Khi mới ra đời, Hoàng Thái Thanh hãy còn loay hoay với việc định hình phong cách. Khuynh hướng kịch tâm lý xã hội, hướng đến khán giả “nghiêm túc” đã rõ nhưng Hoàng Thái Thanh vẫn thận trọng xen kẽ những vở đã từng diễn ở sân khấu khác (Người điên trong ngôi nhà cổ, Hãy khóc đi em, Tình duyên thuở trước, Ngôi nhà thiếu đàn bà, Màu của tình yêu, Cảm ơn mình đã yêu em, Mua bảo hiểm tình, Chuyện bây giờ mới kể...) với các vở mới (Trần gian phải có tình yêu, Bàn tay của trời, Sáu tháng anh và em...); sử dụng cả kịch bản nước ngoài (Đèn không hắt bóng) để thăm dò thị hiếu khán giả, đồng thời làm dịu cơn khát kịch bản của một sân khấu non trẻ.

Thế rồi, sau thành công của Nửa đời ngơ ngác những ngày cuối năm 2010, Hoàng Thái Thanh bớt loay hoay. Thế mạnh của sân khấu này dần được xác lập bằng hai dạng thức kịch bản: một là, chuyển thể từ các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư (Nửa đời ngơ ngác, Bao giờ sông cạn, Rau răm ở lại, Mơ trăng bóng nước...), hai là nhuận sắc lại những tác phẩm vang bóng một thời của sân khấu cải lương (Sông dài, Lan và Điệp, Nửa đời hương phấn...). Thỉnh thoảng, sân khấu vẫn có một vài vở hài như Mình có quen nhau hông?, Oan tình ai thấu... nhưng có thể nói cái hài chưa bao giờ là yếu tố đầu tiên khiến người ta phải xăng xái đi tìm Hoàng Thái Thanh.

Mà, khán giả có nhu cầu ngồi trong không gian sân khấu Ái Như - Thành Hội vì thèm muốn cái xưa, yêu chuộng cái xưa.

Kịch Hoàng Thái Thanh xưa mà. Xưa rỉnh xưa rảng.

Cái xưa của Hoàng Thái Thanh không dữ dội, “Âu hóa” như những vở đậm chất Bắc của sân khấu kịch Hồng Vân, mà đó là một không gian Nam bộ với áo dài khăn san, bà ba lụa lèo, vét-tông ba-đờ-xuy, áo bầu blu-dông, dịp cầu lắt lẻo, lời ăn tiếng nói hồn hậu, đễnh đãi mà nhuần nhị, rạch ròi. Cái xưa khiến người ta nghĩ ngay đến những đoàn kịch Nam Bộ như Kim Cương, Bông Hồng hay xa hơn nữa là những gánh kịch, ban kịch như Đức Hoàng Hội, Dân Nam, Sống, Đen Trắng... Vẻ đằm thắm của nó còn gợi liên tưởng đến đoàn cải lương 2/84 vốn thiên về kịch bản tâm lý xã hội.

Socrates thường nhấn mạnh câu châm ngôn khắc trên cửa đền Delphi: “Người ơi, hãy tự biết mình”. Hoàng Thái Thanh có lẽ ý thức mình không mạnh về nhạc kịch, không giỏi hù ma nhát quỷ, không nhiều mảng miếng gây cười, chẳng thể đanh thép trào lộng. Cho nên, họ cứ trung thành với những chủ đề truyền thống: tình mẫu tử, đạo vợ chồng, nghĩa láng giềng, phận người tứ xứ... Dù là chủ đề nào cũng nhất định phải sáng rõ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Người viết không dưới mười lần thấy những bức hoành phi, tranh ảnh, thư pháp đậm dấu ngũ thường của nền Nho học, không dưới năm lần thấy phụ huynh “cho roi cho vọt” đúng nghĩa đen những con em tưởng đã trưởng thành, không dưới ba lần nghe gia huấn ca từ những ông già bà cả ở sân khấu kịch này. Cái xấu, điều tốt cứ luân chuyển tự nhiên. Bao đoạn trường, mất mát khiến người ta thật sự tin kiếp người là khổ sở. Nhưng đích đến vẫn là vẻ đẹp dung dị và sáng ngời của cái thiện, của tình người. Vì lẽ đó, có thể xem Hoàng Thái Thanh là một kiểu Quốc văn giáo khoa thư hay “tri hành hợp nhất” bằng nghệ thuật biểu diễn.

Cái xưa của Hoàng Thái Thanh còn nằm ở cách dàn dựng tả thực mà Aristotle - nhà nghiên cứu kịch phương Tây đầu tiên - từng đề cập: nói (ngôi) đền là phải có đền. Sân khấu này có đủ thứ “gà qué cá mú”: bông kiểng, trầu cau, bó củi, lồng đèn, chõng tre, đi văng, ghế đá, bộ trống, thước dây, tò he, bếp ga, trứng chiên ăn được... Đó là chưa kể đến những đạo cụ khó tìm trong thời buổi này: xích lô, xe đạp đòn dong, lon “gi-gô”, bàn ủi than... Coi mà phải phục “bà” Ái Như kiếm đâu ra mấy thứ của hiếm đó (tôi đoán thế, vì Thành Hội chắc không thể kim chỉ, tẩn mẩn đến vậy). Giờ chỉ chờ “bả” đem một cái ti vi đen trắng có cửa tủ và bốn chân lên sân khấu là “hết sảy con bà Bảy”. Mà vì đạo cụ thật nên may vá, đan lát, ủi đồ, ăn bánh ăn khoai, kể cả quết cá thác lác là những hành động thường xuyên của nhân vật. Thêm nữa, kết cấu của mỗi vở diễn chưa bao giờ gây ngơ ngác, vì nó chẳng hề đi tắt, lửng lơ hay đảo tuyến mà sẵn sàng dìu người xem tới bến cập bờ của mức nghĩa tường minh. Còn âm nhạc ư? Với một dòng kịch như thế thì nhạc tiền chiến, nhạc trữ tình chắc chắn sẽ chiếm ưu thế. Đương nhiên là tìm các ca sĩ thể hiện càng xưa càng tốt.

Và Hoàng Thái Thanh xưa trong cả cung cách phục vụ khán giả. Chủ nhân của nó muốn sân khấu phải thật sự là thánh đường. Cho nên, ngoài những quy định thông thường về ăn uống, chuông điện thoại, sân khấu thường xuyên nhắc nhở khán giả không bật điện thoại sáng khi sân khấu chuyển cảnh. Những đôi mắt đỏ hoe, những cảm xúc lắng đọng cần được bóng tối đồng hành (và người đương thời cũng nên học cậu Lãnh Chùa Đàn tạm lánh “văn minh” trong vài giờ của tháng, của tuần). Còn những người đến trễ dăm mười phút vui lòng đứng ngoài cửa để người bên trong nghe trọn vẹn lời giới thiệu vở diễn.

Cái xưa đó, ai không đủ độ ngấm độ ngẫm, độ đằm độ thắm thì sẽ đùng đùng bỏ về thuở chưa giải lao, còn ai trót đắm đuối thì nấn ná đến khi màn nhung khép lại thôi rồi.

Nhưng giờ thì tôi ngờ rằng Hoàng Thái Thanh... chỉ giả bộ xưa. Trong những vở chuyển thể gần đây, các biên kịch và đạo diễn đã mạnh dạn - đến mức dũng cảm - làm mới lại mạch kịch, các tình tiết quan trọng. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Ái Như, Thành Hội... “đồng lõa” và đồng cảm với nhau trong vụ này gần như tuyệt đối. Họ muốn Lan phải sống và còn phải lấy chồng Tây. Nàng không cắt đứt dây chuông, không vì bi phẫn tình yêu mà thoi thóp qua đời. Họ không cho The đi tu. Nàng chỉ làm thiện nguyện ở chùa. Nàng được sà vào lòng má, tựa vào gối má, được má gội mái đầu bằng bồ kết chứ không thê thiết “Tóc xanh gửi lại mẹ hiền/Đời con chôn kín cửa thiền từ đây” như kịch bản trứ danh của Hà Triều - Hoa Phượng. Họ đôn các tuyến “nhân vật chức năng” như Thúy Liễu, anh Hai Cang, Diệu lên thành những con người có hồn có vía, chất chứa ưu tư và chiều sâu tâm lý...

Khán giả giận không? Giận chớ. Sốc không? Sốc chớ.

