Nếu tiểu thuyết Việt Nam những năm 60 – chủ yếu là những tác phẩm viết về chiến tranh -  đã phần nào đáp ứng được sự mong mỏi của số đông bạn đọc; thì những tác phẩm văn xuôi của những năm 70 chính là nối tiếp dòng chảy của những năm 60.  Cùng với các tác giả Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hồ Phương, Đào Vũ, Thu Bồn, Lê Văn Thảo, Chu Lai, Lê Lựu, Khuất Quang Thụy… ; cây bút Nguyễn Minh Châu đã thực sự nhập cuộc, dấn thân. Với những trăn trở “những thế hệ về sau sẽ lần lượt đến soi mình xuống cái khúc lịch sử của những người đương thời chúng ta để tìm ra những bài học quý báu cho họ” [03; tr. 41], “người  viết trẻ bên cánh rừng già” đó đã tâm niệm: “người viết trước hết nên thành thực với mình tức là thành thực với người đọc. Những chủ đề lớn lao bao giờ cũng đòi hỏi một sự trình diện giản dị và cô đúc” [03; tr. 41].  Và “Dấu chân người lính” ra đời chính là sự “thành thực với mình - với người đọc” như chính bản thân tác giả Nguyễn Minh Châu vậy.
Là tác phẩm gắn bó với  một chuyến đi, từ năm 1969 đến năm 1972, “Dấu chân người lính” mới ra mắt bạn đọc. Đi với các đơn vị chủ lực, xuống tận đại đội chiến đấu, nghe chuyện của các chiến sĩ, các cán bộ lãnh đạo, dự tổng kết chiến dịch v.v. Hiện thực cuộc chiến đuợc ghi lại trong tác phẩm hầu như nguyên vẹn, trung thành. Nguyễn Minh Châu đã gắn ngòi bút của mình vào mảng đề tài được coi là sôi động nhất trong nền văn học cách mạng Việt Nam: đề tài chiến tranh và quân đội. “Dấu chân người lính” đã làm sống lại những chặng đường hành quân và cuộc chiến đấu anh dũng của những người lính Trung đoàn 5. Từ những ngày đầu chuẩn bị chiến dịch cho đến những chặng đường hành quân gian khổ và cuối cùng là cuộc tổng tấn công khép chặt vòng vây ở thung lũng Khe Sanh, những người lính trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã trải dài bước chân họ trên khắp chiến trường. Sau cuộc đổ quân của lữ đoàn Kỵ binh bay nhằm mục đích giải vây của quân lực “Việt Nam cộng hoà” thất bại, quân Mỹ lâm vào thế bí và đang đứng trước nguy cơ có thể bị tiêu diệt hoàn toàn. Trung đoàn 5 sau một thời gian củng cố vaa2 bổ sung quân lại tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu. Bao dấu chân của chính uỷ Kinh,  của Khuê, Lữ, Thái Văn , Cận … để lại trên bước đường hành quân cũng là bao nhiêu ngày những người lính phải đối mặt giữa sự sống và cái chết, cái cao cả – thấp hèn, lý tưởng chiến đấu và hiện thực cuộc sống khắc nghiệt. Bút pháp trữ tình, giàu lý tưởng được phát huy đến mức tối đa nên vẻ đẹp khác nhau của các thế hệ cầm súng được tác giả khắc hoạ một cách đậm nét. Đó là những người lính – người chiến sĩ cầm súng – mà nét đẹp của họ đã trở thành hình tượng trung tâm của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung, của Nguyễn Minh Châu nói riêng.
Bài viết này thử tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người dưới góc độ thi pháp học.
1. Vài nét về “Quan niệm nghệ thuật về con người” trong tác phẩm văn học:
Là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học, quan niệm nghệ thuật về con người hướng chúng ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học. Vì “văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất cụ thể” [19; tr. 23]. Nhà văn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan niệm nghệ thuật này thể hiện một cách nhìn, một cách tiếp cận, cách lý giải về con người . Chính vì “nhà văn sáng tạo ra nhân vật, kể ra, miêu tả ra nhân vật và nhân vật bao giờ cũng hiện ra theo cách hình dung, cảm nhận của tác giả” [20; tr. 28], nên  “quan niệm nghệ thuật về con người sẽ trở thành hình thức chủ nghĩa thuần túy nếu như nó không phục vụ làm cho những chủ đề xã hội, triết lý càng thêm sâu sắc và có ý vị đậm đà” [20; tr. 41].  Quan niệm nghệ thuật về con người gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, gắn liền với sự vận động của lịch sử.
Từ quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam đến quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mỹ là một bước đi dài. Nếu quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học cổ điển Việt Nam là con người vũ trụ, con người của chí khí, của tấm lòng, “con người thứ bậc” ( Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng. Một tiếng kêu vang lạnh cả trời. Ngôn hoài - Dương Không Lộ); thì con người trong văn học kháng chiến chống Pháp là con người tập thể. Đó là những con người trong sáng, vô tư, hy sinh vì lý tưởng. Họ sẵn sàng từ giã gia đình để dấn thân vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Đó cũng chính là con người tập thể – chuyển hoá. Vì con người trong văn học kháng chiến chống Pháp được miêu tả như những đám đông “Lũ chúng tôi. Bọn người tứ xứ. Gặp nhau hồi chưa biết chữ. Quen nhau từ buổi một hai” (Nhớ – Hồng Nguyên), nên “tâm lý con người trong văn học kháng chiến là tâm lý tập thể, con người sẵn sàng làm theo yêu cầu chung, yêu cầu chung thành cảm xúc riêng của mình [19; tr. 34].  Bước sang những năm 60 - 70, hiện thực cuộc kháng chiến thời chống Mỹ đã quy định đề tài trung tâm và các nhân vật trung tâm của nền tiểu thuyết hiện đại. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn học xuất hiện khác hơn, mới lạ hơn: con người xả thân. Con người trong văn học chống Mỹ ý thức rất rõ về sự xả thân vì sứ mệnh lịch sử của mình.
2.  Quan niệm nghệ thuật về con người -  nhân vật người chiến sĩ - trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu:
2.1 Nhân vật là con người – xã hội  được nhà văn tiếp cận theo khuynh hướng sử thi:
“Con ngươi trong tiểu thuyết sử thi là những con người mang trong mình kích thước lớn lao của lịch sử, tiêu biểu cho vẻ đẹp của dân tộc và cộng đồng. Đó là những con người mang trong mình lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của tổ quốc” [10; tr. 65].
Hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ vì độc lập tự do, vì sự sống còn của dân tộc Việt Nam là hiện thực lịch sử nổi bật. Hiện thực cách mạng đó vừa là nguồn cảm hứng vô tận của người cầm bút, vừa là điều kiện thuận lợi cho văn học nẩy sinh và phát triển. Nói theo Nguyễn Minh Châu, hiện thực sinh động ấy ví như  “cây khộp và cây phong lan như cái phần trần trụi cực nhục và cái phần thanh nhàn của người đời và cuộc đời, nó cũng là cái phần hiện thực nghiêm ngặt và chất lãng mạn của văn học” [03; tr. 39]. Chính vì nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là một nền văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu; một nền văn học hướng về đại chúng, trước hết là công nông binh; một nền văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nên nhân vật người chiến sĩ  trong “Dấu chân người lính”  được nhà văn tiếp cận theo khuynh hướng sử thi rõ nét nhất. Sống giữa những ngày chống Mỹ, nối tiếp truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam; cái nền hiện thực của cuộc kháng chiến đã là cơ sở để những người chiến sĩ – con người – xã hội  xuất hiện một cách giản dị mà đẹp đẽ, hùng tráng. Người chiến sĩ  trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu là những nhân vật trung tâm nhân danh cộng đồng. Đó là những con người “gắn bó số phận mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng”, là “những nhân vật trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại, chứ không phải đại diện cho cá nhân mình” [14; tr. 194]. Được  tiếp cận theo khuynh hướng sử thi, hình ảnh người lính Trung đoàn 5 cũng là hình ảnh người chiến sĩ Việt Nam.
“Mang âm hưởng anh hùng được quy định bởi bản chất của toàn bộ nền văn học đương thời là tập trung miêu tả cái “anh hùng”” [21; tr. 120], không khí sống động những ngày hành quân của Trung đoàn 5 được Nguyễn Minh Châu tái hiện bằng giọng văn đâm chất anh hùng ca: “Các ngả đường ngập những lính, đâu đâu cũng nghe những tiếng hát, tiếng ồn ào của đám đông, đâu đâu trong rừng cũng sực lên hơi người, đâu đâu cũng gặp những bếp than cháy dở (…). Bất cứ một người nào đi trên con đường này cũng phải tự hỏi: Ai là người đầu tiên tới đây dựng lên cái bếp lửa sơ sài bên con đường rừng? Bàn tay người lính nào đã dùng mìn bẫy đá, cầm dao phát cây? Và người cán bộ tham mưu nào đã từng mang một chiếc địa bàn và một mảnh bản đồ, đứng chon von trên đỉnh núi để ngắm hướng cho việc mở đường?” [05; tr. 16 - 17]. Con đường mòn xuyên qua Trường Sơn trong những ngày mưa dầm và giá rét đã là con đường của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ, con đường huyền thoại. Một bếp lửa sơ sài dựng vội bên con đường rừng, bàn tay người lính bẫy đá, phát cây, một cán bộ tìm hướng mở đường… tất cả tạo nên một bức tranh hoành tráng để người lính xuất hiện đẹp một cách rực rỡ, hào hùng.
Chân dung người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” không chỉ đơn thuần là chân dung của từng con người - cá nhân. Chân dung của họ được dựng lên “trên nền của cảnh chiến trường, nơi giáp mặt với kẻ thù, bom đạn, cái chết. Đó là những chân dung tập thể, nhiều khuôn mặt của nhiều thế hệ, mang dáng vẻ và ý chí thời đại đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” [16; tr. 105]. Phải tiếp cận nhân vật người chiến sĩ như những con người – xã hội  theo khuynh hướng sử thi, Nguyễn Minh Châu mới vẽ lên được chân dung rất “lính” của họ. Đó là thế hệ những người lính đã kinh qua cuộc kháng chiến chống Pháp, dạn dày kinh nghiệm như chính uỷ Kinh, như trung đoàn trưởng Nhẫn. Cuộc đời binh nghiệp của chính uỷ Kinh hầu như gắn liền với những trận đánh, những chặng đường hành quân. Mọi gánh vác lo toan trong ngôi nhà gỗ, bên bờ con sông rất đẹp của miền Trung , Kinh đều phó thác cả lên đôi vai người vợ. Con trai ông – Lữ – trốn nhà đi bộ đội, khép lại quãng đời học trò ở tuổi mười sáu từ một buổi chào cờ cuối cùng trên sân trường. Với quan niệm “phải từ giã hết, phải ném vào lửa hết, phải ném vào lửa bằng hết, tất cả mọi thứ sách vở và bản thân những thằng học trò như mình cũng cần phải được ném vào lửa” [05; tr. 84 - 85], Lữ đã “lăn lóc khắp các tuyến đường, các bến phà, đã từng góp bàn tay làm nhiều con đường, từng đi cứu kho, cứu người, gỡ bom nổ chậm, từng đi nuôi lợn, nuôi bò, đi dạy văn hoá…” [05; tr. 85] để  “tự tìm lấy một niềm tin bền vững và chắc chắn hơn từ trong cuộc đời”. Hình ảnh đẹp của người chiến sĩ trong“Dấu chân người lính” còn là bác Đảo – “một chiến sĩ tình nguyện quốc tế” ngoài bốn mươi tuổi,  một tiểu đội trưởng nấu ăn chăm chỉ và chu đáo nổi tiếng trong Trung đoàn.  Trải qua nhiều lần bị bom mìn, nhiều lần bị máy bay B52 oanh tạc trúng bếp nấu ăn, quần áo, đồ đạc cháy sạch, nhưng con người “thấp bé, đầu hói bóng” ấy không bao giờ chịu mất chiếc xà-cột bên mình. Chỉ vì trong đó luôn cất giữ mấy gói muối, mì chính và một chiếc kéo dùng để cắt tóc cho anh em… Nhìn vào công việc tỉ mỉ, chu đáo của một tổ trưởng nấu ăn ngoài mặt trận, không ai có thể nghĩ đó là kẻ đã “từng sống gần nửa đời người ở các vùng thị trấn đô hội nước ngoài, đã từng mặc “xà-rông” đi lễ ở các ngôi chùa, làm nghề đánh cá trên sông Mê-kông, đã từng cắt tóc, chùi xe đạp và sống cùng khu phố ngoại ô với những người làm xiếc, viết đơn thuê, những người làm nghề nhổ răng vỉa hè và bán thuốc lá cuốn”[05; tr. 193-194].
Nhân vật người chiến sĩ của Nguyễn Minh Châu đẹp từ ý nghĩ đến hành động. Giữa những ngày hành quân, khi nhận được tin ở nhà bị bom dội, mẹ bị thương nặng và một đứa em năm tuổi chết, tiểu đội trưởng trinh sát  đầy nghị lực và sắc sảo Khuê nén nỗi đau cá nhân, cùng đồng đội tập trung hết tinh thần vào các buổi diễn tập. Lượng – đại đội trưởng đại đội trinh sát của Trung đoàn 5, canh cánh trong lòng một tình yêu với  người phụ nữ Vân Kiều, nhưng vẫn cương quyết cắt đứt mối quan hệ tình cảm đó để giữ cho hình ảnh anh cán bộ Giải phóng quân đẹp mãi trong lòng mọi người. Đó còn là hình ảnh của Cận, của Moan,  Hoạt…, những chiến sĩ trẻ trong tổ điện báo ngày đêm bám trụ kiên cường trên cao điểm 475. Trong “Dấu chân người lính”, chân dung người lính lần lượt xuất hiện, bình dị, đời thường mà anh dũng. Ngoại trừ chính uỷ Kinh và bác Đảo, đa số chiến sĩ đều có tuổi đời từ mười tám đến hai mươi ba, hai mươi lăm… Các thế hệ người lính ấy đã sát cánh bên nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau, cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Là một cuộc chiến toàn dân, toàn diện, âm hưởng hào hùng của một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” bàng bạc trên mỗi chặng đường hành quân : “Đông đúc quá! Không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết đây là đường rừng hay là quảng trường, là rừng cây hay là rừng người và rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi nóng của hơi thở và mùi mồ hôi người, là tiếng nói ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao đang san một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần cầm lấy súng. Người ta cũng không thể phân biệt hiện tại hay khung cảnh lịch sử, hay là tương lai đang bước ra đây từ đôi bàn chân của người lính?” [05; tr. 51-52]. Chính cái “không khí mới mẻ, náo nức của những ngày đầu sôi sục chống Mỹ – cái không khí vừa bề bộn quyết liệt, vừa trang nghiêm đầy đức tin của một thời kỳ không thể nào quên trong cuộc đời mỗi con người” [17; tr. 114] đó đã làm đẹp thêm chân dung người lính, hun đúc thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một thế hệ anh hùng, một dân tộc anh hùng. Tổ quốc còn hay mất? Độc lập, tự do hay nô lệ, ngục tù? Người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” không còn mang tiếng nói của những số phận cá nhân mà đại diện cho tiếng nói của cả một cộng đồng dân tộc trước thử thách quyết liệt. Tiếng nói ấy dù âm thầm, lặng lẽ nhưng lại có một sức sống mãnh liệt, bất khuất, kiên cường: “Không thể nào tả hết những khuôn mặt chiến sĩ, những khuôn mặt chỉ huy, những khuôn mặt của tầng tầng lớp lớp người đang nối tiếp nhau hiện ra từ trên dốc, từ dưới suối, từ khắp các ngõ ngách của rừng. Khuôn mặt nào cũng đẫm mồ hôi và bừng bừng như say. Phần đông là những khuôn mặt còn trẻ măng cả. Nhìn bất cứ người nào cũng có thể đoán được khuôn mặt dòng dõi của bố mẹ, của người em, người anh, người chị ở nhà hoặc cũng ở một nơi nào đó. Tất cả đều đang bước đi. Các cặp mắt tất cả đang nhìn. Trong tất cả mọi người giữa dòng thác hôm nay, ai sẽ trở nên nhà chép sử sách, ai sẽ cầm bút viết văn, sẽ mô tả làm sống trở lại khung cảnh này ?” [05; tr. 52]. Bằng những lời văn trang trọng, mỹ lệ, chân dung người  chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” chính là sự nối tiếp truyền thống hào hùng của bước chân Quang Trung thần tốc mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1788, của người nghĩa sĩ công đồn Cần Giuộc những ngày đầu chống Pháp năm 1861 và là sự kết tinh cao quý chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam của thế hệ chiến sĩ Điện Biên năm 1954.
Tiếp cận nhân vật theo khuynh hướng sử thi, người  chiến sĩ  - những nhân vật điển hình trong “Dấu chân người lính” - “thực chất là những nhân vật sử thi  luôn cao hơn cuộc sống một nấc và “có sức mạnh vẫy gọi con người vươn tới cái cần có trong cuộc chiến đấu”” [23; tr. 79].
2.2. Nhân vật là con người – xả thân  được nhà văn xây dựng qua bút pháp trữ tình, hướng ngoại:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đến hồi quyết liệt. Trung đoàn 5 bước vào một giai đoạn chiến đấu mới: chiến dịch bao vây. Các đại đội thuộc Trung đoàn 5 đều được huy động vào chiến dịch vận tải “lót ổ”, phối hợp các đơn vị chiến đấu tiêu diệt khu vực phòng thủ rắn nhất của tuyến đường 9 cắt đôi hai nước Việt - Lào. Hiện thực anh hùng của cuộc chiến hiện lên trên mỗi trang viết càng lúc càng đậm nét. Cái anh hùng cao cả trong cuộc sống được tái hiện lại trong “Dấu chân người lính” trở thành cái cao cả nghệ thuật. Và chân dung người chiến sĩ được xây dựng theo phương thức “phóng đại” – phóng đại cái đẹp để đẹp hơn. Họ chính là những con người – xả thân  được nhà văn xây dựng qua bút pháp trữ tình, hướng ngoại.
Địch rót vào Khe Sanh sáu ngàn tên lính thuỷ đánh bộ, có khi con số ấy tăng lên đến bốn vạn rưỡi. Là một thung lũng ngang dọc mỗi bề khoảng chừng mười cây số, trang bị hiện đại với hệ thống phòng ngự vững chắc, hình thành một hình tam giác khép kín, Khe Sanh đã trở thành một cứ điểm quan trọng; là cái “yết hầu” trong chiến dịch “Scotland” (chiến dịch giải vây cho lữ đoàn “Ngựa bay”). Trong cái bối cảnh ấy, đời sống nội tâm của người lính ít được miêu tả sâu sắc. Hiện thực cuộc kháng chiến đang cuốn họ về phía trước. Gặp con vội vã trên chặng đường hành quân, chính uỷ Kinh và con trai cũng không có những giây phút riêng tư dành cho tình cảm cha con, gia đình. Phần lớn thời gian của Kinh đều dành cho chiến dịch. Xuyên suốt tác phẩm, người đọc thấy một chính uỷ Kinh chỉ để tâm nghĩ đến vợ và các con trai một đôi lần. Trong tâm hồn người lính già dặn trận mạc ấy, những suy nghĩ hướng ngoại là dòng mạch chủ yếu: “Chưa bao giờ Kinh thấy đội hình một đại đội xuất kích đi chiến đấu lại dài đông đúc như thế. Cũng chưa lần nào đứng trước hàng quân trước giờ nổ súng, Kinh lại thấy vững tâm như lần này. Trước mặt ông, thực sự là một khối thuốc nổ.” [05; tr. 170]. Tình thương con của Kinh đối với Lữ cũng bao hàm trong tình thương của một người cha - người đồng chí với đồng đội của mình. (“Kinh lại thấy thương con vô hạn, xen lẫn một niềm tự hào ngấm ngầm, nhưng vẫn không khỏi lo lắng, một nỗi lo mơ hồ và gần như bất lực”. “Giữa lúc gần như tất cả trí óc Kinh đã bị hút về phía địch thì thật kỳ lạ, làm sao giữa trái tim của ông chợt nảy nở một mối tình yêu thương im lìm và sâu xa của người cha bao trùm lên hết tất cả” [05; tr. 98]). Ngay cả sau này, khi được tin con trai hy sinh, người chiến sĩ – con người xả thân ấy “vẫn không thay đổi sắc mặt”. Ông chỉ cất tiếng hỏi bằng “cái giọng hơi khàn” với người chiến sĩ cần vụ. Với cách mô tả từ bên ngoài, Nguyễn Minh Châu không để cho người đọc thấy được cơn bão táp trong tâm hồn người lính chiến dày dạn ấy. Và mãi sau này, khi nghe văn công hát , Kinh mới khóc vì thương nhớ con: “… một giọt nước mắt long lanh trên cặp mắt đồng chí chính uỷ. Giọt nước mắt đọng rất lâu rồi rơi xuống ống tay áo quân phục đầy nếp gấp đặt ngang trước bụng ông. Đó là giọt nước mắt đầu tiên kể từ ngày Kinh nhận tin con trai mất. Cho đến hôm nay, trong khi ngồi nghe cô văn công hát, tiếng hát khiến ông chợt nhớ đến con trai mình và ông đã lỡ để rơi một giọt nước mắt” [05; tr. 311]. Những trạng thái tâm lý của Kinh chỉ được miêu tả như những âm thanh đơn lẻ, hoà vào âm vọng tiếng hát “Anh vẫn hành quân” của cô văn công và nhanh chóng chìm lẫn trong dàn đồng ca hùng tráng của cuộc chiến đấu của dân tộc. Bút pháp trữ tình hướng ngoại của Nguyễn Minh Châu khi xây dựng nhân vật chiến sĩ – con người xả thân cũng thể hiện  rõ qua hình ảnh Thái Văn – một nhà thơ tình nguyện đi theo đơn vị pháo binh sông Cầu để tiếp cận thực tế. Vào bộ đội từ lúc mới bắt đầu học chữ; những nhà thơ – người chiến sĩ như Thái Văn cũng đã là những nguyên mẫu con người - xả thân. Dù mỗi thế hệ người lính bước vào cuộc chiến đấu với một dáng cầm súng khác nhau; nhưng Thái Văn vẫn thấy  “có cái gì khác trong vẻ đẹp của lớp người cầm súng trước đây và lớp người hôm nay? Ngày xưa, những người lính nông dân cầm khẩu súng để chiến đấu cho Tổ quốc, đồng thời cho mảnh vườn và mái nhà của mình (…) vậy thì trong cuộc trường chinh hôm nay họ đang chiến đấu cho cái gì? Họ từ bỏ cái trái hạnh phúc đã ửng hồng trong vườn nhà mình để cầm súng đi chiến đấu cho mục đích gì ?” [05; tr. 220 - 221].  Mục đích chiến đấu ấy chính là độc lập, tự do. Họ đã “xả thân” chỉ bằng lưỡi lê và lựu đạn, lăn xả vào những đám lính Mỹ để giải vây cho Lữ và bảo vệ chiếc đài vô tuyến điện. Cái chết của họ nhẹ tựa lông hồng, mang âm hưởng hào hùng của tinh thần “nhất khứ bất phục phản”.
Mang những đặc điểm của con người - xả thân, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” đã “thể hiện thế giới tinh thần phong phú và vẻ đẹp lý tưởng của người anh hùng, mối quan hệ giữa cái bình thường và cái vĩ đại, giữa người anh hùng và tập thể quần chúng anh hùng, giữa anh hùng ca và tình ca, cuối cùng là những đặc điểm về khí phách, tầm vóc và dáng đứng của người anh hùng cách mạng Việt Nam” [09; tr. 109]. Đọc nhật ký của Lữ, chúng ta không hề gặp những suy nghĩ riêng tư trong tâm hồn một chàng trai tuổi mười chín:
“Đứng ở đây nhìn rộng sang cả hai bên bờ Nam và bờ Bắc chỉ thấy nhức mắt một vùng bãi hố bom đỏ loét trên chỏm đồi, trên sườn đồi, trên dải đất đầy những đá và cây sát mép nước. Hình như số phận những con sông đều gắn chặt với số phận đất nước và tất cả các con sông đều hết sức nhạy cảm với chiến tranh ? Tôi khoác súng đứng bên này nhìn sang bên kia  mấy phút trước khi xắn quần lội qua. Tôi cảm thấy da mặt cứ nổi gay lên, tim như phồng to choán cả lồng ngực, một nửa người tôi là máu chảy, nửa là lửa cháy! Hình như tất cả tình yêu có trong cuộc đời chỉ đựng đầy trong một trái tim mười chín tuổi của tôi. Tôi đứng đây và tự nhiên nước mắt cứ trào ra. Bên kia, một nửa phần đất nước, một nửa mái  nhà của mỗi mái nhà bên này đang cháy, một nửa trái tim của từng trái tim người Việt Nam bên này ngày nào gót giày của hàng chục vạn quân Mỹ cùng giẫm lên một lần” [05; tr. 222 – 223].
Tình yêu của Lữ dành cho bố mẹ cũng là tình yêu dành cho đất nước, quê hương:
 “Những người cha dù có tinh thần trách nhiệm đến đâu cũng không thể làm thay được tất cả mọi việc cho đời con cái mình. Làm sao có thể như thế được? Những người cha của lứa tuổi chúng tôi đã làm nên một sự nghiệp hết sức lớn lao là giành lại đất nước và giữ vững đất nước, và vạch cho chúng tôi con đường phải đi tiếp theo, một con đường đầy hy sinh nhưng hết sức vinh quang. Chúng tôi đã chịu ơn lớp người  sinh ra mình và chúng tôi thấy cần phải xứng đáng là những đưa con (…). Con yêu mẹ như yêu vẻ đẹp dòng sông trước nhà ta, từ lúc còn bé con đã thấy. Con yêu bố như yêu dãy núi Hồng sau nhà, chỉ khi được mẹ bế cao trên tay và mẹ chỉ lên cao con mới nhìn thấy !” [05; tr. 228 – 229].
 Những trang nhật ký của Lữ thể hiện một tính cách nhân vật mang tính hướng ngoại, tự biểu hiện hơn là tự ý thức. Khi gặp Nghim – người chiến sĩ dân tộc ít người – những dòng nhật ký của Lữ viết về Nghim cũng là những suy nghĩ về cái bản A - lâu  bên bờ sông A-si xinh đẹp của Nghim bị bọn Mỹ – ngụy tàn sát, đốt phá. Và mong ước của Lữ “giá có cách gì giới thiệu cho các đơn vị hành quân qua trạm K. lịch sử  của cái trạm khách này, để cho tự bản thân câu chuyện sẽ nói lên ý nghĩa của cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay ở đây” [06; tr. 62] cũng không phải là những mong ước riêng tư cho cá nhân, vì cá nhân; mà là nỗi ước mong mọi người sẽ biết được cuộc chiến anh hùng của dân tộc Việt Nam. Ngay cả khi máy bay B52 oanh tạc cao điểm 475, trong những lúc dời hầm để bảo vệ đài quan sát pháo binh sông Cầu, sau những loạt bom đến tức thở, các chiến sĩ tổ trinh sát vẫn nghe tiếng Lữ đọc thơ sang sảng. Lữ không thể im lặng, hoàn toàn anh không thể nín lặng được bởi vì “không lúc nào bằng lúc ấy, mặt đất cần phải có tiếng nói, cần có tiếng người cất lên. Điều đó như một phản ứng của ý thức và của nhu cầu bản năng của anh và của tất cả mọi người, thấy cần phải nói lên tiếng nói mãnh liệt của sự sống, cần nói lên lời tuyên ngôn của những người chiến sĩ không có một thứ bom đạn nào của Mỹ có thể khuất phục được họ” [06; tr. 93].
2.3. Nhân vật người chiến sĩ được tác giả miêu tả tâm lý theo quy luật đồng nhất một chiều:
Là con người – xã hội nhân danh cộng đồng, là những con người - xả thân chiến đấu hết mình vì lý tưởng, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” hầu như không hề có “sự sống đích thực của các Bản ngã” [23; tr. 79]. Nói như Bakhtin, tác giả chưa đi tới tận cùng tâm hồn con người, chưa giúp người đọc nắm bắt “con người bên trong con người” của nhân vật.
Sau một cuộc chiến đấu, trong hàng ngũ bộ đội của Kinh đã có “nhiều mái đầu quấn băng trắng, những cánh tay, những mảng lưng và những khuôn ngực để trần, những vòng băng cá nhân quấn quanh người đã thấm ướt máu”,  nhưng những chiến sĩ thương binh ấy vẫn thét vang khẩu hiệu diệt địch. Từng loạt tiếng thét, tiếng hô “xin thề” nổ ra như những loạt súng. Những cánh tay quấn băng nâng những khẩu súng trường và tiểu liên , những khẩu súng máy quá đầu. Tiếng thét diệt giặc vang lên giữa những tiếng cười. “Tiếng thét phát ra từ những trái tim đang bốc lửa. Tiếng thét đông đặc, phẫn nộ, rùng rùng khép kín như một hàng ngũ xiết chặt” [05; tr. 168 – 169]. Điều này phù hợp quy luật tâm lý một chiều của nhân vật. Vì trong những năm tháng chống Mỹ, đứng trên quan điểm lịch sử thì “cái cao cả – anh hùng và lý tưởng đã bao trùm cái vốn có của thời đại” [09; tr. 120]. Không bàn đến “đã có lúc có người phê phán lối viết làm cho cái cao cả , lý tưởng lấn át cái vốn có” xung quanh vấn đề xây dựng nhân vật người chiến sĩ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh [09; tr. 120], cũng không bàn đến đặc điểm thứ hai của người chiến sĩ ngoài mặt trận như tác giả Triệu Bôn nhận xét qua “Vài nét về nhân vật người chiến sĩ” (Đặc điểm thứ nhất là cuộc sống của họ biến động rất dữ dội và không bao giờ ngừng. Đặc điểm thứ hai là tâm trạng của họ luôn luôn tự mâu thuẫn. Đặc điểm thứ ba, sức sống thật kỳ diệu của họ) [01; tr. 121]; cùng với những tác phẩm tiểu thuyết khác trong giai đoạn 1945 – 1975, “Dấu chân người lính” là một “mô hình nghệ thuật đặc thù ra đời trong một giai đoạn lịch sử cụ thể” [10; tr. 66]; nên hầu như những người chiến sĩ – nhân vật chính diện trong tác phẩm – thường được bao bọc trong một bầu không khí “vô trùng”. Và vì thế, sự hoà hợp, thống nhất giữa “cái tôi” và “cái ta” chung của dân tộc, cộng đồng là điều tất yếu.
Được miêu tả tâm lý theo quy luật đồng nhất  một chiều, nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu luôn “đồng nhất với chính nó”. Giữa những trận đánh ác liệt, các chiến sĩ trinh sát và điện đài trên cao điểm 475 luôn thể hiện một tinh thần lạc quan cách mạng. Những chiến sĩ với khuôn mặt “mới mười tám, mười chín, râu đã mọc đen bên mép. Khuôn mặt nào cũng dày cộm vì đất bột bám, vì thuốc đạn ám, những cặp mi mắt trên rất dày, mi dưới đỏ, tròng mắt lờ đờ đùng đục hoặc có vằn đỏ. Thuốc đạn, đất, trộn với mồ hôi lâu ngày đã biến thành một màu xam xám, xỉn xỉn bám trên chân tóc, trên lông mày, trong hai hốc mũi và trên những bộ quân phục sờn rách, dày và cứng như da thuộc” [06; tr. 103]; thế mà họ vẫn háo hức lắng nghe tiếng hát của các đồng chí văn công “biểu diễn” trong máy. Từ những khuôn mặt gầy võ, hố mắt trũng sâu, tóc tai đỏ quạch màu đất ; giữa các đợt dội bom của giặc; trong hầm sâu; tiếng sáo của Sĩ vẫn cất lên, dìu dặt, mơ hồ, bổng trầm, tha thiết. Và trong những ngày gần cuối của chiến dịch, chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ, chín chiến sĩ  tiểu đội trinh sát: Cận, Moan, Lữ, Sĩ, Hoạt… đã liên tục bẻ gãy năm đợt tấn công của địch ở cứ điểm đồi 475. Chiến công của họ đã góp một phần không nhỏ cho chiến thắng Khe Sanh.
Chứng kiến cảnh những máy bay phản lực Mỹ dội bom lên xóm làng mình, Lữ và ba người bạn thân đã chấm dứt quãng đời đi học bằng một đêm đốt hết sách vở mà không hề trù trừ, do dự. Rời ghế nhà trường, bắt đầu cuộc sống mới, hành trang mang theo là tất cả những kiến thức “sách vở” và sự ngây thơ của tuổi học trò, đến khi trở thành một chiến sĩ thông tin liên lạc, đối với Lữ ; quãng đời đó ghi dấu sự trưởng thành lớn nhất trong cuộc đời anh: Lữ đã lớn lên từ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giữ nước của dân tộc. Sự sống của Lữ không hề có cái gì là riêng. Lúc phát hiện giặc đang bí mật đổ quân xuống sườn núi bên đất Lào và quyết bắt sống Lữ cho bằng được, Lữ chỉ kịp xoay chiếc máy ôm gọn trước ngực và nghĩ: “sống chết cũng phải giữ cho được cái đài để kiên lạc !” [05; tr. 258]. Trong những ngày chốt ở cao điểm 475, được Khuê giác ngộ vào hàng ngũ của Đảng, người chiến sĩ trẻ ấy đã cảm thấy một niềm vui phấn chấn tràn ngập tâm hồn , khiến “một giọt nước mắt vỡ từ bên khoé mắt” và Lữ đã cảm thấy hết niềm hạnh phúc của một người “có khi chỉ vì được đứng bên cạnh một người khác, được dẫn dắt bởi bàn tay một người khác” [06; tr. 153]. Và khi đã trải qua các giai đoạn thông thường của một người con trai đã từng được thử thách và lăn lộn rất nhiều, bắt đầu quan sát bản thân bằng con mắt khe khắt, trong con người của Lữ đã dần dần hình thành một quan niệm về cuộc sống hết sức nghiêm ngặt: “chưa bao giờ anh biết yêu quý và trân trọng những người dồng đội chung quanh như hiện nay. Cái điều mới nảy sinh là anh đã có được một niềm tin vào phẩm giá tuyệt đỉnh của những con người, đó là những người đồng đội rất mực bình thường vẫn sống chung đụng với anh hằng ngày. Cũng chưa bao giờ cuộc đời hiện ra trước mắt anh đẹp như hôm nay, mặc dầu hôm nay anh đang phải chịu đói khát, đang đứng trên một mảnh đất ác liệt chưa từng thấy” [06; tr. 217 - 218]. Tình yêu của anh với Hiền cũng là một tình yêu rất lính. Lữ đã nghĩ đến ngày chiến thắng, anh sẽ “cầm tay cô đi qua ba mỏm đồi 475 để xuống thung lũng ở dưới kia. Hai người sẽ đi qua từng tấc đất chi chít hầm hố và giao thông hào, từng tấc đất mới được giải phóng mà những người đồng đội dũng cảm trẻ trung đã gửi lại biết bao mồ hôi và máu, đồng thời cả những hoài bão và lý tưởng, cả tiếng hát và niềm hy vọng” [06; tr. 224]. Chính vì được miêu tả theo quy luật “đồng nhất một chiều”, nên sự hy sinh của các chiến sĩ trinh sát ở Đồi không tên là những biểu hiện đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Hành động hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Đồi không tên là những biểu hiện đồng nhất của “hạt ngọc” lấp lánh hào quang lý tưởng: “Sử sách về sau sẽ ghi tên Quả Đồi không tên, gần một chục chiến sĩ trẻ tuổi, tất cả đều là đoàn viên thanh niên do một đồng chí đảng viên chỉ huy, họ đã đem ngực mình dựng thành chiến lũy cản mười đợt tấn công điên cuồng của địch. Họ chiến đấu đến người cuối cùng, không có một tên lính Mỹ nào bước nổi qua cái mảnh đất của Tổ quốc họ đứng cầm súng và ngã xuống, trong ngày hôm nay” [06; tr. 271]. Và hành động quyết định gọi pháo bắn vào giặc – vào chính mình – của Lữ là hành động phù hợp với tâm lý, với quy luật: “Lữ giang hai cánh tay ôm chặt lấy cái đài như sợ chúng có thể ùa vào cướp ngay trên tay anh. Anh ôm nó trong ngực, lúc này anh quý nó hơn là tính mạng. Anh vừa quyết định một việc vô cùng hệ trọng đối với anh, và quyết định hết sức nhẹ nhõm: Anh gọi bắn ! Anh gọi rất hấp tấp, không kịp dùng ký hiệu mật mã - “Chúng bay hãy cầu chúa đi !”. Trong lòng anh chợt rưng rưng một nỗi mừng rỡ” [06; tr. 266]. “Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc mỗi thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt hẳn. Những món tóc rất xanh rối bù dính bết máu phủ kín cả vầng trán lấm tấm mồ hôi đã trắng nhợt. Dường như từ trong ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng” [06; tr. 267 - 268].
3. Người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người lính Việt Nam trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young (Hàn Quốc):
Nếu trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu, hiện thực cách mạng thời chống Mỹ giàu chất huyền thoại là cái nền để tác giả xây dựng nhân vật của mình; các nhân vật đã sống, cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình vì cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam; thì những người lính – người chiến sĩ Việt Nam - trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young (Hàn Quốc) cũng chiến đấu hết mình vì lý tưởng, vì độc lập, tự do của dân tộc. Dù không trực tiếp cầm súng ra chiến trường diệt giặc như Lữ, Moan, Cận… trong “Dấu chân người lính”, nhưng nhân vật chính - Phạm Minh – trong “Hình bóng của vũ khí” cũng là một hình ảnh đẹp về người lính “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Đang là sinh viên Y khoa năm thứ hai một trường đại học ở Huế, Phạm Minh từ bỏ tất cả để vào bộ đội. Được tổ chức phân công phụ trách công tác quân nhu cho đơn vị ở tuyến Quảng Nam, Đà Nẵng, Hội An, Phạm Minh buộc phải thường xuyên giao dịch với người của “phía bên kia”. Anh phải nguỵ trang dưới lớp vỏ một kẻ buôn bán, xem đồng tiền là trên hết. Để  hoàn thành nhiệm vụ, anh đã hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình; chịu những ánh mắt khinh rẻ của người thân, bè bạn; mang tiếng là kẻ phản bội Tổ quốc. Nhận nhiệm vụ vô vàn khó khăn, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng Minh vẫn tin vào lý tưởng, vào con đường mình đã chọn: “Trên con đường cách mạng, thì chỉ có hai con đường mà thôi: bị giết do bàn tay của kẻ thù hoặc là thắng lợi. Cái chết chỉ là của cá nhân, còn chiến thắng là của tất cả mọi người. Cái khả năng bị giết chết lớn hơn gấp vạn lần so với thắng lợi trước mắt. Nhưng nếu không có lòng tin vào thắng lợi thì không thể tiếp tục đấu tranh toàn diện được” [24; tr. 103]. Chiến đấu hết mình vì lý tưởng, Phạm Minh tâm niệm: “một người chiến sĩ giải phóng không phải biến thành một người chiến đấu kỹ thuật mà phải làm hồi sinh lại người cách mạng mới bằng cả cái “tâm” và “thân” hoàn toàn mới” [24; tr. 102]. Cuối cùng, Phạm Minh bị phát hiện và đã hy sinh khi chạm trán với những người lính Hàn Quốc và nguỵ quân trong một cuộc vây ráp… Là những người lính có lý tưởng, Lữ, Moan, Cận, Phạm Minh… đã cống hiến quãng đời đẹp nhất của tuổi trẻ cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc. Bằng cái nhìn hiện thực của một nhà văn tiến bộ từng tham chiến ở Việt Nam, Hwang Seok Young đã xây dựng hình ảnh đẹp đẽ về người lính Việt Nam qua nhân vật Phạm Minh. Dù chiến đấu ở mỗi trận tuyến khác nhau, nhưng nhân vật người chiến sĩ trong “Dấu chân người lính”  của Nguyễn Minh Châu và nhân vật người lính Việt Nam trong “Hình bóng của vũ khí” của Hwang Seok Young đều giống nhau ở điểm: là những con người – xả thân, hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình, đặt “cái tôi” vào trong “cái ta” chung của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Điều đó càng được khẳng định qua lời nói của An Young Kyu – một người lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam: “Lính “Việt cộng” thì khác biệt với những loại lính khác. Nếu những loại lính khác ( lính Mỹ; lính Hàn Quốc tham chiến Việt Nam và nguỵ quân – Ha Jae Hong )  cái đầu và trái tim của họ “chênh” nhau; thì cái đầu và trái tim của lính “việt cộng”  không phải là “chênh” nhau, mà lại luôn thống nhất với nhau” [25; tr. 284]. Đó chính là sự thống nhất giữa lý tưởng và hành động trong trái tim, tâm hồn của từng người lính yêu nước chân chính.
Sự so sánh nhân vật người lính ở hai tác phẩm nói trên dù có phần khập khiễng; nhưng cũng cho chúng ta thấy được nét đẹp tâm hồn của những anh bộ đội Cụ Hồ.
4. Kết luận:
Lúc còn sống, Nguyễn Minh Châu đã từng tâm đắc với nhà văn Nga Simonov: “Viết về chiến tranh không phải chỉ làm rung động những người từng đi qua mà còn phải làm rung động cả những thế hệ không hề trải chiến tranh” [07; tr. 28]. Nằm trong dòng văn học chống Mỹ, rõ ràng “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu đã “nghiêng về vẻ đẹp hào hùng và tươi tắn của cả cộng đồng, nghiêng về những sự kiện vĩ đại, những người anh hùng và được thể hiện với bút pháp trữ tình đậm đà, giàu chất thơ. Ở đó, cảm hứng trữ  tình hoà nhập giao thoa nhuần nhị với cảm hứng anh hùng” [07; tr. 29]. Khuyến khích những tìm tòi và đổi mới về nghệ thuật để phản ánh thực tế biến động mạnh mẽ của cuộc chiến đấu, đó là ấn tượng để lại trong lòng người đọc qua “Dấu chân người lính”.
Trong một đất nước mà “trên ba mươi năm qua, số phận của nhân dân gắn với số phận của dân tộc như hai mặt của một tờ giấy” [13; tr.118], trong một giai đoạn lịch sư” mà “em bé cũng quên mình là em bé để làm một người lớn; ông già cũng ghép thành đơn vị bắn máy bay; và đàn bà cũng ghép mình thành đại đội, tiểu đoàn để đi vào Trường Sơn và làm tất cả mọi công việc đàn ông; trong một giai đoạn mà con ong, con voi cũng giết giặc, cũng đi đánh giặc; rừng cây, núi đá cũng đánh giặc; khí hậu, thời tiết cũng đánh giặc; nhà cửa, xóm làng, thành phố cũng trở thành thành lũy, ổ chiến đấu, pháo đài; những mối quan hệ xưa cũ như tình mẹ con, tình vợ chồng, tình yêu lứa đôi… cũng đều được huy động vào công việc đánh giặc một cách triệt để” [04; tr. 113];  thì hình ảnh những con người đặt cả cuộc đời vào việc đánh giặc giữ nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội là những hình ảnh đẹp một cách rực rỡ. Nguyễn Minh Châu đã luôn trăn trở “làm sao kết hợp được tính vĩnh hằng của văn học chân chính với yêu cầu cụ thể trước mắt của cách mạng, của công chúng” [12; tr. 116] và “Dấu chân người lính” ra đời là kết quả của sự “không có nhiều băn khoăn và chọn lựa, không có sự trái ngược giữa cái riêng và cái chung, giữa cái mất và cái được, giữa tài năng của nghệ sĩ và những nhiệm vụ chính trị được giao phó” [11; tr. 99 - 100]. “Dấu chân người lính” chính là một quá trình trong đó tác giả tự khám phá những hiểu biết của mình về người lính và viết về người lính bằng một sự nhận thức trung thực, chân thành. Giữa hiện thực xô bồ của hàng nghìn vạn người lính vào một chiến dịch lớn, nhà văn đã “dựng được những nhân vật người lính thuộc nhiều kiểu loại khác nhau, có tính cách, có số phận, không ai hoàn thiện, nhưng nhiều người thật đáng yêu, đáng nhớ, lưu luyến mãi trong tình cảm người đọc” [22; tr. 140].
Tình  yêu đất nước, quê hương, yêu dân tộc và lý tưởng chiến đấu của các chiến sĩ trong “Dấu chân người lính” của  Nguyễn Minh Châu nói riêng, những tác phẩm văn học thời đánh Mỹ nói chung đã là nguồn sức mạnh tinh thần vô giá, cổ vũ cho tuổi trẻ Việt Nam lên đường chống Mỹ trong những năm tháng chiến tranh. Và ngày hôm nay, trong một giai đoạn cách mạng mới, người chiến sĩ Việt Nam vẫn tiếp tục lên đường trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận để bảo vệ cho màu cờ vẻ vang của dân tộc.
Anh vẫn hành quân !

