Khái niệm «sứ mệnh khai hóa» được thai nghén từ rất nhiều nguồn tư tưởng tôn giáo, chính trị và học thuật trước và sau cuộc Cách mạng Pháp 1789. Nhưng khái niệm này thực sự phát triển vào thế kỷ 19 cùng lúc với công cuộc khai thác thuộc địa để biện minh cho chính hành động thực dân. «Sứ mệnh khai hóa» được chắp bút hay tuyên bố bởi một đội ngũ hùng hậu các nhà khoa học, chính trị gia, các thương nhân Pháp. Hoặc bằng xác tín chính trị, hoặc bằng «thực chứng» khoa học, họ đã khẳng định và thực thi «sứ mệnh» cao cả này như một bổn phận của những dân tộc văn minh thượng đẳng đưa những tộc người hèn kém hạ đẳng thoát ra khỏi man rợ. «Sứ mệnh khai hóa» là đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa thực dân Pháp mà các nhà lý luận thực dân Pháp đề cao để phân biệt với kiểu thực dân «con buôn» của Anh hay Hà Lan.

 

Thuyết cứu thế Pháp

Khái niệm sứ mệnh khai hóa phát triển vào thế kỷ 19 để biện minh cho hành động thực dân. Nó dựa trên thuyết cứu thế của Pháp với niềm xác tín rằng Pháp quốc có sứ mệnh truyền bá những giá trị phổ quát của nhân loại và có nghĩa vụ giải thoát các tộc người khỏi những bạo ngược của thiên tai, bệnh tật, dốt nát và khỏi sự chuyên chế bằng cách đem lại cho họ kỹ thuật và y tế, giáo dục và một nền quản trị trong sạch. Như vậy, Pháp quốc sẽ biến đổi các tộc người cả về thể chất lẫn tinh thần. Thuyết cứu thế này có thể được định nghĩa là một loạt các huyền thuyết và ý tưởng chủ đạo, nó bao hàm và chi phối mạnh mẽ hoạt động văn hóa của Pháp trên thế giới. Đó là một thứ :

Thuyết thế giới đại đồng, ăn sâu vào ý thức quốc gia, như một thứ nhu cầu kiến tạo, chấp thuận và tiếp nhận các hình thức song hành và tiếp nối những kỳ vọng của toàn nhân loại và đem lại lời đáp cho những kỳ vọng đó. [Thuyết cứu thế này] vừa là lý luận vừa là hành động, là suy ngẫm về tính phổ quát của thông điệp và là tuyên ngôn thường trực về giá trị của thuyết cho toàn thể nhân loại. (Salon 1983: 32)

Thuyết cứu thế của Pháp gắn liền của thuyết cứu thế của Thiên chúa giáo. Từ thế kỷ 17, trở thành « con cả của Giáo hội », nước Pháp đã tiến hành một cuộc bành trướng văn hóa và kinh tế. Sự sắp đặt của lịch sử này tạo nên mối giao hòa giữa cái phổ quát của văn minh Pháp và cái phổ độ của Thiên chúa giáo. Nước Pháp trở thành « cường quốc cứu thế quan trọng bảo trợ trí tuệ và tinh thần bên ngoài biên giới Pháp và bên trong các đế chế và cường quốc khác » (Salon 1983: 32). Tiếng Pháp không chỉ hạ bệ tiếng La tinh mà cả tiếng Ý và Tây Ban Nha. Tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ ngoại giao (Hiệp ước Rastatt được soạn thảo bằng tiếng Pháp năm 1714) và ngôn ngữ khoa học quốc tế (Các kỷ yếu của Viện Hàn lâm khoa học Berlin được in bằng tiếng Pháp năm 1743), và tiếng Pháp còn trở thành ngôn ngữ của giới tinh hoa châu Âu trong suốt thế kỷ 18 (Lafon 2001: 161). Lúc đó, nước Pháp xuất khẩu những mẫu hình văn hóa và ngôn ngữ của mình dưới bức bình phong là thuyết thế giới đại đồng. Những kiểu mẫu này là công cụ hữu hiệu để « mua chuộc » hay « lấy lòng » giới tinh hoa này. Cuộc chinh phục văn hóa này thể hiện thứ logic của quyền lực, tiến bộ kỹ nghệ, khoa học và khái niệm hơn là mục đích thống trị của đế quốc (Milza 1980: 361‑379). Phong trào này đạt tới đỉnh điểm là cuộc Cách mạng Pháp. Nhờ việc quy thuận những độc giả Pháp ngữ Âu châu thành người đồng thuận những nguyên tắc cách mạng mà tiếng Pháp trở thành nơi truyền tải các giá trị phổ quát của nhân loại. Theo Jacques Lafon, nhà sử học và ngoại giao:

Trong cuộc Cách mạng, người ta dựng nên một sự hư cấu nước đôi, đó là quân lính quốc gia không xâm chiếm đất đai bằng vũ lực mà giải phóng các dân tộc với những tư tưởng được diễn giải bằng các từ tiếng Pháp. (2001: 162)

Tiếng Pháp, ngoài biên giới Pháp, trở thành nơi hội tụ và hợp tác của thuyết cứu thế Cơ đốc và thuyết cứu thế thế tục (Lafon 2001: 173‑180), trong khi tại nước Pháp, chúng lại chống đối nhau. Hai thứ thuyết cứu thế này đồng thuận bên ngoài lãnh thổ để truyền tải những giá trị quốc gia thông qua việc giảng dạy kiến thức cổ học nhân văn. Mặc cho cuộc bại trận của Pháp năm 1870 trong cuộc chiến Pháp – Phổ, thuyết cứu thế của Pháp tiếp tục phát huy ảnh hưởng và chỉ đạo hoạt động văn hóa đối ngoại của nước Pháp. Hoạt động đối ngoại văn hóa này vẫn liên tục phát triển bất kể dưới nhiều thể chế chính trị khác nhau của nước Pháp về sau này (Salon 1978: 12).20190814 khai hoa

Một bức tranh về thuộc địa Đông Dương của Pháp. Nguồn: Pinterest. 

 

Văn minh chống lại man rợ

Năm 1727, Jonathan Swift mỉa mai khái niệm « văn minh » trong cuốn Gulliver du ký :

Nếu một ông hoàng gửi đội quân của mình đến một đất nước mà người dân còn nghèo và dốt nát, ông ta có thể giết nửa số dân một cách hợp pháp và biến nửa còn lại thành nô lệ, với mục đích khai hóa họ và tiệt trừ lối sống man rợ của họ.

