Ly Hoan Thuc TramLý Hoàn Thục Trâm, sinh năm 1971 tại Vĩnh Long. Học chuyên ngành Văn học, Khoa Ngữ văn và Báo chí, khoá 1989 - 1993. Thạc sĩ Ngữ văn. Công tác tại Phòng Đào tạo trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM. Hiện đang là NCS chuyên ngành Văn học so sánh tại Hoa Kỳ.

           
Nếu tiểu thuyết Việt Nam những năm 60 – chủ yếu là những tác phẩm viết về chiến tranh -  đã phần nào đáp ứng được sự mong mỏi của số đông bạn đọc; thì những tác phẩm văn xuôi của những năm 70 chính là nối tiếp dòng chảy của những năm 60.  Cùng với các tác giả Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hồ Phương, Đào Vũ, Thu Bồn, Lê Văn Thảo, Chu Lai, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy… ; cây bút Nguyễn Minh Châu đã thực sự nhập cuộc, dấn thân. Với những trăn trở “những thế hệ về sau sẽ lần lượt đến soi mình xuống cái khúc lịch sử của những người đương thời chúng ta để tìm ra những bài học quý báu cho họ” [03; tr. 41], “người  viết trẻ bên cánh rừng già” đó đã tâm niệm: “người viết trước hết nên thành thực với mình tức là thành thực với người đọc. Những chủ đề lớn lao bao giờ cũng đòi hỏi một sự trình diện giản dị và cô đúc” [03; tr. 41].  Và “Dấu chân người lính” ra đời chính là sự “thành thực với mình - với người đọc” như chính bản thân tác giả Nguyễn Minh Châu vậy.
Là tác phẩm gắn bó với  một chuyến đi, từ năm 1969 đến năm 1972, “Dấu chân người lính” mới ra mắt bạn đọc. Đi với các đơn vị chủ lực, xuống tận đại đội chiến đấu, nghe chuyện của các chiến sĩ, các cán bộ lãnh đạo, dự tổng kết chiến dịch v.v. Hiện thực cuộc chiến đuợc ghi lại trong tác phẩm hầu như nguyên vẹn, trung thành. Nguyễn Minh Châu đã gắn ngòi bút của mình vào mảng đề tài được coi là sôi động nhất trong nền văn học cách mạng Việt Nam: đề tài chiến tranh và quân đội. “Dấu chân người lính” đã làm sống lại những chặng đường hành quân và cuộc chiến đấu anh dũng của những người lính Trung đoàn 5. Từ những ngày đầu chuẩn bị chiến dịch cho đến những chặng đường hành quân gian khổ và cuối cùng là cuộc tổng tấn công khép chặt vòng vây ở thung lũng Khe Sanh, những người lính trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã trải dài bước chân họ trên khắp chiến trường. Sau cuộc đổ quân của lữ đoàn Kỵ binh bay nhằm mục đích giải vây của quân lực “Việt Nam cộng hoà” thất bại, quân Mỹ lâm vào thế bí và đang đứng trước nguy cơ có thể bị tiêu diệt hoàn toàn. Trung đoàn 5 sau một thời gian củng cố vaa2 bổ sung quân lại tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu. Bao dấu chân của chính uỷ Kinh,  của Khuê, Lữ, Thái Văn , Cận … để lại trên bước đường hành quân cũng là bao nhiêu ngày những người lính phải đối mặt giữa sự sống và cái chết, cái cao cả – thấp hèn, lý tưởng chiến đấu và hiện thực cuộc sống khắc nghiệt. Bút pháp trữ tình, giàu lý tưởng được phát huy đến mức tối đa nên vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ cầm súng được tác giả khắc hoạ một cách đậm nét. Đó là những người lính – người chiến sĩ cầm súng – mà nét đẹp của họ đã trở thành hình tượng trung tâm của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung, của Nguyễn Minh Châu nói riêng.
Bài viết này thử tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người dưới góc độ thi pháp học.
1. Vài nét về “Quan niệm nghệ thuật về con người” trong tác phẩm văn học:
Là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học, quan niệm nghệ thuật về con người hướng chúng ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học. Vì “văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất cụ thể” [19; tr. 23]. Nhà văn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan niệm nghệ thuật này thể hiện một cách nhìn, một cách tiếp cận, cách lý giải về con người . Chính vì “nhà văn sáng tạo ra nhân vật, kể ra, miêu tả ra nhân vật và nhân vật bao giờ cũng hiện ra theo cách hình dung, cảm nhận của tác giả” [20; tr. 28], nên  “quan niệm nghệ thuật về con người sẽ trở thành hình thức chủ nghĩa thuần túy nếu như nó không phục vụ làm cho những chủ đề xã hội, triết lý càng thêm sâu sắc và có ý vị đậm đà” [20; tr. 41].  Quan niệm nghệ thuật về con người gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, gắn liền với sự vận động của lịch sử.
Từ quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam đến quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mỹ là một bước đi dài. Nếu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học cổ điển Việt Nam là con người vũ trụ, con người của chí khí, của tấm lòng, “con người thứ bậc” ( Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng. Một tiếng kêu vang lạnh cả trời. Ngôn hoài - Dương Không Lộ); thì con người trong văn học kháng chiến chống Pháp là con người tập thể. Đó là những con người trong sáng, vô tư, hy sinh vì lý tưởng. Họ sẵn sàng từ giã gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Đó cũng chính là con người tập thể – chuyển hoá. Vì con người trong văn học kháng chiến chống Pháp được miêu tả như những đám đông “Lũ chúng tôi. Bọn người tứ xứ. Gặp nhau hồi chưa biết chữ. Quen nhau từ buổi một hai” (Nhớ – Hồng Nguyên), nên “tâm lý con người trong văn học kháng chiến là tâm lý tập thể, con người sẵn sàng làm theo yêu cầu chung, yêu cầu chung thành cảm xúc riêng của mình [19; tr. 34].  Bước sang những năm 60 - 70, hiện thực cuộc kháng chiến thời chống Mỹ đã quy định đề tài trung tâm và các nhân vật trung tâm của nền tiểu thuyết hiện đại. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn học xuất hiện khác hơn, mới lạ hơn: con người xả thân. Con người trong văn học chống Mỹ ý thức rất rõ về sự xả thân vì sứ mệnh lịch sử của mình.
2.  Quan niệm nghệ thuật về con người -  nhân vật người chiến sĩ - trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu:
2.1 Nhân vật là con người – xã hội  được nhà văn tiếp cận theo khuynh hướng sử thi:
“Con ngươi trong tiểu thuyết sử thi là những con người mang trong mình kích thước lớn lao của lịch sử, tiêu biểu cho vẻ đẹp của dân tộc và cộng đồng. Đó là những con người mang trong mình lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của tổ quốc” [10; tr. 65].
Hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ vì độc lập tự do, vì sự sống còn của dân tộc Việt Nam là hiện thực lịch sử nổi bật. Hiện thực cách mạng đó vừa là nguồn cảm hứng vô tận của người cầm bút, vừa là điều kiện thuận lợi cho văn học nẩy sinh và phát triển. Nói theo Nguyễn Minh Châu, hiện thực sinh động ấy ví như  “cây khộp và cây phong lan như cái phần trần trụi cực nhục và cái phần thanh nhàn của người đời và cuộc đời, nó cũng là cái phần hiện thực nghiêm ngặt và chất lãng mạn của văn học” [03; tr. 39]. Chính vì nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là một nền văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu; một nền văn học hướng về đại chúng, trước hết là công nông binh; một nền văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nên nhân vật người chiến sĩ  trong “Dấu chân người lính”  được nhà văn tiếp cận theo khuynh hướng sử thi rõ nét nhất. Sống giữa những ngày chống Mỹ, nối tiếp truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam; cái nền hiện thực của cuộc kháng chiến đã là cơ sở để những người chiến sĩ – con người – xã hội  xuất hiện một cách giản dị mà đẹp đẽ, hùng tráng. Người chiến sĩ  trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu là những nhân vật trung tâm nhân danh cộng đồng. Đó là những con người “gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng”, là “những nhân vật trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại, chứ không phải đại diện cho cá nhân mình” [14; tr. 194]. Được  tiếp cận theo khuynh hướng sử thi, hình ảnh người lính Trung đoàn 5 cũng là hình ảnh người chiến sĩ Việt Nam.
“Mang âm hưởng anh hùng được quy định bởi bản chất của toàn bộ nền văn học đương thời là tập trung miêu tả cái “anh hùng”” [21; tr. 120], không khí sống động những ngày hành quân của Trung đoàn 5 được Nguyễn Minh Châu tái hiện bằng giọng văn đâm chất anh hùng ca: “Các ngả đường ngập những lính, đâu đâu cũng nghe những tiếng hát, tiếng ồn ào của đám đông, đâu đâu trong rừng cũng sực lên hơi người, đâu đâu cũng gặp những bếp than cháy dở (…). Bất cứ một người nào đi trên con đường này cũng phải tự hỏi: Ai là người đầu tiên tới đây dựng lên cái bếp lửa sơ sài bên con đường rừng? Bàn tay người lính nào đã dùng mìn bẫy đá, cầm dao phát cây? Và người cán bộ tham mưu nào đã từng mang một chiếc địa bàn và một mảnh bản đồ, đứng chon von trên đỉnh núi để ngắm hướng cho việc mở đường?” [05; tr. 16 - 17]. Con đường mòn xuyên qua Trường Sơn trong những ngày mưa dầm và giá rét đã là con đường của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ, con đường huyền thoại. Một bếp lửa sơ sài dựng vội bên con đường rừng, bàn tay người lính bẫy đá, phát cây, một cán bộ tìm hướng mở đường… tất cả tạo nên một bức tranh hoành tráng để người lính xuất hiện đẹp một cách rực rỡ, hào hùng.
Chân dung người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” không chỉ đơn thuần là chân dung của từng con người - cá nhân. Chân dung của họ được dựng lên “trên nền của cảnh chiến trường, nơi giáp mặt với kẻ thù, bom đạn, cái chết. Đó là những chân dung tập thể, nhiều khuôn mặt của nhiều thế hệ, mang dáng vẻ và ý chí thời đại đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” [16; tr. 105]. Phải tiếp cận nhân vật người chiến sĩ như những con người – xã hội  theo khuynh hướng sử thi, Nguyễn Minh Châu mới vẽ lên được chân dung rất “lính” của họ. Đó là thế hệ những người lính đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Pháp, dạn dày kinh nghiệm như chính uỷ Kinh, như trung đoàn trưởng Nhẫn. Cuộc đời binh nghiệp của chính uỷ Kinh hầu như gắn liền với những trận đánh, những chặng đường hành quân. Mọi gánh vác lo toan trong ngôi nhà gỗ, bên bờ con sông rất đẹp của miền Trung , Kinh đều phó thác cả lên đôi vai người vợ. Con trai ông – Lữ – trốn nhà đi bộ đội, khép lại quãng đời học trò ở tuổi mười sáu từ một buổi chào cờ cuối cùng trên sân trường. Với quan niệm “phải từ giã hết, phải ném vào lửa hết, phải ném vào lửa bằng hết, tất cả mọi thứ sách vở và bản thân những thằng học trò như mình cũng cần phải được ném vào lửa” [05; tr. 84 - 85], Lữ đã “lăn lóc khắp các tuyến đường, các bến phà, đã từng góp bàn tay làm nhiều con đường, từng đi cứu kho, cứu người, gỡ bom nổ chậm, từng đi nuôi lợn, nuôi bò, đi dạy văn hoá…” [05; tr. 85] để  “tự tìm lấy một niềm tin bền vững và chắc chắn hơn từ trong cuộc đời”. Hình ảnh đẹp của người chiến sĩ trong“Dấu chân người lính” còn là bác Đảo – “một chiến sĩ tình nguyện quốc tế” ngoài bốn mươi tuổi,  một tiểu đội trưởng nấu ăn chăm chỉ và chu đáo nổi tiếng trong Trung đoàn.  Trải qua nhiều lần bị bom mìn, nhiều lần bị máy bay B52 oanh tạc trúng bếp nấu ăn, quần áo, đồ đạc cháy sạch, nhưng con người “thấp bé, đầu hói bóng” ấy không bao giờ chịu mất chiếc xà-cột bên mình. Chỉ vì trong đó luôn cất giữ mấy gói muối, mì chính và một chiếc kéo dùng để cắt tóc cho anh em… Nhìn vào công việc tỉ mỉ, chu đáo của một tổ trưởng nấu ăn ngoài mặt trận, không ai có thể nghĩ đó là kẻ đã “từng sống gần nửa đời người ở các vùng thị trấn đô hội nước ngoài, đã từng mặc “xà-rông” đi lễ ở các ngôi chùa, làm nghề đánh cá trên sông Mê-kông, đã từng cắt tóc, chùi xe đạp và sống cùng khu phố ngoại ô với những người làm xiếc, viết đơn thuê, những người làm nghề nhổ răng vỉa hè và bán thuốc lá cuốn”[05; tr. 193-194].
Nhân vật người chiến sĩ của Nguyễn Minh Châu đẹp từ ý nghĩ đến hành động. Giữa những ngày hành quân, khi nhận được tin ở nhà bị bom dội, mẹ bị thương nặng và một đứa em năm tuổi chết, tiểu đội trưởng trinh sát  đầy nghị lực và sắc sảo Khuê nén nỗi đau cá nhân, cùng đồng đội tập trung hết tinh thần vào các buổi diễn tập. Lượng – đại đội trưởng đại đội trinh sát của Trung đoàn 5, canh cánh trong lòng một tình yêu với  người phụ nữ Vân Kiều, nhưng vẫn cương quyết cắt đứt mối quan hệ tình cảm đó để giữ cho hình ảnh anh cán bộ Giải phóng quân đẹp mãi trong lòng mọi người. Đó còn là hình ảnh của Cận, của Moan,  Hoạt…, những chiến sĩ trẻ trong tổ điện báo ngày đêm bám trụ kiên cường trên cao điểm 475. Trong “Dấu chân người lính”, chân dung người lính lần lượt xuất hiện, bình dị, đời thường mà anh dũng. Ngoại trừ chính uỷ Kinh và bác Đảo, đa số chiến sĩ đều có tuổi đời từ mười tám đến hai mươi ba, hai mươi lăm… Các thế hệ người lính ấy đã sát cánh bên nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau, cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Là một cuộc chiến toàn dân, toàn diện, âm hưởng hào hùng của một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” bàng bạc trên mỗi chặng đường hành quân : “Đông đúc quá! Không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết đây là đường rừng hay là quảng trường, là rừng cây hay là rừng người và rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi nóng của hơi thở và mùi mồ hôi người, là tiếng nói ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao đang san một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần cầm lấy súng. Người ta cũng không thể phân biệt hiện tại hay khung cảnh lịch sử, hay là tương lai đang bước ra đây từ đôi bàn chân của người lính?” [05; tr. 51-52]. Chính cái “không khí mới mẻ, náo nức của những ngày đầu sôi sục chống Mỹ – cái không khí vừa bề bộn quyết liệt, vừa trang nghiêm đầy đức tin của một thời kỳ không thể nào quên trong cuộc đời mỗi con người” [17; tr. 114] đó đã làm đẹp thêm chân dung người lính, hun đúc thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một thế hệ anh hùng, một dân tộc anh hùng. Tổ quốc còn hay mất? Độc lập, tự do hay nô lệ, ngục tù? Người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” không còn mang tiếng nói của những số phận cá nhân mà đại diện cho tiếng nói của cả một cộng đồng dân tộc trước thử thách quyết liệt. Tiếng nói ấy dù âm thầm, lặng lẽ nhưng lại có một sức sống mãnh liệt, bất khuất, kiên cường: “Không thể nào tả hết những khuôn mặt chiến sĩ, những khuôn mặt chỉ huy, những khuôn mặt của tầng tầng lớp lớp người đang nối tiếp nhau hiện ra từ trên dốc, từ dưới suối, từ khắp các ngõ ngách của rừng. Khuôn mặt nào cũng đẫm mồ hôi và bừng bừng như say. Phần đông là những khuôn mặt còn trẻ măng cả. Nhìn bất cứ người nào cũng có thể đoán được khuôn mặt dòng dõi của bố mẹ, của người em, người anh, người chị ở nhà hoặc cũng ở một nơi nào đó. Tất cả đều đang bước đi. Các cặp mắt tất cả đang nhìn. Trong tất cả mọi người giữa dòng thác hôm nay, ai sẽ trở nên nhà chép sử sách, ai sẽ cầm bút viết văn, sẽ mô tả làm sống trở lại khung cảnh này ?” [05; tr. 52]. Bằng những lời văn trang trọng, mỹ lệ, chân dung người  chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” chính là sự nối tiếp truyền thống hào hùng của bước chân Quang Trung thần tốc mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1788, của người nghĩa sĩ công đồn Cần Giuộc những ngày đầu chống Pháp năm 1861 và là sự kết tinh cao quý chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam của thế hệ chiến sĩ Điện Biên năm 1954.
Tiếp cận nhân vật theo khuynh hướng sử thi, người  chiến sĩ  - những nhân vật điển hình trong “Dấu chân người lính” - “thực chất là những nhân vật sử thi  luôn cao hơn cuộc sống một nấc và “có sức mạnh vẫy gọi con người vươn tới cái cần có trong cuộc chiến đấu”” [23; tr. 79].
2.2. Nhân vật là con người – xả thân  được nhà văn xây dựng qua bút pháp trữ tình, hướng ngoại:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đến hồi quyết liệt. Trung đoàn 5 bước vào một giai đoạn chiến đấu mới: chiến dịch bao vây. Các đại đội thuộc Trung đoàn 5 đều được huy động vào chiến dịch vận tải “lót ổ”, phối hợp các đơn vị chiến đấu tiêu diệt khu vực phòng thủ rắn nhất của tuyến đường 9 cắt đôi hai nước Việt - Lào. Hiện thực anh hùng của cuộc chiến hiện lên trên mỗi trang viết càng lúc càng đậm nét. Cái anh hùng cao cả trong cuộc sống được tái hiện lại trong “Dấu chân người lính” trở thành cái cao cả nghệ thuật. Và chân dung người chiến sĩ được xây dựng theo phương thức “phóng đại” – phóng đại cái đẹp để đẹp hơn. Họ chính là những con người – xả thân  được nhà văn xây dựng qua bút pháp trữ tình, hướng ngoại.
Địch rót vào Khe Sanh sáu ngàn tên lính thuỷ đánh bộ, có khi con số ấy tăng lên đến bốn vạn rưỡi. Là một thung lũng ngang dọc mỗi bề khoảng chừng mười cây số, trang bị hiện đại với hệ thống phòng ngự vững chắc, hình thành một hình tam giác khép kín, Khe Sanh đã trở thành một cứ điểm quan trọng; là cái “yết hầu” trong chiến dịch “Scotland” (chiến dịch giải vây cho lữ đoàn “Ngựa bay”). Trong cái bối cảnh ấy, đời sống nội tâm của người lính ít được miêu tả sâu sắc. Hiện thực cuộc kháng chiến đang cuốn họ về phía trước. Gặp con vội vã trên chặng đường hành quân, chính uỷ Kinh và con trai cũng không có những giây phút riêng tư dành cho tình cảm cha con, gia đình. Phần lớn thời gian của Kinh đều dành cho chiến dịch. Xuyên suốt tác phẩm, người đọc thấy một chính uỷ Kinh chỉ để tâm nghĩ đến vợ và các con trai một đôi lần. Trong tâm hồn người lính già dặn trận mạc ấy, những suy nghĩ hướng ngoại là dòng mạch chủ yếu: “Chưa bao giờ Kinh thấy đội hình một đại đội xuất kích đi chiến đấu lại dài đông đúc như thế. Cũng chưa lần nào đứng trước hàng quân trước giờ nổ súng, Kinh lại thấy vững tâm như lần này. Trước mặt ông, thực sự là một khối thuốc nổ.” [05; tr. 170]. Tình thương con của Kinh đối với Lữ cũng bao hàm trong tình thương của một người cha - người đồng chí với đồng đội của mình. (“Kinh lại thấy thương con vô hạn, xen lẫn một niềm tự hào ngấm ngầm, nhưng vẫn không khỏi lo lắng, một nỗi lo mơ hồ và gần như bất lực”. “Giữa lúc gần như tất cả trí óc Kinh đã bị hút về phía địch thì thật kỳ lạ, làm sao giữa trái tim của ông chợt nảy nở một mối tình yêu thương im lìm và sâu xa của người cha bao trùm lên hết tất cả” [05; tr. 98]). Ngay cả sau này, khi được tin con trai hy sinh, người chiến sĩ – con người xả thân ấy “vẫn không thay đổi sắc mặt”. Ông chỉ cất tiếng hỏi bằng “cái giọng hơi khàn” với người chiến sĩ cần vụ. Với cách mô tả từ bên ngoài, Nguyễn Minh Châu không để cho người đọc thấy được cơn bão táp trong tâm hồn người lính chiến dày dạn ấy. Và mãi sau này, khi nghe văn công hát , Kinh mới khóc vì thương nhớ con: “… một giọt nước mắt long lanh trên cặp mắt đồng chí chính uỷ. Giọt nước mắt đọng rất lâu rồi rơi xuống ống tay áo quân phục đầy nếp gấp đặt ngang trước bụng ông. Đó là giọt nước mắt đầu tiên kể từ ngày Kinh nhận tin con trai mất. Cho đến hôm nay, trong khi ngồi nghe cô văn công hát, tiếng hát khiến ông chợt nhớ đến con trai mình và ông đã lỡ để rơi một giọt nước mắt” [05; tr. 311]. Những trạng thái tâm lý của Kinh chỉ được miêu tả như những âm thanh đơn lẻ, hoà vào âm vọng tiếng hát “Anh vẫn hành quân” của cô văn công và nhanh chóng chìm lẫn trong dàn đồng ca hùng tráng của cuộc chiến đấu của dân tộc. Bút pháp trữ tình hướng ngoại của Nguyễn Minh Châu khi xây dựng nhân vật chiến sĩ – con người xả thân cũng thể hiện  rõ qua hình ảnh Thái Văn – một nhà thơ tình nguyện đi theo đơn vị pháo binh sông Cầu để tiếp cận thực tế. Vào bộ đội từ lúc mới bắt đầu học chữ; những nhà thơ – người chiến sĩ như Thái Văn cũng đã là những nguyên mẫu con người - xả thân. Dù mỗi thế hệ người lính bước vào cuộc chiến đấu với một dáng cầm súng khác nhau; nhưng Thái Văn vẫn thấy  “có cái gì khác trong vẻ đẹp của lớp người cầm súng trước đây và lớp người hôm nay? Ngày xưa, những người lính nông dân cầm khẩu súng để chiến đấu cho Tổ quốc, đồng thời cho mảnh vườn và mái nhà của mình (…) vậy thì trong cuộc trường chinh hôm nay họ đang chiến đấu cho cái gì? Họ từ bỏ cái trái hạnh phúc đã ửng hồng trong vườn nhà mình để cầm súng đi chiến đấu cho mục đích gì ?” [05; tr. 220 - 221].  Mục đích chiến đấu ấy chính là độc lập, tự do. Họ đã “xả thân” chỉ bằng lưỡi lê và lựu đạn, lăn xả vào những đám lính Mỹ để giải vây cho Lữ và bảo vệ chiếc đài vô tuyến điện. Cái chết của họ nhẹ tựa lông hồng, mang âm hưởng hào hùng của tinh thần “nhất khứ bất phục phản”.
