Có một hôm, tôi đi xem kịch ở sân khấu Phú Nhuận và gặp Việt Linh đi cùng Minh Trang. Có lẽ hai bà chị không để ý có một khán giả ra về cứ lặng lẽ quan sát nét mặt của họ. Vài hôm sau, trên một tờ báo, Minh Trang bày tỏ sự day dứt vì sân khấu kịch: “… sau 30 năm, so với những Hà Mi, Phồn Y… thuở ấy, chẳng những không tiến mà còn bị lùi.” (Nghệ sĩ Minh Trang: “Người hạnh phúc là người biết mình ở đâu”, báo Phụ nữ TP). Tôi chỉ thấy hai bà chị này đáng trách, ai bảo thấy vở kịch có cái tựa Cúc cù cúc cu và một cái tên phụ là Xin anh hãy ngủ với vợ em mà vẫn đi xem! À, tôi cũng thấy, nhưng tôi không phải người ăn cơm nghệ thuật, lại thêm máu ghiền kịch thành ra hay rơi vào trạng thái xem đỡ vã. Còn hai bà chị lâu lâu mới về nước thì phải cân nhắc chớ. Nhưng không hiểu sao trong tôi lúc ấy lại nảy ra một sự chờ đợi, chờ đợi Việt Linh và Minh Trang sẽ làm điều gì đó cho sân khấu kịch.

Bài hát nổi tiếng “Trở về mái nhà xưa” (Torna a Surriento) của Ernesto de Curtis (Ý) được Phạm Duy viết lời Việt đã ngân vang từ nhiều năm nay và thường được hiểu như một bài ca về về tình hoài hương hay nói về tình yêu nhưng sự thực không phải thế. 

Những cơ duyên lịch sử cho việc dịch văn học Việt Nam ra tiếng Anh

Tuy không phải là một nền văn học lớn trên thế giới, nhưng văn học Việt Nam đã đến với người đọc nước ngoài từ lâu bởi một số hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Văn học Việt Nam đến với thế giới đầu tiên qua con đường Pháp ngữ. Nền giáo dục Pháp ngữ đầu thế kỷ 20 đã tạo nên một thế hệ trí thức người Việt giỏi tiếng Pháp, không chỉ tích cực dịch thuật hai chiều Pháp-Việt mà còn hình thành cả bộ phận văn học Việt Nam Pháp ngữ. Nhiều truyện thơ Nôm Việt Nam đã đến với độc giả phương Tây qua con đường Pháp ngữ từ rất sớm, chẳng hạn Truyện Kiều (1884), Lục Vân Tiên (1889), Ngọc Kiều Lê (1862), Bình Sơn lãnh yến (1927), Lục súc tranh công (1944)... tiếp theo đó là hàng loạt sáng tác của những tác giả hiện đại. Thế nhưng hiện nay, ngôn ngữ chủ yếu mà văn học Việt đang dựa vào để tiếp cận độc giả quốc tế lại là tiếng Anh, và phổ biến nhất lại là các tác phẩm văn học hiện đại. Đây cũng là một điều dễ hiểu vì sự thống trị của ngôn ngữ này trên thế giới và ở cả Việt Nam.

Hoạt động dịch thuật văn học Việt Nam sang tiếng Anh có sự góp sức từ nhiều lực lượng ở cả trong và ngoài nước, hoạt động qua sự se duyên của các tổ chức hoặc thuần tuý dựa trên mối quan hệ và động lực cá nhân. Họ đã làm nên một bức tranh phiên bản tiếng Anh của văn học Việt Nam đa dạng sắc màu và mang nhiều hứa hẹn.

Vai trò của giới xuất bản trong nước

Ngay từ thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, giới xuất bản ở miền Bắc đã ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trong hoạt động quảng bá văn hóa – văn nghệ dân tộc ra thế giới. Họ tự mình tìm kiếm dịch giả, tuyển chọn một số tác phẩm tiêu biểu của văn học đương thời và dịch chúng sang tiếng Anh. Nhà xuất bản Ngoại văn (Foreign Languages Publishing House, tiền thân của Nhà Xuất bản Thế giới hiện nay) đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hành trình quảng bá văn chương Việt Nam ra nước ngoài. Không chỉ chuyển ngữ các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh, nhà xuất bản Ngoại văn còn dịch sang cả tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Nhật và còn cả tiếng Bồ Đào Nha. Điều đó cho thấy khả năng làm việc vô cùng nghiêm túc và tinh thần quảng bá văn chương cực kỳ mạnh mẽ của nhà xuất bản này.

Cuốn sách đầu tiên mà chúng tôi ghi nhận được của Nhà Xuất bản Ngoại văn dịch sang tiếng Anh chính là tuyển tập truyện ngắn của Nam Cao – Chi Pheo and Other Stories (1961) – do Nguyễn Đình Thi dịch. Sau này, vào năm 1983, tuyển tập này lại được phát hành lần nữa trên thị trường. Đến năm 1963, tác phẩm Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan được nhà xuất bản này dịch sang tiếng Anh với nhan đề Impasse. Vào năm 1978, nhà xuất bản Ngoại văn phát hành tuyển tập thơ của Tố Hữu với phiên bản tiếng Anh – Blood and Flowers: The Path of the Poet To Huu (Selected Poems of To Huu) – do hai dịch giả Elizabeth Hodgkin, Mary Jameson chuyển ngữ. Hoạt động dịch thuật các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh của Nhà Xuất bản Ngoại văn sau đó vẫn tiếp tục được duy trì với sự ra đời của hai bản dịch Dairy of a Cricket (1991) – phiên bản tiếng Anh của Dế Mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài) – và tuyển tập thơ song ngữ Ký ước mắt đen (Memory of Black Eyes) (2009) của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

20201012

Tiếp nối những bước đi đầu tiên ấy, nhà xuất bản Hội Nhà văn cũng tích cực tuyển dịch các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh. Tuy nhiên, các tác phẩm chuyển ngữ của nhà xuất bản Hội Nhà văn chỉ nở rộ kể từ sau sự kiện Hội nghị Quốc tế Văn học Việt Nam diễn ra vào tháng 01 năm 2010. Lúc này, nhà xuất bản Hội Nhà văn kết hợp cùng với Hội Nhà văn Việt Nam và các đại biểu tham dự Hội nghị đến từ nước ngoài để cho ra đời những bản dịch tiếng Anh của các tác giả đã được trao giải thưởng Hội Nhà văn trước đó, trong đó nhà thơ Mai Văn Phấn có đến tận 5 tập thơ được dịch: Bầu trời không mái che: Firmament Without Roof Cover (Collected Poems) (2012), Out of the Dark (Collected Poems): Buông tay cho trời rạng (2013), Seeds of Night and Day (Collected Poems): Những hạt giống của đêm và ngày (2013), The Selected Poems of Mai Văn Phấn (Tuyển tập thơ tiếng Anh) (2015) và Thời tái chế: Era of Junk (Collected Poems) (2019). Thực ra, Mai Văn Phấn được dịch sang tiếng Anh nhiều thế này cũng là một hiện tượng hiếm hoi của thơ ca Việt Nam hiện đại. Các thi phẩm của ông đều rất kén độc giả đại chúng bởi tinh thần cách tân quá mạnh mẽ nhưng thơ Mai Văn Phấn rất được lòng giới hàn lâm ở Việt Nam. Có lẽ, chính tư tưởng phóng khoáng, cảm quan nghệ thuật hiện đại và lối viết cách tân của mình mà Mai Văn Phấn rất được lòng dịch giả, bởi tư duy nghệ thuật của ông đã thoát khỏi khuôn khổ mòn sáo của giới văn nghệ sĩ trong nước mà hòa vào dòng chảy chung của thơ ca thế giới đương đại. Bên cạnh đó, Hội Nhà văn Việt Nam khoảng 10 năm trở lại đây cũng có khuynh hướng tuyển chọn một số tác phẩm đoạt giải thưởng Hội Nhà văn và dịch chúng sang tiếng Anh để đưa đi dự thi các giải thưởng trong khu vực, từ đó, nâng tầm vị thế văn học Việt như trường hợp của tuyển tập thơ song ngữ Lễ tẩy trần tháng Tư – The Purification Festival in April (2005) của Inrasara.

Khi đời sống kinh tế thay đổi, hoạt động dịch thuật các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh cũng sẽ gặp không ít những thách thức bởi quy luật cung-cầu của nền kinh tế thị trường. Nếu trước kia, giới xuất bản trong nước chỉ tập trung quảng bá văn chương Việt Nam mà không cần lo lắng quá nhiều về vấn đề tiêu thụ bởi đã có sự bảo trợ của nhà nước thì ngày nay, các nhà xuất bản nội địa khi tiến hành tuyển dịch một tác phẩm văn chương Việt Nam phải cân nhắc rất nhiều đến tính thương mại của nó. Có lẽ, chính vì để phục vụ cho thị trường độc giả trong nước trước tiên nên họ chọn những đầu sách best-seller hấp dẫn công chúng hoặc các sáng tác văn học thiếu nhi, với lối dịch đơn giản, cú pháp được sử dụng không quá cồng kềnh, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Các dịch phẩm này được phát hành trong nước đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của độc giả bản địa, tạo nên một môi trường phù hợp để luyện tập và trau dồi ngoại ngữ. Với những bạn trẻ, họ có thể tìm đọc bản tiếng Anh các truyện dài lãng mạn của Dương Thụy như Beloved Oxford (Oxford thương yêu), Paris Through Closed Eyes (Nhắm mắt thấy Paris) hay In the Golden Sun (Cung đường vàng nắng) để luyện tập kỹ năng đọc bằng tiếng Anh của mình. Với các em thiếu nhi, các bậc phụ huynh có thể cho con họ tiếp cận với Dairy of a Cricket (Dế Mèn phiêu lưu ký, Tô Hoài) hay Open the Window, Eyes Closed (Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Nguyễn Ngọc Thuần) nhằm tạo niềm hứng thú cho các bé khi học tiếng Anh. Thêm vào đó, trải nghiệm mà độc giả có được từ một phiên bản khác sẽ mới mẻ và thú vị hơn rất nhiều so với việc chỉ tiếp cận văn bản gốc. Với những độc giả có sự nhạy bén về ngôn từ và có vốn từ vựng phong phú ở cả tiếng Anh và tiếng Việt, họ có thể đối chiếu và so sánh về khả năng biểu đạt của ngôn ngữ giữa bản dịch và bản gốc, hiệu quả thẩm mỹ mà văn bản mang lại, chất lượng bản dịch, v.v. Đó đều là những trải nghiệm rất quý báu mà chỉ có người đọc tự trải qua mới có thể đúc kết được. 

Sứ mệnh hữu nghị của Viện William Joiner

Bên cạnh chủ trương, chiến lược của các nhà xuất bản trong nước, văn học Việt Nam hiện đại còn được chuyển ngữ sang tiếng Anh qua ngòi bút của các dịch giả quốc tế, mà phần đông trong số họ đến với văn học Việt Nam thông qua viện William Joiner, một cầu nối văn chương bền bỉ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ suốt mấy mươi năm hậu chiến.

Viện William Joiner là tên gọi tắt của Viện William Joiner Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả xã hội (The William Joiner Institute for the Study of War and Social Consequences), thuộc Đại học Massachusetts (Boston, Hoa Kỳ) hoạt động với chủ trương đẩy mạnh các nghiên cứu học thuật, các chương trình giao lưu về các vấn đề văn hóa, giáo dục và khoa học xã hội và nhân văn nhằm xoa dịu những vết thương của chiến tranh và hóa giải hận thù giữa các dân tộc. Tiền thân của nó là Trung tâm William Joiner, thành lập vào tháng 10 năm 1982, được đặt theo tên của một cựu binh người Mỹ gốc Phi từng tham chiến ở Việt Nam. Viện William Joiner đã tiến hành dịch các tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Anh nhằm “nối nhịp cây cầu văn chương giữa hai đất nước từng đối diện với nhau bằng súng đạn” (Nguyệt Hà, 2017). Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, trong khi giới nghiên cứu ở Hoa Kỳ vẫn còn ngần ngại đề cập đến cuộc chiến mà quân đội của họ đã lún sâu ở Việt Nam suốt 20 năm ròng rã thì Viện William Joiner “đã tiên phong và xông xáo mở ra những cánh cửa ẩn chứa nhiều rủi ro: tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam nhằm vạch trần những tác hại khủng khiếp của chất độc da cam lên sức khỏe của con người” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Sau một số cuộc gặp gỡ ngập ngừng bước đầu, Viện William Joiner đã bắc được nhịp cầu văn chương Việt-Mỹ. Đã có gần 100 nhà văn, nhà thơ hiện đại Việt Nam, chủ yếu là các nhà văn cựu binh như Lê Lựu, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Sáng, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Duy, v.v, được đến Mỹ để tham gia những buổi hội thảo văn học do Viện William Joiner đứng ra tổ chức. Bên cạnh đó, Viện William Joiner còn tuyển dịch những tác phẩm thơ ca và văn xuôi Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh với hy vọng những nội dung sâu sắc mà văn học phản ánh sẽ giúp cộng đồng độc giả Hoa Kỳ thấu hiểu hơn những vết thương sâu hoắm mà chiến tranh đã gây ra cho dân tộc của dải đất hình chữ S.

Theo thống kê của Nguyệt Hà (2017), tính đến 2017, Viện William Joiner đã xuất bản ít nhất 14 lượt tác phẩm thơ dịch Việt Nam, trong đó nhiều tác phẩm của những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam đương đại đã đến với Mỹ qua các thành viên, cộng tác viên của William Joiner. Các tác phẩm này cũng xuất hiện ở 40 tạp chí văn chương trên khắp nước Mỹ và đã có những tập sách được in riêng, in chung của tác giả Việt Nam – Mỹ được bạn đọc hai nước đón nhận. Trong đó, công trình thơ đầu tiên được tuyển dịch chính là Poems from Captured Documents (1994) do dịch giả Bruce Weigl và tiến sĩ Thanh Nguyễn cùng nhau chuyển ngữ. Ngay từ lúc ra đời, Poems from Captured Documents thực sự đã tạo nên một cơn chấn động bởi cái nhìn của người Mỹ về dân tộc Việt Nam vẫn còn hết sức hà khắc, thậm chí còn ẩn chứa sự “miệt thị và căm giận” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Tuyển tập thơ này đã mang đến cho độc giả Hoa Kỳ những góc nhìn sâu sắc về tâm hồn những người lính Việt: Ẩn sau vẻ ngoài gai góc, anh dũng kia là niềm khắc khoải khôn nguôi về mái ấm gia đình. Đây có lẽ “quyển sách đầu tiên cho người Mỹ thấy rằng những người lính cộng sản cũng là những con người bình thường: họ yêu thơ ca, gia đình, cuộc sống. Họ đau đáu mong đợi hòa bình tung cánh trên dải đất Việt Nam” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Sau sự thành công của Poems from Captured Documents (1994), Viện William Joiner tiếp tục giới thiệu những tuyển tập thơ khác của văn học Việt Nam như The Women Carry in River Water (1997), Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 (1998), Distant Road: Selected Poems of Nguyen Duy (1999), 6 Vietnamese Poets (2002), The Time Tree: Selected Poems of Hữu Thỉnh (2003), Green Rice: Poems by Lam Thi My Da (2005), From a Corner of My Yard (2006), v.v. Trong tổng số 33 tập thơ của văn học Việt Nam hiện đại được dịch sang tiếng Anh mà chúng tôi tìm được, có đến 8 tuyển tập là do đội ngũ dịch giả của Viện William Joiner đảm trách phần dịch thuật và biên tập. Trong đó, tuyển tập Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 (1998) của bộ ba dịch giả Kevin Bowen, Nguyễn Bá Chung và Bruce Weigl đã giới thiệu được hầu hết những nhà thơ của văn học Việt Nam hiện đại như Hồ Chí Minh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa, Tạ Hữu Yên, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Nguyễn Quang Thiều, v.v. Những thi phẩm trong Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 phản ánh được toàn vẹn bức tranh đời sống xã hội và thế giới tinh thần của người Việt trong suốt những năm tháng đau đớn chống Pháp (1945-1954) và Mỹ (1954-1975).

Ở mảng văn xuôi, tiểu thuyết Thời xa vắng (A Time Far Past) của Lê Lựu do bộ ba Ngô Vĩnh Hải, Nguyễn Bá Chung và Kevin Bowen dịch là tác phẩm gây chú ý đầu tiên. Ngay từ khi mới xuất bản, A Time Far Past đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của độc giả ở nước ngoài. Theo Nguyễn Phan Quế Mai (2018), tạp chí phê bình Kirkus Review đã đánh giá tiểu thuyết này đã “miêu tả chân thực về cuộc sống ở Bắc Việt từ những năm 1950 đến những năm 1980, cung cấp những chi tiết hấp dẫn về văn hóa làng xã”, cùng với đó, “bản dịch tiếng Anh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết chi tiết sống động này là tác phẩm hay nhất và hấp dẫn nhất mà chúng ta đã thấy từ phía Bắc Việt Nam.” Một nhân vật đáng chú ý khác liên quan đến William Joiner là biên tập viên Wayne Karlin – một cựu thủy binh lục chiến Hoa Kỳ đã từng tham gia chiến đấu ở Việt Nam. Tuy rằng các công trình dịch thuật của Wayne Karlin không phải do Viện William Joiner cấp kinh phí thực hiện nhưng vai trò cầu nối của Viện trong trường hợp này là rất quan trọng. Bởi nếu không có những buổi hội thảo và giao lưu, gặp gỡ giữa các cựu chiến binh Việt Nam và Hoa Kỳ mà Viện William Joiner đứng ra tổ chức, Wayne Karlin chưa hẳn đã tiếp cận được những tác phẩm văn học Việt Nam tiểu biểu trong giai đoạn văn học Đổi Mới và đặc biệt, mối thâm tình giữa cựu binh này với nhà văn Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái cũng chưa có cơ duyên được xây dựng. Cuốn sách đầu tiên mà Wayne Karlin biên tập và giới thiệu đến công chúng Hoa Kỳ là tuyển tập truyện ngắn Free Fire Zone: Short Stories by Vietnam Veterans (“Vùng bắn phá tự do: Những truyện ngắn của cựu chiến binh Việt Nam”) (1973) tuy nhiên lại không gây được nhiều tiếng vang lớn trong cộng đồng độc giả Hoa Kỳ. Phải đến khi ông cùng Lê Minh Khuê, Trương Vũ biên tập quyển sách The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers (tạm dịch: “Phía bên kia góc trời: Văn xuôi hư cấu hậu chiến của những nhà văn Việt Nam và Hoa Kỳ”) (1995) thì cái tên Wayne Karlin mới được biết đến rộng rãi trong giới xuất bản bởi tấm lòng nhiệt huyết với văn chương Việt Nam. Tuyển tập này đã mang đến uy tín cho Wayne Karlin khi đạt giải thưởng Paterson 1998, sau đó không lâu, cựu chiến binh Hoa Kỳ này trở thành một biên tập viên chủ chốt cho series sách “Voices from Vietnam” (Những tiếng nói từ Việt Nam) của nhà xuất bản Curbstone. Mỗi năm, Wayne Karlin lại trở thành nhân vật nối kết – giới thiệu những tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại – cho đội ngũ dịch giả của Curbstone để họ tiến hành chuyển ngữ sang tiếng Anh. Cho đến nay, đã có 8 công trình dịch thuật thuộc series “Voices from Vietnam” do Wayne Karlin biên tập và giới thiệu được xuất bản, bao gồm tiểu thuyết The Stars, the Earth, the River (1997) được dịch từ nguyên tác Những Ngôi sao, Trái đất, Dòng sông (Lê Minh Khuê), Behind the Red Mist (1998) dịch từ nguyên tác Trong sương hồng hiện ra (Hồ Anh Thái), tiểu thuyết Against the Flood (2000) dịch từ Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), tiểu thuyết Past Continuous (2001) dịch từ Thời gian của người (Nguyễn Khải), tuyển tập truyện ngắn Love after War (2003), tuyển tập truyện ngắn The Cemetery of Chua Village and Other Stories (2005) dịch từ tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa (Đoàn Lê), tiểu thuyết An Insignificant Family (2009) dịch từ Gia đình bé mọn (Dạ Ngân). Tất cả đều được công chúng Hoa Kỳ đón nhận và có những phản hồi rất tích cực về chất lượng bản dịch.

Vai trò của các dịch giả tự do

Khi quan sát hoạt động dịch và xuất bản văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy bên cạnh nhóm dịch giả liên quan đến hệ thống xuất bản nhà nước với chủ trương quảng bá văn học, văn hóa, và nhóm liên quan đến Viện William Joiner mang tinh thần hữu nghị Việt-Mỹ, vẫn còn có những dịch giả khác không liên quan đến hai nhóm này. Họ có thể là người Việt sống ở trong nước hoặc hải ngoại, hoặc có thể là người nước ngoài chọn dịch tác phẩm vì lý do cá nhân hoặc lý do thuần văn học chứ ít chịu ảnh hưởng bởi các đường lối chính trị, ngoại giao của tập thể hay chiến lược thương mại của một nhà xuất bản. Chúng tôi tạm gọi họ là các dịch giả tự do.

Sau năm 1975, có một lượng lớn người Việt rời khỏi đất nước, sống lưu vong và hình thành, phát triển nên những cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh. Thời gian đầu, họ phải lo bám trụ lại xứ người nên chưa đủ sức để quan tâm nhiều đến các vấn đề văn học nghệ thuật, lại càng ít quan tâm đến việc quảng bá văn học. Đến thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, đời sống văn học Việt Nam hải ngoại khởi sắc hơn nhưng đó cũng là lúc người Việt tha hương thế hệ đầu sau 1975 bắt đầu chứng kiến sự đứt gãy các kết nối văn hóa với thế hệ kế tiếp. Bên cạnh nỗ lực gìn giữ tiếng Việt, những dịch giả Việt Nam ở nước ngoài dần dần lưu tâm đến những tác phẩm xuất sắc của văn chương Việt thời hiện đại, và tìm cách dịch chúng sang tiếng Anh với hy vọng để cho những thế hệ thứ hai, thứ ba của lớp người Việt di dân kể từ sau năm 1975 có thể tìm đọc và lưu giữ những bản sắc văn hóa của tổ tiên. Do đó, việc chuyển ngữ các văn bản văn học Việt Nam sang tiếng Anh không chỉ là một cách giới thiệu văn chương Việt đến bạn đọc quốc tế mà trước hết, nó xuất phát từ nhu cầu nội tại của chính các dịch giả người Việt nước ngoài. Hoạt động dịch thuật ấy như một cách để những thế hệ người Việt sau này – những thế hệ sinh ra ở nước ngoài và hít thở bầu khí quyển của văn hóa phương Tây, sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ mẹ đẻ – có thể tìm thấy linh hồn mình đâu đó ở những phiên bản tiếng Anh của văn chương Việt. Vì vậy, dịch các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh không còn đơn thuần là tinh thần quảng bá văn chương nữa mà nó đã mở rộng sang ở tinh thần tự tôn dân tộc, giữ lấy những bản sắc riêng của văn hóa quê hương mình. Để rồi từ những bản dịch tiếng Anh ấy, đội ngũ dịch giả người Việt ở nước ngoài mới bắt đầu hướng đến mục đích để cho bạn đọc trong cộng đồng mình đang sinh sống, rồi cả bạn bè quốc tế lắng nghe thanh âm của tâm hồn người Việt trong những năm tháng biến động của lịch sử đất nước.

Có một điều đáng chú ý là hầu hết các dịch giả người Việt định cư ở nước ngoài mà đảm trách phần dịch thuật văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh đều là những người có chuyên môn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Cụ thể hơn, họ đều là những giáo sư văn chương ưu tú ở giới học thuật Hoa Kỳ. Chẳng hạn dịch giả Huỳnh Sanh Thông là giáo sư giảng dạy tiếng Việt và văn học Việt Nam cho người nước ngoài ở Đại học Yale. Dịch giả Nguyễn Nguyệt Cầm, vốn là giảng viên giảng dạy ở Trường Viết văn Nguyễn Du, sau này sang Hoa Kỳ định cư và trở thành giảng viên dạy tiếng Việt ở Đại học California, Berkeley. Dịch giả Thúy Tranviet cũng là một giảng viên cao cấp của Khoa Châu Á học của Đại học Cornell. Với tri thức sâu rộng, khả năng ngôn ngữ Việt – Anh đạt đến kỹ năng điêu luyện cùng những trải nghiệm văn hóa sâu sắc ở cả hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ, đội ngũ dịch giả này đã mang đến cho độc giả nước ngoài những bản dịch có chất lượng rất tốt, nhận được những phản hồi tích cực từ bạn đọc. Những công trình dịch thuật của họ hầu hết đều được đánh giá rất cao và trở thành những bản dịch chuẩn mực, thậm chí còn được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các môn học về Việt Nam của nhiều trường đại học trên thế giới. Ví như tuyển tập thơ ca An Anthology of Vietnamese Poems: From Eleventh through the Twentieth Centuries (2001) của Huỳnh Sanh Thông là một trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn học Việt Nam ở lĩnh vực thơ ca bởi đã giới thiệu được gần như toàn vẹn bức tranh thơ ca Việt Nam hiện đại trải dài trong suốt thế kỷ XX. Hay như Dumb Luck (2002), phiên bản tiếng Anh của tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, do hai vợ chồng dịch giả Nguyễn Nguyệt Cầm và Peter Zinoman dịch thuật đã tạo nên thành công vang dội cho văn chương Việt Nam ở văn đàn quốc tế. Bản dịch của Số đỏ, vào năm 2003, đã được tạp chí Los Angeles Times đưa vào danh sách một trong những tiểu thuyết nước ngoài hay nhất trong thị trường sách ở Mỹ năm đó. Hay như bản dịch tiếng Anh của phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng) – The Industry of Marrying European (2003) – do Thúy Tranviet dịch cũng được giới chuyên môn ở Hoa Kỳ đánh giá cao bởi chất lượng dịch thuật. Bản dịch này là một trong những công trình nghiên cứu về văn hóa khu vực Đông Á do Đại học Cornell tài trợ và đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho giới chuyên môn quốc tế khi nghiên cứu về dòng văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam những năm 40 của thế kỷ XX.

Bản dịch Other Moons: Vietnamese Short Stories of the American War and Its Aftermath (2020) mà dịch giả Hà Mạnh Quân hợp tác cùng giáo sư Joseph Babcock (Đại học San Diego) cũng là một tuyển tập truyện ngắn rất đáng đọc khi đã mang đến 20 tác phẩm sâu sắc về ký ức chiến tranh và dư chấn tinh thần sau cuộc chiến. Dịch giả Hà Mạnh Quân là giáo sư ở Đại học Montana và đang đảm nhận vị trí Phó Trưởng khoa Ngữ văn Anh tại đại học này. Hà Mạnh Quân có thời gian dài sống ở Việt Nam và tốt nghiệp thủ khoa ngành Ngôn ngữ Anh tại Đại học Đà Lạt vào năm 2000. Sau đó, ông đạt được học bổng du học ở Hoa Kỳ. Sau thời gian học tại Mỹ, Hà Mạnh Quân định cư tại đây. Chính vì vậy, khác với những dịch giả ở trên di cư sang nước ngoài từ thập niên 70 chủ yếu tuyển dịch các tác phẩm văn học Việt Nam trước năm 1945, Hà Mạnh Quân lại chủ trương dịch các sáng tác của văn học chiến tranh cách mạng. Ngay từ khi mới có thông tin xuất bản, quyển sách của Hà Mạnh Quân và Joseph Babcock đã được giới thiệu ở tủ sách đáng mong chờ trong năm 2020 của tạp chí The New York Times

The Sorrow of War (Nỗi buồn chiến tranh) của Frank Palmos và Phan Thanh Hảo là bản dịch xuất hiện rất sớm và mang dấu ấn cầu nối trong và ngoài nước rất rõ rệt. Ở Hà Nội, Phan Thanh Hảo đã dịch Nỗi buồn chiến tranh không lâu sau khi nó ra đời và gây dư luận ở Việt Nam. Sau khi bản dịch của Phan Thanh Hảo được chuyển đến nhà xuất bản Martin Secker & Warburg, người biên tập mảng sách văn chương của nhà xuất bản lúc đó – Geoffrey Mulligan – đã chuyển cho Frank Palmos với hy vọng bằng những trải nghiệm của một phóng viên chiến trường từng có thời gian làm việc tại Việt Nam, ông có thể hiệu đính bản dịch một cách xác tín nhất dựa trên bản dịch thô của Phan Thanh Hảo. Bằng sự tận tình và tình yêu mến với tác phẩm, Frank Palmos đã lặn lội đến Hà Nội, cùng gặp gỡ Bảo Ninh và Phan Thanh Hảo, kết hợp cùng những trang báo viết về chiến tranh Việt Nam, để đối chiếu từng chi tiết trong bản dịch với nguyên tác. Sau 7 tháng miệt mài, The Sorrow of War được nhà xuất bản Martin Secker & Warburg (Anh) cho ra mắt độc giả, nhanh chóng gây tiếng vang trên văn đàn quốc tế, lọt vào danh sách Sách ngoại văn hay nhất năm 1994 do tờ The Independent bình chọn, và danh sách 50 bản dịch hay nhất của thế kỷ XX do Hiệp hội các tác giả của Vương quốc Anh bình chọn năm 2010.