Hai thế kỷ sau, Nguyễn Ái Quốc cũng giễu cợt:

Trò khai hóa mới nực cười làm sao: để dạy cho người ta sống tốt hơn thì phải bắt đầu bằng việc giết họ ! (Nguyễn Ái Quốc 1925)

Sự mâu thuẫn giữa tính nhân văn của khai hóa và bạo lực thực dân đã được dấy lên từ trước, vào thế kỷ 16, bởi Bartolomé de Las Casas, người bênh vực cho các sắc tộc của vùng Caraïbes và Nam Mỹ. Nhưng vấn đề này trở nên nóng bỏng vào thế kỷ 18 với phong trào chống nô lệ (Dorigny 2008: 68‑89)[i]. Những nhà tư tưởng tự do chỉ trích cách hành xử của đế chế và chất vấn về sự thượng đẳng của châu Âu với các dân tộc khác.

Tại Pháp, một bước ngoặt đã xảy ra trong cuộc Cách mạng 1789: khái niệm tiến bộ xã hội được chính thức nhìn nhận như một tiến trình tự nhiên (Pitts 2005: 165‑173). Khái niệm « văn minh » được hiểu là những « tiến bộ tập thể và độc đáo đưa nhân loại thoát ra khỏi tình trạng man rợ » (Lafon 2001: 163). Trong cuốn Sơ thảo phác đồ lịch sử các tiến bộ nhân loại, Condorcet, triết gia và chính trị gia, đại diện tiêu biểu của tư tưởng Khai sáng, đã miêu tả chín nấc thang của quá trình tiến hóa của nhân loại: cấp thấp nhất là bộ tộc và cấp cao nhất là chính thể Cộng hòa Pháp. Những giá trị tinh thần mới của châu Âu được coi là những giá trị phổ quát cho toàn nhân loại. Sau khi tố cáo « sự kỳ thị tàn bạo của chúng ta đối với những người mang màu da và tín ngưỡng khác », Condorcet hình dung ra một tương lai mà ở đó:

Thương điếm của những kẻ bất lương sẽ trở thành thuộc địa của những công dân, họ sẽ truyền bá sang tận châu Phi và châu Á những nguyên tắc và mẫu mực của tự do, tư tưởng ánh sáng và lý trí của châu Âu.

Ông tiếp, người châu Âu sẽ tìm thấy ở những xứ sở nàyvô khối những tộc người đang ngồi chờ đợi từ chúng ta những phương tiện để được khai hóa, để tìm thấy ở những người anh em Âu châu những người bạn và môn đồ.

Condorcet còn dự kiến tiêu diệt những tộc người quá xa cách hay quá hung bạo bằng hình thức diệt chủng hay đồng hóa.

Tiêu trừ tối đa, đến mức chúng bị đẩy lùi bởi những dân tộc văn minh, chúng sẽ biến mất dần dần hoặc chính chúng tự lụi tàn trong cộng đồng của chúng. (Condorcet 1794: 261‑269)

Để biện minh cho công cuộc thuộc địa bằng lập luận là những dân tộc khai sáng có nghĩa vụ khai hóa những tộc người bị rớt lại phía sau, Condorcet nêu ra những lý lẽ và luận chứng căn bản và làm nên định nghĩa của « sứ mạng khai hóa ».

Đầu thế kỷ 19, khi mà phương diện tinh thần của công cuộc thuộc địa đang được đề cao thì cũng là lúc bắt đầu xuất hiện những chất vấn liên quan đến hiệu quả kinh tế của công cuộc này (Say 1826: 350‑377), đến thứ phiêu lưu quân sự, những nguy hiểm của việc lai giống[ii] hay những nguy cơ nhập khẩu sang chính quốc sự chuyên chế thuộc địa. Tương đối luận văn hóa được thay thế bởi « một sự phân đôi cứng nhắc giữa một bên là những xã hội văn minh và cấp tiến với bên kia là những xã hội u muội, lạc hậu và tù hãm » (Verdo 2010). Đầu thập niên 1830, giáo sư triết học Jean-Philibert Damiron[iii]giải thích cho học sinh ở Trung học Louis-Le-Grand và sinh viên Trường Sư phạm Paris (phố Ulm), hai cái nôi đào tạo nên giới tinh hoa trí tuệ Pháp, rằng « mọi thứ luôn được phân ra thành thượng đẳng và hạ đẳng ». Ông thầy phân biệt « những tộc người đã được khai hóa và những tộc người không được khai hóa ». Bản thân bên trong những tộc người văn minh thì « những người văn minh và đi khai hóa còn được xếp ở thứ hạng cao hơn những người chỉ được khai hóa » (Damiron 1834: 168-170). Cụ thể hơn, chúng ta hãy tưởng tượng chỉ có hai tộc người, « tộc người mạnh và văn minh hơn » và « tộc người kém và chưa được khai hóa ». Damiron nói với những tú sinh và sinh viên tốt nghiệp tương lai rằng tộc người thứ hai phải xếp dưới sự giám hộ của tộc người thứ nhất. Giống như hình ảnh « một vài bộ lạc Phi châu », tộc người kém nàythay vì tiến lên, họ lại coi khinh và cự tuyệt văn minh mà người ta đem đến cho họ, họ suy thoái dần và ngày càng chết chìm trong tàn bạo và man rợ. [...] Trong khi tộc người mạnh biết sử dụng sức mạnh của mình, tự nhận thấy mình là những người văn minh và đi khai hóa. Họ mang trong mình một sứ mạng kép. Tộc người này chỉ có thể lớn lao khi mang đến niềm xác tín này trong mối liên hệ với tộc người kia. Khi đó, tộc người mạnh không chỉ bảo vệ và giải thoát cho tộc người kém, đem lại giàu có và sung túc, mà còn cố gắng khai sáng, gọt giũa, hoàn thiện và tu dưỡng tộc người kia. (Damiron 1834:170-172)

« Sứ mệnh kép » này thể hiện một thứ đạo lý Cơ đốc giáo, như vậy, thuyết cứu thế của Pháp hãy còn giữ trong mình một thành tố tôn giáo.