Mang những đặc điểm của con người - xả thân, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” đã “thể hiện thế giới tinh thần phong phú và vẻ đẹp lý tưởng của người anh hùng, mối quan hệ giữa cái bình thường và cái vĩ đại, giữa người anh hùng và tập thể quần chúng anh hùng, giữa anh hùng ca và tình ca, cuối cùng là những đặc điểm về khí phách, tầm vóc và dáng đứng của người anh hùng cách mạng Việt Nam” [09; tr. 109]. Đọc nhật ký của Lữ, chúng ta không hề gặp những suy nghĩ riêng tư trong tâm hồn một chàng trai tuổi mười chín:
“Đứng ở đây nhìn rộng sang cả hai bên bờ Nam và bờ Bắc chỉ thấy nhức mắt một vùng bãi hố bom đỏ loét trên chỏm đồi, trên sườn đồi, trên dải đất đầy những đá và cây sát mép nước. Hình như số phận những con sông đều gắn chặt với số phận đất nước và tất cả các con sông đều hết sức nhạy cảm với chiến tranh ? Tôi khoác súng đứng bên này nhìn sang bên kia  mấy phút trước khi xắn quần lội qua. Tôi cảm thấy da mặt cứ nổi gay lên, tim như phồng to choán cả lồng ngực, một nửa người tôi là máu chảy, nửa là lửa cháy! Hình như tất cả tình yêu có trong cuộc đời chỉ đựng đầy trong một trái tim mười chín tuổi của tôi. Tôi đứng đây và tự nhiên nước mắt cứ trào ra. Bên kia, một nửa phần đất nước, một nửa mái  nhà của mỗi mái nhà bên này đang cháy, một nửa trái tim của từng trái tim người Việt Nam bên này ngày nào gót giày của hàng chục vạn quân Mỹ cùng giẫm lên một lần” [05; tr. 222 – 223].
Tình yêu của Lữ dành cho bố mẹ cũng là tình yêu dành cho đất nước, quê hương:
 “Những người cha dù có tinh thần trách nhiệm đến đâu cũng không thể làm thay được tất cả mọi việc cho đời con cái mình. Làm sao có thể như thế được? Những người cha của lứa tuổi chúng tôi đã làm nên một sự nghiệp hết sức lớn lao là giành lại đất nước và giữ vững đất nước, và vạch cho chúng tôi con đường phải đi tiếp theo, một con đường đầy hy sinh nhưng hết sức vinh quang. Chúng tôi đã chịu ơn lớp người  sinh ra mình và chúng tôi thấy cần phải xứng đáng là những đưa con (…). Con yêu mẹ như yêu vẻ đẹp dòng sông trước nhà ta, từ lúc còn bé con đã thấy. Con yêu bố như yêu dãy núi Hồng sau nhà, chỉ khi được mẹ bế cao trên tay và mẹ chỉ lên cao con mới nhìn thấy !” [05; tr. 228 – 229].
 Những trang nhật ký của Lữ thể hiện một tính cách nhân vật mang tính hướng ngoại, tự biểu hiện hơn là tự ý thức. Khi gặp Nghim – người chiến sĩ dân tộc ít người – những dòng nhật ký của Lữ viết về Nghim cũng là những suy nghĩ về cái bản A - lâu  bên bờ sông A-si xinh đẹp của Nghim bị bọn Mỹ – ngụy tàn sát, đốt phá. Và mong ước của Lữ “giá có cách gì giới thiệu cho các đơn vị hành quân qua trạm K. lịch sử  của cái trạm khách này, để cho tự bản thân câu chuyện sẽ nói lên ý nghĩa của cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay ở đây” [06; tr. 62] cũng không phải là những mong ước riêng tư cho cá nhân, vì cá nhân; mà là nỗi ước mong mọi người sẽ biết được cuộc chiến anh hùng của dân tộc Việt Nam. Ngay cả khi máy bay B52 oanh tạc cao điểm 475, trong những lúc dời hầm để bảo vệ đài quan sát pháo binh sông Cầu, sau những loạt bom đến tức thở, các chiến sĩ tổ trinh sát vẫn nghe tiếng Lữ đọc thơ sang sảng. Lữ không thể im lặng, hoàn toàn anh không thể nín lặng được bởi vì “không lúc nào bằng lúc ấy, mặt đất cần phải có tiếng nói, cần có tiếng người cất lên. Điều đó như một phản ứng của ý thức và của nhu cầu bản năng của anh và của tất cả mọi người, thấy cần phải nói lên tiếng nói mãnh liệt của sự sống, cần nói lên lời tuyên ngôn của những người chiến sĩ không có một thứ bom đạn nào của Mỹ có thể khuất phục được họ” [06; tr. 93].
2.3. Nhân vật người chiến sĩ được tác giả miêu tả tâm lý theo quy luật đồng nhất một chiều:
Là con người – xã hội nhân danh cộng đồng, là những con người - xả thân chiến đấu hết mình vì lý tưởng, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” hầu như không hề có “sự sống đích thực của các Bản ngã” [23; tr. 79]. Nói như Bakhtin, tác giả chưa đi tới tận cùng tâm hồn con người, chưa giúp người đọc nắm bắt “con người bên trong con người” của nhân vật.
Sau một cuộc chiến đấu, trong hàng ngũ bộ đội của Kinh đã có “nhiều mái đầu quấn băng trắng, những cánh tay, những mảng lưng và những khuôn ngực để trần, những vòng băng cá nhân quấn quanh người đã thấm ướt máu”,  nhưng những chiến sĩ thương binh ấy vẫn thét vang khẩu hiệu diệt địch. Từng loạt tiếng thét, tiếng hô “xin thề” nổ ra như những loạt súng. Những cánh tay quấn băng nâng những khẩu súng trường và tiểu liên , những khẩu súng máy quá đầu. Tiếng thét diệt giặc vang lên giữa những tiếng cười. “Tiếng thét phát ra từ những trái tim đang bốc lửa. Tiếng thét đông đặc, phẫn nộ, rùng rùng khép kín như một hàng ngũ xiết chặt” [05; tr. 168 – 169]. Điều này phù hợp quy luật tâm lý một chiều của nhân vật. Vì trong những năm tháng chống Mỹ, đứng trên quan điểm lịch sử thì “cái cao cả – anh hùng và lý tưởng đã bao trùm cái vốn có của thời đại” [09; tr. 120]. Không bàn đến “đã có lúc có người phê phán lối viết làm cho cái cao cả , lý tưởng lấn át cái vốn có” xung quanh vấn đề xây dựng nhân vật người chiến sĩ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh [09; tr. 120], cũng không bàn đến đặc điểm thứ hai của người chiến sĩ ngoài mặt trận như tác giả Triệu Bôn nhận xét qua “Vài nét về nhân vật người chiến sĩ” (Đặc điểm thứ nhất là cuộc sống của họ biến động rất dữ dội và không bao giờ ngừng. Đặc điểm thứ hai là tâm trạng của họ luôn luôn tự mâu thuẫn. Đặc điểm thứ ba, sức sống thật kỳ diệu của họ) [01; tr. 121]; cùng với những tác phẩm tiểu thuyết khác trong giai đoạn 1945 – 1975, “Dấu chân người lính” là một “mô hình nghệ thuật đặc thù ra đời trong một giai đoạn lịch sử cụ thể” [10; tr. 66]; nên hầu như những người chiến sĩ – nhân vật chính diện trong tác phẩm – thường được bao bọc trong một bầu không khí “vô trùng”. Và vì thế, sự hoà hợp, thống nhất giữa “cái tôi” và “cái ta” chung của dân tộc, cộng đồng là điều tất yếu.
Được miêu tả tâm lý theo quy luật đồng nhất  một chiều, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu luôn “đồng nhất với chính nó”. Giữa những trận đánh ác liệt, các chiến sĩ trinh sát và điện đài trên cao điểm 475 luôn thể hiện một tinh thần lạc quan cách mạng. Những chiến sĩ với khuôn mặt “mới mười tám, mười chín, râu đã mọc đen bên mép. Khuôn mặt nào cũng dày cộm vì đất bột bám, vì thuốc đạn ám, những cặp mi mắt trên rất dày, mi dưới đỏ, tròng mắt lờ đờ đùng đục hoặc có vằn đỏ. Thuốc đạn, đất, trộn với mồ hôi lâu ngày đã biến thành một màu xam xám, xỉn xỉn bám trên chân tóc, trên lông mày, trong hai hốc mũi và trên những bộ quân phục sờn rách, dày và cứng như da thuộc” [06; tr. 103]; thế mà họ vẫn háo hức lắng nghe tiếng hát của các đồng chí văn công “biểu diễn” trong máy. Từ những khuôn mặt gầy võ, hố mắt trũng sâu, tóc tai đỏ quạch màu đất ; giữa các đợt dội bom của giặc; trong hầm sâu; tiếng sáo của Sĩ vẫn cất lên, dìu dặt, mơ hồ, bổng trầm, tha thiết. Và trong những ngày gần cuối của chiến dịch, chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ, chín chiến sĩ  tiểu đội trinh sát: Cận, Moan, Lữ, Sĩ, Hoạt… đã liên tục bẻ gãy năm đợt tấn công của địch ở cứ điểm đồi 475. Chiến công của họ đã góp một phần không nhỏ cho chiến thắng Khe Sanh.
Chứng kiến cảnh những máy bay phản lực Mỹ dội bom lên xóm làng mình, Lữ và ba người bạn thân đã chấm dứt quãng đời đi học bằng một đêm đốt hết sách vở mà không hề trù trừ, do dự. Rời ghế nhà trường, bắt đầu cuộc sống mới, hành trang mang theo là tất cả những kiến thức “sách vở” và sự ngây thơ của tuổi học trò, đến khi trở thành một chiến sĩ thông tin liên lạc, đối với Lữ ; quãng đời đó ghi dấu sự trưởng thành lớn nhất trong cuộc đời anh: Lữ đã lớn lên từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giữ nước của dân tộc. Sự sống của Lữ không hề có cái gì là riêng. Lúc phát hiện giặc đang bí mật đổ quân xuống sườn núi bên đất Lào và quyết bắt sống Lữ cho bằng được, Lữ chỉ kịp xoay chiếc máy ôm gọn trước ngực và nghĩ: “sống chết cũng phải giữ cho được cái đài để kiên lạc !” [05; tr. 258]. Trong những ngày chốt ở cao điểm 475, được Khuê giác ngộ vào hàng ngũ của Đảng, người chiến sĩ trẻ ấy đã cảm thấy một niềm vui phấn chấn tràn ngập tâm hồn , khiến “một giọt nước mắt vỡ từ bên khoé mắt” và Lữ đã cảm thấy hết niềm hạnh phúc của một người “có khi chỉ vì được đứng bên cạnh một người khác, được dẫn dắt bởi bàn tay một người khác” [06; tr. 153]. Và khi đã trải qua các giai đoạn thông thường của một người con trai đã từng được thử thách và lăn lộn rất nhiều, bắt đầu quan sát bản thân bằng con mắt khe khắt, trong con người của Lữ đã dần dần hình thành một quan niệm về cuộc sống hết sức nghiêm ngặt: “chưa bao giờ anh biết yêu quý và trân trọng những người dồng đội chung quanh như hiện nay. Cái điều mới nảy sinh là anh đã có được một niềm tin vào phẩm giá tuyệt đỉnh của những con người, đó là những người đồng đội rất mực bình thường vẫn sống chung đụng với anh hằng ngày. Cũng chưa bao giờ cuộc đời hiện ra trước mắt anh đẹp như hôm nay, mặc dầu hôm nay anh đang phải chịu đói khát, đang đứng trên một mảnh đất ác liệt chưa từng thấy” [06; tr. 217 - 218]. Tình yêu của anh với Hiền cũng là một tình yêu rất lính. Lữ đã nghĩ đến ngày chiến thắng, anh sẽ “cầm tay cô đi qua ba mỏm đồi 475 để xuống thung lũng ở dưới kia. Hai người sẽ đi qua từng tấc đất chi chít hầm hố và giao thông hào, từng tấc đất mới được giải phóng mà những người đồng đội dũng cảm trẻ trung đã gửi lại biết bao mồ hôi và máu, đồng thời cả những hoài bão và lý tưởng, cả tiếng hát và niềm hy vọng” [06; tr. 224]. Chính vì được miêu tả theo quy luật “đồng nhất một chiều”, nên sự hy sinh của các chiến sĩ trinh sát ở Đồi không tên là những biểu hiện đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Hành động hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Đồi không tên là những biểu hiện đồng nhất của “hạt ngọc” lấp lánh hào quang lý tưởng: “Sử sách về sau sẽ ghi tên Quả Đồi không tên, gần một chục chiến sĩ trẻ tuổi, tất cả đều là đoàn viên thanh niên do một đồng chí đảng viên chỉ huy, họ đã đem ngực mình dựng thành chiến lũy cản mười đợt tấn công điên cuồng của địch. Họ chiến đấu đến người cuối cùng, không có một tên lính Mỹ nào bước nổi qua cái mảnh đất của Tổ quốc họ đứng cầm súng và ngã xuống, trong ngày hôm nay” [06; tr. 271]. Và hành động quyết định gọi pháo bắn vào giặc – vào chính mình – của Lữ là hành động phù hợp với tâm lý, với quy luật: “Lữ giang hai cánh tay ôm chặt lấy cái đài như sợ chúng có thể ùa vào cướp ngay trên tay anh. Anh ôm nó trong ngực, lúc này anh quý nó hơn là tính mạng. Anh vừa quyết định một việc vô cùng hệ trọng đối với anh, và quyết định hết sức nhẹ nhõm: Anh gọi bắn ! Anh gọi rất hấp tấp, không kịp dùng ký hiệu mật mã - “Chúng bay hãy cầu chúa đi !”. Trong lòng anh chợt rưng rưng một nỗi mừng rỡ” [06; tr. 266]. “Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc mỗi thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt hẳn. Những món tóc rất xanh rối bù dính bết máu phủ kín cả vầng trán lấm tấm mồ hôi đã trắng nhợt. Dường như từ trong ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng” [06; tr. 267 - 268].
3. Người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người lính Việt Nam trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young (Hàn Quốc):
Nếu trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu, hiện thực cách mạng thời chống Mỹ giàu chất huyền thoại là cái nền để tác giả xây dựng nhân vật của mình; các nhân vật đã sống, cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình vì cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam; thì những người lính – người chiến sĩ Việt Nam - trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young (Hàn Quốc) cũng chiến đấu hết mình vì lý tưởng, vì độc lập, tự do của dân tộc. Dù không trực tiếp cầm súng ra chiến trường diệt giặc như Lữ, Moan, Cận… trong “Dấu chân người lính”, nhưng nhân vật chính - Phạm Minh – trong “Hình bóng của vũ khí” cũng là một hình ảnh đẹp về người lính “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Đang là sinh viên Y khoa năm thứ hai một trường đại học ở Huế, Phạm Minh từ bỏ tất cả để vào bộ đội. Được tổ chức phân công phụ trách công tác quân nhu cho đơn vị ở tuyến Quảng Nam, Đà Nẵng, Hội An, Phạm Minh buộc phải thường xuyên giao dịch với người của “phía bên kia”. Anh phải nguỵ trang dưới lớp vỏ một kẻ buôn bán, xem đồng tiền là trên hết. Để  hoàn thành nhiệm vụ, anh đã hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình; chịu những ánh mắt khinh rẻ của người thân, bè bạn; mang tiếng là kẻ phản bội Tổ quốc. Nhận nhiệm vụ vô vàn khó khăn, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng Minh vẫn tin vào lý tưởng, vào con đường mình đã chọn: “Trên con đường cách mạng, thì chỉ có hai con đường mà thôi: bị giết do bàn tay của kẻ thù hoặc là thắng lợi. Cái chết chỉ là của cá nhân, còn chiến thắng là của tất cả mọi người. Cái khả năng bị giết chết lớn hơn gấp vạn lần so với thắng lợi trước mắt. Nhưng nếu không có lòng tin vào thắng lợi thì không thể tiếp tục đấu tranh toàn diện được” [24; tr. 103]. Chiến đấu hết mình vì lý tưởng, Phạm Minh tâm niệm: “một người chiến sĩ giải phóng không phải biến thành một người chiến đấu kỹ thuật mà phải làm hồi sinh lại người cách mạng mới bằng cả cái “tâm” và “thân” hoàn toàn mới” [24; tr. 102]. Cuối cùng, Phạm Minh bị phát hiện và đã hy sinh khi chạm trán với những người lính Hàn Quốc và nguỵ quân trong một cuộc vây ráp… Là những người lính có lý tưởng, Lữ, Moan, Cận, Phạm Minh… đã cống hiến quãng đời đẹp nhất của tuổi trẻ cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc. Bằng cái nhìn hiện thực của một nhà văn tiến bộ từng tham chiến ở Việt Nam, Hwang Seok Young đã xây dựng hình ảnh đẹp đẽ về người lính Việt Nam qua nhân vật Phạm Minh. Dù chiến đấu ở mỗi trận tuyến khác nhau, nhưng nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu và nhân vật người lính Việt Nam trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young đều giống nhau ở điểm: là những con người – xả thân, hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình, đặt “cái tôi” vào trong “cái ta” chung của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Điều đó càng được khẳng định qua lời nói của An Young Kyu – một người lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam: “Lính “Việt cộng” thì khác biệt với những loại lính khác. Nếu những loại lính khác ( lính Mỹ; lính Hàn Quốc tham chiến Việt Nam và nguỵ quân – Ha Jae Hong )  cái đầu và trái tim của họ “chênh” nhau; thì cái đầu và trái tim của lính “việt cộng”  không phải là “chênh” nhau, mà lại luôn thống nhất với nhau” [25; tr. 284]. Đó chính là sự thống nhất giữa lý tưởng và hành động trong trái tim, tâm hồn của từng người lính yêu nước chân chính.
Sự so sánh nhân vật người lính ở hai tác phẩm nói trên dù có phần khập khiễng; nhưng cũng cho chúng ta thấy được nét đẹp tâm hồn của những anh bộ đội Cụ Hồ.
4. Kết luận:
Lúc còn sống, Nguyễn Minh Châu đã từng tâm đắc với nhà văn Nga Simonov: “Viết về chiến tranh không phải chỉ làm rung động những người từng đi qua mà còn phải làm rung động cả những thế hệ không hề trải chiến tranh” [07; tr. 28]. Nằm trong dòng văn học chống Mỹ, rõ ràng “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu đã “nghiêng về vẻ đẹp hào hùng và tươi tắn của cả cộng đồng, nghiêng về những sự kiện vĩ đại, những người anh hùng và được thể hiện với bút pháp trữ tình đậm đà, giàu chất thơ. Ở đó, cảm hứng trữ  tình hoà nhập giao thoa nhuần nhị với cảm hứng anh hùng” [07; tr. 29]. Khuyến khích những tìm tòi và đổi mới về nghệ thuật để phản ánh thực tế biến động mạnh mẽ của cuộc chiến đấu, đó là ấn tượng để lại trong lòng người đọc qua “Dấu chân người lính”.
Trong một đất nước mà “trên ba mươi năm qua, số phận của nhân dân gắn với số phận của dân tộc như hai mặt của một tờ giấy” [13; tr.118], trong một giai đoạn lịch sư” mà “em bé cũng quên mình là em bé để làm một người lớn; ông già cũng ghép thành đơn vị bắn máy bay; và đàn bà cũng ghép mình thành đại đội, tiểu đoàn để đi vào Trường Sơn và làm tất cả mọi công việc đàn ông; trong một giai đoạn mà con ong, con voi cũng giết giặc, cũng đi đánh giặc; rừng cây, núi đá cũng đánh giặc; khí hậu, thời tiết cũng đánh giặc; nhà cửa, xóm làng, thành phố cũng trở thành thành lũy, ổ chiến đấu, pháo đài; những mối quan hệ xưa cũ như tình mẹ con, tình vợ chồng, tình yêu lứa đôi… cũng đều được huy động vào công việc đánh giặc một cách triệt để” [04; tr. 113];  thì hình ảnh những con người đặt cả cuộc đời vào việc đánh giặc giữ nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội là những hình ảnh đẹp một cách rực rỡ. Nguyễn Minh Châu đã luôn trăn trở “làm sao kết hợp được tính vĩnh hằng của văn học chân chính với yêu cầu cụ thể trước mắt của cách mạng, của công chúng” [12; tr. 116] và “Dấu chân người lính” ra đời là kết quả của sự “không có nhiều băn khoăn và chọn lựa, không có sự trái ngược giữa cái riêng và cái chung, giữa cái mất và cái được, giữa tài năng của nghệ sĩ và những nhiệm vụ chính trị được giao phó” [11; tr. 99 - 100]. “Dấu chân người lính” chính là một quá trình trong đó tác giả tự khám phá những hiểu biết của mình về người lính và viết về người lính bằng một sự nhận thức trung thực, chân thành. Giữa hiện thực xô bồ của hàng nghìn vạn người lính vào một chiến dịch lớn, nhà văn đã “dựng được những nhân vật người lính thuộc nhiều kiểu loại khác nhau, có tính cách, có số phận, không ai hoàn thiện, nhưng nhiều người thật đáng yêu, đáng nhớ, lưu luyến mãi trong tình cảm người đọc” [22; tr. 140].
Tình  yêu đất nước, quê hương, yêu dân tộc và lý tưởng chiến đấu của các chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” của  Nguyễn Minh Châu nói riêng, những tác phẩm văn học thời đánh Mỹ nói chung đã là nguồn sức mạnh tinh thần vô giá, cổ vũ cho tuổi trẻ Việt Nam lên đường chống Mỹ trong những năm tháng chiến tranh. Và ngày hôm nay, trong một giai đoạn cách mạng mới, người chiến sĩ Việt Nam vẫn tiếp tục lên đường trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận để bảo vệ cho màu cờ vẻ vang của dân tộc.
Anh vẫn hành quân !