Tài liệu tham khảo
01.    Triệu Bôn, 1982, Vài nét về nhân vật người chiến sĩ trong Mấy nét chung quanh mảng văn học viết về chiến tranh 35 năm qua, Văn nghệ quân đội, số 02 / 09/ 1945 – 02 / 09/1980.
02.    Nguyễn Minh Châu, 1980, Nhà văn – nhân vật – bạn đọc trong Mấy nét chung quanh mảng văn học viết về chiến tranh 35 năm qua, Văn nghệ quân đội, số 02 / 09/ 1945 – 02 / 09/1980.
03.    Nguyễn Minh Châu, 1982, Người viết trẻ và cánh rừng già trong Chiến trường sống và viết,  NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
04.    Nguyễn Minh Châu, 1982, Bên lề tiểu thuyết , Văn nghệ quân đội, số 01 - 1984.
05.    Nguyễn Minh Châu, 1999, Dấu chân người lính, NXB Trẻ, tập I.
06.    Nguyễn Minh Châu, 1999, Dấu chân người lính, NXB Trẻ, tập II.
07.    Nguyễn Minh Châu toàn tập , 2001, NXB Văn học, Tập I.
08.    Nguyễn Văn Dân, 1994, Những vấn đề lý luận của văn học so sánh, Luận án P. Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn Hà Nội, TTKHXH & NV QG.
09.    Phan Cự Đệ, 1984, Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng, Văn nghệ quân đội, số 09 - 1984.
10.    Hoàng Mạnh Hùng, 2003, Các sắc thái giọng điệu trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975, Tạp chí Văn học, số 03 - 2003.
11.    Nguyễn Khải, 1984, Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống, Báo cáo bổ sung tại Đại Hội lần III Hội Nhà văn Việt Nam, Văn nghệ quân đội, số 01- 1984.
12.    Tôn Phương Lan, 1984, Nhà văn Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ quân đội, số 10 - 1984.
13.    Phong Lê, 1984, Văn học Việt Nam và đề tài chiến tranh, Văn nghệ quân đội, số 08 - 1984.
14.    Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), 1996, Văn học lớp 12, tập I, Ban KHXH, NXB Giáo Dục.
15.    Vương Trí Nhàn, 1982, Chung quanh một số tác phẩm viết về chiến tranh ra đời hôm nay trong Chiến trường sống và viết,  NXB Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
16.    Đặng Quốc Nhật, 1990, Mấy ý kiến về đề tài chiến tranh và sự chi phối của nó trong Văn học Việt Nam hiện đại, Văn nghệ quân đội, số 12 – 1990.
17.    Lê Thành Nghị, 1984, Vài khía cạnh của một chặng đường văn xuôi về đề tài chiến tranh cách mạng, Văn nghệ quân đội, số 12 – 1984.
18.    Lê Sơn, 1984, Góp mặt trao đổi về đề tài chiến tranh trong văn học,  Văn nghệ quân đội, số 03 – 1984.
19.    Trần Đình Sử, 1993, Giáo trình Thi pháp học, Trường ĐHSP Tp. HCM.
20.    Trần Đình Sử, 1993, Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT- Vụ Giáo Viên , Hà Nội.
21.    Bùi Văn Thắng, 1985, Mấy suy nghĩ xung quanh vấn đề xây dựng nhân vật người chiến sĩ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh 1945- 1985, Văn nghệ quân đội, số 10 – 1985.
22.    Ngô Thảo, 1984, Tuổi trẻ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Văn nghệ quân đội, số 07 – 1984.
23.    Trịnh Thu Tuyết, 1999, Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây dựng truyện ngắn, Tạp chí Văn học 01 – 1999.
24.    Hwang Seok Young, 1992, Hình bóng của vũ khí, tập I, NXB Sáng tác và phê bình, Seoul.
25.    Hwang Seok Young, 1992, Hình bóng của vũ khí, tập II, NXB Sáng tác và phê bình,  Seoul.

