Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, mục Khuông Việt Đại sư truyện chép: “(Thiên Phúc) thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính, thời Pháp sư Đỗ Thuận diệc hữu thạnh danh, Đế mệnh biến phục vi giang lệnh, nghinh ư Giang Khúc. Giác kiến kỳ thiện ư văn đàm, dĩ thi tặng chi, hữu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” chi cú. Đế dĩ thị sư, đối viết: ‘Thử tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ bất dị’. Giác hoàn, sư tác từ viết Ngọc lang quy tống chi, kỳ từ vân: ‘Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, thần tiên phục đế hương. Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương, cửu thiên quy lộ trường. Nhân tình thảm thiết, đối ly thương. Phan luyến tinh tinh lang, nguyện tương thâm ý vị nam cương, phân minh báo ngã hoàng’ ”.

Hà Tiên là miền đất được mở mang cuối cùng thể hiện ý chí đấu tranh khắc phục thiên nhiên, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Đất nước và con người ở đây trong thế đi lên, tràn đầy sức sống. Vì thế, thơ văn ít bị hạn chế bởi hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến, mà thấm đượm tình quê hương đất nước và ý chí độc lập tự cường của những người lãnh đạo đầy chí tiến thủ và của nhân dân Hà Tiên.

Ngày 6 tháng 10, tại Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam đã diễn ra Hội thảo “Vũ Trọng Phụng trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại” do Hội Nhà văn Việt Nam, phối hợp với Viện Văn học tổ chức.

Đây không phải là lần đầu tiên và cũng không phải là lần cuối cùng, cuộc đời và văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng được nhìn nhận và định vị như một giá trị lớn trong lĩnh vực nhận diện, khám phá và phản ánh hiện thực.

Văn nghệ xin giới thiệu bản tham luận của Giáo sư Phong Lê - trình bày tại Hội thảo.

…Cuộc hội thảo đầu tiên để nhận lại giá trị của Vũ Trọng Phụng được tổ chức vào ngày 12 tháng 10 năm 1989, nhân chẵn 50 năm ngày mất của ông. Vậy là sau 50 năm Vũ mới gỡ được một cái án oan. Nói đúng hơn là 40 năm, nếu tính từ Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc năm 1949, hoặc 30 năm khi cái gọi là Vấn đề Vũ Trọng Phụng chính thức được đặt ra. Cuộc hội thảo do Viện Văn học chủ trì, phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam và Sở Văn hóa Hà Nội, được tổ chức ở Văn Miếu, trong bầu không khí đổi mới đang đi những bước không còn rụt rè sau khởi động là Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm định lại giá trị của Vũ Trọng Phụng, như một sự xác nhận những gì của César phải trả lại cho César; và nhằm giải thích vì sao rơi vào giòng xoáy những tranh luận và quy kết không chỉ về nghệ thuật mà còn là về chính trị và đạo đức, về thế giới quan và nhân sinh quan, trong cả một thời dài, lại rơi vào Vũ Trọng Phụng, chứ không phải là một tên tuổi nào khác trong giòng văn học hiện thực trước 1945. Còn trào lưu lãng mạn thì đã bị chính những đại diện sáng giá của họ như Hoài Thanh, Xuân Diệu từ bỏ ngay từ sau 1945. Có nghĩa là một số phận không suôn sẻ, không may mắn đã rơi vào Vũ Trọng Phụng, người thuộc giòng hiện thực (tức tả chân, tả thực theo cách nói trước 1945), trong khi số lớn những tên tuổi thuộc giòng này đều được xem là bạn đồng minh của văn học cách mạng. Bởi, người ta đã không khó tìm trong tác phẩm của Vũ những nhân tố của chủ nghĩa tự nhiên - được xem như là một bước đi lạc, hoặc làm hỏng, chứ không phải là sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực (như trong văn học phương Tây); và tìm thấy trong một, hai bài báo viết trước 1945, những quan niệm mơ hồ hoặc sai lạc về chính trị. Và thế là Vũ Trọng Phụng bỗng trở thành vừa là tội nhân vừa là nạn nhân trong một cuộc giao tranh về ý thức hệ, về quan niệm nhân sinh và nghệ thuật trong cả một thời dài. Phải chờ đến Đổi mới, thì vị trí của Vũ Trọng Phụng mới được khẳng định như là người “thuộc vào con số ít người có công đầu trong việc làm giàu cho gia tài văn chương Việt Nam hiện đại” như trong Báo cáo khai mạc Hội thảo. Và mục tiêu của Hội thảo là để cho “giới nghiên cứu, sáng tác và bạn đọc tìm về chính Vũ Trọng Phụng - nhà văn, Vũ Trọng Phụng - nhà nghệ sĩ, Vũ Trọng Phụng với thế giới nhân vật cực kỳ sống động, và sự huyền diệu, sắc nhọn của ngôn ngữ tiếng Việt trong văn ông. Để tìm về và đón nhận những gì ông đã đem lại cho văn xuôi hiện đại nói riêng và văn học dân tộc Việt Nam nói chung như một văn mạch xuyên suốt”, chứ không hề có sự đứt đoạn...

*

Ở trên tôi có nói một lịch sử chìm nổi của Vũ Trọng Phụng không phải 50 năm mà là 40 năm. Tức là không phải ngay sau khi ông mất, hoặc ngay sau 1945. Mà là từ sau cuộc Hội nghị tranh luận văn nghệ năm 1949 ở Việt Bắc. Qua những thảo luận khá sôi nổi, cởi mở và tự do lúc này, chúng ta thấy các giá trị văn chương trước 1945 vẫn còn được tiếp nhận, trong đó Vũ Trọng Phụng là tên tuổi được nhắc đến qua ý kiến của Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu.