Tài liệu tham khảo
01.    Triệu Bôn, 1982, Vài nét về nhân vật người chiến sĩ trong Mấy nét chung quanh mảng văn học viết về chiến tranh 35 năm qua, Văn nghệ quân đội, số 02 / 09/ 1945 – 02 / 09/1980.
02.    Nguyễn Minh Châu, 1980, Nhà văn – nhân vật – bạn đọc trong Mấy nét chung quanh mảng văn học viết về chiến tranh 35 năm qua, Văn nghệ quân đội, số 02 / 09/ 1945 – 02 / 09/1980.
03.    Nguyễn Minh Châu, 1982, Người viết trẻ và cánh rừng già trong Chiến trường sống và viết,  NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
04.    Nguyễn Minh Châu, 1982, Bên lề tiểu thuyết , Văn nghệ quân đội, số 01 - 1984.
05.    Nguyễn Minh Châu, 1999, Dấu chân người lính, NXB Trẻ, tập I.
06.    Nguyễn Minh Châu, 1999, Dấu chân người lính, NXB Trẻ, tập II.
07.    Nguyễn Minh Châu toàn tập , 2001, NXB Văn học, Tập I.
08.    Nguyễn Văn Dân, 1994, Những vấn đề lý luận của văn học so sánh, Luận án P. Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn Hà Nội, TTKHXH & NV QG.
09.    Phan Cự Đệ, 1984, Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng, Văn nghệ quân đội, số 09 - 1984.
10.    Hoàng Mạnh Hùng, 2003, Các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975, Tạp chí Văn học, số 03 - 2003.
11.    Nguyễn Khải, 1984, Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống, Báo cáo bổ sung tại Đại Hội lần III Hội Nhà văn Việt Nam, Văn nghệ quân đội, số 01- 1984.
12.    Tôn Phương Lan, 1984, Nhà văn Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ quân đội, số 10 - 1984.
13.    Phong Lê, 1984, Văn học Việt Nam và đề tài chiến tranh, Văn nghệ quân đội, số 08 - 1984.
14.    Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), 1996, Văn học lớp 12, tập I, Ban KHXH, NXB Giáo Dục.
15.    Vương Trí Nhàn, 1982, Chung quanh một số tác phẩm viết về chiến tranh ra đời hôm nay trong Chiến trường sống và viết,  NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
16.    Đặng Quốc Nhật, 1990, Mấy ý kiến về đề tài chiến tranh và sự chi phối của nó trong Văn học Việt Nam hiện đại, Văn nghệ quân đội, số 12 – 1990.
17.    Lê Thành Nghị, 1984, Vài khía cạnh của một chặng đường văn xuôi về đề tài chiến tranh cách mạng, Văn nghệ quân đội, số 12 – 1984.
18.    Lê Sơn, 1984, Góp mặt trao đổi về đề tài chiến tranh trong văn học,  Văn nghệ quân đội, số 03 – 1984.
19.    Trần Đình Sử, 1993, Giáo trình Thi pháp học, Trường ĐHSP Tp. HCM.
20.    Trần Đình Sử, 1993, Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT- Vụ Giáo Viên , Hà Nội.
21.    Bùi Văn Thắng, 1985, Mấy suy nghĩ xung quanh vấn đề xây dựng nhân vật người chiến sĩ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh 1945- 1985, Văn nghệ quân đội, số 10 – 1985.
22.    Ngô Thảo, 1984, Tuổi trẻ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Văn nghệ quân đội, số 07 – 1984.
23.    Trịnh Thu Tuyết, 1999, Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng truyện ngắn, Tạp chí Văn học 01 – 1999.
24.    Hwang Seok Young, 1992, Hình bóng của vũ khí, tập I, NXB Sáng tác và phê bình, Seoul.
25.    Hwang Seok Young, 1992, Hình bóng của vũ khí, tập II, NXB Sáng tác và phê bình,  Seoul.

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp có tác động lớn đối với xã hội Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Cùng với việc thay đổi diện mạo văn hoá xã hội là sự thay đổi diện mạo của nền văn học. Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, nền văn học dân tộc chứng kiến sự tan rã của nhiều quan niệm văn học trung đại. Tuy thế, một quan niệm văn học cho thời kỳ cận hiện đại vẫn chưa được xác lập một cách vững chắc. Văn học đang dò dẫm tìm lối đi trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn học Phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, và một nền văn học không mấy xa lạ là văn học Trung Quốc. Song song với sự đổ vỡ của nền văn học cũ về nội dung, hình thức, thể loại, văn tự, là sự hình thành một quan niệm văn học mới. Tuyên ngôn của nền văn học mới, một chừng mực nào đó được phát biểu trong lời tựa cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ, Truyện thầy Lazarô Phiền, đã nói lên quan niệm nghệ thuật mới mẻ rất khác với tiểu thuyết trung đại về cuộc sống, xã hội và con người. “Đã biết rằng dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà những đấng thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi vì đó tôi mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn như vậy sẽ có nhiều người lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải buồn một giây”(1)