Greg Lockhart cũng là người dành rất nhiều tình cảm với văn chương Việt Nam hiện đại với các dịch phẩm The General Retires and Other Stories (1992) từ nguyên tác Tướng về hưu và các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, và là đồng dịch giả với Monique Lockhart trong công trình The Light of the Capital: Three Modern Vietnamese Classics (1996). Vốn là một cựu binh từng chinh chiến ở chiến trường Việt Nam, sau khi giải ngũ, Greg Lockhart trở thành một nhà sử học và đồng thời là một tác giả cho ra đời những tiểu luận nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam và bi kịch của những quân nhân Australia khi tham chiến ở vùng đất này. Ký ức về Việt Nam trong những tháng ngày chiến đầu cứ đeo bám Greg Lockhart. Chính vì vậy, đến một lúc, Greg Lockhart cũng muốn làm một điều gì đó cho đất nước và con người Việt Nam. Và thế là ông đã tự mình chuyển ngữ các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh như một cách để thể hiện tình yêu mến của mình với quốc gia này. Ngay sau khi phát hành, phiên bản tiếng Anh của Tướng về hưu do Greg Lockhart đảm trách dịch thuật đã khiến cộng đồng độc giả quốc tế hết sức bất ngờ bởi một Nguyễn Huy Thiệp rất sâu sắc, hiện đại và ngay thẳng của nền văn học Việt Nam sau Đổi Mới. Chính nhờ Greg Lockhart, kể từ sau năm 1992, thế giới biết đến một Nguyễn Huy Thiệp. Chính nhờ Greg Lockhart và Monique Lockhart, thế giới cũng biết đến những Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng với những trang phóng sự và hồi ký đầy chân thực của những nhà văn Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu của thế kỷ XX.

Ngoài ra, văn học Việt Nam hiện đại cũng rất ghi nhận sự đóng góp của các dịch giả nước ngoài thuộc lĩnh vực nghiên cứu hàn lâm. Ví như Paul Hoover – một giáo sư của chuyên ngành sáng tác của Đại học bang San Francisco. Bên cạnh công việc giảng dạy, Paul Hoover còn là một nhà thơ có tiếng của Hoa Kỳ. Với những ưu thế của một nhà thơ bản ngữ, Paul Hoover sau này đã trở thành một dịch giả rất có tài khi phần lớn công trình dịch thuật của ông đều liên quan đến lĩnh vực thơ ca. Những tuyển tập thơ dịch nổi tiếng nhất của Paul Hoover chính là Black Dog, Black Night: Contemporary Vietnamese Poetry (2008) mà ông cùng Nguyen Do chuyển ngữ từ tiếng Việt sang tiếng Anh hay một tuyển tập khác được dịch từ các thi phẩm của Nguyễn Trãi, Beyond the Court Gate: Selected Poems of Nguyen Trai (tạm dịch: “Bên ngoài hoàng cung: Một số thi phẩm tuyển chọn của Nguyễn Trãi”) (Counterpath Press, 2010). Hay đó là một Aileen Y. Palmer – một nhà thơ, một chính trị gia và một dịch giả. Từng có thời gian tham gia Đảng Cộng sản Australia, Aileen Palmer có một cảm tình đặc biệt với những nhà thơ cộng sản và đã chuyển ngữ những thi phẩm của Hồ Chí Minh và Tố Hữu ngay từ những thập niên 1960, chẳng hạn như tuyển tập The Prison Dairy of Ho Chi Minh (Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, Bantam Books, 1967). Tuy nhiên, do không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với nguyên tác tiếng Việt, hầu hết các bản dịch về Tố Hữu của Aileen Palmer đều được chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Pháp trước đó. Riêng trong bản dịch The Prison Dairy of Ho Chi Minh (1967), Aileen Palmer trình bày bằng cả ba ngôn ngữ Anh – Việt – Hoa để độc giả có thể đối chiếu và so sánh. Hay một dịch giả khác là Steve Bradbury, một giáo sư của trường Đại học Quốc lập Trung ương ở Đài Loan (National Central Unversity in Taiwan). Tuyển tập Poems from the Prison Diary of Ho Chi Minh (2004) mà Steve Bradbury là dịch giả đã tuyển dịch 49 bài thơ từ nguyên tác Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh) để giới thiệu đến độc giả quốc tế. Công trình này được dịch từ nguyên tác tiếng Hoa, có sự tham khảo với bản dịch tiếng Pháp, nên được người đọc đánh giá cao ở sự công phu và tỉ mỉ trong dịch thuật.

Có thể thấy, nhờ những nỗ lực bền bỉ của đội ngũ dịch giả trong nước và nước ngoài, nhiều tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đã được giới thiệu ra quốc tế, giúp thế giới hiểu thêm về một nền văn học có truyền thống, có bề dày, và trên hết là có thành tựu, thậm chí là những đỉnh cao. Đó là công lao rất lớn của các dịch giả đối với văn học nước nhà.

Nguyễn Bảo Châu và Trương Công Bảo Thư (SV khóa 2017, chuyên ngành Văn học)

TS. Nguyễn Thị Phương Thuý (GVHD)

Bài viết thực hiện trong khuôn khổ đề tài "Khảo sát tình hình dịch văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh" - NCKH SV cấp trường năm 2019-2020

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 947, tr. 90-97.

Lịch sử các khóa học sáng tác ở bậc đại học tại Hồng Kông tương đối ngắn. Tuy nhiên, khóa tập huấn sáng tác không chính thức đã tồn tại ở Hồng Kông ít nhất là từ năm 1969. Trong một cuộc phỏng vấn, một nhà thơ nổi tiếng của Hồng Kông , Quan Mộng Nam (关 梦 南), nói rằng ông đã tham dự một khóa tập huấn thơ ca được giảng dạy bởi các nhà văn Hồng Kông là Đái Thiên (戴 天) và Cổ Thương Ngô (古 苍梧) năm 1969, và ông ấy khẳng định rằng kinh nghiệm này giúp ông trở thành một nhà văn, mặc dù ông chưa bao giờ có cơ hội được đào tạo về văn chương ở cấp bậc đại học. Một phần nhờ vào nhà văn Trung Quốc Nhiếp Hóa Linh (聂华), người đồng sáng lập Chương trình Viết quốc tế tại Đại học Iowa, Mỹ, nhiều nhà văn sử dụng tiếng Trung đã được mời học chương trình sáng tác của Đại học Iowa. Ví dụ nhà thơ Đái Thiên, là một trong số họ. Ông ấy nhận bằng Thạc sĩ sáng tác tại Đại học Iowa cuối những năm 1960, và bắt đầu mở các khóa tập huấn viết văn tư ở Hồng Kông ngay sau đó.

Vừa qua, Nguyễn Hồng Mơ, SV khóa 2018, chuyên ngành Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM đã đạt Giải bạc trong cuộc thi Cảm nhận văn học Hàn Quốc 2020 do Viện dịch thuật văn học Hàn Quốc và Khoa tiếng Hàn quốc, Trường Đại học Hà Nội đồng tổ chức.

Web Khoa Văn học giới thiệu bài viết đã đạt giải của SV Nguyễn Hồng Mơ, viết về tác phẩm Cô gà mái xổng chuồng của nhà văn Hwang Sun-mi.

*** 

20200926 5

Việt Nam, tháng 4 năm 2020!

Lá thư gửi Mầm Lá - gửi những ước mơ tốt đẹp nhất thế gian!

     Mầm Lá thân mến! Mình không biết Mầm Lá có đọc được lá thư này không bởi vì bạn đã ra đi mãi mãi, nhưng từ trong sâu thẳm, mình luôn dành cho bạn sự trân trọng, ngưỡng mộ và cảm phục. Mình cũng khao khát bạn sẽ đọc được những tâm sự của mình - một công dân bé nhỏ của đất nước Việt Nam biết bạn qua cuốn sách "Cô gà mái xổng chuồng".

     Mình chưa từng được đặt chân đến xứ sở Kim Chi, nơi có những anh chàng soái ca hay cô nàng diễn viên xinh đẹp mình thường thấy qua màn ảnh nhỏ; chưa từng được tận mắt thấy tháp Nam San hay mặc thử bộ trang phục Hanbok; chưa từng biết cảm giác vui đùa dưới tuyết, hoặc là ngắm cây Mimosa mà Mầm Lá thích. Nhưng qua cách Mầm Lá kể và trong cảm nhận của mình, mình bỗng dành một tình yêu cho đất nước của bạn như dành tình yêu cho đất nước Việt Nam của mình vậy.

     Bạn biết không? Có lần cô mình đề xuất sách giáo khoa của bọn mình sẽ có thêm nhiều tác phẩm văn học Hàn Quốc, bởi vì cô nhận thấy trong cả 12 năm học, cô không thấy có một tác phẩm văn học Hàn Quốc nào. Cô mình là người rất yêu đất nước Hàn, cô cũng nghiên cứu rất nhiều về văn học Hàn, thế nên cô lấy làm tiếc vì các em học sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận về nền văn học ấy. Đúng thật là mình được học về văn học Nga, văn học Trung Quốc, văn học Pháp, thơ Haiku của Baso,... Nhưng chưa được biết nhiều về văn học của đất nước bạn. Dẫu sau này lên Đại học, mình có được học nhiều hơn nhưng giá như mình được biết đến từ khi còn là học sinh. Mà Mầm Lá này, tuy là vậy thôi chứ những người yêu văn chương như bọn mình vẫn luôn tìm đọc những cuốn sách văn học Hàn Quốc trên thị trường. Mình đã từng khóc khi đọc "Hãy chăm sóc mẹ", mình học cách sống chậm lại qua "Bước chậm lại giữa thế gian vội vã" hay những câu thơ trong "Mẹ ơi, con sẽ lại về" cứ day dứt mình:
"Cuộc đời như giọt sương trên nhánh cỏ
Như đống lá vàng rụng ngoài sân
Con cái có nhiều đi chăng nữa
Trưởng thành rồi cũng sẽ tung cánh bay đi"


     Nếu như các bộ phim truyền hình Hàn Quốc thường phác họa cuộc sống hiện đại, giàu có, hào nhoáng thì lại có một Hàn Quốc rất khác trong mắt các nhà văn. Và Hwang Sun-Mi là một tác giả trong số đó. Cô viết những cuốn sách như "Những người bạn ở thung lũng mặt trời mọc", "Phiếu bé hư", "Chó xanh lông dài",... Cô lựa chọn cách viết chia sẻ cho trẻ em thấy cuộc sống diễn ra thế nào, hãy để trẻ em nhìn thấy muôn màu của cuộc sống. Bởi cô từng có một tuổi thơ không êm ả gì. Bố thì bảo lãnh nợ cho bạn nên gia đình trở nên khánh kiệt, lên 7 tuổi, cô đã phải đi làm kiếm tiền, mẹ cô từng ném cặp sách của con gái vào bếp lửa. Những vết thương ấy đã hằn sâu vào tâm trí cô. Nhưng văn học đã phần nào hàn gắn vết thương đó, cô viết cho trẻ em như viết cho chính mình vậy.

     Mình bắt gặp "Cô gà mái xổng chuồng" trong một lần đi thư viện. Nhìn cái bìa sách màu hồng do Nhà xuất bản Nhã Nam phát hành cùng hình ảnh cô gà mái với dòng chữ "Chuyện kể về cô gà mái công nghiệp dám đi tìm tự do", mình đã rung động ngay và mượn nó về nhà. Mình đọc đi đọc lại mấy lần, mình còn giới thiệu cho bạn bè đọc nữa. Mầm Lá, chính là tên của bạn mà bạn lại là nhân vật chính trong quyển sách ấy. Bạn là một cô gà mái công nghiệp, lẽ ra phải sống trong lồng sắt, được ăn no và đẻ trứng cho chủ. Nhưng bạn lại có một ước muốn sẽ được tự do, được ấp trứng. Bạn tâm sự: "Đúng là mình có một tâm nguyện, được ấp trứng và chứng kiến gà con ra đời. Mình đã sống thật mệt mỏi nhưng cũng rất hạnh phúc. Nhờ có tâm nguyện đó mà mình đã sống tới tận bây giờ". Hành trình của bạn nó vẫn ở mãi trong tâm trí mình, đến tận bây giờ khi đã đọc quyển sách được hơn 2 năm, mình vẫn nhớ rõ mồn một từng chi tiết, bởi câu chuyện của bạn thật sự cảm động.

•) Cái giá của sự tự do
     Mầm Lá biết không, đất nước Việt Nam của mình phải trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh để giành lấy tự do và có được cuộc sống như hiện nay. Bác Hồ đã nêu lên một chân lí: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Mình cũng rất khâm phục những cuộc giải phóng tự do cho người da màu trên thế giới. Mình nghĩ con người khi sinh ra luôn có quyền được tự do và phải được hưởng quyền tự do. Mình vô cùng căm phẫn trước sự áp bức, tướt đoạt đi quyền ấy của con người bởi những thế lực bạo tàn. Mầm Lá đã được là chính mình và tự do làm điều mình muốn, thật thích phải không bạn? Nếu bạn không thoát khỏi cái lồng sắt ấy có lẽ mình sẽ không có cơ hội để đọc quyển sách, vì bạn chỉ mãi là một cô gà công nghiệp bị con người bắt đẻ trứng suốt đời. Nhưng đánh đổi với sự tự do không phải dễ dàng. Chiến tranh đã lấy đi biết bao sinh mệnh, máu, mồ hôi và nước mắt của rất nhiều người Việt Nam. Cuộc hành trình đi tìm tự do của Mầm Lá cũng vậy. Khi bạn bước ra khỏi cái lồng sắt chật hẹp là một thế giới bao la. Mình đã xót xa khi đọc đoạn Mầm Lá bị Gà Trống hắt hủi, cả trại gà đuổi Mầm Lá đi và bạn bơ vơ một mình chống chọi, tự kiếm thức ăn để sinh tồn. Khi còn được ở trong lồng, bạn luôn được ăn no ngủ kĩ thì giờ đây những cơn đói cồn cào, những giấc ngủ chập chờn luôn đến với bạn. Thân hình bạn cũng tiều tụy hẳn đi, có những lúc mình tưởng bạn đã không chịu được nhưng rồi bạn vẫn sống để tìm tự do cho chính mình. Để mình kể cho bạn nghe, lúc nhỏ mỗi khi ba mẹ la mắng mình, mình đã muốn lớn thật nhanh để thoát khỏi sự tù túng ấy. Và rồi khi mình trở thành một sinh viên, phải rời xa gia đình để đến một thành phố khác để học tập, bấy giờ mình đã hoàn toàn tự do. Nhưng lúc ấy mình cảm thấy lạc lõng và sợ hãi lắm bạn ạ, vì xung quanh chẳng có gia đình kề bên, lúc ốm đau không còn được mẹ nấu cho những tô cháu để ăn, ba đưa thuốc để uống. Có lúc mình cũng tều tụy như Mầm Lá vậy, song sau tất cả mình cũng trở nên mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn. Mình nhận ra tự do không chỉ là sự tự do về thể xác mà còn là sự tự do trong tâm hồn, được thỏa thích làm điều mình muốn, rèn luyện thêm ý chí kiên cường dũng cảm. Bây giờ, mình tự tin nói với Mầm Lá rằng mình có thể tự lo cho bản thân về nhiều mặt rồi đó.

•) Câu chuyện cảm động về tình mẫu tử
     "Mẫu" nghĩa là mẹ, "tử" nghĩa là con, "mẫu tử" có nghĩa là tình mẹ con. Người ta nói đến tình mẫu tử còn là nói đến tình cảm yêu thương, che chở, bảo vệ của người mẹ dành cho con. Trên thế gian này còn tình cảm nào đẹp đẽ và cao quý hơn tình mẫu tử. Mầm Lá tuy chỉ là một cô gà nhưng tình mẫu tử giữa bạn và đứa con rất đáng trân quý. Loài người chúng mình có câu rằng:
"Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng"

Thường thường người ta khó chấp nhận và yêu thương những gì không cùng huyết thống với mình. Vậy mà Mầm Lá đã chăm sóc yêu thương cho một chú vịt, dù chẳng biết chú do ai sinh ra. Đầu Xanh là một chú vịt trời, còn Mầm Lá là một cô gà không biết bay, không biết bơi, dẫu vậy sự khác biệt ấy chẳng làm thay đổi đi tình yêu thương của bạn dành cho con. Mình cũng có một người mẹ rất tuyệt vời. Vì mình, mẹ đã trải qua chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau; chăm sóc cho mình những khi mình ốm; dạy mình biết cầm chổi quét nhà;... Mẹ rất yêu thương mình và mình cũng thế. Mình cũng hối hận những lần cãi lời mẹ, làm mẹ phiền lòng. Mình hứa với bạn mình sẽ luôn cố gắng học hành để mẹ luôn được vui. Mình cũng từng đọc "Hãy chăm sóc mẹ" của nhà văn Hàn Quốc Shin Kyung Sook. Mình đã khóc rất nhiều khi người mẹ ấy bị lạc và những đứa con bắt đầu đi tìm. Mầm Lá ơi, mình càng đọc thì càng trân trọng và yêu thương mẹ mình hơn. Mình có một đứa em học cùng trường, mẹ của em vừa mới mất cách đây không lâu, nghe tin mình đau đớn lắm, em đã phải mất mẹ khi em còn quá nhỏ tuổi, mất đi một tình cảm thiêng liêng chắc em đã khóc nhiều lắm. Mình mong ai cũng yêu thương mẹ của mình khi còn có thể. Mình cũng mong loài người chúng mình sẽ yêu thương nhau nhiều hơn, dù cho có khác nhau đi nữa, như câu ca dao mình được dạy:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
.


•) Một tình bạn tuyệt vời
      Vào một giây phút nào đó trong cuộc sống, ta sẽ tìm được một người có thể thay đổi cuộc sống của ta dù chỉ một phần nhỏ. Đó chính người mà ta gọi bằng danh từ đáng quý "bạn bè". Mầm Lá đã có một tình bạn thật đẹp với Vịt Trời. Cậu ấy đã lên tiếng giúp Mầm Lá ra khỏi cái hố gà khi Mầm Lá tưởng mình đã chết. Cậu đã dẫn Mầm Lá về trại gà để nghỉ ngơi. Cậu đã luôn bảo vệ mẹ con Mầm Lá trước Mụ Chồn. Rồi cũng chính cậu, là người đã hi sinh để Mầm Lá và con được an toàn. Mình quên làm sao được những lời Vịt Trời đã nói với Mầm Lá:
"Chúng mình tuy sinh có hình dáng khác nhau nên không thể hiểu hết ruột gan nhau, nhưng có thể yêu thương nhau mà. Mình kính trọng cậu"
"Cho dù không hiểu nhau đi chăng nữa? Làm sao có thể như vậy được?"
"Vì mình biết cậu là một cô gà mái mẹ vĩ đại như tán lá vậy"

Mình cũng có nhiều bạn, họ luôn quan tâm, giúp đỡ mình. Đôi lúc, giữa chúng mình cũng xảy ra những hiểu lầm nào đấy, chúng mình đã cãi vã, thậm chí nói xấu nhau, nhưng cuối cùng chúng mình vẫn là bạn. Mình nghĩ, một tình bạn đẹp là một tình bạn không hoàn hảo, cũng phải có những khiếm khuyết để ta ngày càng hoàn thiện khiếm khuyết ấy. Như Mầm Lá đã có lúc không hiểu những hành động kì lạ của Vịt Trời vào ban đêm vậy. Quả thực, sau gia đình thì bạn bè là những người đáng quý nhất trong cuộc đời này. Mình mong mỗi đứa trẻ khi lớn lên sẽ có được những người bạn, cùng bù đắp điều đối phương còn thiếu, cùng chia sẻ vui buồn, cùng nhau lớn lên và có với nhau thật nhiều kỉ niệm đẹp. Để nếu cô giáo có yêu cầu kể về người bạn của em, chúng sẽ viết nên những trang văn cảm xúc nhất và hay ho nhất thế gian.

•) Qui luật sinh tồn
     Trong cuộc sống này để tồn tại tất yếu chúng ta phải trải qua những qui luật, một trong số đó là qui luật sinh tồn. Con sâu ăn lá cây, con chim ăn lại con sâu, con đại bàng sẽ ăn lại con chim,... Con người chúng mình cũng phải ăn thực vật, động vật để sống. Dù muốn dù không vẫn phải chấp nhận cái qui luật ấy Mầm Lá à. Mình vẫn nhớ mãi cái khoảnh khắc Mầm Lá dù không muốn ăn con chuồn chuồn nhưng vẫn phải ăn để sống, để còn bảo vệ cho Đầu Xanh. Cuối cùng Mầm Lá để Mụ Chồn ăn thịt cũng vì Mầm Lá muốn mụ no để còn chăm cho các con của mụ. Chắc có lẽ nhiều người khi đọc quyển sách sẽ cho rằng Mụ Chồn là nhân vật độc ác nhất trong truyện, còn cá nhân mình lại không thấy vậy. Bởi lẽ đó là qui luật sinh tồn, muốn tồn tại tất yếu phải có sự tiêu diệt lẫn nhau. Con người có thể có trái tim biết yêu thương đồng loại, biết cảm thông với người khác, còn loài vật thì thật khó để thấu hiểu cho nhau, nhất là giữa kẻ yếu và kẻ mạnh. Con mèo nhà mình vẫn hằng ngày bắt chuột, thỉnh thoảng mình thấy chú ăn chán chê thì vờn chuột trong thích thú mặc chuột vô cùng đau khổ. Chú đâu đủ cảm xúc để yêu thương con vật yếu hơn chú. Và nếu chú không đấu tranh để được sống, chú sẽ đánh đổi bằng cái chết. Vậy nên lúc Mầm Lá bị Mụ Chồn ăn thịt, mình không buồn không tiếc nuối, vì mình hiểu đó là qui luật cả rồi.

•) Niềm tin vào tương lai
     Sau cái đêm chứng kiến Vịt Trời ra đi, tuy buồn nhưng Mầm Lá tự an ủi mình: "Nếu có ai đó chết đi thì lại có ai đó được sinh ra. Trải nghiệm li biệt và gặp gỡ cũng diễn ra đồng thời như vậy. Vì vậy đến một lúc nào đó nỗi buồn không thể kéo dài mãi". Có những lúc mình cảm thấy bất lực trước những khó khăn của cuộc sống. Có những chiều lang thang khi ánh mặt trời đã dần thay thế bởi bóng tối, mình tự hỏi ý nghĩa của cuộc đời là gì. Có những thất bại đã làm ý chí của mình lung lay đôi ba phần. Mình chán ngán, tuyệt vọng muốn buông xuôi tất cả. Vậy mà Mầm Lá, bạn chỉ là một cô gà nhỏ bé đã luôn kiên cường vượt qua để "sống tới tận bây giờ". Mình kể Mầm Lá nghe, có một lần mình tham gia ngày hội "Hoa hướng dương" - một chương trình thường niên dành cho các bệnh nhi ung thư ở Việt Nam. Mình đã tận mắt nhìn thấy các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, trông các em gầy gò, xanh xao, đầu thì chẳng còn một sợi tóc nào. Nhưng ngày hôm ấy diễn ra rất vui vẻ, các em ai cũng lạc quan, mình không thấy em nào khóc hay buồn cả. Sau khi trở về nhà, mình cứ nhớ tới các em và nhớ tới loài hoa mặt trời, các em cũng giống như bông hoa ấy luôn luôn hướng tới những điều tốt đẹp của cuộc sống. Mình đã dần biết quý trọng, yêu thương bản thân nhiều hơn và có niềm tin tích cực vào tương lai. Mầm Lá nghe thử một bài hát Việt Nam mình thường hay nghe lúc cảm thấy bế tắc nhé - bài hát mang tên "Sống như những đóa hoa":

Tôi từng mong đời trôi thật nhanh
Để cho lòng tôi nhẹ vơi sầu đau
Ngỡ như trên đời, thiếu những nụ cười
Muộn phiền giăng lối khắp nơi

Tôi từng mong tôi không là tôi
Tôi từng mong tôi giống bao người
Để sống thảnh thơi
Sống như tôi vẫn mơ

Và rồi tôi nhận ra
Rằng trong trái tim này
Là tình yêu vô bờ
Và đầy ắp ước mơ

Và rồi tôi nhận ra
Rằng những khó khăn này
Càng làm tôi thêm yêu cuộc đời
Và thắp sáng niềm tin trong tôi

Và tôi sống như đoá hoa này
Toả ngát hương thơm cho đời
Sống với nỗi khát khao rằng
Được hiến dâng cho cuộc đời
Hôm nay dẫu có gian nan
Thì ngày mai là ngày tươi sáng hơn
Tôi sẽ viết nên câu chuyện của cuộc đời riêng tôi.

Bây giờ thì mình thật sự tin rồi, một lúc nào đó nỗi buồn sẽ không thể kéo dài mãi mãi. Hãy cứ tin vào một tương lai tươi sáng ở phía trước, chúng ta sẽ còn nhiều lí do để cố gắng mà phải không? Như Mầm Lá đã tin sau li biệt sẽ là gặp gỡ, sau cái chết sẽ là sự sống vậy.

•) Một cái chết vĩ đại
     Mầm Lá đã chết, bạn đã ra đi một cách vĩ đại nhất trong truyện. Có ai đó từng bảo: Khi bạn sinh ra, bạn khóc, người khác cười. Hãy sống sao đến lúc mất đi, bạn cười, người khác khóc. Con người hay các loài sinh vật khác cũng thế, rồi cũng không thể tránh được qui luật tự nhiên. Một ngày kia, mình cũng sẽ trở về với đất mẹ, mình không thể trường tồn vĩnh cửu với thời gian. Nhưng mình sẽ sống như Mầm Lá, sẽ ra đi mà lòng không có gì tiếc nuối vấn vương. Hiện nay có một tệ hại là nhiều người lãng phí cuộc đời mình, hoặc chìm đắm trong những tệ nạn để rồi đến lúc gần đất xa trời lại hối hận. Nhiều người trẻ đang sống mà như không sống, chẳng dám tận hưởng và phát huy hết tác dụng của từng giây phút trên đời.
“Sinh, lão, bệnh, tử” vốn là một quy luật của tự nhiên. Đã là quy luật thì rất khó thay đổi. Không thể đối đầu với thời gian nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đối đầu với chính mình. Bằng cách nhận ra giới hạn của cuộc sống, chúng ta mới có thể sống ý nghĩa hơn. Ở tuổi 20, bạn trổ hết tài năng, ở tuổi 40, bạn tích lũy đầy mình thì ở tuổi 70, bạn mới có thể điềm đạm thong dong. Mình mong sao bản thân sẽ luôn tỉnh táo, biết trân trọng từng phút giây được sống và làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Mình tin Mầm Lá sẽ ủng hộ mình.