Là tộc người được Thượng đế lựa chọn để phục sự cho sự hoàn thiện của nhân loại, có ân nghĩa, sống trong đức tin và hy vọng, liệu đó có phải là cứu cánh cao cả nhất mà một dân tộc có thể làm được ? (Damiron 1834: 173)

Damiron so sánh sứ mạng của tộc người văn minh với tộc người chậm tiến giống như sứ mệnh của con người với thiên nhiên, như thế này:

So với thiên nhiên, văn minh quả thực lan tỏa ra từ chúng ta, chúng ta phải có nghĩa vụ đem lại văn minh cho nó, sao cho nó xứng là con người và giống con người. [Chúng ta] chiếm lĩnh nó, kìm hãm nó, kìm nén cơn giận dữ của nó, thuần phục nó và khiến nó phải khuất phục dưới bàn tay của chúng ta. Đấy mới đúng là sứ mệnh của chúng ta, sứ mệnh hòa bình và lao động, nó bắt đầu bằng những trận đấu tranh thảm khốc và kết thúc bằng những cuộc chinh phục bao la và tuyệt diệu. (Damiron 1834: 127)

Như vậy, khái niệm về một sứ mệnh khai hóa chế ngự và thuần hóa thiên nhiên của người văn minh ăn sâu vào triết lý đạo đức ở nửa đầu thế kỷ 19. Năm 1841, Victor Hugo đã hào hứng biết bao trước cuộc chinh phục Algérie của tướng Bugeaud, với biệt danh (mỉa mai) sau này là « người hùng hun khói »[iv] :

Văn minh đang đẩy lùi mông muội. Một dân tộc khai sáng sẽ tìm đến một dân tộc khác đang chìm trong bóng đêm. Chúng ta là những người Hy Lạp của thế giới; chính chúng ta sẽ thắp sáng thế giới. Sứ mệnh của chúng ta đang hoàn thành, ta chỉ còn biết mừng ca. (Hugo, 1841: 113)

Triết thuyết văn minh chống lại mông muội được tung hô như vậy, đến cả việc bãi bỏ chế độ nô lệ năm 1848 cũng bị lợi dụng vì mục đích khai hóa. Bởi lẽ những nhà tư tưởng thời đó tìm thấy trong việc bãi bỏ chế độ nô lệ lời biện minh cho hành động thực dân. Rằng, chúng tôi, dân tộc khai sáng đến với dân tộc thấp kém để giúp họ từ bỏ khai thác nô lệ. Điều không thể tránh khỏi là chúng tôi sẽ phải dùng đến bạo lực với những dân tộc đó. Và thế là, bãi bỏ chế độ nô lệ và tiến hành công cuộc thực dân xem ra là những minh chứng cho sự vĩ đại của nền văn minh Âu châu (Costantini 2008: 58-5)

 

Những học giả « lãnh sứ mệnh »

Vào nửa sau thế kỷ 19, lập luận đạo đức càng được củng cố bởi chủ nghĩa duy lý. Địa lý, sinh học, sinh lý học, khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học và xã hội học đều được đem ra phụng sự cho sứ mệnh khai hóa.

Đầu thế kỷ 19, sự phân loại chủng tộc được dựa vào ngành ngôn ngữ học thì đến những năm 1850, các học giả Pháp chuyển hướng: sự phân loại này bây giờ dựa vào sinh học (Blanckaert 2007: 137-171). Trường Nhân loại học Paris, dưới sự dẫn dắt của Paul Broca, đã định nghĩa ra « hệ hình chủng tộc », chia loài người thành các cấp bậc giống nòi. Khái niệm này là sự kết nối giữa thuyết tiến hóa của những nhà triết học Khai sáng – sự tiến bộ sẽ đưa người mông muội trở thành người văn minh, với thuyết biến hình của Lamarck và Darwin – phân loại các sinh vật theo trục tiến hóa (Reynaud-Paligot 2006: 103-110). Khái niệm giống nòi thượng đẳng và hạ đẳng được cổ súy qua vô vàn các công trình pha trộn giữa giai thoại sử học, quan sát dân tộc học và đo lường nhân trắc học. Thử đơn cử nhận xét về loài người của Gustave Le Bon, bác sỹ, nhà nhân chủng học, tâm lý học và xã hội học, đại diện tinh túy của trí tuệ Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Một bài báo khoa học của ông nghiên cứu mối liên hệ giữa kích thước của não và trí thông minh thế này: ở trên cao là những giống nòi thượng đẳng như các nhà bác học hay dân tư sản Paris, và dưới thấp là giống nòi hạ đẳng như người giúp việc, nông dân, và phụ nữ cũng nằm trong số này! Nhóm hạ đẳng này « đại diện cho những hình thái thấp kém nhất trong sự tiến hóa của nhân loại, nó gần với trẻ con và người hoang dã hơn là với người văn minh » ! (Le Bon 1879: 27). Các kiểu nghiên cứu này dẫn đến « sự súc vật hóa những giống nòi hạ đẳng » và « một điểm nhìn bi quan về khả năng tiến hóa đến văn minh của họ » (Reynaud-Paligot 2006: 103-110).

Từ những năm 1870, thứ cố định luận về nòi giống loài người này được tiết chế bớt bởi thuyết Tân Lamarck. Thuyết này dựa trên ảnh hưởng trực tiếp của môi trường sống đến những biến phân tiến hóa và dựa vào sự di truyền đến thế hệ sau các đặc tính đã được định hình ở mỗi cá nhân dưới áp lực của môi trường (Loison 2008: 3-8). Một trong những nhà Tân Lamarck đầu tiên là Jean-Louis de Lanessan, có uy tín trong giới học thuật (bác sỹ và nhà vạn vật học) và chính trường Pháp (Toàn quyền Đông Dương (1891-1894) và Bộ trưởng bộ Hải quân (1899-1902). Ông viết rằng « một người cha bị giang mai có thể di truyền bệnh lý này ở một cường độ mà chính đứa con cũng dễ mắc phải hoặc di chứng từ đó » (Lanessan 1883: 224). Thuyết Tân Lamarck ảnh hưởng một cách quyết định đến tư tưởng của chế độ cộng hòa và còn kéo dài đến tận những năm 1950 (Grimoult 2000: 40). Người ta cho rằng nhờ cải thiện điều kiện sống (vệ sinh, y tế, sức khỏe sinh sản…), nhờ giáo dục và nhờ việc định hình các thói quen cần thiết để thụ đắc các đặc tính lành mạnh thì chúng ta có thể cải thiện được các giống người.

Văn minh dường như tác động đến con người như một tác nhân cải biến, nó tương đồng với sự thuần dưỡng tác động lên động vật. (Lanessan 1883: 250)

Những nhà Tân Lamarck như Alfred Giard[v], Lanessan và Paul Bert[vi] đều dấn thân vào con đường chính trị để chuyên tâm vào sự nghiệp cải cách xã hội. Thuyết Tân Lamarck đã tìm thấy tính ứng dụng cũng như tác dụng của mình trong sứ mệnh khai hóa, vì sứ mệnh này kết hợp giữa tiến bộ vật chất và tinh thần và mang mục đích « cải thiện » giống nòi hạ đẳng. Paul Bert, Thống sứ Trung kỳ và Bắc kỳ (1886) và Lanessan, Toàn quyền Đông Dương (1891-1894), tiến hành thực hiện sứ mạng khai hóa với mục đích cải tổ xã hội.