                                            
1. Quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại, xét về lịch sử, giống như dòng sông cuồn cuộn chảy. Và trong sự “vận hành” ấy, có những cái rơi rớt lại nhưng có cái vẫn còn theo mãi cho đến khi “dòng sông tư tưởng” ấy hòa mình vào “đại dương tư tưởng” mênh mông.
Trong buổi bình minh của lịch sử, con người cổ xưa đã biết sáng tác những “huyền thoại” bằng tư duy “mơ hồ, không tách bạch, không phân hóa” của mình để giải thích một số hiện tượng tự nhiên. Cho đến bây giờ, với sự xuất hiện những “kỹ thuật văn chương” hiện đại, tư tưởng huyền thoại ấy tưởng không còn được nhắc đến nữa nhưng thực sự, nó đã “phục sinh” lại với mức độ đáng kinh ngạc bắt đầu từ châu Mỹ La tinh vào những năm 60 của thế kỷ XX. Những sáng tác này tạo thành trào lưu văn học theo “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Các nhà văn của trào lưu này thường mượn những truyền thuyết dân gian xưa để tạo ra các huyền thoại mới. Các tác phẩm vừa có những cảnh tượng ly kỳ hư ảo, vừa có những chi tiết và hoàn cảnh hiện thực, gây cho người đọc cảm giác về những hiện tượng nghịch lý” (trang 53).
Nhắc đến phương thức “huyền thoại hóa” không thể không kể đến các sáng tác của Kapca. Trong những tác phẩm của mình, ông miêu tả tình trạng mâu thuẫn không thể giải quyết nổi giữa cá nhân và xã hội cũng như những mâu thuẫn bên trong tâm hồn nhân vật. Nhà văn coi bản chất của thế giới và con người như là một cái gì “phi lý, quái dị, không nhận thức được”. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Vụ án, Kapca đã xây dựng những biểu tượng nghệ thuật. Ông không miêu tả những sự việc có thật mà chú ý miêu tả những cái không cụ thể (khu phố, giới công thương…). Ngay cả nhân vật của tác phẩm cũng không được miêu tả cụ thể. Đó là một con người tên K., tự nhiên bị kết án. K. không hiểu bị kết án tội gì, ông tìm đến những vị chức trách tìm cách biện minh cho mình nhưng không ai biết, không ai giải đáp. K. chết như một con chó. Đời thật phi lý.
Thật ra, các chi tiết, sự việc trong tác phẩm không có cái gì quái dị hay hoang đường nhưng lại mang tính biểu trưng cao (biểu trưng là nét cơ bản của huyền thoại). Chính sự không hòa hợp giữa con người với cuộc đời, với xã hội mới là cái “vô lý và quái dị”. Điều này cũng được thể hiện qua truyện ngắn Hóa thân. Nhân vật trong tác phẩm hóa thành con gián, cắt đứt quan hệ với gia đình, với thế giới bên ngoài. Xamxa tự vật lộn với chính bản thân mình, muốn tiếp xúc với ngoại cảnh nhưng không được. Đây chính là bi kịch. Qua tác phẩm, Kapca cho thấy sự vô lý của cuộc sống: cá nhân con người không thể hòa hợp với gia đình, với thế giới xung quanh để cuối cùng biến thành con vật.
Một tác phẩm cũng sử dụng khá thành công phương thức“huyền thoại hóa” là Trăm năm cô đơn của Macket. Trong tác phẩm, nhà văn đã đưa vào nhiều thực tại để mô tả và đẩy những cái có trong hiện thực thành những cái “phi hiện thực”, thậm chí trở thành cái quái dị. Chẳng hạn, trong tác phẩm có chi tiết Rémédiod- người đẹp đang tồn tại giữa trần thế lại không thuộc về cõi thế tục mà nàng đang sống nên cuối cùng Rémédiod bay lên trời. Hoặc có nhiều chi tiết không thực nhưng do nhà văn căn cứ vào cảm quan của mình mà sáng tạo ra: những trận mưa lụt, mưa hoa, cái đuôi lợn của con người, vụ thảm sát 3000 người ở Côlômbia…
Qua cái có thực và cái không có thực, qua số phận của từng con người, tác giả Trăm năm cô đơn muốn thể hiện một hiện thực: đó là sự tù đọng, trì trệ của xã hội Mỹ-Latinh thời bấy giờ cũng như kêu gọi con người đoàn kết để thoát khỏi sự trì trệ ấy.
Tóm lại, sự bùng nổ của văn xuôi Mỹ- Latinh trong đời sống văn học thế giới những năm 60 đã khẳng định được vị trí của “kiểu sáng tác huyền thoại” trong văn học hiện đại. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: “Trong văn học thế giới suốt từ đầu đến cuối thế kỷ này, kiểu sáng tác huyền thoại vẫn luôn luôn sống động, thu hút nỗ lực của nhiều tác giả lớn”11 Lại Nguyên Ân – Văn học, huyền thoại, huyền thoại văn học – Tạp chí văn học số 3/ 1992, tr.58.
2. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại chưa sử dụng phương thức “huyền thoại hóa” một cách phổ biến, một số tác phẩm chỉ mới manh nha viết theo phương thức này. Tuy chưa xuất hiện đậm nét song chúng ta vẫn coi đây là một phương diện cách tân nghệ thuật đáng chú ý, góp phần làm phong phú thêm phương diện thể hiện hiện thực, thể hiện số phận con người và tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm.
2.1 Trong Lời nguyền hai trăm năm, để thể hiện sự trừng phạt ghê gớm của số phận, sự sòng phẳng đến lạnh lùng của cuộc sống đối với con người, nhà văn Khôi Vũ đã sử dụng khá linh hoạt thủ pháp này. Nhờ thủ pháp “huyền thoại, huyền ảo” kết hợp với thủ pháp “đồng hiện”, tác giả đã hòa trộn những bức xúc, những xô xát quyết liệt của cuộc sống hôm nay với cái huyền bí, mờ ảo của lịch sử hai trăm năm trước thành một dòng chảy không ngừng. Hai năm năm nghiệt ngã một lời nguyền- lời nguyền phải làm điều ác tâm mới có nguời “nối dõi tông đường”, dòng họ Lê bốn đời liền phải sống trong lo âu, phải làm điều thất đức. Người duy nhất của dòng họ Lê đời thứ năm lại quyết tâm “hóa giải” lời nguyền. Để cưỡng lại sự nghiệt ngã của cuộc đời, Hai Thìn đã đấu tranh không chỉ chống lại những ràng buộc, những chèn ép của cuộc sống hiện tại mà còn phải gạt bỏ những ám ảnh của quá khứ.
Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng được hai tuyến nhân vật  đối ngược nhau. Một bên là những người luôn tin vào điều thiện, quyết chống lại cái ác (Hai Thìn, ông Bảy, Lài…). Một bên là những con người không có nhân cách, mù quáng, dã tâm- những con người “trước sau cũng bị quẳng vào sọt rác của lịch sử” (Năm Mộc, Sáu Khế, Năm Hường…).
Cuộc sống là một chuỗi những cuộc săn tìm cái đẹp. Con người sống luôn hướng đến cái thiện - mỹ, chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng ấy bất hạnh còn đến với con người. Qua tác phẩm, nhà văn muốn kêu gọi con người phải quyết liệt chống lại cái ác. Cuộc sống tốt đẹp không ở đâu xa, ở ngay trên mảnh đất mà mình đang sống; làm những điều tốt đẹp, đem lại hạnh phúc cho mọi người cũng có nghĩa là chúng ta đem lại hạnh phúc cho chính mình.
Lời nguyền hai trăm năm được xây dựng trên nhiều yếu tố không thực, hư ảo. Đó là lời nguyên ác độc và ghê rợn. Nhưng niềm tin vào cuộc sống, vào những điều tốt đẹp mà tác phẩm đem lại cho con người là hoàn toàn có thật. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về chức năng của văn học, tác giả Huỳnh Như Phương đã khẳng định: “Nghĩ rằng văn học có thể làm cho trên thế gian này cái thiện thắng cái ác, đó là một ảo tưởng. Nhưng văn học có thể góp phần giữ cái thiện ở thế cân bằng với cái ác, làm cho cái thiện không bị chao đảo, ngả  nghiêng, mất tự tin vào chính mình”11 Huỳnh Như Phương- Văn học trên con đường dân chủ hóa-Tạp chí văn học số 4/1991, tr.14- 17.
.
2.2. Một dạng sáng tác sử dụng phương thức “huyền thoại hóa” mà chúng ta gặp trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là các nhà văn mượn điển tích hoặc tạo ra những “huyền tích” riêng cho tác phẩm của mình. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Thiên sứ, tác giả Phạm Thị Hoài đã sáng tạo ra nhân vật cô bé Hoài với những chi tiết kỳ lạ. Sau khi  vô tình đặt chân vào “vườn cấm của papa” (tủ sách gia đình), cô bé Hoài nhận thấy mình “đã lãnh trọn tội tổ tông” và vĩnh viễn “không bao giờ còn trinh trắng nữa” nên có một hành vi “dị thường”: quyết định “đình tăng trưởng” ở tuổi mười bốn. Vì “không muốn trở thành người lớn”, bé Hoài đã “trút kinh nguyệt một lần cho mãi mãi, vắt bỏ, cạn kiệt, tẩy sạch mọi khả năng thành một người đàn bà như những người đàn bà, một kẻ trưởng thành như tất cả những kẻ trưởng thành trên thế gian ” khi đến tắm ở vòi nước công cộng (tr. 98). Và như thế, sau “lễ rửa tội năm tiếng đồng hồ” ấy, cô bé Hoài vẫn ở tuổi mười bốn (một mét hai mươi nhăm, ba mươi kg, đuôi sam) trong khi chị Hằng- người chị sinh trước chưa đầy một phút xinh đẹp như một nàng tiên cá. Cô bé ấy đã “đình tăng trưởng”- giữ nguyên tuổi mười bốn để không hòa nhập vào thế giới người lớn, để quan sát cuộc sống xung quanh theo kiểu của mình. Rồi cũng hết sức kỳ lạ, mười lăm năm sau, bé Hoài, đã “trút bỏ hình hài chú vịt con xấu xí”, “hóa thân” thành “một người đàn bà 29 tuổi lộng lẫy, giống chị Hằng như hai giọt nước” (tr.164). Đó là khi cô bé Hoài bắt gặp chàng trai của đời mình- người mà cô đã “ôm riết lấy bậu cửa sổ, thu mình chờ đợi đến quên cả giọng nói” suốt mười lăm năm.
Theo tác giả Lại Nguyên Ân thì nhà văn Phạm Thị Hoài đã mượn điển tích từ tiểu thuyết Cái trống thiếc của nhà văn Gunther Grass (Điều này cũng được tác giả  chú thích ở lời đề từ cuốn tiểu thuyết Thiên sứ: “Cuốn sách bắt đầu từ một điển tích của nhà văn G.G…” ). Vì trong cuốn Cái trống thiếc có câu chuyện một cậu bé chủ ý ngã vào cái trống và mang tật để luôn luôn là đứa trẻ lên bảy để quan sát và phản ứng với thế giới xung quanh11 Lại Nguyên Ân- Sống với văn học cùng thời- NXB Văn học, H. 1998, tr.285.
.
Ngoài ra, trong tác phẩm, chúng ta còn gặp rất nhiều chi tiết khác cũng được “huyền thoại hoá”. Đọc Thiên sứ, nhân vật để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc là bé Hon - “thiên sứ pha lê” mặc dù nhân vật chỉ xuất hiện rất ngắn ngủi (4/164 trang sách). Đây là kiểu nhân vật mà từ khi còn trong bụng mẹ đến khi sinh ra và mất đi đều gắn với những điều kỳ lạ, hoang đường. Chẳng hạn, khi lọt lòng mẹ, con bé “không chịu cất tiếng khóc mà mỉm cười làm thân với đủ mười ba nữ hộ sinh đứng quanh bàn đẻ. Thế là cả mười ba, lúc đầu ngơ ngác, sau bật khóc như một dàn đồng ca…”. Trong khi đó, nó lại “mỉm cười với bố khiến ông ngã phịch xuống một chiếc ghế” (tr. 93). Những ngày tháng sống trong gia đình, bé Hon đem lại cho mọi người biết bao điều kỳ lạ: miệng lúc nào cũng cười khiến cho “thế giới vụt sáng trong và hiền lành, mang bộ mặt hài đồng như trong nôi” (tr. 94). Rồi cuộc sống vốn không quen với những điều lạ mà bé Hon đem lại. “Cỗ máy tâm lý” phức tạp của con người không chịu đựng nổi những nụ cười mê hồn, những cái “thơm nào” hào phóng của “thiên sứ pha lê” nên tất cả bắt đầu “rò gỉ” và bé Hon đã ra đi “mang theo bí mật về sự có mặt lạ lùng của nó” ở trên đời này (tr. 96). Sau khi chết, bé Hon cũng để lại những điều kỳ lạ. Tác giả miêu tả đoạn bốc mộ bé Hon như sau: “Lúc mở ra, quan tài trống không, thơm tho sạch sẽ, đọng duy nhất nụ cười làm thân với muôn vật của Thiên sứ pha lê bị trục xuất” (tr.96).
Bên cạnh bé Hon, còn có những chi tiết khác cũng được “huyền hoặc hóa” như  chi tiết “hai trăm chín mươi chín phò mã” tranh đua trong lễ cầu hôn của chị Hằng. Họ “túa khắp các ngả phố, kẻ tấn công chùa chiền, kẻ lao từ Intershop ra các nhà vệ sinh công cộng, kẻ lê gót bến tàu bến xe, kẻ cày nát từng ngọn cỏ, chọc thủng từng ghế đá bốn mươi chín công viên lớn nhỏ trong thành phố….” (tr.121). Cuối cùng, chỉ còn lại “mười vận động viên khôn ngoan và hùng mạnh” bước vào vòng hai: dâng lễ vật. Chất “huyền hoặc” còn thể hiện ở các kiểu “lễ vật” mà đám “phò mã” đem dâng: nào là hoa và rau thơm, nào anatomie parfaite của lương tâm con người, nào đàn gà khổng lồ công kênh rổ trứng tròn xoe đánh số từ một đến hết cùng với “lũ lợn thật, lợn đất, lợn giấy”, rồi quả cầu “đúc bằng vàng nguyên chất, khắc nổi những ngả đường mầu nhiệm tỏa khắp thế giới văn minh” vv và vv… Mỗi người tùy theo tính chất nghề nghiệp mà chọn lễ vật xứng đáng để dâng tặng “nàng Mỵ Nương kiêu hãnh”.
Còn rất nhiều tình tiết khác trong tác phẩm được miêu tả một cách huyền ảo với nhiều sắc thái khác nhau. Đặc biệt, tất cả những chi tiết ấy đem lại cho người đọc cảm giác vừa lạ vừa quen. Lạ ở cách viết, ở giọng văn hài hước, mỉa mai. Quen vì tác giả luôn chú ý miêu tả mọi việc một cách cặn kẽ, tỏ ra rất chân thực. Mặc dù biết những điều ấy không thể xảy ra trong cuộc sống hiện tại nhưng người đọc vẫn có cảm giác như gặp ở đâu đấy những “mô hình người” lập dị; những cảnh hỗn độn, nhố nhăng; những yếu tố “dị thường” của văn hóa thời “mở cửa”…Qua cái thực tại được “ giai thoại hoá”, “huyền thoại hoá” ấy, tác phẩm muốn phản ánh hiện thực xã hội mà nhân vật đang sống. Phải chăng, xã hội vốn luôn tồn tại những điều thực và ảo. Những điều ấy nhiều khi lẫn lộn, chúng ta rất khó phân biệt. Đặc biệt, qua những chi tiết kỳ lạ trong cuộc đời, trong tính cách của nhân vật bé Hoài, nhà văn muốn nói đến nhiều vấn đề của xã hội lúc bấy giờ như trạng thái văn hóa, vấn đề nhân cách, tri thức… của con người. Trong xã hội ấy xuất hiện bao kẻ xu thời, cuồng tín, chạy theo đời sống tiện nghi, chạy theo vật chất, quyền lực…Thật khó tìm thấy trong tác phẩm nhân vật nào có sự hoàn thiện về nhân cách (trừ bé Hon - thiên sứ pha lê). Bởi vậy, nhân vật bé Hoài có sự phản ứng trước thực trạng văn hoá, xã hội ấy và có khát vọng thoát khỏi trạng thái văn hóa nghèo nàn, khuôn mẫu để vươn tới một xã hội có nền văn hóa rộng lớn hơn, tốt đẹp hơn. Và muốn có được điều đó, nhân vật phải tự mình nhận thức, tự mình hoàn thiện chính mình. Có thể xem chi tiết “ hoá thân” kỳ diệu của bé Hoài vào tuổi hai mươi chín là kết quả tuyệt vời của quá trình tự nhận thức ấy của con người.
2.3. Đặc biệt, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã sử dụng phương thức này một cách độc đáo. Có người cho rằng, tiểu thuyết của Bảo Ninh là “một giấc mơ dài, một huyền thoại của thời đại”. Bởi nó được “hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn, từ vô thức, man rợ, từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh”11 Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học - NXB Khoa học – Xã hội, NXB Mũi Cà Mau 1994, tr.174.