Xin được lược trích như sau:

Nguyên Hồng: “... tôi không đồng ý là nghệ thuật chép lại thực tại. Không, nghệ thuật phải là sáng tạo. Trong giai đoạn đả phá, tạo đúng cũng chưa toát lên được cái hiện thực. Cái xã hội của Xuân tóc đỏ, của bà Phó Đoan là cái xã hội thối nát, nhầy nhụa làm cho người ta ngấy lên. Tạo Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã có một thái độ không công nhận cái xã hội ấy. Nếu không, Vũ Trọng Phụng dù có tả nguyên xi cái xã hội ấy, chúng ta cũng không lợm. Tả đúng không đủ. Phải có thái độ cách mạng”.

Nguyễn Đình Thi: “Khi nền nghệ thuật tiến bộ cần đánh đổ một trật tự xã hội, một cách sống, công việc chính của nó là vạch rõ bộ mặt thực của cách sống ấy, của xã hội ấy. Một tác giả chép đúng thực tại cũng đã có giá trị cách mạng rồi (ví dụ Balzac, Vũ Trọng Phụng). Nhưng hình thức hiện thực ấy vẫn còn thấp”.

Tố Hữu: “Ta phải phân biệt một hiện thực không dẫn dắt đến đâu cả, chỉ đả phá mà thôi. Tạm đặt cho nó cái tên là hiện thực Vũ Trọng Phụng (...). Lối hiện thực Vũ Trọng Phụng chưa phải là hiện thực xã hội. Vũ Trọng Phụng không phải là cách mạng nhưng cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực xấu xa thối nát của xã hội lúc ấy. Nếu Vũ Trọng Phụng đi vào cuộc đời cách mạng thì anh ta đã thành công”(1).

Như vậy là giá trị hiện thực ở Vũ Trọng Phụng vẫn được khẳng định; và sự hạn chế của Vũ chỉ là ở chỗ chưa vươn đến tả thực mới (tức hiện thực xã hội chủ nghĩa); dẫu theo đánh giá của cả ba, Vũ Trọng Phụng là cây bút hiện thực “có thái độ cách mạng”, hoặc “có giá trị cách mạng” và xứng đáng được “cách mạng cảm ơn”.

Trước đó, trong tạp chí Văn nghệ số 13 (6-1949), Nguyễn Đình Thi cũng đã viết: “Cuộc kháng chiến của ta hiện thời kỳ thực nguồn gốc đã ở bao nhiêu đấu tranh ngày trước. Những đấu tranh ấy trước ngày khởi nghĩa thể hiện trong văn chương thời đó gọi là “tả chân”, sau khởi nghĩa thì tiến lên như sóng. Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, nhất là Vũ Trọng Phụng và các nhà văn nhóm Tự lực: Nhất Linh, Thạch Lam v.v... khi công kích xã hội cũ đều ở chính giữa hoặc bên cạnh cái dòng đi lên của văn chương”.

Thế nhưng chỉ dăm năm sau, trong các cuộc chỉnh huấn tư tưởng cho công chức- cán bộ, thì sự phê phán các độc tố của văn học trước 1945 (tức là những gì liên quan đến chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên và các biểu hiện của chủ nghĩa “suy đồi”), mới diễn ra, cùng với những quy kết gắt gao, những sám hối quá mức chân thành...

*

Nhìn lại lịch sử đánh giá Vũ Trọng Phụng diễn ra sau 1954, có một thời Vũ Trọng Phụng được bàn luận sôi nổi. Thời có những cuốn sách, những bài giảng, những hội thảo, những tranh luận, những khẳng định Vũ Trọng Phụng ở vị trí cao nhất trong giòng hiện thực. Và trong chiều hướng ngược lại, thì sự phê phán cũng khá nặng nề, trên hai phương diện: sự gợi dâm - để tiếp tục câu chuyện “văn chương dâm uế” trước 1945; và sự mơ hồ về chính trị, trong cách hiểu, cách miêu tả người cách mạng, qua nhân vật Hải Vân trong Giông tố mà tác giả hoặc ai đó muốn vận vào người cộng sản. Việc đẩy tới hai cực trong đánh giá Vũ Trọng Phụng, với những khen- chê trái ngược nhau, là có nguyên cớ trong bối cảnh phức tạp của cuộc đấu tranh chống Nhân văn- Giai phẩm, có thể xem là màn dạo đầu cho việc trở lại đánh giá Vũ Trọng Phụng. Phải từ sau 1960 thì “Vấn đề Vũ Trọng Phụng” mới chính thức được đặt ra sau một hội thảo của Viện Văn học, trong tình hình một cuộc đấu tranh ý thức hệ bỗng trở nên gay gắt khi cuộc chiến chống Mỹ là gắn với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong một thế giới chia làm hai phe. Nếu trong chính trị người ta cương quyết “đập cho nát chủ nghĩa xét lại” - như tên một bài báo lúc này, thì trong hoạt động văn chương- nghệ thuật người ta phải hết sức cảnh giác với mọi biểu hiện vi phạm tính Đảng và đi chệch khỏi con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa. Do vậy mà từ đây, với Vũ Trọng Phụng không còn là câu chuyện tả thực hoặc tả thực xã hội mà là câu chuyện chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghĩa tự nhiên. Và vượt ra ngoài các khuynh hướng nghệ thuật còn là câu chuyện chính trị, qua hai bài báo Vũ Trọng Phụng viết vào năm 1937, được phát hiện khá muộn vào đầu 60 mà trở nên thích hợp và thuận lợi cho việc nhận xét thế giới quan và lập trường chính trị ở Vũ. Đó là bài Những việc đáng ghi chép của năm Bính Tý (Tương lai: số 18-2-1937) và Nhân sự chia rẽ giữa Đệ tam và Đệ tứ ta thử ngó lại cuộc cách mạng cộng sản ở Nga từ lúc khởi thủy cho đến nay (Đông Dương tạp chí, in 3 kỳ, tháng 9 và 10-1937). Một bài báo tỏ ra người viết muốn theo sát đời sống chính trị nhưng lại không phân biệt được Đệ tam và Đệ tứ; lại còn nói xấu cả Đệ tam và xúc phạm đến cả Lênin và Staline; trong khi thế giới mới sau Cách mạng tháng Mười ở Nga đang được kiến tạo theo tinh thần của Đệ tam quốc tế dưới ngọn cờ của Lênin. ấy là một cái lỗi nặng về tư tưởng, về chính trị. Dẫu có là vô tình, hoặc ngây thơ về chính trị thì cũng không thể tha thứ... Còn nhớ, vào năm 1937, thời Mặt trận Dân chủ ở Đông Dương, khi Vũ viết bài này thì không xẩy ra chuyện gì gây tranh cãi. Chỉ có chuyện nhóm tơrốtxkit Huỳnh Văn Tài in lại bài Nhân sự chia rẽ... của Vũ vào năm 1939 là năm Vũ chuyển bệnh rất nặng, rồi qua đời.