•) Sự kiên trì theo đuổi ước mơ
     "Còn bạn, bạn đã ấp ủ giấc mơ như thế nào? Bạn thay đổi ước mơ của mình đến lần thứ mấy rồi? Việc thường xuyên thay đổi ước mơ cho thấy bạn tò mò muốn khám phá thế giới xung quanh. Đó cũng là minh chứng cho thấy bạn không hề từ bỏ hy vọng và dũng khí của mình. Trong suy nghĩ của tôi lúc này, tôi mong sao có thật nhiều em bé ấp ủ những giấc mơ kì thú đến mức không thể trở thành hiện thực. Và khi trở thành người lớn, các em cũng đừng quên giấc mơ đó nhé. Có người đã nói rằng, ai có ước mơ thì bất cứ lúc nào người đó cũng là nhân vật chính trong cuộc đời của mình". "Ai có ước mơ thì bất cứ lúc nào người đó cũng là nhân vật chính trong cuộc đời mình", cô Hwang Sun-Mi nói đúng. Không ai có thể sống dùm ước mơ của người khác được, giống như những cô gà mái khác không ước mơ được ấp trứng thì các cô chỉ mãi là những cô gà công nghiệp thôi. Mầm Lá biết không, lúc nhỏ mình ước mơ nhiều lắm, mình muốn trở thành một bác sĩ để chữa bệnh cho mọi người hay một cô cảnh sát để giữ gìn an ninh xã hội,... Đến cả những ước mơ phi thực tế như được bay lên bầu trời giống những chú chim, được có phép thuật để mỗi lần mẹ đánh sẽ tàn hình biến mất. Sau này lớn lên, mình đã dừng chân tại ước mơ nghiêm túc nhất, mình về với văn chương. Mình cũng chưa biết sau này ra trường mình có thể trở thành một nhà văn hay không nhưng hiện tại mình cảm thấy rất hạnh phúc khi sống với ước mơ của mình. Mình kể cho bạn nghe có những ước mơ bị chôn vùi mãi mãi vì sự thật đáng buồn là họ không nhận được bất kì sự ủng hộ nào. Mình từng nghe một vài bạn tâm sự ba mẹ không chấp nhận bạn ấy theo đuổi con đường bạn ấy chọn mà phải nghe theo ý gia đình. Mình biết chắc chắn sẽ có người bảo tại sao không sống với ước mơ của mình đi, mình tin là người quý trọng tình cảm gia đình, Mầm Lá sẽ hiểu gia đình thiêng liêng nhường nào, sao có thể dám cãi lời ba mẹ đúng không. Thế là những ước mơ bị chôn vùi mãi, buồn quá Mầm Lá nhỉ. Mình khâm phục và ngưỡng mộ những người như Mầm Lá vô cùng, bởi bạn đã dám kiên trì với ước mơ của bản thân dù có biết bao nhiêu khó khăn cản trở. Mình có đọc được rằng, Ch'oe Nam Son đã nêu ra "tam ưu tứ khuyết" của người Hàn Quốc. Trong đó, "tam ưu" bao gồm:
Chủ nghĩa lạc quan
Tình yêu thuần khiết
Sự kiên trì, bền bĩ và dũng cảm

Đó là những điều mà người Việt Nam như mình học tập được rất nhiều. Ai cũng có ước mơ, nhưng chúng ta phải biết kiên trì và dũng cảm cùng với luôn lạc quan để giữ mãi tình yêu ấy phải không Mầm Lá?

Lời kết
     Năm 2020, năm mình vừa tròn 20 tuổi với bao dự định, khát khao. Nhưng đáng buồn là mình vẫn chưa được đi học vì dịch bệnh đang hoành hành. Mình biết dịch bệnh quái ác đó đã gây thiệt hại nặng nề đến toàn thế giới, đất nước Việt Nam chúng mình cũng như đất nước Hàn Quốc của bạn đã bị ảnh hưởng ít nhiều. Mình mong sao thế giới sẽ nhanh chóng đẩy lùi được đại dịch, và mọi người sẽ trở lại cuộc sống bình thường.

     Hi vọng cuối cùng, dù rất mong manh nhưng mình mong lá thư này có thể đến được đất nước Hàn Quốc xa xôi. Mình sẽ kể cho các bạn nghe về văn học Việt Nam cũng có nhiều điều thú vị, đặc biệt văn học dành cho thiếu nhi luôn phong phú. Mình giới thiệu cho Mầm Lá những quyển sách nhé "Dế Mèn phiêu lưu ký""Cho tôi một vé đi tuổi thơ""Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ" nè,... Mầm Lá sẽ không cảm thấy xa lạ nếu có một người nước ngoài say mê chú Dế Mèn Việt Nam đâu. Mình mong sẽ ngày càng có nhiều tác phẩm văn học Hàn Quốc được dịch sang Việt Nam cũng như các tác phẩm văn học Việt Nam sẽ được dịch sang tiếng nước bạn, để cả hai nền văn học sẽ trở nên gần gũi, gắn kết với nhau hơn. Không chỉ vậy, nếu có dịp Mầm Lá hãy giới thiệu cho các bạn Hàn Quốc đến đất nước mình chơi nhé. Việt Nam với những cánh đồng lúa xanh bát ngát, những con sông chở nặng phù sa, những cánh rừng bạt ngàn… Con người Việt Nam cũng luôn hiếu khách, thân thiện. Món ăn Việt thì đa dạng, phong phú. Văn hóa Việt cũng sâu sắc nữa. Mình tin các bạn sẽ thích và muốn ở lại nơi này thật lâu.

     "Cô gà mái xổng chuồng" là một tác phẩm văn học thiếu nhi rất cảm động và xứng đáng được dịch sang nhiều tiếng trên thế giới. Chắc rằng, ngày sau mình sẽ luôn nhớ tới cái tên Mầm Lá, và nếu có dịp, mình sẽ kể cho nhiều người khác nghe về bạn - một cô gà vĩ đại nhất mình từng biết. Cuối thư mình xin chào tạm biệt Mầm Lá, Đầu Xanh, Vịt Trời, các nhân vật khác trong truyện, kể cả Mụ Chồn. Mình mong một ngày gần nhất sẽ được đặt chân đến đất nước của bạn!

Một người bạn đến từ Việt Nam
Nick name: Hạt Lúa

          Nếu ai đó yêu thích phim của Ozu Yasujirō, bậc thầy của điện ảnh Nhật Bản, người sử dụng chính xác từng khuôn hình, từng đồ vật trong khuôn hình để tạo nên những kiệt tác điện ảnh vĩ đại và rồi bất chợt nhìn thấy bức họa Las Meninas của Diego Velazquez thì ít nhiều sẽ có sự liên tưởng. Không chỉ vậy, chúng ta còn có thể nhìn ra được những liên hệ đầy lí thú giữa hai loại hình nghệ thuật điện ảnh và hội họa thông qua bức họa này.

(Đọc Đinh Trang mộng của Diêm Liên Khoa, Minh Thương dịch

Tao Đàn & NXB. Hội nhà văn, 2019)

20190924 dinh trang

Có một giòng thông suốt và dữ dội chảy qua truyền thống thuyết thoại Trung Hoa: những tự sự về mộng. Khởi thủy là giấc mơ hóa bướm của Trang Chu thời Xuân Thu. Tiếp nối sau đó mấy trăm năm là những truyền kỳ đời Đường, từ Chẩm trung ký của Thẩm Ký Tế kể chuyện chàng Lư sinh nằm trên chiếc gối của một đạo sĩ mà mơ giấc hoàng lương, cho đến Nam Kha thái thú truyện của Lý Công Tá nói về chàng Thuần Vu Phần mộng giấc Nam Kha, thức dậy mới biết mình đang nằm dưới gốc hòe, say rượu ngủ quên không biết. Đến khi các loại hình sân khấu Trung Quốc như tạp kịch, hí khúc,… ra đời, mộng bắt đầu đi vào Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh (đời Nguyên) hay Mẫu đơn đình của Thang Hiển Tổ (đời Minh) để rồi vươn đến đỉnh cao chói lọi ở tiểu thuyết chương hồi đời Thanh, mà đại diện tiêu biểu nhất phải kể đến là Tào Tuyết Cần với kiệt tác Hồng lâu mộng.

 Đinh Trang mộng – quyển tiểu thuyết đầy tâm huyết xuất bản năm 2005 của Diêm Liên Khoa – rõ ràng là một sự tiếp nối cái truyền thống đặc trưng đã có lịch sử hàng ngàn năm ấy của văn chương Trung Quốc.

Sự tiếp nối hiển lộ ngay từ đầu, trong tựa đề tác phẩm, nhưng sức ám ảnh của nó còn lan rộng sang chính cấu trúc của quyển tiểu thuyết này: thực tại được kể trong Đinh Trang mộng trở nên mờ nhòa, chìm đắm, đan xen, lún ngập trong những giấc mơ và những ảnh tượng đi ra từ sự mơ. Diêm Liên Khoa giao vai kể cho hồn ma của Tiểu Cường, một cậu bé 12 tuổi đã chết, bị đầu độc bằng một quả cà chua tẩm thuốc vì những ân oán mà cha cậu gây nên với người dân ở Đinh Trang. Cách chọn vai kể là một hồn ma như thế đặt toàn bộ tự sự của tiểu thuyết này ở một điểm nhìn toàn tri – một điểm nhìn khá hợp lý, tuy cổ điển, để vừa dễ dàng kể lại những giấc mơ đầy máu và nước mắt của ông giáo già Đinh Thủy Dương (nhân vật chính của tiểu thuyết), vừa thuận lợi cho việc thâm nhập vào những cõi sâu kín nhất trong mộng mị, tâm hồn, cảm xúc, suy nghĩ của hàng loạt những nhân vật, những số phận được nhắc đến trong xuyên suốt tác phẩm này. Nhưng cũng chính từ đây, thế giới ngập tràn sự mơ ấy của Đinh Trang mộng không còn cái đẹp đẽ huy hoàng của mộng như người ta thường nghĩ, mà đã trở thành lớp áo khoác hàm ngụ bên trong một thứ hiện thực sâu thẳm, thứ hiện thực đen tối, cay đắng đến run rẩy của lòng người, của bản tính người và những mối quan hệ người.

Trong Đinh Trang mộng, từ những quan sát về tình cảnh cùng khốn của người dân Trung Quốc khi đối diện với nạn bán máu tràn lan và sự bùng phát của đại dịch AIDS những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI[1], Diêm Liên Khoa đưa ra một hư cấu đầy ám ảnh về thôn Đinh Trang – nơi một thời từng giàu có, thịnh đạt nhờ vào việc bán máu, nhưng rồi vì lấy máu không đúng quy trình, thiếu vệ sinh, hàng loạt những người trong thôn bắt đầu nhiễm “bệnh nhiệt”, một cách gọi nôm na của AIDS.

Nhân vật chính của tiểu thuyết là ông giáo già Đinh Thủy Dương, suốt đời gắn bó với ngôi trường nhỏ của thôn Đinh Trang, hiền từ, nhân hậu, được mọi người trong thôn yêu kính. Ông có hai người con trai. Con cả tên Đinh Huy, con thứ là Đinh Lượng. Trong những ngày Đinh Trang ồn ào, sôi nổi, say sưa bán máu, Đinh Huy khôn ngoan, lọc lõi, thậm chí xảo quyệt, đã quyết tâm trở thành một đầu nậu máu, kiếm lãi từ chính những giọt máu của người Đinh Trang. Người em trai của anh, Đinh Lượng, cũng tham gia bán máu, để rồi giống như nhiều người khác cùng thôn, anh nhiễm bệnh nhiệt rồi chết. Nhưng Đinh Huy tham lam kia không nhìn thấy thảm cảnh như thế mà dừng lại. Anh tận dụng tình cảnh chết chóc ấy để bán quan tài, phối âm hôn cho người chết,… vì sự tham lam dữ dội trước tiền tài địa vị. Thậm chí, để thăng tiến cao hơn, Đinh Huy chấp nhận phối hôn đứa con trai Tiểu Cường của mình với âm hồn cô bé thiên kim nhà Huyện trưởng, dù cô lớn hơn Tiểu Cường sáu tuổi, bị động kinh và dị tật ở chân. Nhưng sự tha hóa của bản tính người không chỉ xuất hiện ở Đinh Huy, mà như một đại dịch, nó tràn qua Đinh Trang tựa một cơn hồng thủy.

Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái tham lam, tư lợi của bà vợ cựu trưởng thôn Lý Tam Nhân khi đốc thúc, khích khí chồng mình bán máu để có tiền sửa sang nhà cửa cho bằng những gia đình khác trong thôn. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy và sợ hãi trước cái bóng đen tàn úa tỏa ra từ lòng ti tiện nhỏ nhen của người đời qua trường đoạn mô tả cảnh những người bệnh nhiệt ở Đinh Trang quần tụ lại ở trường học sống tập thể, rồi mất đồ, rồi đổ lỗi, rồi tra khảo, rồi sỉ nhục. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái thảm cảnh mà lòng sân hận thù hằn đổ lên kiếp người, mà một trong những cảnh tượng đau thương nhất chính là đoạn hai cái huyệt mộ chạm khắc kỳ công của Đinh Lượng và Linh Linh bị phá nát tan, chưa kể cả hai chiếc quan tài cũng bay biến đi đâu mất… Tất cả những gì người nhất trong Đinh Trang mộng, rất nhanh chóng, bị sự tham tàn và vô minh cuốn đi, giết đi, vùi đi. Tất cả. Từ nỗi sợ đau vì bị kim tiêm, từ nỗi nhục nhằn suy tư về thân phận cho đến mối hòa kết gia đình, sự từ ái, lòng nhân hay những phẩm hạnh bản thể nhất của con người.

Nhưng cao hơn hết, Đinh Trang mộng bày ra trước mắt ta một tình thế bi ai của sự làm người. Chính ở đây, với sự phát lộ của nét nghĩa này, cái cấu trúc mộng mị đặc thù của quyển tiểu thuyết này trở lại một cách dữ dội. Và nó nói với ta một sự thật lầm than, rằng đời người có ai mà không phải trải qua một giấc mộng Đinh Trang, như luôn phải trải qua những giấc mộng hoàng lương, giấc mộng Nam Kha, giấc mộng lầu hồng,.... Người ta bán máu xây nhà cửa, tiền tài đầy túi, khoa trương hò hét, làm ông nọ bà kia. Nhưng rồi cũng giống như Thuần Vu Phần thức dậy dưới gốc hòe, người ta sẽ nhận ra bao nhiêu mất mát, chết chóc, sợ hãi, bóng tối. Nhà cửa xây lên từ tiền bán máu nhưng rồi bị bỏ hoang, hôi hám, ẩm thấp, ảm đạm vì người lần lượt chết dần. Có người bán máu nuôi vợ con với những khao khát viển vông để rồi nhiễm bệnh, qua đời, gia đình ly tán. Hay như Đinh Huy, người tưởng chừng như có trong tay tất cả, từ tiền tài, nhà cửa, đất đai cho đến uy danh, chức tước, nhưng rồi trong một phút ngắn ngủi bất thần ngã gục sau cú đánh trời giáng của chính cha mình.  

Mộng mị trong truyền thống thuyết thoại Trung Hoa là như thế. Chúng thường bao quát những thực tại khổng lồ, đẹp, huy hoàng, rực rỡ. Nhưng đau đớn và độc ác. Cái ác dường như đã trở thành căn cốt của những tự sự về mộng của người Trung Quốc. Nó quăng quật người ta đến những chỗ tận cùng. Nó nâng người ta lên, cho người ta bay bổng rồi kéo tuột người ta xuống, thậm chí vùi người ta xuống đất cát bùn lầy. Nó bày ra trước mắt người ta những yến tiệc tưng bừng, những hội hè say đắm. Nhưng rồi nó đuổi cổ người ta đi, nó lưu đày người ta đến những chốn tuyệt vọng và đau thương cùng cực.

Tiếp nối và thừa hưởng từ truyền thống xem cái tàn ác như một phạm trù thẩm mỹ như thế, nhưng Diêm Liên Khoa không phải không có những sáng tạo nhất định của riêng ông. Viết Đinh Trang mộng, rõ ràng Diêm Liên Khoa đã nỗ lực tạo dựng một thế giới mà ở đó sự triển hoạt theo chiều âm, chiều diệt vong của những tự sự về mộng mị Trung Hoa xưa bị thay thế bởi một gia tốc khác: một lực đẩy về phía cái sống.

Nếu trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần xây dựng một bức tranh mơ màng phù thế đầy chất sống, để rồi đánh thức tất cả, quăng quật tất cả vào cõi gió bụi ở cuối truyện, thì trong tiểu thuyết của mình, Diêm Liên Khoa làm ngược lại. Ông ngả hẳn về phía của sự tỉnh mộng, của máu và nước mắt, ngay từ đầu. Nhưng cũng chính từ sự ngả theo một chiều hướng khác như thế, Diêm Liên Khoa đã quan sát được những dòng nhựa sống cuộn lên, tươi mới, tân kỳ. Ông thấy trong hai con người mang bệnh nhiệt trầm trọng Đinh Lượng và Linh Linh cái khát khao được yêu, được sống, được làm tình. Ống thấy trong Đinh Thủy Dương cái áy náy, giằng xé, đớn đau của một con người bị phân thành nhiều mảnh, một bên là lòng thương con, một bên là lòng nhân, lòng bác ái, một bên khác lại là chính nghĩa, sự phụng sự đạo đức và chân lý,…

Điều này cũng lý giải vì sao Diêm Liên Khoa lại dẫn ra, ngay từ trang đầu tiên, huyền thoại về bảy con bò xấu xí nuốt bảy con bò xinh đẹp mập mạp và bảy bông mạch ốm yếu nuốt lấy bảy bông mạch tròn căng trong Sáng thế ký, Kinh Cựu Ước; hay vì sao ở những dòng cuối cùng, ở cơn chiêm bao cuối tác phẩm của ông lão Đinh Thủy Dương, hình ảnh một người đàn bà với nhành dương liễu và những người bùn xuất hiện. Tôi cho Diêm Liên Khoa, khi viết về những điều như thế, đã ý thức và hiểu rất rõ rằng, sự khai sinh của loài người đi ra từ chính trong những tuyệt vọng đau đớn nhất của người.

Cơn sốt đầy máu và bệnh nhiệt ở Đinh Trang trong tiểu thuyết của ông, vì thế, cũng giống như một cơn hồng thủy quét qua. Nhưng không phải để tuyệt diệt. Mà là để tái sinh. Tái sinh con người. Và tái sinh những điều giúp con người trở lại làm người.

Nguyễn Đình Minh Khuê


[1] Theo lời của Minh Thương – dịch giả Đinh Trang mộng. Xin xem phần ‘Lời bạt’ của Minh Thương trong Diêm Liên Khoa (2019), Đinh Trang mộng, Minh Thương dịch, Tao Đàn và NXB. Hội nhà văn, tr.348-349.

Ngày 13 tháng 11 năm 2013, trong chuỗi hội thảo văn hóa thuộc Chương trình Giáo Dục Tổng Quát, trường Đại học Hoa Sen, ban tổ chức đã mời Đạo diễn Đặng Nhật Minh  tới nói chuyện với sinh viên và giảng viên, cùng thân hữu của trường. Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã cuốn hút gần 100 khán giả bởi lối nói đơn giản, sâu sắc, chia sẻ những trải nghiệm chân thực, đam mê, nhiệt huyết, và hiểu biết sâu rộng về điện ảnh. Buổi nói chuyện được phân làm ba phần: 1. Hướng đi riêng, 2. Lịch sử điện ảnh, và 3. Giao lưu với khán giả.

20171025 Ly Hong Phuong

Lời giới thiệu:

Ngày 21 tháng 8 năm 2017, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM đã tổ chức bảo vệ luận văn thạc sĩ cho HVCH Lý Hồng Phượng với đề tài luận văn là: "Chữ Nôm Nam Bộ qua khảo sát tác phẩm Kim cổ kỳ quan của Nguyễn Văn Thới". Luận văn do TS. Nguyễn Ngọc Quận hướng dẫn. Đây là một trong hai luận văn thạc sĩ khai khoa của chuyên ngành Cao học Hán Nôm do khoa Văn học đào tạo.

Luận văn tiến hành nghiên cứu cách phiên âm và cách cấu tạo của chữ Nôm trong tác phẩm Kim cổ kỳ quan. Kim cổ kỳ quan là một tác phẩm truyện thơ nổi tiếng ở Nam Bộ có tính cách sấm vĩ và tôn giáo do Nguyễn Văn Thới, một tác giả yêu nước thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX sáng tác. Trong luận văn, học viên Lý Hồng Phượng đã đưa ra hơn 300 chữ Nôm chưa hề có trong các từ điển chữ Nôm từ trước đến nay.

Luận văn đã được hội đồng chấm luận văn đánh giá cao với điểm số là 9.5 điểm, đạt loại xuất sắc. Website Khoa Văn học xin giới thiệu một phần kết quả nghiên cứu của luận văn: Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề và tình hình văn bản Kim cổ kỳ quan (trích lược từ Chương 1). Xin xem chi tiết trong tập tin đính kèm.

Ước lệ, không phải thủ pháp nghệ thuật. Ước lệ là loại hình ngôn ngữ, quy chuẩn các trạng thái tồn tại nghệ thuật và cuộc sống, ước định hiện thực hoá tự nhiên xã hội. Ngôn ngữ ước lệ tĩnh và động, biểu trưng các dạng tồn tại không điều kiện, mặc nhiên toàn xã hội công nhận một hình thức diễn tả đời sống con người và trong các loại hình nghệ thuật.

Nguyễn Thị Thùy Dương(*)

          Nhà thơ Quách Tấn (1910 - 1992) sinh ra và lớn lên ở thôn Trường Định, huyện Bình Khê nay là xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Năm 1929 sau khi đậu bằng Cao Đẳng tiểu học, ông đã đến làm việc tại Nha Trang. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1954, Quách Tấn cùng gia đình trở về Bình Định, ông tham gia dạy học ở một số trường trung học và công tác trong các cơ quan của Ủy Ban kháng chiến, Mặt trận Liên Việt tại địa phương. Sau năm 1954, Quách Tấn trở lại Nha Trang, làm công chức gần 10 năm. Ông mất vào ngày 21/12/1992 tại một ngôi nhà nhỏ ở đường Bến Chợ gần chợ Đầm, Nha Trang.

          Quách Tấn có một sự nghiệp văn chương đa thể loại  với những sáng tác thơ Đường luật, thi thoại, du ký địa phương, hồi kí, dịch thuật. Nhà thơ Quách Tấn đến với dịch thuật  bằng niềm yêu thích đặc biệt. So với những dịch giả hồi đầu thế kỉ XX, có thể thấy trường hợp Quách Tấn gần giống với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục là những người đều xem dịch thuật là đam mê lớn trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.

 Quach Tấn đã lần lượt phỏng dịch: Trăng ma lầu Việt (1947), Thơ Thái Thuận (1947), Nghìn lẻ một đêm(1960),  Thơ Nguyễn Du (1966), Thơ Hồ Chí Minh (1969),... Những tác phẩm dịch đều được nhà thơ dịch trong nhiều năm liền. Năm 1960, tập thơ  Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh lần đầu được nhà xuất bản Văn học ấn hành.  Đến năm 1969, Quách Tấn đọc bản dịch thơ Hồ Chí Minh từ người em trai Quách Tạo gởi từ miền Bắc vào. Bản dịch của các dịch giả khi ấy  đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ, Quách Tấn âm thầm dịch lại tập Nhật kí trong tù trong nhiều năm. Sau khi dịch, ông đã nhờ Trần Thúc Lâm viết chữ Hán và hoàn tất vào tháng 10 năm 1975.

          Năm 1978, Viện Sử học cử một đoàn cán bộ đi khảo sát một số vấn đề lịch sử và văn hóa tại các tỉnh miền Trung vừa được giải phóng. Đoàn công tác gồm nhà sử học Dương Trung Quốc và một số cán bộ văn hóa đã đến nhà Quách Tấn nhằm thu thập tài liệu lịch sử về vùng đất miền Trung. Nhà thơ đã tặng cho Viện sử học Việt Nam không ít sách quý mà cả đời ông đã sưu tầm được. Nhân dịp ấy, Quách Tấn giới thiệu với Dương Trung Quốc bản dịch thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.  Nhưng mãi đến năm 2015, nhiều năm sau khi nhà thơ Quách Tấn mất, tập thơ dịch Ngục trung nhật kí mới đến được với bạn đọc vì sinh thời Quách Tấn dịch  Nhật kí trong tù bởi lòng yêu thích và không có ý khoe khoang với bất kì ai. Nhà thơ từng chia sẻ: “Tôi cảm cụ Hồ là một nhà thơ nên tôi đọc kỹ phần dịch ra quốc ngữ do các bậc túc nho ngoài Bắc dịch, thấy có nhiều điều hay nhưng cũng có điều chưa thật ưng ý. Vả lại, với cái thú của người thích dịch thơ Đường nên tôi cất công ngồi dịch lại”[1].

          Dịch  thơ Đường là một trong những công việc quen thuộc của các nhà nho xưa, mỗi người theo trường phái và nguyên tắc dịch khác nhau, ví dụ nguyên tắc “Tín, đạt, nhã”, “Ngũ thất bản”, “Tam bất dị”… nhưng đều thống nhất ở một số điểm chung: các dich giả đều xem  văn học dịch là một loại dịch thuật đặc biệt ở đó người viết vừa đảm bảo tính nghệ thuật của văn bản lẫn kĩ thuật dịch. Đây là một yêu cầu khó khăn đối với người làm công tác dịch thuật bởi dịch thuật Hán Nôm được nhận thức như là “một khoa học, một nghệ thuật”, ở đó dịch giả có thể dịch đúng hoặc dịch sáng tạo. Ở trường hợp bản dịch Ngục trung nhật kí của Hồ Chí Minh, có thể thấy Quách Tấn chọn lối dịch ý, kĩ thuật dịch theo lối dịch tự do nghiêng về phía bản dịch và tuân theo chủ ý của dịch giả.

          Quách Tấn đã dịch 115 bài của Nhật kí trong tù trong đó: 58 bài dịch theo thể lục bát, 37 bài dịch theo tứ tuyệt, 4 bài dịch theo thể ngũ ngôn và 2 bài dịch theo thể tự do. Cuối năm 2000, Trung tâm nghiên cứu Quốc học đã đưa 73 bài thơ dịch của Quách Tấn vào tập Hồ Chí Minh – Thơ toàn tập. Khi dịch Nhật kí trong tù, Quách Tấn đã đảm bảo tính nhật kí của tập thơ bởi những ghi chép về những điều tai nghe mắt thấy của người chiến sĩ cách mạng trên đường đi đày và bị chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác. Yếu tố tự sự, tinh thần hướng nội của người tù được nhà thơ thể hiện khá rõ nét qua nhiều bản dịch. Nhưng đặc sắc nhất trong những bản dịch mà Quách Tấn dịch thơ Hồ Chí Minh phải kể đến mảng thơ nghệ thuật, phần thơ thể hiện rõ nhất tiếng nói tâm hồn của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.

          Sau đây xin giới thiệu một số bản dịch thơ Hồ Chí Minh của Quách Tấn:

Bài  Nạn hữu chi thê thám giam (Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng).

          Bản dịch của Quách Tấn khá sát với nguyên tác, đảm bảo chất thơ và tinh thần của bài thơ.

Bản dịch của Quách Tấn

Chàng đứng trong song sắt

Thiếp đứng mé ngoài sông

Gần nhau trong tấc gang

Cách nhau nghìn núi sông

Khôn buông lời khỏi miệng

Đành lấy mắt trao lòng

Chưa nói đã tuôn lệ

Cảnh tình, ôi đáng thương

Bản dịch của Nam Trân

Anh ở trong song sắt

Em ở ngoài sông sắt

Gần nhau chỉ tấc gang

Mà cách nhau trời vực

Miệng nói chẳng nên lời

Chỉ còn nhớ khóe mắt

Chưa nói, lệ tuôn trào

Tình cảm đáng thương thật.

          Bài thơ này có nhiều bản dịch đều lặp lại từ “nói”, bản dịch của Trần Đắc Thọ và Nam Trân lặp từ “nói” hai lần, riêng bản Quách Tấn chỉ dùng một lần, bản dịch cảm xúc, đảm bảo tính hướng nội vốn là đặc trưng thơ Hồ Chí Minh.

          Bài Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo)

          Bài thơ này có bốn bản dịch trong đó bản dịch in trong năm 1960 của Nam Trân đã được chọn lọc qua thời gian.   

Bản dịch của Quách Tấn

Bạn tù thổi sáo

Bỗng nghe  tiếng sáo thê lương

Trong tù thổi khúc tư hương  não nùng

Quan san mắt nghẹn muôn trùng

Nhớ thương giục bước lầu hồng lên cao

Bản dịch của Nam Trân

Người bạn tù thổi sáo

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu

Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu

Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,

Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.

 

 

          So với nguyên tác, bản dịch của Quách Tấn đã chuyển từ thơ tứ tuyệt sang thơ lục bát, nhịp thơ từ 4/3 chuyển sang 2/4, 2/4/2/3 , dịch sát ý đặc biệt ở hai câu cuối.

          Hai câu thơ cuối trong nguyên tác là:

                   Thiên lý quan hà vô hạn cảm

                   Khuê nhân cánh thướng nhất tầng lâu

          (Người khuê phụ bước lên thêm một tầng lầu  Bản dịch Quách Tấn gần với nguyên tác và làm cho không gian thơ mở ra cùng nỗi nhớ quê hương của người tù. Bản dịch đã giữ lại từ khóa của bài thơ “tư hương khúc” nghĩa là khúc nhạc nhớ quê hương khiến âm vang của bài thơ da diết, giàu sắc gợi cảm.

