với tâm trạng não nề như thế gửi Vũ Hoàng Chương, người bạn tri kỷ của ông, là rất có lý.

Nhà văn, NSƯT Văn Lê vừa đột ngột qua đời tại nhà riêng vào tối 6-9 sau cơn đau tim, hưởng thọ 72 tuổi.

Văn Lê là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, đạo diễn, tên thật là Lê Chí Thuỵ, sinh ngày 2-3-1949, quê ở Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình.

Ông nhập ngũ 1966, vào chiến trường B2 năm 1967, về tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng năm 1974. Sau 1975, ông công tác ở tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng rồi tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1977, ông tái ngũ chiến đấu ở Mặt trận 479 - Campuchia, đến năm 1982 về công tác tại Hãng phim Giải Phóng và nghỉ hưu vào năm 2010.

Văn Lê thể hiện tài năng đa dạng ở nhiều lĩnh vực: xuất thân nhà thơ nhưng sau đó ông chuyển sang viết văn, viết kịch bản và đạo diễn phim, mỗi lĩnh vực đều có thành tựu. Ông đã xuất bản 3 tập thơ, 2 trường ca, 5 tập truyện, 15 tiểu thuyết và được phong Nghệ sĩ ưu tú của ngành điện ảnh.

Ông là tác giả kịch bản phim truyện Long Thành cầm giả ca - giải nhất về kịch bản của Cục Điện ảnh. Bộ phim được nhận giải Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh năm 2012.

Nhà văn Phan Hoàng - một đồng nghiệp có giao tình nhiều năm với Văn Lê lúc sinh thời, ghi nhận ở nhà văn tuổi 70 này sức làm việc bền bỉ. "Từ mấy năm trước ông đã từng bị đột quỵ nhưng vượt qua được, từ đó ông càng làm việc hăng say hơn, mà hai tiểu thuyết mới nhất là Cống nhân và Phượng hoàng thật đáng để ngưỡng mộ" - ông Phan Hoàng nhắc lại.

Tác phẩm Phượng hoàng của Văn Lê vừa được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP.HCM lần 2 (5 năm một lần) hồi năm 2019 vừa qua. Đây là tác phẩm về đề tài chiến tranh, được Văn Lê ấp ủ nhiều năm hậu chiến mới chấp bút.

"Và tác phẩm Cống nhân lại là một mảng đề tài độc đáo khác của Văn Lê - đề tài cống danh y người Việt sang Trung Quốc trong thời phong kiến. Ở đề tài này, cho thấy tầm kiến văn quảng bác và sức làm việc, hệ thống tư liệu, xử lý kiến thức để hình thành tác phẩm nơi Văn Lê thật đáng khâm phục" - nhà văn Phan Hoàng chia sẻ.

Hiện linh cữu nhà thơ Văn Lê được đặt tại nhà riêng (28 đường Văn Chung, phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM). Lễ động quan lúc 7h ngày 9-9. Sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

Nhà văn Văn Lê từng nhận các giải thưởng:

– Giải A cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam (1975-1976).

– Giải B thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 1984.

– Giải A thơ về đề tài Chiến tranh Cách mạng, Hội Nhà văn Việt Nam 1994, với tập thơ Phải lòng.

– Tặng thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1994, với tiểu thuyết Nếu anh còn được sống.

– Tập trường ca Những cánh đồng dưới lửa nhận Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1999; Giải thưởng Văn học quốc tế Me Kong 2006.

– Tiểu thuyết Mùa hè giá buốt, giải B (Không có giải A) về Văn học chiến tranh, Bộ Quốc phòng (2004 – 2009). Giải nhất Giải thưởng văn học nghệ thuật TP. HCM 5 năm lần thứ I (2006-2011).

– Tiểu thuyết Phượng hoàng nhận giải A về văn học chiến tranh của Bộ Quốc phòng 5 năm (2009-2014) và Giải nhì Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP. HCM 5 năm lần thứ II (2012-2017).

Đồng thời, trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê đã nhận các giải thưởng: 3 lần đạt giải thưởng kịch bản phim Tài liệu xuất sắc nhất, 1 giải thưởng Đạo diễn xuất sắc nhất, 1 giải Bông Sen Vàng, 5 Bông Sen Bạc, 2 Cánh Diều Vàng, 1 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản và nhiều giải thưởng cao về phim tài liệu của Hội Điện ảnh Việt Nam.

Một số tác phẩm đã xuất bản của Văn Lê:

– Một miền đất, những con người (tập thơ, 1976)

– Những ngày không yên tĩnh (truyện, ký 1978)

– Chuyện một người du kích (truyện, 1980)

– Bão đen (truyện, 1980)

– Đồng chí Đại tá của tôi (truyện, 1981)

– Người gặp trên tàu (tiểu thuyết, 1982)

– Khoảng thời gian tôi biết (tập thơ, 1983)

– Ngôi chùa ở Pratthana (tiểu thuyết, 1985)

– Khoảng rừng có những ngôi sao (tiểu thuyết, 1985)

– Hai người còn lại trong rừng (tiểu thuyết, 1989)

– Tình yêu cả cuộc đời (tiểu thuyết, 1989)

– Khi tòa chưa tuyên án (tiểu thuyết, 1989)

– Tiếng rơi của hạt sương khuya (tiểu thuyết, 1993)