Tôi sẽ không đi sâu vào hai phương diện này để giải thích và biện minh vì sao Vũ Trọng Phụng bỗng bị lâm vào một tình thế khó khăn, rồi bị quy thành tội trọng trong một thời dài, kể từ sau 1960. Chỉ muốn nói thế kỷ XX trong lịch sử dân tộc đã trải nhiều giai đoạn, với những chuyện, những vấn đề, những yêu cầu đặt ra mà không một bậc tiên tri nào, một đầu óc thông tuệ nào trên các lĩnh vực hoạt động tinh thần mà lường hết được, để mà không mắc... sai lầm. Sa vào những Đệ tứ và Đệ tam, trong phân biệt, hoặc phân hóa của phong trào cộng sản quốc tế hồi 1936-1939, đó là câu chuyện lớn của các sử gia, chính trị gia, chứ đâu phải là chuyện của một người viết văn, nhất là người viết văn như Vũ Trọng Phụng. Sau Đệ tam và Đệ tứ, rồi còn là Đệ tam và Đệ nhị... đó là cả một chuyện dài mà sau các thể nghiệm của nhân loại suốt thế kỷ XX vẫn còn chưa có hồi kết trong toan tính và suy ngẫm của các chiến lược gia thời đại. Đem những vấn đề có tầm vĩ mô như thế mà so với một ít nhận thức mỏng manh, bất chợt, tùy hứng của một người viết văn trong xã hội cũ; một người chọn nghề viết văn để tồn tại, chứ không hề có ý nguyện gì khác; một nhà văn chuyên nghiệp; một người chưa từng được nhận “sự giáo dục của Đảng” như cách ta quen nói trước đây, thì quả là việc dùng dao giết trâu để mổ chim sẻ. Còn vấn đề “dâm hay không dâm” thì trong tranh luận trước 1945 đã là bất phân thắng phụ, bởi số người bênh vực Vũ cũng không ít, và những biện luận của Vũ là khá sắc sảo; còn sau 1945, dẫu nhu cầu giáo dục đạo đức phải đưa lên hàng đầu thì thực tiễn vẫn cứ đi theo con đường của nó, khiến cho người bị dồn vào phía “văn chương dâm uế” là Vũ Trọng Phụng vẫn chẳng là cái đinh gì so với khắp mặt văn chương của các bậc hậu sinh - hậu hiện đại trong nước và thế giới sau này. Hóa ra chặng đường 50 năm, rồi 70 năm của dân tộc và văn chương dân tộc đã trải một hành trình đáng kể trên tất cả các phương diện của sáng tác và tiếp nhận, để đến được với quỹ đạo đích thực của nó. Trên hành trình đó, lịch sử đã có biết bao lầm lẫn, ngộ nhận, khiến cho không ít người viết phải chịu những thất thiệt, hoặc những cái án oan mà Vũ Trọng Phụng lại là một cas tiêu biểu. Điều được an ủi là lúc sinh thời Vũ đã quyết liệt bảo vệ được mình trong sự đồng tình của không ít các đồng nghiệp, chiến hữu - những người rồi sẽ cùng nhau làm một cuộc tiễn đưa Vũ rất mực cảm động vào ngày 13-10-1939, ở Cầu Mới Ngã Tư Sở, không kém cuộc đưa thi sĩ Tản Đà trước đó bốn tháng. Một lễ tang lớn và một số Tao đàn - đặc biệt về Vũ Trọng Phụng vào tháng 12-1939, đủ xác định giá trị và vị thế của Vũ lúc đương thời. Chỉ có điều từ bấy giờ, ở thế giới bên kia, hẳn chắc Vũ sẽ không ngờ suốt nửa thế kỷ sau khi qua đời những gì mình viết ra sẽ phải chịu nhiều phán xét như thế, do từ trường chính trị và yêu cầu của đấu tranh tư tưởng nhằm giải quyết triệt để vấn đề Ai thắng ai, khiến cho một bài báo bâng quơ về thời sự bỗng trở thành nguyên cớ chính gây nên tai nạn, và một ít đặc tả hoặc lý thuyết về quan hệ nam nữ và tính dục, do chịu ảnh hưởng ít nhiều học thuyết Freud bỗng trở thành nguy hại cho việc giáo dục con người mới, theo yêu cầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Còn bây giờ, kể từ thập niên cuối thế kỷ XX, khi quan niệm nghệ thuật đã được trả về cho chính nó, mà bớt đi sự ràng buộc với quan niệm chính trị và đạo đức vốn có truyền thống rất dài và rất đậm ở phương Đông; và khi chính bản thân quan niệm chính trị và đạo đức cũng thay đổi một cách nhanh gấp theo thời cuộc thì vấn đề Vũ Trọng Phụng sẽ chẳng còn gì là căng thẳng, là gay cấn trong các mối quan tâm của người đọc.