                                            
1. Quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại, xét về lịch sử, giống như dòng sông cuồn cuộn chảy. Và trong sự “vận hành” ấy, có những cái rơi rớt lại nhưng có cái vẫn còn theo mãi cho đến khi “dòng sông tư tưởng” ấy hòa mình vào “đại dương tư tưởng” mênh mông.
Trong buổi bình minh của lịch sử, con người cổ xưa đã biết sáng tác những “huyền thoại” bằng tư duy “mơ hồ, không tách bạch, không phân hóa” của mình để giải thích một số hiện tượng tự nhiên. Cho đến bây giờ, với sự xuất hiện những “kỹ thuật văn chương” hiện đại, tư tưởng huyền thoại ấy tưởng không còn được nhắc đến nữa nhưng thực sự, nó đã “phục sinh” lại với mức độ đáng kinh ngạc bắt đầu từ châu Mỹ La tinh vào những năm 60 của thế kỷ XX. Những sáng tác này tạo thành trào lưu văn học theo “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Các nhà văn của trào lưu này thường mượn những truyền thuyết dân gian xưa để tạo ra các huyền thoại mới. Các tác phẩm vừa có những cảnh tượng ly kỳ hư ảo, vừa có những chi tiết và hoàn cảnh hiện thực, gây cho người đọc cảm giác về những hiện tượng nghịch lý” (trang 53).
Nhắc đến phương thức “huyền thoại hóa” không thể không kể đến các sáng tác của Kapca. Trong những tác phẩm của mình, ông miêu tả tình trạng mâu thuẫn không thể giải quyết nổi giữa cá nhân và xã hội cũng như những mâu thuẫn bên trong tâm hồn nhân vật. Nhà văn coi bản chất của thế giới và con người như là một cái gì “phi lý, quái dị, không nhận thức được”. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Vụ án, Kapca đã xây dựng những biểu tượng nghệ thuật. Ông không miêu tả những sự việc có thật mà chú ý miêu tả những cái không cụ thể (khu phố, giới công thương…). Ngay cả nhân vật của tác phẩm cũng không được miêu tả cụ thể. Đó là một con người tên K., tự nhiên bị kết án. K. không hiểu bị kết án tội gì, ông tìm đến những vị chức trách tìm cách biện minh cho mình nhưng không ai biết, không ai giải đáp. K. chết như một con chó. Đời thật phi lý.
Thật ra, các chi tiết, sự việc trong tác phẩm không có cái gì quái dị hay hoang đường nhưng lại mang tính biểu trưng cao (biểu trưng là nét cơ bản của huyền thoại). Chính sự không hòa hợp giữa con người với cuộc đời, với xã hội mới là cái “vô lý và quái dị”. Điều này cũng được thể hiện qua truyện ngắn Hóa thân. Nhân vật trong tác phẩm hóa thành con gián, cắt đứt quan hệ với gia đình, với thế giới bên ngoài. Xamxa tự vật lộn với chính bản thân mình, muốn tiếp xúc với ngoại cảnh nhưng không được. Đây chính là bi kịch. Qua tác phẩm, Kapca cho thấy sự vô lý của cuộc sống: cá nhân con người không thể hòa hợp với gia đình, với thế giới xung quanh để cuối cùng biến thành con vật.
Một tác phẩm cũng sử dụng khá thành công phương thức“huyền thoại hóa” là Trăm năm cô đơn của Macket. Trong tác phẩm, nhà văn đã đưa vào nhiều thực tại để mô tả và đẩy những cái có trong hiện thực thành những cái “phi hiện thực”, thậm chí trở thành cái quái dị. Chẳng hạn, trong tác phẩm có chi tiết Rémédiod- người đẹp đang tồn tại giữa trần thế lại không thuộc về cõi thế tục mà nàng đang sống nên cuối cùng Rémédiod bay lên trời. Hoặc có nhiều chi tiết không thực nhưng do nhà văn căn cứ vào cảm quan của mình mà sáng tạo ra: những trận mưa lụt, mưa hoa, cái đuôi lợn của con người, vụ thảm sát 3000 người ở Côlômbia…
Qua cái có thực và cái không có thực, qua số phận của từng con người, tác giả Trăm năm cô đơn muốn thể hiện một hiện thực: đó là sự tù đọng, trì trệ của xã hội Mỹ-Latinh thời bấy giờ cũng như kêu gọi con người đoàn kết để thoát khỏi sự trì trệ ấy.
Tóm lại, sự bùng nổ của văn xuôi Mỹ- Latinh trong đời sống văn học thế giới những năm 60 đã khẳng định được vị trí của “kiểu sáng tác huyền thoại” trong văn học hiện đại. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: “Trong văn học thế giới suốt từ đầu đến cuối thế kỷ này, kiểu sáng tác huyền thoại vẫn luôn luôn sống động, thu hút nỗ lực của nhiều tác giả lớn”11 Lại Nguyên Ân – Văn học, huyền thoại, huyền thoại văn học – Tạp chí văn học số 3/ 1992, tr.58.
2. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại chưa sử dụng phương thức “huyền thoại hóa” một cách phổ biến, một số tác phẩm chỉ mới manh nha viết theo phương thức này. Tuy chưa xuất hiện đậm nét song chúng ta vẫn coi đây là một phương diện cách tân nghệ thuật đáng chú ý, góp phần làm phong phú thêm phương diện thể hiện hiện thực, thể hiện số phận con người và tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm.
2.1 Trong Lời nguyền hai trăm năm, để thể hiện sự trừng phạt ghê gớm của số phận, sự sòng phẳng đến lạnh lùng của cuộc sống đối với con người, nhà văn Khôi Vũ đã sử dụng khá linh hoạt thủ pháp này. Nhờ thủ pháp “huyền thoại, huyền ảo” kết hợp với thủ pháp “đồng hiện”, tác giả đã hòa trộn những bức xúc, những xô xát quyết liệt của cuộc sống hôm nay với cái huyền bí, mờ ảo của lịch sử hai trăm năm trước thành một dòng chảy không ngừng. Hai năm năm nghiệt ngã một lời nguyền- lời nguyền phải làm điều ác tâm mới có nguời “nối dõi tông đường”, dòng họ Lê bốn đời liền phải sống trong lo âu, phải làm điều thất đức. Người duy nhất của dòng họ Lê đời thứ năm lại quyết tâm “hóa giải” lời nguyền. Để cưỡng lại sự nghiệt ngã của cuộc đời, Hai Thìn đã đấu tranh không chỉ chống lại những ràng buộc, những chèn ép của cuộc sống hiện tại mà còn phải gạt bỏ những ám ảnh của quá khứ.
Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng được hai tuyến nhân vật  đối ngược nhau. Một bên là những người luôn tin vào điều thiện, quyết chống lại cái ác (Hai Thìn, ông Bảy, Lài…). Một bên là những con người không có nhân cách, mù quáng, dã tâm- những con người “trước sau cũng bị quẳng vào sọt rác của lịch sử” (Năm Mộc, Sáu Khế, Năm Hường…).
Cuộc sống là một chuỗi những cuộc săn tìm cái đẹp. Con người sống luôn hướng đến cái thiện - mỹ, chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng ấy bất hạnh còn đến với con người. Qua tác phẩm, nhà văn muốn kêu gọi con người phải quyết liệt chống lại cái ác. Cuộc sống tốt đẹp không ở đâu xa, ở ngay trên mảnh đất mà mình đang sống; làm những điều tốt đẹp, đem lại hạnh phúc cho mọi người cũng có nghĩa là chúng ta đem lại hạnh phúc cho chính mình.
Lời nguyền hai trăm năm được xây dựng trên nhiều yếu tố không thực, hư ảo. Đó là lời nguyên ác độc và ghê rợn. Nhưng niềm tin vào cuộc sống, vào những điều tốt đẹp mà tác phẩm đem lại cho con người là hoàn toàn có thật. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về chức năng của văn học, tác giả Huỳnh Như Phương đã khẳng định: “Nghĩ rằng văn học có thể làm cho trên thế gian này cái thiện thắng cái ác, đó là một ảo tưởng. Nhưng văn học có thể góp phần giữ cái thiện ở thế cân bằng với cái ác, làm cho cái thiện không bị chao đảo, ngả  nghiêng, mất tự tin vào chính mình”11 Huỳnh Như Phương- Văn học trên con đường dân chủ hóa-Tạp chí văn học số 4/1991, tr.14- 17.
.
2.2. Một dạng sáng tác sử dụng phương thức “huyền thoại hóa” mà chúng ta gặp trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là các nhà văn mượn điển tích hoặc tạo ra những “huyền tích” riêng cho tác phẩm của mình. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Thiên sứ, tác giả Phạm Thị Hoài đã sáng tạo ra nhân vật cô bé Hoài với những chi tiết kỳ lạ. Sau khi  vô tình đặt chân vào “vườn cấm của papa” (tủ sách gia đình), cô bé Hoài nhận thấy mình “đã lãnh trọn tội tổ tông” và vĩnh viễn “không bao giờ còn trinh trắng nữa” nên có một hành vi “dị thường”: quyết định “đình tăng trưởng” ở tuổi mười bốn. Vì “không muốn trở thành người lớn”, bé Hoài đã “trút kinh nguyệt một lần cho mãi mãi, vắt bỏ, cạn kiệt, tẩy sạch mọi khả năng thành một người đàn bà như những người đàn bà, một kẻ trưởng thành như tất cả những kẻ trưởng thành trên thế gian ” khi đến tắm ở vòi nước công cộng (tr. 98). Và như thế, sau “lễ rửa tội năm tiếng đồng hồ” ấy, cô bé Hoài vẫn ở tuổi mười bốn (một mét hai mươi nhăm, ba mươi kg, đuôi sam) trong khi chị Hằng- người chị sinh trước chưa đầy một phút xinh đẹp như một nàng tiên cá. Cô bé ấy đã “đình tăng trưởng”- giữ nguyên tuổi mười bốn để không hòa nhập vào thế giới người lớn, để quan sát cuộc sống xung quanh theo kiểu của mình. Rồi cũng hết sức kỳ lạ, mười lăm năm sau, bé Hoài, đã “trút bỏ hình hài chú vịt con xấu xí”, “hóa thân” thành “một người đàn bà 29 tuổi lộng lẫy, giống chị Hằng như hai giọt nước” (tr.164). Đó là khi cô bé Hoài bắt gặp chàng trai của đời mình- người mà cô đã “ôm riết lấy bậu cửa sổ, thu mình chờ đợi đến quên cả giọng nói” suốt mười lăm năm.
Theo tác giả Lại Nguyên Ân thì nhà văn Phạm Thị Hoài đã mượn điển tích từ tiểu thuyết Cái trống thiếc của nhà văn Gunther Grass (Điều này cũng được tác giả  chú thích ở lời đề từ cuốn tiểu thuyết Thiên sứ: “Cuốn sách bắt đầu từ một điển tích của nhà văn G.G…” ). Vì trong cuốn Cái trống thiếc có câu chuyện một cậu bé chủ ý ngã vào cái trống và mang tật để luôn luôn là đứa trẻ lên bảy để quan sát và phản ứng với thế giới xung quanh11 Lại Nguyên Ân- Sống với văn học cùng thời- NXB Văn học, H. 1998, tr.285.
.
Ngoài ra, trong tác phẩm, chúng ta còn gặp rất nhiều chi tiết khác cũng được “huyền thoại hoá”. Đọc Thiên sứ, nhân vật để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc là bé Hon - “thiên sứ pha lê” mặc dù nhân vật chỉ xuất hiện rất ngắn ngủi (4/164 trang sách). Đây là kiểu nhân vật mà từ khi còn trong bụng mẹ đến khi sinh ra và mất đi đều gắn với những điều kỳ lạ, hoang đường. Chẳng hạn, khi lọt lòng mẹ, con bé “không chịu cất tiếng khóc mà mỉm cười làm thân với đủ mười ba nữ hộ sinh đứng quanh bàn đẻ. Thế là cả mười ba, lúc đầu ngơ ngác, sau bật khóc như một dàn đồng ca…”. Trong khi đó, nó lại “mỉm cười với bố khiến ông ngã phịch xuống một chiếc ghế” (tr. 93). Những ngày tháng sống trong gia đình, bé Hon đem lại cho mọi người biết bao điều kỳ lạ: miệng lúc nào cũng cười khiến cho “thế giới vụt sáng trong và hiền lành, mang bộ mặt hài đồng như trong nôi” (tr. 94). Rồi cuộc sống vốn không quen với những điều lạ mà bé Hon đem lại. “Cỗ máy tâm lý” phức tạp của con người không chịu đựng nổi những nụ cười mê hồn, những cái “thơm nào” hào phóng của “thiên sứ pha lê” nên tất cả bắt đầu “rò gỉ” và bé Hon đã ra đi “mang theo bí mật về sự có mặt lạ lùng của nó” ở trên đời này (tr. 96). Sau khi chết, bé Hon cũng để lại những điều kỳ lạ. Tác giả miêu tả đoạn bốc mộ bé Hon như sau: “Lúc mở ra, quan tài trống không, thơm tho sạch sẽ, đọng duy nhất nụ cười làm thân với muôn vật của Thiên sứ pha lê bị trục xuất” (tr.96).
Bên cạnh bé Hon, còn có những chi tiết khác cũng được “huyền hoặc hóa” như  chi tiết “hai trăm chín mươi chín phò mã” tranh đua trong lễ cầu hôn của chị Hằng. Họ “túa khắp các ngả phố, kẻ tấn công chùa chiền, kẻ lao từ Intershop ra các nhà vệ sinh công cộng, kẻ lê gót bến tàu bến xe, kẻ cày nát từng ngọn cỏ, chọc thủng từng ghế đá bốn mươi chín công viên lớn nhỏ trong thành phố….” (tr.121). Cuối cùng, chỉ còn lại “mười vận động viên khôn ngoan và hùng mạnh” bước vào vòng hai: dâng lễ vật. Chất “huyền hoặc” còn thể hiện ở các kiểu “lễ vật” mà đám “phò mã” đem dâng: nào là hoa và rau thơm, nào anatomie parfaite của lương tâm con người, nào đàn gà khổng lồ công kênh rổ trứng tròn xoe đánh số từ một đến hết cùng với “lũ lợn thật, lợn đất, lợn giấy”, rồi quả cầu “đúc bằng vàng nguyên chất, khắc nổi những ngả đường mầu nhiệm tỏa khắp thế giới văn minh” vv và vv… Mỗi người tùy theo tính chất nghề nghiệp mà chọn lễ vật xứng đáng để dâng tặng “nàng Mỵ Nương kiêu hãnh”.
Còn rất nhiều tình tiết khác trong tác phẩm được miêu tả một cách huyền ảo với nhiều sắc thái khác nhau. Đặc biệt, tất cả những chi tiết ấy đem lại cho người đọc cảm giác vừa lạ vừa quen. Lạ ở cách viết, ở giọng văn hài hước, mỉa mai. Quen vì tác giả luôn chú ý miêu tả mọi việc một cách cặn kẽ, tỏ ra rất chân thực. Mặc dù biết những điều ấy không thể xảy ra trong cuộc sống hiện tại nhưng người đọc vẫn có cảm giác như gặp ở đâu đấy những “mô hình người” lập dị; những cảnh hỗn độn, nhố nhăng; những yếu tố “dị thường” của văn hóa thời “mở cửa”…Qua cái thực tại được “ giai thoại hoá”, “huyền thoại hoá” ấy, tác phẩm muốn phản ánh hiện thực xã hội mà nhân vật đang sống. Phải chăng, xã hội vốn luôn tồn tại những điều thực và ảo. Những điều ấy nhiều khi lẫn lộn, chúng ta rất khó phân biệt. Đặc biệt, qua những chi tiết kỳ lạ trong cuộc đời, trong tính cách của nhân vật bé Hoài, nhà văn muốn nói đến nhiều vấn đề của xã hội lúc bấy giờ như trạng thái văn hóa, vấn đề nhân cách, tri thức… của con người. Trong xã hội ấy xuất hiện bao kẻ xu thời, cuồng tín, chạy theo đời sống tiện nghi, chạy theo vật chất, quyền lực…Thật khó tìm thấy trong tác phẩm nhân vật nào có sự hoàn thiện về nhân cách (trừ bé Hon - thiên sứ pha lê). Bởi vậy, nhân vật bé Hoài có sự phản ứng trước thực trạng văn hoá, xã hội ấy và có khát vọng thoát khỏi trạng thái văn hóa nghèo nàn, khuôn mẫu để vươn tới một xã hội có nền văn hóa rộng lớn hơn, tốt đẹp hơn. Và muốn có được điều đó, nhân vật phải tự mình nhận thức, tự mình hoàn thiện chính mình. Có thể xem chi tiết “ hoá thân” kỳ diệu của bé Hoài vào tuổi hai mươi chín là kết quả tuyệt vời của quá trình tự nhận thức ấy của con người.
2.3. Đặc biệt, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã sử dụng phương thức này một cách độc đáo. Có người cho rằng, tiểu thuyết của Bảo Ninh là “một giấc mơ dài, một huyền thoại của thời đại”. Bởi nó được “hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn, từ vô thức, man rợ, từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh”11 Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học - NXB Khoa học – Xã hội, NXB Mũi Cà Mau 1994, tr.174.