Ngược lại, một vài nhà khoa học như Gustave Le Bon, Jules Harmand[vii] hay Léopold de Saussure[viii] vẫn giữ quan điểm cố định luận về giống nòi. Léopold de Saussure mỉa mai :Những ảo tưởng của những kẻ tuy chấp nhận quy luật tiến hóa nhưng lại tự phụ cho rằng có thể làm biến chuyển từ từ dân bản xứ trong một tương lai gần. (Saussure 1899: 68-69)

Những quan điểm đối lập nhau này được đem ra tranh luận tại các kỳ Đại hội Thuộc địa từ 1889 đến 1900 (Léon 1991: 45-48). Khái niệm « sứ mệnh khai hóa » tìm được đất phát triển thông qua các hiệp hội học giả từ những năm 1870 trở đi (Conklin 1997: 11-13). Những hiệp hội này « xây dựng và phổ biến một điểm nhìn nhất định nào đó của Chính quốc và Đế chế » thông qua hoạt động ấn bản mạnh mẽ và mạng lưới giao thoa giữa khoa học, chính trị và kinh tế (Singaravelou 2006: 69). Thành viên các hiệp hội là những nhà khoa học, giảng viên, nhà báo, nhà chính trị, quan chức cao cấp, quân nhân, nhà ngoại giao, nhà thám hiểm, thương nhân. Bản thân một người có thể kiêm nhiệm nhiều vai trò khác nhau. Chẳng hạn, Paul Bert là bác sỹ, nhà sinh lý học và chính trị gia. Với tư cách là thành viên của Hội Dân tộc học Paris, ông truyền bá các luận thuyết về giống nòi trong sách giáo khoa (Reynaud-Paligot 2006: 140). Là chính trị gia, ông được điều phái đến Đông Dương làm quan chức thuộc địa. Rất nhiều các hiệp hội như vậy, được thành lập ngay tại các xứ thuộc địa, trở thành « nơi tiếp vận và mắt xích trong bộ máy hành chính thuộc địa hơn là những tổ chức học giả uyên bác độc lập » (Singaravelou 2006: 67). Các hội địa dư tham gia rất tích cực vào công cuộc bành trướng thuộc địa. Bành trướng thuộc địa lúc này được coi là cần thiết cho những lợi ích kinh tế và nhân khẩu của nước Pháp và đem lại những lãnh thổ mới cho việc hiện thực hóa sứ mệnh khai hóa. Hội Địa dư Thương mại Paris, « được thành lập để phục vụ cho sự phát triển của các công ty thương mại của Pháp quốc ở mọi góc của Địa cầu ». Hội xuất bản tạp chí L’Exploration, mang phụ đề « Tờ báo của những cuộc chinh phục văn minh trên mọi chốn của Địa cầu ». Năm 1880, nhà địa dư Onésime Reclus phát minh ra khái niệm « cộng đồng Pháp ngữ » (francophonie). Việc coi tiếng Pháp như là « vũ khí tuyệt vời nhất của nền Cộng hòa »[ix] đã dẫn đến việc thành lập Alliance Française vào năm 1883. Đây là một tổ chức phi chính trị và phi tôn giáo được lập ra sau cuộc bại trận 1870 nhằm gây dựng lại danh thế văn hóa Pháp thông qua việc giảng dạy tiếng Pháp và truyền bá văn hóa Pháp tại các thuộc địa và ở nước ngoài[x]. Ngay từ buổi ra đời, chương trình học ở đây nhận định rằng làm cho « biết và yêu » tiếng Pháp có thể làphương cách tốt nhất để chinh phục người bản xứ, để làm cho các mối quan hệ xã hội và giao thương thuận tiện hơn với họ, để mở rộng giống nòi Pháp vươn xa ra ngoài biển cả bằng cách sát nhập trong hòa bình, vì nó tăng trưởng quá chậm chạp tại lục địa. (Alliance française 1884: 7)

Một tổ chức khác, Mission Laïque française (Lương hội Pháp), được thành lập năm 1902, có nhiệm vụ mở và quản lý trường học thế tục, mô hình của nền Cộng hòa Pháp tại nước ngoài. Những nhà lãnh đạo hay những người ủng hộ Alliance Française và Mission Laïque française  được tuyển từ trong nguồn « đảng thuộc địa »[xi], trong ngạch công chức cao cấp thuộc địa và trong bộ máy chính trị (Singaravelou 2006: 70).

 


Bìa một cuốn sách tư liệu về hành trình khai hóa thuộc địa của Pháp được xuất bản bởi Palgrave Macmillan năm 1996.

 

Bổn phận khai hóa

Sứ mệnh khai hóa ở cuối thế kỷ 19 được coi như là một trong những nền tảng trụ cột của công cuộc thực dân Pháp. Đối với người Pháp thời đó, thực dân « khai hóa » của Pháp khác hẳn với thực dân « con buôn » của Anh hay Hà Lan. Lập luận khai hóa này cũng giúp cho người Pháp phản bác lại sự mâu thuẫn giữa nguyên tắc bình đẳng, tự do bắt nguồn từ Cách mạng Pháp với sự phục tùng của các dân tộc bị trị. Năm 1885, trong một cuộc tranh luận ở Nghị viện về nền móng của chính sách thuộc địa, Jules Ferry[xii]khẳng định rằng công cuộc thực dân không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ:

Tôi nhắc lại rằng đối với những giống nòi thượng đẳng, họ có một cái quyền, bởi họ có một nghĩa vụ. Đó là nghĩa vụ khai hóa những giống nòi hạ đẳng. (Ferry 1893: 210-211)

Cũng tại Nghị viện, Léon Blum, chính khách cánh tả theo xã hội chủ nghĩa, cũng làm một bài diễn văn tương tự đúng 40 năm sau, vào năm 1925:

Chúng ta quá yêu đất nước mình để không thừa nhận sự bành trướng tư tưởng và văn minh Pháp… Chúng ta chấp nhận quyền và nghĩa vụ của giống nòi thượng đẳng để kéo về phía chúng ta những giống nòi không cùng một đẳng cấp văn hóa và kêu gọi họ thực hiện những tiến bộ thông qua khoa học và công nghiệp. (Blum 1984: 370)