*

Kể từ 1989 trở đi Vũ Trọng Phụng đã trở lại vị trí một gương mặt tiêu biểu và xuất sắc trong trào lưu văn học hiện thực nói riêng và văn học hiện đại nói chung. Từ đây là việc tái bản đầy đủ các tác phẩm, và sự xuất hiện lần lượt các Tuyển tập và Toàn tập; là các hội thảo và kỷ yếu; là chuyên khảo và luận án, luận văn về Vũ Trọng Phụng; là việc đặt tên đường, và xây nhà tưởng niệm... Nếu được chọn dăm sáu người, hoặc vài ba người tiêu biểu nhất cho giòng hiện thực trước 1945 thì phần tôi, không thể thiếu Vũ Trọng Phụng. Bởi giá trị nhận thức mà ông đem đến qua tác phẩm là những gam màu chói gắt, những đường nét sắc nhọn nhất trên bức tranh với nhiều góc khuất của hiện thực xã hội cũ. Những góc khuất được Vũ soi tìm qua rất nhiều phóng sự, khiến cho ông từng được vinh danh là “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Tất cả những gì được gọi là tệ nạn, hoặc ung nhọt xã hội qua khảo sát và nhận diện của Vũ như cờ bạc, hút xách, tiêm chích, mãi dâm, buôn người... đã lùi sâu vào lịch sử ngót một thế kỷ, thế mà không hiểu trời xui đất khiến như thế nào bỗng trở lại gần như nguyên vẹn trong hiện thực hôm nay với quy mô và hiểm họa còn lớn gấp nhiều lần... Nhìn đời với cảm quan chua chát, thất vọng, hoài nghi, nói Vũ Trọng Phụng trước hết là nói đến một tiếng chửi vỗ mặt vào những gương mặt đại diện của xã hội cũ với bao khinh ghét và căm phẫn, khiến cho mỗi cảnh đời, hoặc mỗi hình tượng, mỗi biểu tượng nhà văn đưa ra đều gây nên rất nhiều ám ảnh cho người đọc. Cùng với tiếng chửi trong đối mặt với một xã hội “chó đểu”, như trong Giông tố, còn là một chuỗi cười dài, rất dài, với rất nhiều âm vực và giọng điệu nơi Số đỏ, về cảnh và người một thời nhố nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông của Hà Nội cũ. Thiên kiệt tác về một gã ưa may chó ngáp phải ruồi này quả là có sức sống thế kỷ; nếu thiếu nó thì làm sao mà hình dung được một khái quát nghệ thuật tuyệt vời đến thế về trò đời và nhân thế, ở bất cứ đâu, và vào bất cứ thời nào. Cái sức khái quát luôn luôn sống động, đến như sờ mó được trong những chân dung thực của một thời - Hà Nội, và cũng không riêng Hà Nội: những cụ cố Hồng, bà Phó Đoan, cậu Phước - Em chã, ông Tipphờnờ... nơi Hàng Ngang, Hàng Đào, hoặc Tràng Tiền, Tràng Thi...; những lang Tỳ, lang Phế ở Thuốc Bắc, Lãn Ông; những thầy Minđơ, Mintoa trên những lộ trình dọc dài các đại lộ nội thành; những sân quần xem ra còn phảng phất hình tích biết bao Xuân tóc đỏ.

Chỉ với 27 năm tuổi đời và trên dưới 10 năm tuổi nghề thế mà Vũ Trọng Phụng đã để lại một khối lượng có thể nói là đồ sộ các tác phẩm trên nhiều thể loại, gồm 11 tiểu thuyết, 4 phóng sự dài, 2 vở kịch dài cùng nhiều chục truyện ngắn, vở kịch, bút ký, tiểu luận, bản dịch... Có năm như năm 1936, ở tuổi 24, Vũ đồng thời cho in trên báo bốn tiểu thuyết lớn và một phóng sự dài, trong đó có những tác phẩm xứng đáng vào hàng kiệt tác trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đó là một kỷ lục viết không chỉ người đương thời mà cho đến nay chắc chắn chưa có ai sánh bằng. Từ đó mà suy, giá trời cho Vũ một cơ thể khỏe mạnh và một tuổi thọ dài, ít ra cho đến ngoài 50, thì có lẽ số trang, số quyển của Vũ cũng chẳng kém gì Balzac - người thường được dẫn ra khi nói đến Vũ. Tất nhiên đây chỉ là một giả định cho vui, vì còn phải xét đến sự chi phối, thậm chí là quyết định, của hoàn cảnh... Cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là người khai mở và giành ưu thế tuyệt đối cho trào lưu hiện thực vào nửa sau những năm 30, với những gương mặt rất khác nhau, trong sự kế tục nhau, để có Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, rồi Tô Hoài, Nam Cao... mà làm nên những mùa màng thật ngoạn mục cho văn học 1930-1945. Với Vũ Trọng Phụng, những dấu ấn mà ông để lại cho văn học Việt Nam là cực kỳ đặc sắc. Cho đến hôm nay, sau bao thăng trầm của lịch sử, và chìm nổi của bản thân, Vũ Trọng Phụng vẫn còn đấy, tác giả của Giông tố, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô...; người khai sinh và đem lại sự bất tử cho những Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, Thị Mịch, bà Phó Đoan, cụ cố Hồng, “Em chã”...