Sao mà không sốc, không giận! Cái gì là mẫu mực, kinh điển thì sai một li đã không chịu nổi, huống hồ cách xa kịch bản gốc cả dặm. Nhiều người lặn lội đường xa đến nơi cốt để lần vết hương xưa, để nghe mấy lời mùi mẫn thấm thía in khắc thời thanh tân của họ. Mấy cái mới toanh cũng cần nhưng đâu phải nhọc tìm. Muốn gột tẩy, sửa sang những gì người ta khắc cốt ghi tâm phải đâu chuyện dễ.

Nhưng cái hay của những thoại kịch tân thời này là dù có gây hoang mang thì chúng vẫn khiến khán giả nán lại xem “mấy người” này làm cái gì. Để rồi, có ưng bụng hay không thì cũng phải thừa nhận là Hoàng Thái Thanh đang thực sự muốn bày biện một đường dây mới, muốn lồng ghép hơi thở đương thời vào những câu chuyện cũ, muốn giải quyết xung đột hay số phận rốt ráo hơn, tươi sáng hơn - kiểu “Có trời mà cũng tại ta”. Để rồi, hiểu rằng việc chuyển thể chưa bao giờ là dễ dàng, nhất là khi cái gốc vốn dĩ vàng son sực nức. Nỗ lực trình bày một phiên bản khác, có cá tính và chủ định (chứ không phải một bản copy an toàn, lành lành, minh họa), đáng được chia sẻ hơn là trách cứ. Để rồi, nghe cái gì đó cứ thấm vào tim, từng chút một, đủ sức khóc cười trong niềm biết ơn vô hạn những con người làm nghề chăm chút, cẩn trọng và tài năng.

Khán giả hôm nay cần được di dưỡng tinh thần bằng những sản phẩm đậm chất thời đại, không ngại đối thoại và có tính vấn đề nhưng vẫn giải trí tốt. Việc “mượn bóng” người xưa cũng không phải là ý tồi (thời Phục Hưng sáng chói chẳng phải là một kiểu “trở về” như thế ru?). Nhưng phải nhớ, chuyện “ăn” vào di sản là một con dao hai lưỡi, có thể tỏa sáng nhưng cũng có thể vùi lấp thanh danh. Có lẽ những trụ cột của Hoàng Thái Thanh thừa sức hiểu điều đó và đang dần khẳng định một phong thái kịch xưa chuyên chở những giá trị hôm nay.

Ảnh (Nguyên Lộc ): The (Hồng Ánh) được má (Ái Như) gội đầu ở đoạn kết kịch Nửa đời hương phấn.

Nguồn: http://mobile.thesaigontimes.vn/tinbaichitiet/159208/

Tháng 8/2016, thị trường điện ảnh Việt Nam dậy sóng bởi bộ phim Tấm Cám: chuyện chưa kể. Trước khi trình chiếu, qua trailer giới thiệu, khán giả tỏ ra rất hào hứng với bộ phim này vì… háo hức chờ đợi những sắp được kể! Dậy sóng cũng phải bởi truyện Tấm Cám là truyện cổ tích quá quen thuộc với mọi người nên khán giả có lý do để chờ đợi “sự làm mới” của ê kíp làm phim. Dậy sóng cũng phải bởi đây là bộ phim đầu tay của đạo diễn Ngô Thanh Vân - một đả nữ tài năng của làng điện ảnh Việt Nam. Mà thật, chỉ cần làm phép thử, tôi gõ cụm từ “phim Tấm Cám: chuyện chưa kể” lên google và đã thu được những con số bất ngờ như:

-          Khoảng 1.670.000 kết quả chỉ trong 0,40 giây;

-          Hàng loạt đường link dẫn đến các tìm kiếm liên quan đến bộ phim này;

-          Nó nằm trong top 10 phim tình cảm Việt Nam hay nhất của Việt Nam năm 2016;

-          Rất nhiều bài cảm nhận về bộ phim này;

-          ….

Từ sức hút đó, từ những thông số trên, tôi đã sắp xếp thời gian để xem phim này, thậm chí xem lại nhiều lần để từ đó đưa có những nhận xét, đánh giá từ góc nhìn của một người nghiên cứu về Văn học dân gian.

  1. 1.      Những tín hiệu vui…

Sau khi bộ phim Tấm Cám: chuyện chưa kể được trình chiếu, rất nhiều bài viết đã điểm lại những thành công của bộ phim này. Nhìn chung, phần lớn các ý kiến là khen nhiều hơn chê. Có thể tổng kết về một số tín hiệu vui từ bộ phim này như:

-          Đạo diễn Ngô Thanh Vân đã quy tụ được dàn diễn viên xứng tầm với bộ phim: vừa trẻ trung, xinh đẹp (như Hạ Vi, Isaac, Thanh Vân,…), vừa giàu kinh nghiệm (như Thành Lộc, Hữu Châu, Ngọc Giàu,…), vừa sở hữu lực lượng fan hùng hậu của nhóm 365. Diễn viên có lạ, có quen nhưng nhìn chung, họ đã diễn xuất khá đạt.

-          Đạo diễn Ngô Thanh Vân và ê kíp đã chọn được những hình ảnh chỉn chu, có phần vượt trội so với mặt bằng chung của phim Việt. Những đại cảnh về thiên nhiên rất hùng vĩ và ấn tượng, trong khi đó, các phân đoạn có sự tác động của kỹ xảo cũng được làm tốt.

-          Lần đầu tiên khán giả nhìn thấy một bộ phim Việt có ba quân tướng sĩ trang phục áo giáp sắt chỉn chu, đẹp đến từng chi tiết và còn đông đảo, hùng hậu không thua kém gì phim nước ngoài.

-          Về trang phục cổ trang: có sự đầu tư hoàn chỉnh, là điểm nhấn lớn nhất trong bộ phim này. Có thể nói, Ngô Thanh Vân đã quyết tâm nhào nặn đứa con tinh thần của mình thật xinh đẹp từ nội dung đến hình thức, cô thể hiện mình không hời hợt trong bất kỳ chi tiết nào.

-          Sau cùng, cũng phải nói về doanh thu: tuy chưa được công chiếu tại CGV (cụm rạp chiếm đến 40% thị phần tại Việt Nam hiện nay) nhưng chỉ sau hơn một tháng công chiếu, bộ phim Tấm Cám: chuyện chưa kể đã tạo nên cơn sốt ở các phòng vé, đã có doanh thu đạt 66 tỉ, với hơn một triệu lượt xem. Đây quả là con số ấn tượng trong thị trường phim ảnh vốn được xem là ảm đạm của làng điện ảnh Việt Nam.

Bên cạnh những tín hiệu vui đó, chúng tôi nhận thấy rằng, bộ phim còn rất nhiều “hạt sạn” trong việc xây dựng kịch bản – tiếc thay điều này lại khá nhiều, và càng thấy tiếc hơn vì thiếu các ý kiến mang tính định hướng của các nhà chuyên môn – nhất là những nhà nghiên cứu về văn hóa, văn học.

  1. 2.      Những cắt xén đáng tiếc…

So với truyện cổ tích Tấm Cảm, kịch bản của bộ phim đã cắt đi khá nhiều chi tiết – mà theo tôi, đây là những chi tiết rất đắt, rất đáng giá. Xin điểm qua một số chi tiết đó:

-          Lược đi hoặc nhẹ hóa các chi tiết thể hiện sự mâu thuẫn giữa hai chị em Tấm - Cám. Như đã biết, cho dù truyện cổ tích Tấm Cám có chủ đề là dì ghẻ - con chồng (như quan niệm lâu nay) hay là chủ đề “đánh tráo thân phận” giữa hai chị em Tấm – Cám (như quan niệm của GS. Nguyễn Tấn Đắc) thì đều cho thấy mối quan hệ Tấm – Cám là quan hệ có tính chất đối kháng, một mất một còn. Quả thế, các bản kể đều cho thấy: Cám đối lập hoàn toàn với Tấm và liên tục từ đầu đến cuối. Còn trong kịch bản phim thì sự mâu thuẫn giữa hai nhân vật này chưa đến mức kịch tính, chưa khắc họa rõ nét. Chẳng hạn như chi tiết chị em Tấm Cám đi bắt cá và hành động đánh tráo của Cám đã bị lược đi, chỉ còn được nhắc lại hay như hành động Cám bắt chước dội nước sôi để được xinh đẹp như Tấm cũng không thấy nhắc đến. Đôi khi, sự mâu thuẫn này còn được giảm nhẹ bằng cách quy tội  cho một nhân vật khác. Chẳng hạn, hành động mẹ con dì ghẻ giết Tấm – khi trèo cau được cho là âm mưu khởi đi từ viên thừa tướng.