Đọc Nỗi buồn chiến tranh, cảm giác đầu tiên của chúng ta là rùng rợn, hãi sợ, đau xót và đôi lúc như nghẹt thở. Quả thật, cảm giác ấy xuất hiện trong người đọc ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm. Trước hết, cảm giác ấy bắt đầu từ những giấc mơ khủng khiếp chứa đựng những cái không bình thường. Cùng với những giấc mơ ấy là những đêm tối âm u, tù mù, hư ảo; những trận mưa xối xả trong đêm, những tiếng hú ghê rợn từ cõi âm vọng về…
Theo nguyên tắc sáng tác của “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”, Bảo Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh cũng “biến hiện thực thành hoang đường” mà không đánh mất tính chân thực”.22, 3 Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi- Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục 1992, tr.53.
 Và để gây “hiệu quả hoang đường”, để bộc lộ được những giằng xé, trăn trở, những cắn rứt trong lương tâm nhân vật, tác giả đã sử dụng nhiều chi tiết không thực “phóng đại, liên tưởng, người và hồn ma bất phân, trật tự thời gian bị xáo trộn, thực và ảo hòa quyện nhau”3. Ta gặp trong tác phẩm bao nhiêu điều kỳ dị, nhất là khi tác giả vẽ lại những cảnh vật lưu lại dấu ấn cho mình trong chiến tranh. Từ loài “hoa hồng ma” quỷ quái làm say lòng người, giúp con người “tự chế ra cái ảo giác tùy sở thích” (tr.14), từ con đom đóm to quá cỡ đến các loại măng đỏ “như những tảng thịt ròng ròng máu” (tr.7)…,tất cả đều xa lạ và đáng sợ. Rồi những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy về cuộc chiến tranh “những lời đồn đại, những sấm truyền và những lời tiên tri” (tr.15). Còn bao nhiêu điều kinh dị khác lẫn khuất trong tác phẩm. Chẳng hạn, người lính đã nhìn thấy tận mắt “vô khối sự hão huyền”. Đó là “những quái vật lông lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kỳ nhông kéo lê lết và họ ngửi thấy mùi tanh máu từ chúng, nghe thấy chúng gào rú và ca hát trong kia truông Gọi Hồn” (tr.15). Rồi xuất hiện trong tác phẩm những “toán lính da đen không đầu chơi trò rước đèn ở ven rừng”. Ghê rợn hơn là “những tiếng hú mang dại thường cất lên vào những buổi tinh mơ mờ mịt mưa giăng” (tr.15). Chưa hết, người lính còn nghe thấy những “tiếng cười cuồng loạn nức nở” của loài quỷ rừng- tiếng cười ám ảnh con người đến bao nhiêu năm bên bờ sông Sa Thầy. Rồi họ còn thấy “những linh hồn lồm xồm lông lá…, râu tóc quá dài, cởi trần truồng ngồi trên một thân cây…tay cầm lựu đạn” (tr.101); những “bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay” (tr.104). Kinh khủng hơn nữa là có khi “một con vượn bị bắn chết hóa ra là một người đàn bà da xùi lở” (tr.9)vv…
Có lúc hồn ma chỉ là những ám ảnh bên ngoài, có lúc hồn ma ấy được con người đối thoại, trò chuyện như đồng đội, đồng chí của mình: “Anh là ai? Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi” (tr.103). Hồn ma vốn vô cảm, vô hồn nhưng với người lính lại thân thiết biết bao nhiêu. Bởi chúng cũng từng là những con người biết cầm súng, biết yêu thương.
Tất cả những điều ấy đều xa lạ và kỳ quái với con người. Những bóng ma, bóng quỷ, những con quái vật kỳ dị trong tác phẩm chúng ta đã từng gặp đâu đó trong những truyện thần thoại hay những truyện cổ tích thần kỳ. Nhưng trong Nỗi buồn chiến tranh, tác giả sáng tác những huyền thoại ấy xuất phát từ tâm hồn bấn loạn, từ những bóng đêm âm u của tiềm thức, từ những cảm giác của con người bị ám ảnh bởi chiến tranh. Những huyền thoại ấy vừa gợi nhớ thế giới huyền bí xa xưa vừa gắn chặt với những kỷ niệm đau thương của chiến tranh nên càng gây cảm giác hãi sợ, kinh hoàng.
Phóng đại, khoa trương cũng là hình thức gây hiệu quả hoang đường. Không chỉ đưa người đọc vào một thế giới toàn hồn ma, bóng quỷ ẩn hiện, nhà văn còn chú ý miêu tả những cái chết ghê sợ và kỳ lạ. Đời người lính phải chứng kiến biết bao cái chết nhưng với Kiên, những cái chết ấy sao thảm thương, đau đớn quá! Có những người chết mà không được một nấm mồ, chết mà không còn nguyên vẹn thân xác để hồn mãi lang thang: “hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người” (tr.26). Có những người chết trở thành “đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự” (tr.90). Bao nhiêu cái chết dồn dập về trong tâm trí anh. Trận Plây-Cần năm 1972 “thây người la liệt”, “máu tới bụng chân, lội lõm bõm” (tr.23). Cứ thế, những cái chết chồng chéo lên nhau hoảng loạn, kinh hoàng. Cho đến khi Kiên viết lại cuốn tiểu thuyết chiến tranh của đời mình thì không khí của truyện là “bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà. Những di vật và những bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy” (tr.93).
Ngoài phóng đại khoa trương, tác giả còn sử dụng những hình tượng, những biểu tượng để phản ánh hiện thực một cách “huyền ảo”, hoang đường. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta có cảm giác mưa và bóng đêm lấp trùm, đè nặng lên từng trang tiểu thuyết. Ta gặp trong tác phẩm vô vàn những trận mưa kỳ lạ: “mưa dầm”, “mưa xối xả”, “mưa núi non nhạt nhòa”, mưa ngút trời”, “mưa ê ẩm”, “mưa lê thê”, “mưa to”, “khắp nơi lằng nhằng sấm chớp”, “mưa nặng nề xối dội”, “mưa ngày”, “mưa đêm”, và “cuộc chiến có vẻ như bị vùi lấp trong biển mênh mông mù mịt mù mưa” (tr.16). Theo  Đỗ Đức Hiểu, tác giả đã “sáng tạo một vũ trụ mới của cuộc chiến, vũ trụ chìm trong mưa và mưa là biểu tượng khủng khiếp của chiến tranh”11  Đổi mới phê bình văn học- Sđd, tr.275.
Cùng với mưa - “biểu tượng của chiến tranh” là bóng đêm. Vô vàn những đêm là đêm trong tác phẩm. Đêm với bao nhiêu điều kỳ dị hư vô: “đêm hoang vu”, “đêm ác mộng”, “đêm của tâm hồn”, “đêm đen”, “đêm âm u”, “đêm rét mướt”, “đêm thác loạn”, “đêm kỳ ảo”, “đêm trường”, “đêm thức trắng”, “đêm hương hoa”…
Phải chăng, mưa là “biểu tượng của chiến tranh” còn đêm là biểu tượng cho đời sống tâm hồn của nhân vật Kiên? Đi ra khỏi cuộc chiến tranh, Kiên sống những tháng ngày u buồn của thời hậu chiến. Anh luôn bị ám ảnh bởi quá khứ - cái quá khứ mà anh đã gởi tất cả sức xuân, niềm vui và nỗi đau của mình vào đó. Với Kiên, tương lai là một cái gì đó xa mờ và tăm tối…Vì thế, bóng đêm đã trở thành nỗi ám ảnh đối với anh. Có biết bao điều quái lạ xảy ra trong những đêm đen như thế. Tiếng hát của những người đã chết huyền bí, thì thào như hoàn toàn hư, hoàn toàn thực từ cõi mông lung gọi về “xót xa, bi tráng như nhắc nhở những con người còn sống đừng quên năm tháng vinh quang khổ đau bất tận”(tr.94) cũng cất lên khi “bóng đêm vùi kín rừng cây”. Có những cái không thể có lại được viết ra như thực trong cái vô biên của tâm hồn để trở thành huyền thoại. Đó là câu chuyện về một người lính khi chết được bó trong một tấm tăng nằm lại trên đèo, xương cốt hóa mùn cả nhưng cây đàn guitare của anh vẫn còn nguyên vẹn. Và đêm đêm, người ta lại nghe thấy tiếng hát của con người vô danh ấy vang vọng mãi trong lòng rừng…”.
Mưa và bóng đêm khủng khiếp và hồn hoang, ảo giác, hồn ma, những cơn mộng du… tạo cho tác phẩm một hiện thực “huyền ảo, mơ hồ”. Và chính những cái không thực mang màu sắc huyền hoặc, mờ ảo ấy đã phản ánh rất thực đời sống tâm hồn nhân vật- những con người bị ám ảnh bởi năm tháng chiến tranh.
Viết về tình yêu giữa Kiên và Phương, nhà văn cũng xây dựng nhiều yếu tố kỳ lạ. Nhân vật Phương hết sức kỳ quái: đẹp kỳ quái, yêu thương kỳ quái và tính cách cũng rất kỳ quái. Trong văn học, chưa có người phụ nữ nào được miêu tả như Phương: “đẹp mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người, đẹp một sắc đẹp kỳ ảo và khôn lường, đẹp một cách đau lòng, đẹp như thể một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực” (tr.275). Cuộc đời Phương và tình yêu của Phương là một huyền thoại không dứt, mênh mông và huyền ảo. Phương vừa có thực, vừa như không có thực. Nàng xuất hiện giữa cuộc đời Kiên như một điềm báo không lành để rồi mãi mãi ám ảnh không dứt trong Kiên.
Ngoài ra, xây dựng nhân vật “người đàn bà câm” lầm lũi, lặng thinh nhưng bùng cháy một sức sống mãnh liệt, một nghị lực phi thường cũng là một bút pháp nghệ thuật độc đáo của Bảo Ninh. Cuộc đời của người đàn bà câm ấy cũng là một huyền thoại. Có người cho rằng đó là “sự tái sinh từ các truyền thuyết xa xưa của nhân loại, từ “mẫu cổ xưa” thần giữ của”11 Đỗ Đức Hiểu- Những nhịp mạnh của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”- Tạp chí Tác phẩm mới, số 1/1992.
. Người đàn bà ấy chỉ là bóng ma âm thầm cô độc, một thế giới đóng kín nhưng lại là người duy nhất chứng kiến cuốn tiểu thuyết của Kiên – cuốn tiểu thuyết ra đời trong cơn say, trong điên cuồng, hỗn loạn. Có thể nói, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cuốn tiểu thuyết “huyền thoại” được kết tinh từ những nỗi buồn.
Thể hiện tất cả những cái ấy, ngòi bút của Bảo Ninh vừa tả thực, rất “tỉnh táo”, vừa dùng bút pháp “huyền thoại”, huyền bí mơ hồ. Sở dĩ như vậy vì nhân vật trong tác phẩm luôn sống trong “vô thức”, tiềm thức, đan xen với “ý thức”. Đó là con người “được sống sót” và bị ám ảnh bởi những năm tháng chiến tranh, ám ảnh bởi một thời kỳ lịch sử khốc liệt mà mình là một “chứng nhân”. Tâm lý của Kiên là tâm lý của người mà cảm xúc bị nén chặt trong vô thức “tìm cách nhoi ra” 22 Chữ dùng của Phrơt  vùng ý thức nên không bị biến dạng đi. Bởi vậy, hiện thực có hiện ra trong Kiên qua “vô thức” hay “hữu thức” cũng không còn nguyên vẹn mà bị tách rời, chắp nối, hoà quyện, không phân biệt được đâu là thực, đâu là không thực. Mặt khác, chiến tranh được dựng lại (chứ không phải được miêu tả lại) qua hồi ức, qua giấc mơ, qua ảo giác, qua những “hồi tưởng đen” nên bị chi phối bởi những ám ảnh, những nỗi sợ hãi khiến cho hiện thực trở nên không thực nữa.
Thực ra, chính những chi tiết hoàn toàn không thực ấy lại nói được những điều rất thực: tình người trong chiến tranh và những mất mát đau thương mà chiến tranh để lại. Quả thật, người đọc nhận ra trong thế giới toàn hồn ma bóng quỷ ghê rợn ấy cái tâm “sáng rực” của con người. Không dễ dàng tìm thấy được ở những nơi khác (kể cả cuộc sống hòa bình) cái tình người chân chất mà sâu nặng như trong chiến tranh- yêu thương lắm và cũng đau buồn lắm. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhà văn nổi tiếng Đốtxtôiepxki đã ví cuộc sống thời bình là nơi “quỷ vật lộn với thần” còn “chiến trường là trái tim con người”.

3. Chúng ta đã biết, chân lý là mục đích cuối cùng mà khoa học tìm đến. Nhưng trên bước đường tìm đến chân lý, con người phải trải qua nhiều chặng đường vất vả, gian nan. Trong đó có thể có những điều nhận thức đúng, có thể có những điều chưa đúng, có thể có những ước mơ, những ảo tưởng… Tồn tại những cái đó, rõ ràng “tư duy huyền thoại” vẫn còn. Vì thế, trong văn học, đặc biệt là dòng văn học hiện thực thế kỷ XX, xuất hiện nhiều khuynh hướng nghệ thuật trong đó có khuynh hướng sáng tác huyền thoại. Với phương thức “huyền thoại hóa”, các nhà văn tiếp cận, lý giải được những hiện tượng phức tạp về ý thức, cả trong vô thức, tiềm thức của con người.
Có thể nói, phương thức “huyền thoại hóa” giúp nghệ thuật vượt lên trên mâu thuẫn giữa cái vô thường và tính chất trường tồn của thời gian, giúp con người lý giải được những điều mà bình thường không lý giải được, trong đó, có lý giải đời sống nội tâm của chính con người …
                         
 
Tài liệu tham khảo:
1. Lại Nguyên Ân- Sống với văn học cùng thời - NXB Văn học, H.1998.
2. Lại Nguyên Ân- Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại – Tạp chí Văn học số 3/1992, tr. 58-61.
3. Đặng Anh Đào- Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại- NXB Giáo dục. 1995
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi- Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục, 1992.
5. Đỗ Đức Hiểu- Đổi mới phê bình văn học- NXB Khoa học Xã hội, NXB Mũi Cà Mau. 1994
6. Đỗ Đức Hiểu- Những nhịp mạnh của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”- Tạp chí Tác phẩm mới, số 1/1992.
7. Phạm Thị Hoài – Thiên sứ - NXB Trẻ Tp.HCM.1989.
8. Bảo Ninh- Nỗi buồn chiến tranh- NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 1991
9. Hoàng Trinh – Phương Tây văn học và con người – NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 1999.
10. Phùng Văn Tửu- Tiểu thuyết Pháp hiện đại- Những tìm tòi đổi mới- NXB Khoa học Xã hội, NXB Mũi Cà Mau. 1990.
11. Phùng Văn Tửu- Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI - NXB Thủ pháp. Hồ Chí Minh. 2001.
12. Khôi Vũ- Lời nguyền hai trăm năm - NXB Thanh Niên, H.1987

Là một trong số những nhà thơ làm thơ từ khi đất nước còn trong những năm tháng chiến tranh cho đến khi hòan tòan độc lập và chuyển mình thay đổi cùng thời cuộc, Nguyễn Duy luôn luôn trăn trở và luôn tìm cách đổi mới giọng điệu để thích hợp với hòan cảnh. Vốn từng “ca hát quá nhiều về tiềm lực”, lúc cần thiết phải thay đổi, Nguyễn Duy sẵn sàng trở thành người vận động mọi người “đánh thức tiềm lực”, sẵn sàng làm những “câu thơ tuẫn tiết” khi không còn “rưng rưng”, không thể “tình tang phiêu lưu”.

1. Trong các tác gia văn xuôi vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, Bình Nguyên Lộc là nhà văn có số lượng tác phẩm đã viết và đã xuất bản thuộc vào hạng nhiều nhất. Các sáng tác của ông ít nhiều đã có ảnh hưởng tích cực đến đời sống sáng tác và con người Nam Bộ trước đây cũng như bây giờ.

 (Trích luận văn thạc sĩ)

Mở đầu

1. Chủ nghĩa siêu thực là sản phẩm của môi trường thẩm mỹ hiện đại, trong đó, tác phẩm không còn thẳng tắp, một chiều, không còn du dương, dễ nghe như trước, mà dung chứa sự phức tạp, đa chiều của một nhân loại bị đấu tranh sinh tồn ám ảnh. Người nghệ sĩ tìm đến sáng tạo nghệ thuật như là tìm một nơi trú ẩn trước đời sống hiện thực, trước sự tàn phá của trí tuệ và logic truyền thống. Vì vậy, muốn nắm bắt được tác phẩm siêu thực nói riêng, chủ nghĩa hiện đại nói chung, nên hiểu, nên quen với môi trường thẩm mỹ hiện đại.

Xuan DungNguyễn Thị Xuân Dung sinh năm 1985, sinh viên lớp  Cử nhân tài năng chuyên ngành Văn học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, khóa 2003 – 2007. Hiện đang học Cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Công tác tại Đại học Văn Lang.

 

 

Chiến tranh tàn phá về vật chất, gây nên những mất mát đau thương trên thân thể, trong tâm hồn, nhưng trước hết và trên hết, nó đã làm ức chế, tước đoạt những nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con người.

 

l

              Rất tiếc do binh lửa, thiên tai nên quyển luận thuyết triết lý Thiền tông chỉ nam không còn. Hiện chỉ còn lại bài Tựa của sách mà người đời sau khắc in chung trong Khoá hư lục của cùng tác giả. Không hiểu tại sao trong cuốn sử Phật giáo viết bằng tiếng Pháp Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle của Trần Văn Giáp và sau đó ít lâu trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược (1942) của Mật Thể đều khẳng định “sách còn truyền đến ngày nay”. Việc sách còn hay mất không thuộc phạm vi bài viết này (dù cho đến nay vẫn chưa tìm thấy). Có điều, tài liệu cũ cho biết người xưa đã đánh giá rất cao “Ôi! Tâm của các Đức Phật ở cả trong này, sao không in thành sách để chỉ dạy cho hậu thế” như lời của Trúc Lâm đại sa môn mà tác giả sách có ghi lại trong bài Tựa; hay như Mật Thể đã xem nó là “báu vật trong vườn Thiền Việt Nam” (Việt Nam Phật giáo sử lược).

Nguyen TraiXưa nay người ta nói nhiều về thơ Nôm của Nguyễn Trãi, nổi bật vẫn là hình ảnh mùa xuân hiện ra thật phong phú, tươi trẻ và sống động. Nếu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi “mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp hoàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến” thì còn một mùa xuân suy tư và ẩn ức, có vẻ già cỗi hơn, riêng tư hơn, chất chứa những nỗi niềm sâu lắng bàng bạc trong dòng thơ chữ Hán của ông.

Hoang Hung

1. “Người thơ phong vận như thơ ấy” - hành trình thơ và đời Hoàng Hưng

Ròng rã suốt một năm đi dọc sông Dương Tử để quên đi bệnh tật và lo âu, Cao Hành Kiện đã hoàn tất Linh Sơn, kiệt tác đưa ông đến giải thưởng Nobel danh giá. Trước đó gần ba trăm năm, lang thang trên con đường sâu thẳm tìm kiếm vẻ đẹp tinh thần Nhật Bản, Basho trở thành hành giả - thi nhân, người mà đến nay vẫn được xem là biểu tượng cho sức sống kỳ diệu của thơ Haiku, của hồn thiền Nhật Bản.