          Bài Nạn hữu đích chỉ bị (Chăn giấy của người bạn) bài này có ba bản dịch thơ đều dịch sang thơ tứ tuyệt, riêng có Quách Tấn dịch sang thơ lục bát, vừa đảm bảo vần điệu lẫn ý tứ bài thơ:

Bản dịch Quách Tấn

      Sách xưa sách mới bồi chồng

Dù mền giấy vẫn hơn không có mền

      Biết chăng màn gấm ấm êm

Bao nhiêu kẻ thức suốt đêm trong tù

Bản dịch Nam Trân- Băng Thanh

Sách xưa sách mới bồi thêm ấm

Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn

Trướng gấm giường ngà ai có biết

Trong tù bao kẻ ngủ không an

          Bài Thụy bất trước (Không ngủ được)

          Nguyên tác

          Nhất canh nhị canh hưu tam canh

Triển chuyển, bồi hồi thụy bất thành

Tứ ngũ canh thời tài hợp nhẫn

Mộng hồn hoàn nhiều ngũ tiêm tinh

          Bài thơ này có nhiều bản dịch, thành công nhất là bản dịch của Viện văn học năm 1960, khi dịch lại bài thơ này, Quách Tấn cố gắng bám sát nguyên tác tuy nhiên âm điệu chưa thật hay:

          Bồi hồi trở lại trăn qua

Giấc nương canh một canh ba chẳng thành

          Mắt vừa chợp lúc tàn canh

Sao vàng năm cánh quẩn quanh mộng hồn.

          Bài Bệnh trọng (Bệnh nặng)

Nguyên tác:

          Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt

          Nội thương Việt địa cựu sơn hà

          Ngục trung hại bệnh chân tân khổ

          Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.

Bản dịch  Nam Trân

“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh

“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than

Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,

Đáng khóc mà ta cứ hát tràn

Bản dịch Quách Tấn

Cảm ngoài mưa nắng trời Hoa

Thương trong đất Việt nước nhà lầm than

Bệnh trong lao, khổ muôn vàn

Khóc tuy đáng khóc vẫn tràn tiếng ca

          Hai câu đầu trong bản dịch của Quách Tấn có thể xem là hay nhất vì dịch sát văn bản, thay từ Hán Việt bằng cụm từ thuần – Việt thể hiện mối tương quan giữa ngoại cảnh tâm cảnh  trong văn bản thơ.

          Bài Vãn Cảnh (Cảnh chiều hôm) cũng là một bài dịch hay, sát nguyên tác, giữ được chất thơ nhưng không lặp lại về từ ngữ.

Nguyên tác

Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ

Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình

Hoa hương thấu nhập lung môn lý

Hướng tại lung nhân tố bất tình

Bản dịch Quách Tấn

Mai khôi hé cánh rụng cành

Hoa tàn, hoa nở vô tình cả hai

Cửa lao lọt chút hương trời

Bất bình đưa kể với người trong lao.

          Bài: Tân xuất ngục học đăng sơn

Nguyên tác

Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân

Giang tâm như kính tĩnh vô trần

Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh

Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

Bản dịch Quách Tấn

Mây lồng núi núi lồng mây

Lòng sông không bụi trong tày gương trong

Bồi hồi lên đỉnh Tây Phong

Trời Nam ngắm vọi chạnh lòng cố tri.

          Sau khi khảo một số bản dịch thơ Quách Tấn, đặc biệt những bài thơ trữ tình của Hồ Chí Minh, có thể thấy đây là những bản dịch thành công trong tập  Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh do Quách Tấn phỏng dịch. Tập thơ thể hiện rõ phong cách dịch thuật của Quách Tấn.

          Về nội dung: Nhà thơ Quách Tấn chú trọng ở dịch ý, bám sát tinh thần của nguyên tác, truyền đạt được nội dung và phong cách thơ Hồ Chí Minh.

          Về hình thức: Các bản dịch với thể thơ lục bát gợi cho người đọc một cái nhìn mới về Nhật kí trong tù giúp thơ Bác trở nên gần gũi, mộc mạc và giàu tính dân tộc.

          Cuối năm 2000, Trung tâm nghiên cứu Quốc học đã đưa nhiều bản dịch thơ của Quách Tấn vào tập Hồ Chí Minh – Thơ toàn tập. Năm 2015, tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh do Quách Tấn phỏng dịch được xuất bản, đúng 13 năm sau ngày ông mất. Tập thơ giúp người đọc hiểu thêm về Quách Tấn, một nhà thơ lớn, một dịch giả thơ chữ Hán tài năng và tâm huyết với văn chương.

Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay, số 486, tháng 8 năm 2017, tr.50-52.


(*)HVCH – Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[1] Nhật kí trong tù, Quách Tấn phỏng dịch, Nxb Thế giới, 2015, tr. 10.

     Khi nhìn vào những thành tựu phát triển khoa học và công nghệ của con người ngày hôm nay, ta không tránh khỏi cảm giác ngưỡng mộ, tự hào. Song, hãy thử thoát ra khỏi cái nhìn có tính so sánh, ta sẽ thấy mọi thành tựu tự bản thân nó vào lúc xuất hiện, trong trạng thái cuối cùng của thành tựu, bao giờ nó cũng mang tính chất gây ngưỡng mộ.

Phạm Thị Hoa

(Thạc sĩ, GV trường THPT Lê Minh Xuân)

 

  1. 2.4 Đề cao Truyện Kiều về phương diện văn hóa (quốc ngữ, quốc học, quốc hồn - Nhóm Nam phong tạp chí)

Với khát vọng xây dựng một nền quốc học như một sự chuẩn bị cho sự nghiệp văn hóa dân tộc, Phạm Quỳnh đã xướng lên một phong trào đọc Kiều và vịnh Kiều như một sự phô diễn sức mạnh tinh thần của dân tộc. Phong trào được đánh dấu bằng bài diễn thuyết của Phạm Quỳnh tại buổi lễ kỉ niệm Nguyễn Du nhân ngày mất của nhà thi hào do Ban Văn học của Hội Khai Trí Tiến Đức mà Phạm Quỳnh làm Tổng Thư kí, tổ chức tại Hà Nội năm 1924.

Mở đầu Phạm Quỳnh nói lý do buổi lễ là nhân ngày giỗ cụ Tiên Điền Nguyễn tiên sinh, Ban Văn học của Hội Khai Trí “đặt một cuộc kỉ niệm để cho nhân dân nhớ lại công nghiệp một người đã gây cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi”.

Phạm Quỳnh nêu địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với vận mệnh nước nhà: “Truyện Kiều là cái “văn tự” của giống nòi Việt Nam ta đã “trước bạ” với non sông đất nước này”. Phạm Quỳnh ca ngợi Truyện Kiều “vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc”, là “một thiên văn khế tuyệt bút”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn của ta, để ta  có thể “ngạo nghễ với non sông, tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...” [39, 1802]. Theo Phạm Quỳnh, việc cụ Tiên Điền xuất thế, cụ Tiên Điền viết Kiều, Truyện Kiều được lưu truyền đến ngày nay đó là “phúc duyên” cho nước nhà. Mà so ra thế giới, văn chương Tàu, văn chương Pháp Truyện Kiều cũng lại không có gì sánh bằng.

Kết thúc bài diễn thuyết, Phạm Quỳnh một lần nữa nhấn mạnh ý nghĩa cuộc kỉ niệm Nguyễn Du là để bày tỏ lòng biết ơn thành thực của quốc dân đối với vị quốc sĩ nước nhà. Hơn thế, đây cũng là dịp chiêu hồn quốc sĩ về chứng nhân cho lời thề của đồng nhân. Thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nức còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc bộ này một tấn tới, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí của tiên sinh, ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây” [39, 1804]

Cuộc lễ kỷ niệm Nguyễn Du và tán dương Truyện Kiều này không phải là ngẫu nhiên. Nó là đỉnh điểm của phong trào viết về kiệt tác văn chương của dân tộc trên Nam phong tạp chí của ông chủ bút Phạm Quỳnh và nhiều tác giả khác như : Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Triệu Luật … phong trào này nằm trong chủ trương của Phạm Quỳnh muốn thực hiện một cái chủ nghĩa quốc gia về văn hóa và giáo dục để đối lại sự xâm nhập văn hóa từ Pháp quốc. Phạm Quỳnh là người học Pháp, làm việc cho Pháp nên ông biết cái xu thế không thể cưỡng lại là phải du nhập văn hóa Âu, phải tiến theo nền văn hóa ấy. Ông nhận thấy đó là một lẽ tất yếu. Trong bài diễn thuyết của mình, Phạm Quỳnh đã lấy văn chương Pháp làm tiêu chí và nhấn mạnh tính chất “phổ thông” của Kiều. Sử dụng văn học Pháp làm chuẩn mực đánh giá Truyện Kiều, ông muốn đưa tác phẩm thoát khỏi khuôn khổ trung đại và vượt ra ngoài những ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc: “Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp, tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như văn chương Truyện Kiều, vì Truyện Kiều có một cái đặc sắc mà nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự phổ thông. Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới” [39, 1804] hay “Cứ thực thì Truyện Kiều thấm đẫm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu văn chương Tàu, mà có cái đặc sắc mà văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự kết cấu… xét về cách kết cấu thì văn chương Pháp lại sở trường hơn hẳn”. [39, 1803]

   Phạm Quỳnh đã vận dụng thao tác, phương pháp phân tích văn học phương Tây một cách sáng rõ, mạch lạc. Ông sử dụng lối phân tích khách quan để tiếp nhận Truyện Kiều. Trong bài nghiên cứu Truyện Kiều trên Nam phong tạp chí, Phạm Quỳnh đã nhận xét: “Văn chương Truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không được mấy chỗ hay bằng… lời văn rất luyện, ý tứ rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra, ý tứ sâu cho đến nỗi càng đọc càng cảm, càng nghĩ càng thấm, lời lời trầm trọng như mang nặng một gánh tình, thiết tha như kêu oan nỗi sầu khổ, có cái cảm khái vô cùng. Chỗ nào lời văn cung là in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời ý nào cũng hợp với nhân tình thế cổ, khiến cho nhiều câu trong Truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy.” [88] Truyện Kiều không chỉ có sức hấp dẫn mà nó còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến người dân Việt Nam từ nội dung đến nghệ thuật, đấy chính là “phổ thông” của Truyện Kiều mà Phạm Quỳnh đã chỉ ra. Ngoài ra ông còn chỉ ra cái khéo trong văn chương Truyện Kiều: “Cái khéo trong văn chương Truyện Kiều thời còn nhiều lắm không sao nói cho hết được, những cái khéo ấy không phải là cái tiểu xảo ở sự xếp câu hiệp vần, đẩy đưa đệm lót, mà phần nhiều ở ý tứ thâm trầm, cảm tình vô hạn.” [88]

   Đứng trên góc độ ngôn ngữ, Phạm Quỳnh đã đánh giá sự thành công của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều như cách ông nhận xét về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân: “Cách tả chị em Thúy Kiều như hai bức tranh khác nhau, rất ý vị. Vẽ người đến thế đã là khéo lắm, nhưng đó là cái lối vẽ chính thức, còn lối vẽ phá bút, chỉ một vài câu dăm ba chữ mà hình dung ra cả được nhân cách một người, như đánh dấu đến thiên cổ không bao giờ sai được” [88]

   Có thể thấy, khi bàn về nội dung, nghệ thuật Truyện Kiều, Phạm Quỳnh đã thể hiện một trí tuệ sắc sảo. Ông đánh giá Truyện Kiều trên cả hai phương diện văn chương và nghệ thuật. Ông đã khẳng định quan điểm: cần phải đánh giá văn chương bằng chính những tiêu chí nội tại của văn chương, Phạm Quỳnh đã khẳng định giá trị của Truyện Kiều trong di sản văn chương thế giới bằng những tiêu chí thuần túy văn chương như nghệ thuật kết cấu.

   Có thể thấy với việc đề cao Truyện Kiều, Phạm Quỳnh đã thể hiện niềm tự hào với tiếng Việt và là lời cổ vũ mạnh mẽ cho nền văn chương quốc âm mà ông đang ra sức củng cố: “Lạ thay, tiếng Việt ta nhiều người chê là nghèo nàn non nớt, thế mà Truyện Kiều thời rõ là một án văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạn kiệt tác trong văn chương mà không thẹn vậy” [88]

   Đặt trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ XX, nền văn hóa Việt Nam đang có bước chuyển từ văn hóa phương Đông truyền thống sang nền văn hóa hiện đại với ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa phương Tây vấn đề “nền cựu học” được đưa ra bàn luận. Nền quốc học phải được xây dựng trên những nền tảng nào? Tiếng Việt có ý nghĩa gì đối với nền quốc học, nơi mà truyền thống văn hóa vốn nặng về Hán văn, hiện tại đang bị đè bẹp bởi Pháp văn? Thế là nhiều người, nhất là trí thức tân học nghĩ đến vai trò của Truyện Kiều, nghĩ đến tiếng Việt của Truyện Kiều trong đó có Phạm Quỳnh. Trên tờ Nam phong, Phạm Quỳnh ra sức cổ động cho “Chủ nghĩa quốc gia”. Theo ông, muốn xây dựng quốc gia phải bắt đầu từ đấu tranh xây dựng văn hóa, việc này cần thiết hơn đấu tranh chính trị. Ông cho rằng để xây dựng quốc gia, phải bảo tồn, phát triển tiếng Việt. Để phục vụ “Chủ nghĩa quốc gia” một cách hữu hiệu, Phạm Quỳnh còn hô hào xây dựng một nền văn học mới, xây dựng “quốc học”, phát triển “quốc văn”, vận động mọi người cùng học tiếng Việt. Đối với ông, văn chương có vai trò quan trọng trong việc thể hiện “căn tính” dân tộc chính vì vậy việc bình luận, tán dương giá trị Truyện Kiều thực chất là hành động cổ vũ cho “nền quốc học” mà ông đang ra sức xây dựng. Trên tạp chí Nam phong số 164 năm 1931 trong bài “quốc học, quốc văn” Phạm Quỳnh cho rằng: “Quốc học là bản thể, quốc văn là hình chất, quốc học là cứu cánh, quốc văn là phương tiện” không dừng lại ở những lời cổ động, Phạm Quỳnh đã hết lời tán dương Truyện Kiều, coi nó là “Quốc hồn, quốc túy, quốc hoa”, Truyện Kiều là vẻ đẹp, là những tinh thần đặc trưng của một dân tộc. Dễ hiểu vì sao Phạm Quỳnh đề cao Truyện Kiều, ông cho rằng chính Truyện Kiều, đã đánh dấu sự trưởng thành của Quốc âm vì nó đã “trước bạ”với non sông đất nước này.

   Bên cạnh quan điểm văn chương thể hiện căn tính của dân tộc thì Phạm Quỳnh đưa ra quan điểm văn chương gắn liền với ngôn ngữ. Sự sáng tạo trong văn chương đánh dấu sự thuần thục, trưởng thành của ngôn ngữ dân tộc. Bởi thế Phạm Quỳnh đã viết về công lao của Nguyễn Du: “Nhắc lại cho Quốc dân nhớ công nghiệp một người đã gây dựng cho Quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hoa” rất quý báu, đời đời vẻ vang cho cả giống nòi” [39, 1801]

   Từ đó ta có thể thấy rằng một tác phẩm văn chương kiệt tác là tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của dân tộc, đánh dấu việc dân tộc đó khẳng định căn tính của mình như một dân tộc độc lập. Đó là cơ sở để ông cho rằng : “Truyện Kiều là cái “Văn tự” của giống nòi Việt Nam ta “trước bạ”với non sông đất nước này”. Thậm chí Phạm Quỳnh còn đẩy vấn đề xa đến mức cho rằng khi chưa co một tác phẩm văn chương như Truyện Kiều thì dân tộc “Chưa từng có một cái văn tự văn khế phân minh, chứng nhận cho quyền sở hữu chính đáng” [39, 1802]. Đó cũng là cơ sở ông đưa ra tuyên ngôn : “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” [39, 1802].

Sau bài viết của Phạm Quỳnh, trên Nam phong tạp chí xuất hiện hàng loạt những cây bút tiếp tục ca ngợi Truyện Kiều và cổ vũ cho nền quốc âm như: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam… Trên Nam phong tạp chí số 81 năm 1924, trong bài Văn chương Truyện Kiều, Vũ Đình Long đã ca ngợi: “Truyện Kiều đáng là một nền văn chương bất hủ, một là vì cái giá trị văn chương, hai là vì cái giá trị luân lý vậy.” [19, 75] Nguyễn Tường Tam trong Mấy lời bình luận về văn chương Truyện Kiều lại cho rằng mỗi lần nghe thấy Truyện Kiều như thấy “cái hồn của quốc dân”, với ông Truyện Kiều chính là hồn dân tộc: “Ở chốn thôn quê, đêm sáng trăng, nghe tiếng võng đưa trong một chiếc nhà tranh với tiếng ru con bằng những câu thơ Kiều: “Trăm năm trong cõi người ta…” dễ ai ai nghe đến cũng có một cảm giác giống nhau, cảm giác chung cho cả một quốc dân vậy.” [19, 102]

Đặt trong bối cảnh nền Hán văn của đất nước ta lúc này đã trở nên lỗi thời, thực dân Pháp lại đang gia sức truyền bá Pháp văn với âm mưu nô dịch, đồng hóa người Việt, thiết nghĩ việc đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh và các cây viết trên Nam phong tạp chí không chỉ đơn thuần khẳng định Truyện Kiều là một giá trị cổ điển của dân tộc, mà Truyện Kiều đã trở thành phương tiện để các ông cổ vũ cho nền quốc âm. Coi Truyện Kiều là mẫu mực của tiếng Việt, Phạm Quỳnh và các cây viết trên Nam phong tạp chí còn khẳng định vai trò quan trọng của Truyện Kiều đối với sự tồn vong của dân tộc. Tuy những ý kiến của Phạm Quỳnh và nhóm Nam phong tạp chí đưa ra gây nên sự phản đối mạnh mẽ với một số nhà trí sĩ, những người có lập trường tư tưởng chính trị trái ngược với ông như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận công lao của Phạm Quỳnh đối với việc xây dựng cho nền quốc âm của nước nhà cũng như không thể phủ nhận giá trị của Truyện Kiều trong đời sống tâm hồn của dân tộc.   

  1. 2.5 Phê bình Truyện Kiều của các nhà Tây học (Phê bình Giáo khoa)
  2. 2.5.1 Lý thuyết về Phê bình Giáo khoa và Phê bình Giáo khoa ở Việt Nam

Trong thời gian giao điểm giữa hai thế kỉ XIX và XX, Phê bình Giáo khoa đã ra đời giữa một nền lý luận phê bình Pháp năng động, luôn luôn đòi hỏi sự nâng cao không ngừng để tìm kiếm những giá trị mới phù hợp với sự phát triển của thời đại. Phê bình Giáo khoa lúc ấy đáp ứng một cách thoải mái nhu cầu thực tế “phục hưng đại học”, đuổi kịp sự phát triển của báo chí, hòa mình vào dòng chảy chung của những tiến bộ khoa học kĩ thuật và khoa học xã hội nhân văn. Người đặt nền móng cho khuynh hướng phê bình tiến bộ này là Gustave Lanson – một giáo sư nhiều năm có kinh nghiệm đứng trên bục giảng ở các trường trung học, đại học trong hơn bốn mươi thập niên. Phê bình Giáo khoa gắn liền với khát vọng cải cách giáo dục của Lanson, phổ biến và lan rộng khắp các không gian học thuật ở phương Tây từ những năm cuối cùng của thế kỉ XIX đến những năm ba mươi của thế kỉ XX. Người ta nhắc đến tên Gustave Lanson như người tiên phong và thành công nhất với Phê bình Giáo khoa bởi tư tưởng của ông đã “gặp được vận hội của thời đại” với nhu cầu định vị một con đường lý thuyết đúng đắn để nghiên cứu văn học có một hướng đi hiện đại phù hợp với chương trình giảng dạy văn học trong nhà trường, đáp ứng được nguyện vọng của người học và mở ra tầm nhìn phát triển lâu dài cho ngành học.

Phê bình Giáo khoa xem tác phẩm văn học như một hiện tượng mang tính hoàn cảnh để phân tích và tìm hiểu. Khuynh hướng phê bình này nghiên cứu văn học trong các mối quan hệ với chính bản thân văn học, đề cao tính ngữ cảnh của văn bản tác phẩm bởi vì “(1) Không hề có thế hệ (chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận) hồn nhiên; (2) Văn học là kết tinh trong cấu tạo của đời sống một thời đại, không thể cô lập và trừu tượng hóa; (3) Đọc văn học không thể chỉ xem xét cái thế nào (le comment) mà không xem xét cái tại sao (le pourquoi).” [95]

Bằng những trải nghiệm đặc biệt trên giảng đường, Gustave Lanson đã giúp cho người học rèn luyện được một văn hóa nghiên cứu văn học đích thực thông qua việc đọc tác phẩm cùng với ngữ cảnh của chúng, góp phần giải phóng văn chương ra khỏi những áp chế của tu từ học. Nghiên cứu văn bản tác phẩm trong ngữ cảnh của nó chúng ta sẽ nhìn nhận được toàn cảnh và chi tiết vẻ đẹp vốn có của nó, đồng thời cũng lý giải được cái hay của chính nó. Lanson tuy đã vay mượn lịch sử vào trong phê bình văn học nhưng không quên đảm bảo tính đặc thù của đối tượng, đồng thời liên đới với tính xã hội. Tiếp nhận văn bản trong sự kết hợp cả tính khách quan và chủ quan trong định hướng xem văn học không phải là đối tượng để nhận thức mà là sự thưởng thức. Lanson đề cao trải nghiệm trực tiếp nhưng chống đối lại quan niệm giam mình trong tác phẩm. Ông ủng hộ việc sử dụng những công cụ bên ngoài để bổ trợ cho việc phê bình phân tích tác phẩm văn chương. “Lanson đề xuất ba điểm nhìn cho nghiên cứu văn học: (1) Xác lập căn cứ đánh giá các hiện tượng văn học (cả trong biểu hiện khẳng định và phủ định); (2) Định vị tác phẩm trong lịch sử, phá vỡ ảo tưởng rất đơn giản rằng chúng ta có thể đọc các văn bản của quá khứ như là chúng ta ở trong thời của nó (chú ý tính lịch sử và tính văn chương); (3) Xác định mối quan hệ giữa tác phẩm với thời điểm và với xã hội mà nó được sinh ra, ngoài văn bản, tìm các nguyên nhân sự xuất hiện của chúng. Như vậy phê bình Giáo khoa có một mối quan tâm kép: việc làm ra tác phẩm và các điều kiện xã hội của việc làm ra tác phẩm, vừa chú ý tính khái quát và tính đặc thù. Lanson cho rằng, khi tiến hành công việc, nhà phê bình cần chú ý phân biệt việc đưa ra các tư liệu được thừa nhận và việc đưa ra các giả thuyết, phân biệt sự uyên bác của phán đoán và sự thật của các ý tưởng chủ quan. Bên cạnh đó, ông yêu cầu nhà nghiên cứu phải xem tác phẩm như là nghệ thuật sống động hơn là tư liệu lưu trữ.”  [95]

Phê bình Giáo khoa đến với các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và nhanh chóng trở nên phổ biến bởi tính ứng dụng của nó. Một số nhà phê bình nổi tiếng đã áp dụng khuynh hướng này Trần Thanh Mại, Kiều Thanh Quế, Lê Thanh, Dương Quảng Hàm,v.v. Ở Việt Nam, khuynh hướng phê bình này đã giúp cho những bạn đọc “không chuyên” muốn tiến đến con đường chuyên nghiệp (học sinh, sinh viên, người tập tành nghiên cứu,...) có thể dùng những công cụ bổ trợ đắc lực mà đơn giản để tìm hiểu văn chương như ngữ cảnh, hoàn cảnh, thời đại, lịch sử, xã hội,... Phê bình Giáo khoa ở Việt Nam chủ trương đặt tác giả, tác phẩm văn học vào trong văn học bên cạnh việc “cố gắng tìm những chi tiết trong đời sống tác giả, những biến cố trong cuộc đời tác giả, hoặc những hoàn cảnh sống với những người, vật chung quanh tác giả, đã liên quan thế nào đến những ý tưởng, những khung cảnh hay những trình tự tác giả mô tả trong tác phẩm” [60, 129]. Khuynh hướng phê bình đến từ phương Tây nàyđã được các nhà lý luận phê bình Tây học của Việt Nam đón nhận và sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu văn chương. Với những ưu điểm của mình, phê bình giáo khoa đã tìm cho nó một chỗ đứng vững chắc trong địa hạt lý luận phê bình nước ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Phê bình Giáo khoa ở Việt Nam thường chú trọng khai thác những yếu tố có liên quan đến cuộc đời của tác giả (gia đình, quê hương, hoàn cảnh xã hội,...) trong quá trình để đi tìm hiểu nội dung của tác phẩm, đồng thời vẫn trân trọng những trải nghiệm thực tế từ cảm quan của riêng người đọc.

  1. 2.5.2 Tiếp nhận Truyện Kiều theo khuynh hướng phê bình Giáo khoa nửa đầu thế kỉ XX

Trên cơ sở vận dụng những lý thuyết của Phê bình Giáo khoa, đầu thế kỉ XX, nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam cũng đã đi vào tìm hiểu các khía cạnh khác nhau về tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có thể nói, Phê bình Giáo khoa đã đưa ra một trình tự khá khoa học giúp cho việc tiếp nhận Truyện Kiều được toàn diện và sâu sắc hơn. Một số công trình của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm,... viết về Truyện Kiều theo khuynh hướng Phê bình Giáo khoa đã trở thành những tư liệu quý giá, đóng góp đáng ghi nhận vào hành trình tiếp nhận một tác phẩm văn chương giá trị của dân tộc.

Trong bài viết Nguồn gốc của Truyện Kiều của Nguyễn Du, Dương Quảng Hàm đã trình bày rất nhiều tư liệu về truy nguyên về sự ra đời của Truyện Kiều. Ông cho rằng: “Nguồn gốc của tác phẩm là các tài liệu (sách vở, giấy tờ v.v..) mà tác giả đã kê cứu và căn cứ vào đó để viết thành tác phẩm của mình. Đối với việc văn  học phê bình, có tìm được nguồn gốc một tác phẩm mới định rõ được rằng trong tác phẩm ấy, phần nào là phần tác giả mượn của người trước, phần nào là phần tác giả đã sáng tạo ra, rồi mới định được cái giá trị, cái đặc sắc của tác phẩm ấy.” [39, 567] Về nguồn gốc của Truyện Kiều, Dương Quảng Hàm đặt vấn đề: “Trước giờ ai cũng biết rằng Nguyễn Du tiên sinh đã theo một cuốn tiểu thuyết Tàu để soạn cuốn truyện Kim Vân Kiều. Chính tác giả, ngay đầu quyển truyện (câu 7-8), cũng đã cho ta biết rằng tác giả đã đọc một cuốn Phong tình cổ lục trước khi viết Truyện Kiều:

Cảo thơm lần giở trước đèn

Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.

[...] Vậy cuốn tiểu thuyết Tàu, theo đấy cụ Nguyễn Du đã viết cuốn truyện Nôm, nhan là gì và do ai làm ra? Vấn đề này đến nay vẫn chưa giải quyết và mỗi nhà có một ý kiến khác.” [39, 567]

Sau đó nhà nghiên cứu đưa ra sáu ý kiến và bốn bản khảo chứng rồi lần lượt dùng lý luận và bằng chứng để phân tích và truy nguyên vấn đề nguồn gốc Truyện Kiều. Cuối cùng, Dương Quảng Hàm đưa ra kết luận chính: “Tóm lại, nguồn gốc Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du là một quyển tiểu thuyết Tàu nhan là Kim Vân Kiều truyện do một tác giả hiệu là Thanh Tâm Tài Nhân soạn ra vào cuối thế kỉ thứ XVI hoặc đầu thế kỉ thứ XVII do Kim Thánh Phán (1627-1662) bình luận. Quyển tiểu thuyết ấy đã xuất bản ở bên Tàu. Ý hẳn cụ Nguyễn Du, khi sang sứ bên Tàu năm 1813, đem về bên nước ta, rồi người ta theo đó mà chép ra nhiều bản. Sau khi Nguyễn Du đã soạn quyển Truyện Kiều Nôm, một nhà nho ẩn danh nước ta mới dịch quyển truyện Nôm ra Hán văn, tức là quyển Kim Vân Kiều lục đã khắc in nhiều lần ở Hà Nội (1876, 1888, 1896).” [39, 576] Như vậy, nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm đã dày công sưu tầm và tập hợp các nguồn ý kiến lẫn dẫn chứng để tìm ra được kết luận sau cùng về nguồn gốc của Truyện Kiều mà cho đến nay quan điểm của ông vẫn được chúng ta tin tưởng sử dụng trong việc tiếp nhận tác phẩm này của Nguyễn Du. Bài viết của Dương Quảng Hàm giúp người tiếp nhận phân biệt được hai tác phẩm Kim Vân Kiều truyệnKim Vân Kiều lục, có cái nhìn khách quan về nguồn cảm hứng giúp Nguyễn Du tạo nên tác phẩm giá trị Truyện Kiều, đồng thời khẳng định mạnh mẽ những sáng tạo văn chương quý báu của đại thi hào dân tộc.