-          Số lần biến hóa của Tấm cũng bị cắt giảm: từ bốn lần trong truyện Tấm Cám xuống còn ba lần trong phim, lược đi lần biến hóa thứ 3 – Tấm biến thành khung cửi. Thực tế cho thấy, số lần biến hóa không phải là sự tăng tiến về số học bình thường, mà đằng sau nó là sự biểu hiện về sự xung đột ngày càng gia tăng. Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc lý giải việc này như sau: “Về nguyên tắc, số lần biến hóa càng nhiều thì sự xung đột biểu hiện càng gay gắt, và ý chí hãm hại càng mãnh liệt. Vì vậy, số lần giết hại và biến hóa phải là con số tối đa” (1). Do vậy, việc cắt giảm số lần biến hóa, thêm một lần nữa đã làm cho sự xung đột giữa hai chị em Tấm Cám giảm thiểu đi rất nhiều. Các biến hóa cũng chưa thực sự rõ nét, chưa đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm – không thấy những lời đe dọa của chim vàng anh “Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch; phơi áo chồng tao thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao” hay lời hạch tội của khung cửi: “Cót ca cót ket/Lấy tranh chồng chị/Chị khoét mắt ra”.

-          Cắt xén các chi tiết thể hiện dân tộc tính: Truyện cổ tích Tấm Cám là một kiểu truyện thuộc loại phổ biến nhất trên thế giới. Cô Tấm trong truyện của nhiều nước phương Tây có tên là cô Tro Bếp hay Lọ Lem (Cendrillon – tiếng Pháp, Cinderella – tiếng Anh). Bên cạnh một số motif chung, kiểu truyện này còn có rất nhiều tình tiết thể hiện dân tộc tính như: Hình ảnh hội làng, cảnh mò cua bắt ốc, cái yếm đào, cây thị đầu làng..., và đặc biệt phải kể đến là hình ảnh bà già hàng nước (bản của Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đổng Chi) và miếng trầu hình cánh phượng. Với các làng quê Việt Nam – đặc biệt là các làng quê Bắc bộ thì hình ảnh bà già hàng nước nơi các gốc đa đầu làng là một hình ảnh hết sức thân thương, quen thuộc. Gốc đa, quán nước là nơi tiễn chân người đi xa, là nơi chào đón những kẻ tha hương trở về. Còn miếng trầu ở nước ta từ xưa có ý nghĩa lớn trong sinh hoạt xã hội, đặc biệt là việc cưới xin, trong việc giao duyên nam nữ. Chính vì vậy mà các bậc làm cha làm mẹ hay răn con gái “Thưa rằng: bác mẹ em răn/Làm thân con gái chớ ăn trầu người”. Trong truyện cổ tích Tấm Cám có một chi tiết ngắn nhưng theo tôi nó thể hiện rất rõ nét về truyền thống ăn trầu của người Kinh, đó là chi tiết nhà vua nghỉ chân ở hàng nước bà lão, nhìn “miếng trầu têm cánh phượng rất khéo” biết ngay là của vợ mình têm – dầu biết rằng Tấm đã chết. Miếng trầu quen thuộc đã nối lại nhân duyên, chi tiết này chỉ có ở trong truyện cổ tích nước ta. Theo GS Đinh Gia Khánh: đây là chủ đề có tính dân tộc, và ông lưu ý “khi viết lại truyện Tấm Cám hoặc cải biên, phỏng tác thành kịch bản chèo, múa rối,… thiết tưởng phải chú ý đến chủ đề về miếng trầu giao duyên” (2). Trong khi đó, nhóm biên kịch đã biến bà già hàng nước thành bà lão người dân tộc rất lạ lẫm, lạc điệu! Không những thế, bà còn lên mặt răn dạy cả Thái tử bằng những lời nói đầy chất triết lý. Còn miếng trầu chỉ được ống kính lướt qua một chút xíu, chỉ khoảng 1% giây! Ở đây, việc gán ghép hình ảnh bà già người dân tộc với miếng trầu cũng là điều trái khoáy, chông chênh[1]. Khi xây dựng một bộ phim, đạo diễn cần phải nghĩ xa hơn đến sự quảng bá của văn hóa nước mình (như người Hàn Quốc chẳng hạn); với bộ phim liên quan đến văn hóa, văn học dân gian thì điều này lại càng quan trọng. Do vậy, cần hạn chế đến mức tối đa việc cắt giảm các chi tiết thể hiện dân tộc tính.

-          Cái kết của mẹ con Cám: Đây là vấn đề khá nhạy cảm, đã được báo chí đưa ra tranh luận rất nhiều lần. Có lẽ, để tránh “tâm bão”, nhóm biên kịch đã chọn giải pháp an toàn bằng cách nhẹ hóa đi. Cụ thể, trong phim: Tấm ra lệnh bắt giam Cám vào ngục tối - không có chi tiết Cám chết do dội nước sôi và muối thành mắm gửi cho dì ghẻ ăn. Tuy nhiên, cuối phim vẫn có hình ảnh Tấm đưa cơm “mời dì ăn” – ý nói ăn mắm được làm từ xác của Cám. Chi tiết này khá gượng gạo, bởi các bản kể đều nói rằng Tấm “gửi cho mụ dì ghẻ” và mụ “tưởng thật, bữa nào cũng nức nở khen ngon”, rồi sau đó mụ “lăn ra chết” chứ không phải vẻ mặt thất thần và nước mắt ngắn dài như trong phim. Ở đây, để làm tốt hơn, theo tôi nhóm biên kịch có thể tham khảo các bản kể khác – chẳng hạn các bản kể mới sưu tầm được ở Bạc Liêu chẳng hạn. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc, trong 14 bản truyện Tấm Cám mới sưu tầm được ở Bạc Liêu, có bản không có cái chết của mẹ con Cám; có 04 bản nói mẹ con Cám bị sét đánh chết – như mẹ con Lý Thông. Phải chăng, cái kết Cám và mụ dì ghẻ chết do “bị sét đánh” là một “lối thoát” hợp lý nhất để “giải oan” cho nàng Tấm của Việt Nam?

Được biết, trước khi khởi quay, Ngô Thanh Vân cùng năm biên kịch đã dành ra ba tháng để cùng viết, chỉnh sửa, thêm thắt, dựng nên một nội dung mang phong cách mới trên nền câu chuyện quen thuộc. Điều này cho thấy Ngô Thanh Vân cùng nhóm cộng sự đã có quá trình làm việc nghiêm túc, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thêm bớt các chi tiết trong kịch bản. Nhưng có lẽ do không có một cố vấn chuyên môn về lĩnh vực văn hóa, văn học nên nhóm biên kịch đã cắt giảm đi nhiều chi tiết rất có giá trị về mặt nghệ thuật. Điều này ít nhiều làm giảm đi tính nghệ thuật của bộ phim.

  1. 3.      Những sáng tạo…lệch pha

Qua tên gọi của bộ phim “… chuyện chưa kể” cũng phần nào cho chúng ta biết rằng, bộ phim sẽ sáng tạo thêm nhiều chi tiết mới trên nền truyện mà chúng ta đã từng nghe biết lâu nay. Quả vậy, kịch bản của bộ phim cho thấy, bên cạnh việc bảo lưu các chi tiết của truyện Tấm Cám như: tình tiết Tấm bị mất con cá bống, ông Bụt hiện ra giúp sức mỗi khi Tấm khóc, lễ hội thử giày, Tấm trèo cây cau ngã chết, Tấm hết biến thành chim vàng anh, cây xoan đào rồi tới trái thị; kịch bản còn lồng ghép câu chuyện tình yêu đôi lứa, thêm nội dung về tình yêu quê hương đất nước. Cụ thể, nhóm biên kịch đã sáng tạo thêm các nhân vật/tình tiết sau:

-          Bộ phim đã bổ sung, sáng tạo thêm nhiều nhân vật như Thượng hoàng, Tể tướng, đặc biệt là bộ tứ sát thủ Thạch Biền giết người không gớm tay, võ tường Trần Bằng và Nguyễn Lực – hai người bạn thân của Thái tử, thái giám Thuận Nô,.. và các câu chuyện xung quanh các nhân vật này. Theo đạo diễn Ngô Thanh Vân, các nhân vật này được sáng tạo vì yêu thích thông điệp nhân văn ở hiền gặp lành, ác giả ác báo của câu chuyện và muốn bộ tứ Isacc, ST, Will, Jun Phạm của nhóm 365 có cơ hội thử sức diễn xuất! “Các nhân vật trong truyện cổ tích Tấm Cám đã rõ ràng nên khó nhất là làm sao “nhét” bốn anh em 365 vào mà vẫn thuyết phục người xem. Ê kíp quyết định viết thêm các tình tiết để giải quyết những điểm mấu chốt đã quen thuộc” (3). Lý do nêu ra xem chừng không thuyết phục, bởi các nhân vật này chỉ phù hợp với các phim truyện về đề tài lịch sử, thuộc thể loại truyền thuyết - mà nếu truyện kể về lịch sử thì phim đã rẽ lối khác!

