(Đào Thị Diễm Trang, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Khái niệm đương đại đang ngày càng phổ biến hơn tại Việt Nam. Chúng ta có thể nghe các cụm danh từ như múa đương đại, dân ca đương đại, kịch đương đại... Song, việc định hình khái niệm đương đại và đúc kết các đặc điểm của một tác phẩm nghệ thuật đương đại như một lý thuyết có hệ thống tại Việt Nam vẫn đang bỏ ngỏ. Bài viết này hi vọng việc tìm hiểu hai vở kịch được xem là đương đại là Akaoni và Người đàn bà thất lạc sẽ bổ sung thêm một số ý tưởng để góp phần làm rõ hơn diện mạo của kịch đương đại Việt Nam.

(Đào Lê Na, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN). Từ tác giả văn học đến tác giả điện ảnh là một cuộc hội ngộ có cả tri âm lẫn sáng tạo. Tác giả điện ảnh đọc hiểu và đồng cảm với tác giả văn học để từ đó kể lại câu chuyện mà mình được đọc bằng ngôn ngữ điện ảnh và những sáng tạo riêng của mình. Trong lịch sử, khái niệm tác giả văn học và tác giả điện ảnh đều có những sự dịch chuyển về nội hàm và đều chịu ảnh hưởng bởi các lý thuyết mỹ học. Gần đây nhất là lý thuyết giải kiến tạo, hậu hiện đại.

Có một hôm, tôi đi xem kịch ở sân khấu Phú Nhuận và gặp Việt Linh đi cùng Minh Trang. Có lẽ hai bà chị không để ý có một khán giả ra về cứ lặng lẽ quan sát nét mặt của họ. Vài hôm sau, trên một tờ báo, Minh Trang bày tỏ sự day dứt vì sân khấu kịch: “… sau 30 năm, so với những Hà Mi, Phồn Y… thuở ấy, chẳng những không tiến mà còn bị lùi.” (Nghệ sĩ Minh Trang: “Người hạnh phúc là người biết mình ở đâu”, báo Phụ nữ TP). Tôi chỉ thấy hai bà chị này đáng trách, ai bảo thấy vở kịch có cái tựa Cúc cù cúc cu và một cái tên phụ là Xin anh hãy ngủ với vợ em mà vẫn đi xem! À, tôi cũng thấy, nhưng tôi không phải người ăn cơm nghệ thuật, lại thêm máu ghiền kịch thành ra hay rơi vào trạng thái xem đỡ vã. Còn hai bà chị lâu lâu mới về nước thì phải cân nhắc chớ. Nhưng không hiểu sao trong tôi lúc ấy lại nảy ra một sự chờ đợi, chờ đợi Việt Linh và Minh Trang sẽ làm điều gì đó cho sân khấu kịch.

Viễn Đông là một phần của Á châu và chịu ảnh hương văn minh và văn hóa Trung Quốc rất sâu đậm. Các xứ Nhựt Bổn, Đại Hàn và Việt Nam đều sử dụng Hán tự để diễn tả tư tưởng, dù rằng mỗi xứ đều có chữ viết riêng (Nhựt với hiragana, katakana, kanji; Đại Hàn với hyangul; Việt Nam với quốc ngữ). Vì thế, ảnh hưởng của nhạc Trung Quốc đối với ba xứ vừa kể trên rất là hiển nhiên 

Bài hát nổi tiếng “Trở về mái nhà xưa” (Torna a Surriento) của Ernesto de Curtis (Ý) được Phạm Duy viết lời Việt đã ngân vang từ nhiều năm nay và thường được hiểu như một bài ca về về tình hoài hương hay nói về tình yêu nhưng sự thực không phải thế. 

 (Hình minh họa, http://sankhau.com.vn)

            Từ khá lâu, trong giới nhạc Tài tử Nam bộ đã có sự phân biệt ranh giới nhạc Tài tử và nhạc Cải lương kể từ sau khi Cải lương ra đời. Sự phân biệt đó là lẽ tất nhiên, vì hai loại hình có những đặc điểm riêng, nhưng cũng có những nội hàm chung. Tuy nhiên, xưa nay về sự khác biệt giữa hai loại hình này chưa có một công trình nghiên cứu khoa học, hoặc bài viết nào nghiên cứu chuyên đề này, để lý giải sự phân biệt cho thỏa đáng… Bài viết này sẽ đặt vài vấn đề có liên quan, có tính thiết thực của đề tài.