Đọc Nỗi buồn chiến tranh, cảm giác đầu tiên của chúng ta là rùng rợn, hãi sợ, đau xót và đôi lúc như nghẹt thở. Quả thật, cảm giác ấy xuất hiện trong người đọc ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm. Trước hết, cảm giác ấy bắt đầu từ những giấc mơ khủng khiếp chứa đựng những cái không bình thường. Cùng với những giấc mơ ấy là những đêm tối âm u, tù mù, hư ảo; những trận mưa xối xả trong đêm, những tiếng hú ghê rợn từ cõi âm vọng về…
Theo nguyên tắc sáng tác của “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”, Bảo Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh cũng “biến hiện thực thành hoang đường” mà không đánh mất tính chân thực”.22, 3 Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi- Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục 1992, tr.53.
 Và để gây “hiệu quả hoang đường”, để bộc lộ được những giằng xé, trăn trở, những cắn rứt trong lương tâm nhân vật, tác giả đã sử dụng nhiều chi tiết không thực “phóng đại, liên tưởng, người và hồn ma bất phân, trật tự thời gian bị xáo trộn, thực và ảo hòa quyện nhau”3. Ta gặp trong tác phẩm bao nhiêu điều kỳ dị, nhất là khi tác giả vẽ lại những cảnh vật lưu lại dấu ấn cho mình trong chiến tranh. Từ loài “hoa hồng ma” quỷ quái làm say lòng người, giúp con người “tự chế ra cái ảo giác tùy sở thích” (tr.14), từ con đom đóm to quá cỡ đến các loại măng đỏ “như những tảng thịt ròng ròng máu” (tr.7)…,tất cả đều xa lạ và đáng sợ. Rồi những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy về cuộc chiến tranh “những lời đồn đại, những sấm truyền và những lời tiên tri” (tr.15). Còn bao nhiêu điều kinh dị khác lẫn khuất trong tác phẩm. Chẳng hạn, người lính đã nhìn thấy tận mắt “vô khối sự hão huyền”. Đó là “những quái vật lông lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kỳ nhông kéo lê lết và họ ngửi thấy mùi tanh máu từ chúng, nghe thấy chúng gào rú và ca hát trong kia truông Gọi Hồn” (tr.15). Rồi xuất hiện trong tác phẩm những “toán lính da đen không đầu chơi trò rước đèn ở ven rừng”. Ghê rợn hơn là “những tiếng hú mang dại thường cất lên vào những buổi tinh mơ mờ mịt mưa giăng” (tr.15). Chưa hết, người lính còn nghe thấy những “tiếng cười cuồng loạn nức nở” của loài quỷ rừng- tiếng cười ám ảnh con người đến bao nhiêu năm bên bờ sông Sa Thầy. Rồi họ còn thấy “những linh hồn lồm xồm lông lá…, râu tóc quá dài, cởi trần truồng ngồi trên một thân cây…tay cầm lựu đạn” (tr.101); những “bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay” (tr.104). Kinh khủng hơn nữa là có khi “một con vượn bị bắn chết hóa ra là một người đàn bà da xùi lở” (tr.9)vv…
Có lúc hồn ma chỉ là những ám ảnh bên ngoài, có lúc hồn ma ấy được con người đối thoại, trò chuyện như đồng đội, đồng chí của mình: “Anh là ai? Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi” (tr.103). Hồn ma vốn vô cảm, vô hồn nhưng với người lính lại thân thiết biết bao nhiêu. Bởi chúng cũng từng là những con người biết cầm súng, biết yêu thương.
Tất cả những điều ấy đều xa lạ và kỳ quái với con người. Những bóng ma, bóng quỷ, những con quái vật kỳ dị trong tác phẩm chúng ta đã từng gặp đâu đó trong những truyện thần thoại hay những truyện cổ tích thần kỳ. Nhưng trong Nỗi buồn chiến tranh, tác giả sáng tác những huyền thoại ấy xuất phát từ tâm hồn bấn loạn, từ những bóng đêm âm u của tiềm thức, từ những cảm giác của con người bị ám ảnh bởi chiến tranh. Những huyền thoại ấy vừa gợi nhớ thế giới huyền bí xa xưa vừa gắn chặt với những kỷ niệm đau thương của chiến tranh nên càng gây cảm giác hãi sợ, kinh hoàng.
Phóng đại, khoa trương cũng là hình thức gây hiệu quả hoang đường. Không chỉ đưa người đọc vào một thế giới toàn hồn ma, bóng quỷ ẩn hiện, nhà văn còn chú ý miêu tả những cái chết ghê sợ và kỳ lạ. Đời người lính phải chứng kiến biết bao cái chết nhưng với Kiên, những cái chết ấy sao thảm thương, đau đớn quá! Có những người chết mà không được một nấm mồ, chết mà không còn nguyên vẹn thân xác để hồn mãi lang thang: “hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người” (tr.26). Có những người chết trở thành “đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự” (tr.90). Bao nhiêu cái chết dồn dập về trong tâm trí anh. Trận Plây-Cần năm 1972 “thây người la liệt”, “máu tới bụng chân, lội lõm bõm” (tr.23). Cứ thế, những cái chết chồng chéo lên nhau hoảng loạn, kinh hoàng. Cho đến khi Kiên viết lại cuốn tiểu thuyết chiến tranh của đời mình thì không khí của truyện là “bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà. Những di vật và những bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy” (tr.93).
Ngoài phóng đại khoa trương, tác giả còn sử dụng những hình tượng, những biểu tượng để phản ánh hiện thực một cách “huyền ảo”, hoang đường. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta có cảm giác mưa và bóng đêm lấp trùm, đè nặng lên từng trang tiểu thuyết. Ta gặp trong tác phẩm vô vàn những trận mưa kỳ lạ: “mưa dầm”, “mưa xối xả”, “mưa núi non nhạt nhòa”, mưa ngút trời”, “mưa ê ẩm”, “mưa lê thê”, “mưa to”, “khắp nơi lằng nhằng sấm chớp”, “mưa nặng nề xối dội”, “mưa ngày”, “mưa đêm”, và “cuộc chiến có vẻ như bị vùi lấp trong biển mênh mông mù mịt mù mưa” (tr.16). Theo  Đỗ Đức Hiểu, tác giả đã “sáng tạo một vũ trụ mới của cuộc chiến, vũ trụ chìm trong mưa và mưa là biểu tượng khủng khiếp của chiến tranh”11  Đổi mới phê bình văn học- Sđd, tr.275.
Cùng với mưa - “biểu tượng của chiến tranh” là bóng đêm. Vô vàn những đêm là đêm trong tác phẩm. Đêm với bao nhiêu điều kỳ dị hư vô: “đêm hoang vu”, “đêm ác mộng”, “đêm của tâm hồn”, “đêm đen”, “đêm âm u”, “đêm rét mướt”, “đêm thác loạn”, “đêm kỳ ảo”, “đêm trường”, “đêm thức trắng”, “đêm hương hoa”…
Phải chăng, mưa là “biểu tượng của chiến tranh” còn đêm là biểu tượng cho đời sống tâm hồn của nhân vật Kiên? Đi ra khỏi cuộc chiến tranh, Kiên sống những tháng ngày u buồn của thời hậu chiến. Anh luôn bị ám ảnh bởi quá khứ - cái quá khứ mà anh đã gởi tất cả sức xuân, niềm vui và nỗi đau của mình vào đó. Với Kiên, tương lai là một cái gì đó xa mờ và tăm tối…Vì thế, bóng đêm đã trở thành nỗi ám ảnh đối với anh. Có biết bao điều quái lạ xảy ra trong những đêm đen như thế. Tiếng hát của những người đã chết huyền bí, thì thào như hoàn toàn hư, hoàn toàn thực từ cõi mông lung gọi về “xót xa, bi tráng như nhắc nhở những con người còn sống đừng quên năm tháng vinh quang khổ đau bất tận”(tr.94) cũng cất lên khi “bóng đêm vùi kín rừng cây”. Có những cái không thể có lại được viết ra như thực trong cái vô biên của tâm hồn để trở thành huyền thoại. Đó là câu chuyện về một người lính khi chết được bó trong một tấm tăng nằm lại trên đèo, xương cốt hóa mùn cả nhưng cây đàn guitare của anh vẫn còn nguyên vẹn. Và đêm đêm, người ta lại nghe thấy tiếng hát của con người vô danh ấy vang vọng mãi trong lòng rừng…”.
Mưa và bóng đêm khủng khiếp và hồn hoang, ảo giác, hồn ma, những cơn mộng du… tạo cho tác phẩm một hiện thực “huyền ảo, mơ hồ”. Và chính những cái không thực mang màu sắc huyền hoặc, mờ ảo ấy đã phản ánh rất thực đời sống tâm hồn nhân vật- những con người bị ám ảnh bởi năm tháng chiến tranh.
Viết về tình yêu giữa Kiên và Phương, nhà văn cũng xây dựng nhiều yếu tố kỳ lạ. Nhân vật Phương hết sức kỳ quái: đẹp kỳ quái, yêu thương kỳ quái và tính cách cũng rất kỳ quái. Trong văn học, chưa có người phụ nữ nào được miêu tả như Phương: “đẹp mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người, đẹp một sắc đẹp kỳ ảo và khôn lường, đẹp một cách đau lòng, đẹp như thể một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp lâm nguy, mấp mé bên bờ vực” (tr.275). Cuộc đời Phương và tình yêu của Phương là một huyền thoại không dứt, mênh mông và huyền ảo. Phương vừa có thực, vừa như không có thực. Nàng xuất hiện giữa cuộc đời Kiên như một điềm báo không lành để rồi mãi mãi ám ảnh không dứt trong Kiên.
Ngoài ra, xây dựng nhân vật “người đàn bà câm” lầm lũi, lặng thinh nhưng bùng cháy một sức sống mãnh liệt, một nghị lực phi thường cũng là một bút pháp nghệ thuật độc đáo của Bảo Ninh. Cuộc đời của người đàn bà câm ấy cũng là một huyền thoại. Có người cho rằng đó là “sự tái sinh từ các truyền thuyết xa xưa của nhân loại, từ “mẫu cổ xưa” thần giữ của”11 Đỗ Đức Hiểu- Những nhịp mạnh của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”- Tạp chí Tác phẩm mới, số 1/1992.
. Người đàn bà ấy chỉ là bóng ma âm thầm cô độc, một thế giới đóng kín nhưng lại là người duy nhất chứng kiến cuốn tiểu thuyết của Kiên – cuốn tiểu thuyết ra đời trong cơn say, trong điên cuồng, hỗn loạn. Có thể nói, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cuốn tiểu thuyết “huyền thoại” được kết tinh từ những nỗi buồn.
Thể hiện tất cả những cái ấy, ngòi bút của Bảo Ninh vừa tả thực, rất “tỉnh táo”, vừa dùng bút pháp “huyền thoại”, huyền bí mơ hồ. Sở dĩ như vậy vì nhân vật trong tác phẩm luôn sống trong “vô thức”, tiềm thức, đan xen với “ý thức”. Đó là con người “được sống sót” và bị ám ảnh bởi những năm tháng chiến tranh, ám ảnh bởi một thời kỳ lịch sử khốc liệt mà mình là một “chứng nhân”. Tâm lý của Kiên là tâm lý của người mà cảm xúc bị nén chặt trong vô thức “tìm cách nhoi ra” 22 Chữ dùng của Phrơt  vùng ý thức nên không bị biến dạng đi. Bởi vậy, hiện thực có hiện ra trong Kiên qua “vô thức” hay “hữu thức” cũng không còn nguyên vẹn mà bị tách rời, chắp nối, hoà quyện, không phân biệt được đâu là thực, đâu là không thực. Mặt khác, chiến tranh được dựng lại (chứ không phải được miêu tả lại) qua hồi ức, qua giấc mơ, qua ảo giác, qua những “hồi tưởng đen” nên bị chi phối bởi những ám ảnh, những nỗi sợ hãi khiến cho hiện thực trở nên không thực nữa.
Thực ra, chính những chi tiết hoàn toàn không thực ấy lại nói được những điều rất thực: tình người trong chiến tranh và những mất mát đau thương mà chiến tranh để lại. Quả thật, người đọc nhận ra trong thế giới toàn hồn ma bóng quỷ ghê rợn ấy cái tâm “sáng rực” của con người. Không dễ dàng tìm thấy được ở những nơi khác (kể cả cuộc sống hòa bình) cái tình người chân chất mà sâu nặng như trong chiến tranh- yêu thương lắm và cũng đau buồn lắm. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhà văn nổi tiếng Đốtxtôiepxki đã ví cuộc sống thời bình là nơi “quỷ vật lộn với thần” còn “chiến trường là trái tim con người”.

3. Chúng ta đã biết, chân lý là mục đích cuối cùng mà khoa học tìm đến. Nhưng trên bước đường tìm đến chân lý, con người phải trải qua nhiều chặng đường vất vả, gian nan. Trong đó có thể có những điều nhận thức đúng, có thể có những điều chưa đúng, có thể có những ước mơ, những ảo tưởng… Tồn tại những cái đó, rõ ràng “tư duy huyền thoại” vẫn còn. Vì thế, trong văn học, đặc biệt là dòng văn học hiện thực thế kỷ XX, xuất hiện nhiều khuynh hướng nghệ thuật trong đó có khuynh hướng sáng tác huyền thoại. Với phương thức “huyền thoại hóa”, các nhà văn tiếp cận, lý giải được những hiện tượng phức tạp về ý thức, cả trong vô thức, tiềm thức của con người.
Có thể nói, phương thức “huyền thoại hóa” giúp nghệ thuật vượt lên trên mâu thuẫn giữa cái vô thường và tính chất trường tồn của thời gian, giúp con người lý giải được những điều mà bình thường không lý giải được, trong đó, có lý giải đời sống nội tâm của chính con người …
                         
 
Tài liệu tham khảo:
1. Lại Nguyên Ân- Sống với văn học cùng thời - NXB Văn học, H.1998.
2. Lại Nguyên Ân- Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại – Tạp chí Văn học số 3/1992, tr. 58-61.
3. Đặng Anh Đào- Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại- NXB Giáo dục. 1995
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi- Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục, 1992.
5. Đỗ Đức Hiểu- Đổi mới phê bình văn học- NXB Khoa học Xã hội, NXB Mũi Cà Mau. 1994
6. Đỗ Đức Hiểu- Những nhịp mạnh của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”- Tạp chí Tác phẩm mới, số 1/1992.
7. Phạm Thị Hoài – Thiên sứ - NXB Trẻ Tp.HCM.1989.
8. Bảo Ninh- Nỗi buồn chiến tranh- NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 1991
9. Hoàng Trinh – Phương Tây văn học và con người – NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 1999.
10. Phùng Văn Tửu- Tiểu thuyết Pháp hiện đại- Những tìm tòi đổi mới- NXB Khoa học Xã hội, NXB Mũi Cà Mau. 1990.
11. Phùng Văn Tửu- Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI - NXB Thủ pháp. Hồ Chí Minh. 2001.
12. Khôi Vũ- Lời nguyền hai trăm năm - NXB Thanh Niên, H.1987

Là một trong số những nhà thơ làm thơ từ khi đất nước còn trong những năm tháng chiến tranh cho đến khi hòan tòan độc lập và chuyển mình thay đổi cùng thời cuộc, Nguyễn Duy luôn luôn trăn trở và luôn tìm cách đổi mới giọng điệu để thích hợp với hòan cảnh. Vốn từng “ca hát quá nhiều về tiềm lực”, lúc cần thiết phải thay đổi, Nguyễn Duy sẵn sàng trở thành người vận động mọi người “đánh thức tiềm lực”, sẵn sàng làm những “câu thơ tuẫn tiết” khi không còn “rưng rưng”, không thể “tình tang phiêu lưu”.