-          Phần sáng tạo, thay đổi rõ nhất nằm ở chỗ nhân vật trung tâm của phim không phải là Tấm/Cám mà là Thái tử. Chàng thái tử trong phim vừa phải giữ vững biên cương bờ cõi, vừa phải đối đầu với thế lực thù địch bên trong triều đình. Để làm đầy đặn và kịch tính cho phần cải biên này, các nhân vật trong bộ tứ và viên Thừa tướng – kẻ muốn tiếm ngôi vua của Thái tử, xuất hiện. Trong phim, thời lượng và các cảnh quay về nhân vật Thái tử nhiều hơn các cảnh quay về chị em Tấm – Cám. Đây là sự điều tiết có chủ đích, có dụng ý nghệ thuật. Trên báo Thanh niên, số ra ngày 18/8/2016, Ngô Thanh Vân bộc bạch “Tất cả chúng tôi muốn tạo ra hình ảnh người hùng đứng lên bảo vệ đất nước để những người trẻ ngày nay quan tâm, tìm hiểu nhiều hơn truyện cổ tích, truyện của người Việt Nam mình bên cạnh những tác phẩm nước ngoài” (4). Một ước mơ rất đẹp, hoàn toàn chính đáng. Song rất tiếc, cần phải biết rằng: về đặc trưng thể loại hình ảnh người anh hùng, hình ảnh các ông vua không phải là nhân vật quen thuộc với thể loại truyện cổ tích (nếu có cũng chủ yếu là nhân vật phu). Hoặc giả, nhóm biên kịch có ý tưởng truyền thuyết hóa một truyện cổ tích[2] thì có vẻ cũng chưa đúng thể thức cốt truyện truyền thuyết thường gặp là: hoàn cảnh ra đời với những đặc điểm khác thường đến chặng trung tâm là kể về hành trạng và những chiến công khác thường của nhân vật, và cuối cùng là chuyện hóa thân âm phù. Thực tế cho thấy đây đó, nhóm biên kịch có những lúng túng vì có lúc kết cấu phim còn vương vấn cốt truyện cổ tích (kể về nhân vật thấp hèn, vượt qua thử thách và được thưởng công – lên ngôi), lúc khác lại sa vào việc xây dựng một hình ảnh người hùng nơi trận mạc.

-          Các bản khác nhau của truyện cổ tích Tấm Cám ở Việt Nam hay truyện Lọ Lem ở nhiều nước trên thế giới đều có chi tiết đôi giày rất xinh xắn và nhỏ nhắn, nhỏ đến mức không một bàn chân của một cô gái nào có thể mang vừa, đôi giày nhỏ xinh chỉ có thể vừa vặn với đôi bàn chân nhỏ xinh. Chính vì chiếc giày nhỏ xinh một cách kỳ lạ mới khiến Hoàng tử tò mò và quyết tìm cho ra người con gái sở hữu chiếc giày đó. Thế nên trong các bản kể của Việt Nam và các nước Đông Nam Á luôn có chi tiết rất nhiều cô gái cố gắng nong chân mình vào chiếc giày nhưng không ai vừa cả, đến khi Tấm đặt chân vào thì vừa vặn như in. Dân gian nói về đôi giày chính là để nói về đôi chân, nói đôi chân đẹp là nói về con người đẹp là vậy. Ở đây, Tấm đã sở hữu vật báu là “đôi chân nhỏ bé” - cái duy nhất chỉ một mình Tấm được sở hữu, không ai có thể tranh đoạt được của Tấm. Theo GS. Nguyễn Tấn Đắc, motif bàn chân nhỏ này chắc chắn có ảnh hưởng đến tục bó chân đã từng tồn tại một thời gian dài trong văn hóa Trung Hoa. Ở Việt Nam, khi nói về bàn chân của nàng Kiều, Nguyễn Du cũng viết rằng: “Gót sen lãng đãng như gần như xa” (Truyện Kiều). Như vậy, theo quan niệm của dân gian thì đôi bàn chân nhỏ nhắn là biểu tượng của một người con gái đẹp – cả hình dáng lẫn phẩm hạnh. Tuy nhiên trong Tấm Cám: chuyện chưa kể của Ngô Thanh Vân có chi tiết khá lạ là: đôi chân của Cám còn nhỏ hơn cả chiếc giày nhỏ xinh đó! Nhỏ đến nỗi, Thái giám phải thêm một lóng tay nữa mới vừa! Như vậy, ở đây nếu giải biểu tượng đôi chân thì rõ ràng nàng Cám – Lan Ngọc xinh đẹp hơn, xứng đáng được làm vợ hoàng tử hơn là cô Tấm - Hạ Vi. Sáng tạo chi tiết này cho thấy nhóm biên kịch đã không am hiểu về văn hóa nên có những sáng tạo lệch pha.

-          Khó nhận diện thể loại: cảm giác đầu tiên khi xem xong bộ phim là sự khó khăn trong việc nhận diện thể loại. Bởi thực sự, biên kịch/đạo diễn đã quá ôm đồm nhiều màu sắc: lãng mạn, ngôn tình, thần thoại, giả tưởng, hành động... nhưng chưa lột tả được màu sắc nào đến nơi đến chốn nên càng về cuối, mạch phim càng đuối dần… Ngay cả Ngô Thanh Vân trong những phát biểu của mình cũng thể hiện sự lúng túng này: có khi đạo diễn cho rằng thông điệp chính của bộ phim là “thông điệp nhân văn ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” (tức thông điệp của một truyện cổ tích), khi khác, “đả nữ” lại cho rằng: bộ phim muốn tạo ra “hình ảnh người hùng đứng lên bảo vệ đất nước” (nhân vật quen thuộc của thể loại truyền thuyết). Như đã biết, bộ phim lấy cảm hứng từ một truyện cổ tích nổi tiếng của Việt Nam – đó là truyện Tấm Cám. Đây cũng là kiểu truyện rất phổ biến trên toàn thế giới – với tên gọi là truyện Tro Bếp  hay truyện Lọ Lem. Việc chọn một cốt truyện cổ tích quen thuộc, có sức ảnh hưởng lớn đến tâm thức và văn hóa của người Việt xưa nay vừa thể hiện sự thông minh của đạo diễn, nhưng mặt khác nó cũng đòi hỏi đạo diễn phải đối mặt với nhiều thách thức: phải làm mới, lạ hóa mới thuyết phục, mới thu hút được khán giả. Tuy nhiên, việc làm mới cần phải có những lập trường rõ ràng, kiên định mới tránh được những nhập nhằng nêu trên.

-          Trong phim xuất hiện khá nhiều lời thoại theo kiểu hiền triết, hiện đại như của bà lão hàng nước: “Thanh niên trai tráng bây giờ đụng một tí là không thiết sống nữa… Điều quan trọng ở đây không phải ngươi là ai hay ngươi đã làm gì mà điều quan trọng là người phải làm gì để cứu vãn những sai lầm đó” hay như lời tâm sự của Tấm khi trao khăn thêu cho Thái tử hoàn toàn xa lạ với các nhân vật của truyện dân gian. Lời thoại của nhiều nhân vật trong phim cũng bị sáo rỗng. Các hạt sạn lời thoại kiểu như: Tấm đợi cho Thái tử nuốt trót lọt viên ngọc thần mới cảnh báo chàng sẽ bị biến thành quái vật; Tấm nức nở bên quái vật nói tiếng người với lời yêu đương ngôn tình... gây phản tác dụng. Các tình tiết đáng lẽ gây xúc động, cao trào lại làm khán giả thấy bật cười.

-          Đó là đánh giá riêng từng chi tiết, còn đánh giá chung về toàn bộ kịch bản thì các tình tiết trong phim được sắp xếp lỏng lẻo và không thuyết phục. Lúc đầu, câu chuyện xoay quanh cuộc đời của ba mẹ con nhà Tấm Cám, nhưng đến nửa sau, lại chuyển hướng sang nhân vật Thái tử, đẩy lên vai nhân vật này trọng trách giữ vững giang sơn, rồi để cuối phim, lại gượng ép đưa câu chuyện ba mẹ con Tấm Cám vào. Đành rằng, tên phim là Tấm Cám: Chuyện chưa kể để ngụ ý rằng phim không chỉ có câu chuyện Tấm và Cám. Nhưng việc chọn ra một nhân vật chính để các hành động, nhân vật bám theo vẫn chưa thuyết phục được người xem.