Như vậy, tư tưởng của nền Cộng hòa đã đồng nhất với thuyết biến hình. Nếu như chúng ta thấy là bình thường khi định nghĩa các giống người với những phẩm chất hay khuyết thiếu thì chúng ta cũng thừa nhận khả năng tiến hóa của chúng (Rosenberg 2002: 97). Albert Sarraut[xiii], người đề xướng công cuộc thực dân « khai hóa », viết năm 1931 rằng đối lập với « giáo lý khắt khe mặc định sự hạ đẳng vĩnh viễn của một vài giống nòi », sứ mạng khai hóa của Pháp « nặn đắp nên, một cách kiên trì, diện mạo của một giống người mới » trong « thứ đất sét vô dạng của vô vàn những nhân tố nguyên thủy » (Sarraut 1931: 155). Sứ mạng này giúp nền Cộng hòa Pháp thoát khỏi cuộc tranh luận cũ kỹ về cuộc xâm chiếm thuộc địa và sự hung bạo của nó. Nếu sự nghiệp thuộc địa được thai nghén trong « sự đau đớn của kẻ bị trị và kẻ thống trị » thì đó là vì nó nhắm đến « lợi ích chung của toàn nhân loại cùng được hưởng lợi thành quả » (Sarraut 1931: 237). Ngoài những lợi ích cho kẻ bị trị, công cuộc thuộc địa « đã chuẩn bị sự thống nhất của thế giới, nền tảng của sự đại đoàn kết của gia đình nhân loại » (Sarraut 1931: 235).

Trong khi giáo dục đại diện khía cạnh tinh thần của sứ mệnh khai hóa thì y tế (vệ sinh, tiêm chủng…), xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, đường sắt, thủy lợi…) và an ninh (chống trộm cắp, sự bành trướng của những nước láng giềng) là khía cạnh vật chất. Thực ra, mối liên hệ giữa giáo dục và thuộc địa, hai công trình trọng điểm của nền Đệ Tam Cộng hòa, không hề là ngẫu nhiên. Jules Ferry cùng lúc thực hiện các cải cách giáo dục nhân danh bình đẳng về quyền và công cuộc thuộc địa nhân danh « nghĩa vụ cao cả khai hóa » (Ferry 1893: 287).

Khi đảng cộng hòa nắm trong tay chính phủ và trách nhiệm trước quốc sự [...], thông qua việc xây dựng trường học và chính sách khuếch trương thuộc địa, đảng đã chứng tỏ ý thức về sự cao thượng của nước Pháp. (Ferry 1885: 229)

Nước Pháp đại đồng tự lãnh trách nhiệm giáo dục bề tôi và dân bị trị bản xứ (Besançon 2002: 14). Năm 1874, nhà kinh tế học Paul Leroy-Beaulieu[xiv] khẳng định:

Chính nhà trường sẽ tạo nên ảnh hưởng lớn đến việc đồng hóa những nhân tố ngoại quốc vào nhân tố Pháp, chính nhà trường sẽ phải truyền bá ngôn ngữ và tư tưởng của chúng ta. (1882: 367)

Ông than phiền việc « nước Pháp đã không thực hiện nghĩa vụ của mình với các tộc người Ả rập » vì « nước Pháp chẳng làm gì cho sự nghiệp giáo dục họ » (Leroy-Beaulieu 1882: 373). Thầy dòng Pierre Auguste Raboisson đánh giá rằng:

Thuộc địa đích thực phải có một thứ giáo dục trí tuệ và tinh thần để truyền bá cho dân bản địa tinh thần và linh hồn của chính quốc. Nó phải nắm giữ một hành động thực tiễn, hiệu quả và lâu dài để thể hiện sự cao cả của đế quốc. (Raboisson 1877: 18)

Khi đến Bắc kỳ vào năm 1886 nhậm chức Thống sứ Bắc và Trung kỳ, Paul Bert tuyên bố đến dân bị trị:

Giống như người Trung Hoa trước kia đã cải thiện hiện trạng xã hội của các người bằng cách đem văn minh đến, khai tâm các người qua vị trí nước lập pháp, thì người Pháp cũng vậy, người Pháp hôm nay đến nhà các người để cải thiện nền nông nghiệp, công nghiệp và kinh tế, và còn để nâng cao dân trí thông qua giáo dưỡng. (1946: 121)

Chúng ta có thể dẫn chứng ra vô khối những ví dụ của thể loại diễn văn này, chúng mô tả làm thế nào mà « hình ảnh truyền thống của nước Pháp nhân nghĩa » đang nỗ lực thực hiện để đem lại « sự hài hòa giữa mục tiêu tinh thần và sự kiếm tìm phồn thịnh vật chất » (Pasquier 1931: 7). Số lượng trường lớp và học sinh tăng lên được đưa lên hàng đầu như khẩu hiệu tuyên truyền. Chương « Giáo dục » cho cuốn vựng tập giới thiệu Đông Dương trong cuộc Triển lãm thuộc địa 1931 bắt đầu bằng những dòng này:

Khi đi thăm thú một trong những thành phố lớn của Đông Dương, chúng ta không thể không bất ngờ vì số lượng và tầm quan trọng của các trường học nơi đây. (Commissariat Général à l’Exposition coloniale internationale de Paris 1931 : 136)

Tuy nhiên, giáo dục chỉ là công cụ phục vụ cho những mục đích chính trị và kinh tế của công cuộc thuộc địa. Đối với những quan chức thuộc địa, từ Éliacin Luro[xv] đến Paul Bert đều cho rằng « Trường học là công cụ hữu hiệu nhất, chắc chắn nhất nằm trong tay kẻ đi chinh phục » (Dumoutier 1887: 1). Sau công cuộc chinh phục lãnh thổ là đến cuộc « chinh phục tinh thần » mà Georges Hardy[xvi] đã định nghĩa như thế này vào năm 1917 :

Chúng ta cũng muốn nắm giữ đến tận con tim của người bản xứ và xóa bỏ mọi hiểu nhầm giữa họ và ta […] Đề cao xứ sở của họ, giúp họ gắn bó với sự nghiệp của chúng ta, đó là mục đích của cuộc chinh phục tinh thần. Cuộc chinh phục này lâu hơn và sáng láng hơn cuộc trước, nhưng cũng phong phú và đáng ngợi ca. Công cụ để thực hiện không thể là gì khác ngoài trường học. (Hardy 1917:12)