1. Trong các tác gia văn xuôi vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, Bình Nguyên Lộc là nhà văn có số lượng tác phẩm đã viết và đã xuất bản thuộc vào hạng nhiều nhất. Các sáng tác của ông ít nhiều đã có ảnh hưởng tích cực đến đời sống sáng tác và con người Nam Bộ trước đây cũng như bây giờ.

 (Trích luận văn thạc sĩ)

Mở đầu

1. Chủ nghĩa siêu thực là sản phẩm của môi trường thẩm mỹ hiện đại, trong đó, tác phẩm không còn thẳng tắp, một chiều, không còn du dương, dễ nghe như trước, mà dung chứa sự phức tạp, đa chiều của một nhân loại bị đấu tranh sinh tồn ám ảnh. Người nghệ sĩ tìm đến sáng tạo nghệ thuật như là tìm một nơi trú ẩn trước đời sống hiện thực, trước sự tàn phá của trí tuệ và logic truyền thống. Vì vậy, muốn nắm bắt được tác phẩm siêu thực nói riêng, chủ nghĩa hiện đại nói chung, nên hiểu, nên quen với môi trường thẩm mỹ hiện đại.

Xuan DungNguyễn Thị Xuân Dung sinh năm 1985, sinh viên lớp  Cử nhân tài năng chuyên ngành Văn học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, khóa 2003 – 2007. Hiện đang học Cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Công tác tại Đại học Văn Lang.

 

 

Chiến tranh tàn phá về vật chất, gây nên những mất mát đau thương trên thân thể, trong tâm hồn, nhưng trước hết và trên hết, nó đã làm ức chế, tước đoạt những nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con người.

 

l

              Rất tiếc do binh lửa, thiên tai nên quyển luận thuyết triết lý Thiền tông chỉ nam không còn. Hiện chỉ còn lại bài Tựa của sách mà người đời sau khắc in chung trong Khoá hư lục của cùng tác giả. Không hiểu tại sao trong cuốn sử Phật giáo viết bằng tiếng Pháp Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle của Trần Văn Giáp và sau đó ít lâu trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược (1942) của Mật Thể đều khẳng định “sách còn truyền đến ngày nay”. Việc sách còn hay mất không thuộc phạm vi bài viết này (dù cho đến nay vẫn chưa tìm thấy). Có điều, tài liệu cũ cho biết người xưa đã đánh giá rất cao “Ôi! Tâm của các Đức Phật ở cả trong này, sao không in thành sách để chỉ dạy cho hậu thế” như lời của Trúc Lâm đại sa môn mà tác giả sách có ghi lại trong bài Tựa; hay như Mật Thể đã xem nó là “báu vật trong vườn Thiền Việt Nam” (Việt Nam Phật giáo sử lược).

Nguyen TraiXưa nay người ta nói nhiều về thơ Nôm của Nguyễn Trãi, nổi bật vẫn là hình ảnh mùa xuân hiện ra thật phong phú, tươi trẻ và sống động. Nếu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi “mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp hoàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến” thì còn một mùa xuân suy tư và ẩn ức, có vẻ già cỗi hơn, riêng tư hơn, chất chứa những nỗi niềm sâu lắng bàng bạc trong dòng thơ chữ Hán của ông.

Hoang Hung

1. “Người thơ phong vận như thơ ấy” - hành trình thơ và đời Hoàng Hưng

Ròng rã suốt một năm đi dọc sông Dương Tử để quên đi bệnh tật và lo âu, Cao Hành Kiện đã hoàn tất Linh Sơn, kiệt tác đưa ông đến giải thưởng Nobel danh giá. Trước đó gần ba trăm năm, lang thang trên con đường sâu thẳm tìm kiếm vẻ đẹp tinh thần Nhật Bản, Basho trở thành hành giả - thi nhân, người mà đến nay vẫn được xem là biểu tượng cho sức sống kỳ diệu của thơ Haiku, của hồn thiền Nhật Bản.

Lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ - Ảnh: Quảng Đạo
Lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ - Ảnh: Quảng Đạo

Giáo sư Huỳnh Như Phương là người viết bài tựa giới thiệu tác phẩm sau cùng của Giáo sư Cao Huy Thuần, “Im lặng như lời chia tay”, xuất bản trong nước cuối năm 2022. Sau đây là nội dung bài phát biểu của ông trong lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại Báo Giác Ngộ ngày 14-7 vừa qua, trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

***

Giáo sư Cao Huy Thuần (1937-2024) qua đời vừa tròn một thất. Ngày mai 15-7-2024, tang lễ giáo sư sẽ được tổ chức ở Paris. Theo đề nghị của Thượng tọa Tổng Biên tập Báo Giác Ngộ, từ xa xôi, với tư cách là một độc giả của giáo sư, tôi viết những dòng này tưởng niệm và đưa tiễn nhà hoạt động văn hóa - giáo dục đầy tâm huyết và tài năng của đất nước.

Là kẻ hậu sinh, tôi được gặp Giáo sư Cao Huy Thuần rất muộn sau nhiều năm đọc sách của ông. Đó là dịp hội thảo kỷ niệm 50 năm pháp nạn Phật giáo, tổ chức ở Bình Dương năm 2013. Sau đó là những lần gặp gỡ ở chùa Linh Thái với Hòa thượng Thích Trung Hậu, ở lễ trao Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh, ở Đại học Hoa Sen, vui nhất là cuộc giao lưu ở Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM trong không khí thân tình, cởi mở.

20240815Giáo sư Huỳnh Như Phương phát biểu cảm nghĩ về Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ ngày 14-7-2024 - Ảnh: Quảng Đạo

Nói chuyện với ông, tôi mới biết là ông sinh ra ở làng Phú Lộc, huyện Bình Sơn, quê hương Quảng Ngãi của tôi, lúc thân phụ ông dạy học ở đó, và đến năm 1946, khi lên chín, ông theo gia đình chuyển về quê mẹ Quảng Trị, rồi một năm sau mới về lại nguyên quán Thừa Thiên. 

Những lần gặp gỡ đó đều ở chỗ đông người, mà tôi thì có nhiều nỗi phân vân muốn giãi bày riêng với ông, một bậc tiền bối từng chứng kiến những biến cố lịch sử đã gián cách qua thời gian. Nhờ có internet, qua những email tôi có thể trình bày với ông những hoài nghi và lo âu của mình về hôm qua và hôm nay. Tôi muốn tìm ở ông những gợi ý để ứng xử với những nghịch lý của thời thế. Có những điều ông trả lời trực tiếp, có điều ông trả lời bằng ẩn dụ, có điều ông im lặng để tôi tự suy nghĩ.

Không có nỗi buồn nào dai dẳng như nỗi buồn xa xứ. Nhưng email của người-hoài-hương-Cao-Huy-Thuần thường truyền cho tôi niềm vui, nỗi hy vọng, và đôi khi không tránh khỏi nhuốm màu ảo vọng. Điều hạnh phúc, là qua email của ông, tôi được kết nối về tinh thần với những người đồng cảm. Khi viết xong một bài văn tâm đắc hay có một thông tin quý giá, bao giờ ông cũng chia sẻ cho những bạn văn phương xa mà ông quý mến. Đó những bài báo được đăng trên Giác NgộLiễu Quán và Văn Hóa Phật Giáo; thông điệp hòa bình của Thiền sư Thích Trí Quang gần 60 năm trước; luận án công phu của Tiến sĩ Nguyễn Thùy An mới bảo vệ tháng 5 năm ngoái. Ông không giấu nỗi băn khoăn khi bài phỏng vấn về báo Lập Trường thực hiện đã ba năm mà không được công bố; rồi lại bày tỏ sự mãn nguyện khi nội dung đó được thể hiện trong tham luận của PGS.Nguyễn Dịu Hương tại một cuộc hội thảo ở Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Berkeley mới tổ chức tháng 4 vừa rồi.

Bài học lớn mà tôi học được ở Giáo sư Cao Huy Thuần là sự hòa ái và trân quý đối với con người, đặc biệt với tuổi trẻ; trân quý đối với sự sống, với từng cành cây, ngọn cỏ, bông hoa. Hồi tôi hướng dẫn sinh viên Lâm Ninh Quốc Hương làm khóa luận tốt nghiệp về tản văn của Cao Huy Thuần, tôi giới thiệu cô liên lạc với ông và những trao đổi giữa hai người cách xa nhau về tuổi tác, danh vọng thật là dân chủ. Khóa luận bảo vệ thành công rồi, nhưng nghe tôi nhận xét là vẫn chưa được như kỳ vọng, thì ông bảo “người tuổi đôi mươi bây giờ mà chịu khó ngồi đọc kỹ mấy tập sách của tôi, rồi suy nghĩ, phân tích, bình luận một cách chân thành như vậy, thì anh còn đòi hỏi gì nữa”.

Khi Im lặng như lời chia tay ra mắt, nghe ông bảo đó là cuốn sách cuối cùng của ông, tôi nhắc ông còn hai món nợ nữa: một cuốn sách ghi lại những hồi ức và một tập truyện ngắn. Ông trả lời là không định viết hồi ký nhưng ngạc nhiên về sự quan tâm của tôi đối với những văn bản hư cấu của ông. Thật bất ngờ, năm ngoái chúng tôi nhận tin bộ sách giáo khoa “Kết nối tri thức với cuộc sống” đã chọn văn bản truyện Cây diêm cuối cùng của Cao Huy Thuần đưa vào chương trình giảng dạy cho học sinh lớp 11. Và mới đây, báo Vietnam News đã dịch ra tiếng Anh truyện ngắn Kể cho nhau nghe của ông để giới thiệu với độc giả nước ngoài.

Cho phép tôi nói thêm một chút về truyện ngắn Cây diêm cuối cùng. Truyện này Cao Huy Thuần viết đã lâu, khi nghe tin diễn ra cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng có cùng đường biên giới trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Truyện kể rằng, sau trận đánh, một người lính lạc đơn vị trong bão tuyết mịt mù, đánh rơi hết vũ khí và quân trang, bỗng tìm thấy chỗ trú ẩn trong một ngôi chùa nhỏ dựa lưng vào núi. Thiếp đi vì kiệt sức, khi tỉnh dậy anh đối diện với một tình thế hiểm nghèo: từ một góc chùa, một người lính của phe địch đang cầm súng chĩa thẳng về phía anh.

Thời gian trôi qua, nếu không biết cách tự cứu, chắc cả hai rồi sẽ cùng chết cóng trong đêm. Dưới họng súng đe dọa của kẻ thù, anh đi tìm tấm ván mục, cành cây khô và con dao chẻ củi để nhóm lên một bếp lửa. Nhưng cái bật lửa của anh đã rơi mất rồi. Kẻ địch, vẫn ghìm chắc tay súng, ném cho anh một bao diêm nhỏ và một tờ giấy đang viết dở làm mồi lửa. Que diêm thứ nhất, thứ hai, thứ ba rồi thứ tư vừa bật cháy đều tắt ngúm dưới bàn tay run của anh. Chỉ còn que diêm cuối cùng quyết định số phận của cả hai. Ngay lúc đó, người lính bên kia nhảy đến giật con dao trên tay anh, giành lấy bao diêm và đốt sáng lên ngọn lửa. Khi đống củi bùng cháy tỏa ấm ngôi chùa thì cả thân người anh ta gập xuống vì mất máu do vết thương quá nặng không được cứu chữa. Trong túi áo của anh ta có tờ giấy ghi một bài thơ vừa sáng tác.

Sau chiến tranh, người lính may mắn thoát chết đã trở lại chiến trường xưa, bỏ công tu tạo ngôi chùa hoang; chùa không đặt tượng và chuông mõ, chỉ có bài vị là bài thơ của người lính - thi sĩ đã chết.

Đêm qua tôi đọc lại truyện ngắn này, bỗng tưởng tượng mùa đông vừa rồi ở đâu đó trên thế giới, ở Ucraina hay ở Dải Gaza bất hạnh, trong một đền thờ hay một thánh đường bị tàn phá, cũng có thể diễn ra tình cảnh những người lính đối địch như hai người trong truyện Cây diêm cuối cùng. Và tôi nghĩ, Cao Huy Thuần là nhà văn tôn vinh văn hóa dân tộc mà cũng là nhà văn của tình nhân loại.

Trong email viết ngày 1-5-2024, Giáo sư Cao Huy Thuần báo tin: “Tôi có ý định dùng ngày tháng ít ỏi còn lại để dịch một cuốn sách. Chỉ mong là đừng bỏ dở nửa chừng. Cuốn gì ư? Anh cho tôi giữ ‘bí mật’ một thời gian nữa đã, chưa chắc làm được nên chưa dám nói đó thôi. Nhưng anh biết bụng tôi rồi: nếu làm được thì tôi sẽ gửi bản thảo cho anh. Như anh nói đó, dịch là một cách để giữ cái minh mẫn. Mà cũng là cách để quên, quên đi nỗi buồn, quên đi tất cả. Chỉ mong rằng cuộc chuyện trò còn dài dài…”. 

Kính thưa Anh Cao Huy Thuần, cuốn sách Anh dịch xong chưa hay vẫn còn dang dở khi cuộc chuyện trò đã dứt? Nhưng cây diêm thì đã cháy hết mình và ngọn lửa vẫn còn sưởi ấm tâm hồn chúng tôi, những người ở lại.

TP.Hồ Chí Minh, 14-7-2024

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Báo Giác Ngộ, ngày 14.8.2024.

1. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), thuở nhỏ tên An, tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, người gốc Trung Quốc, một trong ba nhà thơ nổi tiếng của đất Gia Định. Ông cùng Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh, Tri Chỉ Lê Quang Định được đời tôn vinh là Gia Định tam gia. Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức hiện nay còn Gia Định thành thông chí Cấn Trai thi tập cùng một số bài văn bia chép trong Đại Nam anh nhã tiền biên.

20240807 4Immanuel Kant (1724-1804). Chân dung năm 1768

Ngày 22 tháng 4, năm 2024 đánh dấu sự kiện quan trọng: kỷ niệm đúng 300 năm nhà triết học khai sáng vĩ đại Immanuel Kant. Tôi xin phép trình bày một số ý tưởng của ông từ sự hiểu biết khiêm tốn của tôi.

Từ thời Trung cổ cho đến thế kỷ 17, các nhà thần học đã thống trị tư tưởng trí thức châu Âu. Các trưởng lão trong Giáo hội giải thích các hiện tượng tự nhiên phù hợp với học thuyết tôn giáo. Nhưng rồi dần dần một thiên hà các nhà khoa học xuất hiện: Francis Bacon và Nicolaus Copernicus, Galilei, Kepler và Newton, với những ý tưởng táo bạo muốn tìm những lời giải thích hợp lý cho các sự kiện tự nhiên rối rắm trên trời. Họ áp dụng phương pháp khoa học mới để khám phá các quy luật tự nhiên, soi sáng bầu trời, bất chấp hiểm nguy chờ đợi họ. Thế rồi khoa học hiện đại cuối cùng ra đời không thể tranh cãi được. Thành tựu vĩ đại của họ đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phong trào khai sáng châu Âu sau đó, trong niềm tin rằng, phương pháp khoa học cũng có thể soi sáng những vấn đề rối rắm ở dưới đất. Nhà triết học Ernst Cassirer, một người chịu ảnh hưởng lớn của Kant, đã khắc họa bức tượng khoa học như sau:

Khoa học là bước cuối cùng trong sự phát triển tinh thần của con người và nó có thể được coi là thành tựu cao nhất và đặc trưng nhất của văn hóa nhân loại. Nó là một sản phẩm rất muộn và tinh tế, không thể phát triển ngoại trừ dưới những điều kiện đặc biệt. […] Chiến thắng của khoa học dường như đã trọn vẹn và không thể tranh cãi. Không có sức mạnh thứ hai nào trong thế giới hiện đại của chúng ta có thể so sánh được với sức mạnh của tư tưởng khoa học. Nó được coi là đỉnh cao và hoàn thiện của mọi hoạt động của con người, chương cuối cùng trong lịch sử nhân loại và là chủ đề quan trọng nhất của triết lý con người.” (Ernst Cassirer)

Tác phẩm đầu tay của Immanuel Kant trước khi trở thành nhà triết học có chủ đề về vũ trụ học và vât lý vũ trụ: “Lịch sử Tự nhiên phổ quát và Lý thuyết của Bầu trời” (Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels” năm 1755. Cũng tương tự, Adam Smith trước khi trở thành nhà triết học đạo đức học và nhà kinh tế chính trị học, đã có bài nghiên cứu sâu rộng về Lịch sử thiên văn học. Nói chung, bầu trời và khoa học Newton, nói như Kant,  đã “chiếm ngự tâm tư” của các nhà khoa học, triết học, khai sáng thời bấy giờ.

[1]

Thời đại của phê phán

Immanuel Kant diễn tả sự biến đổi Copernic này trong tác phẩm đầu tay ông, Phê phán lý tính thuần túy, như một nhu cầu giông bão và thôi thúc, Sturm und Drang:

Thời đại của chúng ta là thời đại đích thực của sự phê phán mà mọi thứ đều phải phục tùng. Tôn giáo qua sự thánh thiện của nó, và lập pháp qua sự uy nghiêm của nó thường muốn trốn tránh nó. Nhưng rồi, họ chỉ khơi dậy sự nghi ngờ chống lại chính họ và không thể nào đòi hỏi sự tôn trọng chân thật mà lý tính chỉ dành cho những gì có thể chịu được sự giám sát tự do và công khai của chúng. (Phê phán lý tính thuần túy)

Cần xác định lại cái gì là nhận thức, cái gì chỉ là một ý kiến (Meinung), hay quan niệm (Konzept). Phê phán giúp phân biệt giữa cái đúng, có giá trị, và cái sai, hoặc không chính đáng: Cái gì có thể được chứng minh, đứng vững trước phê phán của lý tính, mới được tôn trọng và chấp nhận cho đến khi có cái gì mới thay thế.

Kant nói, “Điều này là chắc chắn: bất cứ ai đã từng nếm trải phê phán sẽ luôn chán ghét tất cả những lời giáo điều mà trước đây anh ta chấp nhận vì cần thiết, vì lý tính của anh ta cần một cái gì đó và không thể tìm thấy điều gì tốt hơn cho anh ta.” Ông nói tiếp: “Mối tương quan giữa phê phán với siêu hình học kinh viện, là cũng giống như mối quan hệ giữa hóa học đối với thuật giả kim, hay như thiên văn học với chiêm tinh học bói toán.” (Prolegomena)

Tại sao con người phải đi tìm nhận thức đúng đắn? Theo Pythagoras, nếu không có sức mạnh của khoa học, mọi thứ sẽ vẫn mù mờ và rối rắm, và chúng ta sẽ không sống trong một thế giới sự thật, mà trong một thế giới của sự lừa dối và ảo tưởng. Chỉ có bằng khoa học, chúng ta mới tìm thấy một thế giới có thể hiểu được.