Nghệ thuật là khung trời của sáng tạo. Điện ảnh nói chung, kịch bản nói riêng cũng là một loại hình nghệ thuật nên việc tác giả kịch bản thêm bớt cũng là chuyện thường tình, có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, ở đây cũng phải chân nhận rằng: khi sáng tạo, người nghệ sĩ cũng cần cái đầu lạnh, cần sự tỉnh táo để biết những vùng trời riêng của từng thể loại, tránh những ôm đồm, thái quá, tránh những sáng tạo không hợp lý,... Tiếc thay, điều này lại xuất hiện khá nhiều trong bộ phim. Chính vì điều này đã làm cho sự kỳ vọng, chờ đợi của mọi người thành … nỗi tiếc nuối!

***

            Qua những phân tích trên, có thể thấy rằng so với cốt truyện truyện cổ tích Tấm Cám, kịch bản bộ phim Tấm Cám: chuyện chưa kể đã cắt xén khá nhiều chi tiết hay trong các bản kể, sáng tạo thêm nhiều tình tiết mới nhưng chưa thuyết phục, không hợp lý. Và do vậy mà theo tôi các thành công của bộ phim này cũng chỉ mới dừng lại ở… một vài tín hiệu vui như đã điểm. Đây có lẽ bài hoc không những riêng cho đạo diễn họ Ngô và ê kíp viết kịch bản mà cho cả những ai đang có tham vọng làm những bộ phim liên quan đến các vấn đề văn hóa, lịch sử của Việt Nam.

  1. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 196.
  2. Dẫn theo Nguyễn Tấn Đắc (2013), Về type, motif và tiết truyện Tấm Cám, Nxb Thời Đại, Hà Nội, tr.527.
  3. Hương Nhu: http://phunuonline.com.vn/giai-tri/xem-nghe-doc-%E2%80%93-choi/tam-cam-chuyen-chua-ke-tren-phim-81350/
  4. Hà Ngân: http://thanhnien.vn/van-hoa/ngo-thanh-van-da-khoc-but-co-hien-len-cuu-tam-cam-735084.html.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 396, tháng 6/2017

 


[1] Bởi như đã biết, ngoài người Việt, còn có khá nhiều dân tộc khác cũng có tục ăn trầu, thậm chí được thể hiện trong kiểu truyện này (như truyện kể Kajong và Haloek - dân tộc Chăm, Ú và Cao - dân tộc Hơrê) nhưng chỉ riêng ở người Việt thì miếng trầu trở thành biểu trưng cho lối ứng xử giao tiếp giữa các mối quan hệ trong đời sống xã hội, là phương tiện biểu lộ tình cảm con người – nhất là chuyện tình duyên nam nữ.

[2] Như trường hợp nhân vật Tấm được truyền thuyết hóa  thành nhân vật Vương phi Ỷ Lan – phi tần của hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của hoàng đế Lý Nhân Tông là một minh chứng.

Vương Hoài Lâm[1]

Tóm tắt

Tuy hóa trang là một phương thức biểu hiện chung của nhiều loại hình nghệ thuật, nhưng trong loại hình hát bội và cải lương tuồng cổ, hóa trang là một mã văn hóa (cultural code) đặc trưng có giá trị khu biệt cao, làm cho hai loại hình kịch hát này phân biệt sâu sắc với các loại hình kịch khác. Đồng thời, hóa trang sân khấu (theatrical make-up) trong nghệ thuật hát bội và cải lương tuồng cổ chính là một trong những nhân tố tạo nên sức hút đáng kể đối với công chúng nghệ thuật. Bài viết vận dụng khái niệm “ký hiệu quyển” trong ký hiệu học hiện đại để định vị cơ chế ngôn ngữ hóa trang của sân khấu hát bội và cải lương tuồng cổ.

Tiếp nhận và cải biên các tác phẩm văn học sang kịch bản cải lương là phương thức rất phổ biến trong việc xây dựng kịch bản cải lương trước năm 1945. Trong điều kiện cải lương vừa hình thành và có nhiều nơi mời trình diễn, việc cải biên sẽ dễ dàng và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của công chúng hơn việc sáng tác một tác phẩm mới. Vì sự gần gũi của truyện thơ Nôm và lời ca cải lương nên việc cải biên truyện thơ Nôm đóng một vai trò quan trọng cho việc phát triển loại hình sân khấu cải lương ở giai đoạn đầu tiên.

170611.Nhidomai

Kịch bản cải lương "Nhị độ mai", Mộng Trần, Tân Hiên Tập Quán, 1926

Trước năm 1945, các kịch bản cải lương dựa vào truyện Nôm chiếm tỷ lệ cao hơn các kịch bản cải lương dựa vào tiểu thuyết Việt Nam nhưng không phải quá chênh lệch. Theo chúng tôi, nguyên nhân truyện Nôm Việt Nam có ảnh hưởng lớn đối với các kịch bản cải lương là do so với tiểu thuyết Việt Nam, truyện Nôm là thể loại văn học ra đời trước hơn và đã khẳng định được vị trí trong văn học Việt Nam mà đỉnh cao là Truyện Kiều. Thứ hai, truyện Nôm chủ yếu được viết bằng thể thơ lục bát của dân tộc nên gần gũi với lời ca trong cải lương, dễ cải biên, dễ ngâm và nói lối. Thứ ba, cốt truyện của truyện thơ Nôm dù có tác giả như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên hay khuyết danh như Quan Âm Thị Kính, Lâm tuyền kỳ ngộ thì vẫn rất gần gũi với quần chúng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được quần chúng yêu thích, ngâm, kể. Trong khi đó, tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ vẫn còn khá xa lạ đối với nhân dân vì nhiều người không biết đọc. Cách kể chuyện của tiểu thuyết Việt Nam còn khá lạ so với tiểu thuyết chương hồi được du nhập vào Việt Nam trước đó nên khi lựa chọn để cải biên, các soạn giả cải lương cũng cân nhắc cẩn thận.

Những truyện Nôm được các soạn giả cải biên thành kịch bản cải lương trước 1945 theo chúng tôi khảo sát gồm có: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, Nhị độ mai (truyện Nôm khuyết danh), Quan Âm Thị Kính (khuyết danh), Lâm tuyền kỳ ngộ (khuyết danh).

Ngay từ khi mới ra đời, cải lương đã dựa vào Truyện KiềuLục Vân Tiên để sáng tác. Đó là hai vở cải lương Lục Vân TiênKim Vân Kiều của soạn giả Trương Duy Toản. Sở dĩ Trương Duy Toản chọn hai vở này để viết kịch bản cải lương theo chúng tôi có những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, Lục Vân TiênKim Vân Kiều là hai truyện Nôm cực kỳ nổi tiếng của dân tộc ta. Nhân dân ta thường sử dụng hai tác phẩm này để diễn xướng dân gian như: lẩy Kiều, tập Kiều, hát, ngâm… Vì cả hai tác phẩm đều viết bằng thể thơ lục bát, thể thơ đặc trưng của dân tộc Việt Nam nên rất được nhân dân ưa thích, dễ đi vào lòng người. Nếu như Truyện Kiều là tác phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc với thể thơ lục bát mang tính chất bác học được nhân dân miền Bắc nói riêng và nhân dân cả nước nói chung yêu thích thì Lục Vân Tiên lại mang thể thơ lục bát đặc trưng của nhân dân miền Nam: giản dị, trong sáng, dễ hiểu, được nhân dân miền Nam cực kỳ yêu thích. Do đó, từ thể thơ lục bát vốn có sẵn nhịp điệu cải biên thành bài bản cải lương sẽ dễ dàng hơn.