Nhà nghiên cứu Hoài Thanh có một bài viết khá công phu về thời đại Nguyễn Du và con người Nguyễn Du, trong đó có đề cập đến những ảnh hưởng của hoàn cảnh Nguyễn Du đối với sáng tác Truyện Kiều. Hoài Thanh cho rằng Nguyễn Du phải chịu sự giằng co giữa hai khuynh hướng, sự mâu thuẫn gay gắt từ trong tâm hồn và đồng thời phải gánh chịu nỗi khổ của tầng lớp mình – ấy là nỗi khổ “Trong nhiệm vụ lịch sử của nho sĩ, nhiệm vụ bảo vệ chính quyền phong kiến tập trung, và cái xu thế tan rã của chính quyền ấy trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ.[...] Họ vốn ở trong phe thống trị phong kiến nhưng trong tình trạng hỗn độn của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ thì đồng thời họ cũng là nạn nhân của chế độ.” [39, 20] Từ những am hiểu về thời đại và căn cứ vào các sáng tác của Nguyễn Du, Hoài Thanh cho rằng: “Do những nỗi khổ của mình và tầng lớp mình, Nguyễn Du đã cảm thông được một phần nỗi khổ chung của những con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm mục nát./ Cố nhiên cũng chỉ cảm thông được một phần thôi. [...] Nhưng cảm thông được một phần cũng đã quý rồi. Nhất là lại nói được mối cảm của mình và do đó nói hộ cho tất cả mọi nạn nhân của chế độ. Những người xuất thân trong giai cấp phong kiến như Nguyễn Du, tuy không bị chế độ chà đạp một cách tàn nhẫn như những người cùng khổ nhưng thường lại hay cảm thấy sự chà đạp kia một cách thấm thía hơn.” [39, 21] Hoài Thanh nhận thấy rõ ràng một dấu ấn sâu sắc của thời đại hiển hiện rõ nét trên từng câu chữ của Truyện Kiều: “[...] trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra được một hình ảnh của cái xã hội ô uế, đã dựng lên được một nhân vật anh hùng, nó là giấc mộng thoát ly của những con người muốn vươn mình ra ngoài cái khuôn phong kiến và một nhân vật thân thế long đong, nó là tiếng oán hờn, tiếng kêu thương của những con người bị đày đọa, bị giày vò trong cái khuôn phong kiến.” [39, 21] Từ một xã hội thực, đến một xã hội được phản ánh lại trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thực sự nung nấu nỗi khổ, niềm đau, sự câm phẫn và giọt nước mắt thành những từ ngữ tinh tế phát xuất từ một tâm hồn tài hoa. Hiểu được thời đại Nguyễn Du, mới hiểu được xã hội trong Truyện Kiều và thái độ của Nguyễn Du với chính cái xã hội ấy. Hoài Thanh nhấn mạnh: Nguyễn Du thâu tóm xã hội phong kiến đương thời trong hình ảnh nhà chứa – gom góp sự xấu xa, nhơ nhuốc, bẩn chật, vùi dập con người đến tận cùng của khổ đau. Hoài Thanh đặt vấn đề: “Vậy xã hội phong kiến trong con mắt của Nguyễn Du như thế nào? Cái điều mà bất cứ ai cũng có thể nhận thấy ngay sau khi nghe qua câu chuyện nàng Kiều là những nhà chứa. Thật là đầy rẫy. Thúy Kiều vừa ra khỏi nhà cha mẹ là đã rơi vào nhà chứa Tú Bà, Mã Giám Sinh, vừa ra khỏi nhà Thúc Sinh là rơi vào nhà chứa Bạc Bà, Bạc Hạnh. Hình như cứ ra khỏi nhà là rơi vào nhà chứa đĩ. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhuốc dưới ngòi bút Nguyễn Du. Nguyễn Du đã dựng nên nói với những nét thật là sắc.” [39, 1002]

Tuy nhiên, Hoài Thanh cũng làm một động thái ngược lại: từ chiều kích của Truyện Kiều mà mở rộng đến chiều kích con người và thời đại Nguyễn Du. Hoài Thanh phân bua thay cho cụ Nguyễn: “Đối với một kẻ sát nhân thì giết nó đi. Đối với một trật tự xã hội sát nhân thì đạp đổ nó đi. [...] Sống trong thời đại Nguyễn Du, trong tầng lớp Nguyễn Du không thể nắm được cái chân lý đơn giản ấy. [...] Nguyễn Du đã dựng nên cái hình ảnh của xã hội mục nát đến tận xương. Nguyễn Du thông cảm với nỗi khổ vô cùng của con người bị chà đạp trong cái xã hội mục nát ấy. Nguyễn Du mơ ước được sống mạnh mẽ, sống phóng túng, được đập phá tan tành như Từ Hải.Nhưng Nguyễn Du không thấy đập phá như thế rồi đi đến đâu.Cái trạng thái nhất thời, Nguyễn Du tin là vĩnh viễn. Cho nên Nguyễn Du cố tiêu diệt cái mộng Từ Hải ở trong mình để sống cuộc sống tầm thường của những người Nguyễn Du cho là lương thiện.” [39, 1009] Với vấn đề Nguyễn Du – thời đại và Truyện Kiều, Hoài Thanh làm công việc nối kết giữa quá khứ – tác phẩm – hiện tại, kết luận rằng: “Nguyễn Du đối với ta vẫn là một kỹ sư tâm hồn. Nguyễn Du vẫn có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây. [...] Truyện Kiều chứa chan những mối tình thắm thiết, Truyện Kiều, một sức sống bị gò lại, bị dằn xuống và vì thế từng khao khát sống đầy đủ, sống say sưa, Truyện Kiều ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh, vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống.” [39, 1760] Như vậy, chất trải nghiệm trong tiếp nhận văn chương vẫn được Hoài Thanh chú trọng theo quan niệm của Phê bình Giáo khoa. Tất cả những mối quan hệ giữa ngữ cảnh và tác phẩm được Hoài Thanh đặt trong dung môi văn chương đã bổ trợ giải thích và khẳng định giá trị cho nhau. Thao tác lập luận mà Hoài Thanh thực hiện đúng với khuynh hướng của Phê bình Giáo khoa trong những năm đầu phát triển: nối kếtvăn bản và văn cảnh, đọc nội quan và ngoại quan trong phê bình văn học. Hoài Thanh làm công việc nghiên cứu tác phẩm văn học – Truyện Kiều trong ngữ cảnhthời đại ra đời và hoàn cảnh tác giả của nó. Văn cảnh (tiểu sử tác giả, ngôn ngữ văn hóa đương thời, lịch sử, xã hội,...) cùng bao quanh văn bản Truyện Kiều như là một hạt nhân khiến cho việc tìm hiểu và tiếp nhận trở nên nhuần nhị thấu suốt. Từ việc nghiên cứu ngữ cảnh, Hoài Thanh cũng có thêm nhiều bài nghiên cứu về vấn đề phản ánh hiện thực trong Truyện Kiều, hay các nhân vật nổi tiếng trong Truyện Kiều như Thúy Kiều, Từ Hải,... như “Xã hội phong kiến trong Truyện Kiều”, “Nhân vật Thúy Kiều”, “Nhân vật Từ Hải”, “Truyện Kiều đối với các lớp người và qua các thời đại”,... theo phong cách phê bình Tây học hiện đại.

2.6. Phê bình Truyện Kiều từ góc nhìn phân tâm học.

Những năm 40 của thế kỷ XX, nhiều lý thuyết phê bình văn học thịnh hành ở phương tây cũng dội đến Việt Nam. Có lẽ, người tích cực nhất trong việc vận dụng các lý thuyết mới vào nghiên cứu Truyện Kiều là Nguyễn Bách Khoa. Vào cuối thế kỉ XIX, bác sĩ tâm thần học người Áo Sigmund Freud đã đưa ra thuyết Phân tâm học, học thuyết được coi là triết học của tâm lí, mà điểm nổi bật là sự phát hiện ra cái vô thức và tuyệt đối hóa vai trò của nó đối với con người. Trên cơ sở của chủ nghĩa Freud cũng xuất hiện những khuynh hướng phân tâm học trong phê bình văn học ở nước ta. Nguyễn Bách Khoa là người tiên phong áp dụng chủ nghĩa Freud vào trong phê bình văn học của mình.

Nguyễn Bách Khoa đã áp dụng phân tâm học Freud để đọc tâm lý nhân vật Thúy Kiều. Phân tâm học cho rằng ẩn ức tình dục luôn là kết quả của sự chèn ép của ý thức đạo đức xã hội, chính ý thức đạo đức ấy đã đầy bản năng dục vọng xuống tiềm thức. Dựa vào việc miêu tả tâm lý, tình cảm của Thúy Kiều sau khi thăm mả Đạm Tiên và gặp gỡ Kim Trọng, Nguyễn Bách Khoa cho rằng ý thức đạo đức Nho giáo đã đẩy Nguyễn Du đến chỗ hành xử không hợp quy luật khi miêu tả đời sống tâm nội tâm của Kiều : "Tôi nghĩ rằng thi sĩ Nguyễn Du đã dụng ý gạt bỏ một phần dài của giấc chiêm bao đêm hôm ấy trong cơn thiu thiu của nàng Kiều [...]. Chiêm bao vốn là sự sinh hoạt của trí tưởng tượng kéo dài từ lúc ta tỉnh sang lúc ta ngủ. Trước khi thiu thiu, trí tưởng tượng của Kiều hầu như chỉ hoạt động xung quanh Kim Trọng, chung quanh tình yêu mê ly, chung quanh cuộc trăm năm mai hậu, nhiều hơn là chung quanh hình ảnh của Đạm Tiên. Theo đúng quy luật phân tâm học, đêm ấy Kiều phải nằm mơ thấy ân ái, thấy trăng thanh gió mát, thấy cành lồng bóng sân, thấy "giọt sương gieo nặng cành xuân la đà". Thấy chàng công tử mặc áo nhuộm mầu da trời đi hài xanh, dắt con ngựa bạch. Không có lý gì Kiều chỉ mê thấy có Đạm Tiên. Nguyễn Du đã cố ý gạt bỏ cái ảo ảnh của chàng Kim và chỉ cho hiện ra người ca nhi họ Đạm một là để chiều theo xu hướng luân lý nho của ông, của đẳng cấp ông, của triều đại thống nhất đầu triều Nguyễn, hai là để làm nổi bật lên từ đầu chuyện mối linh cảm của Kiều về sự lưu lạc sau này " [19, 255]. Nguyễn Bách Khoa cũng phê phán Nguyễn Du đã để cho Kiều từ chối tình yêu sắc dục của Kim Trọng trong cái đêm mà cả nhà đi ăn tiệc bên ngoại chưa về, coi đó là đạo đức - chữ dùng của Nguyễn Bách Khoa là "lương tâm hương nguyện": "Cái lương tâm bịa đặt ấy, trong hình ảnh trăng hoa này, thật có như một âm thanh lỗi nhịp trong cuộc hòa nhạc đang bổng chìm đúng tiết tấu. Nguyễn Du đã gảy sai một tiếng đàn chỉ vì ông không đủ can đảm theo âm nhạc đang rung động, cố tình đánh sai một cung đàn để có thời giờ sửa lại cái tóc bù, cái áo lệnh cho được chỉnh tề, kẻo thính giả nghe cười là không đúng đắn [...]. Tất cả Truyện Kiều là sự sai cung lỗi nhịp dụng tâm ấy. Suốt trong cuộc đời Kiều, ở cảnh ngộ nào, Nguyễn Du cũng cố gắn cho nàng cái lương tâm giả trá kia, chỉ cốt để thiên hạ xem nàng là hiếu nghĩa trung trinh". [19, 261]

Áp dụng một cách máy móc chủ nghĩa Freud, Nguyễn Bách Khoa phán xét Truyện Kiều và Nguyễn Du bằng một cái nhìn máy móc. Ông cho rằng Nguyễn Du là người có “cơ thể ốm yếu và thần kinh hốt hoảng”, một con người đa sầu, đa cảm, năng khiếu ảo giác, thần kinh rối loạn. Ông cho rằng Nguyễn Du là một người có căn tạng đa cảm quá độ, điều đó làm cho ông hay lo sợ, hoảng hốt. Việc Nguyễn Du quay về ở ẩn là nguyễn nhân của “thói mơ mộng hoài cổ, ưa chiêm bao, tin thần bí”. Nguyễn Bách Khoa cho rằng sinh lực, lòng ham sống và khí phách cá nhân của Nguyễn Du là di truyền huyết thống và địa phương tính tạo nên, bị ý thức hệ nho giáo của đẳng cấp nho sĩ mà ông là một thành viên dồn ép vào tiềm thức. Vì thế, giữa ý thức hệ và tiềm thức luôn xung đột nhau và làm nên "tấn bi kịch của tâm hồn" tức cũng là tâm sự sầu thảm của Nguyễn Du. Nguyên nhân những vấn đề đó ở Nguyễn Du chính là do sụ xung đột giữa ý thức hệ với tiềm thức. Nguyễn Bách Khoa đã nhìn thấy trong huyết thống của Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng sâu sa: "cái khí tiết hiên ngang không chịu khuất phục" của vùng Nghệ  - Tĩnh, chính cái khí tiết đó đã khiến cho anh em Nguyễn Du đủ sức can đảm, lòng trung hiếu để khởi binh Cần Vương chống lại Tây Sơn, mong khôi phục Lê triều cho trọn đạo quân thần. Nhưng lại bị chen vào một huyết thống địa phương tính của mẹ. Mẹ Nguyễn Du là người Bắc Ninh, đất "phong tình diễm lệ", "đất của ái tình". Sự giao hòa đó đã cấu tạo nên một cơ thể lạ lùng, một bộ thần kinh lạ lùng, một trái tim lạ lùng: thi sĩ Nguyễn Du, "Một con người lúc nào cũng thấy lẩn quất bên mình cái bất lực của đẳng cấp, cái khí phách tàn tạ của cha, cái phong tình ưu du của mẹ". Đoạn trường tân thanh chính là biểu hiện của cá tính và đẳng cấp của tác giả - một con người đa sầu đa cảm, nặng khiếu ảo giác, thần kinh hệ rối loạn... Nguyễn Bách Khoa kết luận Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh. Bệnh của ông thuộc về thứ bệnh không có thương tổn về khí quan.

Dựa vào phản ứng tâm lý, tình cảm của nhân vật Thúy Kiều khi đứng trước mộ Đạm Tiên, hoặc khi gặp gỡ và tự tình với Kim Trọng, Nguyễn Bách Khoa kết luận: Kiều mắc bệnh uỷ hoàng.

Nguyễn Bách Khoa đã phủ nhận hầu như hoàn toàn giá trị Truyện Kiều khi cho rằng: “Yếu tố cơ bản làm nên Truyện Kiều là một ấn tượng đậm đà về sự bị thua” [19, 288] nên khi nhìn tác phẩm âm điệu của lối thơ lục bát cấu tạo nên Truyện Kiều, Nguyễn Bách Khoa “nhận thấy ngày càng cốt cách ốm yếu của nó do một thời kỳ lịch sử dân tộc đẻ ra” [19, 299], “Điệu lục bát hợp với Nguyễn Du là bởi nó đủ điều kiện về âm điệu để biểu hiện chất thơ của tâm hồn thi sĩ và phô diễn chất sầu, chất đêm, chất trăng, chất tuyệt vọng của Truyện Kiều” [19, 301] Nguyễn Bách Khoa lý giải rằng chất thơ hào hùng và trữ tình say đắm trong Truyện Kiều có được là do cá tính Nguyễn Du được cấu tạo nên bởi hai yếu tố thuộc huyết thống là trí cương cường của người Nghệ Tĩnh (từ cha) và tinh thần mẫu hệ của văn hóa Bắc Ninh (từ mẹ).

Phê bình khoa học của Nguyễn Bách Khoa bị phản ứng dữ dội từ các nhà phê bình theo lối truyền thống, Hoài Thanh phản bác lại quan điểm Nguyễn Du là con bệnh thần kinh: “Ông dẫn ra một mớ tên các nhà bác học phương tây, cùng một mớ tên các thứ bệnh, rồi ông quả quyết rằng Nguyễn Du là con bệnh thần kinh về loại constitution hypérémotive. Đến khi xét tâm tính nàng Kiều ông thấy nàng mắc phải thứ bệnh ông gọi là bệnh ủy hoàng. Tôi không được thông thái như ông về y khoa nên chẳng thể biết Nguyễn Du quả có bệnh thần kinh hay không, nhưng xem xong bộ sách nghiên cứu của ông, tôi thấy mình cũng có biệt tài về nghề... lang băm" [19, 404]. Nguyễn Bách Khoa lên án “Điệu thơ lục bát chỉ là sản phẩm của một trạng thái nô lệ của dân tộc trong giai đoạn lịch sử (thời Bắc thuộc)  âm điệu lục bát tiến đến chỗ tuyệt diệu là một âm điệu báo tin sự diệt vong vậy” [19, 299]

Ta thấy cách tiếp nhận Truyện Kiều theo hướng khoa học của Nguyễn Bách Khoa có những ưu điểm và hạn chế sau: Nguyễn Bách Khoa đã ý thức được phải từ bỏ việc tiếp nhận Truyện Kiều theo lối mòn mà cả trăm năm nay các nhà nho đã dùng nó để tiếp nhận Truyện Kiều. Thứ hai là ông đã bổ sung hướng tiếp cận khác đối với văn bản đó là thao tác Phân tâm học để đọc văn học và bình phẩm văn chương theo lối chủ quan để hướng tới thế giới khách quan trong phê bình văn học. Nhưng bên cạnh đó, ta thấy Nguyễn Bách Khoa mắc phải một số sai lầm đó là quá cứng nhắc trong việc sử dụng lý thuyết phương Tây, ông dùng nó như một công cụ, một bộ "đồ nghề" để làm việc với các hiện tượng văn học Việt Nam, không thấy những giới hạn của phân tâm học Freud khi tuyệt đối hóa vô thức, phủ nhận vai trò của ý thức đối với hành động của con người. Những cách đọc của Nguyễn Bách Khoa rõ ràng là sự hiện đại hóa văn học trung đại. Nhưng ông quên rằng không thể lấy suy nghĩ, hành động của con người ở thời đại sau áp đặt bắt con người ở thời đại trước phải suy nghĩ, hành động như thế. Có người đã ví cách làm này giống như bắt một thiếu nữ ở thế kỉ XVIII giống hệt như người thiếu nữ thế kỷ XX về phương diện văn hóa, tâm lý mà quên mất rằng môi trường văn hóa của xã hội nho giáo nam quyền đã tạo áp lực mạnh mẽ đến cách nghĩ và cách hành xử của người xưa.

Tiểu kết

Truyện Kiều từ khi ra đời đến năm 1945 đã được nhiều thế hệ độc giả tiếp nhận với nhiều cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Mỗi độc giả lại mang đến cho Truyện Kiều một cái nhìn hết sức độc đáo. Tuy nhiên giai đoạn này do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử nên cách đánh giá Truyện Kiều còn nặng về lối phê bình cũ, phê bình cổ điển. Một số tác giả vẫn dựa trên quan niệm đạo đức của nhà Nho hay theo quan niệm của Phật giáo, một số người lại nặng về lối phê bình bình điểm, đi tìm cái hay của Truyện Kiều trong từng hình ảnh, câu chữ. Bên cạnh đó, thời kỳ này ta thấy bắt đầu xuất hiện những học giả đã bước đầu vận dụng phương pháp khoa học vào nghiên cứu Truyện Kiều như Nguyễn Bách Khoa và một số trí thức Tây học đương thời. Chính việc tiếp nhận Truyện Kiều ở giai đoạn này đã làm phong phú thêm đời sống tiếp nhận văn học ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

I. Nhận quê tổ đã thành một vấn đề

Cũng như bao nhiêu sản phẩm tinh thần khác, ca trù có nguồn gốc với các điều kiện văn hóa, điều kiện địa lý và thời điểm lịch sử sản sinh ra nó. Ca trù cũng có thể còn có dấu tích, dấu ấn của thời điểm lịch sử và vùng văn hóa mà nó sinh ra và có khả năng, với những đặc điểm, dấu tích đó cho phép chúng ta hy vọng tìm ra nguồn cội của ca trù ngoài hướng tìm qua thư tịch. Hướng tìm qua thư tịch khá mong manh vì công việc lưu trữ của chúng ta không tốt lại thiên tai địch họa liên miên và việc ghi chép cẩn thận cũng chưa phải là thói quen xưa nay. Trong điều kiện như vậy, khi nghiên cứu nguồn gốc ca trù nhiều người đã lấy truyền thuyết làm tư liệu tham khảo mặc dù truyền thuyết tổ quê ca trù vốn mù mờ lại có ở nhiều nơi trên đất nước.

 

Đỗ Thị Thương(*)

Là học thuyết được bắt nguồn từ y học do một bác sĩ người Áo gốc Do Thái S. Freud sáng lập. Phân tâm học không chỉ được ứng dụng trong y học mà còn được vận dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn học nghệ thuật. Vận dụng phân tâm học người ta có thể tìm thấy được những vấn đề trong tâm lý sáng tác của nhà văn, bởi nhà văn thường dùng văn chương để bộc lộ những tâm tư, tình cảm, những khát vọng không thể có được của mình trong đời sống xã hội vì bị ngăn cấm hoặc do thời cuộc, số phận không cho phép họ thực hiện những điều đó. Và khi ấy, nhà văn đã dùng văn chương của mình để thực hiện những khát vọng đó một cách có ý thức hoặc vô thức. Điểm nổi bật của thuyết phân tâm học đó chính là sự phát hiện ra “vô thức”. Cốt lõi của “vô thức” đó là bản năng tính dục chi phối toàn thể sinh hoạt của con người. Và đối với nhà văn, khi sáng tác văn chương đó chính là lúc mà những ẩn ức trong vô thức của họ được thăng hoa.

           Ở Việt Nam, khi nhắc đến phê bình phân tâm học người ta sẽ nhớ ngay đến hai nhà phê bình đầu tiên dùng phân tâm học của Freud trong văn học đó là  Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu. Năm 1936, Nguyễn Văn Hanh đã ứng dụng lý thuyết phân tâm học để tìm hiểu về cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương với cuốn Hồ Xuân Hương: tác phẩm, thân thế và văn tài. Cho đến năm 1940, Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) trong Kinh thi  Việt Nam cũng đã áp dụng Freud vào việc phân tích không chỉ thơ Hồ Xuân Hương mà còn có cả cái tục trong văn chương bình dân Việt Nam. Sau đó, năm 1942, Trương Tửu với bút danh Nguyễn Bách Khoa ông đã vận dụng thuyết phân tâm học để tìm hiểu về Truyện Kiều với cuốn“Văn chương truyện Kiều”. Do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, sau năm 1954, phân tâm học ở miền Bắc dường như đã không còn giữ được vị trí của nó trong đời sống phê bình. Thế nhưng, ở miền Nam giai đoạn này do sự tiếp xúc với những làn gió tư tưởng phương Tây một cách ồ ạt cùng với lối sống tiêu thụ và rộng mở, tự do hơn nên phân tâm học cũng giống như các học thuyết phương Tây khác đã tìm được chỗ đứng cho mình không chỉ trong các lĩnh vực của đời sống mà còn có cả văn học nghệ thuật, lý luận phê bình. Phân tâm học đã được giới thiệu và nghiên cứu một cách rộng rãi trên sách báo. Không chỉ có những tác phẩm được dịch từ nguyên tác của Freud như Phân tâm học nhập môn (Nguyễn Xuân Hiếu dịch, Sài Gòn, 1969), Nghiên cứu phân tâm học (Vũ Đình Lưu dịch, An Tiêm, 1967),… mà còn có những bài viết, những công trình biên khảo, dịch thuật về phân tâm học được giới thiệu rộng khắp như cuốn Lược khảo văn học tập 3 (1968) của Nguyễn Văn Trung, Mười khôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tỵ (Lá Bối xuất bản, 1972), Vũ trụ thơ của Đặng Tiến (Giao Điểm xuất bản, 1972), … Trên cơ sở đó, một số bài viết vận dụng lý thuyết phân tâm học đã được đăng trên các báo như: “Nguồn thơ tượng trưng của Lý Thương Ẩn” (Tạp chí Văn nghệ số 24, 1963) của Lam Giang; “Tìm hiểu Hồ Xuân Hương hay một vài nhận định về tâm lý học, phân tâm học và văn học” (Bách Khoa số 168/1964) của Nguyễn Mạnh Côn và Hoàng Vũ; “Đoạn trường tân thanh hay là cuộc đời kì quái của Nguyễn Du như được chiếu hắt lên trong tác phẩm của ông” (Nghiên cứu văn học, số 7 & 8/1971) của Thanh Lãng; Ý niệm bạc mệnh trong đời thúy Kiều của Đàm Quang Thiện (1965).

          Vận dụng phê bình phân tâm học, các nhà phê bình văn học ở miền Nam cho rằng Truyện Kiều là những ẩn ức đã bị dồn nén trong đời Nguyễn Du. Vì vậy, người ta đã nghiên cứu về Truyện Kiều dựa trên hai bình diện mới đó là: phân tích sự vận động của vô thức hoặc trong tâm lý Nguyễn Du (Thanh Lãng, Nguyễn Đình Giang) hay trong tâm lý của Thúy Kiều (Đàm Quang Thiện). Trước đó, Trương Tửu với bút danh Nguyễn Bách Khoa đã từng vận dụng hai khuynh hướng này để tìm hiểu về cuộc đời của Nguyễn Du và Thúy Kiều. Trong bài viết của mình, Nguyễn Bách Khoa bằng việc vận dụng những thuyết lý về tâm phân học, di truyền học đã đưa ra những cái nhìn mới mẻ trong việc tìm hiểu về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tuy nhiên, cái nhìn của Nguyễn Bách Khoa đã đi quá xa cho đến lúc ông nói bảo rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” [77, 236]. Và ông còn cho rằng Nguyễn Du là người “cảm xúc quá độ”. “Đó là một thể cách của trạng thái mất thăng bằng về tinh thần, nhận thấy ở sự thái quá hỗn loạn của cảm xúc, ở sự bất lực không điều hòa được tính cách hang hổ, mãnh liệt, bền lâu của những phản động của thần kinh hệ đối với những rung động của ngoại giới ùa vào. Kết quả thông thường là thiếu cái khiếu thích ứng vào những trường hợp đột ngột, những cảnh ngộ bất ngờ, những hoàn cảnh mới lạ” [77, 237]. Chính vì căn tạng suy nhược ấy mà Nguyễn Du lúc nào cũng mang tâm trạng lo lắng hãi hùng, còn trí tưởng tượng thì bị kích thích thái quá phải làm việc cấp bách nên sẽ luôn bị sáo loạn, tạo nên những cảnh tượng ghê gớm phù hợp với sự lo sợ kia. Không chỉ có thế, khi nhận xét về nàng Kiều trong Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Bách Khoa cho rằng Thúy Kiều của Nguyễn Du mắc bệnh ủy hoàng, bởi ở nàng luôn mang những cảm xúc: buồn não, lo sợ, hoảng hốt, dễ khóc, dâm đãng, trâng tráo,.. đó chính là những dấu hiệu của căn bệnh ủy hoàng. Và theo tác giả của bài viết thì căn bệnh đó là “bệnh của người con gái đến thời kỳ xuân tình phát động mà hoặc vì thân thể và thần kinh hệ yếu quá, không đủ lực chịu đựng sức tiến triển của cơ quan sinh dục, hoặc là bị lễ giáo kiềm chế tính dâm đãng không thực hiện được, nên đâm ra người gầy, mắt như có nước trong con người, xanh vàng cả mặt và tay chân. Ở con bệnh, chất máu đỏ bị úa đi, sự tuần hoàn thiếu đều đặn, cơ quan tiêu hóa chậm hoạt động, cơ quan sinh dục luôn náo động trong thời kỳ phát triển” [77, 294].

          “Bệnh ủy hoàng có ảnh hưởng lớn đến tính khí của thiếu nữ. Nó sinh ra chứng u uất (hystérie), làm cho con người khi vui quá độ, khi buồn quá mực, hay hờn dỗi khóc lóc, đêm ngủ thường giật mình tức ngực, mộng mị thì chỉ thấy gặp toàn những cảnh thương tâm, rùng rợn. Nó khiến con bệnh luôn luôn bị những cảnh ái ân ám ảnh và luôn hứng tình, chỉ khao khát vỗ về của người đàn ông. Nó gây ra, ở thiếu nữ, tính đam mê liều lĩnh trong lúc yêu đương và tính hoảng sợ lo lắng trong khi hành động” [77, 294].

          Ngay trong bài viết “Thử tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều theo một phương pháp mới” (Đại học số 8) của mình, Nguyễn Đình Giang đã vận dụng phương pháp tính tình khoa trong việc nghiên cứu tính tình của Nguyễn Du thông qua các nhân vật truyện Kiều.