– Phải lòng (tập thơ, 1994)

– Nếu anh còn được sống (tiểu thuyết, in lần 1 năm 1994, lần 2: 2002; xuất bản tại Hàn Quốc năm 2003)

– Chim Hồng nhạn bay về (tập truyện ngắn, 1996)

– Những cánh đồng dưới lửa (trường ca, 1997)

– Đồng dao thời chiến tranh (tiểu thuyết, 1999)

– Cao hơn bầu trời (tiểu thuyết, 2004)

– Những câu chuyện làng quê (văn, 2005)

– Câu chuyện của người lính binh nhì (trường ca, 2006)

– Mùa hè giá buốt (tiểu thuyết, in lần 1: 2009, lần 2: 2012)

– Mỹ nhân (tiểu thuyết, 2013)

– Vé trở về (tập thơ, 2013)

– Thần thuyết của Người Chim (tiểu thuyết, 2014)

– Phượng hoàng (tiểu thuyết, 2014)

– Cống nhân (tiểu thuyết, 2020)

...

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-nghe-si-van-le-gia-biet-van-dan-20200907113436383.htm

 

20201227

Tranh Hasui

Văn chương là lĩnh vực của sự độc đáo, sáng tạo. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Trước thử thách đó, Nhật Chiêu đã khẳng định Tôi là một kẻ khác- như  tên một tập thơ của ông. Sau khi khởi xướng hai loại thơ mới: Thơ giao lời kể, và Thơ tượng quẻ; gần đây, Nhật Chiêu tiếp tục là người tiên phong cho một lối thơ lạ nữa: Thơ đôi đồng phương- một haiku, một lục bát. Đến hết tháng 9 năm 2020, Nhật Chiêu đã công bố 95 bài thơ đôi trên mạng xã hội[1].

Lối kết hợp thơ đôi, trước đây đã có.Phối hợp thể nọ với thể kia là một sở thích của các thi sĩ Việt Nam, bác học cũng như bình dân; chúng ta có thể song thất lục bát, và rất nhiều câu ca dao hỗn hợp thất ngôn với lục bát. Tuy nhiên, trong trường hợp nào cũng chỉ có các thể thơ thuần Việt hòa hợp với nhau mà không hề có chuyện Hoa Việt hợp thể. Trong bài hát ả đào, hai câu "thơ" được thỉnh vào không phải để hòa mình, mà là để tách riêng ra đứng sừng sững một mình như vị khách lạ: lạ về thi luật, lạ về nhạc điệu, lạ về ngôn ngữ (trong bài hát Việt, hai câu ấy viết bằng Hán văn). Hóa ra thơ không dễ dàng chịu hợp thể như người hợp chủng. Câu thơ, coi vậy mà nó không ngoan ngoãn đâu"[2].

Đến nay, trên thi đàn văn học Việt Nam có sự trở lại hình thức thơ đôi – khởi xướng là tác giả Nhật Chiêu. Tuy nhiên,  Nhật Chiêu không kết hợp Hán- Việt. Ông sáng tác thơ đôi theo một lối mới: kết hợp một haiku, một lục bát và gọi đó là “Thơ đôi đồng phương”. Với tên gọi “đồng phương”, Nhật Chiêu như muốn hướng người đọc hướng tới tính chất đồng văn, cùng hướng, hòa quyện làn hương giữa haiku và lục bát. Hướng đi đột phá  này của Nhật Chiêu có thành công?

 

1. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  cặp “duyên tình” về hình thức

Khi kết hợp haiku với lục bát, Nhật Chiêu luôn để haiku ở trước, lục bát đứng sau.

Thơ haiku của Nhật được coi là thể thơ ngắn nhất thế giới, thường vỏn vẹn chỉ 17 âm tiết, ngắt làm 3 dòng (5 + 7+ 5). Tiếng Nhật đa âm tiết; do đó, bài thơ haiku rất ít từ. Haiku trong sáng tác của Nhật Chiêu là haiku đã được Việt hóa, sáng tác bằng ngôn ngữ đơn âm tiết tiếng Việt. Trong các bài haiku Việt Nam, số lượng âm tiết không phải giữ nguyên 5 + 7 + 5 nữa. Âm tiết trong các dòng thơ linh hoạt hơn, tuy nhiên, số lượng âm tiết trong mỗi dòng, mỗi bài cũng hết sức ít ỏi, có thể gọi là cực ngắn (cũng chỉ trong khoảng 10-18 âm tiết). Các âm tiết trong mỗi câu cũng không đều nhau làm cho các câu thơ haiku có sự xô lệch về độ ngắn dài của dòng thơ. Trong khi đó, lục bát luôn có sự ổn định về câu chữ: một câu 6 âm tiết; một câu 8 âm tiết. Số lượng âm tiết của mỗi câu lục bát thường nhiều hơn lượng âm tiết mỗi dòng của thơ haiku. Do đó, đặt câu thơ haiku ngắn ở trước, lục bát dài ở sau, hình thức câu chữ của bài thơ đôi lập tức có tính tạo hình, hội họa với bố cục và đường nét cân đối, nhịp nhàng. Có thể liên tưởng hình thức câu chữ bài thơ như một quả núi, như một cái cây đẹp, có chân nền ổn định (lục bát) và có ngọn cao, nhiều cành nhánh nhấp nhô, khoáng đạt (haiku). Cũng có thể hình dung haiku như núi rừng với những ngọn cao thấp tiếp nối, còn lục bát như suối sông êm đềm... Cùng có thể hình dung haiku, lục bát như một sự sóng đôi song trùng cây, song trùng hoa, song trùng núi, song trùng sông... Sự sóng đôi haiku, lục bát đã khiến ngay hình thức câu chữ của bài thơ đôi đã có tính “thi trung hữu họa”- một đặc điểm nổi trội của thơ ca phương Đông truyền thống. Thêm nữa, người đọc cũng có thể liên tưởng tới tính chất âm (lục bát), dương (haiku); động (haiku), tĩnh (lục bát)... từ hình thức câu chữ- điều này thêm khiến cặp đôi haiku và lục bát như một cặp đôi vừa tương đồng vừa khác biệt.