Thứ hai, Truyện KiềuLục Vân Tiên là hai tác phẩm rất tiêu biểu mang đậm chất dân tộc Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh đã từng phát biểu: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn – tiếng ta còn, nước ta còn (dẫn theo Nguyên Trang, Truyện Kiều còn tiếng ta còn, Báo Người Hà Nội, số 15 ra ngày 11 tháng 4 năm 2008). Còn ngay đoạn mở đầu Lục Vân Tiên, tác giả đã cho thấy việc “mượn xưa nói nay”, nêu cao tấm gương “trung hiếu tiết nghĩa”:

    Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

Do đó, việc sử dụng hai tác phẩm này trong bối cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp khai thác, bóc lột cũng là cách khơi gợi lòng yêu nước từ quần chúng nhân dân, giúp họ ghi nhớ những tác phẩm tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Không những thế, ẩn chứa đằng sau những câu hát tưởng chừng như đơn giản mộc mạc chính là lời kêu gọi lòng yêu nước. Nàng Kiều, phận nữ nhi “liễu yếu đào tơ” nhưng đã không cam tâm trước cảnh cha cùng em trai bị bắt và đánh đập oan ức:

Thúy Kiều:

Nghĩ tới thôi, ngẩn ngơ cho phận

Sống thừa chi đây,

Chi đây mà chẳng thảo thân

Đâu há lại làm thinh, dễ thẹn kiếp sinh.

(Kiều du thanh minh, Phạm Đình Khương)

Truyện Kiều không chỉ được sử dụng trong thời kỳ cải lương mới ra đời mà sau đó, nhiều soạn giả khác cũng sáng tác những vở cải lương dựa trên nguồn cảm hứng Truyện Kiều. Trong những vở cải lương trước 1945 mà chúng tôi sưu tầm được có hai vở diễn theo Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cả hai vở này đều do nhà xuất bản Phạm Đình Khương ấn hành. Đó là vở Hoạn Thơ tróc Kiều của Trương Quang Tiền và Kiều du thanh minh của Phạm Đình Khương. Mặc dù cả hai tác giả đều ghi là diễn theo truyện Kim Vân Kiều nhưng ở đây chúng tôi xin khẳng định, đó là dựa vào truyện Nôm của Nguyễn Du chứ không phải Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, tức là không chỉ dựa vào mặt cốt truyện. Cả hai vở cải lương này đều chỉ lấy một đoạn trong Truyện Kiều chứ không diễn lại cả truyện. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều diễn từ đoạn Sở Khanh gạt Kiều trốn đi cho đến đoạn sư Giác Duyên gửi Kiều đến nhà họ Bạc. Còn vở Kiều du thanh minh diễn từ đoạn Kiều du thanh minh cho đến lúc Kiều theo Mã Giám Sinh vào lầu xanh của mụ Tú Bà.

 

Tú Bà và 2 kỹ nữ bắt Kiều (Cảnh trong vở: Hoạn Thơ tróc Kiều, Trương Quang Tiền, nhà in Xưa Nay, 1927)

Sở dĩ hai vở cải lương chọn hai đoạn như trên đã nêu vì đây là hai đoạn mấu chốt trong Truyện Kiều, làm nên cuộc đời 15 năm lưu lạc của Thúy Kiều như Nguyễn Du đã viết:

       Hết nạn nọ đến nạn kia

Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.

Dù tên gọi của hai vở cải lương này khác nhau, dù hai soạn giả lựa chọn diễn lại hai đoạn khác nhau trong Truyện Kiều nhưng cấu trúc của kịch bản về cơ bản giống nhau. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ với Sở Khanh và dẫn đến tai họa phải ở lầu xanh tiếp khách. Từ lầu xanh, nàng gặp và được Thúc Sinh chuộc ra, làm lẽ Thúc Sinh. Hoạn Thơ biết chuyện, lập mưu chia rẽ Kiều và Thúc Sinh. Kiều trốn khỏi nhà Thúc Sinh đến gặp Giác Duyên. Tuy nhiên, vì nàng trộm chuông khánh nhà Thúc Sinh nên Giác Duyên đã gửi nàng cho nhà họ Bạc. Vở Kiều du thanh minh thì bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Kim Trọng nhưng cuối cùng hai người không đến được với nhau. Kiều bán mình chuộc cha và trao duyên cho Thúy Vân. Vở cải lương kết thúc ở đoạn Vương Ông tiễn Thúy Kiều về làm vợ Mã Giám Sinh.

Có thể thấy, kịch bản của hai vở cải lương này đều có một biến cố lớn trong cuộc đời Thúy Kiều. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều là biến cố Kiều và Thúc Sinh rơi vào mưu Hoạn Thơ. Hai người gặp nhau nhưng không dám nhận nhau: Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm. Vì tính chất của cải lương là tập trung khai thác các bi kịch nên đây là đoạn rất dễ khai thác và dễ lấy nước mắt người xem.

Rõ ràng, dù không sử dụng trực tiếp những câu thơ trong Truyện Kiều nhưng lời ca trong Hoạn Thơ tróc Kiều có những câu thơ được gợi hứng từ Truyện Kiều rất rõ. Chẳng hạn câu hát: Trời xanh ghét khách má hồng tương tự với một câu thơ ở đoạn đầu Truyện Kiều là: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Vở cải lương Kiều du thanh minh cũng có cách khai thác kịch bản tương tự. Kịch bản này chọn khai thác bi kịch khi Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và trao duyên lại cho Thúy Vân. Đoạn này nằm ở màn thứ sáu.

Thúy Kiều (khóc) nói: Em ôi, mở miệng ra thì gở, để dạ vậy sao đành, cậy cùng em chút có thương tình, ngồi cho chị lạy rồi sẽ tỏ.

CA TỨ ĐẠI OÁN

Xin cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi,

Chị sẽ bày mấy lời ruột gan

Đoạn ca Tứ đại oán này hoàn toàn giống với đoạn trao duyên trong Truyện Kiều:

      Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Như vậy, sự khác nhau ở đây chính là mặc dù lời ca cải lương dựa vào lời thơ Truyện Kiều nhưng đã biến đổi đi cho phù hợp với giai điệu của một bài Tứ đại oán.

Nếu so sánh về việc vay mượn lời thơ từ Truyện Kiều của Nguyễn Du thì có thể dễ dàng nhận ra, vở cải lương Hoạn Thơ tróc Kiều có sự phóng tác nhiều hơn vở Kiều du thanh minh. Trương Quang Tiền đã sử dụng một số ý thơ trong Truyện Kiều để viết lời riêng cho các nhân vật trong khi đó Phạm Đình Khương chủ yếu chỉnh sửa lời thơ của Truyện Kiều cho khớp với lời nhạc của nhân vật. Cả hai vở cải lương này đều ra đời vào năm 1927 nên theo chúng tôi, sự khác nhau ở đây là do quan điểm sáng tác của mỗi tác giả. Trương Quang Tiền là người sáng tác và cải biên rất nhiều vở cải lương như: Mạnh Lệ Quân thoát hài, Phụng Nghi Đình, Triệu Khuông Dẫn đưa Triệu Kinh Vương, Mạnh Lệ Quân chấm trường thi gặp chồng, Tây Thi gặp Phù Ta, Mạnh Lệ Quân chẩn mạch Đông Bình Vương, Hồng y hiệp nữ, Duyên chị tình em, Hồ Bạch Huê vĩnh biệt Tấn vương, Tâm tình xuất thế Tấn vương du xuân, Mẫu đơn tiên xuất thế, Điên vì tình, Giọt máu chung tình, Phụng cầu hoàng duyên, Tứ đổ tường, Mạnh Lệ Quân giả trai, Chiêu Quân lầm kế gian thần, Chiêu Quân giáp mặt Hán hoàng, Hỏa thiêu Hồng Liên tự,… Do đó ông đã có thể định hình phong cách viết kịch bản cho mình và có khả năng phóng tác vững chắc. Ngược lại, số vở cải lương mà chúng tôi sưu tầm được của Phạm Đình Khương chỉ có duy nhất một vở Kiều du thanh minh. Dĩ nhiên không thể khẳng định Phạm Đình Khương chỉ sáng tác duy nhất một vở cải lương nhưng có thể khẳng định số lượng kịch bản do Phạm Đình Khương viết ít hơn Trương Quang Tiền. Cho nên vở Kiều du thanh minh cũng có thể xem là một sự thể nghiệm của nhà xuất bản Phạm Đình Khương trong việc cải biên truyện Nôm thành kịch bản cải lương.

Không chỉ có Truyện KiềuLục Vân Tiên được cải biên thành kịch bản cải lương mà những truyện Nôm khuyết danh như Nhị độ mai, Quan Âm Thị Kính hay Lâm tuyền kỳ ngộ cũng được các soạn giả để ý đến.