          Nguyễn Đình Giang cho rằng mỗi nhân vị mang trong mình ba con người tâm lý khác nhau: 1. Một con người hoàn toàn “thỏa mãn” vì khát vọng đã thực hiện trong đời sống rồi; 2. Một con người chỉ sống toàn bằng “ước vọng” trong mộng tưởng vì hoàn cảnh thân xác, trí tuệ, tình cảm hay xã hội không cho phép thực hiện những ý tình của mình ra ngoài được; 3. Một con người sống trong xung đột mâu thuẫn giữa “lý tưởng” và đời sống thực tại. Lý tưởng thì cao xa, xác thịt thì yếu đuối. Cái tôi này tôn thờ sự Thiện, cái tôi kia chạy theo những quyến rũ của đường ác. Và mỗi người trong chúng ta có thể sống trong ba con người ấy bằng nhiều cách: có thể bằng trí tưởng tượng, bằng sự đồng tình đồng cảm với người khác trên đời hay trong các nghệ thuật do người đời sáng tạo và đối với những người làm văn chương thì họ sẽ thể hiện sự sống đó trong tác phẩm của mình. Và theo quan niệm của tác giả, văn chương chính là một cách sống để có thể bù trừ cho phần tâm lý đã bị dồn nén, những khát vọng mà hoàn cảnh bên ngoài không cho phép thực hiện điều đó. Đó là một lối giải thoát và bù trừ tâm lý mà nhà phân tâm học Freud đã từng nói. Và đó là lý do mà người nghệ sĩ gửi gắm tất cả nỗi lòng vào văn chương vì “trong văn chương chẳng những người ta gửi gắm những ước vọng không thực hiện được mong giải thoát tâm hồn; nhưng lại còn muốn tạo nên những nhân vật có những đức tính bù trừ cho điểm thiếu sót thực tế của mình” [110, 89]. Tất cả những gì nhà văn gửi gắm vào trong văn chương đều được xem đó là những lời tâm sự , đó là một cách sống bù trừ của phần tâm lý bị dồn ép hay bị bất lực không thực hiện nổi những  khát vọng của mình trong tư tưởng, tình cảm Cho nên “văn chương lệ thuộc mật thiết tới đời sống của nhà văn. Mà đời sống của nhà văn lại lệ thuộc mật thiết vào TÍNH TÌNH của mỗi người” [110, 114 - 115].

          Theo nhận xét của Nguyễn Đình Giang thì Nguyễn Du thuộc loại người đa sầu đa cảm bởi sự chi phối của ba động lực căn bản đó là: sự cảm động, sự thiếu nghị lực hoạt động và sự trường cảm, tính tình đó đã được Nguyễn Du biểu lộ qua các nhân vật trong Truyện Kiều. Và chúng ta có thể dựa trên tính tình của tác giả như chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa tìm hiểu vì sao Nguyễn Du lại chọn Đoạn trường tân thanh để giải thích cho quan niệm hồng nhan bạc mệnh, số kiếp, nghiệp quả, tài mệnh tương đố là những quan niệm tràn ngập trong truyện trên hoặc để giải thích những lẫn lộn mâu thuẫn ở nơi Nguyễn Du, chẳng hay sự lẫn lộn quan niệm Phật, Nho, Đạo trong truyện hay sự mâu thuẫn giữa những thái độ cứng rắn bảo vệ trung, hiếu, tiết, nghĩa và những hành động yếu đuối, bạc nhược ủy mị của Kiều.

          Nhận định về tính tình của Nguyễn Du nói riêng hay những người đa sầu đa cảm nói chung, Nguyễn Đình Giang cho ta thấy được những người đa sầu đa cảm thường thích sống ẩn dật và trầm tư, những người như thế này thường hay chú ý nhiều đến những cái thất bại và buồn khổ của đời mình. Tự mình nhìn lại chặng đường đời của mình, họ chỉ thấy toàn những nỗi buồn mà niềm vui có đáng là bao. Vì vậy mà họ luôn mang trong mình tư tưởng bi quan, yếm thế. Cuộc đời với họ chỉ là những ảo ảnh, là bãi bể nương dâu. Danh lợi, sắc tài cũng chỉ như bóng câu qua cửa sổ mà thôi. Chính vì mang tư tưởng như vậy cho nên họ coi số phận của họ và những người đồng loại chỉ là một kiếp bạc mệnh. Phải chăng cũng giống Nguyễn Du, Ôn Như Hầu trong Cung oán ngâm khúc đã cất lên tiếng nói bi thương về kiếp người đau khổ ấy:

Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.

          Và vì mang trong mình cái nhìn về kiếp người bạc mệnh và cho rằng nó chỉ là do một đấng thần linh trên cao sắp đặt cho nên họ thường hay tìm cho một niềm tin cũng giống như bao người khác để dựa dẫm dù đó là ông Trời, là Thiên mệnh, là Nghiệp quả luân hồi đi chăng nữa thì đó cũng chính là nơi để họ có thể dựa vào, tin tưởng vào rằng số mệnh của mình là sức mạnh vô hình mà đấng bề trên đè nặng trên số kiếp của họ. Do đó, mà tư tưởng bi quan của những con người đa sầu đa cảm thường dẫn dắt họ quay trở về với ý tưởng tôn giáo với những niềm tin tưởng mơ hồ về số kiếp, về định mệnh. Và cũng theo Nguyễn Đình Giang, không phải vì hoàn cảnh xã hội hay giáo dục gia đình đã tạo nên bản tính này của con người mà ở chính họ bẩm tính đã có sẵn. Để rồi khi gặp hoàn cảnh xã hội thì họ chỉ chú trọng đến phương diện bạc nhược thất bại chán chường của nó, họ sống và hòa mình vào nó rồi sau đó cất lên tiếng thở than. Tiếng thở than ấy không chỉ cất lên thay cho cái xã hội mà còn là tiếng than cho chính thân phận thất bại, sầu muộn của chính họ. Và ở những con người đa sầu đa cảm, họ luôn có ý thức giữ gìn những giao phong tập tục của người xưa, nhưng nó chỉ là trong ý tưởng cho nên họ rất dễ sa ngã và yếu đuối. Chính vì vậy mà trong hướng nhìn của Nguyễn Đình Giang đã có sự cởi mở hơn so với Nguyễn Bách Khoa trong sự việc Thúy Kiều qua nhà Kim Trọng. Ông Nguyễn Bách Khoa thì cho rằng Thúy Kiều không có biết đến e dè và coi những lời Thúy Kiều nói là giả tạo vì theo ông: “Sức mạnh của lương tâm Kiều là không có thực. Nó là một vật mà Nguyễn Du bắt Kiều phải có… để truyện thỏa mãn được cái xu hướng thống nhất trật tự của một thời kỳ lịch sử, cho Thúy Kiều hành vi trái với luân lý tự nhiên của tâm tình nàng” [29, 158]. Còn trong hướng nhìn của Nguyễn Đình Giang, thái độ đó của Thúy Kiều là phù hợp với tính đa sầu đa cảm của Nguyễn Du và Kiều bởi lúc ấy trong lòng nàng Kiều vẫn tôn trọng nền luân lý cũ tuy nhiên nàng lại không thể chống trả lại được tình yêu quá bồng bột ấy. Nhưng, khi chàng Kim có chiều lả lơi thì cũng là lúc ý thức Thúy Kiều hiển hiện rõ rệt nhất cái luân lý kia. Cho nên nàng mới buông những lời trách móc Kim Trọng.

          Và đến đây, theo lý thuyết của các nhà tính tình khoa chúng ta có thể hiểu rõ được những đặc điểm của tính đa sầu đa cảm đó là: “Nhậy cảm, đa cảm, dễ vui buồn, dễ kích thích, dễ hứng chí, ưa sầu muộn, thích sống trầm tư mặc tưởng riêng tây, sống kín đáo, khép nép, sống áy náy lo âu, ưa nhớ về dĩ vãng, xao suyến ở tương lai, đã do dự, dễ nản lòng thối chí, bám vào thói quen, ưa sống bằng tình cảm thân mật, thích thở than rên rỉ, không bằng lòng số phận mình, có cảm tưởng người đời không hiểu mình, yếm thế bi quan, coi đời là phù vân ô trọc, thích an nhàn trầm lặng, hay tỏ lòng thương hại số phận kẻ khác, thủy chung trong tình lý tưởng, sống tiết kiệm và hay tỏ lòng nhân từ thương xót, tính khí u sầu ôm ấp tôn trọng thói quen, tập quán, luân lý kỷ luật, nhưng lại hay yếu đuối sa ngã, có quan niệm khuất phục định mệnh, đời sống tôn giáo thiên về tình cảm ưu tư. Sự chán nản, lo âu áy náy thắc mắc, sợ hãi nhiều khi đưa tới trạng thái hốt hoảng thác loạn và các chứng bệnh thần kinh. Trong văn thơ hay có mầu than thở, yếm thế mà chịu đựng nhẫn nhục hay phẫn uất trước số kiếp thân phận” [110, 114-115].

          Dựa trên những lý thuyết về tính tình khoa, Nguyễn Đình Giang đã tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Đình Giang đã phân chia các nhân vật trong Đoạn trường tân thanh làm hai vai chính: một vai đại diện bộc lộ hết tâm tình, hoài bão mà Nguyễn Du ôm ấp, tôn trọng, kể cả những điều đã sống thực lẫn những điều chỉ khát khao mộng tưởng; một vai đối thoại và bộc lộ những điều mà Nguyễn Du phủ nhận, từ chối. Nguyễn Đình Giang đã căn cứ vào những lý thuyết của tính tình khoa và cho rằng Truyện Kiều là biểu lộ tính đa sầu đa cảm của Nguyễn Du bởi trong con người Nguyễn Du là sự chất chứa của sự nhạy cảm. Sự nhạy cảm đó khiến cho Nguyễn Du dễ dàng xúc động, cảm thương cho số phận của những con người bạc mệnh như nàng Tiểu Thanh trong Độc tiểu Thanh ký, Văn tế thập loại chúng sinh, Tương đàm điếu Tam Lư Đại Phu, và nhất là Đoạn trường tân thanh trong đó Thúy Kiều, Kim Trọng là hai nhân vật bộc lộ đặc điểm đó mãnh liệt nhất. Ở Thúy Kiều, nhạy cảm khiến cho nàng dễ đau lòng, rơi lệ trước số phận của kiếp người bạc phận như nàng Đạm Tiên rồi sau đó lại lo nghĩ vẩn vơ cho thân phận của mình. Điều đó thể hiện rõ trong thơ văn của ông cũng như thái độ thiếu kiên quyết trước việc ra làm quan với nhà Nguyễn. Và theo như Nguyễn Bách Khoa nhận định, tất cả Truyện Kiều “chỉ là một sinh hoạt cằn cỗi và sáo loạn, một tư tưởng hèn nhát và ủy mị, một tâm lý tùy thời và ích kỷ” [110, 243].

          Cuối cùng, sự đa sầu đa cảm của Nguyễn Du còn thể hiện rõ trong tính trường cảm. Bởi trong tâm tưởng của Nguyễn Du luôn có sự tiếc nuối tôn thờ nhà Lê. Đối với những người trường cảm hoạt động thì họ sẽ biến những nhớ nhung ấy đến với sự thành công. Còn đối với những người thiếu nghị lực thì nó sẽ biến những nhớ tiếc ấy thành những mơ mộng sầu cảm trong tâm trạng thất bại, chán nản và viết nên những lời thơ bi ai sầu oán. Chính những điều đó dẫn đến những bi quan, yếm thế, tin tưởng vào Định mệnh của Nguyễn Du. Tác giả chỉ biết tới những đau thương oan khổ của cuộc đời mà không thấy được những điều lạc quan và rồi sau đó vin vào những niềm tin về Định mệnh, Nghiệp quả để dựa dẫm, lý giải cho những khổ đau trong cuộc đời.

          Có lẽ chính vì vậy mà chúng ta vẫn thường bắt gặp trong Đoạn trường tân thanh những thân phận con người bi đát và đau thương:

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Lạ gì bỉ sắc tư phong,

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

          Ngay từ mở đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã cố ý trình bày về thân phận đau thương của mọi kẻ “trong cõi người ta”. Và trong kiếp nhân sinh ấy, ai có được cái này thì sẽ mất cái kia, không bao giờ được trọn vẹn ca hai. Sự khổ không phải do trời hay sự thất bại của đẳng cấp mà do thân phận làm người mà ra. Và nguyên do của sự bi đát đó chính là ông Trời, bởi:

Cho hay muôn sự tại trời

………………….

Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

          Ông trời chính là người đại diện cho một sức mạnh từ trên cao xanh, ông là người cầm cân nảy mực bằng số tiền định, bằng sổ đoạn trường. Cho nên mỗi người đều có một số phận đã được định sẵn. Tuy nhiên, ông trời không tiền định và ghi tên vào sổ đoạn trường mà số phận của mỗi người là do những hành vi tội phúc của mỗi người để lại:

Mới hay tiền định chẳng nhầm,

Đã tin điều trước ắt nhằm điều sau.

Hay do những tội phúc của kiếp này mà gây nên:

-         Nàng rằng: lồng lộng trời cao.

Hại nhân, nhân hại sự nào hại ta.

-         Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

-         Cho hay muôn sự tại trời,

Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta”.

-         Mấy người bạc ác tinh ma,

Mình làm mình chịu kêu mà ai thương”.

          Hoặc là do công tội ở kiếp trước:

-         Kiếp này trả nợ chưa xong,

Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”.

-         Kiếp xưa đã vụng đường tu,

Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi”.

           Cho nên trách nhiệm ở đây không thể đổ lỗi cho đâng tạo hóa được mà tất cả đều do con người mà ra bởi:

-    … mình làm mình chịu…

-    Có trời mà cũng có ta…”

-    Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài…”

          Và nàng Kiều sau mười lăm năm luân lạc trong cõi hồng trần đầy đau khổ để trả nợ cho cái nhân ở kiếp trước thì cuối cùng nàng cũng được đoàn tụ với gia đình. Có lẽ những trung, trinh, hiếu, nghĩa của ở người con gái này đã thấu đến trời xanh mà đoạn trường mới được rút tên ra:

Sư rằng: “Song chẳng hề chi”

Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.

Xét trong tội trang Thúy Kiều,

Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.

Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm,

Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!

Hại một người cứu muôn người,

Biết điều khinh trọng, biết lời phải chăng.

Thuở công đức ấy ai bằng,

Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

Khi nên trời cũng chiều người,

Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.

            Có lẽ vốn là người nhạy cảm cho nên không chỉ Nguyễn Du mà ngay cả nàng Kiều của ông cũng hay nghĩ về thân phận con người và số kiếp trước cái sức mạnh bao la huyền bí đè lên thân phận con người trong đó có cả mình.

          Nguyễn Đình Giang cũng cho rằng: “Người đa sầu đa cảm vốn bị kích động bởi mọi ảnh hưởng tín ngưỡng luân lý ngoại lai. Vì ít nghị lực hoạt động nên họ sẽ vui lòng dựa dẫm vào những tín ngưỡng luân lý sẵn có ấy. Lại trường cảm cho nên họ càng trung thành với những thứ ấy mà không muốn thay thế. Nhưng họ lãnh nhận một cách khác hẳn những người hoạt động. Những người hoạt động đứng trước một hệ thống luân lý sẽ suy luận rồi lựa chọn một cách cương quyết toàn thể hệ thống. Đằng này, những người đa sầu đa cảm ít hoạt động sẽ do dự, và rút cục lựa chọn nguyên những yếu tố hợp với tính bi quan yếm thế của họ: chính Nguyễn Du đứng trước các quan niệm Phật, Lão, Nho cũng làm sự lựa chọn thành hệ thống theo cái luân lý đã trình bày trên kia hợp với cái sở thích của ông. Và ta đã thấy hệ thống tuyển hợp đó vừa đúng quan niệm bi quan yếm thế vừa giải quyết nổi xung đột trong tính tình ông: một đằng tôn trọng tập quán luân lý cổ truyền, một đằng yếu đuối sa ngã vì đa cảm… Thì chỉ có một cách cắt nghĩa: định mệnh, tiền định. Định mệnh đã cho con người một số phận đa cảm yếu đuối nhu nhược. Nhưng trong con người vẫn có một sức mạnh luân lý cưỡng lại các sa ngã yếu đuối kia. Sức mạnh ấy chỉ ở chỗ “tâm thành” “ở tại lòng ta”. Nhờ cái tâm thành cái thiện căn ấy, con người lay chuyển được lòng trời đổ được số mệnh của mình. Đó là khát vọng của những con người đa cảm mà yếu đuối, không có hoạt động không biến cải được số phận mình trong trường đời, thì đặt hy vọng vào sự quả báo mai sau. Cho nên nhân sinh quan của Nguyễn Du thống nhất và dung hòa được hai đặc điểm tương phản:

“Định mệnh và tự do”

          Vẫn có định mệnh của trời, mà vẫn có cả sự tự do của tâm thành con người. Nhân định vẫn có thể thắng Thiên, vì Thiên chỉ xếp đặt định mệnh theo tội phúc hành vi tự do của con người” [110, 121 – 122].

          Và trong nhân sinh quan của Nguyễn Du, số phận của mỗi người trong cuộc đời trần ai kia đều đã được tiền định. Con người nói chung đều là những số kiếp mỏng manh giữa cuộc đời hồng trần ô trọc. Còn số phận hồng nhan kia cũng là do ông trời dựa vào tiền kiếp của mỗi người mà sắp đặt. Sinh ra là kiếp hồng nhan, là những người chân yếu tay mềm thế nên số phận của những người phụ nữ càng mỏng manh và đày đọa hơn nữa. Phải chăng kiếp trước họ đã gây nên tội để cho:

-         Phận hồng nhan có mong manh…

-         Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hoặc:

-    Hồng nhan tự thuở xưa,

                      Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

-         Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho cho hại, cho tàn cho cân.

          Trời kia dành cho thân phận hồng nhan nhưng lại bắt họ phải chịu số kiếp long đong cả một kiếp người. Tất cả phải chăng cũng chỉ vì “Kiếp xưa đã vụng đường tu”. Cho nên kiếp này mới chịu những đau khổ như vậy.

          Bẩm sinh ở Nguyễn Du đã là người nhạy cảm. Cho nên, chính những hiện trạng về gia phong và xã hội càng tạo điều kiện cho sự day dứt về thân phận con người trong Nguyễn Du càng thấm thía thêm mà thôi. Cho nên, suốt cuộc đời của ông lúc nào cũng mang trong lòng một mối cảm động thương tâm về mọi thân phận con người. Và vì vậy, Nguyễn Du mới có thể dễ dàng xúc cảm trước những thi phẩm khác của người. Đó là một mối thương cảm đối với tất cả những thân phận làm người trong xã hội chứ không phải chỉ trước sự thất bại của đời mình, đẳng cấp mình hay của thời đại mình. Cho đến khi đọc Kim Vân Kiều thì Nguyễn Du dường như đã tìm được một kiểu mẫu sống động và thấm thía nhất về thân phận làm người phù hợp trong nhân sinh quan của chính mình. Nàng Kiều vốn là một cô tiểu thư khuê các sinh ra trong một gia đình gia giáo. Bản thân nàng là một người con gái nết na, thùy mị. Cho đến khi gặp được Kim Trong, nàng cũng đã muốn được “kết tóc xe tơ đến già” cũng với chàng. Thế mà, gia biến xảy đến, nàng phải hy sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu, nàng bán mình chuộc cha rồi ba chìm bảy nổi trong kiếp giang hồ lênh đênh. Qua hình ảnh của Kiều, Nguyễn Du đã tìm cho mình một hình mẫu lý tưởng. Ông muốn đem cuộc đời của nàng để giải thích cho thân phận con người, trong đó có cả thân phận của chính tác giả theo nhân sinh quan mà mình đã nung nấu từ rất lâu. Thân phận của Kiều đại diện cho những người tài sắc vẹn toàn nhưng lại gặp những truân chuyên trắc trở trong cuộc đời. Lẽ ra những người như vậy sẽ được cho mình hạnh phúc vẹn tròn. Ấy vậy mà, ông trời lại mang đến cho nàng những tai ương dồn dập bất ngờ đến với cuộc đời của nàng. Cuộc đời Nguyễn Du và cuộc đời của những người khác nữa cũng đã minh chứng cho cái ý niệm ấy của ông. Và nguyên nhân mà con người hồng nhan ấy phải chịu những cảnh đau thương đó là do tiền kiếp: “Kiếp xưa đã vụng đường tu” cho nên kiếp này trời đã sắp xếp cho kiếp hồng nhan mang sẵn trong mình tính đa tình đa cảm, nhu nhược, rồi còn bị ma đưa lối quỷ đưa đường dẫn đến những đoạn đường đau thương, tai họa chất chồng, hết nạn nọ đến nạn kia. Tuy nhiên, ông trời vẫn cho Thúy Kiều những tự do bên trong “cái tâm thành” của con người mình để có thể phản kháng trước những cảnh đời ô trọc đọa đày. Cuối cùng nàng cũng được rút tên ra khỏi cuốn sổ đoạn trường kia và được đoàn tụ với gia đình sao cho phù hợp với những khát vọng, thỏa mãn được những xung đột của tính tình ông.

          Cũng trong bài viết của mình Nguyễn Đình Giang đã nhận xét rằng, ban đầu Nguyễn Du chỉ là bắt gặp được một thân phận đại diện cho mọi thân phận. Thế nhưng, khi xây dựng Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du đã hướng mọi sự việc xảy ra trong câu chuyện ấy theo nhân sinh quan của chính mình. Cho nên, Truyện Kiều là lời tâm sự biểu lộ ba con người của Nguyễn Du:Một con người sống thực trong thân thế, tính tình Nguyễn Du. Một con người sống bằng khát vọng. Một con người thỏa mãn những xung đột nội tâm….”[110, 124 – 125].

          Nguyễn Du mang một tâm hồn nhạy cảm trong sự tôn trọng luân lý trên những giá trị đạo đức của con người. Sự nhạy cảm ấy thể hiện trong tính tình của Thú Kiều, Kim Trọng và Từ Hải. Còn sự nhu nhược thì lại được thể hiện rõ hơn qua Thúy Kiều và Thúc Sinh. Và Nguyễn Đình Giang còn cho rằng, nếu như Thúy Kiều không quá yếu đuối thì có lẽ nàng sẽ có cách giải quyết hay hơn, không phải hốt hoảng khi cơn gia biến xảy ra mà “Rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc cha”. Và nếu như nàng không nhu nhược thì đã không thể bị mắc lừa Sở Khanh và Tú Bà hay sau đó là rơi vào tay của Hoạn Thư, Bạc Bà,… Ở đây, tác giả bài viết chỉ muốn chứng minh rằng nếu như Nguyễn Du không phải là đa sầu đa cảm mà là một người có nghị lực hoạt động thì chắc chắn câu chuyện sẽ có bố cục và tình tiết khác hơn. Cho nên, câu chuyện của Nguyễn Du mới có thể bám sát cốt truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Cũng chính vì tính đa sầu đa cảm nhu nhược thất bại yếm thế nên mới có tâm trạng nhẫn nhục và khuất phục định mệnh và đầu hàng số phận:

-         Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Thử xem con tạo xoay vần đến đâu”.

-         Nàng rằng: “Mưa gió dập dìu,

Liều thân thì cũng phải liều thế thôi”.

-         Phận bèo bao quản nước sa,

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”.

          Chính vì con người cam chịu chấp nhận đầu hàng định mệnh cho nên cứ mãi quẩn quanh trong vòng tròn của bạc mệnh. Giống như lời sư Tam Hợp đã từng nói:

Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

          Tiếp theo đó là con người khát vọng ở Nguyễn Du, khát vọng ấy được thể hiện trọn vẹn trong hình ảnh của người anh hùng Từ Hải. Bởi ở những con người đa sầu đa cảm, nhu nhược bất lực trước cuộc sống thì họ sống càng mạnh mẽ và mãnh liệt trong khát vọng của mình. Cho nên họ đành thỏa mãn chính mình trong cái hình tượng do mình xây dựng lên. Và Từ Hải của Nguyễn Du cũng vậy, chàng là tất cả những gì mà Nguyễn tiên sinh không thể thực hiện được trong cuộc sống đời thường của chính mình với tính cách ngang tàng, phi thường:“Chọc trời khuấy nước mặc dầu. Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Không chỉ có thế, khát vọng của những con người đa sầu đa cảm còn là một sự hạnh phúc trọn vẹn trong an bình. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Du đã để cho Kiều được sum họp với gia đình, tái hợp với chàng Kim sau mười lăm năm gió bụi của cuộc đời.

          Cuối cùng đó là con người xung đột ở Nguyễn Du được thể hiện trong toàn bộ triết lý và luân lý của truyện. Tính đa sầu đa cảm vốn sống thường xuyên trong sự xung đột giữa việc một lòng trung thành với lý tưởng và  một sự yếu đuối nhu nhược của tình cảm con người trước những hoàn cảnh mãnh liệt của đời sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua những tâm sự của Nguyễn Du trong thơ văn của ông. Mang nặng tấm lòng trung nghĩa với nhà Lê nhưng do những biến cố của xã hội khiến cho vật đổi sao dời, trong tình thế bắt buộc, ông đành làm trái với lý tưởng mà ra làm quan với nhà Nguyễn khiến cho bao người đã nói ông sao không học theo tấm gương trung nghĩa của Di, Tề. Để rồi khi đi theo nhà Nguyễn, ông luôn mang nặng sự nhớ tiếc trong tâm hồn. Và sự lỗi đạo đó đã được Nguyễn Du biện minh cho chính mình bằng thuyết số mệnh trong nhân sinh quan của chính mình. Và Truyện Kiều chính là lời bào chữa ấy của Nguyễn Du: “Kiều mắc điều tình ái (yếu đuối) nhưng khỏi điều tà dâm (tâm thành mà giữ lòng trong sạch trong tâm hồn). Kiều bao phen sa đọa lạc loài, chỉ vì yếu đuối (sang nhà Kim Trọng trái luân lý đương thời) nhưng vẫn ý thức đến “thói nhà băng tuyết phỉ phong” (trách Kim Trọng sàm sỡ). Và trong suốt thời gian luân lạc, vẫn giữ những điều tiết nghĩa trung trinh. Tôi không có ý phê bình các hành vi của Kiều có đúng vẫn giữ được Hiếu nghĩa trung trinh hay không. Tôi chỉ có ý chứng minh cái ý thức luân lý ấy là hợp lý trong tâm trạng những người tính đa sầu đa cảm như Kiều và Nguyễn Du, không có chi giả tạo như ông Khoa bảo. Chính cái ý thức luân lý ở giữa những hành vi yếu đuối làm đặc điểm của tính đa sầu đa cảm. Và cũng chính vì thế mà đưa họ đến quan niệm yếm thế định mệnh”. ….”[110, 126 – 127].

            Có lẽ chính bởi cái nhân sinh quan ấy nó đã bộc lộ được cái khía cạnh bi đát về thân phận con người nói chung, cho nên bất kỳ ai cũng cảm thấy hình ảnh của mình trong thân phận cô Kiều. Đã làm người ai cũng cảm thấy cái bất lực bi đát của thân phận nhân loại. Những người hoạt động có lúc quên được khía cạnh bi đát bất lực, huyền bí của đời người trong công việc của họ, nhưng tới khi có ai nhắc bảo cho họ, chắc họ phải nhớ tới và ý thức được sự bi đát của thân phận mình. Đọc Truyện Kiều mọi người sẽ tìm thấy hình ảnh bi đát ấy như Nguyễn Văn Trung đã viết: “Chúng ta thích Truyện Kiều vì ai cũng bắt gặp mình ít nhiều trong cuộc phiêu lưu của Kiều, nghĩa là trong thân phận làm người có những lúc lo lắng băn khoăn trước một tương lai mờ mịt, có những chán nản, uất ức trước cái vô lý của cuộc đời, có những lúc tin tưởng hy vọng muốn bám víu lấy cuộc sống tuy đôi khi chỉ là những hy vọng mỏng manh, hay là ảo vọng” [110, 128].