Phê phán lý tính thuần túy của Kant là tác phẩm đầu tiên sau mười hai năm nghiên cứu và được xuất bản năm 1781 có danh từ “phê phán” (Kritik, critique), thể hiện tinh thần phê phán toàn diện của Kant dựa trên khoa học, phê phán cả chính nó là lý tính, cũng như phê phán siêu hình học, không phải để loại bỏ cái này, mà để xây dựng nó lại mới trên nền tảng khoa học. Kritik, kết hợp với Vernunft, Lý tính, đã gây ấn tượng mạnh mẽ, và tạo ra một “trào lưu” sau đó của các tác phẩm bắt đầu bằng Kritik. Bản thân Kant sẽ có thêm các quyển Phê phán lý tính thực hành (1788) và Phê phán năng lực phán đoán (1790). Tiếp theo là Phê phán mọi sự mặc khải, Kritik aller Offenbarung, của Fichte năm 1792. Quyển Tư bản luận của Marx cũng có phụ đề Phê phán kinh tế chính trị. Danh mục của Thư viện Quốc gia Đức hiện có hơn 20.000 ấn phẩm với từ “phê phán” trong tiêu đề.

[2]

Khai sáng là gì?

Một tiểu luận rất nổi tiếng của Kant có tên Was ist Aufklärung? – Khai sáng là gì? – nhằm trả lời cho cùng câu hỏi được nhóm khai sáng Berlin đặt ra trên tạp chí Berlinische Zeitschrift. Tuy nó được công bố tháng 12 năm 1784, tức là lúc gần cuối thế kỷ ánh sáng, nhưng đã khắc họa được bản chất của Khai sáng một cách sắc nét và toàn diện:

Khai sáng là sự thoát ra (giải phóng) của con người khỏi sự chưa trưởng thành tự chuốc lấy của mình. Sự chưa trưởng thành là sự bất lực sử dụng trí năng của mình mà không có sự dẫn dắt của một người khác. Lười biếng và hèn nhát là những nguyên nhân tại sao một bộ phận rất lớn con người vẫn muốn không trưởng thành suốt đời, sau khi họ được tự nhiên giải phóng khỏi sự dẫn dắt từ bên ngoài; và đó là lý do tại sao người khác dễ dàng giả đóng vai làm người giám hộ của họ. Không trưởng thành đối với họ là một điều thoải mái. (Hết trích dẫn)

Vì thế khẩu hiệu của ông là „Sapere aude!“, nghĩa là „Hãy dám biết!“, và ông kêu gọi „Hãy can đảm sử dụng trí tuệ của chính bạn“, „Habe den Mut, dich deines eigenen Verstandes zu bedienen!“

Kant tin rằng Khai sáng cần tự do như con người cần khí trời: „Con người tự lao động để đưa mình dần ra khỏi tình trạng thô thiển, nếu người ta không cố ý ngăn cản một cách giả tạo để giữ họ lại trong đó.“ Đó là lộ trình phát triển tất yếu của con người. „Một công chúng có thể tự khai sáng, đó là điều có thể; vâng, nếu người ta chỉ để cho họ tự do, thì khai sáng gần như là điều không thể tránh khỏi.” và “Khai sáng không đòi hỏi gì khác hơn là tự do”, là loại theo ông ‘vô hại’. Chúng ta biết, Kant là công chức nhà nước, là giáo sư ở Đại học Königsberg, nhưng suốt đời ông truyền bá cho khai sáng.

Đối với Kant, để thay đổi tư duy đã bám rễ lâu đời vào truyền thống, cải cách thực ra thích hợp hơn cách mạng:

Bằng một cuộc cách mạng, một chế độ chuyên chính cá nhân có thể biến mất, cũng như sự áp bức có tính hám lợi hay tham quyền, nhưng không bao giờ có một cuộc cải cách đích thực về lề lối tư duy. Những định kiến mới sẽ phục vụ những nguyên tắc chủ đạo của đám đông không suy nghĩ, cũng giống như những cái cũ đã từng làm. (Hết trích dẫn)

Định kiến sẽ dễ dàng sinh sôi nảy nở, có thể còn tồi tệ hơn, nếu cách mạng không đi kèm với cải cách lề lối tư duy phù hợp.

Trước sự bùng nổ của thế giới tri thức ở thế kỷ 18, Kant „bình tĩnh“ suy nghĩ như một nhà triết học, không chạy theo số lượng kiến thức, mà đối với Kant, Khai sáng quan trọng nằm ở chỗ „biết tự suy tư“ (selbst nachzudenken), nằm ở „phương châm biết tự tư duy mọi lúc“ (jederzeit selbst zu denken). Khai sáng không dạy chân lý có sẵn, mà dạy tư duy thế nào để khám phá chân lý. Khai sáng là một phần trong triết lý giáo dục quan trọng của Kant, để làm con người trở thành người, và có tính tự chủ. Kant cho rằng, điều mà sinh viên học ở ông không phải là triết học, Philosophie, mà luận bàn về triết học, philosophieren. Lối giáo dục này là sự tiếp nối lối giáo dục khai phóng của các đại học Trung cổ, ở đó, sinh viên thi tốt nghiệp không phải trả bài mà phải tranh luận với các thầy hướng dẫn. (Xin xem thêm quan điểm giáo dục của Kant mà tôi không thể trình bày ở đây, nhưng trong số Kỷ yếu Immanuel Kant sắp tới)

[3]

Khai sáng và Phồn vinh

Người ta tự hỏi: Khai sáng cuối cùng để làm gì? Để ý thức, và tự chọn lựa con đường đi tìm hạnh phúc của mình mà không bị cản trở. “Đi tìm hạnh phúc”, pursuit of happiness, là tiếng gọi của công chúng và của các nhà khai sáng ở thế kỷ 18. Đó là khẩu hiệu nhiều nhà khai sáng đưa ra, từ Francis Bacon, Leibniz, Thomas Jefferson, John Locke đến Turgot và Adam Smith. Hạnh phúc bây giờ và ở đây, đó là mệnh lệnh, không phải chờ đến kiếp sau, bất chấp những khiếm khuyết của con người, và của cuộc sống trần thế. Turgot, nhà kinh tế học và chính khách Pháp, đã phát biểu tại Sorbonne năm 1750 như sau: “Tự nhiên đã ban cho toàn thể nhân loại quyền được hạnh phúc: nhu cầu, đam mê và một lý tính, là sức mạnh mà tự nhiên đã trao cho nhân loại để đạt được mục tiêu này.”

Thế kỷ 18 đang sống trong không khí cuộc cách mạng công nghiệp Anh sôi sục tạo nên sự bứt phá kinh tế và quyền lực. Trong khi đó, Adam Smith cũng đưa ra mô hình kinh tế chính trị toàn diện để tạo phồn vinh cho đông đảo dân chúng trên quy mô quốc gia và thế giới. Nó nằm ở tự do hoạt động trao đổi và sản xuất hàng hóa của các cá nhân, sự không can thiệp của nhà nước hay các nhóm lợi ích vào sự vận hành của thị trường, sự “phân công lao động”, tức là công nghiệp, như động lực mạnh mẽ để gia tăng năng suất và đổi mới sáng tạo, để tăng cường thương mại; sự công nhận quyền tư hữu chính đáng và sự bảo vệ nó bằng luật pháp. Thế giới bước vào giai đoạn thương mại và sản xuất công nghiệp. Cá nhân và quốc gia thức tỉnh đi tìm lại hạnh phúc của mình đã mất.

Học giả kinh tế Joel Mokyr viết trong quyển From Poverty to Prosperity (Từ nghèo khổ đến phồn vinh) về mối tương quan, correlation, giữa khai sáng và phồn vinh như sau:

Nếu bạn nhìn vào các quốc gia nơi khai sáng đã có tác động, họ là những quốc gia thành lập câu lạc bộ phồn vinh năm 1914. Họ là những quốc gia vào thời điểm đó đã được công nghiệp hóa, đô thị hóa, tinh vi về mặt công nghệ. Và những quốc gia nơi khai sáng đã không thành công, thì ở đó quá trình này đã đi một con đường rất khác. Một số đã thành công, như Tây Ban Nha; một số thì không, như Montenegro, Serbia hay Bulgaria. Lúc nào đó thì họ có thể, nhưng vấn đề là, nếu bạn nhìn vào Scandinavia hoặc Hòa Lan hay Thụy Sĩ, những nơi Khai sáng đã một lần thành công, bằng cách này hay cách khác, và đến năm 1914, họ đã trở nên những quốc gia giàu có.

[4]

Triết học nhận thức luận

Trong triết học nhận thức luận, câu hỏi sau đây đóng một vai trò vô cùng quan trọng: Tư duy thuần túy có thể cung cấp tri thức gì một cách độc lập với kinh nghiệm giác quan? Có kiến thức nào như vậy hay không? Nếu không thì mối quan hệ chính xác giữa tri thức của chúng ta và nguyên liệu thô được cung cấp bởi các cảm giác-giác quan là gì? Trong buổi bình minh của triết học, người ta thường tin rằng có thể nhận thức được mọi thứ bằng suy tưởng thuần túy. Nhưng đó là một ảo tưởng. Đối cực của ảo tưởng quý phái này là ảo tưởng bình dân hơn về chủ nghĩa hiện thực ngây thơ, theo đó mọi thứ “là” như chúng được chúng ta cảm nhận thông qua các giác quan của chúng ta.

Con người có một khao khát mãnh liệt tri thức chắc chắn. Nhưng David Hume đã phá tan niềm hy vọng: Nguyên liệu thô của giác quan, nguồn kiến thức duy nhất của chúng ta, thông qua thói quen, có thể dẫn chúng ta đến niềm tin và kỳ vọng, chứ không phải đến tri thức và càng không dẫn đến hiểu biết về các mối quan hệ có tính quy luật. Chính chủ nghĩa hoài nghi này của Hume đã kéo Kant ra khỏi “giấc ngủ giáo điều”, như ông thừa nhận. Nhưng Kant đi tiếp:

Do đó, nếu chúng ta có tri ​​thức được bảo đảm là chắc chắn thì tri ​​thức đó phải được xây dựng trên nền tảng của chính lý tính (Vernunft, reason). Có thể nói, những loại tri ​​thức này và một số loại kiến ​​thức khác là một phần của công cụ tư duy và do đó trước đây không cần phải thu lượm được từ dữ liệu giác quan (tức chúng là tri ​​thức “tiên nghiệm”, a priori). Điều đó đúng một phần, nhưng Einstein cho rằng, điều sau đây có vẻ đúng trong nhận xét của Kant, là trong khi tư duy, chúng ta sử dụng, với một sự “chính đáng” nhất định, một số khái niệm mà người ta không thể tiếp cận được từ các chất liệu của trải nghiệm giác quan, nếu nhìn sự việc từ quan điểm logic.

Einstein khẳng định: rằng các khái niệm nảy sinh trong suy nghĩ của chúng ta – khi được nhìn một cách logic – đều là những sáng tạo tự do (freie Schöpfung) của tư duy mà không thể thu hoạch được một cách quy nạp từ kinh nghiệm giác quan.

Một điều nguy hiểm là, một khi đã chấp nhận Hume, người ta dễ dàng loại bỏ ra khỏi tư duy tất cả những khái niệm và mệnh đề nào không thể suy ra từ nguyên liệu thô giác quan và xem chúng như những loại “siêu hình”. Einstein nhận xét, “Hume không chỉ thúc đẩy triết học một cách quyết định mà còn – dù không phải lỗi của ông ta – đã tạo ra nguy cơ cho triết học ở chỗ, sau sự phê phán của ông, một ‘nỗi sợ hãi chết người về siêu hình học’ đã phát sinh và đã trở thành một căn bệnh hiểm nghèo cho triết học duy nghiệm đương đại; căn bệnh này là phần đối lập với loại triết lý trên mây trước đó, vốn tin rằng nó có thể xem thường và bỏ qua những gì giác quan cung cấp.” (Xin xem đầy đủ trong một bài sắp tới trên rosetta.vn)

[5]

Kết luận

Immanuel Kant là nhà triết học ảnh hưởng rất lớn lên thế giới, đặc biệt lên nước Đức trong thế kỷ 19, giai đoạn dựng nước sau khi bị Napoleon đánh bại vào đầu năm 1806. Các trí thức, công chức nhà nước, giới khoa học Đức, đều là những môn đệ của Kant. Chính giới công chức khai sáng này đã giúp Phổ lội ngược dòng để trở thành một cường quốc châu Âu cuối thế kỷ 19. Ý tưởng Đại học Berlin, mô hình đại học nghiên cứu Đức và được trao cho W. Humboldt thành lập năm 1810, nhằm “lấy sức mạnh tinh thần để bù đắp những tổn thất vật chất”, là công trình của giới công chức khai sáng, các nhà tân nhân văn và giới triết học Đức, không phải của những nhà giáo dục. Einstein cũng từng đọc Kant ở tuổi 14, và đọc nhiều lần cho đến khi ông hiểu ra. (Xem sách Nước Đức Thế kỷ XIXEinstein, và sách Đại Học)

Nếu ai hỏi, Việt Nam là đất nước được khai sáng hay chưa, như người ta từng hỏi Kant rằng thời đại của ông có phải là thời đại được khai sáng hay chưa, thì tôi xin phép có ý kiến như sau: Việt Nam đang sống trong một vùng có nhiều khai sáng phương Tây lẫn châu Á rất phong phú và mời gọi, đang có một số hạt giống khai sáng nhất định trong xã hội, nhưng thực sự chưa có một critical mass, một khối lượng đáng kể của giới tinh hoa khai sáng mà một cuộc chấn hưng đất nước đòi hỏi phải có nếu muốn thành công.

Muốn có khai sáng, cần phải có óc tò mò và tinh thần tự học, cần có văn hóa đọc và nghiên cứu phát triển, và tự sử dụng cái đầu của mình. Một quyển sách khai sáng hay mà hiện nay bán ra chỉ được vài nghìn bản, so với hàng vạn bản trong thời Tokugawa, hàng trăm nghìn, hay có khi tới hàng triệu bản trong thời Minh Trị Duy Tân với dân số lúc đó chỉ khoảng 1/3 dân số VN hôm nay, thì không thể đạt được mức độ Khai sáng cần thiết để đất nước có thể gọi là được khai sáng và hành động đổi mới thông minh. Đó là điều bứt bách. Tri thức là sức mạnh, Francis Bacon nói bốn thế kỷ trước. Khai sáng gắn liền với cuộc canh tân để đạt phồn vinh. Chúng ta không thể để mình bàng quang và xa lạ với tri thức để rồi mơ về một sự phồn vinh. Kinh tế thế giới từ rất lâu là kinh tế tri thức. Tri thức, “Sapere aude” phải là động cơ của chấn hưng, như người Nhật từng làm một cách mẫu mực mà nếu không có, chúng ta giống như người đi tìm hạnh phúc trong bóng tối.

Ngọn lửa Aufklärung của Kant vẫn còn cháy, và rất thời sự giữa một thế giới hỗn loạn của fake news và sự tuyên truyền vì lợi ích ích kỷ mà chà đạp lên lý tính. Nếu nhà triết học Đức Jürgen Habermas, một Kantianer chịu ảnh hưởng lớn của Kant, đã chỉ ra rằng người ta cần phải giữ vững Dự án Khai sáng của Kant sau những biến động tồi tệ nhất của thế kỷ 20, thì hôm nay thế giới lại càng phải làm như thế. Những đóng góp mang tính đột phá của Kant cho thời kỳ Khai sáng, những suy ngẫm của ông về đạo đức, sự giải phóng con người, nhận thức luận và luật pháp quốc tế vẫn được coi là những điểm tham chiếu cho các cuộc tranh luận mang tính định hướng ngày nay. Việt Nam lại càng có nhiều lý do để học hỏi.

 

Nguyễn Xuân Xanh

Tham luận được trình bày tại Hội thảo Kỷ niệm 300 Năm Immanuel Kant và Thời đại khai sáng - Con người, ảnh hưởng và di sản, tổ chức ngày 19.7.2024 tại trường Đại học Văn Lang, đăng lại tại website của tác giả, ngày 21.7.2024.

I. Hiện nay chúng ta chưa biết gì nhiều hơn về văn học viết Việt Nam trước thế kỷ thứ X (trước thời Lý Trần) ([1]) ngoài vài tác giả, tác phẩm mà cố GS. Nguyễn Đổng Chi, PGS. Trần Nghĩa, PGS. PTS. Nguyễn Đăng Na, học giả Lê Mạnh Thát đã giới thiệu ([2]).

'Anh nhớ thương đất nước và thương yêu tuổi trẻ, dành hết tâm tình, hy vọng cho tuổi trẻ', ông Bùi Văn Nam Sơn nói với Tuổi Trẻ khi nghe tin GS Cao Huy Thuần qua đời vào đêm 7-7 ở Pháp. 

20240711GS Cao Huy Thuần

Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn và GS Cao Huy Thuần có "tình anh em thân thiết đậm đà" vì ông Thuần là bạn học của anh trai ruột ông Sơn. 

Lúc Tuổi Trẻ liên hệ, ông Sơn "mới biết tin anh Thuần mất được 15 phút" và ông đã lặng người không biết nói gì.

Ông Sơn kể vì sức khỏe nên lâu rồi ông Thuần không về thăm quê. Hai anh em thường phải trao đổi thư từ qua email. Ông chính là người viết lời tựa cho cuốn sách Thấy Phật của ông Thuần.

"Những công trình về giáo dục, văn hóa của anh Cao Huy Thuần dành hết cho quê hương và tuổi trẻ. Ở đó, tình yêu dành cho tuổi trẻ là biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu quê hương đất nước."

- Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn

"Dành hết tâm tình và hy vọng cho tuổi trẻ"

 Ông Bùi Văn Nam Sơn nói hành trình của GS Cao Huy Thuần là hành trình của một nhà trí thức dấn thân, chân chính và hiếm có. Trong lòng ông Sơn, ông anh "là một người uyên bác, nhẹ nhàng và thấu hiểu tuổi trẻ".

"Vì có nhiều chờ đợi với tuổi trẻ, nên giai đoạn về sau, những tác phẩm của anh như các tập nhật ký viết ra dành riêng cho tuổi trẻ", ông Sơn nói.

Theo ông Sơn, "dường như anh Thuần luôn nhớ thời tuổi trẻ giai đoạn ở Huế. Vì thế, anh dành hết tâm tình và hy vọng cho tuổi trẻ, mong các bạn trẻ sống có ích, yêu đời, hướng thượng và đóng góp cho đất nước".

Ông Sơn đánh giá GS Cao Huy Thuần là một trí thức dấn thân, không phải là một học giả đơn thuần: "Khi còn ở Việt Nam, anh đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, bình đẳng tôn giáo. Sang nước ngoài, tâm tình dành cho đất nước ngày càng mãnh liệt".

"Báo Tuổi Trẻ là nơi hợp nhất để nhấn mạnh thông điệp dành cho tuổi trẻ. Đó là tâm nguyện cuối của anh Thuần cũng như thế hệ trí thức lớn tuổi chúng tôi - những người sinh những năm 1930, trưởng thành ở Việt Nam mà vì nhiều lý do phải xa quê nhưng vẫn một lòng hướng về và đóng góp cho đất nước", ông Bùi Văn Nam Sơn nói.

GS Cao Huy Thuần (áo trắng, ngồi giữa) trong một lần giao lưu với khoa văn học Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM  - Ảnh: GS Huỳnh Như Phương cung cấp

GS Cao Huy Thuần (áo trắng, ngồi giữa) trong một lần giao lưu với khoa văn học Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM - Ảnh: GS Huỳnh Như Phương cung cấp

Văn chương ấy vĩnh cửu hóa vẻ đẹp quê nhà

GS Huỳnh Như Phương tâm sự với Tuổi Trẻ, ông từng có một thuở thiếu niên tìm cách kết nối với tuổi thanh niên bùng nổ của thế hệ GS Cao Huy Thuần qua những lời kể trong đời hay trong sách báo.