Nhị độ mai được soạn giả Mộng Trần cải biên nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi. Tuy nhiên, tên gọi này chỉ dùng cho đoạn trích Hoa mai nở hai lần trong Hồi thứ tư của Nhị độ mai chứ không phải là toàn bộ câu chuyện. Cũng giống như hai tác giả kể trên, Mộng Trần chỉ chọn một đoạn trong Nhị độ mai để soạn thành cải lương, đó là đoạn: Lương Ngọc giả danh Vương Hĩ Đồng vào ở nhà Trần Đông Sơ tế mai cho đến lúc Trần Đông Sơ nhận ra được.

 

Kịch bản cải lương Nhị độ mai, Mộng Trần, Tân Hiên Tập Quán, 1926.

Bên cạnh Nhị độ mai, truyện thơ Nôm khuyết danh được lấy cảm hứng còn có Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Lâm tuyền kỳ ngộ,…Truyện Nôm Quan Âm Thị Kính được hai tác giả cải biên là: Nguyễn Công Mạnh với tác phẩm cùng tên, Lê Văn Lưu với tên gọi hơi khác một chút là Thị Kính hàm oan. Truyện Nôm Lưu Bình Dương Lễ được soạn giả Đặng Công Danh lấy cảm hứng, còn truyện Nôm Lâm tuyền kỳ ngộ được Nguyễn Thành Long cải biên với tên gọi Bạch Viên xuất thế.

Có thể nói rằng, một vở cải lương cải biên thành công là một vở cải lương thể hiện được trên sân khấu tinh thần của tác phẩm văn học. Mỗi loại hình nghệ thuật có thế mạnh riêng của nó nên không thể coi cái nào là minh họa của cái nào. Cái hay của cải lương là có thể cụ thể hóa những mô tả về nhân vật bằng lời ca, tiếng nhạc, bằng những dòng tâm tình, bằng ngôn ngữ cử chỉ,… để làm cho khán giả cảm nhận sâu hơn về tính cách, tâm tư tình cảm của nhân vật.  

 

Tài liệu tham khảo

  1. Đỗ Dũng, (2003), Sân khấu cải lương Nam Bộ 1918-2000, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
  2. Tuấn Giang, (2006), Nghệ thuật cải lương, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
  3. Lê Thanh Hiền, (2005), Sơ bộ về tác giả kịch bản cải lương Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ 20 (1900-1945), Tạp chí Sân khấu, Số 1+2, Tr.72-73.
  4. Hoàng Như Mai (1982), Trần Hữu Trang – soạn giả ca kịch cải lương, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
  5. Hoàng Như Mai, (1986), Nhận định về cải lương, Nxb Mũi Cà Mau.
  6. Huỳnh Công Minh, (2006), (3 tập) Vang bóng một thời sân khấu cải lương Sài Gòn, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh
  7. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương, (2007), Sân khấu cải lương ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Hóa Sài Gòn.
  8. Lê Thị Hoài Phương, (2010), Truyện Kiều với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 307.
  9. Tất Thắng, (1996), Diện mạo sân khấu – nghệ sĩ và tác phẩm, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
  10. Nguyễn Phan Thọ, (1994), Sân khấu và thị hiếu người xem, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
  11. Sỹ Tiến, (1984), Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  12. Trương Bỉnh Tòng, (1997), Nghệ thuật cải lương - những trang sử, Nxb Viện Sân khấu, Hà Nội.
  13. Hoàng Trinh (1964), Về vấn đề hành động trong kịch và vấn đề sáng tạo tính cách nhân vật trong kịch nhân xem vở cải lương Hoàng Diệu, Tạp chí Văn học, số 3, tr.43-52.

Nguồn: Tạp chí khoa học Văn hóa và du lịch, số Vol.7, No.2&3 (82&83), tháng 3&5/2016

Thiết kế bối cảnh đạt hiệu ứng tốt trong 'Đảo của dân ngụ cự'
Thiết kế bối cảnh đạt hiệu ứng tốt trong 'Đảo của dân ngụ cự'
Giành được nhiều giải thưởng lớn tại LHP ASEAN (AIFFA 2017), Đảo của dân ngụ cư khi ra rạp Việt Nam đã tạo được sự chú ý lớn từ khán giả.
Đảo của dân ngụ cư thu hút người xem bằng những khuôn hình đầy ám ảnh, lúc thì dữ dội bạo liệt, khi thì trầm lắng miên man.
Hồng Ánh làm phim khá chắc tay dù đây là phim đầu tay của cô với vai trò đạo diễn. Có thể một phần do kinh nghiệm mấy mươi năm trong nghề nhưng quan trọng hơn đó là tư duy nghệ thuật của cô. Điện ảnh không chỉ là sân chơi của những người giàu kinh nghiệm. Ngay cả nữ diễn viên từng cầm tượng vàng Oscar, Angelina Jolie, khi chuyển sang làm đạo diễn vẫn liên tiếp gặp thất bại. Phim của Jolie không được giới phê bình lẫn công chúng đón nhận.
Bên cạnh Hồng Ánh thì Phạm Hồng Phước, gương mặt lần đầu tham gia diễn xuất trong tác phẩm điện ảnh cũng mang đến sự tươi mới và dấu ấn cho phim. Phước rất hợp vai nên có thể thấy, anh diễn như không diễn. Tất cả những hành động của nhân vật trong phim, Phước thể hiện rất tự nhiên, không cần phải lên gân. Ngọc Thanh Tâm cũng làm tròn vai của mình. Chỉ tiếc là gương mặt góc cạnh của cô khiến người xem có cảm giác “chất đàn bà” và sự dữ dội, bạo liệt trong tâm hồn cô đã lấn át đi nét ngây thơ, trong sáng của Chu, một cô gái suốt hai mươi mấy năm chỉ biết làm bạn với đồ chơi, với những ô cửa và gần như bị đoạn tuyệt với mọi sự giao thiệp của cuộc sống bên ngoài. Do đó, dù làm tốt vai trò của mình thì gương mặt Ngọc Thanh Tâm có nhiều lúc khiến khán giả “không tin” nhân vật. Tuy nhiên, chắc chắn Ngọc Thanh Tâm sẽ còn tỏa sáng hơn nữa trong sự nghiệp điện ảnh của cô.
'Đảo của dân ngụ cư': Sự cô đơn đến khó hiểu của kiếp người nhỏ bé - ảnh 1
Những cảnh phim đầy ám ảnh
Đảo của dân ngụ cư chỉ sử dụng hai bối cảnh. Quán dê Đêm Trắng như một thế giới thu nhỏ, tấp nập người ra vào, đàn đúm, hát múa, say xỉn, gây sự... Thế giới ấy bị bó lại trong khung cảnh chật chội với nhiều song cửa, bàn ghế, chén bát lộn xộn, vung vãi, bám đầy mạng nhện.
Nữ nhân vật chính dù sống trong quán cà ri dê nhưng vẫn bị cô lập khỏi thế giới đầy người ra vào bên dưới. Với thực khách, cô hoàn toàn không tồn tại mà chỉ là cái bóng ma như cách cô hiện diện trước mắt họ lần đầu tiên. “Bóng ma” nhỏ bé ấy và thế giới lộn xộn kia bị cai quản bởi một ông chủ hay nói đúng hơn là một tên cai ngục với chiếc chìa khóa đeo ở cổ. Tên cai ngục này đối xử với vợ như người hầu, đối xử với cô con gái mình như tù nhân và đối xử với những người giúp việc như những tên đao phủ trong lò sát sinh.
Chu vừa bị giam hãm trong chính thể xác của mình vì đôi chân không lành lặn, vừa bị giam hãm trong căn phòng của mình vì bố và vừa giam hãm trong vùng đất này vì sự cách trở của đảo. Những góc máy đặt qua ô cửa sổ thể hiện điểm nhìn của Chu với thế giới xung quanh. Trong căn phòng chật hẹp của mình, cô chỉ có hai niềm vui là chơi với những con thú đồ chơi và làm tình. Ánh mắt cô ngập tràn hạnh phúc khi ngắm nhìn những con thú. Cơ thể cô hoàn toàn được giải phóng khi làm tình với Miên. Những đụng chạm xác thịt giữa đàn ông và đàn bà là cách để Chu kết nối với thế giới, là cách để cô thoát khỏi sự giam hãm của đôi chân chính mình. Sẽ chẳng ai nhìn thấy Chu như là một cô gái ngồi xe lăn trong hình ảnh ấy nữa.
'Đảo của dân ngụ cư': Sự cô đơn đến khó hiểu của kiếp người nhỏ bé - ảnh 2
“Cảnh nóng” đầy nghệ thuật là điểm nhấn cho bộ phim
Thế nhưng, mọi thứ với Chu dường như thay đổi khi cô gặp Phước. Anh mang đến cho cô sự tự do trong tâm hồn và chính cô cũng là bến đỗ bình yên cho anh. Sợi dây chuyền màu xanh nước biển mà Phước tặng cô như một giọt nước mát lành giữa căn phòng chật chội mà ở đó, cô có thể cảm nhận được đại dương bao la qua sợi dây chuyền bé nhỏ. “Linh hồn và thể xác dường như chẳng ăn nhập gì với nhau”, Phước đã nghĩ như vậy bởi đó chính xác là những gì anh nhìn thấy nơi Chu. Cách Phước yêu Chu, cách anh làm tình với Chu bằng sự vuốt ve, âu yếm đã giúp cô đạt được sự thăng hoa trong cảm xúc. Cảnh quay giàu cảm xúc nhất trong phim có lẽ là cảnh hai người trần trụi nằm ôm nhau trong tông màu xanh mát lành.
'Đảo của dân ngụ cư': Sự cô đơn đến khó hiểu của kiếp người nhỏ bé - ảnh 3
Tạo hình vai Phước - chàng trai 20 tuổi đầy tò mò, đang tìm chốn dung thân
Đối lập với ngôi nhà nóng bức, chật chội là đại dương bao la. Tông màu biển cả đối lập hoàn toàn với tông màu ngôi nhà. Chu trở nên bé nhỏ trên chiếc thúng chai bập bềnh. Máy quay hướng từ trên cao xuống bắt lấy toàn cảnh tạo vẽ nên bức tranh đẹp tuyệt vời. Chu ngồi trên đó, đại dương bao bọc lấy cô, ban cho cô sự tự do tuyệt đối.
“Có những người chỉ gặp thoáng qua trong những chặng dừng chân nhưng họ sẽ thay đổi đời ta mãi mãi”, Phước đã nói về cuộc trú ngụ của mình tại quán dê Đêm Trắng của mình như vậy. Sẽ chẳng có gì trên đời có thể giam cầm được những con người trẻ luôn khát khao yêu đương và tự do bởi nếu phải chết để đạt được tự do, chắc chắn họ cũng sẽ đánh đổi.
Đảo của dân ngụ cư sẽ được trình chiếu trên toàn quốc kể từ ngày 9.6.