          Cũng vận dụng những lý thuyết của phân tâm học vào việc tìm hiểu tác phẩm, Đàm Quang Thiện trong cuốn Ý niệm bạc mệnh trong đời Thúy Kiều đã vận dụng những lý thuyết của phân tâm học để tìm hiểu về tâm lý của Thúy Kiều với ý niệm bạc mệnh trong cuộc đời của nàng. Ngay từ phần mở đầu của cuốn sách, Đàm Quang Thiện đã dẫn luận những lý thuyết về di truyền học “người ta sinh ra với một “tiên thiên” di truyền, cấu tạo, ngay từ lúc người ta mới thành hình, bởi một nửa số nhiễm sắc thể (chromosmes) mà những sinh ( genes) mang những tính cách di truyền của người cha, và một nửa số nhiễm sắc thể mà những sinh mang những tính cách di truyền của người mẹ, hòa hợp với nhau, để người con có đầy đủ và quân phân những tính cách di truyền của cả cha lẫn mẹ” [64, 5]. Trên cơ sở đó tác giả cuốn sách cũng nhận xét ngay bản thân Kiều cũng mang một tiên thiên rất nặng về tình cảm bởi Vương ông và Vương bà đều là những người nhiều tình cảm. Và cái “tiên thiên” ấy sẽ không chịu sự chi phối của bất cứ hoàn cảnh xã hội nào mà nó sẽ là mảnh đất màu mỡ, thuận lợi cho cái mầm “bạc mệnh” trong cuộc đời Thúy Kiều được nảy nở và phát triển mạnh mẽ.

          Vậy thì cái hạt giống “bạc mệnh” của Thúy Kiều do đâu mà có? Và theo sự lý giải của ông, mầm “bạc mệnh” của Thúy Kiều được gieo bởi tay của một người tướng sĩ. Khi Thúy Kiều hãy còn thơ ngây, ông bà họ Vương đã mời đến nhà một ông thầy tướng sĩ để xem về vận mệnh cho con cái. Và theo ông tác giả bài viết, có lẽ ông thầy số này phải là người có danh tiếng lắm cho nên lời ông đoán về số mạng của Thúy Kiều:

Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung.

 Mới có thể khiến cho nàng Kiều tin răm rắp như thế được để rồi nó đã ăn sâu vào trong vô thức của Kiều, đã ám ảnh tất cả những việc làm và tư tưởng của nàng. Khiến cho Thúy Kiều chỉ tâm tâm niệm điều ấy để cho nó từ hữu thức mà đi vào vô thức. Và theo nhận định của Đàm Quang Thiện: “Dòng sông cuộc đời của Vương Thúy Kiều, vừa thoát ra khỏi nguồn “năm hãy thơ ngây”, thì một người tướng sĩ ném ngay vào giữa lòng sông ấy tảng đá “bạc mệnh”. Tảng đá này ngăn, không cho dòng sông ấy chảy qua những cánh đồng có hoa thơm cỏ lạ, khiến cho đời nàng vui tươi; mà hướng dòng sông ấy chảy qua những nghĩa địa, những nơi bùn lầy nước đọng, những bãi sa trường khiến cho cuộc đời nàng thê thảm, đen tối, hãi hùng” [ 64, 5].

          Ý niệm “bạc mệnh” ấy đã thấm sâu vào trong vô thức của Kiều, có lẽ cũng vì vậy mà Kiều đã sáng tác cho mình một bản đàn gọi là “Bạc Mệnh” khiến cho người nghe cảm thấy như “ngậm đắng nuốt cay thế nào”. Nhưng cái ý niệm ấy vẫn còn là mông lung vẫn còn “trừu tượng,  không rõ rệt cho đến khi nàng đi chơi tết thanh minh và viếng mộ Đạm Tiên thì ý niệm ấy đã được “chính xác hóa”, “cụ thể hóa” rõ ràng và dường như đã trở thành “niềm tin tưởng tuyệt đối”. Và “thế là cái ám ảnh bạc mệnh của Thúy Kiều đã trở thành sự thật trong một giấc chiêm bao, nghĩa là đã ăn sâu vào vô thức của Thúy Kiều, đã đồng hóa với vô thức của nàng, đó là điều kiện ắt và đủ để “mộng” thành “thực”, đó là một hiện tượng tâm lý  - ảnh hưởng của những mặc cảm trong vô thức đến những hành vi hữu thức trong đời sống – mà các nhà tâm lý học Tây phương đã khám phá ra từ hậu bán thể kỷ 19” [64, 35]. Và cũng bắt đầu từ đây, nó đã trở thành định mệnh trong cuộc đời của Kiều, bản thân nàng đã ý thức được sức mạnh của nó và cũng đã bao lần cố gắng thoát ra khỏi nó nhưng dường như là vô vọng bởi vô thức bao giờ cũng chiến thắng được hữu thức.

          Dựa trên cơ sở lý thuyết về phân tâm học của nhà tinh thần bệnh học nước Áo là S. Freud đã chia linh hồn của con người ta gồm có ba phần: Bản ngã thì chứa đựng trong nó tất cả những bản năng được tạo nên bởi sự di truyền. Còn Cá ngã là ý thức tâm lý của mỗi người khiến cho họ có thể hiểu được chính mình và hoàn cảnh nơi mình đang sống. Cuối cùng là Thượng ngã, là cái mà người ta vẫn gọi giản đơn đó là lương tâm.Và mỗi lần Bản ngã đưa ra một ước vọng không phù hợp với chuẩn mực xã hội thì sẽ bị cái gọi là thượng ngã ở trên đẩy lùi. Sự đẩy lùi này có thể được áp dụng cho tất cả những thứ có liên quan đến ước vọng. Có thể những hình ảnh bị đẩy lùi, có liên quan đến một khuynh hướng, một thúc đẩy nào đó, họp thành một thứ “tinh đoàn”. Số “tinh đoàn” này có thể được gia tăng bằng những hình ảnh đã bị đẩy lùi từ trước và làm thành mặc cảm. Từ cơ sở lý thuyết đó, Đàm Quang Thiện đã cho rằng Thúy Kiều đã mang trên mình hạt giống của mặc cảm bạc mệnh, nó được nảy mầm từ khi có lời tiên đoán của vị tướng sĩ và được nuôi dưỡng bởi bản tính đa sầu đa cảm của Thúy Kiều.

          Tuy nhiên, trong quá trình khai thác cái mặc cảm ở Thúy Kiều, Đàm Quang Thiện đã có những đánh giá mang tính phiến diện như con sông Tiền Đường trong tác phẩm. Ông cho rằng: “Vì muốn tạo ra một “tiền định” cho Thúy Kiều, mà Vô thức của nàng đã liên tưởng từ “tiền định” đến “Tiền đường”; vì muốn tạo ra một tiền đồ đã được vạch sẵn bởi “nghiệp má đào, kiếp liễu bồ” của nàng, mà Vô thức của nàng đã chọn sông Tiền Đường, vì “Tiền” trong Tiền Đường đồng âm dị nghĩa với “tiền” trong danh từ trỏ lý do đoạn trường của nàng là “kim tiền”, lại “Đường” trong “Tiền Đường”, đồng nghĩa dị âm với “đồ trong danh từ trỏ đối tượng mà vô thức của nàng đang tạo ra, là “tiền đồ”, “đường” cũng có nghĩa là môt đường đi (đường đi là bờ đê như “đồ” vậy” [64, 101].

          Như đã nói ở những phần trên, vận dụng lý thuyết của phân tâm học chúng ta có thể đi tìm hiểu được quá trình sáng tạo của nhà văn không chỉ ở hữu thức mà còn ở cả vô thức. Trên cơ sở đó, trong cuốn Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng đã dành riêng một phần cho việc đi tìm hiểu những dự phóng tạo nên thăng hoa trong sáng tạo của Nguyễn Du khi trình bày về tâm lý các nhân vật trong truyện hay đó chính là tâm lý của Nguyễn Du. Từ đó, Thanh Lãng thấy được rằng, qua nhân vật Kim Trọng đó là: “Cái Kim Trọng rất đàn bà, si mê, liều lĩnh đó là dự phóng của một Nguyễn Du tiềm thức, một Nguyễn Du ở bề sâu, một Nguyễn Du giấu kín, một Nguyễn Du đã từng si mê cô lái đò Nhật mà sau này trong thơ chữ Hán có lẽ Nguyễn Du gọi là cô Cầm, người mà Nguyễn Du đã dành cho một chỗ hầu như cao nhất trong đời tình cảm của ông” [36, 731 – 732]. Hay khi tác giả cho rằng qua hình ảnh của nhân vật Từ Hải đó chính là một dự phóng giấc mơ kiêu hùng của Nguyễn Du: “Thực ra Từ Hải chỉ là điều mơ ước bị giấu kín, bị dồn ép mãi tận đáy tâm thức của Nguyễn Du, chứ cái Nguyễn Du hữu thức là một Nguyễn Du vô vi, ít nói, hầu như câm lặng, chẳng muốn can thiệp, đứng ở ngoài… Từ Hải là một dự phóng vọt ra dưới sức dồn ép quá độ” [36, 732 – 733]. Thế nhưng, Thanh Lãng cũng cho chúng ta thấy những mâu thuẫn đối lập về hình ảnh Nguyễn Du giữa thơ chữ Hán và Đoạn trường tân thanh. Trái ngược với một Nguyễn Du với thể xác bệnh hoạn, già, tóc bạc, tan rữa, rã rời, chết trong Thơ chữ Hán thì trong Đoạn trường tân thanh lại là dự phóng về một nàng Kiều luôn trẻ trung, mạnh khỏe dù cho nàng bị đánh đập, chịu những đau khổ triền miên trong tâm hồn. Đó là một Thúy Kiều dự phóng tất cả Nguyễn Du, nhưng không dự phóng toàn vẹn mà đó chỉ là dự phóng với nhiều sửa chữa, trá hình với hình ảnh của: “Một Kiều trẻ đẹp, không bao giờ đau, không bao giờ suy giảm tài, sắc, và hầu bất tử sau bao nhiêu lần tự tử, là dự phóng một Nguyễn Du phản kháng, tự tiềm thức, đối với mối lo sợ già, lo sợ tóc bạc, lo sợ bệnh hoạn, lo sợ chết” [36, 735].

          Với phân tâm học, các tác giả đã dẫn dắt người đọc đi khai phá được tâm lý sáng tạo của Nguyễn Du, đã phần nào khám phá được cái phần vô thức của tác giả để lại trong tác phẩm của mình. Đồng thời đã khám phá được qua việc xây dựng tâm lý nhân vật Thúy Kiều, thiên tài Nguyễn Du đã khơi sâu vào trong cả vô thức của nhân vật, cái nội tâm sâu kín của con người. Và nếu như các tác giả cho rằng vô thức của Thúy Kiều chính là bóng ma Đạm Tiên thì đó cũng chính là tiếng kêu đau đớn của Nguyễn Du về thân phận con người. Do đó, các tác giả của chúng ta dù đã mở ra những hướng đi mới nhưng vẫn thiếu xót ở chỗ chỉ tập trung vào phần vô thức mà quên đi cái hữu thức đang còn hiện hữu kia.

 


* Thạc sĩ, Trường Trung học Lê Quý Đôn

1. Từ văn chương đến điện ảnh

 

Trước kia, trong nền nghệ thuật kinh điển, các nhà văn thường sử dụng tiếng Latin và tiếng Hy Lạp để sáng tác và trong giáo dục ở lĩnh vực khoa học nhân văn. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ thông tục được đưa vào việc học tập và các nhà văn bắt đầu chuyển sang sử dụng tiếng Pháp, tiếng Anh. Đây cũng là thời kỳ có nhiều chuyển biến đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Theo quan điểm lúc bấy giờ, tác phẩm văn chương được viết bằng tiếng mẹ đẻ mới có thể mang đến sự phản ánh sâu sắc và toàn diện về đời sống văn hoá, xã hội của đất nước. Nhà nghiên cứu người Anh Matthew Arnold đã nói rằng:

 

Nguyễn Đông Triều(*)

(VH) Ngày 5/5/2017 vừa qua, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG TP.HCM đã tổ chức đánh giá cấp trường luận án “Thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam” của NCS Nguyễn Đông Triều. Luận án do TS. Nguyễn Ngọc Quận và PGS.TS Nguyễn Tá Nhí hướng dẫn. Hội đồng chấm luận án đã nhất trí thông qua luận án với 7/7 phiếu xuất sắc. Website Văn học xin giới thiệu Mục lục và một phần của Luận án.

1. GIỚI THIỆU CÁC CHƯƠNG MỤC CỦA LUẬN ÁN

Chương 1. Tổng quan về văn tế và văn tế trong văn học trung đại Việt Nam.

1.1. Nguồn gốc, vai trò của lễ tế và văn tế của Trung Quốc.

1.2. Các dạng văn tế chủ yếu của Trung Quốc (chúc văn, cáo văn, tế văn).

1.3. Diện mạo của thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam (Cách phân loại văn tế; Các trường hợp sáng tác văn tế; Đặc trưng thể loại của văn tế; Trữ lượng của văn tế và nguồn văn liệu dùng cho luận án).

Chương 2. Nội dung chủ yếu của thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam.

2.1. Khẳng định các giá trị đạo đức luân lý chuẩn mực và tính chính danh về đạo đức luân lý ở bản thân tác giả.

2.2. Ca ngợi tinh thần yêu nước, tinh thần tôn quân và tinh thần vì nhân dân (Ca ngợi tinh thần yêu nước, tinh thần tôn quân giai đoạn chống ngoại xâm; Thể hiện tinh thần tôn quân giai đoạn sau nội chiến và sau cuộc chống nội loạn; Ca ngợi tinh thần vì nhân dân).

2.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả (Thể hiện tinh thần nhân đạo dành cho tướng sĩ hi sinh; Thể hiện tinh thần nhân đạo dành cho nạn dân; Thể hiện tinh thần nhân đạo dành cho cô hồn u uất).

2.4. Thể hiện ý nghĩa trào phúng sâu sắc (Thể hiện tiếng cười hài hước; Thể hiện tiếng cười phê phán, đả kích).

Chương 3. Hình thức nghệ thuật của thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam.

3.1. Hệ thống văn thể của văn tế trong văn học trung đại Việt Nam (Phú; Văn xuôi; Thơ; Tạp thể).

3.2. Ngôn ngữ của văn tế trong văn học trung đại Việt Nam (Cách dùng từ và cách đặt câu; Điển cố và cách vận dụng điển cố; Cách vay mượn văn liệu và quan niệm dân gian Việt Nam).

3.3. Giọng điệu của văn tế trong văn học trung đại Việt Nam (Giọng trang nghiêm; Giọng tâm tình thân thiết; Giọng tự hào; Giọng bi ai oán thán; Giọng căm phẫn; Giọng hào hùng bi tráng; Giọng trào phúng).

3.4. Cách miêu tả tâm trạng qua thời gian và không gian của văn tế trong văn học trung đại Việt Nam.

Phụ lục: Danh mục tác giả tác phẩm văn tế; Một số tác phẩm văn tế do tác giả luận án phiên dịch.

2. ĐOẠN TRÍCH (THUỘC CHƯƠNG 2)

SỰ THỂ HIỆN HAI GIỀNG MỐI CHỒNG - VỢ, CHA MẸ - CON CÁI TRONG VĂN TẾ

Một trang trong Thời văn tạp biên (sưu tập nhiều văn tế)

[…] Mục đích đầu tiên của văn tế là tiếc thương, ca ngợi người đã qua đời. Thông qua đó, tác giả còn muốn đưa đến nhiu thông điệp có ý nghĩa to lớn hơn cho người còn sống. Người đã mất, nhưng ngôn hành, đức độ, công huân của họ còn mãi trên đời, xứng đáng là tấm gương cho người đương thời và hậu thế noi theo. Vì vậy, ca ngợi người đã khuất cũng chính là khẳng định, ca ngợi những đức tính tốt đẹp của họ, đồng thời khuyên nhủ người sống học tập những đức tính tốt đẹp ấy.

Những thông điệp này thường được tác giả gián tiếp gửi gắm qua lời ca ngợi và lòng ngưỡng vọng, cũng có khi được trực tiếp nêu ra trong tác phẩm. Trong bài văn tế bạn là Nguyễn Phùng Hiên, Phạm Nguyễn Du từng đau đáu: “Sao quân tử lại không may như thế? Âu cái vận của đạo Nho đã suy dần. Thực có liên quan đến đạo đời! Chứ đâu phải vì tôi quá xót bạn thân!”(1) Một tác giả khác trong Đông Ngạc Tham tụng quan thành phần tế văn cũng cho rằng người hin tài không được trọng dụng là điu bất hạnh của đạo: “Tấm thân thần tử giữa chốn triu đình phải lui v ẩn nơi thâm sơn cùng cốc, khiến cho sự nghiệp tế thế kinh bang không được sáng tỏ đương thời, mà đời sau cũng không thể nghe thấy. Đó không những là điu bất hạnh của Phu tử mà còn là điu bất hạnh của đạo ta.”(2) Các tác giả cho rằng mỗi người hin tài là một tài sản vô giá của quốc gia, người hiền tài mất đi là sự mất mát to lớn của đạo đời. Có thể thấy, trong văn tế, khẳng định và giáo dục đạo đời là một trong những nội dung rất được quan tâm, cũng là nội dung có tính nhân văn hướng đến đối tượng người sống rõ ràng nhất của thể loại văn tế.

Đạo đời được thể hiện rõ ràng nhất qua đạo đức và luân lý, hai yếu tố chi phối mọi hoạt động của con người trong xã hội. Hai khái niệm này thường được hiểu là những quy phạm, sự đánh giá tốt xấu v cá nhân hay tập thể, những việc làm hợp với quy phạm chung và nỗ lực đạt tới những quy phạm đó. Đây là hai khái niệm cùng phạm trù nhưng nội hàm không hoàn toàn đồng nhất. Theo tư tưởng Nho giáo, đạo đức chú trọng quá trình và kết quả tự thân thực hiện của cá nhân, chủ yếu liên quan đến các yếu tố cấu thành tư cách con người như “chính tâm”, “thành ý”, “tu thân”; Luân lý chú trọng quan hệ xã hội và quy phạm xã hội, chủ yếu liên quan đến các biểu hiện v phẩm hạnh như “t gia”, “trị quốc”, “bình thiên hạ”. Ở Việt Nam cũng giống như Trung Quốc, tất cả quan niệm về đạo đức luân lý đu đứng trên lập trường tư tưởng giáo dục truyn thống Nho giáo.

Trong văn tế, hai khái niệm đạo đức và luân lý được thể hiện rất rõ ở cả hai loại quan hệ: cá nhân với nhau, cá nhân với xã hội. Thông qua đó, chúng ta rút ra được những bài học v đạo đức, luân lý trong văn tế, và có thể nhận biết phần nào quan niệm, nhân cách, lối sống của tác giả. Trong đoạn trích ngắn này, chúng tôi sẽ nói về các giá trị luân lý chuẩn mực trong văn tế, thể hiện ở hai giềng mối chồng - vợ, cha mẹ - con cái.

Theo Trung dung, trong thiên hạ có 5 ging mối: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Ngoài ra, văn tế còn nói đến giềng mối thầy trò, cũng là một ging mối quan trọng trong xã hội khoa cử thời xưa.

Đại học minh hoạ các ging mối đó bằng đức tính của Văn vương nhà Chu, đại diện cho đức tính mà mỗi người cần đạt tới: Làm vua đạt đến đức nhân, làm tôi tỏ rõ đức kính (Văn vương là vua nước chư hầu của nhà Thương), làm con giữ tròn đức hiếu, làm cha rất mực hin từ, kết giao hết lòng thủ tín. Mạnh Tử - Đằng Văn công thượng” phát huy ý của Đại học rõ ràng hơn: “Giữa cha con có tình thân ái, giữa vua tôi có mối danh nghĩa, giữa vợ chồng có sự phân biệt, giữa anh em có thứ tự, giữa bạn bè có chữ tín.” Đây là những ging mối quan trọng xây dựng nên một gia đình, một xã hội, một chế độ, một quốc gia.

Hai ging mối chúng tôi xét ở đây gồm:

1. Ging mối chồng - vợ

Gia đình là một phần của xã hội, chồng vợ thuận hoà thì gia đình yên ấm, xã hội phồn vinh. Chồng vợ phải yêu thương, tôn trọng nhau, che chở cho nhau mới được hạnh phúc lâu dài. Mỗi phía đu có nghĩa vụ cần phải làm đđạt được mục đích trên, tức là bổn phận của chồng đối với vợ và những gì vợ phải có trong việc đối xử với chồng.

Xét ở ging mối này, văn tế phần lớn nói v bổn phận của người vợ. Trong văn tế, ging mối chồng - vợ được nhìn nhận từ nhiu mối quan hệ khác nhau. Ở quan hệ thân thiết có chồng nói v vợ; con nói v mẹ; cháu nói v bà; em cháu nói v chị, cô, dì… Ở quan hệ xã hội có học trò nói v vợ thầy; b tôi nói v vợ vua chúa… Dù nhìn từ mối quan hệ nào, bổn phận người vợ luôn được đ cao.

Bổn phận đầu tiên là trọn đạo thờ chồng. Vợ phải kính trọng, phục tùng chồng, thủ tiết với chồng, lo cho chồng ăn học, chồng không thành đạt trên đường công danh sự nghiệp cũng không được phụ rẫy. Phan Huy Ích ca ngợi đạo thờ chồng của Lê Ngọc Hân: “Gìn sách trước đã sáng gương t mị.” (Văn tế Lê Ngọc Hân)(3) Đời Hán, chồng bà Mạnh Quang là Lương Hồng rất khách khí với vợ, mỗi bữa cơm vợ phải bưng mâm ngang mày (t mi) mời chồng ăn để tỏ lòng cung kính. Tác giả mượn tích xưa ca ngợi Lê Ngọc Hân đáng sánh với tấm gương bà Mạnh Quang thờ chồng. Ngoài ra, trong văn tế, đạo thờ chồng thể hiện qua nhiu việc làm khác nhau, từ những việc làm nhỏ nhặt hằng ngày thể hiện sự quan tâm chu đáo của người vợ (khi Phạm Nguyễn Du vào Thái học, vợ ông là Nguyễn Thị Đoan Hương ở nhà chuẩn bị “đủ cả gỏi với thịt” để chiu đón ông v), đến tình cảm cảm động hơn của bà vợ thứ của Ngô Thì Sĩ lúc lâm chung dành cho chồng (khi bà bệnh nặng hấp hối, Ngô Thì Nhậm hỏi muốn trối lại điu gì, thì bà nói ngoài việc nhớ chồng ra, không có lời gì khác).

Khi chồng sa cơ thất thế, không thành công trên đường công danh sự nghiệp, vợ phải là người đồng cam cộng khổ, chung tay chống đỡ gia đình. Bà Nguyễn Thị Tồn (vợ Bùi Hữu Nghĩa) được biết đến là người vợ có sự chia sẻ gian truân với chồng thật là cảm động: “Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông; Nhà hàn vi bậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác. Công danh lỡ vì mang bệnh quỷ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi; Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần thuở nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khinh bạc. Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa; Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỹ không rời thước tấc.”(4)đủ tam tòng tứ đức, trọn đạo với chồng, tròn trách nhiệm với gia đình, không khinh bạc khi chồng chưa thi đỗ. Hoàn cảnh hai bên “đu không cha mẹ” càng khiến hai vợ chồng đồng cảm, thấu hiểu, khắng khít nhau hơn. Khi Bùi Hữu Nghĩa thi đỗ ra làm quan, bà ở nhà một mình gánh vác việc gia đình, vừa làm mẹ vừa làm cha nuôi dạy con thơ cho chồng yên tâm làm việc nước. Những tưởng cuộc sống như thế đã bớt đi lận đận, nào ngờ tai hoạ xảy đến. Bùi Hữu Nghĩa khi làm quan tại phủ Trà Vang (nay là Trà Vinh), do tính kiêu hãnh, chính trực, bị quan trên ghét, ông Bùi mất chức và bị tù. Bà Tồn vượt đường xa lên tới kinh đô gặp vua Tự Đức kêu oan. Ông Bùi sau đó được tha, nhưng bà Tồn v đến nửa đường thì bị bệnh chết. Cái chết của vợ trong hoàn cảnh đó là nỗi đau xót lớn nhất trong lòng ông. Tuy trong bài văn tế vợ, Bùi Hữu Nghĩa không nói đến việc này nhưng nội dung của nó thể hiện rõ thái độ trân trọng và lòng xót thương vợ. Chỉ cần qua sự việc ấy cũng đủ thấy rõ đạo tòng phu của bà.

Văn tế còn nói đến nhiu bổn phận khác của người vợ trong gia đình đối với cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, con riêng của chồng... Trong đó, nhiệm vụ quan trọng nhất là nuôi dạy con cái nên người, cả khi con đã làm quan cũng chỉ dạy cho con điu hay lẽ phải: “Con xuất sĩ mấy lời dạy bảo: Bổng vua thiếu, mẹ cho nhiu ít, đừng tham lam để tiếng cười chê.” (Văn tế mẹ)(5)

Mặc dù văn tế ca ngợi rất nhiu luân lý tốt đẹp của người làm vợ, nhưng hầu như chỉ nhấn mạnh nghĩa vụ chứ không nói đến “quyn hạn”. Đây là điu thiếu sót của văn tế. Nhờ đó, Văn tế Nguyễn Bích Châu của Trần Duệ Tông (1372-1377) và Văn tế Đoàn Thị Điểm của Nguyễn Kiu (1694-1771) nổi bật lên là hai tác phẩm tiên phong v phương diện “quyn hạn” của người làm vợ. Nguyễn Bích Châu (?-1377) có một vị trí trang trọng trong bài văn tế của Trần Duệ Tông: “Cải chánh lòng vua chừ, Phàn Cơ nước Sở; Giữ đúng đạo vợ chừ, Tương Phi bến Ngu.” (Văn tế Nguyễn Bích Châu)(6) Đoàn Thị Điểm (1705-1746) cũng có vị trí như vậy trong mắt Nguyễn Kiều: “Cư xử có lỡ lầm, ai người ngăn bảo? Thơ muốn làm cùng ai bình phẩm? Sách muốn xem cùng ai bạn bầy? Mùa thu có trăng cùng ai chơi? Mùa xuân có cảnh cùng ai ngắm?” (Văn tế Đoàn Thị Điểm)(7)

Theo luân lý Nho giáo v ging mối vợ chồng, vợ không được quyn bình đẳng mà phải hoàn toàn phục tùng chồng, chồng là người chủ gia đình có quyn quyết định mọi việc. Tuy nhiên, bên cạnh những bổn phận chung của người vợ như các bài văn tế khác ca ngợi, Nguyễn Bích Châu và Đoàn Thị Điểm toả ra một điểm sáng với ý thức răn sửa khi chồng phạm lỡ lầm, nhất là Nguyễn Bích Châu đối với chồng là một vị vua.

Câu hỏi của Nguyễn Kiu “cư xử có lỡ lầm, ai người ngăn bảo” cho thấy trước kia ông vốn đã từng được vợ “ngăn bảo” như thế. Trước sự răn sửa của vợ, người chồng chẳng những không tỏ vẻ khó chịu mà còn xem mình là người may mắn khi có được người vợ như thế. Đối với Nguyễn Kiu, vợ ông còn là người bạn tri âm cùng xướng hoạ thơ văn, cùng dạo chơi, sẻ chia sở đắc. Bài văn tế ngoài ngợi ca, tiếc nhớ người vợ đã qua đời còn thể hiện tinh thần bình đẳng, tiến bộ v vị trí, vai trò của người phụ nữ.

Theo chúng tôi, riêng tác giả Văn tế Nguyễn Bích Châuđiu cần xem lại. Văn bản bài văn tế được tìm thấy duy nhất trong Truyn kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm. Truyn kỳ tân phả không phải là một bộ sử hay tuyển tập văn thơ mà là một tập truyện truyn kỳ “được thể hiện dưới màu sắc hoang đường, quái đản”(8), nội dung của nó mang nhiu yếu tố hư cấu, không hoàn toàn là sự thật lịch sử. Vả lại, Trần Duệ Tông sống vào thế kỷ XIV, trước Đoàn Thị Điểm gần 4 thế kỷ, tại sao bài này không được chép vào tập thơ văn nào mà phải đợi đến nữ sĩ họ Đoàn ghi chép lại? Vì vậy, rất có thể khi viết Truyn kỳ tân phả, Đoàn Thị Điểm đã giả thác lời Trần Duệ Tông viết bài văn tế này tỏ lòng tiếc thương, ca ngợi Nguyễn Bích Châu. Nếu đúng vậy thì đây là tác phẩm thuộc trường hợp “nghĩ chế”, tác giả không phải Trần Duệ Tông mà là Đoàn Thị Điểm. Hơn nữa, sự việc liên quan đến Nguyễn Bích Châu, nếu có thật, là một sự kiện lớn, sách sử chắc chắn phải ghi chép, nhưng ngoài Truyn kỳ tân phả, không có bộ sử nào chép v bà, cho nên thậm chí chưa chắc bà là một nhân vật lịch sử(?).