Trong rất nhiều sự kiện văn hóa lớn của năm 2023: Kỷ niệm tròn 80 năm ra đời của Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943; Kỷ niệm 80 năm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... chúng ta xúc động tưởng nhớ, ghi ơn sâu sắc một nghệ sĩrất lớn trong âm nhạc, hội họa, thơ ca của đất nước và nhân dân ta - đó là Văn Cao. Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, quê gốc Nam Định, lớn lên, đi vào con đường nghệ thuật, tham gia cách mạng tại thành phố biển luôn ầm ào, dữ dội Hải Phòng rồi ngược lên Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước ngàn năm qua.

20240410 3
Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) (Nguồn: Internet)

    Nghệ thuật ở Văn Cao, với Văn Cao, như là thiên bẩm, như là trời cho, nhưng mà trời đất, thần Phật đã ban cho ông một cách hào phóng, ăm ắp, tinh túy, đa thanh, đa sắc, đến độ kỳ tài, đặc biệt nổi trội, khác biệt. Nhưng chính cái kỳ tài ấy, có thể gọi là thiên tài ấy, còn là sự tự học, tự sáng tạo, tự đốt cháy mình, nó đưa ông lên tột đỉnh vinh quang và cũng có lúc gieo khổ đau, tai họa, cay đắng cho ông, đến mức “nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Cụ Nguyễn Du từng nói như là một sấm ký “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Điều đó vận đúng vào chính Cụ, gần ba trăm năm trước, và vận đúng vào một người cũng họ Nguyễn, là Văn Cao, gần ba trăm năm sau.

    Về “chữ tài”, trong âm nhạc, Văn Cao năm 16 tuổi viết Buồn tàn thu,rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình mới mẻ, ám ảnh, da diết cả nhạc và lời trước năm 1945 như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, rồi Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc… nặng nỗi buồn đau nhân thế, nặng trĩu ưu tư; ông còn viết thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao học dự thính tự do Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương; năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Thái Hà ấp đêm mưa…, nhất là bức tranh Cuộc khiêu vũ của những người tự tử (Le Bal aux suicides). Những bản nhạc của ông được in ra đều do tự tay ông vẽ bìa, và như người bạn họa sĩ cùng thời Tạ Tỵ nhận định: tranh của ông “đi rất gần với trường phái lập thể”.

    Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh Tiến quân ca (ngay trong Cách mạng tháng Tám, năm sau trở thành Quốc ca Việt Nam). Đây là dấu mốc Văn Cao chuyển từ phong cách nghệ thuật lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách nghệ thuật cách mạng-kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ. Từ năm 1945 trở đi, ông viết Bắc Sơn,rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Chiến sĩ Việt Nam, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… tiếp đó là Làng tôi, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, đặc biệt là ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch và Trường ca Sông Lô… Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện Chị Dậu (1980), tổ khúc giao hưởng cho phim tài liệu Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những chuyển dời, dâu bể, trầm luân,rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như Dân công miền núi,Chợ vùng cao, Lớn lên trong kháng chiến, Người Mông dắt ngựa, Người Mông uống rượu, Cá, Người đàn bà dài vú nuôi con...

    Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm đặc biệt nổi tiếng và duy nhất sau năm 1975 Mùa xuân đầu tiên...; trong hội họa là Chân dung bà Băng, Chân dung Đặng Thai Mai, Cổng làng, Phố Nguyễn Du, Ngựa, Cây đàn đỏ, Cô gái và đàn dương cầm, Chân dung tự họa… Ông vẽ hàng trăm bìa sách cho nhiều văn nghệ sĩ, hàng trăm bức minh họa, đồ họa khác cho Báo Văn nghệ và vài ba tờ báo khác. Trong thơ là Ba biến khúc tuổi 65, Thời gian, Phố Phái, Những bó hoa… Các bài thơ được tập hợp trong tập Lá và Tuyển tập thơ Văn Cao.

    Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên; trong hội họa là Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Chợ vùng cao, Uống rượu…; trong thơ là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Giấc mơ… đã thấy những bảo chứng sinh động cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc, hội họa và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn, hiện thực đến cách mạng, kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca trong nhạc, trong thơ. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết và thống nhất.

    Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng những sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khitiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Linh cầm tiến, Ly khách... Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

    “Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
    Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
    Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
    Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng
    Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
    Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút
    Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”
                                         (Những người trên cửa biển).

    “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Tamuốn gói cuộcđời gọn gàng nhưtrái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men” (Những người trên cửa biển).Nhiều nhà văn hóa lớn, các nhà lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ, các văn nghệ sĩ có tên tuổi đã từng được hỏi hoặc nếu được hỏi: Ở Việt Nam, thế kỷ XX, ai là nghệ sĩ lớn nhất, có nhiều sáng tạo mang tính đột phá, để lại dấu ấn đa dạng và sâu đậm nhất, có đóng góp rất quan trọng trên nhiều mặt cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, thì chắc chắn phần đông trong số họ đều đồng thanh, đồng tâm nói rằng: Người nghệ sĩ đó là Văn Cao! Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mĩ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là quá lời. Không thiên tài sao được khi thập niên bốn mươi thế kỷ trước ông đã viết các kiệt tác âm nhạc Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi..., đặc biệt là bản hùng ca bất hủ Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam. Năm 1945, ông viết như là dự cảm, dự báo, đúng hơn là tiên tri, về sự ra đời của các quân chủng “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, là báo trước 5 năm (từnăm 1949),thời khắc quân và dân ta sẽ “Tiến về Hà Nội” giải phóng Thủ đô và cả Miền Bắc thân yêu năm 1954.

    Cuộc đời 72 năm sống, sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động.Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, đau xót:

    “Có tuổi thanh niên
    Như cây mùa xuân mới mọc
    Bị tước dần vỏ non
    [...]
    Có lúc,
    Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt”…

    Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, chấp nhận thua thiệt; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau khổ, bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ sáng chói. 

    Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực âm nhạc, thơ và hội hoạ. Ông được Nhà nước ta trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

    Văn Cao còn mãi với chúng ta. Các tác phẩm của ông như là những cột mốc yêu thương, hùng tráng, tha thiết của lịch sử, văn hóa, văn nghệ của nước nhà thế kỷ XX và lan tỏa, xao động, ám ảnh đến hôm nay và mai sau.

PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ 

Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Nguồn: Tạp chí điện tử Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 15.12.2023.

1. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), thuở nhỏ tên An, tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, người gốc Trung Quốc, một trong ba nhà thơ nổi tiếng của đất Gia Định. Ông cùng Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh, Tri Chỉ Lê Quang Định được đời tôn vinh là Gia Định tam gia. Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức hiện nay còn Gia Định thành thông chí Cấn Trai thi tập cùng một số bài văn bia chép trong Đại Nam anh nhã tiền biên.

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn.

Sài Gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chức năng hành chính - chính trị mà còn là trung tâm kinh tế thương mại và tiểu thủ công nghiệp. Tài liệu lịch sử cho biết khoảng cuối thế kỷ XVIII ở Sài Gòn đã có tầng lớp thợ thủ công đông đảo nhiều ngành nghề, tập hợp trong các “ty thợ” của nhà nước. Có đến 62 ty thợ sản xuất hầu hết những sản phẩm phục vụ mọi mặt đời sống xã hội.  

Bên cạnh đó còn có hàng trăm “phường thợ” tập hợp những người sản xuất tự do trong những làng nghề khắp vùng Bến Nghé - Sài Gòn. Hệ thống địa danh ngành nghề được ghi lại trong sử sách phản ánh tính chuyên nghiệp trong sản xuất và tính thị trường cao trong lưu thông sản phẩm. Có thể kể đến những địa danh như Hàng Đinh, Xóm Chiếu, đường Thợ Tiện, cầu Muối, xóm Cốm, xóm Lá (buông), xóm Lò Rèn, xóm Câu, xóm Dầu, xóm Đệm Buồm, xóm Bột, xóm Đường, xóm Chỉ, xóm Lụa... 

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng thời lại làm hình thành và phát triển một số “làng nghề” mới do nhu cầu thị trường và do luôn tiếp nhận luồng di dân cùng những kỹ thuật mới.

*

Bắt đầu xóm Lò Gốm với sản phẩm “gốm Sài Gòn”, ngày nay đây là loại cổ vật quý hiếm trong nhiều bộ sưu tập tư nhân và các bảo tàng. Cho đến nay vẫn còn những tên đường Lò Gốm, Lò Siêu, Xóm Đất, cầu Lò Chén, các chành lu, chành chén dọc bến Lò Gốm, rạch Lò Gốm, kênh Lò Gốm... ở khu vực quận 6, quận 8.

Quận 11 có khu lò gốm Cây Mai được người Pháp ghi nhận rất sớm, làm cho địa danh này trở thành tên gọi của một dòng gốm mỹ nghệ và trang trí kiến trúc tinh xảo, độc đáo. Dấu tích cuối cùng của “xóm lò gốm” là lò gốm cổ Hưng Lợi ở quận 8. Kết quả khai quật cho biết mức độ sản xuất và các loại hình sản phẩm của lò Hưng Lợi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội thay đổi khá nhanh từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX.

20240311 2

Lò gốm khi được khai quật năm 1998. Ảnh Tư liệu


Đến cuối thế kỷ XX, khu vực xung quanh lò gốm cổ Hưng Lợi chỉ còn một xóm làm bếp lò ở gần đó. Thực ra chỉ có 7 - 8 gia đình làm nghề “nắn ông lò”, thợ chính là người trong nhà và mướn thêm một số thợ phụ là bà con hàng xóm. Thợ chính làm mọi khâu kỹ thuật cơ bản: xử lý nguyên liệu, tạo dáng và đốt lò nung. Thợ phụ làm công đoạn tạo miếng chắn lò, vận chuyển sản phẩm vào, ra lò, bọc thân lò bằng thiếc trước khi đưa ra thị trường. Sản phẩm có lúc bán ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận; từ tháng 10 nhà nào cũng tăng thêm thợ vì nhu cầu bếp lò tăng nhanh vào dịp Tết. 

Nhiều năm nay dân cư thành phố và nhiều vùng nông thôn hầu như không còn sử dụng than, củi nữa nên nhu cầu bếp lò giảm nhiều. Cũng may vẫn còn một tục lệ rất hay khi năm hết Tết đến: ngày 23 tháng Chạp cúng ông Táo xong, ông lò cũ được cho ra vườn nghỉ ngơi bên gốc cây hay ven bờ kênh, gia đình mua ông lò mới về và đốt bếp mới cầu mong mọi sự bình an trong năm mới. Nhờ vậy chắc con cháu còn biết loại bếp “ông lò” và nghề gốm một thuở vang danh của đất Sài Gòn.

*

Trên đường Cách Mạng Tháng Tám - một trong hai con đường thiên lý xưa nhất của thành phố - có hai làng nghề nổi tiếng trong hai giai đoạn lịch sử. Từ quận 1 qua khỏi bùng binh ngã sáu Dân Chủ là đến khu vực Hòa Hưng. Nơi này có một làng nghề đúc đồng hình thành từ nửa sau thế kỷ XX. Khoảng năm 1954, một số người dân làng đúc đồng Ngũ Xá (Hà Nội) vào sinh sống ở khu vực này, họ cùng nhau mưu sinh bằng nghề truyền thống mang theo từ quê hương, dần dần hình thành làng nghề đúc đồng Hòa Hưng với sản phẩm chủ yếu là đồ đồng tam khí nổi tiếng và phổ biến ở phía Nam. Gần 70 năm qua làng nghề đúc đồng Hòa Hưng một thời hưng thịnh nay chỉ những người hoài cổ mới biết đến.  

Nghề gốm xuất hiện rất sớm trên đất Sài Gòn, từng vang danh cùng thời với nhiều lò gốm cổ trăm tuổi ở miền Tây. Ảnh: Giang Sơn Đông


Đây cũng là tình trạng của làng đúc đồng An Hội (Gò Vấp). Thời kỳ phát đạt, làng có đến hơn 40 lò đúc đồng. Những ngày cận Tết trong làng lúc nào cũng tấp nập người mua kẻ bán xe chở hàng đi khắp nơi. Sản phẩm nhiều loại nhưng nhiều nhất vẫn là đồ thờ cúng: lư hương, chân đèn, bát nhang... nhiều kiểu dáng truyền thống và độc đáo. Đến nay đồ thờ cúng đúc đồng thủ công với độ tinh xảo, “độc bản” thì giá cao nên khó cạnh tranh với đồ đồng sản xuất hàng loạt. Những nghệ nhân sống và gắn bó với làng đúc An Hội cả trăm năm đều rất trăn trở với việc giữ và truyền nghề vì không còn thợ trẻ và con cái cũng không theo nghề nữa. 

Cuối đường Cách Mạng Tháng Tám, qua khỏi bệnh viện Thống Nhất là đến vùng Bảy Hiền, nơi người Quảng vô Sài Gòn đã lập ra làng dệt Bảy Hiền nổi tiếng, nơi những người sành ăn thường ghé chợ Bà Hoa ở đây để thưởng thức mì Quảng và nghe giọng Quảng đậm đặc như chưa hề có vài chục năm xa quê. Vào thời hưng thịnh, làng dệt Bảy Hiền như một khu công nghiệp thật sự. Cả khu vực vang động tiếng máy dệt, mỗi năm sản xuất hàng triệu mét vải, có sức cạnh tranh rất mạnh so với vải của người Hoa ở Chợ Lớn hay vải nhập khẩu. 

Nhưng từ đầu những năm 2000, sản phẩm của làng dệt Bảy Hiền mất dần chỗ đứng trên thị trường do hàng ngoại tràn ngập lấn át về giá cả và mẫu mã. Làng dệt có “thương hiệu mạnh” một thời nay chỉ còn một số nghệ nhân duy trì vài máy dệt sản xuất nhỏ lẻ để giữ nghề truyền thống như giữ một giá trị văn hóa của đô thị Sài Gòn.

*

Trong vùng Chợ Lớn có một hội quán đặc biệt: Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn và cả Nam bộ. Hội quán ra đời sớm nhất và gắn liền với ngành sản xuất và kinh doanh kim hoàn của người Hoa tại đây, sau này phát triển ra nhiều tỉnh thành Nam bộ. Qua bao thăng trầm, ngày nay địa điểm này đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, nơi hội ngộ và giao lưu kinh nghiệm của nhiều hội nhóm, nghiệp đoàn trong lĩnh vực kim hoàn.

Vào cuối thế kỷ XIX, tại khu vực Chợ Lớn nghề kim hoàn và chế tác nữ trang rất phát triển, lúc bấy giờ đã có hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Đến giữa thế kỷ XX, Chợ Lớn là một trung tâm thủ công nghiệp nói chung và nghề kim hoàn nói riêng. Chợ Thiếc là ngôi chợ truyền thống lâu đời chuyên mua bán các mặt hàng vàng bạc. Đặc biệt đây là chợ kim hoàn lớn nhất của thành phố, vừa là “công xưởng” chuyên chế tác, gia công, sửa chữa đồ trang sức, vừa là chợ mua bán vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức với mức độ lớn. Đặc biệt ngay trên tầng một của chợ là một "trường học nghề" chuyên về mỹ nghệ - kim hoàn. Sự gắn bó, liên kết chặt chẽ từ nơi sản xuất, thị trường mua bán đến truyền nghề kim hoàn trong trường hợp Chợ Thiếc thể hiện một hình thái kinh tế khá độc đáo của đô thị Sài Gòn: nơi sản xuất và phố buôn bán sản phẩm đặc trưng liên kết thành một thể thống nhất. 

Khái niệm “làng nghề truyền thống” gắn sản xuất thủ công với làng cổ - hình thức cư trú truyền thống. Nhưng quá trình đô thị hóa đã biến các làng cổ thành phố phường, thợ sản xuất thành thị dân. Vì vậy sự hình thành và phát triển những “phố chuyên doanh” ở TP.HCM chính là sự tiếp nối “làng nghề” ở một hình thức mới để thích ứng và đáp ứng nhanh nhu cầu xã hội. Mối liên hệ này thúc đẩy và điều chỉnh quy mô sản xuất của làng nghề, mức độ nào đó góp phần bảo tồn nghề và sản phẩm thủ công truyền thống. Đặc biệt với nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề mộc...  do sản phẩm dễ bị thay thế bởi chất liệu hiện đại, sản xuất hàng loạt nên khó tồn tại và phát triển. 

*

Hiện nay TP.HCM còn nhiều “làng nghề” truyền thống khác: làng nghề bánh tráng, làng nghề đan lát, làng nghề mành trúc, làng nghề làm lồng đèn, làng nghề đan giỏ trạc, làng nghề se nhang, làng nghề làm muối; nhiều cơ sở chế biến khô thủy sản... cả “phố đông y” Hải Thượng Lãn Ông cũng có thể coi là làng nghề sản xuất nhiều loại thuốc Bắc. Những “làng nghề” này đã có thị trường nhất định, nhưng TP.HCM là nơi nhiều nguồn hàng hóa đổ về, nếu “làng nghề truyền thống” không gắn liền với một khu vực “chuyên doanh” như đầu mối lớn nhất, các cơ sở sản xuất và ngành quản lý không tổ chức hình thức chuyên doanh và quảng bá mới thì tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn trong bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, nhất là nhu cầu tiêu dùng cả về loại hình và chất liệu hàng tiêu dùng. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn. 