Lê Na

Nguồn: Bảo Thanh Niên, http://thanhnien.vn/van-hoa/dao-cua-dan-ngu-cu-su-co-don-den-kho-hieu-cua-kiep-nguoi-nho-be-843277.html

(Đào Ngọc Chương, Bình luận văn học - niên san 2015, tr.58-62)

Tóm tắt

Bài viết tập trung vào ba vở kịch của Hoàng Như Mai, công bố trong tập Tiếng trống Hà Hồi, xuất bản năm 2001. Ba vở kịch thể hiện “hành trình tư tưởng, nghệ thuật” của ông với tư cách là nhà viết kịch. Chất nghệ sĩ của tác giả gắn liền với những thủ pháp cách tân của kịch hiện đại, rực rỡ, đơn giản mà phức tạp.

Từ khóa: Hoàng Như Mai, kịch, sân khấu, Tiếng trống Hà Hồi…

CLB Sân khấu và Điện ảnh trực thuộc Khoa Văn học, thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Được thành lập từ tháng 12 năm 2016, CLB đã đứng ra tổ chức nhiều hoạt động nhằm phát triển kiến thức và niềm đam mê nghệ thuật sân khấu, nghệ thuật điện ảnh trong giới sinh viên.

(Đào Lê Na, Bình luận văn học - niên san 2015, tr.156-165)

Tóm tắt

Vừa phát triển vừa đối lập lại với cấu trúc luận, giải kiến tạo luận ra đời như một dấu ấn lớn trong phê bình văn học thế kỷ XX. Các tư tưởng về đối thoại, đa thanh của Bakhtin, về liên văn bản của Julia Kristeva, về “cái chết của tác giả” của Barthes, về thẩm quyền giải mã văn bản của người đọc của Derrida,… là nền tảng của giải kiến tạo luận.

1.Mở đầu

Viết về người phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ trước thế kỉ XVI, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong các tác phẩm văn xuôi tự sự cũng như thơ ca. Đó là hình ảnh các nhân vật truyền thuyết như bà mẹ Âu Cơ mang trăm trứng nở trăm con hay những vị anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, sống đánh giặc, chết hóa thành phúc thần giúp dân, giúp nước; hoặc các nhân vật khác như Mị Châu, vì “tình yêu lầm lỡ” mà bị kẻ thù lợi dụng đến mất nước tan nhà; công chúa Tiên Dung thích ngao du sơn thủy, từ bỏ cuộc sống phú quý trong cung điện, kết duyên cùng chàng đánh cá Chử Đồng Tử sống cuộc đời hạnh phúc bên bến sông; hay nàng quận chúa A Kim yêu say đắm Hà Ô Lôi- một người vừa xấu vừa đen nhưng có giọng ca mê hồn (Lĩnh Nam chích quái)…

Hàng trăm khán giả lấp kín đến từ rất sớm, không chỉ các khán giả trung niên, mà có cả những khán giả trẻ đã rơi nước mắt trước những câu chuyện cảm động trước những mảnh đời khác nhau trên sân khấu Hoàng Thái Thanh.

Soạn giả Trần Hữu Trang (1906 -1966)

1. Trần Hữu Trang còn gọi là Tư Trang là một trong những soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương Việt Nam. Ông là người sớm gắn bó với cách mạng.

Ông sinh năm 1906 và mất ngày 1 tháng 10 năm 1966. Quê hương ông là xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Đây cũng là quê hương của bao nghệ sĩ cải lương có tên tuổi như Hai Giỏi, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Phùng Há, Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Anh, Hai Thông…Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông sa sút. Đời ông nội còn có căn nhà vào loại khá. Đến đời cha đã phải đi làm thuê. Bản thân ông đã phải làm thợ hớt tóc.

Tóm tắt. Người Trung Quốc cổ xưa không chú ý vào việc phân biệt giữa Viên (vượn) và Hầu (khỉ). Trong văn học thời Tấn, Đường, hình ảnh Vượn thường gắn với cái Bi; đến thời Tống, Vượn trở thành một đề tài mới, độc đáo trong hội họa. Vượn trong tranh của Dịch Nguyên Cát mang cái đẹp ngây thơ, tinh nghịch, đầy sức sống thế gian. Vượn trong tranh của Pháp Thường mang vẻ đẹp thanh nhã, tĩnh lặng, thể hiện sức sống tiềm tàng mà  mãnh liệt của thế giới tinh thần.

 

         TÓM TẮT     

           Trong lịch sử kịch nói Việt Nam, Sài Gòn là một trong những nơi sớm tiếp thu thể loại kịch nói từ phương Tây. Tuy kịch nói ở Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh phải trải qua một quá trình lịch sử hình thành và phát triển nhiều thăng trầm nhưng đó là một quá trình liên tục, không đứt gãy. Quá trình phát triển đó đã tạo nên những tích lũy và tiền đề để đưa kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ trong khoảng thập niên cuối thế kỷ XX và thập niên đầu thế kỷ XXI trong bối cảnh hoạt động kịch nói cả nước có phần trầm lắng. Mặc dù vậy trong vài năm trở lại đây, kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu phát triển chững lại, bộc lộ những bất cập từ kịch bản văn học, nghệ thuật biểu diễn đến tổ chức biểu diễn. Đây là thời điểm thích hợp để nhìn lại toàn bộ quá trình hình thành và phát triển, đúc rút ra những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển bền vững của kịch nói ở Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh thời gian tới.

Nhiếp Ấn Nương là bộ phim võ thuật đầu tiên của nhà làm phim kỳ cựu người Đài Loan, Hầu Hiếu Hiền. Bộ phim được thực hiện trong vòng 7 năm và là siêu phẩm điện ảnh rất đáng được mong chờ. Tất cả những người yêu mến phim Hầu Hiếu Hiền đều không ngừng đặt câu hỏi: Hầu Hiếu Hiền sẽ mang phong cách phim của mình vào thể loại phim kiếm hiệp ra sao bởi tất cả các phim trước đó của ông đều là phim gia đình hoặc phim tâm lý? Liệu thể loại phim này có phá vỡ đi quan điểm làm phim trước đây của Hầu Hiếu Hiền hay không? Khi chiếc mặt nạ của “người bí ẩn” bị Ẩn Nương chém rơi xuống đất cũng là lúc câu trả lời được khai mở.

Thông tin truy cập

67301979
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1873
9705
67301979

Thành viên trực tuyến

Đang có 691 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website