Ngoài chinh phục trái tim, sự nghiệp thuộc địa cũng có những nhu cầu thiết thân khác, như : khai thác đất đai thì cần đến nhân công bản địa, phải đào tạo họ những kỹ thuật của Tây phương. Những nhu cầu này cấp thiết ở Đông Dương vì số lượng kiều dân Pháp đi khai thác thuộc địa rất ít. Khai thác thuộc địa dẫu gì cũng là công cuộc tốn kém, cần phải biện minh trong mắt công luận, nhất là ở chính quốc, cái giá phải trả. Năm 1885, trong một cuộc tranh luận ở Nghị viện, Jules Ferry nêu lên ba cơ sở nền tảng chính sách thuộc địa của ông : mục tiêu thứ nhất là kinh tế (tìm ra thị trường tiêu thụ), tiếp đến là mục tiêu khai hóa, sau cùng là mục tiêu chính trị (tranh đua với Anh quốc để duy trì sự hiện diện của hải quân Pháp…). Sứ mệnh khai hóa thực chất chỉ chiếm 4 trên tổng số 60 trang trong cuộc tranh luận này (Ferry 1885: 199-220). Năm năm sau, 1890, ông khẳng định lần nữa « chính sách thuộc địa là con đẻ của chính sách công nghiệp » (Ferry 1890: 40).

Bình định đã xong, « giáo dục được đặt làm trọng tâm trong những toan tính chính trị ở Đông Dương » (Besançon 2002: 14) và nó trở thành chủ đề cho rất nhiều cuộc tranh luận nảy lửa giữa các bên : chính quyền tại chính quốc, chính quyền thuộc địa tại trung ương và địa phương, những nhà lý luận thực dân, những xí nghiệp khai thác, kiều dân Pháp, và cùng với thời gian, là cả chính với người Đông Dương.

 

Thay lời kết : hợp tác hay đồng hóa ?

« Sứ mệnh khai hóa » được thai nghén từ rất nhiều nguồn tư tưởng tôn giáo, chính trị và học thuật, được chắp bút hay tuyên bố bởi một đội ngũ hùng hậu các nhà khoa học và chính trị gia. Và họ, hoặc bằng xác tín chính trị, hoặc bằng « thực chứng » khoa học, thành tâm và nhiệt thành tin tưởng ở « sứ mệnh » cao cả này.

Tuy nhiên, có những nhân vật, như Jules Harmand không tin vào sứ mệnh khai hóa, bằng những lý lẽ thẳng thừng :

Tốt hơn hết là hãy cố mà điều chỉnh các hành động của chúng ta sao cho phù hợp với hoàn cảnh thống trị, sự thống trị bằng chinh phục này bản thân nó đã không dân chủ, và đừng có lạm dụng những trò đạo đức giả nhỏ mọn và cả những trò « bịp bợm về văn minh » vì nó chẳng đánh lừa được ai sất. Hãy cố mà tìm cách biện minh cho sự thống trị vì lợi ích chung của cả kẻ thống trị và bị trị. (Harmand 1910: 12)

Những thực tế trên địa hạt Đông Dương khiến cho nhà cầm quyền thuộc địa phải hiện thực hóa và cụ thể hóa sứ mạng này trên phương diện giáo dục bằng hai mô hình đồng hóa và hợp tác trong công cuộc chinh phục con tim dân bản xứ. Đồng hóa nhằm Pháp hóa con dân bị trị để đưa họ đến gần với văn minh. Ví dụ, dân Nam kỳ « hiền lành, ôn hòa và dễ dàng cai trị » thì dễ đồng hóa và sớm trở thành những người Pháp thứ thiệt ! (Dubois de Jancigny 1850: 579) Nhưng một hiểm họa và ám ảnh rình rập người Pháp, đó là đến thời điểm nào đó, dân bản xứ, sau một quá trình « tiến hóa » sẽ đỏi hỏi bình đẳng với kẻ đi chinh phục. Hợp tác thực chất là một « khế ước », theo Jules Harmand, giữa kẻ thống trị và bị trị. Thay vì san phẳng truyền thống, văn hóa hay ngôn ngữ bản địa, kẻ chinh phục phải tôn trọng nền văn minh lâu đời « độc đáo và khá phát triển » của các dân tộc Đông Dương, và chỉ nên giáo dục họ đủ để họ thoát ra khỏi tình trạng « trì trệ » (1910: 159). Kẻ bị trị phải chấp nhận sự thống trị thực dân, bù vào họ được hưởng những lợi ích (trật tự xã hội, tiến bộ kỹ nghệ, an ninh, giáo dục, y tế…). Vì thế, vẫn nên hiểu sự hợp tác phải hoàn toàn nằm trong khuôn khổ đô hộ.

Hiển nhiên là sứ mệnh khai hóa này mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích thống trị, vì lẽ, về bản chất nó mâu thuẫn với chính Tuyên ngôn Nhân quyền và nó cũng phản ánh tính hai mặt của tư tưởng Khai sáng. Các nhà Khai sáng tin tưởng rằng con người sẽ tự tìm ra cho mình sự giải thoát và đấng cứu tinh thay vì ngồi chờ đợi Chúa và Thiên hựu. Họ đề cao lẽ phải và tuyên ngôn các lý tưởng cao đẹp như bình đẳng, bác ái nhưng hành động thực hiện không hẳn tương ứng với tuyên ngôn. Quân đội của Napoléon Đệ Nhất xâm chiếm Tây Ban Nha, Ai Cập, Ý hay Áo bằng chiến tranh, bạo lực, trấn áp nhưng vẫn giương cao ngọn cờ phần phật những lý tưởng Khai sáng và tuyên ngôn Cách mạng Pháp 1789. Nhưng công luận và trí thức Pháp chỉ thất vọng về mặt trái của Khai sáng khoảng 30 đến 40 năm sau khi những sự kiện này diễn ra, như những gì Stendhal mô tả trong các tác phẩm của ông.

Để giết người thì nhân danh nhân quyền cũng như nhân danh Chúa đều dễ như nhau !(Todorov 2011)

Jules Harmand đã cảnh báo giáo dục chính là « con dao hai lưỡi cầm vào rất nguy hiểm, thậm chí mũi dao đã bị tẩm độc » (1910: 258). Thực tế chứng minh, nhiều thập niên sau, giáo dục thuộc địa đã giúp hình thành nên giới trí thức tinh hoa bản xứ. Tiếp thu trực tiếp tư tưởng văn minh và khai sáng đích thực của Âu châu, giới tinh hoa này đối thoại và chất vấn với chính quyền thuộc địa tại chính quốc hay ở các xứ thuộc địa. Cùng với quần chúng, họ lật đổ và xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, nhưng bằng những phương cách rất khác nhau.