Lịch sử các khóa học sáng tác ở bậc đại học tại Hồng Kông tương đối ngắn. Tuy nhiên, khóa tập huấn sáng tác không chính thức đã tồn tại ở Hồng Kông ít nhất là từ năm 1969. Trong một cuộc phỏng vấn, một nhà thơ nổi tiếng của Hồng Kông , Quan Mộng Nam (关 梦 南), nói rằng ông đã tham dự một khóa tập huấn thơ ca được giảng dạy bởi các nhà văn Hồng Kông là Đái Thiên (戴 天) và Cổ Thương Ngô (古 苍梧) năm 1969, và ông ấy khẳng định rằng kinh nghiệm này giúp ông trở thành một nhà văn, mặc dù ông chưa bao giờ có cơ hội được đào tạo về văn chương ở cấp bậc đại học. Một phần nhờ vào nhà văn Trung Quốc Nhiếp Hóa Linh (聂华), người đồng sáng lập Chương trình Viết quốc tế tại Đại học Iowa, Mỹ, nhiều nhà văn sử dụng tiếng Trung đã được mời học chương trình sáng tác của Đại học Iowa. Ví dụ nhà thơ Đái Thiên, là một trong số họ. Ông ấy nhận bằng Thạc sĩ sáng tác tại Đại học Iowa cuối những năm 1960, và bắt đầu mở các khóa tập huấn viết văn tư ở Hồng Kông ngay sau đó.

NCS. Đỗ Dũng

Từ khá lâu, trong giới nhạc Tài tử Nam bộ đã có sự phân biệt ranh giới nhạc Tài tử và nhạc Cải lương kể từ sau khi Cải lương ra đời. Sự phân biệt đó là lẽ tất nhiên, vì hai loại hình có những đặc điểm riêng, nhưng cũng có những nội hàm chung. Tuy nhiên, xưa nay về sự khác biệt giữa hai loại hình này chưa có một công trình nghiên cứu khoa học, hoặc bài viết nào nghiên cứu chuyên đề này, để lý giải sự phân biệt cho thỏa đáng… Bài viết này sẽ đặt vài vấn đề có liên quan, có tính thiết thực của đề tài.

          Nếu ai đó yêu thích phim của Ozu Yasujirō, bậc thầy của điện ảnh Nhật Bản, người sử dụng chính xác từng khuôn hình, từng đồ vật trong khuôn hình để tạo nên những kiệt tác điện ảnh vĩ đại và rồi bất chợt nhìn thấy bức họa Las Meninas của Diego Velazquez thì ít nhiều sẽ có sự liên tưởng. Không chỉ vậy, chúng ta còn có thể nhìn ra được những liên hệ đầy lí thú giữa hai loại hình nghệ thuật điện ảnh và hội họa thông qua bức họa này.

Ngày 13 tháng 11 năm 2013, trong chuỗi hội thảo văn hóa thuộc Chương trình Giáo Dục Tổng Quát, trường Đại học Hoa Sen, ban tổ chức đã mời Đạo diễn Đặng Nhật Minh  tới nói chuyện với sinh viên và giảng viên, cùng thân hữu của trường. Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã cuốn hút gần 100 khán giả bởi lối nói đơn giản, sâu sắc, chia sẻ những trải nghiệm chân thực, đam mê, nhiệt huyết, và hiểu biết sâu rộng về điện ảnh. Buổi nói chuyện được phân làm ba phần: 1. Hướng đi riêng, 2. Lịch sử điện ảnh, và 3. Giao lưu với khán giả.

Ước lệ, không phải thủ pháp nghệ thuật. Ước lệ là loại hình ngôn ngữ, quy chuẩn các trạng thái tồn tại nghệ thuật và cuộc sống, ước định hiện thực hoá tự nhiên xã hội. Ngôn ngữ ước lệ tĩnh và động, biểu trưng các dạng tồn tại không điều kiện, mặc nhiên toàn xã hội công nhận một hình thức diễn tả đời sống con người và trong các loại hình nghệ thuật.

Nhà soạn nhạc Nga Sergei Rachmaninov từng nói: “Âm nhạc đủ cho một đời nhưng một đời không đủ cho âm nhạc.” Câu nói đó như thể tổng kết cả cuộc đời của nhạc trưởng Claudio Abbado. Bạn bè ông kể lại, vài ngày trước khi qua đời, ông vẫn còn nghiên cứu giao hưởng của Schumann, như thể mới 18 tuổi.

Chiều muộn ngày 27/1/2014. Quảng trường Scala, Milan, Ý.

     Khi nhìn vào những thành tựu phát triển khoa học và công nghệ của con người ngày hôm nay, ta không tránh khỏi cảm giác ngưỡng mộ, tự hào. Song, hãy thử thoát ra khỏi cái nhìn có tính so sánh, ta sẽ thấy mọi thành tựu tự bản thân nó vào lúc xuất hiện, trong trạng thái cuối cùng của thành tựu, bao giờ nó cũng mang tính chất gây ngưỡng mộ.

Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới.

Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Đại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20 trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu.

I. Nhận quê tổ đã thành một vấn đề

Cũng như bao nhiêu sản phẩm tinh thần khác, ca trù có nguồn gốc với các điều kiện văn hóa, điều kiện địa lý và thời điểm lịch sử sản sinh ra nó. Ca trù cũng có thể còn có dấu tích, dấu ấn của thời điểm lịch sử và vùng văn hóa mà nó sinh ra và có khả năng, với những đặc điểm, dấu tích đó cho phép chúng ta hy vọng tìm ra nguồn cội của ca trù ngoài hướng tìm qua thư tịch. Hướng tìm qua thư tịch khá mong manh vì công việc lưu trữ của chúng ta không tốt lại thiên tai địch họa liên miên và việc ghi chép cẩn thận cũng chưa phải là thói quen xưa nay. Trong điều kiện như vậy, khi nghiên cứu nguồn gốc ca trù nhiều người đã lấy truyền thuyết làm tư liệu tham khảo mặc dù truyền thuyết tổ quê ca trù vốn mù mờ lại có ở nhiều nơi trên đất nước.

Những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật.

Các nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công nhận rằng: những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật, từ những tư tưởng triết học của Platon về cái đẹp tuyệt đối, về những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế, và những lý thuyết cổ điển của Aristote về nghệ thuật, coi nghệ thuật như là một sự sao chép thiên nhiên, đến những tư tưởng tôn giáo của Saint Augustin về quan hệ gắn bó giữa con người và Chúa sinh ra vạn vật; rồi từ những tư tưởng của Descartes về vai trò của chủ thể, đến luận thuyết của Kant về tính chất chủ quan của cái đẹp, v.v..

1. Từ văn chương đến điện ảnh

 

Trước kia, trong nền nghệ thuật kinh điển, các nhà văn thường sử dụng tiếng Latin và tiếng Hy Lạp để sáng tác và trong giáo dục ở lĩnh vực khoa học nhân văn. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ thông tục được đưa vào việc học tập và các nhà văn bắt đầu chuyển sang sử dụng tiếng Pháp, tiếng Anh. Đây cũng là thời kỳ có nhiều chuyển biến đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Theo quan điểm lúc bấy giờ, tác phẩm văn chương được viết bằng tiếng mẹ đẻ mới có thể mang đến sự phản ánh sâu sắc và toàn diện về đời sống văn hoá, xã hội của đất nước. Nhà nghiên cứu người Anh Matthew Arnold đã nói rằng:

 

(Bìa sách "Hồn Trương Ba da hàng thịt - Tuyển kịch Lưu Quang Vũ", nguồn: vnexpress.net)
 
Khi Lưu Quang Vũ bắt đầu nổi tiếng trên kịch trường cũng là lúc nhân loại đã chuyển hẳn sang thời kì hậu hiện đại. Lúc này, yếu tố cá nhân vẫn được xem xét nhưng không còn là những nhân vị hoàn hảo, có thể phán xét và trở thành biểu tượng đơn nhất, độc tôn về thân phận con người. Cá nhân bây giờ là những mảnh vỡ. Họ không thể đại diện cho bất kì ai và ngay chính bản thân họ. Loài người vẫn đang mãi loay hoay tìm kiếm trong vô vọng lời đáp cho ba câu hỏi lớn: Ta là ai? Ta đến từ đâu? và Ta sẽ về đâu?

Sự thành công của Vũ Ngọc Đãng trên màn ảnh nhỏ với hai bộ phim truyền hình “Tuyết nhiệt đới” (phát sóng năm 2006) và “Bỗng dưng muốn khóc” (phát sóng năm 2008) đã tạo ra một lực hút mạnh mẽ kéo khán giả đến rạp vào dịp tết Kỷ Sửu để xem “Đẹp từng centimet” ngay từ ngày khởi chiếu (15/1/2009). Mặc dù vẫn mang lại doanh thu đạt ở mức kỷ lục tại Việt Nam trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua (kinh phí làm phim: 4 tỉ đồng, doanh thu: 10,1 tỉ đồng), trong phim có sự xuất hiện của cặp đôi diễn viên ăn khách hiện nay (Lương Mạnh Hải – Tăng Thanh Hà), bộ phim đã thực sự là một thất bại và đạo diễn Vũ Ngọc Đãng đã không thực hiện được “tham vọng” nối tiếp sự thành công của “Bỗng dưng muốn khóc” bằng 108 phút trong “Đẹp từng centimet”.

Thông tin truy cập

67301744
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1638
9705
67301744

Thành viên trực tuyến

Đang có 538 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website