Ông tìm đọc lại những bài báo của GS Cao Huy Thuần, thấy ở đó những lời sôi động, cuộn trào của một người thuộc thế hệ đàn anh ít nhiều vẫn còn xa cách. 

"Nhưng đến Nắng và hoaKhi tựa gối khi cúi đầuChuyện tròNhật ký sen trắngSợi tơ nhệnSen thơm nắng hạ quê mình..., hình như tôi gặp Cao Huy Thuần trong sự đồng cảm văn chương trước khi gặp ông ngoài đời", GS Huỳnh Như Phương kể.

Theo ông, GS Cao Huy Thuần viết văn xuôi bằng ngôn ngữ thi ca. Văn ông có nhiều khoảng trống mời gọi người đọc liên tưởng. Văn chương ấy không làm nở những bông hoa, làm tươi những giọt nắng, nhưng có thể vĩnh cửu hóa màu nắng hạ và mùi thơm của bông sen quê nhà.

Ông Thuần và ông Phương thường trao đổi thư từ qua email. Những năm gần đây, sức khỏe ông Cao Huy Thuần yếu đi nhiều, thường phải vào bệnh viện nhưng ông vẫn gửi email thường xuyên (dẫu viết ngắn dần).

Năm 2022, GS Cao Huy Thuần nhờ ông Phương viết lời tựa cho cuốn Im lặng như lời chia tay. "Anh Thuần nói có thể cuốn sách là lời từ giã của anh tới bạn đọc", GS Huỳnh Như Phương nhớ lại.

Im lặng như lời chia tay như là cuốn sách từ giã bạn đọc của GS Cao Huy Thuần

Im lặng như lời chia tay như là cuốn sách từ giã bạn đọc của GS Cao Huy Thuần

Trong một lá thư GS Cao Huy Thuần gửi cho ông có tâm sự:

"Như một cái hoa, tôi đã im lặng nở. Như một cái hoa, tôi nghĩ sẽ im lặng tàn.

Từ đó, trong im lặng và cô đơn, cùng với bước chân đi dần đến điểm hẹn cuối cùng, điểm hẹn với im lặng cuối cùng, tôi tìm chút vui với thơ văn để viết về im lặng...

Mơ mộng hơn một chút, tôi nghĩ về im lặng của cánh hoa rụng: trong im lặng, chắc nó cũng biết chia tay với bao nhiêu cánh bướm.

Tôi cũng phải chia tay với bao nhiêu bạn bè. Và như vậy, tôi viết về im lặng trong thơ văn, như một lá thư mỏng, như một lời chia tay..." (trích thư ngày 4-10-2022).

"Các bạn trẻ vẫn có cơ hội gặp gỡ GS Cao Huy Thuần qua những lời tâm tình của ông trong những trang viết đầy chất suy tưởng về xã hội và con người, về lý tưởng, ước mơ và hoài bão của tuổi trẻ", GS Phương nói.

Bởi những ngày cuối đời, nhận tin vui về truyện ngắn Cây diêm cuối cùng của ông được đưa vào sách giáo khoa lớp 11, GS Cao Huy Thuần đã gửi về cho một bạn văn trong nước những văn liệu mà ông chưa công bố với hy vọng đó cũng là những ánh lửa của cái đẹp và điều thiện muốn truyền lại cho những thế hệ tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc.

GS Cao Huy Thuần (1937 - 2024) là tác giả của nhiều đầu sách về văn hóa, giáo dục và triết học ở trong nước như Nắng và hoaThế giới quanh taThấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầuChuyện tròNhật ký sen trắngSen thơm nắng hạ quanh mìnhIm lặng như lời chia tayĐến với Phật cùng tôi...

Chia tay mà không biệt ly

Khi anh Cao Huy Thuần gửii tôi tập Im lặng như lời chia tay, tôi nghĩ: chắc là “Im lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly.

Dẫn bài thơ Feuille morte (Lá chết) của Hermann Hess, anh "phát hiện" một điều thú vị: người Việt không ai nói "lá chết" mà nói "lá khô", "lá rụng".

Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp, lá non.

Ký họa Cao Huy Thuần do Đỗ Hồng Ngoc vẽ

Chân lý" ấy bắt nguồn từ hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa Bài ca hai con sên đi dự đám tang.

"Hai con sên đi đưa/ Đám tang chiếc lá chết/... Hỡi ôi khi chúng đến/ Mùa xuân đã đến rồi/ Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống...".

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp sự sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im lặng). Cao Huy Thuần nói: "Chúng chẳng có cả khái niệm...".

Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang!

Khi ta mà biết sống "ly niệm", khi ta không còn bám chấp vào khái niệm... thì "trí bất đắc hữu vô". Thong dong. Tự tại.

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái "vô tướng" - bỗng "hiện tướng"... đùa vui giữa chốn ta bà chút vậy thôi.

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay. Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Ký họa Cao Huy Thuần do Đỗ Hồng Ngoc vẽ")

Đậu Dung

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.7.2024.

 

I. “ĐẠC NGỰA BÒ VÀNG” LÀ CHUYỆN CÓ THẬT VÀ DIỄN RA Ở NGAY KINH ĐÔ

Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ được nhà soạn tuồng, nhà thơ Đào Tấn yêu quý đặt cho biệt danh  là “Hoàng Độc Thi Nhân” (nhà thơ cưỡi bò vàng). Người đời vẫn truyền tụng giai thoại cụ Thượng Trứ sau khi về hưu, đi đâu cũng thường cưỡi con bò cái vàng, đeo nhạc ngựa, sau đít bò có đeo cái mo cau, ai hỏi thì cụ kêu là để “che miệng thế gian”. Trong bài thơ nổi tiếng làm sau khi về hưu của Cụ là Bài ca ngất ngưởng cũng có nhắc đến chuyện cưỡi bò:

Nổi bật nhất trong thơ Đinh Hùng là về tình yêu, về người yêu. Người yêu trong thế giới mầu nhiệm, huyền ảo và người yêu trong thế giới thực đều được vẽ ra với trí tưởng tượng siêu việt, với biểu hiện độc đáo, tân kỳ.

Trước khi đi Nhật du học đầu tháng 4.1968, tôi có khoảng nửa năm học ở Văn khoa thuộc Đại học Sài Gòn. Nhưng do một ngẫu nhiên có tính cách định mệnh và do vài lý do khác, tôi hầu như chỉ tham dự vài buổi giảng của vài giáo sư và không còn giữ sách vở, tư liệu gì cho thấy mình là một sinh viên Văn khoa thời đó, ngoài tập vở chép thơ Đinh Hùng. Bút tích ghi ở cuối mỗi bài thơ cho thấy hầu hết chép ở thư viện Văn khoa Sài Gòn.

Sau khi học xong trung học ở miền Trung, mùa thu 1967 tôi vào Sài Gòn xin ghi danh học Văn khoa, dự định sau một năm lấy chứng chỉ dự bị để thi vào Đại học Sư phạm Sài Gòn, mục tiêu trở thành thầy giáo dạy văn ở một trường trung học đệ nhị cấp (cấp III bây giờ). Nhưng rồi không có tâm trí và thì giờ để học tập nghiêm chỉnh. Tháng đầu ở Sài Gòn phải lo chuyện đi làm thêm. Tìm được một chân dạy văn và sử ở một trường tư trung học đệ nhất cấp (cấp II) là lo chuẩn bị các bài giảng.

Thế rồi một buổi chiều, buổi chiều định mệnh, ngẫu nhiên đi xe đạp trên đường Lê Thánh Tôn, ngang qua Bộ Quốc gia Giáo dục tôi thấy nhiều người đứng xem thông cáo. Dừng xe xem thử mới biết Đại sứ quán Nhật sắp tổ chức kỳ thi tuyển sinh viên nhận học bổng sang Nhật du học. Thấy mình có đủ tiêu chuẩn nêu trong thông cáo nên về làm đơn xin dự thi. Chuẩn bị thi, thi đỗ là lo chuẩn bị đi Nhật, trước khi đi du học về miền Trung thăm nhà gặp biến cố Tết Mậu Thân kẹt ở Đà Nẵng gần ba tuần... Kết cuộc hầu như không có thì giờ cho việc học ở Văn khoa.

Những ngày có thì giờ đến Văn khoa nếu không có lớp học các môn đã đăng ký, tôi thường vào thư viện mượn sách đọc hoặc mượn các thi tập chép những bài thơ mình ưa thích. Thơ chép vào cuốn sổ khổ A5 giấy tốt và dày gần 300 trang. Sau hơn nửa thế kỷ, hiện nay nhiều trang bị đứt rời khỏi vị trí cũ nhưng chữ viết của mọi trang trong cuốn sổ không bị hoen ố, vẫn đọc được rất rõ. Có bài thơ ngắn nằm gọn trong một trang, có bài thơ dài đến 4-5 trang. Những bài thơ tôi cho là hay của Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa... được chép lại ở đây. Nhưng mỗi tác giả này chỉ được chọn một hoặc hai bài thơ, còn tuyệt đại đa số là thơ Đinh Hùng. Đinh Hùng chiếm tới hơn phân nửa số trang trong cuốn sổ chép thơ của tôi.

20240626

Giáo sư Trần Văn Thọ thăm lại Văn khoa Sài Gòn. Cây bồ đề ở sân trường vẫn như xưa. Ảnh do Giáo sư văn học Huỳnh Như Phương chụp trong lúc hướng dẫn tác giả thăm lại trường xưa, 12.4.2023.


Bây giờ tôi không nhớ tại sao thơ Đinh Hùng lại chiếm một vị trí rất đặc biệt như vậy. Có thể một phần chịu ảnh hưởng từ bài giảng của GS. Phạm Việt Tuyền ở Văn khoa. Ông bình thơ và nói nhiều về Đinh Hùng, một nhà thơ mà sau này tôi biết là vừa mất (ngày 24.8.1967) vài tháng trước khi tôi bắt đầu học ở Văn khoa. Cũng có thể tôi tìm thấy thơ Đinh Hùng rất tân kỳ về ý tưởng, về vần điệu, tứ thơ và thể thơ mà mình có ấn tượng mạnh và đồng cảm.   

Đinh Hùng sinh năm 1920 tại Hà Nội, làm thơ, viết báo từ thời còn rất trẻ. Ông thuộc nhà thơ thời tiền chiến. Mới hai mươi tuổi đã kết thân với Thạch Lam, hơn Đinh Hùng cả 10 tuổi, người ở cùng khu ngoại ô Yên Phụ. Qua Thạch Lam, Đinh Hùng có nhiều dịp uống rượu, trò chuyện với các bậc đàn anh trên văn đàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ... Năm 1954, Đinh Hùng cùng gia đình di cư vào Nam và ngay sau đó giữ chuyên mục Tao Đàn cho Đài Phát thanh Sài Gòn. Ông bị bệnh ung thư và mất ở tuổi 47. 

Đám ma tôi (Nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1943) là tập thơ đầu tay của Đinh Hùng nhưng ít người biết. Đinh Hùng nổi tiếng với hai tập thơ Mê hồn ca và Đường vào tình sửMê hồn ca phát hành năm 1954 (NXB Tiếng Phương Hồng) gồm những bài thơ ông viết trong thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Đường vào tình sử được Nam Chi xuất bản năm 1961. Tiếng ca bộ lạc là tập thơ cuối cùng do Lửa Thiêng xuất bản 1972, sau khi Đinh Hùng mất. Ngoài ra Đinh Hùng còn có hai tập bút ký: Ngày đó có em: Những bóng dáng đàn bà trong đời Bích Khê (Giao Điểm xuất bản năm 1967, NXB Văn Học tái bản năm 2018) và Đốt lò hương cũ (gồm những bài Đinh Hùng viết chủ yếu để phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn ở mục Tao Đàn do ông phụ trách; sau khi ông mất NXB Lửa Thiêng phát hành năm 1971 và NXB Đà Nẵng tái bản 2018 với lời bạt của Phạm Xuân Nguyên).

Thơ Đinh Hùng trong cuốn sổ tôi chép phần lớn đọc từ tập Đường vào tình sử và một số ít hơn từ Mê hồn ca. Gần đây có dịp đọc hai tập bút ký nói trên và bài bình luận của Phạm Việt Tuyền (trong tập Tôi đọc thơ, Phong trào Văn hóa xuất bản 1973) tôi biết thêm nhiều giai thoại về Đinh Hùng và hiểu thơ ông nhiều hơn.

Thơ Đinh Hùng xoay quanh các chủ đề tình yêu, kỷ niệm, nhớ cố hương, ca tụng nghệ thuật, thiên nhiên... Nét độc đáo chung nhất có lẽ là ngoài những bài thơ đưa người đọc vào thế giới ảo huyền, nhiệm mầu, phần lớn là những tình ca gây cho ta thấy lâng lâng trong kích thước hoành tráng của không gian và cái sâu thẳm, cái vô cùng tận của thời gian. Ngay cả trong bài thơ cảm xúc, tự hào, ngưỡng mộ hai nữ anh hùng dân tộc, Đinh Hùng chẳng những cho ta theo cánh chim huyền diệu bay ngược vào quá khứ hai ngàn năm mà còn kêu gọi đất trời cùng ta chứng kiến một kỳ tích oai hùng: 

Ngàn năm, ôi bóng Trưng Vương!
Cánh chim huyền diệu đưa đường về xưa
Nước non còn đẹp dáng thơ:
Bàn tay Nương Tử ngọn cờ Châu Phong
Hỡi non cao, biển muôn trùng
Còn say hương phấn má hồng Mê Linh?
(Hương phấn Mê Linh)

Bài thơ sầu tha hương, nhớ quê, luyến tiếc thời thơ ấu cũng gây cảm xúc lâng lâng, sâu lắng về quá khứ nhưng kéo tầm mắt ta ra một không gian rộng lớn:

Sầu lên Bến Cát rưng rưng
Mây Trường Sơn lại vượt rừng tới đâu?
Người đi đồi sắn, nương dâu
Buồn quan san một con tàu về xa
Nhớ xuân từ độ còn hoa
Nhớ em từ độ thướt tha suối thề
Xa trời lưu lạc hồn quê
Có phai xin để ngày về hãy phai
Viễn phương mái tóc bay dài
Nghiêng vai sương lạnh thương hoài vầng trăng
(Mái tóc viễn phương)

Nổi bật nhất trong thơ Đinh Hùng là về tình yêu, về người yêu. Người yêu trong thế giới mầu nhiệm, huyền ảo và người yêu trong thế giới thực đều được vẽ ra với trí tưởng tượng siêu việt, với biểu hiện độc đáo, tân kỳ. Hầu hết những nhà thơ lớn viết về tình yêu thường có trải nghiệm về một thời với những người con gái họ đã từng yêu. Những người con gái đó được thể hiện như thế nào trong thơ Đinh Hùng? Đọc tập bút ký Ngày đó có em, ta biết được quan niệm của Đinh Hùng về vấn đề này.

Tiêu đề phụ của tập ký là Những bóng dáng đàn bà trong đời Bích Khê. Bích Khê là bạn thân của Hàn Mặc Tử. Nhiều người bình luận thơ Hàn Mặc Tử thường nhắc đến Mộng Cầm, Thương Thương, Mai Đình, những cô gái, những người đàn bà đã để lại dấu ấn trong cuộc đời và trong thơ của thi sĩ vắn số. Đinh Hùng cũng làm chuyện tương tự là bình luận thơ Bích Khê qua việc phân tích bóng dáng của những người con gái đã đi qua cuộc đời thi sĩ này.

Tác giả chép bài thơ của Đinh Hùng tại thư viện Văn khoa Sài Gòn ngày 5.1.1968 (toàn bài dài 
4 trang trong cuốn sổ chép thơ)


Trong phần “Thay lời giới thiệu” của tập ký, Đinh Hùng viết: “... những trang giai nhân đó cũng là một phần linh hồn của nhà thơ..., họ đã hóa thân trở nên những hình tượng, những ý niệm, những khuôn mặt điển hình..., bóng dáng của họ từ đó đi vào tình sử... Những con người phàm tục một thời từng được thi nhân hoán thai, đoạt cốt để làm thành những công chúa, hoàng hậu, nữ vương của ân tình trọn kiếp; mà cũng có thể là hồ ly, ma nữ, yêu tinh..." .

Như vậy theo Đinh Hùng, các nhà thơ đã biến hóa những người con gái đi qua đời họ bằng hai mẫu hình hài trái ngược. Thơ của chính Đinh Hùng cũng vậy. Hình ảnh nàng thơ trong Mê hồn ca là hồ ly, ma nữ, yêu tinh, còn trong Đường vào tình sử phảng phất bóng dáng công chúa, hoàng hậu, nữ vương.

Đây là tâm cảm đầy huyền bí của Đinh Hùng đối với người yêu đã mất:

Trời cuối thu rồi - Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ,
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.
...
Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?
Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm…
(Gửi người dưới mộ)

Đinh Hùng đã đi vào mộ huyệt để tìm người mình yêu. Trên thực tế, năm 20 tuổi Đinh Hùng có người yêu tên Liên mất vì bệnh phổi. Có lẽ tình yêu tha thiết đã làm nhà thơ tưởng tượng về thế giới bên kia và mơ gặp lại người mình yêu ở đó. Về bài thơ này, Phạm Việt Tuyền trong Tôi đọc thơ có nhận xét là “tử thần đã mạnh mà tình yêu càng mạnh hơn”. Tin tưởng có thế giới bên kia cũng được Đinh Hùng bộc lộ trong tập bút ký Đốt lò hương cũ. Trong bài tưởng niệm Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Thanh Giản, Đinh Hùng viết: “Ba nhà thơ tiền bối của chúng ta bước vào thiên cổ chính là để sống vĩnh cửu trong không - thời gian và sống tự do phơi phới ngoài vật lý... Không cần chúng ta cầu nguyện, hương hồn các vị cũng đã lâng lâng bay lên những vùng trời siêu thoát...”. 

Riêng tôi thì thích mẫu hình tiên nữ, công chúa hơn là người ở cõi chết trong thơ Đinh Hùng. Có lẽ vì thế mà trong tập vở chép thơ, tôi chỉ chọn vài bài trong Mê hồn ca, còn lại là thơ trong Đường vào tình sử.

Người yêu là nàng tiên tận nghìn xưa nhập vào ánh trăng chuyển bước đến thư phòng, nhưng người yêu chợt đến rồi chợt đi, chỉ còn là mộng:

Em tự nghìn xưa chuyển bước về,
Thuyền trao sóng mắt dẫn trăng đi,
Những dòng chữ lạ buồn không nói
Nét lửa bay dài giấc ngủ mê
(Gặp em huyền diệu I)

Em đến vầng trăng bỗng tỏa hương,
Quen nhau, ngờ chuyện rất hoang đường
Trang thư xõa tóc cười e lệ,
Nét chữ thu gầy, vóc ngậm sương
...
Trắng nuốt tâm linh vạt áo sầu
Canh gà chưa rụng đã xa nhau
Thương cho xác bướm hai lần mộng
Đành hẹn bài thơ gửi kiếp sau
(Gặp em huyền diệu II)

Tình yêu trong thơ Đinh Hùng đắm đuối say mê, đẹp như thơ và trong như mộng, đầy thương nhớ và cảm hoài sâu lắng cùng với dĩ vãng và trải dài theo không gian xa: 

Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi
Em đã xa như dĩ vãng rồi
Tình cũng quan san từ đáy mắt
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi
Nghe động bàn chân nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn sóng còn vương
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương
        (Bao giờ em lấy chồng)

Mộng ơi! Thuyền có trao đầu sóng,
Xin nở tươi mầu hoa đại dương,
Biển biếc, cù lao dài ánh mắt,
Ngàn khơi, mơ bóng nguyệt hoang đường
(Buồn Á Đông xưa)

Hôm qua gặp người yêu, hôm nay người yêu không đến, có cách diễn tả nào tâm tình của người mong đợi hay hơn bốn câu thơ toàn vần bằng đầy nghệ thuật này?