Bất chấp một tuổi đời quá ngắn ngủi trong nghèo túng, bệnh tật; vượt thoát ra khỏi giới hạn lịch sử 1945, văn phẩm Vũ Trọng Phụng mang trong nó giá trị thế kỷ, bởi sự nhận diện sắc nét gương mặt xã hội, qua biết bao là chân dung con người - gồm cả phần con và phần người; bởi sự soi sáng những vấn đề lớn của dân tộc và số phận của nhân dân, trên một hành trình dài hướng tới sự thật, gắn bó với sự thật, không có gì khác ngoài sự thật, tìm chân lý trong sự thật, nhằm vào mục tiêu nhân đạo hóa hoàn cảnh và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Thái Hà 17 - 20/10/2009

Tạp chí Văn nghệ, số 17-18; tháng 11 và 12-1949. Biên bản Nguyễn Huy Tưởng ghi.

Nguồn: http://hnv.vn/News.Asp?Cat=28&SCat=&Id=2015

42 năm ngày mất Đông Hồ
Đông Hồ (1906 – 1969) là một tác gia lớn ở miền Nam, đã làm thơ từ những năm 20 cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Ở Nam kỳ, nói đến thơ người ta nghĩ đến Đông Hồ, cũng như nói đến tiểu thuyết người ta nghĩ ngay đến Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958). Không chỉ sáng tác thơ, Đông Hồ còn viết văn xuôi và nghiên cứu văn học. Ngoài ra ông lại là nhà thư pháp chữ quốc ngữ và là nhà giáo. Ông từng làm giáo học, từng lập Trí Đức học xá để dạy quốc văn và vào cuối đời dạy văn học Hà Tiên ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ở mỗi lĩnh vực, Đông Hồ đều có những điểm đáng nói. Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của Đông Hồ, tôi muốn nhìn lại ông như là nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học.
Trước hết, về thơ, cũng như các nhà thơ khác trước 1932, Đông Hồ làm thơ Đường luật. Bài lệ ký Linh Phượng khóc vợ của ông đăng trong tạp chí Nam Phong số 128 tháng 4 năm 1928, có nhiều bài thơ, đáng kể là bài Khóc Linh Phượng:
                Chăn gối cùng nhau những ấm êm
                Bỗng làm ngọc nát bỗng châu chìm.
                Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm
                Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm
                Hình dạng mơ màng khi thức ngủ
                Tiếng hơi quanh quẩn nét y xiêm.
                Bảy năm vui khổ nghìn năm biệt
                Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm.

Đối với chúng ta ngày nay, những dụng ngữ xưa cũ như chăn gối, ngọc nát, châu chìm, đầm đìa giọt thảm, khi thức ngủ, nếp y xiêm, sớm gió, chiều mưa làm cho bài thơ có tính sáo mòn và ước lệ. Tuy nhiên, trong lề lối ràng buộc của thơ cũ và ở thời điểm sáng tác của nó, bài này có lời thơ lâm ly và trang nhã, làm cảm động lòng người. Nhà văn Thượng Chi đã so sánh Linh Phượng ký khóc vợ của Lâm Trác Chi với Tế thập nhị lang văn khóc cháu của Hàn Thoái Chi tức Hàn Dũ đời Đường. So sánh như vậy không tương xứng, nên ít ai tán đồng. Thường thì người ta so sánh bài lệ ký Linh Phượng của Đông Hồ với một tác phẩm ra đời xấp xỉ đồng thời là bài văn xuôi pha biền ngẫu Giọt lệ thu (viết năm 1923, đăng báo Nam Phong số 131 tháng 7 – 1928) khóc chồng của nữ sĩ Tương Phố.
Năm 1932, năm khởi đầu của phong trào thơ mới, ông xuất bản tập Thơ Đông Hồ, trong đó có nhiều bài đã đăng ở tạp chí Nam Phong. Nói chung, những bài trong tập này vẫn giữ đặc điểm cố hữu là lời trang nhã với chữ sáo và ý cổ. Đông Hồ đã có người bạn đời mới, nhưng bài Tục huyền cảm tác của ông vẫn nhuốm màu sắc ảm đạm với giọng thơ ai oán như trong Linh Phượng ký:
                Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,
                Nhà độc thê mực vẩy lệ sầu
                Gió mưa hai độ xuân thu,
                Khắp trông non nước toàn màu thê lương.
Thế mới hay con tim nhà thơ vẫn còn chỗ dành cho người vợ cũ vắn số.
Bài hay nhất trong tập Thơ Đông HồTuổi xuân, sau tác giả lại đưa vào tập Cô gái xuân. Đây là bài thơ ngũ ngôn tự sự, có cả đối thoại, dài 100 câu, nhiều đoạn rất đặc sắc:
              Này anh: buổi thư nhàn
              Em dạy anh học đàn.
              -    Học đàn khó! – Đâu khó!
              -    Chỉ đôi tiếng nhặt khoan!…”
             Khoan nhặt đôi đường thơ
             Lay động đôi lòng tơ
             Gảy nên khúc Tình ái
             Khúc dứt, lòng ngẩn ngơ
             Buông bắt trên tơ trúc
            Nhìn em năm ngón ngọc
            Năm búp măng nõn nà
            Mãi nhìn, đàn chửa thuộc…

Có thể nói, Tuổi xuân là một bài thơ mới lạc bước vào vườn thơ cũ. Đọc bài này, người ta không thể không liên tưởng đến những bài ngũ ngôn tự sự Giận nhau, Em đương thêu của Nguyễn Xuân Huy (1).
Sau tập Thơ Đông HồCô gái xuân (1935). Tập thơ này tuy vẫn giữ vần điệu trang nhã của thơ cũ, nhưng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thơ mới. Bài Cô gái xuân có những đoạn cực tả sự hồn nhiên, ngây thơ của một thiếu nữ xuân thì, chẳng hạn:
            Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
            Lòng cô phất phới biết bao tình.
            Vội vàng để vở bên bờ cỏ
            Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
            Áo trắng khăn hồng gió phất phơ,
            Nhẹ nhàng vui vẻ nét ngây thơ.
           Trông cô hớn hở như đàn bướm
           Thong thả trời xuân mặc nhởn nhơ.