V phía các ông chồng, có được người vợ hin thục đảm đang như thế phải biết thương yêu, quý trọng vợ, phải gắng lập thân để vợ con được vẻ vang. Không ít ông chồng thành danh đu nhờ công lao của vợ gánh vác việc nhà, báo hiếu mẹ cha, nuôi dạy con cái, tần tảo việc ruộng nương, trăm ngh buôn bán lo tin ăn học. Các ông chồng tác giả văn tế ít nhiu đu yêu vợ thương con, có trách nhiệm với gia đình. Khi vợ chẳng may mất sớm, nhiu người bày tỏ lòng xót thương bằng những bài văn tế rất lâm ly cảm động, Tế Lê phu nhân Chất Khanh văn của Nguyễn Cao có lẽ là bài văn tế vợ đặc sắc nhất, với những câu thể hiện tình cảm vợ chồng và lòng xót thương sâu sắc: “Tháng trước, ta nghe tang bà thím với nhà thân gia, nay lại nghe tang khanh, chưa thể về ngay làng cũ, khóc khanh trước mộ, cúng ở giường thờ, trong đó có điều đại bất đắc dĩ, dám đâu bày tỏ cùng ai! Than ôi! Khanh lâm bệnh, ta không kịp chăm thuốc men, khanh nhập quan, ta không kịp lo khâm liệm, lại không kịp nói lời vĩnh quyết lúc phân ly. Tình chẳng thể nguôi, xa xôi nghìn dặm, luống những đọc văn than thở, gạt lệ ngậm ngùi. Này thời, này cảnh, trăm mối bời bời.(9) Thậm chí như Phạm Nguyễn Du cho rằng vì mình là người bạc mệnh, khiến cho vợ ông trở thành “số đoản”, tức là ông tự nhận tội v cái chết của vợ.

Trong văn tế, hình ảnh, vai trò của người vợ nói riêng và người phụ nữ nói chung trong xã hội xưa được chú ý, trân trọng hơn so với thực tế. Nhưng xét cho cùng, những đức tính được ca ngợi ở đây vẫn nghiêng v khuynh hướng phục tùng, phục vụ nam giới, chưa có nhiu bước đột phá trong việc giải phóng thân phận người phụ nữ, ít nhất như thái độ trân trọng của Nguyễn Kiu dành cho Đoàn Thị Điểm (và Đoàn Thị Điểm(?) dành cho Nguyễn Bích Châu), mà thậm chí còn bảo lưu tư tưởng cổ hủ, như lời khen ngợi của Phan Huy Ích dành cho Lê Ngọc Hân. Tuy nhiên, có thể cảm thông cho các tác giả, vì điều này chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, ý thức hệ phong kiến và quan niệm chung của thời đại.

2. Ging mối cha mẹ - con cái

Khổng giáo đ ra ging mối cha - con là “phụ từ tử hiếu”. Vai trò của người cha trong gia đình rất quan trọng vì đấy là tấm gương cho con cháu noi theo. Trong văn tế, ging mối cha - con của Nho giáo được thể hiện thành ging mối cha mẹ - con cái, trong đó bổn phận “chỉ ư hiếu” của con đối với cha mẹ rất được đ cao, cho dù là đấng anh hùng đầu đội trời chân đạp đất vẫn là những người con rất mực hiếu thảo. Chữ hiếu được xem là rường cột của mọi đức hạnh, đạo làm con không gì hơn chữ hiếu. Luận ngữ - “Vi chính” nói, đạo làm con đối với cha mẹ, phụng sự khi còn sống, chôn cất đúng lễ khi mãn phần, nghiêm trang khi cúng tế; làm con giữ đạo hiếu là không nên làm điu trái ngược. Thiên “Học nhi” nói, hiếu và đễ là gốc của lòng nhân. Từ đó thấy rằng hiếu hạnh là đạo thường của trời đất, thánh hin rất coi trọng, là đạo lý căn bản trong cách đối nhân xử thế của mỗi con người.

Biểu hiện cụ thể nhất của chữ hiếu là phụng dưỡng, tôn kính cha mẹ. Bổn phận làm con không chỉ phải lo cho cha mẹ ăn no mặc ấm mà còn phải tôn kính. Đào Phan Duân tỏ rõ tấm lòng hiếu dưỡng của mình: “Khi nghinh dưỡng bôi thương vũ khúc, cũng theo đòi múa áo giỡn sân; Lúc hạ diên hiến quả cung hoa, đâu đã có miếng ngon vật lạ.” (Văn tế mẹ)(10) Làm vui lòng mẹ giống như Lão Lai Tử mặc áo hoa múa hát, mừng thọ mẹ có trái hiến có hoa dâng, nhưng như thế vẫn chưa thoả lòng hiếu của mình dành cho mẹ. Đối với người con chí hiếu, công ơn cha mẹ trả đến trọn đời không hết được. Đến khi cha mẹ qua đời, cảm giác nuối tiếc, ân hận vẫn mãi khôn nguôi. Chúng tử tế mẫu văn của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện rõ điều đó: “Đội mũ mẫn than thân là gái, lấy chi đền chín chữ cù lao; Chống gậy vông tủi phận là trai, lấy chi trả một câu võng cực.”(11)

Chữ hiếu không chỉ được người làm con tự nhận thức thực hiện mà còn được nhìn nhận, khen ngợi từ phía cha mẹ. Một người mẹ kể lại đức tính của con gái: “Thảo với cha, lành với mẹ, như bát nước ỷ không xao.” (Văn mẹ tế con gái)(12) Có thể thấy, trong văn tế, chữ hiếu được thể hiện từ cả hai phía: người làm con tự nhận thấy bổn phận của mình; cha mẹ nhìn nhận và khen ngợi bổn phận của con.

Bổn phận làm trai vừa phải vẹn chữ trung, vừa phải tròn chữ hiếu. Lắm lúc không phải ai cũng có thể chu toàn nợ nước tình nhà. Khi không được cận kề báo hiếu cha mẹ, nhiu người tự nhận đấy là một đại tội. Ngô Thì Nhậm bày tỏ nỗi ân hận trong Bôn tang cáo văn (văn tế cha)(13) thật là thống thiết. Ngô Thì Sĩ mất khi Ngô Thì Nhậm bận việc quan ở kinh đô. Trong bài văn tế, Ngô Thì Nhậm thể hiện nỗi day dứt khôn nguôi vì khi cha còn sống, mình phận làm con không cận k chăm sóc sớm hôm, khi cha qua đời không được trông thấy mặt, giọt nước mắt suông không thể gột hết tội lỗi này. Ngô Thì Nhậm khóc thương cha, cũng là tự nhận tội với cha. Bản thân là một nhà Nho thấm nhuần đạo lý thánh hin, lại là một vị “dân chi phụ mẫu” giúp vua gánh vác việc dạy dân, nhưng trọng trách đầu tiên người làm con phải hoàn thành đối với cha mẹ là đạo dưỡng sinh, tác giả tự thấy mình chưa làm được. Tâm trạng dằn vặt, hối lỗi không lúc nào nguôi. Theo ông, mặc dù do bận việc quốc gia nhưng không tròn đạo làm con là tội lỗi không thể tha thứ được.

Tấm gương hiếu hạnh đáng thương, đáng nể phục nhất có thể nói là Hầu Tạo và Nguỵ Khắc Kiu. Hầu Tạo tên là Nguyễn Hữu Tạo, là lãnh tụ phong trào nông dân khởi nghĩa trừ tham quan ô lại, cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo thời Nguyễn sơ. Lê Văn Duyệt bắt mẹ ông rồi giả lời mẹ viết thư dụ ông, nói rằng nếu ra hàng sẽ được tha tội cho v quê phụng dưỡng mẹ già. Tưởng thật, ông ra hàng thì bị bắt xử tử. Mẹ ông sau đó cũng tự tử(14). Nguỵ Khắc Kiu là cháu nội Nguỵ Khắc Tuần (1799-1854, danh sĩ đời Minh Mạng). Ông hoạt động chống Pháp đời vua Hàm Nghi. Năm 1885, khi Hàm Nghi xuất bôn với Tôn Thất Thuyết, ông được phong Phó sứ sơn phòng Quảng Trị, sau đó theo vua sang biên giới Lào. Đến khi Hàm Nghi bị bắt (1888), ông vào rừng hoạt động cùng nhóm văn thân cung cấp vũ khí cho phong trào Cần vương. Ông là người con chí hiếu, khi hay tin mẹ bệnh nặng, tuy biết nguy hiểm nhưng ông vẫn bí mật v thăm. Dọc đường bị tay sai phục kích bắt được. Hoàng Cao Khải lấy tình thân dụ ông ra làm quan, nhưng ông một mực từ chối. Ông bị quản thúc cho đến chết.

Văn tế Hầu Tạo ca ngợi lòng hiếu thảo của Nguyễn Hữu Tạo: “Đạo hiếu ngùi ngùi; Lòng nhân thăm thẳm. Vàng vua Hán dễ tìm ra Quý Bố, những Nam Hồ Bắc Việt thiếu chi mà; Ngọc chàng Từ sang gửi lại Tào quân, vì địa nghĩa thiên kinh là trọng lắm.”(15) Dù biết việc mình đang làm là vì chính nghĩa, nhưng chữ hiếu cũng là một đại nghĩa. Ông ra hàng hoàn toàn không phải vì quan tước bổng lộc, mà chỉ với ước nguyện đơn giản là cứu mẹ đưa v mái lu tranh chăm lo phụng dưỡng. Ước nguyện ấy đã bị quan triu tước bỏ cùng với cái chết thảm thương của hai người từ hiếu. Tuy không được ca ngợi như Nguỵ Khắc Kiu “sống vì vua, thác là vì mẹ, hiếu trung đà hai chữ vẹn toàn” (Văn tế Nguỵ Khắc Kiu)(16) nhưng Hầu Tạo cũng đã thể hiện trọn vẹn chữ hiếu của kẻ làm con.

Chữ hiếu trong văn tếđiểm đặc biệt rất đáng lưu ý, đó là “lấy trung làm hiếu”. Người tiêu biểu cho quan niệm này là Bùi Viện (1841-1878) (trong Văn tế lão mẫu, Bùi Viện nói nhầm thành “lấy hiếu làm trung”)(17). Bùi Viện là chí sĩ triều Tự Đức, từng hai lần phụng mệnh sang Mỹ vận động bang giao. Ông là người con chí hiếu, trên đường đi vận động lần thứ hai trở về, đến Hoành Tân (Nhật) thì được tin mẹ qua đời, ông làm bài văn tế vô cùng thống thiết, trong đó có lời bày giãi: “Ngày xuất cáo chưa kịp lời thưa nói, những là tưởng dưới nhà trên nước, khắc xương chép dạ, biết đâu mà gửi dạ can tràng; Bước viễn du không kịp tính gần xa, những là toan lấy hiếu làm trung, nhắm mắt đưa chân, phận nào có tưởng gì vui vẻ.” (Văn tế lão mẫu)(18) Nhiều tác giả là mệnh quan triu đình nhậm chức nơi xa, đi công cán nước ngoài hoặc lo dẹp loạn can qua không vuông tròn hiếu đạo. Không phải họ xao nhãng đạo làm con mà vì trách nhiệm thần tử nặng n, đành bỏ tư tình thực thi công vụ, ngõ hầu không làm xấu hổ song thân, đó cũng là một cách báo đn ơn dưỡng dục.

Quan niệm “lấy trung làm hiếu” của Bùi Viện phần nào giống với quan niệm “chuyển hiếu thành trung” của Hoàng Diệu. Văn viếng Hoàng Diệuđoạn nói rất cụ thể v việc chuyển hiếu thành trung: “Mọi người đu bảo ông hi sinh là giữ vẹn lòng trung. Nhưng mấy ai hiểu được rằng, lòng trung của ông bắt nguồn từ chữ hiếu. Xem tờ tạ biểu gần đây của ông, thấy có câu: Không trung với vua là không tròn chữ hiếu.” (19) Trước đó, mẹ Hoàng Diệu (1828-1882) được vua ban tứ một số ngân lụa và ba cây quế, ông viết tờ tạ biểu dâng vua, câu cuối nói rằng: “Không trung với vua là không tròn chữ hiếu, dám đâu để mẹ phải mang lòng hổ thẹn. Việc gì hữu ích cho quốc gia thì chẳng từ nan. Chỉ là một chút đáp đn những gì nhà vua ban tứ.”(20) Qua đó thấy rằng, Hoàng Diệu đã chuyển chữ hiếu thành lòng trung, tận tâm tận lực với quốc gia đến khi tử tiết, vừa đđáp đn ơn vua vừa để mẹ không phải mang lòng hổ thẹn, đó cũng là cách giữ tròn chữ hiếu.

Chữ hiếu trong văn tế được thể hiện khá phong phú, cụ thể. Ngoài phụng dưỡng cha mẹ ruột, người làm rể làm dâu cũng phải kính hiếu cha mẹ vợ, cha mẹ chồng theo quan niệm tứ thân phụ mẫu. Chữ hiếu còn thể hiện qua nhiu cách thức khác nhau như nhớ lại hành vi, cử chỉ, lời giáo huấn thường ngày; ca ngợi đức độ, tài năng, tính cách; thái độ trang nghiêm, kính cẩn khi đứng tế; ước nguyện người quá cố được siêu thăng v cõi an lạc… Trong đó “lấy trung làm hiếu” như là một “giải pháp” cho những người con chí hiếu vì bận việc quốc gia không thể vẹn toàn đạo phụng dưỡng. Nhớ lại Ngô Thì Nhậm, nếu ông sớm nhận ra đạo lý này chắc sẽ đỡ phần nào cảm giác tội lỗi với cha. […]

Chú thích

(1) Phạm Nguyễn Du, Tế Hữu đốc thị Nguyễn Phùng Hiên, xem: Nguyễn Huy Mỹ, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Huy Quýnh cuộc đời và thơ văn, NXB. Lao Động - TT Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, HN, 2012, tr.224.

(2) Thiêm đô quan ở La Khê, Đông Ngạc Tham tụng quan thành phần tế văn (Nguyễn Đông Triều dịch), xem: Dụ tế huân thần 諭祭勲臣, Lập Trai Phạm Quý Thích, Quế Đường Lê Quý Đôn, VHN, KH: A.547, tr.11b.

(3) Phan Huy Ích, Văn tế Lê Ngọc Hân, xem: Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, Văn tế cổ và kim, NXB. Văn hoá - Viện Văn học, 1960, tr.45.

(4) Bùi Hữu Nghĩa, Văn tế vợ, xem: Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, sđd., tr.62.

(5) Đào Phan Duân, Văn tế mẹ, xem: Lộc Xuyên Đặng Quý Địch (sưu tầm, chú giải), Văn tế ở Bình Định, NXB. Văn hoá Dân tộc, HN, 2008, tr.83.

(6) Trần Duệ Tông(?), Nguyễn Bích Châu tế văn (Nguyễn Đông Triều dịch), xem: Hội đồng biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam, Tổng tập văn học Việt Nam, NXB. KHXH, HN, tập 3B, 1994, tr.358.

(7) Nguyễn Kiều, Văn tế Đoàn Thị Điểm, xem: Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, sđd., tr.11.

(8) Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB. Thế giới, HN, 2004, tr.1833.

(9) Nguyễn Cao, Tế Lê phu nhân Chất Khanh văn, xem: Phan Văn Các, “Bài văn tế vợ của Nguyễn Cao”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, VHN, HN, 1987, tr.69.

(10) Đào Phan Duân, Văn tế mẹ, sđd., tr.83.

(11) Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế mẹ, xem: Cao Tự Thanh, “Thêm một số thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Hán Nôm, số 2, VHN, HN, 1988, tr.67.

(12) Khuyết danh, Văn mẹ tế con gái, xem: Lê Sum, Việt âm văn uyển, Imprimerie J. Việt, Sài Gòn, 1919, tr.98.

(13) Ngô Thì Nhậm, Bôn tang cáo văn, xem: Lâm Giang, Nguyễn Công Việt, Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập 2), NXB. KHXH, Hà Nội, 2004, tr.519.

(14) Theo Phong Châu và Nguyễn Văn Phú (sđd.), Hầu Tạo tên là Nguyễn Hữu Tạo (tr.59). Theo một thông tin khác trên http//:ditichlichsuvanhoa.com/dttc/MO-VA-NHA-THO-LE-HAU-TAO-a171 về một nhân vật có tên Lê Hầu Tạo với chi tiết tương tự: Lê Hầu Tạo là người khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân tiêu biểu ở Nghệ Tĩnh nửa đầu thế kỷ XIX chống lại chế độ bóc lột hà khắc của triều Nguyễn. Mộ và nhà thờ ông được công nhận di tích lịch sử năm 1995. Nguyễn Hữu Tạo cũng là Lê Hầu Tạo chăng?

(15) Khuyết danh, Văn tế Hầu Tạo, xem: Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, sđd., tr.58.

(16) Khuyết danh, Văn tế Nguỵ Khắc Kiều, xem: Đinh Văn Minh, “Họ Nguỵ ở Xuân Viên và bài văn Nôm của tám giáp tế Nguỵ Khắc Kiều”, Thông báo Hán Nôm học 1997, VHN, 1997, tr.384.

(17) Bùi Viện, Văn tế lão mẫu, xem: Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB. Văn học, HN, tái bản 1998, tr.514.

(18) Bùi Viện, Văn tế lão mẫu, sđd., tr. 514.

(19) Khuyết danh, Tỉnh quan vãn cố Đốc đường Hoàng tướng công trướng văn (Nguyễn Đông Triều dịch), xem: Danh công biểu tuyển 名公表選, VHN, KH: A.582, tr.137b.

(20) Khuyết danh, Tỉnh quan vãn cố Đốc đường Hoàng tướng công trướng văn (Nguyễn Đông Triều dịch), sđd., tr.138a.

 


* TS,- Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH & NV – ĐHQG TP.HCM

Sự thành công của Vũ Ngọc Đãng trên màn ảnh nhỏ với hai bộ phim truyền hình “Tuyết nhiệt đới” (phát sóng năm 2006) và “Bỗng dưng muốn khóc” (phát sóng năm 2008) đã tạo ra một lực hút mạnh mẽ kéo khán giả đến rạp vào dịp tết Kỷ Sửu để xem “Đẹp từng centimet” ngay từ ngày khởi chiếu (15/1/2009). Mặc dù vẫn mang lại doanh thu đạt ở mức kỷ lục tại Việt Nam trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua (kinh phí làm phim: 4 tỉ đồng, doanh thu: 10,1 tỉ đồng), trong phim có sự xuất hiện của cặp đôi diễn viên ăn khách hiện nay (Lương Mạnh Hải – Tăng Thanh Hà), bộ phim đã thực sự là một thất bại và đạo diễn Vũ Ngọc Đãng đã không thực hiện được “tham vọng” nối tiếp sự thành công của “Bỗng dưng muốn khóc” bằng 108 phút trong “Đẹp từng centimet”.

Lời giới thiệu:

Ngày 15 tháng 4 năm 2017, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM đã tổ chức bảo vệ luận văn thạc sĩ cho HVCH Nguyễn Thị Bích Đào, đề tài luận văn là: “Tìm hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Hàm Ninh”. Luận văn do PGS.TS Đoàn Lê Giang hướng dẫn. Luận văn đã có những đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu cuộc đời, văn bản, giá trị thơ văn Nguyễn Hàm Ninh – một nhà thơ quan trọng trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX . Học viên đã dịch thuật nhiều tư liệu về tiểu sử và thơ chữ Hán của Nguyễn Hàm Ninh, cũng như đã có một số bài viết trên tạp chí khoa học về tác giả này. Hội đồng nhất trí thông qua luận văn với số điểm 9.37, đạt loại xuất sắc. Website Khoa Văn học xin giới thiệu một phần của luận văn.

(Đọc Đêm của Elie Wiesel, Nxb Hội Nhà văn & Tao Đàn, 2019)

“Ngày hôm nay, tôi không cầu nguyện nữa. Tôi không đủ khả năng rên rỉ mãi. Trái lại, tôi cảm thấy rất mạnh mẽ. Tôi là người tố cáo. Và bị cáo: Đức Chúa. Đôi mắt tôi mở ra và tôi đơn độc, vô cùng đơn độc trong thế giới, không có Chúa, không có loài người. Không tình yêu cũng không thương xót. Tôi chẳng là gì ngoài tro bụi, nhưng tôi lại thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng Toàn Năng đã bó buộc cuộc đời tôi bấy lâu nay.”

20210522 2

Trong số những bản thảo còn sót lại của Franz Kafka, Vụ án là một trong những văn án được đánh giá cao nhất. Có người xem đó như một sự tái hiện huyền thoại của Adam và Eva khi ăn phải trái cấm rồi bị đuổi khỏi Vườn Địa đàng. Thế nhưng, Vụ án khi được nhìn lại sau 100 năm phải chăng còn là một lời tiên tri, lời tiên tri dành cho vụ án kinh hoàng nhất lịch sử nhân loại - án oan của những con người Do Thái dưới sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler?

Mở đầu Vụ án là sự việc nhân vật Joseph K đối diện với cáo buộc về một tội danh anh không hề hay biết. Xuyên suốt câu chuyện là hành trình Joseph K miệt mài tìm cách giải oan cho mình ngay cả khi không biết tội trạng của bản thân là gì và thậm chí, mù tịt luôn cả việc ai là người đưa ra cáo buộc dành cho anh. Tương tự với Joseph K, người dân Do Thái trong suốt bốn năm Chiến tranh Thế giới thứ hai xảy ra đã trở thành bị cáo không tội trạng, bị bắt bớ, giam cầm và tàn sát trong những trại tập trung được bày bố rộng khắp châu Âu dưới sự cai quản của Phát xít Đức. Là một người Do Thái, đồng thời là một trong những nạn nhân nhỏ tuổi nhất của nạn diệt chủng, Elie Wiesel đã bất chấp những đau đớn, dày vò khi lục tìm trong ngăn hòm kí ức từng trải nghiệm đau thương thời gian bị nhốt trong những trại tập trung từ thuở thiếu thời để viết nên Đêm - câu chuyện mà “nếu trong cuộc đời tôi chỉ được viết một cuốn sách duy nhất, thì có lẽ sẽ là cuốn sách này” (Elie Wiesel).

Đêm không phải là một thiên sử thi đồ sộ viết về chiến tranh nhưng lại càng không phải là gói gọn của một buổi đêm đầy biến động. Trái lại, câu chuyện sự nối dài của những màn đêm tăm tối, vô vọng đến không lối thoát - màn đêm của tự nhiên, của thời cuộc và của số phận những con người Do Thái. Từ năm 1941, những trại tập trung được dựng nên, trở thành mức hành hình cao nhất đối với người Do Thái. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, là cơn ác mộng của đời thực. Trại tập trung: nơi người ta chứng kiến linh hồn của mình, gia đình, bạn bè từng ngày một dần mòn chết đi. Bước vào đó, mỗi người đều phải thực hiện nghi thức “gột rửa”. Giống như bước sang một trang mới của cuộc đời, nghi thức này như tẩy sạch đi con người của quá khứ, cuốn trôi đi những tháng ngày tươi đẹp và để lại duy nhất sự hoang mang, trống rỗng cùng nỗi sợ hãi tột cùng. Từ thời khắc đó, mỗi một người Do Thái với thân thể kiệt quệ, rỗng tuếch phải vật vã từng ngày, chạy đua từng ngày để tranh giành từng hơi thở, níu kéo từ giờ phút được sống mà chẳng biết rằng trên chính đường đua đó, người ta từng bước một lún sâu vào địa ngục, từng bước một đến gần với cái chết. Bởi lẽ, bước chân vào trại tập trung, thứ đầu tiên người ta bị tước đoạt chính là nhân hình: họ bị đánh đập bởi đòn roi tàn nhẫn, bị vắt kiệt bởi những căn bệnh không được chạy chữa, bởi cái đói từ những bữa ăn cầm hơi và cái giá lạnh trước sự thiếu vắng tình người.

Trại tập trung không chỉ phá nát vỏ bọc thân xác của con người mà lấy đi cả phần cốt cách của con người, lấy đi thứ phân biệt con người ta với những loài súc sinh vô tình - nhân tính. “Ở đây, mỗi người phải đấu tranh cho chính mình và đừng nghĩ đến những người khác. Thậm chí không nghĩ đến cha mình. Ở đây, cha không có nghĩa lý nữa, không anh em, không bạn bè. Mỗi người sống và chết cho chính mình, một mình.” Nhân tính còn đâu khi người ta bỏ mặc tất cả bao gồm cha mẹ, gia đình mình chỉ vì sự sống của bản thân? Nhân tính còn đâu khi người ta như trở về làm những loài động vật chỉ biết đến sự sống và cái chết của mình, chỉ biết sống bằng cái chết của những kẻ khác? Không còn nhân tính thì sự sống của con người có còn nghĩa lý ngoại trừ những vỏ bọc rủng roảng cùng một linh hồn chết ngấm?

Trong Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Svetlana Alexievich có viết: “Chiến tranh kết thúc... phải học lại lòng trắc ẩn. Nhưng chúng ta có thể tìm lại lòng trắc ẩn từ đâu?” Đúng thế, chúng ta có thể tìm lại lòng trắc ẩn, tìm lại linh hồn, nhân tính của mình từ đâu khi mà cuộc chiến kia đã đánh cắp của ta tất cả? Người ta thường nghĩ máu và xác người nuôi lớn những cuộc chiến nhưng họ lại quên rằng thứ mà hết thảy chúng ta đánh đổi cho mọi cuộc chiến chính là lòng trắc ẩn, sự nhân từ. Để rồi, chiến tranh qua đi, người ta chẳng thể làm gì ngoài ân hận, hối lỗi và dằn vặt chính mình: Tôi sẽ không bao giờ tha thứ bản thân vì chuyện đó. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho thế giới đã dồn tôi vào bước đường cùng ấy, đã biến tôi thành một con người khác, đã đánh thức trong tôi một con quỷ dữ, tâm trí thấp hèn nhất, bản năng hoang dã nhất”. Chúng ta đã tiêu tốn hàng triệu năm để tiến hoá thành loài người, tự hào vì là loài động vật cao cấp nhất để rồi chỉ bằng việc chọn lựa chiến tranh, chúng ta phủi bỏ hàng triệu năm đã qua mà quay về làm những loài vật vô tri, hung bạo và tàn nhẫn!

Nhà văn Elie Wiesel

Là những đứa con của Chúa, người Do Thái xem đức tin dành cho Ngài là chỗ dựa vững chãi nhất trên đời. Suốt những ngày tháng bị giam cầm trong màn đêm, họ tìm đến Chúa trời, cầu nguyện và van xin. Niềm tin vào Chúa cho họ nghị lực để sống, lí do để tồn tại. Thế nhưng, khi từng đợt tuyển chọn qua đi, từng lần một chứng kiến đồng loại bất lực trong việc giành giật sự sống, liệu niềm tin đó có còn bất di bất dịch và những lời cầu nguyện có còn là lẽ sống? Khi họ cấu xé nhau vì những mẩu bánh mì, tranh giành nhau cơ hội được chữa dứt căn bệnh kiết lị, phỉnh phờ nhau để thoát khỏi sợi dây thừng trực chờ siết chặt cổ mình - Thượng Đế đã làm ngơ! Làm ngơ mặc kệ những con chiên đang oằn mình đón nhận cái chết, làm ngơ trước lời khẩn cầu để được nhìn thấy ngày mai đầy tuyệt vọng. Và rồi Thượng Đế đã chết, chết trong ý niệm của những tín đồ, chết cùng cái chết dần mòn xâm lấn những đứa con của dân tộc Do Thái. Thượng Đế đã chết và con người ta thì buông bỏ khát khao được sống, thất vọng trước Đấng Toàn năng đã bỏ rơi sinh mạng bé nhỏ của mình đến mức phải bán rẻ cả linh hồn để bám trụ từng hơi thở mong manh!

Đêm khép lại khi ánh sáng đã trở về với nhân loại, khi những trại tập trung chỉ còn là trang sử đen tối không ai muốn gợi nhắc. Nhưng liệu ánh sáng của hôm nay có che mờ được vết thương của quá khứ? Người chết không thể sống lại, nhân tính đã đánh đổi không sao đòi về. Con người ta liệu sẽ đi qua quá khứ rồi tiến về tương lai hay chỉ là có thể nỗ lực không ngừng để trốn chạy bóng đêm hồi ức, trốn chạy khỏi con thú dữ có thể sống dậy bất cứ lúc nào bên trong con người mình?

Lam Thảo

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 12.5.2021.

Mục tiêu chính của Đông Dương tạp chí như được nói đến trong chương trình [1] của tờ báo đó là quảng bá và phổ cập khoa học và kĩ thuật phương Tây đến người Việt. Đây cũng chính là mục tiêu của tầng lớp trí thức của các nước vùng Viễn Đông theo tấm gương duy tân thành công của của Nhật Bản. Họ đều thấy được sự cần thiết phải nắm lấy chiếc chìa khóa khoa học phương Tây để mau chóng đưa dân tộc mình bước vào cánh cửa văn minh, tiến bộ.

Thông tin truy cập

60899400
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
23256
18331
60899400

Thành viên trực tuyến

Đang có 667 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website