Nguyễn Thị Hậu

Nguồn: Người đô thị, ngày 13.02.2024.

I. Hiện nay chúng ta chưa biết gì nhiều hơn về văn học viết Việt Nam trước thế kỷ thứ X (trước thời Lý Trần) ([1]) ngoài vài tác giả, tác phẩm mà cố GS. Nguyễn Đổng Chi, PGS. Trần Nghĩa, PGS. PTS. Nguyễn Đăng Na, học giả Lê Mạnh Thát đã giới thiệu ([2]).

Biểu tượng rồng Đại Việt là biểu tượng rồng của các vương triều Đại Việt Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Lê (thế kỷ 10 - 18). Cội nguồn và bản chất của biểu tượng đó là thần sông - nước, được đồng nhất với thần mưa của người Việt.

Thời xa xưa, nước từ sông suối biển cả và nước mưa từ trời đã luôn gắn với sự sống và cái chết của con người. Phần lớn nền văn minh lớn của loài người là văn minh bắt nguồn từ những dòng sông.

Người Việt đã mất đi truyền thuyết khởi nguyên kể về một nạn hồng thủy hủy diệt loài người. Nhưng người Việt còn mãi truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh kể về nạn lũ lụt do Thủy Tinh gây ra.

20240301

Hoa văn rắn trên thố dùng đựng nước cúng trong Văn hóa Phùng Nguyên.

Người Việt có câu "Nhất nước - nhì phân" nói lên tầm quan trọng của nước với nghề trồng lúa. Nhưng người Việt cũng có câu "Thủy, hỏa, đạo, tặc" nói lên mức độ tai họa do nước gây ra thế nào.

Từ nỗi kính - sợ sức mạnh của sông nước, người Việt kính sợ và thờ cúng thần sông nước với hiện thân xa xưa nhất là loài rắn nước vùng sông hồ, có thân uốn khúc tương đồng với hình dáng của dòng sông, với chuyển động của sóng nước cũng như với hình tia chớp trong cơn mưa. Tổ tiên người Việt xưa đã gọi vị thần sông - nước ấy bằng ngay từ chỉ sông hay nước. Ngôn ngữ học đã chứng minh từ “rồng” trong tiếng Việt cùng từ “long” trong tiếng Hán - Việt đều có gốc là từ chỉ sông klông hay krông trong tiếng Bách Việt cổ, hiện vẫn thấy trong tên một số con sông ở Tây Nguyên như Krông Pắc, Krông Nô, Krông Ana… Trong khi đó, từ chỉ rồng (neak) trong tiếng Khmer và (ngượk) trong tiếng Thái có gốc là một từ chỉ sông nước khác trong tiếng Bách Việt cổ, có họ hàng với từ nước trong tiếng Việt, từ Đác trong tên một số sông hồ ở miền Trung - Tây Nguyên như sông Đắc Krông (Quảng Trị), Hồ Lắk (Đắk Lắk), Đăk Bla (Kon Tum)…

Với mong muốn nhận được nhiều tình yêu thương, sự chở che phù hộ hơn từ thần sông - nước, người Việt xưa nhận thần là Ông Tổ của mình, tin mình có thể giao tiếp với thần qua các nghi lễ thờ cúng.

Bao đời nay, người Việt lưu giữ truyền thuyết cội nguồn có tên là Họ Hồng Bàng, tức những người có dòng dõi Chim Rồng với vị Thủy Tổ gần nhất là Lạc Long Quân hay Vua Rồng Lạc, tức Vua Rồng của người Lạc Việt.

Biểu tượng rồng sớm nhất trong văn hóa Việt Nam là hình rắn uốn khúc trên bình gốm ở Xóm Rền, Phú Thọ, một di chỉ sớm của văn hóa Đá mới Phùng Nguyên, 2.000-1.400 năm trước Công nguyên (TCN). Các nhà khảo cổ học thường gọi đó là "văn giun", nhưng đúng ra phải gọi là "hoa văn rắn" bởi nó thể hiện hình rắn uốn khúc khi bò hay bơi, một biểu tượng của sông nước và sự sống bất tận.

Chủ nhân của Văn hóa Phùng Nguyên là những người chủ yếu ở vùng sông nước, sống ở trên nước, nhờ nước và thờ vật tổ rắn nước. Họ là những người đầu tiên dùng từ nước hay đất nước để chỉ nơi mình sinh ra, lớn lên, yêu quý và bảo vệ.

Thời Đông Sơn, tức thời Hùng Vương - An Dương Vương - Hai Bà Trưng (thế kỷ 7 TCN - thế kỷ 1), thời của nhiều biến động dân cư, phân hóa xã hội, cũng là thời chứng kiến sự đa dạng của biểu tượng vật tổ rồng.

Thời các Vua Hùng (thế kỷ 7 - thế kỷ 3 TCN), rồng - rắn là vật tổ - biểu tượng của các Vua Hùng.

Cội nguồn của biểu tượng rồng Đại Việt -0
Hình rùa cách điệu ở giữa tấm đồng đính trên trang phục quý tộc Đông Sơn, sau hóa thành sừng hình omega ở trên đầu rồng thời Lý.

Hiện chúng ta chỉ có những bằng chứng gián tiếp về biểu tượng rồng - rắn thời các Vua Hùng. Đó là sự nổi trội của biểu tượng rắn trong văn hóa Điền ở Vân Nam, đặc biệt là hình đôi rắn cuốn trên cột lễ cầu mùa và hình rắn cuộn mình trên ấn vàng của vua Điền. Tư liệu khảo cổ học cho thấy Văn hóa Điền là nền văn hóa anh em với Văn hóa Đông Sơn. Còn tư liệu Dân tộc học cũng chỉ ra người Điền Việt thực chất là một nhóm Lạc Việt.

Thời Thục Phán - An Dương Vương (257 - 179 TCN), hiện thân cụ thể của rồng là rùa, là vật tổ - biểu tượng - thần bảo hộ cho hoàng tộc Âu Lạc. Bằng chứng là hình rùa thực và cách điệu trên khóa thắt lưng và tấm đồng - bùa thiêng đính trên trang phục quí tộc Đông Sơn; là ngôi nhà hình rùa mái cong lồi trên các trống Ngọc Lũ, Cổ Loa; và đặc biệt thần Rùa vàng trong truyền thuyết đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa - Thành Rùa...

Mặt khác, trên nhiều đồ đồng Đông Sơn như trống Hòa Bình, thạp Đào Thịnh, tấm đồng Ninh Bình, rìu Thiệu Dương... chúng ta lại thấy biểu tượng rồng - cá sấu (giao long), vật tổ của một số nhóm dân vùng ven biển. Tục xăm mình hình rồng được kể trong truyền thuyết chủ yếu gắn với các nhóm dân này. Hình thuyền trên trống Ngọc Lũ và thạp Đào Thịnh cũng là dạng thuyền đầu rồng - cá sấu, đuôi chim.

Vào cuối thời Đông Sơn, làng Vạc ở vùng miền núi Nghệ An thành một điểm hội tụ của nhiều nhóm quý tộc Điền từ Vân Nam tới tị nạn. Họ là chủ nhân của các đồ đồng có biểu tượng rồng - rắn, bằng chứng là hai thanh kiếm ngắn trên cán có tượng đôi rắn ngậm chân hổ và đôi rắn ngậm chân voi cùng các vòng tay hình rắn.

Cũng vào thời đó, sự phát triển của nghề thuần dưỡng voi dùng để kéo gỗ, đánh trận đã dẫn đến sự lan tỏa của tín ngưỡng thờ vật tổ voi tại vùng núi Thanh - Nghệ. Voi là con vật ưa nước, có thể dùng vòi hút và phun nước như mưa nên cũng là một biểu tượng của sông nước.

Từ đó, biểu tượng - vật tổ rồng - voi xuất hiện trên nhiều di vật Đông Sơn ở vùng này như chuông, kiếm ngắn và chân đèn. Hình voi nhà cũng nổi bật trên những trống đồng Đông Sơn cỡ lớn ở Indonesia được các nhóm quý tộc di cư từ Thanh - Nghệ vượt biển mang tới. Tượng voi cùng tượng ếch thể hiện thần mưa cũng xuất hiện trên mặt một số trống đồng muộn ở vùng núi Thanh Hóa, như trống Ngọc Liên và Hồi Xuân.

Cội nguồn của biểu tượng rồng Đại Việt -0
Vòng tay hình rắn làng Vạc.

Thời Đinh và Tiền Lê, dù dòng họ Đinh Bộ Lĩnh thờ vật tổ rái cá và dù nhà Đinh coi Phật giáo là quốc giáo, nhưng là Hoàng đế của một nhà nước quân chủ tập quyền, Vua Đinh và Vua Lê cũng đã tạo ra một biểu tượng rồng riêng cho vương triều và dân tộc mình tương tự và không kém biểu tượng rồng phương Bắc. Đáng tiếc, giờ đây chúng ta không có tư liệu về biểu tượng rồng của hai thời này.

Dù vậy, chúng ta vẫn có thể đoán định rằng biểu tượng rồng Đinh và Tiền Lê là rồng - rắn. Bằng chứng là hai vị thần sông - thần rắn nước có tên dân gian là Ông Dài - Ông Cụt ở vùng ven các sông Cà Lồ, sông Cầu, sông Thương đã được nhân hóa và lịch sử hóa thành hai anh em Trương Hống và Trương Hát. Theo truyền thuyết, hai ông vốn là hai vị tướng của Triệu Việt Vương (524 - 571). Khi vua mất, hai ông tự vẫn và trở thành thần thánh liên tiếp âm phù cho Ngô Quyền, Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đánh thắng giặc Nam Hán và giặc Tống, từ đó được phong là "Vua Thần hộ quốc". Việc Lý Thường Kiệt cho người đọc bài thơ "Thần" mở đầu với câu "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư" từ đền thờ hai thần cũng cho thấy vai trò quan trọng tầm quốc gia của các vị thần này...

Rất có thể, hai vị thần rắn nước trên có mối liên hệ cội nguồn với đôi rắn ngậm chân voi hay chân hổ trong văn hóa Đông Sơn trước đó cũng như với đôi rắn thần gọi là Ông Lốt hay Thanh Xà - Bạch Xà của Đạo Mẫu Việt sau này.

Thời Lý là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt gắn với sự phục hưng của nhiều truyền thống Đông Sơn. Các vua Lý cho đúc và ban phát trống đồng, thờ thần Trống Đồng như Minh chủ trong các hội thề của triều đình, mở hội Trung Thu có tục đua thuyền rồng và tục múa rối nước, phục hồi tục xăm mình hình rồng...

Biểu tượng rồng Lý ra đời, theo xu thế thời đại là sự tổng hòa các biểu tượng rồng Đại Việt, Ấn Độ và Trung Hoa. Hình rồng Lý sớm nhất và đẹp nhất được thể hiện ở chùa Phật Tích có đầu cá sấu, mắt ếch, vòi voi, sừng hình rùa cách điệu, thân, lưỡi, nanh rắn, tức tổng hòa các biểu tượng rồng Đông Sơn nhưng cốt lõi và thần thái là rồng - rắn. Từ đó, biểu tượng rồng Lý, dù trên kiến trúc Hoàng thành hay ở chùa đình các làng quê, vừa là một biểu tượng của vương quyền và thần quyền (Phật giáo) nhà Lý, vừa là một biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp của đất nước và dân tộc Đại Việt có kinh đô mang tên Thăng Long (rồng bay lên).

Các biểu tượng rồng thời Trần, Lê sau này, dù có những khác biệt, nhưng về cơ bản vẫn mang cốt cách và thần thái của biểu tượng rồng - rắn thời Lý.

Tạ Đức

Nguồn: An ninh thế giới, giữa và cuối tháng, ngày 27.01.2024.

 

I. “ĐẠC NGỰA BÒ VÀNG” LÀ CHUYỆN CÓ THẬT VÀ DIỄN RA Ở NGAY KINH ĐÔ

Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ được nhà soạn tuồng, nhà thơ Đào Tấn yêu quý đặt cho biệt danh  là “Hoàng Độc Thi Nhân” (nhà thơ cưỡi bò vàng). Người đời vẫn truyền tụng giai thoại cụ Thượng Trứ sau khi về hưu, đi đâu cũng thường cưỡi con bò cái vàng, đeo nhạc ngựa, sau đít bò có đeo cái mo cau, ai hỏi thì cụ kêu là để “che miệng thế gian”. Trong bài thơ nổi tiếng làm sau khi về hưu của Cụ là Bài ca ngất ngưởng cũng có nhắc đến chuyện cưỡi bò:

20240209

       Mùa xuân Giáp Thìn 2024 này, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sinh ngày 24-7-1924, đi trọn khánh niên bách tuế và bước qua tuổi “bách dư niên” trong cuộc đời. Gần 80 năm xuất gia, tu tập và hoằng dương chánh pháp, Hòa thượng đã thành lập, xây dựng, trùng tu và phát triển 175 thiền viện trong và ngoài nước, 110 đạo tràng, góp phần phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ quê hương Trà Ôn, Vĩnh Long nghèo khó, Ngài đã đặt chân đến các miền Tổ quốc và hơn mười quốc gia trên thế giới để giáo hóa, hướng dẫn tu tập, chứng pháp quy y cho hàng chục vạn Phật tử trong và ngoài nước.

      Cùng với những hoạt động Phật sự kiên trì, bền bỉ có ảnh hưởng tích cực trong đời sống văn hóa của dân tộc, Thiền sư Thích Thanh Từ còn cống hiến cho đời những công trình dịch thuật, biên khảo rất giá trị, xứng đáng có vị trí trân trọng trong tủ sách của những gia đình quan tâm đến Phật học.

      Theo một thống kê được cập nhật gần đây nhất, Hòa thượng Thích Thanh Từ có 103 công trình dịch thuật, giảng giải, luận bàn kinh Phật, khảo cứu về tư tưởng Thiền học, lịch sử Thiền tông, hành trạng và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam và Trung Hoa. Nổi bật trong số đó là bộ sách về kinh Bát Nhã, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Kim Cang, kinh Lăng Già, kinh Viên Giác, kinh Pháp Bảo Đàn… Một trong những điểm đặc biệt thể hiện rõ nét tâm nguyện kế thừa, tiếp nối và phục hưng Thiền phái Trúc Lâm là việc Hòa thượng Thích Thanh Từ chuyên tâm dịch thuật, khảo luận các tác phẩm Thiền tông đời Lý - Trần, tiêu biểu là bộ sách Khóa Hư Lục giảng giải, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải, Tham Đồ Hiển Quyết và Thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải

      Như vậy, trong tâm nguyện và hành động của Hòa thượng Thích Thanh Từ, phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ là khôi phục, tôn tạo những cơ sở tu trì mà quan trọng là làm sống lại tinh hoa của Thiền phái qua những kinh sách uyên áo do các thế hệ thiền sư để lại và lưu truyền vào tâm thức của đại chúng. Hai việc này phải tiến hành song song, có quan hệ và tương tác với nhau một cách mật thiết. Và xét cho cùng, không phải những cơ ngơi đồ sộ với tòa ngang dãy dọc mà chính tinh hoa, căn cốt tư tưởng Thiền học được củng cố, phát huy mới làm nên rường cột giữ cho Thiền phái phát triển vững bền và trường cửu.

      Mở đầu bản dịch Bích Nham Lục, một công trình do Thiền sư Viên Ngộ trước tác dựa theo nguyên tác của Thiền sư Tuyết Đậu (đời Tống), dịch giả Thích Thanh Từ viết: “BÍCH NHAM LỤC là tập sách rất quan thiết trong Thiền môn, cần phải được phiên dịch. Song nó rất khó dịch; vì cố gắng giúp phần nào cho người sau, buộc lòng chúng tôi phải dịch ra. Khi dịch, chúng tôi chia mỗi tắc thành năm phần hoặc bốn phần: Lời Dẫn (Thùy Thị), Công Án, Giải Thích, Tụng, Giải Tụng. Có tắc không có Lời Dẫn, chỉ còn bốn phần. Chúng tôi lược bớt lời giải ngắt quãng trong công án và trong bài tụng, để độc giả đọc công án và lời tụng mạch lạc hơn.

      “Bản dịch này chúng tôi y cứ theo bản Hán văn BÍCH NHAM LỤC trong tập THIỀN HỌC ĐẠI THÀNH và THIỀN HỌC TẬP THÀNH bổ túc cho nhau. Phần tựa đầu dịch đủ, phần hậu tự chúng tôi lược bớt.

     “Dám mong Thiền giả đọc nó cốt “đạt lý, đừng kẹt lời”, “ứng dụng tu hành không nói rỗng”, thế là mãn nguyện của chúng tôi”[1].

      Như vậy, trong quan niệm của Thiền sư Thích Thanh Từ, dịch thuật là cố đạt lý chứ không “mắc kẹt” trong văn tự, ngôn từ, như kinh Viên Giác khuyên ta hãy nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Điều đó không có nghĩa là xem nhẹ ngôn từ mà nhằm nhắc nhở đừng để ngôn từ cản trở cho sự lĩnh hội tư tưởng. Đọc các bản dịch của Hòa thượng Thích Thanh Từ, ta thấy ngôn ngữ giản dị mà không giản đơn, dễ thông hiểu và thông đạt đến mọi người - hình như đây cũng là văn phong của một vùng đất cởi mở, khoáng đạt trong tính cách con người.