Bài Mua áo có những câu tả tình yêu một cách bóng bẩy mà táo bạo. Nàng nhờ  chàng mua áo, chàng hỏi kích thước. Nàng trả lời vừa ý nhị vừa âu yếm, không giữ gìn, cũng không e thẹn:
            Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
            Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
             Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
            Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

Một bài khác nữa cũng rất tình tứ là bài Bốn cái hôn. Đây là lời một cô gái xuân nói lên cảm giác của nàng về cái hôn của mẹ, của cha, của cô giáo và của người yêu. Trong khung cảnh trăng nước thơ mộng, cái hôn của người yêu khiến cô gái xuân rung động đến tột độ. Cảnh ấy, tình ấy được nói bằng thứ ngôn ngữ tình tự, lãng mạn, có chiều lả lơi mà vẫn trong sáng:
            Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,
            Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.
            Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,
            Cùng anh trao đổi tình ái ân.
            Khoác tay anh đi trên bãi cát
            Cát bãi trăng soi màu trắng mát.
            Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,
            Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.
            Nước mây êm ái bóng trăng sao,
            Say sưa em nhìn lên trời cao,
            Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió.
            Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao.
            Một hơi thở mát qua, dịu dàng,
            Như cơn gió biển thoảng bay ngang,
            Rồi luồng điện ấm chạm trên má:
            Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng.
            Nũng nịu, em ngả vào lòng anh

Đọc bài này, Hoài Thanh nhận định: “Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng” (2).
Đông Hồ còn tiếp tục sáng tác thơ cho đến những năm cuối cùng của đời ông và vẫn giữ lề lối cũ: tứ thơ cổ kính được chuyển tải bằng những lời trang nhã, trau chuốt. Chúng ta thử đọc thêm một đoạn trong bài Lòng quỳ hoa cúc, một trong những bài thơ cuối cùng của thi sĩ, làm năm 1968:
           Ngày xuân vắng ánh trời hồng
           Còn đây hoa cúc thay lòng hướng dương
           Mỹ nhân hề thiên nhất phương
           Gặp nhau đây tám nẻo đường chiêm bao
           Mây êm nước lặng nhàn phiêu lãng
           Hoa rụng chim kêu bướm cảm hoài
           Khi biệt dễ dàng khi gặp khó
           Chốn vui ai nhớ chốn sầu ai.

Ngoài sự nghiệp sáng tác, Đông Hồ còn để lại vài công trình nghiên cứu: Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong 107 tháng 7/1926, số 143 tháng 10/1929), Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên (Nhà xuất bản Quình Lâm, Sài Gòn, 1970).
Hà Tiên Mạc thị sử là một tập biên khảo lịch sử, địa chí, văn học rất công phu về họ Mạc ở Hà Tiên, những người đã có công khai phá, mở mang và xây dựng vùng cực nam của đất nước thành một nơi trù phú, văn vật. Mặt khác, tập biên khảo này còn cung cấp cho chúng ta những tài liệu văn học quí báu về nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên. Đánh giá công trình này, Lê Chí Dũng viết: “Có thể ghi công cho Đông Hồ về mặt sưu tầm, khảo cứu văn liệu: tập Hà Tiên Mạc thị sử nói về nhóm Chiêu Anh Các và thơ của nhóm này giúp người nghiên cứu có tài liệu về văn học buổi sơ khai tận cùng phía Nam đất nước, khẳng định sự thống nhất của văn học và văn hóa dân tộc Việt Nam” (3).
Năm 1970, để tưởng niệm Đông Hồ nhân lễ giỗ đầu của nhà thơ, nữ sĩ Mộng Tuyết đã làm một việc rất có ý nghĩa là tập hợp những bài giảng của Đông Hồ ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, nơi ông đã ngã xuống trong lúc đang giảng dạy, cho ấn hành thành tập Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên. Có thể nói công trình biên khảo này là kết quả của việc tiếp tục nghiên cứu tường tế hơn vấn đề ông đã làm với Hà Tiên Mạc thị sử 40 năm trước. Nhan đề là “Văn học miền Nam” nhưng thực ra chỉ là văn học Hà Tiên, và nói cho chính xác thì chỉ là văn học của thi phái Chiêu Anh Các. Phần nghiên cứu tính cách đặc thù của văn học miền Nam, đất nước Hà Tiên, các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của thi phái Chiêu Anh Các rất công phu. Phần dịch thơ chữ Hán ra văn xuôi sát nghĩa, chú thích thành ngữ, điển tích rõ ràng, những bài dịch thơ lột tả được tình ý nguyên tác, đúng niêm luật, đối rất chỉnh, lời thật đẹp.
Hai công trình sưu tầm, nghiên cứu kể trên là những cống hiến quí báu của Đông Hồ vào việc tìm hiểu lịch sử, đất nước và văn học Hà Tiên buổi đầu mới khai phá, mở mang, đồng thời cũng biểu lộ tình yêu quê hương sâu đậm của tác giả.
Là nhà nghiên cứu, Đông Hồ làm việc cẩn thận, nghiêm túc và hoàn thành được những công trình có giá trị. Nhưng con người nghiên cứu của ông lu mờ bên cạnh con người thơ. Đông Hồ trước sau vẫn là một thi nhân, hay đúng hơn, một thi gia tài hoa, giàu tình cảm, nhất là tình cảm uỷ mị. Ngay cả lúc ông ngã xuống trong một giảng đường đại học, ông cũng đang ngâm dang dở một bài thơ. Thơ ông và con người ông là một. Ông trau chuốt lời thơ cũng như ông cẩn thận trong cách ăn mặc. Thơ ông thanh tao, người ông nho nhã và có dáng vẻ một tao nhân mặc khách, dù ông mặc complet hay quốc phục. Một đời làm thơ, Đông Hồ có một vị trí quan trọng, nổi bật trên thi đàn.