Thời đại chúng ta sống, cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, đang chứng kiến một thứ thuyết cứu thế kiểu mới, như triết gia và nhà phê bình văn học Tzvetan Todorov phát biểu chống lại cuộc chiến ở Libye: « Từ 20 năm trở lại đây, chúng ta bị cuốn vào một đòn bẩy cứu thế với niềm tin rằng chúng ta có thể mang lại dân chủ và nhân quyền bằng vũ lực! » (Todorov 2011).

Không lẽ lịch sử là một vòng xoáy chôn ốc kiểu này?

 

Tài liệu trích dẫn

Alliance française.1884. « Programme de l’Alliance Française. » Bulletin de l’Alliance Française 1: 7.

Bert Paul. 1946. « Discours du 2 avril 1886 » Trang 121 trong sách L’Indochine française, chủ biên Henry Marc et Pierre Cony. Paris: Editions France-Empire.

Bezancon Pascale. 2002. Une colonisation éducatrice ? L’expérience indochinoise (1860-1945). Paris : L’Harmattan.

Blanckaert Claude. 2007. « Un fil d’Ariane dans le labyrinthe des origines? » Revue d’Histoire des Sciences Humaines Vol. 17-2: 137‑171.

Blum Léon. 1984. « Discours à la Chambre des députés, le 9 juillet 1925. » Trang  370 trong sách Empire colonial et capitalisme français, Jacques Marseille (ed.). Paris: Albin Michel.

Commissariat Général à l’Exposition coloniale internationale de Paris. 1931. Indochine, Documents officiels. Paris: Société d’Editions Géographiques, Maritimes et Coloniales.

Condorcet Nicolas de. 1794. Esquisse d’un tableau historique des progrès de l’esprit humain, suivie de réflexions sur l’esclavage des nègres. Paris: Masson et Fils (1822).

Conklin Alice L. 1997. A Mission to Civilize: the Republican Idea of Empire in France and West Africa, 1895-1930. Palo Alto: Stanford University Press.

Costantini Dino.  2008. Mission civilisatrice. Le rôle de l’histoire coloniale dans la construction de l’identité politique française. Paris: Editions La Découverte.

Damiron Jean-Philibert.  1834. Cours de philosophie, par M. Ph. Damiron. Deuxième partie. Morale. Paris: Librairie Hachette.

Daumalin Xavier. 2008. « La doctrine coloniale africaine de Paul Leroy-Beaulieu (1870-1916) : essai d’analyse thématique » Trang 103‑120 trong sách L’esprit économique impérial, chủ biên Hubert Bonin, Catherine Hodeir et Jean-François Klein, Saint-Denis: SFHOM.

Dorigny Marcel. 2008. « Anti-esclavagisme, abolitionisme et abolitions en France de la fin du XVIIIe siècle aux années 1840. » Trang 68-69 trong sách Culture coloniale française, chủ biên Pascal BLANCHARD, Sandrine LEMAIRE et Nicolas BANCEL. Paris : CNRS Editions.

Dubois de Jancigny Adolphe. 1850. L’Univers. Japon, Indo-Chine, Empire birman (ou Ava), Siam, Annam (ou Cochinchine), Péninsule malaise, etc., Ceylan. Paris: Firmin-Didot frères.

Dumoutier Gustave. 1887. Les débuts de l’enseignement français au Tonkin. Hanoi: Imprimerie Schneider.

Ferry Jules. 1893. « Les fondements de la politique coloniale, Discours prononcé à la Chambre des députés le 28 juillet 1885. » Trang 210‑211 trong sách Discours et Opinions de Jules Ferry, Paul Robiquet (ed.). Paris: Armand Colin et Cie.

Ferry Jules, 1890. Le Tonkin et la mère-patrie : témoignages et documents. Paris : Victor-Havard Éditeur.

Ferry Jules. 1893. « Discours sur l’égalité d’éducation, prononcé à Paris, à la salle Molière, le 10 avril 1870. » Trang 287 trong sách Discours et Opinions de Jules Ferry, Paul Robiquet (ed.). Paris: Armand Colin et Cie.

Grimoult Cédric.  2000. Histoire de l’évolutionnisme contemporain en France, 1945-1995. Genève: Librairie Droz.

Hardy Georges. 1917. La conquête morale : l’enseignement en A.O.F., Paris: L’Harmattan (2005).

Harmand Jules. 1910. Domination et colonisation. Paris: Ernest Flammarion.

Hugo Victor. 1841. Choses vues: souvenirs, journaux, cahiers, 1830-1885. Paris: Gallimard (2002).

Lanessan Jean-Louis de. 1883. Le transformisme : évolution de la matière et des êtres vivants. Paris: O. Doin.

Le Bon Gustave. 1879. « Recherches anatomiques et mathématiques sur les lois de variations du volume du cerveau et du crâne. » Revue d’Anthropologie 2: 27‑104.

Leon Antoine. 1991. Colonisation, enseignement et éducation. Paris: L’Harmattan.

Leroy-Beaulieu Paul. 1882. De la colonisation chez les peuples modernes, 2e éd. Paris: Guillaumin et Cie.

Loison Laurent. 2008. Les notions de plasticité et d’hérédité chez les néolamarckiens français (1879 - 1946), Eléments pour une histoire du transformisme en France, Thèse d’histoire, Université de Nantes.

Milza Pierre. 1980. « Culture et relations internationales. » Relations internationales 24: 361‑379.

Nguyễn Ái Quốc. 1925. Procès de la Colonisation française. Paris: Librairie du Travail.

Nguyễn Thế Anh. 2004. « Mission civilisatrice (civilizing mission). » Trang 899-900 trong sách Southeast Asia: A Historical Encyclopedia, From Angkor Wat to East Timor, Ooi Keat Gin (ed.). ABC-CLIO.

Pasquier Pierre. 1931. Discours prononcé par Monsieur Pierre Pasquier, Gouverneur Général de l’Indochine à l’ouverture de la Session du Conseil de Gouvernement du 8 Décembre 1931. Saigon: Imprimerie de la Dépêche, Conseil de Gouvernement de l’Indochine.

Pitts Jennifer.  2005. A turn to empire: the rise of imperial liberalism in Britain and France. Princeton : Princeton University Press.

Raboisson Pierre Auguste. 1877. Etude sur les colonies et la colonisation au regard de la France. Paris: Challamel Aîné.