Em đến, trăng rằm xanh bóng mây
Em đi, trăng hờn cong nét mày
Chiều qua, má hồng còn thơ ngây
Chiều nay, hàng mi sương xuống đầy
(Hờn giận)

Thơ Đinh Hùng gồm nhiều bài theo thể lục bát và thất ngôn nhưng không ít bài theo thể thơ mới, tự do biến hóa số chữ, số câu. Có nhiều bài đọc như văn xuôi mà vẫn hay, vẫn rất thơ. Chẳng hạn những đoạn thơ trong bài rất dài Đường vào tình sử:

Trên đường ta đi
Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo
Những làn hương mang giông tố bình sa
Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa
Và dĩ vãng ngủ trong hồ cẩm thạch
Của đôi mắt sáng màu trăng mặc khách
...
Phơi phới thuyền ta vượt bến
Từ đêm hồng thủy ra đi
Lòng ta dao cắt
Chia đôi
Biên thùy
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
...
Một bài thơ
Có tiếng thở dài đôi hồn tình tự
Vần điệu dìu nhau đi trong giấc mơ
Sông núi trập trùng lượn theo nét chữ
Những chữ thương yêu
Những chữ đợi chờ
Đẹp như
Dáng em e lệ chiều xưa.
....
Anh gặp em anh từ thuở nào?
Mênh mang sóng mắt
Ngờ biển dâu.
Núi non nhìn ta vừa nghiêng đầu
Hình như hội ngộ 
Từ ngàn thâu
Ta tỉnh hay mơ? Chiều nay trăng khép
Hàng mi sầu
Hay tà dương thu
Mưa rơi mau?
Em ơi! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước,
Ta, suốt đời ngư phủ,
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.

...

Những ngày ở Văn khoa Sài Gòn nửa thế kỷ trước tôi đã đắm chìm trong thế giới thơ Đinh Hùng. Tập vở chép thơ trở thành vật gia bảo đặt ở chỗ trang trọng nhất trong thư phòng ở Tokyo. 

Trần Văn Thọ

Nguồn: Người đô thị, ngày 06.02.2024.

Nhà phê bình Hoài Thanh đã viết về Đông Hồ với những lời thật dễ thương:

“Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đều dễ thương, những lời tuồng như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cả cái êm dịu, cả cái mơn trớn, vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu. Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng mơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh trong tiếng sóng.”

Trong rất nhiều sự kiện văn hóa lớn của năm 2023: Kỷ niệm tròn 80 năm ra đời của Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943; Kỷ niệm 80 năm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... chúng ta xúc động tưởng nhớ, ghi ơn sâu sắc một nghệ sĩrất lớn trong âm nhạc, hội họa, thơ ca của đất nước và nhân dân ta - đó là Văn Cao. Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, quê gốc Nam Định, lớn lên, đi vào con đường nghệ thuật, tham gia cách mạng tại thành phố biển luôn ầm ào, dữ dội Hải Phòng rồi ngược lên Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước ngàn năm qua.

20240410 3
Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) (Nguồn: Internet)

    Nghệ thuật ở Văn Cao, với Văn Cao, như là thiên bẩm, như là trời cho, nhưng mà trời đất, thần Phật đã ban cho ông một cách hào phóng, ăm ắp, tinh túy, đa thanh, đa sắc, đến độ kỳ tài, đặc biệt nổi trội, khác biệt. Nhưng chính cái kỳ tài ấy, có thể gọi là thiên tài ấy, còn là sự tự học, tự sáng tạo, tự đốt cháy mình, nó đưa ông lên tột đỉnh vinh quang và cũng có lúc gieo khổ đau, tai họa, cay đắng cho ông, đến mức “nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Cụ Nguyễn Du từng nói như là một sấm ký “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Điều đó vận đúng vào chính Cụ, gần ba trăm năm trước, và vận đúng vào một người cũng họ Nguyễn, là Văn Cao, gần ba trăm năm sau.

    Về “chữ tài”, trong âm nhạc, Văn Cao năm 16 tuổi viết Buồn tàn thu,rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình mới mẻ, ám ảnh, da diết cả nhạc và lời trước năm 1945 như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, rồi Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc… nặng nỗi buồn đau nhân thế, nặng trĩu ưu tư; ông còn viết thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao học dự thính tự do Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương; năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Thái Hà ấp đêm mưa…, nhất là bức tranh Cuộc khiêu vũ của những người tự tử (Le Bal aux suicides). Những bản nhạc của ông được in ra đều do tự tay ông vẽ bìa, và như người bạn họa sĩ cùng thời Tạ Tỵ nhận định: tranh của ông “đi rất gần với trường phái lập thể”.

    Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh Tiến quân ca (ngay trong Cách mạng tháng Tám, năm sau trở thành Quốc ca Việt Nam). Đây là dấu mốc Văn Cao chuyển từ phong cách nghệ thuật lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách nghệ thuật cách mạng-kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ. Từ năm 1945 trở đi, ông viết Bắc Sơn,rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Chiến sĩ Việt Nam, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… tiếp đó là Làng tôi, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, đặc biệt là ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch và Trường ca Sông Lô… Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện Chị Dậu (1980), tổ khúc giao hưởng cho phim tài liệu Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những chuyển dời, dâu bể, trầm luân,rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như Dân công miền núi,Chợ vùng cao, Lớn lên trong kháng chiến, Người Mông dắt ngựa, Người Mông uống rượu, Cá, Người đàn bà dài vú nuôi con...

    Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm đặc biệt nổi tiếng và duy nhất sau năm 1975 Mùa xuân đầu tiên...; trong hội họa là Chân dung bà Băng, Chân dung Đặng Thai Mai, Cổng làng, Phố Nguyễn Du, Ngựa, Cây đàn đỏ, Cô gái và đàn dương cầm, Chân dung tự họa… Ông vẽ hàng trăm bìa sách cho nhiều văn nghệ sĩ, hàng trăm bức minh họa, đồ họa khác cho Báo Văn nghệ và vài ba tờ báo khác. Trong thơ là Ba biến khúc tuổi 65, Thời gian, Phố Phái, Những bó hoa… Các bài thơ được tập hợp trong tập Lá và Tuyển tập thơ Văn Cao.

    Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên; trong hội họa là Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Chợ vùng cao, Uống rượu…; trong thơ là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Giấc mơ… đã thấy những bảo chứng sinh động cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc, hội họa và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn, hiện thực đến cách mạng, kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca trong nhạc, trong thơ. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết và thống nhất.

    Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng những sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khitiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Linh cầm tiến, Ly khách... Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

    “Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
    Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
    Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
    Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng
    Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
    Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút
    Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”
                                         (Những người trên cửa biển).

    “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Tamuốn gói cuộcđời gọn gàng nhưtrái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men” (Những người trên cửa biển).Nhiều nhà văn hóa lớn, các nhà lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ, các văn nghệ sĩ có tên tuổi đã từng được hỏi hoặc nếu được hỏi: Ở Việt Nam, thế kỷ XX, ai là nghệ sĩ lớn nhất, có nhiều sáng tạo mang tính đột phá, để lại dấu ấn đa dạng và sâu đậm nhất, có đóng góp rất quan trọng trên nhiều mặt cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, thì chắc chắn phần đông trong số họ đều đồng thanh, đồng tâm nói rằng: Người nghệ sĩ đó là Văn Cao! Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mĩ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là quá lời. Không thiên tài sao được khi thập niên bốn mươi thế kỷ trước ông đã viết các kiệt tác âm nhạc Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi..., đặc biệt là bản hùng ca bất hủ Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam. Năm 1945, ông viết như là dự cảm, dự báo, đúng hơn là tiên tri, về sự ra đời của các quân chủng “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, là báo trước 5 năm (từnăm 1949),thời khắc quân và dân ta sẽ “Tiến về Hà Nội” giải phóng Thủ đô và cả Miền Bắc thân yêu năm 1954.

    Cuộc đời 72 năm sống, sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động.Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, đau xót:

    “Có tuổi thanh niên
    Như cây mùa xuân mới mọc
    Bị tước dần vỏ non
    [...]
    Có lúc,
    Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt”…

    Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, chấp nhận thua thiệt; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau khổ, bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ sáng chói. 

    Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực âm nhạc, thơ và hội hoạ. Ông được Nhà nước ta trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

    Văn Cao còn mãi với chúng ta. Các tác phẩm của ông như là những cột mốc yêu thương, hùng tráng, tha thiết của lịch sử, văn hóa, văn nghệ của nước nhà thế kỷ XX và lan tỏa, xao động, ám ảnh đến hôm nay và mai sau.

PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ 

Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Nguồn: Tạp chí điện tử Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 15.12.2023.

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp có tác động lớn đối với xã hội Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Cùng với việc thay đổi diện mạo văn hoá xã hội là sự thay đổi diện mạo của nền văn học. Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, nền văn học dân tộc chứng kiến sự tan rã của nhiều quan niệm văn học trung đại. Tuy thế, một quan niệm văn học cho thời kỳ cận hiện đại vẫn chưa được xác lập một cách vững chắc. Văn học đang dò dẫm tìm lối đi trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn học Phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, và một nền văn học không mấy xa lạ là văn học Trung Quốc. Song song với sự đổ vỡ của nền văn học cũ về nội dung, hình thức, thể loại, văn tự, là sự hình thành một quan niệm văn học mới. Tuyên ngôn của nền văn học mới, một chừng mực nào đó được phát biểu trong lời tựa cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ, Truyện thầy Lazarô Phiền, đã nói lên quan niệm nghệ thuật mới mẻ rất khác với tiểu thuyết trung đại về cuộc sống, xã hội và con người. “Đã biết rằng dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà những đấng thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi vì đó tôi mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn như vậy sẽ có nhiều người lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải buồn một giây”(1)

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn.

Sài Gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chức năng hành chính - chính trị mà còn là trung tâm kinh tế thương mại và tiểu thủ công nghiệp. Tài liệu lịch sử cho biết khoảng cuối thế kỷ XVIII ở Sài Gòn đã có tầng lớp thợ thủ công đông đảo nhiều ngành nghề, tập hợp trong các “ty thợ” của nhà nước. Có đến 62 ty thợ sản xuất hầu hết những sản phẩm phục vụ mọi mặt đời sống xã hội.  

Bên cạnh đó còn có hàng trăm “phường thợ” tập hợp những người sản xuất tự do trong những làng nghề khắp vùng Bến Nghé - Sài Gòn. Hệ thống địa danh ngành nghề được ghi lại trong sử sách phản ánh tính chuyên nghiệp trong sản xuất và tính thị trường cao trong lưu thông sản phẩm. Có thể kể đến những địa danh như Hàng Đinh, Xóm Chiếu, đường Thợ Tiện, cầu Muối, xóm Cốm, xóm Lá (buông), xóm Lò Rèn, xóm Câu, xóm Dầu, xóm Đệm Buồm, xóm Bột, xóm Đường, xóm Chỉ, xóm Lụa... 

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng thời lại làm hình thành và phát triển một số “làng nghề” mới do nhu cầu thị trường và do luôn tiếp nhận luồng di dân cùng những kỹ thuật mới.

*

Bắt đầu xóm Lò Gốm với sản phẩm “gốm Sài Gòn”, ngày nay đây là loại cổ vật quý hiếm trong nhiều bộ sưu tập tư nhân và các bảo tàng. Cho đến nay vẫn còn những tên đường Lò Gốm, Lò Siêu, Xóm Đất, cầu Lò Chén, các chành lu, chành chén dọc bến Lò Gốm, rạch Lò Gốm, kênh Lò Gốm... ở khu vực quận 6, quận 8.

Quận 11 có khu lò gốm Cây Mai được người Pháp ghi nhận rất sớm, làm cho địa danh này trở thành tên gọi của một dòng gốm mỹ nghệ và trang trí kiến trúc tinh xảo, độc đáo. Dấu tích cuối cùng của “xóm lò gốm” là lò gốm cổ Hưng Lợi ở quận 8. Kết quả khai quật cho biết mức độ sản xuất và các loại hình sản phẩm của lò Hưng Lợi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội thay đổi khá nhanh từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX.

20240311 2

Lò gốm khi được khai quật năm 1998. Ảnh Tư liệu


Đến cuối thế kỷ XX, khu vực xung quanh lò gốm cổ Hưng Lợi chỉ còn một xóm làm bếp lò ở gần đó. Thực ra chỉ có 7 - 8 gia đình làm nghề “nắn ông lò”, thợ chính là người trong nhà và mướn thêm một số thợ phụ là bà con hàng xóm. Thợ chính làm mọi khâu kỹ thuật cơ bản: xử lý nguyên liệu, tạo dáng và đốt lò nung. Thợ phụ làm công đoạn tạo miếng chắn lò, vận chuyển sản phẩm vào, ra lò, bọc thân lò bằng thiếc trước khi đưa ra thị trường. Sản phẩm có lúc bán ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận; từ tháng 10 nhà nào cũng tăng thêm thợ vì nhu cầu bếp lò tăng nhanh vào dịp Tết. 

Nhiều năm nay dân cư thành phố và nhiều vùng nông thôn hầu như không còn sử dụng than, củi nữa nên nhu cầu bếp lò giảm nhiều. Cũng may vẫn còn một tục lệ rất hay khi năm hết Tết đến: ngày 23 tháng Chạp cúng ông Táo xong, ông lò cũ được cho ra vườn nghỉ ngơi bên gốc cây hay ven bờ kênh, gia đình mua ông lò mới về và đốt bếp mới cầu mong mọi sự bình an trong năm mới. Nhờ vậy chắc con cháu còn biết loại bếp “ông lò” và nghề gốm một thuở vang danh của đất Sài Gòn.

*

Trên đường Cách Mạng Tháng Tám - một trong hai con đường thiên lý xưa nhất của thành phố - có hai làng nghề nổi tiếng trong hai giai đoạn lịch sử. Từ quận 1 qua khỏi bùng binh ngã sáu Dân Chủ là đến khu vực Hòa Hưng. Nơi này có một làng nghề đúc đồng hình thành từ nửa sau thế kỷ XX. Khoảng năm 1954, một số người dân làng đúc đồng Ngũ Xá (Hà Nội) vào sinh sống ở khu vực này, họ cùng nhau mưu sinh bằng nghề truyền thống mang theo từ quê hương, dần dần hình thành làng nghề đúc đồng Hòa Hưng với sản phẩm chủ yếu là đồ đồng tam khí nổi tiếng và phổ biến ở phía Nam. Gần 70 năm qua làng nghề đúc đồng Hòa Hưng một thời hưng thịnh nay chỉ những người hoài cổ mới biết đến.  

Nghề gốm xuất hiện rất sớm trên đất Sài Gòn, từng vang danh cùng thời với nhiều lò gốm cổ trăm tuổi ở miền Tây. Ảnh: Giang Sơn Đông


Đây cũng là tình trạng của làng đúc đồng An Hội (Gò Vấp). Thời kỳ phát đạt, làng có đến hơn 40 lò đúc đồng. Những ngày cận Tết trong làng lúc nào cũng tấp nập người mua kẻ bán xe chở hàng đi khắp nơi. Sản phẩm nhiều loại nhưng nhiều nhất vẫn là đồ thờ cúng: lư hương, chân đèn, bát nhang... nhiều kiểu dáng truyền thống và độc đáo. Đến nay đồ thờ cúng đúc đồng thủ công với độ tinh xảo, “độc bản” thì giá cao nên khó cạnh tranh với đồ đồng sản xuất hàng loạt. Những nghệ nhân sống và gắn bó với làng đúc An Hội cả trăm năm đều rất trăn trở với việc giữ và truyền nghề vì không còn thợ trẻ và con cái cũng không theo nghề nữa. 

Cuối đường Cách Mạng Tháng Tám, qua khỏi bệnh viện Thống Nhất là đến vùng Bảy Hiền, nơi người Quảng vô Sài Gòn đã lập ra làng dệt Bảy Hiền nổi tiếng, nơi những người sành ăn thường ghé chợ Bà Hoa ở đây để thưởng thức mì Quảng và nghe giọng Quảng đậm đặc như chưa hề có vài chục năm xa quê. Vào thời hưng thịnh, làng dệt Bảy Hiền như một khu công nghiệp thật sự. Cả khu vực vang động tiếng máy dệt, mỗi năm sản xuất hàng triệu mét vải, có sức cạnh tranh rất mạnh so với vải của người Hoa ở Chợ Lớn hay vải nhập khẩu. 

Nhưng từ đầu những năm 2000, sản phẩm của làng dệt Bảy Hiền mất dần chỗ đứng trên thị trường do hàng ngoại tràn ngập lấn át về giá cả và mẫu mã. Làng dệt có “thương hiệu mạnh” một thời nay chỉ còn một số nghệ nhân duy trì vài máy dệt sản xuất nhỏ lẻ để giữ nghề truyền thống như giữ một giá trị văn hóa của đô thị Sài Gòn.

*

Trong vùng Chợ Lớn có một hội quán đặc biệt: Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn và cả Nam bộ. Hội quán ra đời sớm nhất và gắn liền với ngành sản xuất và kinh doanh kim hoàn của người Hoa tại đây, sau này phát triển ra nhiều tỉnh thành Nam bộ. Qua bao thăng trầm, ngày nay địa điểm này đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, nơi hội ngộ và giao lưu kinh nghiệm của nhiều hội nhóm, nghiệp đoàn trong lĩnh vực kim hoàn.

Vào cuối thế kỷ XIX, tại khu vực Chợ Lớn nghề kim hoàn và chế tác nữ trang rất phát triển, lúc bấy giờ đã có hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Đến giữa thế kỷ XX, Chợ Lớn là một trung tâm thủ công nghiệp nói chung và nghề kim hoàn nói riêng. Chợ Thiếc là ngôi chợ truyền thống lâu đời chuyên mua bán các mặt hàng vàng bạc. Đặc biệt đây là chợ kim hoàn lớn nhất của thành phố, vừa là “công xưởng” chuyên chế tác, gia công, sửa chữa đồ trang sức, vừa là chợ mua bán vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức với mức độ lớn. Đặc biệt ngay trên tầng một của chợ là một "trường học nghề" chuyên về mỹ nghệ - kim hoàn. Sự gắn bó, liên kết chặt chẽ từ nơi sản xuất, thị trường mua bán đến truyền nghề kim hoàn trong trường hợp Chợ Thiếc thể hiện một hình thái kinh tế khá độc đáo của đô thị Sài Gòn: nơi sản xuất và phố buôn bán sản phẩm đặc trưng liên kết thành một thể thống nhất. 

Khái niệm “làng nghề truyền thống” gắn sản xuất thủ công với làng cổ - hình thức cư trú truyền thống. Nhưng quá trình đô thị hóa đã biến các làng cổ thành phố phường, thợ sản xuất thành thị dân. Vì vậy sự hình thành và phát triển những “phố chuyên doanh” ở TP.HCM chính là sự tiếp nối “làng nghề” ở một hình thức mới để thích ứng và đáp ứng nhanh nhu cầu xã hội. Mối liên hệ này thúc đẩy và điều chỉnh quy mô sản xuất của làng nghề, mức độ nào đó góp phần bảo tồn nghề và sản phẩm thủ công truyền thống. Đặc biệt với nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề mộc...  do sản phẩm dễ bị thay thế bởi chất liệu hiện đại, sản xuất hàng loạt nên khó tồn tại và phát triển. 

*

Hiện nay TP.HCM còn nhiều “làng nghề” truyền thống khác: làng nghề bánh tráng, làng nghề đan lát, làng nghề mành trúc, làng nghề làm lồng đèn, làng nghề đan giỏ trạc, làng nghề se nhang, làng nghề làm muối; nhiều cơ sở chế biến khô thủy sản... cả “phố đông y” Hải Thượng Lãn Ông cũng có thể coi là làng nghề sản xuất nhiều loại thuốc Bắc. Những “làng nghề” này đã có thị trường nhất định, nhưng TP.HCM là nơi nhiều nguồn hàng hóa đổ về, nếu “làng nghề truyền thống” không gắn liền với một khu vực “chuyên doanh” như đầu mối lớn nhất, các cơ sở sản xuất và ngành quản lý không tổ chức hình thức chuyên doanh và quảng bá mới thì tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn trong bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, nhất là nhu cầu tiêu dùng cả về loại hình và chất liệu hàng tiêu dùng. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn. 

Nguyễn Thị Hậu

Nguồn: Người đô thị, ngày 13.02.2024.

Thông tin truy cập

66557925
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2768
9734
66557925

Thành viên trực tuyến

Đang có 182 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website