CHÚ THÍCH
1.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb. Thiều Quang, Sàigòn, 1967, tr. 351- 353.
2.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, sđd, tr.337.
3.    Từ điển văn học, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1983, tr 26.

 

Trước khi vùng vẫy tung hoành trên sân khấu, Lưu Quang Vũ đã được biết tới như một người làm thơ. Ấy là một nhà thơ thuộc loại bẩm sinh, dễ dàng giãi bày mọi vui buồn của mình trên trang giấy. Những lúc mở lòng ra chan hoà tâm tình với người thân, với bè bạn, với cuộc đời, anh đã có thơ; những lúc buồn bã quay về một mình đơn độc, anh lại cũng chỉ có cách tìm tới thơ để tự an ủi. Nhất là khoảng từ đầu những năm 1970 trở đi, trong khi cuộc đời đa đoan phiền phức của mình gặp nhiều khó khăn, Vũ đã làm thơ như ghi nhật ký, làm khá nhiều. Vì những nguyên cớ khác nhau, các bài thơ hồi đó chưa được công bố, nhưng một số vẫn được ghi trong sổ tay và nhất là đi về trong trí nhớ của bè bạn.

Nói đến Đông Hồ, không thể không nói đến Mộng Tuyết, người bạn đời và cũng là người bạn thơ của thi sĩ. Cô học trò đặc sắc hơn cả của Trí Đức học xá đã bị bóng dáng đồ sộ của ông thầy che khuất. Và hình như nàng Úc cũng khiêm tốn và tự nguyện nép vào cái bóng ấy, tự nguyện làm người điểm xuyết cho người thầy, người anh mà mình hết mực yêu kính:

 

                      Còn anh em chẳng làm thơ

 

                      Có anh là sống giấc mơ tuyệt trần

 

                      Yêu anh tự kiếp tiền thân

                      Gặp anh biết có được gần kiếp sau.

TRẦN THỊ PHƯƠNG PHƯƠNG (*)

Trong quá trình phát triển, văn học của mọi dân tộc đều không thể nào tránh khỏi những sự giao lưu và ảnh hưởng của văn học các dân tộc khác, nhất là ảnh hưởng của những nền văn học tiên tiến. Quá trình hiện đại hoá trong văn học văn học Viêt Nam, theo chúng tôi, cũng là quá trình hình thành và phát triển hai trào lưu văn học chủ đạo là chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực – những trào lưu mà ở phương Tây phát triển vào thế kỷ XIX.

1. Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật mới về con người, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã xây dựng được những nhân vật có tính cách phức tạp, đầy bí ẩn. Những con người ấy chỉ thật sự “sống như đời sống” khi được đặt trong những mối quan hệ phức tạp, đan ken với người khác. Đó có thể là những quan hệ “đồng thuận” hoặc “nghịch chiều”. Nhưng dù “thuận” hay “nghịch”, đối tượng quan hệ cũng sẽ cho một “góc chiếu” nhất định về nhân vật. Tuy nhiên, theo Bakhtin: “Ở con người bao giờ cũng có một cái gì đó mà chỉ bản thân nó mới có thể khám phá bằng hành động tự do của sự tự ý thức và của lời nói, điều này không thể xác định được từ bên ngoài, từ “sau lưng” con người” (1). Vì vậy, các nhà văn đã để cho nhân vật tự “chiếu sáng từ bên trong” (3). Nhờ vậy, những bí ẩn trong tâm hồn nhân vật được thấu tỏ và nhân vật hiện lên trọn vẹn hơn, “người” hơn. Chúng tôi xem đây là một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong xây dựng nhân vật của tiểu thuyết thời kỳ này.

                                                                                                Trần Ngọc Hồng(*)

 

 

 

 1. Vào những năm đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã chuyển mình từ quỹ đạo trung đại sang hiện đại. Điều này gắn liền với nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quan điểm văn học, tư duy nghệ thuật, sự phát triển của thể loại ngôn ngữ, văn tự v.v. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến vai trò của ý thức cá nhân trong buổi đầu của sự hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đây cũng là điều liên quan đến một vấn đề quan trọng  bậc nhất trong bản chất của văn học là quan niệm nghệ thuật về con người.

I

 

Nhìn lại bước đi và thành tựu của văn học Quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, quả thật khó ai quên được Nguyễn Chánh Sắt. Ông là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu nhất hồi đó, có đóng góp đáng kể vào việc nối liền hai bờ văn học cổ điển và văn học hiện đại ở Việt Nam.

1/- Khái niệm hiện đại gắn liền với một thời đại mà nền văn minh công nghiệp đã, đang và sẽ thay thế hoàn toàn nên văn minh nông nghiệp. Đó là một xã hội của nền kinh tế hàng hóa với sự phát triển mạnh mẻ của đô thị, của cơ khí hóa, cơ giới hóa cùng sự hình thành của các giai cấp tầng lớp mới như: vô sản, tư sản, tiểu tư sản, tri thức tiểu thị dân… Xã hội đó đã thật sự từ buổi đầu thế kỉ XX. Nó gắn liền với cảm hứng khẳng định con người cá nhân và sự phát triển của chữ quốc ngữ trong nền văn hóa dân tộc.