Cùng với hình thức số lượng câu từ,  cặp đôi haiku lục bát còn “kết gắn” với nhau bởi vần. Thơ haiku Nhật vốn không có vần. Sang “sinh sống” ở nước Việt, haiku đã được các nhà thơ biến cải, thêm vần. Sự xuất hiện vần trong các bài haiku Việt cũng đã khiến cho thể haiku của Nhật đã có trong mình một phần đặc điểm của thơ lục bát Việt: luôn có vần. Điều đó khiến cho cặp bài haiku, lục bát đã có cùng điểm tương đồng: có sự bắt nối âm, liên kết giữa câu thơ này với câu thơ khác. Thêm nữa, nhiều bài thơ đôi, vần của các câu haiku đã được bắt nối sang vần của lục bát. Ví dụ:

NGƯỜI MẪU

Người mẫu thanh tân

khoác lên thân thể

một tâm hồn trần

          *

Vì trăng buông áo phù vân

em ôm nhật nguyệt đôi vầng tắm mưa

                 SỮA

            (tặng H. thai phụ)

Mưa đêm nay

bé nào trong mẹ

nằm nghe sữa đầy

          *

Em ơi mưa bắt đầu bay

thánh ca giọt nước ơn đầy thinh không

Sự có vần ở câu thơ kiểu haiku và sự bắt vần sang các câu lục bát đã khiến cho cặp thơ đôi có sự gắn kết tự nhiên về hình thức với nhau.

Tiếp nữa, mối duyên của hai thể thơ này còn được thể hiện ở tính chất “đồng phương”- cùng hướng, cùng mùi hương như tác giả đã đặt tiêu đề. Thơ đôi được sáng tác theo ý tưởng mới của tác giả: “Một cảm xúc bất chợt sẽ diễn thành một cặp thơ khác thể nhưng đồng phương”, “mỗi đôi là hai bài song hành trên một con đường cùng cảm hứng nhưng thể thức khác nhau”[3] (Nhật Chiêu). Chủ đề của các cặp bài có sự hô ứng với nhau. Ý từ câu haiku gọi tới câu lục bát như một sự dẫn dắt để lục bát tiếp nối, lan tỏa, âm vang. Giai điệu trên trời cao trong câu haiku:

                                Chim xuống từ mây

                                đầy buông giai điệu

                                đẹp và say

như lời tha thiết gọi cỏ cây:

                                Thả mình đi cỏ may ơi

                                bay  lên áo mộng say đời phù du

                                          (Đẹp và say)

Từ bức họa “Người mẫu” khỏa thân, được mô tả từ điểm nhìn khách quan:

                                Người mẫu thanh tân

                                khoác lên thân thể

                                một tâm hồn trần

đến lời bộc bạch táo bạo, đáng yêu từ tiếng nói chủ quan của chính người mẫu:

                                Vì trăng buông áo phù vân

                                em ôm nhật nguyệt đôi vầng tắm mưa

Từ hiện tại với người yêu giữa lòng biển cả:

                                Bơi biển chiều

                                ẩn sau tiếng sóng

                                nàng như nói... yêu

đến hồi ức như trên mây hạnh phúc kỉ niệm hồn nhiên thời thơ ấu:

                                Trong mây nàng bé thơ bay

                                tấm chăn xưa ấy dựng ngày thần tiên

                                          (Nàng)

Cứ tiếp diễn, hô ứng cùng nhau như vậy, cặp haiku và lục bát trong thơ đôi của Nhật Chiêu gần như hai vế đối kiểu lưu thủy, mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới, sóng sánh, dư âm và tình tứ. Haiku phá đề, lục bát thừa đề, nối tiếp, bổ sung cho nhau thành một chỉnh thể ăn ý, thống nhất.

2. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  cặp “duyên tình” về  chủ đề  cái đẹp tình yêu

Thơ đôi đồng phương một haiku một lục bát của Nhật Chiêu có rất nhiều chủ đề. Trong đó, có nhiều bài là chủ đề của haiku truyền thống Nhật Bản. Đó là tư tưởng Thiền:

                                Tóc mưa

                                thân thuyền độc mộc

                                đêm xưa

                                          *

                                Đêm mưa người cứu độ người

                                đưa hương cực lạc về trôi vô thường

                                          (Người cứu độ người)

                                Tôi thường rơi

                                như chiếc lá nào đó

                                vào hoang vắng tôi

                                          *

                                Ta là tặng vật ta ơi

                                mà ai gởi tặng về nơi vô hình

                                          (Vô hình)

Chủ đề thiên nhiên:

                                Bồ công anh

                                tan mình trong gió

                                sao mà long lanh

                                          *

                                Gió ngày sẽ chạm vào mơ

                                thổi muôn tia nắng trong bồ công anh

Tác giả cũng thể hiện những chiêm nghiệm, suy tư về lẽ đời:

                                Đất ơi

                                đa mang biển núi

                                và ôi... mang người

                                          *

                                Bi thương này cõi đất ơi

                                nặng mang cuồng vọng con người mà quay

                                (Này cõi đất ơi)

Thậm chí cất tiếng nói phẫn nộ, đau đớn bằng thơ đôi:

                                Bầu trời này

                                mà các ngươi chiếm đoạt

                                là nơi chim bay

                                *

                                Phố dài không một bóng cây

                                bỗng nghe sa mạc chờ thay cát người

                                          (Không bóng chim)

                                Mi giết người Vâng

                                mi có tội Vâng

                                mi toi rồi Vâng

                                          *

                                Trái tim người với lông chim

                                ai cân bóng tối đừng tìm ánh mai

                                          (Ai cân trái tim)

Song, nổi bật lên trong thơ đôi đồng phương một haiku một lục bát của Nhật Chiêu là những bài thơ viết về tình yêu. Nhật Chiêu có 52/94 bài thơ đôi tình yêu (đây chỉ tính số bài có nội dung trực tiếp về tình yêu. Nếu tính cả những bài viết về thiên nhiên nhưng có thể liên tưởng đến tình yêu nam nữ thì số lượng tăng lên nhiều hơn nữa, ví dụ bài Bồ công anh đã dẫn ở trên). Những bài thơ đó giàu mĩ cảm, ngời lên cái đẹp. Đó là cái đẹp tự nhiên, thanh lịch, xuân thì... Nhân vật “em”- người con gái là biểu tượng của sự xinh đẹp, trong ngần. Nàng hội tụ tinh tế của đất, nước, gió, lửa, mây trời, trăng sao, kim cương, lụa ngọc v.v...: “Ngực bồng bềnh gió biển” (Điệu gió), “suối khe em đẹp lũng đồi em xinh” (Điệu đất), “em nằm mây trắng” (Đẹp và trôi), “mắt người rực ánh kim cương” (Khắc dấu)... Nàng khỏa thân đẹp đẽ: “đào nguyên hé mở đất trời bao dung” (Đẹp và trôi) và thiên nhiên cũng thành trang sức cho nàng thêm đẹp, thêm lả lơi, mời gọi:

                                Trăng dư tình

                                xuống khe nước nhỏ

                                tắm mình và em

                                          *

                                Đêm xuân người tắm dư vang

                                tiếng thanh thanh ấy ướt tràn hồn tôi

                                (Nước)

và tuyệt mĩ là lúc nàng ân ái. “Điệu lửa”, “Điệu nước”, “Điệu gió”, “Điệu đất”... (nhan đề các bài thơ) và nhiều cung bậc khau nhau nữa – những động thái, đặc điểm của thiên nhiên như đều gợi đến dáng vẻ, hành động ma mị, kì diệu của người con gái. Những khi ấy: “Khi thân thể diễm đem trồng cõi mơ” (Trồng), “lửa yêu ửng mọng thân ngời lên than” (Lửa), “trong đêm ửng mọng đào nguyên tận nguồn” (Điệu nước), “em khe xuân hát em đồi hạ ru” (Mùa)...

Đó là người con gái. “Đồng phương” với nàng (như haiku với lục bát), chàng trai trong thơ Nhật Chiêu say tình. Người yêu đến là cả một thế giới niềm vui mở ra với chàng:

                                Em đến đây rồi

                                ta trôi sáu cõi

                                yêu hơn nụ đời

                                          *

                                Phút giây hạnh ngộ là thơ

                                đến đây là đã sang bờ dấu yêu

                                          (Hạnh ngộ)

Chàng rất đỗi hào hoa, thanh lịch với bạn tình. Mỗi cử chỉ của người yêu, chàng đều nhìn thấy vẻ đẹp thơ mộng:

                                Nhìn em thay áo trong đêm

                                tấm chăn cũ trải ánh huyền trăng thơ

                                          (Nhìn)

                                Khi em cài nút vào khuy

                                nghe thiên thu động nhu mì đồi trăng

                                          (Khuy)

Đặc biệt, chàng hết mực trân quý bạn tình:

                                Yêu trong phai tàn

                                có gì như mê chạm

                                ta và triêu nhan

                                          *

                                Chạm mình vào nhau triêu nhan

                                ta thơ thẩn tới chạm nhàn nhã em

                                          (Chạm)

                                

                                Lạnh chiều em nắng lên tôi

                                em khe xuân hát em đồi hạ ru

                                          (Mùa)

Thái độ “gói em như món quà” (Mưa, nắng và quà) khiến chàng trai trong thơ đôi đồng phương haiku, lục bát của Nhật Chiêu tương phản đối lập hoàn toàn với kiểu đàn ông phàm phu tục tử “Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hoa”, “Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ” (Truyện Kiều), “Qua sông phụ sóng”, “Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không” (Hồ Xuân Hương)... Viết về những chàng trai lịch thiệp, say tình bên những cô gái đẹp xinh, nồng cháy, thơ đôi của Nhật Chiêu chỉ có các cuộc tình lãng mạn, tha thiết, tươi thắm.