      Giảng giải công phu những bộ sách “văn chương tuyệt hảo, lý đạo u huyền”, nhưng Hòa thượng Thích Thanh Từ luôn thể hiện đức khiêm cung: “Sự giảng giải của chúng tôi giá trị ở nhiệt tình, chớ không ở văn chương và sáng tỏ lý thiền. Bởi thiền là vô ngôn, chúng tôi dùng đa ngôn thì khó tránh khỏi sai lầm. Mong quý độc giả cảm thông tha thứ việc làm gắng gượng của chúng tôi”[2].

      Bộ sách Thiền sư Trung Hoa gồm 2 tập, được Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn dịch từ ba bộ sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt LụcCao Tăng Truyện. Bộ sách này giới thiệu tiểu sử, hành trạng, đức hạnh và công tích của các vị thiền sư từ đời thứ nhất sau Lục Tổ Huệ Năng đến đời thứ tư là lúc bắt đầu chia tông phái (Tập 1), rồi từ đời thứ năm gồm năm tông (Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn) và bảy phái (Tông Lâm Tế lại chia thêm thành hai phái Huỳnh Long và Dương Kỳ) (Tập 2), gồm 144 vị.

      Trước khi vào sách, độc giả được soạn giả dặn dò: “Người tu theo Thiền tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của mình. Khi nhận được bản tâm, mới tin “tâm tức là Phật”. Khi thấy được bản tánh mới tin “tánh mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh tịnh”. Nhưng tâm tánh ở đâu, thế nào? Tất cả người tu Phật đều thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi tâm tánh ở đâu, thế nào, thì khác gì người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật, biết bao giờ thấy được”[3].

      Lấy bản tâm làm chủ, Thiền tông hướng con người nhìn thấy “bản lai diện mục” của mình ngay chính nơi mình mà không cầu nơi nào khác, như Trần Nhân Tông viết: Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch (Trong nhà có sẵn của báu, đừng đi tìm nơi nào khác).

      Thiền sư Thanh Từ dặn tiếp: “Người tu Thiền phải dẹp sạch bản ngã, dù là bản ngã thánh cũng không còn. Nếu còn thấy sở đắc là còn bản ngã, giả sử thấy đắc quả thánh cũng là vị thánh tương đối, chớ chưa thật giải thoát. Chỗ giải thoát cứu cánh là tâm không còn dính mắc một chỗ nào”[4]

      Thiền tông Việt Nam có những điểm gặp gỡ với Thiền tông Trung Hoa mà cũng có những đặc trưng riêng do hoàn cảnh đặc thù của đất nước và văn hóa dân tộc. Điều này được phản ánh sinh động trong hai tác phẩm Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XXThiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ.

       Được tác giả ấp ủ và thai nghén nhiều năm trước khi ra mắt, sách Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX khẳng định: “Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI đến nay đều là các thiền sư”. Theo tác giả, “Có lắm người Phật tử hâm mộ tu Thiền, song sự có mặt của nhiều lối tu Thiền ở Việt Nam làm họ không biết đâu tà đâu chánh. Nếu người dè dặt đành chịu chùn chân không biết theo ai. Nếu người nhiệt tình nóng bỏng nghe đâu theo đó, họ dễ bị lạc vào thiền tà ngoại. Đây là một khuyết điểm lớn lao do không có người giản trạch chánh tà cho họ. Người chịu trách nhiệm này chính là tăng ni. Tăng ni là người có bổn phận dẫn đường chỉ lối cho tín đồ tu học. Nếu chỗ sở mộ của Phật tử khác với đường lối hiện tu của mình, bổn phận mình phải chỉ cho họ nơi nào hợp với sở mộ mà đúng chánh pháp. […]. Chính đây là một trong những mục tiêu chúng tôi nhắm để viết quyển sách này”[5].

      Trong tinh thần đó, cuốn sách tập hợp những bài viết và bài giảng của tác giả có liên quan đến chủ đề Thiền tông: “Cội nguồn Thiền tông”, “Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX”, “Yếu chỉ Thiền tông”. “Vào cổng nhà Thiền”, “Vào cửa Không”, “Chỉ Ông chủ”. Đặc biệt trong phần “Yếu chỉ Thiền tông”, tác giả đã phân tích và bình luận những vấn đề quan yếu: “Chủ đích Thiền tông”, “Đức Phật qua cái nhìn của Thiền tông”, “Thiền tông với các kinh Đại thừa”, “Thiền tông với các môn thiền khác”, “Thiền tông không nặng hình thức tôn giáo”, “Đặc điểm Thiền tông”, “Những nghi vấn về Thiền tông”, “Những bệnh của người tu thiền”.

      Kết hợp với phần giảng giải, cuốn sách giới thiệu những bài kệ do chính tác giả phiên dịch, giúp bạn đọc dễ lĩnh hội và thẩm thấu những tư tưởng uyên áo của Thiền học. Chẳng hạn, đây là bản dịch bài kệ của Thiền sư Huệ Sinh đời Lý: Pháp gốc như không pháp/ Chẳng có cũng chẳng không/ Nếu người biết pháp ấy/ Chúng sanh cùng Phật đồng/ Trăng Lăng Già vắng lặng/ Thuyền Bát Nhã rỗng không/ Biết không, không giác có/ Chánh định mặc thong dong.

      Sách Thiền sư Việt Nam là một đóng góp lớn của Hòa thượng Thích Thanh Từ vào việc nghiên cứu Thiền tông trong bối cảnh văn hóa Phật giáo và dân tộc. Tác giả trình bày tiểu sử, hành trạng, đức hạnh và công tích của 127 vị hòa thượng, thiền sư, đại sư, thiền lão, quốc sư, trưởng lão, cư sĩ, ni sư, ni cô có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Thiền tông ở nước ta, mà những vị đặt nền móng ban đầu là Khương Tăng Hội, Thích Đạo Thiền, Thích Huệ Thắng, Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Cuốn sách còn cung cấp cho bạn đọc các đồ biểu phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang Việt Nam, phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Thiền Vô Ngôn Thông, phái Thiền Thảo Đường, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, tông Tào Động, phái Lân Giác ở Bạch Mai, phái Nguyên Thiều - Siêu Bạch, phái Thiệt Diệu Liễu Quán; các sơ đồ truyền thừa của Hòa thượng Ẩn Sơn, Thiền sư Thiện Hiếu; phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết, phụ bản Những dòng kệ các phái. Đây là những chỉ dẫn quý báu rất bổ ích cho những người học Phật.

       Nhìn lại những cuốn sách của Hòa thượng Thích Thanh Từ, có thể thấy những năm 90 thế kỷ trước là thời gian tác giả công bố nhiều công trình có tiếng vang nhất, hầu hết đều do Thành Hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh và Thiền viện Thường Chiếu ấn tống. Mùa Xuân năm 1992, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh có cơ duyên được Hòa thượng đến thăm và có một buổi thuyết giảng trầm ấm mà cuốn hút các giáo sư, giảng viên và sinh viên ngồi kín một giảng đường lớn. Đó cũng là dịp cuốn sách Xuân trong cửa Thiền, tập hợp những bài pháp thoại tinh tế và sâu sắc của Hòa thượng trong những buổi lễ tất niên hay giao thừa nhiều năm trước, vừa được xuất bản.

       Nghĩ về mùa Xuân Di Lặc, Hòa thượng Thích Thanh Từ nhắc đến bốn câu kệ của Thiền sư Bổn Tịnh (đời Đường):

                       Nhứt niên xuân tận nhứt niên xuân

                       Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân

                       Thiên hiểu bất nhơn chung cổ động

                       Nguyệt minh phi vị dạ hành nhơn.

       Thầy dịch:

                       Một năm Xuân trọn một năm Xuân

                       Cỏ dại non hoa mấy độ tươi

                       Trời sáng chẳng do chuông trống động

                       Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.

       Và Thầy bình luận: “Ở trên cuộc đời này có bao nhiêu người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình. Cho nên phải khổ đau theo dòng sinh diệt của ngoại cảnh. Như bao nhiêu người thấy cái gì cũng nói cái đó là của mình, lệ thuộc mình từ cái bản thân cho đến cái sự vật bên ngoài. Không có cái nào là không bám chặt vào mình. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên con người phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Đó là cái chấp ngã sở, tức là vật sở hữu của mình. […]. Bởi vì mình đặt chủ quan của mình vào sự vật, bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Mình muốn lòng người đối với mình và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì mình cảm thấy bất an, không vui rồi”[6].

      Theo giải thích của Hòa thượng Thích Thanh Từ, bài kệ của Thiền sư Bổn Tịnh truyền đi thông điệp rằng: “Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết. Trăng trong là trăng trong, không phải vì mình đi đêm mà trăng trong. Trời sáng là trời sáng chớ không phải vì chùa đánh chuông, đánh trống là trời sáng. Như hoa cỏ nó tươi nó nở là tới thời tiết nó tươi nó nở, chớ không phải vì cái gì mà nó tươi nó nở”[7].

       Nhưng phải chăng là cái nhìn khách quan đó sẽ cắt đứt mọi liên lạc giữa Ngã và Tha, giữa nội tâm và ngoại giới? Không phải, Thiền sư chỉ muốn nói rằng ta không nên có thái độ “chấp ngã sở” đối với ngoại giới mà phải dọn lòng để hòa hợp với ngoại giới. “Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài đời nó đẹp là do trong lòng mình đẹp”[8].

       Để minh họa điều đó, Hòa thượng Thích Thanh Từ dẫn ra bài thơ của Thiền sư Phật Nhãn, hiệu Thanh Viễn (đời Tống): Xuân nhựt xuân sơn lý/ Xuân sự tận giai xuân/ Xuân quang chiếu xuân thủy/ Xuân khí kết xuân vân/ Xuân khách xuân tình động/ Xuân thì xuân cánh tân/ Duy hữu thức xuân nhơn/ Vạn kiếp nguyên nhứt xuân. Nghĩa là: Ngày xuân xuân trong núi/ Việc xuân thảy đều xuân/ Hồ xuân ánh xuân chiếu/ Khí xuân kết mây xuân/ Khách xuân lòng xuân động/ Thi xuân xuân càng tươi/ Chỉ có người biết xuân/ Muôn kiếp một mùa xuân. (Thích Thanh Từ dịch).                           

       Vậy làm sao để thành “người biết xuân” mà hưởng một “mùa xuân muôn kiếp”? Thầy Thanh Từ dạy ta năm điều: 1) Tùy hỷ: từ bỏ tật đố kỵ để phát tâm tuỳ hỷ theo việc tốt, việc lành của người khác; 2) Hỷ xả: vui vẻ mà buông bỏ hết những bực bội, cố chấp trong lòng; 3) Pháp hỷ hay pháp lạc: nghe chánh pháp mà tìm ra được lẽ thật, nguồn an ủi vui tươi, trong lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới; 4) Thiền duyệt: niềm vui khi tọa thiền, thấy thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng; 5) Tịch lạc: niềm vui cứu cánh, một niềm vui lặng lẽ khi đã thoát khỏi mọi vọng tưởng của sinh diệt[9].

       Đó là con đường tu tập kiên trì, bền bỉ, từ cái vui gần đến cái vui xa, để đạt đến mùa xuân bất tận, vĩnh cửu như nụ cười không bao giờ tắt của Đức Phật Di Lặc.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Xuân Giáp Thìn 2024


[1] Bích Nham Lục (Thích Thanh Từ dịch), Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1995, tr. 5.

[2] Thích Thanh Từ: Tham Đồ Hiển Quyết và Thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, 1997, tr. 6.

[3] Thanh Từ (soạn dịch): Thiền sư Trung Hoa, tập 1, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1990, tr. 6.

[4] Thanh Từ: Sđd, tr. 11.

[5] Thích Thanh Từ: Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992, tr. 5, 7-8.

[6] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1991, tr. 71, 72.

[7] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 76.

[8] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 202.

[9] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 181-203.

Nhà phê bình Hoài Thanh đã viết về Đông Hồ với những lời thật dễ thương:

“Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đều dễ thương, những lời tuồng như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cả cái êm dịu, cả cái mơn trớn, vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu. Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng mơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh trong tiếng sóng.”

20240102

Học giả Nguyễn Q.Thắng đã từ trần ngày 1/1/2024, thọ 85 tuổi.

Nguyễn Q. Thắng tên thật là Nguyễn Quyết Thắng, khi viết sách ông luôn ký là Nguyễn Q. Thắng. Vì vậy khi ghi thư mục mà đề tên thật là sai (có người luận thành Nguyễn Quang Thắng lại càng sai).

Ông sinh năm 1940 tại làng Trường Xuân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Nguyễn Q.Thắng học xong Tú tài, tốt nghiệp ĐH ông đi dạy trường trung học Đồng Khánh ở Huế. Năm 1968 vào SG, học Cao học và trình LA Tiến sĩ năm 1975 tại trường ĐH Văn khoa SG. Ông được phân đi dạy tại trường Đại học Sư phạm Cần Thơ, sau dạy Đại học Sư phạm TP.HCM cho đến khi nghỉ hưu.

Năm 1995 ông bị bệnh nặng, sau khi hồi phục ông chỉ chuyên tâm vào khảo cứu, viết sách.

Ông để lại sự nghiệp nghiên cứu đồ sộ với hơn 60 công trình được xuất bản, chủ yếu về lịch sử và văn học cổ cận đại Việt Nam, nhất là Trung và Nam Bộ.

Đối với chúng tôi, Nguyễn Q.Thắng là nhà nghiên cứu bậc đàn anh. Gặp anh lần đầu tiên năm 1985 ở Hội thảo về Phan Văn Trị (Cần Thơ), khi anh đang giảng dạy ở đó. Sau anh chuyển về ĐHSP TP.HCM. Tôi thường trao đổi tư liệu, đưa anh mượn những tài liệu anh cần và được anh tặng sách. Đôi lần đến thăm anh, hồi nhà anh ở Gò Vấp. Tôi ngạc nhiên về sự uyên bác và sức viết dồi dào của Nguyễn Q.Thắng. Anh có rất nhiều tư liệu quý, luôn tìm tòi, khám phá những hướng nghiên cứu mới.

Lâu rồi không gặp anh, tôi hứa cho anh mượn tài liệu về Truyện Kiều mà chưa kịp gửi. Giờ thì muộn rồi. Cánh tay cầm bút, gõ phím của anh đã mỏi, anh đã duỗi ra và không bao giờ nắm lại nữa.

Anh hãy yên nghỉ. Thân xác sẽ thành tro bụi nhưng sự nghiệp của anh sẽ còn mãi. Các thế hệ sau đêm đêm còn gặp anh tâm sự qua từng trang sách.

Đoàn Lê Giang

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÁNG CHÚ Ý NHẤT CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN Q. THẮNG

1) Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn. Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972.

2) Trung Kì dân biến thỉ mạt ký (dịch thuật). Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1973.

3) Phan Châu Trinh, cuộc đời và tác phẩm. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1986. Nhà xuất bản Văn học tái bản, 1992.

4) Hoàng Sa - Trường Sa. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.

5) Tiến Trình Văn Nghệ Miền Nam. Nhà xuất bản An Giang, 1990.

6) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (soạn chung với Nguyễn Bá Thế). Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991, 1992 (tái bản). Nhà xuất bản Văn hóa tái bản năm 1993, 1994...Đến nay sách đã được tái bản lần thứ 8.

7) Huỳnh Thúc Kháng - Tác phẩm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.

8)Kim Thạch Kì Duyên. Nhà xuất bản Văn Học, 1993.

9) Khoa cử và Giáo dục Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa, 1993, 1994 (tái bản). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản, 2003.

10) Hoàng Việt luật lệ, tức luật Gia Long (dịch thuật). Nhà xuất bản Văn hóa, 1994.

11) Quảng Nam - Đất nước và Nhân vật. Nhà xuất bản Văn hóa, 1996, 2001 (tái bản).

12) Từ điển tác gia Văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản Văn hóa, 1999.

13) Trần Văn Dư với phong trào Nghĩa hội. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2001.

14) Tuyển tập Vương Hồng Sển. Nhà xuất bản Văn Học, 2001.

15) Tuyển tập Bình Nguyên Lộc. Nhà xuất bản Văn Học, 2001.

16) Hà Đình Nguyễn Thuật. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Nhà xuất bản Văn học tái bản, 2009.

17) Tuyển tập Phan Văn Hùm. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.

18) Văn học miền Nam (2 tập). Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.

19) Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê (4 tập). Nhà xuất bản Văn Học, 2005.

20) Phong trào Duy tân 1908 với các khuôn mặt tiêu biểu. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006.

21) Văn học Việt Nam nơi miền đất mới (4 tập, gồm 6.000 trang). Nhà xuất bản Văn học, 2007.

22) Sơn Vương - Nhà văn, người tù thế kỷ (2 tập, gồm 1.800 trang). Nhà xuất bản Văn học, 2007.

23) Thiện Chiếu - Nhà cải cách Phật học. Nhà xuất bản Văn học, 2010.

24) Đào Trinh Nhất - Nhà văn, nhà báo bậc thầy. Nhà xuất bản Văn học, 2010.

Thông tin truy cập

60934006
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
6837
22169
60934006

Thành viên trực tuyến

Đang có 200 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website