 

Như vậy vào đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã chuyển mình từ quỹ đạo trung đại sang hiện đại. Và từ đó, dần dần hiện lên bộ mặt của nền văn học hiện đại Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Bằng Giang trong Sài Gòn cố sự cho rằng “tính đến năm 1930, văn học quốc ngữ Nam Kỳ có non 20 tác giả nữ còn để lại tác phẩm in thành sách”, nhưng “các tác giả trên không để lại một tiếng vang nào ngoại trừ Phan Thị Bạch Vân, chủ nhân Nữ lưu thơ quán ở Gò Công”[1].

1. Phiên dịch đóng vai trò rất quan trọng trong một nền văn hoá. Qua lịch sử phiên dịch, có thể nhận ra những đặc điểm cơ bản của một nền văn hoá trong quá trình phát triển lịch sử của nó. Tuy vậy, vai trò của phiên dịch không giống nhau trong từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của một nền văn hoá.

Văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là một giai đoạn văn học mang tính chất giao thời, bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây nhưng đồng thời vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu đậm từ nền văn học Trung Hoa. Văn học Nam Bộ cũng không thoát khỏi tình cảnh ấy, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, địa lý, văn học Nam Bộ cũng có những đặc điểm riêng, như ở mảng văn học dịch chẳng hạn.

 

 

Hồ Biểu Chánh, nhà văn có thể xem như là Balzac của Nam Bộ, trong hồi ký Đời của tôi về văn nghệ đã cho rằng có ba tác phẩm ảnh hưởng nhiều đến việc chuyển hướng sáng tác của ông. Đó là Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên Trung (tức Gilbert Trần Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản(1).

      Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở  đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng , cũng là cuốn tiểu thuyết đăng nhiều kỳ  trên báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực văn đoàn được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên tạo ra một uy tín lớn cho tờ báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực văn đoàn , khích lệ các nhà văn của nhóm sáng tác , và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã giành được vị trí hàng đầu trong phong trào văn học trong một thời gian dài ; cho đến nay , âm vang của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn vẫn còn đọng trong ký ức độc giả , trong đó , được cảm tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân cách văn hoá lớn, một nhà tư tuởng - triết học lớn, một đại thụ bao trùm bóng mát cả vườn cây văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Ông là người có khả năng “huyền cơ tham tạo hoá” (nắm được cái lẽ huyền vi của tạo hoá) như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có ngợi ca; là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở” như Phan Huy Chú đã xưng tụng. Văn chương của ông “không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà có nhiều vị” (…) “như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy” mà Vũ Khâm Lân đã nhận định trong bài Phả ký; “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên” như Phan Huy Chú đã bình trong Văn tịch chí ở sách Lịch triều hiến chương loại chí. Ông sống gần trọn thế kỷ XVI, đã chứng kiến những cảnh tranh giành xâu xé giữa các tập đoàn phong kiến bấy giờ, hết Lê - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn. Nếu trừ khoảng 8 năm ông ra làm quan cho nhà Mạc tại triều đình trung ương thì thời gian còn lại ông đều sống ở quê nhà (44 năm trước khi xuất chính và 44 năm sau khi cáo quan về vườn), nhờ thế mà ông có dịp gần gũi nhân dân, thấu hiểu dân tình khốn khổ trong cảnh binh đao. Đây cũng là một trong những yếu tố hình thành tư tưởng thân dân của Tuyết Giang phu tử, với tấm lòng ưu thời mẫn thế, tiên ưu hậu lạc đến già vẫn không nguôi, đúng như Vũ Khâm Lân đã viết: “Tuy ở nhà 44 năm mà không ngày nào quên đời, lòng ưu thời mến tục đều bộc lộ trong thơ” (Phả ký). Ông sống trên đất nhà Mạc, giữa thời chiến tranh tao loạn, vậy mà vẫn đứng vững như cây tùng, cây bách trong giá rét mùa đông; giữa những bão táp biến động của thời thế. Không chỉ thế mà lúc bấy giờ các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn đều nể vì, kính ngưỡng ông; họ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách phái những thủ túc thân cận đến cầu kiến ông, xin những lời mách bảo của ông về thời cuộc. Bao trùm lên cuộc đời ông, đã có nhiều câu chuyện lưu truyền trong dân gian với những giai thoại khá lý thú mà các cụ ngày trước đã từng chép lại trong các sách như Sấm Trạng Trình, Phả ký chẳng hạn. Bài viết nhỏ này sẽ đặt vấn đề bàn lại những gì mà các bậc tiên Nho đã viết xung quanh các mối quan hệ giữa Bạch Vân cư sĩ với Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan.

Khi nghĩ về Hoài Thanh, bao giờ trong tôi cũng hiện lên hình ảnh một ông già cao gầy, móm mém, đi lại, nói năng hết sức nhẹ nhàng. Trong con hẻm nhỏ của đường Nguyễn Hữu Cảnh, Tân Định, buổi chiều năm 1980, anh Huỳnh Như Phương và tôi được diện kiến Hoài Thanh, ngồi chuyện trò cùng ông chừng vài chục phút, trong không gian yên tĩnh mà ân cần đến cảm động của đôi vợ chồng già quấn quýt nhau.

Thông tin truy cập

60796167
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
15668
24669
60796167

Thành viên trực tuyến

Đang có 302 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website