Tình yêu đôi lứa trong thơ đôi Nhật Chiêu là điều kì diệu của cuộc sống. Nhật Chiêu diễn tả tình yêu bằng những yếu tố tinh hoa của tự nhiên, để thế giới thiên nhiên chan hòa với tình yêu. Bài thơ nào viết về tình yêu của ông cũng có hình ảnh thiên nhiên. Thêm nữa, các hình ảnh của thế giới tự nhiên cũng thường có đôi gần gũi, quấn quýt. Đó là hòn cuội với dòng suối, núi với mặt nước (Hôn), hồ và mây trắng (Đẹp và trôi),  sương với cỏ  (Đẹp và say), siêu hoa trăng với giàn mướp (Hoa trăng)... Vạn vật dậy hương tình yêu với con người, rất đỗi lãng mạn và thi vị. Ngay cả những bài thơ Thiền trong thơ đôi haiku của Nhật Chiêu cũng gợi đến tình yêu đôi lứa:

                                Trăng rơi nhanh

                                trong viên mưa đá

                                vỡ tan tành

                                          *

                                Em về bục áo vai tơ

                                phút giây ta ngộ đôi bờ lộ thiên

                                          (Ngộ)

                                Em trôi

                                với sông và nguyệt

                                qua mùa và tôi

                                          *

                                Bơi vô hình một dòng sông

                                em trôi trên đất qua lòng Như Lai

                                          (Trôi)

                                Cánh hoa rơi

                                thảnh thơi mơ thấy

                                mình đang ra đời

                                          *

                                Nam mô Bụt nam mô em

                                nam mô nắng thả lên thềm lung linh

                                          (Đản sinh)

Như thế, tôn giáo lớn nhất với Nhật Chiêu đã là tôn giáo của tình yêu, gắn với tình yêu. Thế giới đẹp nhất với ông là thế giới của tình yêu đôi lứa và có tình yêu đôi lứa mặn nồng, hạnh phúc. Đưa thơ tình lên ngôi trong thơ đôi đồng phương, Nhật Chiêu khiến haiku vừa kế thừa được sự phóng khoáng của văn hóa Nhật Bản vừa về gần với tiếng nói  của thơ ca lục bát với ca dao dân gian và truyện Nôm truyền thống Việt Nam. Nhiệt huyết với tình yêu và vẻ đẹp sex như vậy, Nhật Chiêu đã làm mới cả haiku lẫn lục bát. Ông khiến cho thơ đôi đồng phương haiku và lục bát vừa bắt rễ vào truyền thống văn hóa xưa của Nhật Việt, vừa mang hơi thở hiện đại, văn minh. Đây có lẽ là đóng góp và cũng là điều ấn tượng nhất về chủ đề trong thơ đôi đồng phương của Nhật Chiêu.

3. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  thỏa sức đồng sáng tạo, đọc liên văn bản cho độc giả

Cả haiku và lục bát đều là những thể thơ lời ít, ý vô cùng. Haiku lại là thể loại ngắn và hàm súc nhất của thơ ca phương Đông nói chung, thế giới nói riêng. Để có sức chứa vô biên trong hình thức ngôn từ ít ỏi, thơ haiku tích hợp trong lòng nó đa dạng các hình thức văn hóa phương Đông: nghệ thuật tranh thủy mạc, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật trà đạo... Bên cạnh haiku, lục bát cũng là thể thơ ngắn. Trong thơ ca dân gian Việt Nam, chỉ một cặp lục bát cũng đã đủ trở thành một chỉnh thể tác phẩm hấp dẫn, sinh động. Bằng tài hoa của mình, Nhật Chiêu kết hợp được vẻ đẹp kì diệu của tính hàm súc, gợi mở ở haiku và lục bát, tạo nên được hình thức thơ “xứng đôi đẹp lứa”. Đến với thơ đôi Nhật Chiêu, người đọc được đồng sáng tạo với tác giả bằng những sự cảm nhận phong phú, đa dạng qua đôi mắt và tâm hồn mỗi bạn đọc.

Tính chất hàm súc, đa nghĩa, dư ba ở thơ đôi Nhật Chiêu có nhiều cách thức khác nhau.

Thứ nhất, người đọc có thể thoải mái suy luận từ ngôn từ và ngữ nghĩa câu chữ. Ví dụ câu từ của bài Lửa sau đây:

                                Cây hồng ơi

                                hoàng hôn chín đỏ

                                quả ngon em mời

                                          *

                                Hoàng hôn nằm xuống bên đồi

                                lửa yêu ửng mọng thân ngời lên thân

“Cây hồng” là chỉ một loài cây- “cây hồng”, có quả chín hồng và sai quả, quả nọ san sát cạnh quả kia (thân ngời lên thân)? “Cây hồng”- ấy là “lửa” cháy trông như cây hồng- đỏ? “Cây hồng”- vùng trời bừng ánh sáng “hoàng hôn” cháy đỏ? “Cây hồng”- là “em” đang rực hồng đôi má, đôi môi tràn trề sinh lực của tuổi trẻ?  “Cây hồng”- trạng thái cảm xúc nàng đang rạo rực, khát khao hạnh phúc? “Lửa”, “cây hồng”, “hoàng hôn”, “em”- mỗi từ đều có thể khiến bài thơ có thêm một ý nghĩa. “Hoàng hôn nằm xuống” là ánh sáng hoàng hôn được nhân hóa? Ánh sáng hoàng hôn bừng lên, chiếu vào quả hồng đang chín đỏ làm quả hồng vốn đã đẹp lại càng rực sáng hơn, lung linh hơn?  Hay “Cây hồng” kia là “em”, “hoàng hôn” là “anh”? Bài thơ nghiêng tả cảnh một màn sex thăng hoa “ửng mọng thân ngời lên thân” của một đôi bạn trẻ? Biết đâu, cũng có thể đó là tình của một người đã về “hoàng hôn” của cuộc đời với một người đang thắm hồng như lửa cháy? “Lửa”- chủ đề bài thơ là sức nóng của lửa, hay của vũ trụ lúc chuyển giao trạng thái giữa ngày và đêm, hay là “độ nóng” trong lòng bạn trẻ, hay là sự bùng cháy của người đã sắp về bên kia thế giới? Bất tận ý nghĩa có thể tạo ra từ sự kết hợp, liên kết các câu từ, tùy theo sự tưởng tượng, liên tưởng bay bổng của người đọc.                     

Không bài thơ đôi nào của Nhật Chiêu có tính đơn nghĩa. Đọc bài thơ về thiên nhiên, thấy tình yêu đôi lứa; đọc bài thơ đôi lứa, thấy triết lí Thiền tông; đọc bài thơ tình yêu lại có thể thấy cả thế giới tự nhiên và suy tư về cuộc sống con người... Nhiều khi khó có sự tách rời giữa chất Thiền tông với bức tranh thiên nhiên và những cung bậc cảm xúc của con người. Nhật Chiêu thường hòa điệu các chủ đề đó trong một bài thơ. Trong đó, như đã nói, nổi bật lên là chủ đề tình yêu. Không ít bài, Nhật Chiêu khúc xạ thiên nhiên, chiêm nghiệm cuộc sống nhân sinh bằng đôi mắt và tâm hồn đôi lứa. Những hòn cuội, núi non, dòng sông trong thơ đôi của Nhật Chiêu thật tình tứ:

                                Hòn cuội nghiêng dần

                                lên hòn cuội khác

                                dưới dòng suối xuân.

                                          *

                                Nụ hôn của núi hằn sâu

                                lên gương mặt nước một màu hoàng hôn.

                                          (Hôn)

Đá cuội, dòng sông, mặt nước... tất cả đều được tác giả nhân hóa, có tâm hồn. Chẳng những “Sỏi đá cũng cần có nhau” (Trịnh Công Sơn) mà chúng còn có cách thức đến bên nhau thật dịu dàng, tinh tế: “Hòn cuội nghiêng dần/ lên hòn cuội khác”. Chúng ở bên nhau thật diễm lệ: “dưới dòng suối xuân”. Dòng suối xuân tình, luôn ở mùa của tuổi trẻ, mùa của sự sống, mùa của sự khởi đầu đã, đang và sẽ nuôi dưỡng, tắm mát muôn đời cho tình yêu của những hòn cuội. Những hòn cuội sống đời sống tình yêu bất tử. Thật thú vị và hạnh phúc biết bao. Cùng với những hòn cuội, núi cũng hành động trong yêu thương với dòng nước. Tuy nhiên, nó không “nghiêng dần” nhẹ nhàng, chậm khẽ như những viên cuội; ngược lại, nó “hằn sâu” nụ hôn mạnh mẽ, bạo liệt: “lên gương mặt nước một màu hoàng hôn”. “Màu hoàng hôn”- là màu chói chang bừng lên mạnh mẽ? Núi đã hôn dòng nước đắm say bằng tất cả trái tim nồng cháy của mình? Dòng nước mang “Một màu hoàng hôn”, e thẹn, đỏ ứng vì nụ hôn của núi? “Một màu hoàng hôn” là bóng núi in trên dòng nước xuân? Câu thơ đa nghĩa, có thể hiểu theo rất nhiều chiều liên tưởng khác nhau. Vì rằng, tài thơ của Nhật Chiêu đã khiến ông “chưng cất” được đặc điểm của thơ ca phương Đông nói chung, haiku nói riêng: ý tại ngôn ngoại, chỉ vài âm tiết ít ỏi mà ý tứ mênh mông, vô cùng. Mà cách hiểu nào cũng thi vị.  Cả thế giới thiên nhiên là một bản tình ca. Nhật Chiêu đã  thấy mọi vật, đá cuội hay dòng nước, ngọn núi cũng có đời sống tình yêu của chúng. Niềm tin “vạn vật hữu linh” đã được Nhật Chiêu diễn tả thăng hoa qua trạng thái và xúc cảm tình yêu đôi lứa của vạn vật. Thiên nhiên hòa điệu với con người. Nhật Chiêu nhìn hòn cuội, thấy tình yêu của cuội, nhìn bóng núi dưới làn nước thấy tình yêu của non nước... , nhìn đôi mi của người yêu, ông lại thấy cánh bướm chập chờn:

                                Rập rờn lay

                                đôi cánh nhung mi ấy

                                cánh bướm mơ bay

                                          (Mi)

Đôi mắt người con gái như đôi “cánh nhung”- đây là một sự liên tưởng kì thú. “Cánh nhung”- màu den huyền diệu và mượt mà, mát rượu- rất đẹp. Đó là “cánh bướm” nhung? Hay bờ mi của người con gái được trang điểm lộng lấy nhiều màu sắc, làm nền cho đôi mi khiến tác giả tưởng đôi cánh bướm sặc sỡ, điểm tô nhiều màu? Lại là thêm một ví dụ nữa để thấy tính chất ý tại ngôn ngoại, liên tưởng đa dạng, phong phú từ hình thức câu từ! Điều đáng nói nữa là: Nhật Chiêu đã nhìn thấy ở thiên nhiên có con người; ở con người có hình hài của tự nhiên. Như thế, thiên nhiên với con người là một mối tổng hòa hữu cơ, hòa kết. Đó cũng là tính chất Thiền tông cùng hòa quyện trong mỗi bài thơ đôi đồng phương của Nhật Chiêu.

Sẽ thêm ý vị nếu như đến với thơ đôi Nhật Chiêu bằng cách đọc liên văn bản. Người đọc có thể liên hệ đến nhiều tinh hoa văn chương nghệ thuật của ca dao, truyện thần thoại, các kiệt tác văn chương Đông- Tây  trong thơ đôi đồng phương haiku lục lát của Nhật Chiêu. Bài Lụa:

                                Một làn hương

                                bắc cầu với lụa

                                người thương người thương

                                          *

                                Con sông buồn bỏ đi đâu

                                mà nghe áo lụa qua cầu gió bay

với nhiều bài ca dao:

                                - Ước gì sông rộng một gang,

                                Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.

                                - Yêu nhau cởi áo trao nhau,

                                Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.

                                - Em như tấm vải lụa đào,

                                Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

                                ...

Bài Lạnh:

                                Lạnh và lẻ loi

                                sự thật ngồi trong tối

                                không có ánh đèn soi

                                          *

                                Em ngồi đâu đó trong mơ

                                mỗi khi lạnh lẽo tôi sờ tường không

gợi tâm trạng não nề của chàng Trương sinh khi tỏ thấu nỗi oan của vợ (Người con gái Nam Xương). Bài Tắm hoa, Khoảng vắng liên quan đến Truyện Kiều. Bài Ảnh có nàng tiên bước ra từ tranh trong Bích Câu kì ngộ (Đoàn Thị Điểm). Bài Gió bụi có bút danh Phong Trần của Hàn Mặc Tử. Bài như có ca từ Suối mơ của Văn Cao, lời thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính.  Bài Mưa và Miu gợi đến truyện ngắn Mèo trong mưa của Ernest Miller Hemingway. Đáy mắt có đồng điệu với Trăng soi đáy nước của Kawabata. Nàng chứa Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust... Đọc liên văn bản như vậy, thơ đôi Nhật Chiêu mở thêm nhiều ý nghĩa, vừa như “cô đọng” tinh hoa văn chương đông tây, kim cổ vừa thêm vào những ý nghĩa mới mẻ với sự đồng điệu, hoặc đối thoại, hoặc bổ sung, mở rộng, viết tiếp tác phẩm. Bạn đọc, bằng vốn sống, kiến thức, tâm hồn của mình, tha hồ liên tưởng, kết nối, đồng sáng tạo của tác giả.

                           

Kết luận

Với sự sáng tạo thơ đôi đồng phương haiku và lục bát, Nhật Chiêu đã có sự sáng tạo. Các bài thơ đôi trở thành thi phẩm kết hợp hai nền văn hóa Nhật Việt. Ông tạo ra cái mới hiệu quả đồng thời làm mới chính haiku và lục bát truyền thống. Mỗi bài thơ đôi của ông trở thành một phát minh mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thơ đôi đồng phương thêm một lần nữa khẳng định cá tính sáng tạo mãnh liệt của Nhật Chiêu. Đó là sự tiếp nối thành công cho những cố gắng tìm tòi của ông trên văn đàn từ khoảng 2006 với nhiều ấn phẩm Mưa mặt nạ, Người ăn gió và quả chuông bay đi, Lời tiên tri của giọt sương (tập truyện song ngữ Việt - Anh), Tôi là một kẻ khác (thơ tượng quẻ), Người về với như (thơ ca tương chiếu),...

Thơ đôi của Nhật Chiêu cũng là một minh chứng cho quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa. Trong giao lưu, các hiện tượng văn hóa có thể đan xen, ảnh hưởng, kết nối, giao thoa, hỗn dung với nhau. Thơ ca là những hiện tượng văn hóa, năm trong quy luật đó. Khi tiếp thu các thể thơ nước ngoài, các nhà thơ Việt Nam đã có tinh thần cởi mở trong tiếp nhận. Họ có nhiều sáng tạo, cách tân. Nhiều nhà thơ chơi thơ theo các cách khác nhau. Sáng tác “kép”- kết hợp thơ đôi haiku lục bát là hình thức chơi thơ tài hoa, độc đáo của Nhật Chiêu.

Nguyễn Thị Tính

TS - Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Bài viết đã trình bày tại Hội thảo “Nhận diện thơ lục bát Việt Nam đương đại”, Đại học Văn hóa Hà Nội, ngày 24/12/2020.

Tài liệu tham khảo

1. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ Haiku, biên khảo, NXB Văn học, 1994.

2. Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, biên khảo, NXB Giáo dục, 1998

3. Inoue Yasushi (2019), Luật thơ Haiku, Nguyễn Vũ Quỳnh Như dịch, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.


[2] Tràng Thiên, Mưa và thơ in trong Quê hương tôi, NXB Thời đại, 2012.

[3] Nhật Chiêu, lời comment trên Facebook “Cafe với Nhật Chiêu”

Nhà văn, ‘Văn Ngan tướng công’ Vũ Tú Nam - tác giả truyện ngắn nổi tiếng 'Sống với thời gian hai chiều', em trai nhà thơ Vũ Cao - vừa qua đời sáng nay, 9-9, tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Thông tin từ gia đình cho biết nhà văn Vũ Tú Nam đã qua đời vào 10h15 hôm nay, 9-9, tại Hà Nội.

Chia sẻ với Tuổi Trẻ Online, nhà thơ Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - cho biết nhà văn Vũ Tú Nam mất do tuổi già sức yếu. Vài ngày trước, ông còn đi thăm nhà văn Vũ Tú Nam tại Bệnh viện Hữu Nghị.

Nhà văn Vũ Tú Nam tên khai sinh là Vũ Tiến Nam, sinh năm 1929 trong một gia đình tiểu trí thức, quê ở Nam Định. Cha ông là một viên chức nhỏ của Pháp ở Hòa Bình nên ông học tiểu học ở Hòa Bình.

Ngoài người anh trai nổi tiếng nhưng mất sớm là nhà thơ Vũ Cao - tác giả bài thơ Núi Đôi, ông còn là em trai của nhà thơ Vũ Ngọc Bình - tác giả của bài thơ Con mèo mướp từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục tiểu học trước đây.

Vợ ông cũng là một người viết - nhà văn Thanh Hương, nguyên tổng biên tập báo Phụ Nữ Việt Nam. Siêu mẫu Vũ Nguyễn Hà Anh chính là cháu nội của nhà văn Vũ Tú Nam.

Nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1947, Vũ Tú Nam tham gia cách mạng. Sau khi học lớp Văn nghệ nhân dân khóa 2 ở Thanh Hóa, ông vào bộ đội, viết báo Vệ Quốc Đoàn ở Khu 4, sau đó ra Việt Bắc tham gia làm tờ báo mà ngày nay là báo Quân Đội Nhân Dân.

Sau Hòa Bình, ông về công tác tại Phòng văn nghệ quân đội của Tổng cục Chính trị với vai trò là một người sáng tác.

Năm 1958, ông được chuyển sang công tác tại báo Văn Học (nay là báo Văn Nghệ) của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong năm sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm vị trí: thư ký tòa soạn báo Văn Học, phó tổng biên tập báo Văn Nghệ, giám đốc Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nay là Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Ông cũng được bầu làm ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III, IV.

Đến Đại hội Hội Nhà văn khóa IV năm 1989 thì ông được bầu làm tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV (tương đương chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay), và ông chỉ làm một khóa, cho đến năm 1994 thì nghỉ hưu.

Ông cũng được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX.

Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, Vũ Tú Nam viết cả truyện ngắn, ký và thơ nhưng sở trường là truyện ngắn. Ông đã viết hơn 10 tập truyện ngắn, ký và thơ, trong đó truyện vừa Bên đường 12 viết năm 1950 theo ông Thỉnh là tác phẩm đặc sắc nhất, đã giúp ông giành giải nhất văn xuôi Văn nghệ liên khu 4, đồng thời cũng là tác phẩm giúp ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Trong khi đó, nhà thơ Trần Đăng Khoa - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đánh giá cao nhất hai truyện ngắn mà Vũ Tú Nam viết sau này, khi ông là giám đốc Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, là truyện Sống với thời gian hai chiềuMùa xuân tiếng chim.

Ngoài ra, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đánh giá cao truyện thiếu nhi Văn Ngan tướng công, vốn là "nguồn cơn" khiến bạn bè văn nghệ đặt biệt danh cho ông là "Văn Ngan tướng công".

Về con người của nhà văn Vũ Tú Nam thì cả nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều có chung nhận định rằng ông là một nhà văn, một lãnh đạo văn nghệ đức độ, khoan dung.

"Ông rất điềm đạm, tốt bụng, hiền lành, được anh em yêu mến. Ông lãnh đạo bằng sự đôn hậu, chân thành, lấy sự đôn hậu, khiêm nhường mà thu phục anh em văn nghệ", nhà thơ Trần Đăng Khoa nói.

Lễ viếng nhà văn sẽ được tổ chức vào 7h30 ngày 12-9 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu và đưa tang sẽ được tổ chức vào 8h45 cùng ngày, an táng tại nghĩa trang quê nhà ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-vu-tu-nam-qua-doi-o-tuoi-92-20200909205204062.htm

 

Thông tin truy cập

60858708
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
895
17592
60858708

Thành viên trực tuyến

Đang có 178 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website