Reynaud-Paligot Carole. 2006. « Usages coloniaux des représentations raciales (1880-1930) » Cahiers d’histoire. Revue d’histoire critique 99: 103‑110.

Reynaud-Paligot Carole. 2006. La république raciale: paradigme racial et idéologie républicaine (1860-1930). Paris: Presses universitaires de France.

Rosenberg Clifford. 2002. « Albert Sarraut and Republican racial thought. » French Politics, Culture and Society 20: 97.

Salon Albert. 1978. Vocabulaire critique des relations internationales dans les domaines culturel, scientifique et de la coopération technique. Paris: Maison du Dictionnaire.Lafon Jacques. 2001. Itinéraires de l’histoire du droit à la diplomatie culturelle et à l’histoire coloniale. Paris: Publications de la Sorbonne.

Salon Albert. 1983. L’Action culturelle de la France dans le monde. Paris : F. Nathan.

Sarraut Albert. 1931. Grandeur et servitude coloniale. Paris: Editions du Sagittaire.

Saussure Léopold de. 1899. Psychologie de la colonisation française: dans ses rapports avec les sociétés indigènes. Paris: Félix Alcan.

Say Jean-Baptiste. 1826. Traité d’économie politique, 5e éd. Paris: Rabilly Libraire.

Singaravelou Pierre. 2006. « Aux origines coloniales de la francophonie : le rôle pionnier des associations et des sociétés savantes. » Trang 69 trong sách Les associations dans la francophonie, Sylvie Guillaume (ed.). Pessac: Maison des Sciences de l’Homme d’Aquitaine.

Société de géographie commerciale. 1876. « Statuts », L’Exploration 1: 1.

Tzvetan Todorov. 2011. « Il est tout aussi facile de tuer au nom des droits de l'homme qu'au nom de Dieu ! » (http://www.lepoint.fr/grands-entretiens/tzvetan-todorov-il-est-tout-aussi-facile-de-tuer-au-nom-des-droits-de-l-homme-qu-au-nom-de-dieu-15-04-2011-1319970_326.php). Truy cập tháng 2/2017.

Verdo Geneviève. 2010. "Un empire libéral." La vie des idées (http://www.laviedesidees.fr). Truy cập tháng 9 năm 2010.


 
[i] Chủ nghĩa phế nô ở thế kỷ 18 không bao hàm chống thực dân chủ nghĩa. Một vài người ủng hộ còn đặt lên hàng đầu những lợi ích kinh tế cho Pháp và các thuộc địa của Pháp từ việc bãi bỏ chế độ nô lệ.
[ii] Arthur de Gobineau, Essai sur l’inégalité des races humaines, publié en 1855. Gobineau thuộc số những người cho rằng thuộc địa là nguy hiểm cho chính dân đi khai thác thuộc địa, vì đó là nguồn gốc của lai giống, là đồng nghĩa với thoái hóa.
[iii] Jean-Philibert Damiron (1794-1862) dạy học ở Trường Sư phạm trong những năm 1830 – 1840, cùng thời điểm với triết gia và chính trị gia Victor Cousin và sử gia Jules Michelet.
[iv] Phương pháp bình định của Bugeaud là làm chết ngạt kẻ thù trốn trong hang bằng cách hun khói. Phương pháp này được áp dụng trong hai năm 1844 và 1845, và gây ra sự phẫn nộ tại Paris.
[v] Alfred Giard (1846-1906), nhà động vật học và đại biểu đảng Cộng hòa. Là người đầu tiên đưa môn thuyết tiến hóa vào giảng dạy ở Sorbonne từ năm 1888, ông góp phần truyền bá tại Pháp tư tưởng Tân Lamarck và Darwin.
[vi] Paul Bert (1833-1886), bác sỹ, nhà sinh lý học, chính trị gia (Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1881-1882), Thống sử Trung-Bắc kỳ (1886).
[vii] Bác sỹ, nhà thám hiểu, nhà ngoại giao, nhà lý luận về thuộc địa, một trong những người phát minh ra lý thuyết cai trị, gọi là « mẫu hình hợp tác », một trong những quan chức cao cấp thuộc địa đầu tiên học tiếng Việt (ngay từ 1866) và rất am hiểu văn hóa Việt Nam. 
[viii] Léopold de Saussure (1866-1925), nhà Hán học, nhà thiên văn học, sỹ quan hải quân và là môn đệ của Gustave Le Bon. Ông xuất thân trong một gia đình tài trí danh giá Thụy Sỹ gốc đạo Tin lành Pháp. Cha là Henri de Saussure, nhà côn trùng học và khoáng học. Léopold là em trai của Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học và khai phá thuyết cấu trúc học và tín hiệu học và là anh trai của René de Saussure, nhà ngôn ngữ học và phát minh quốc tế ngữ espéranto.
[ix] Onésime Reclus, cité par Pierre Singaravélou, « Aux origines coloniales de la francophonie : le rôle pionnier des associations et des sociétés savantes », op. cit., p. 65.
[x] Ngày nay, nó trở thành một « tập đoàn đa quốc gia » trên lĩnh vực văn hóa lớn nhất thế giới với 1050 trung tâm nằm rải rác khắp địa cầu. Những thành viên sáng lập và các nhân vật trọng yếu của tổ chức này đã góp phần rất quan trọng vào việc định hình và phát triển chính sách đối ngoại văn hóa hiện đại của Pháp từ cuối thế kỷ 19 đến tận ngày nay. Cf. Chaubet François, « L'Alliance française ou la diplomatie de la langue (1883-1914) », Revue historique, 4/2004 (n° 632), p. 763-785.
[xi] Đảng thuộc địa là một tập hợp manh nha các hội đoàn, ủy ban và các nhóm nghị viên tác động đến chính quyền và công luận để thuyết phục tính chính đáng của hành động thuộc địa. Cf. Charles Robert Ageron, France coloniale ou parti colonial?, Presses universitaires de France, 1978, 308 p.
[xii] Chính trị gia, là cha đẻ của trường học « miễn phí, thế tục và bắt buộc » dưới nền Đệ Tam Cộng hòa vẫn tồn tại đến ngày nay tại Pháp. Ông cũng là người ủng hộ hết mình cho công cuộc bành trướng thuộc địa.
[xiii] Chính trị gia, Toàn quyền Đông Dương (1911 - 1914 và 1917 – 1919).
[xiv] Tác phẩm của ông De la colonisation chez les peuples modernes, xuất bản năm 1874 và được tái bản 6 lần. Ông được coi là một trong những nhà lý luận thuộc địa. Xavier Daumalin, « La doctrine coloniale africaine de Paul Leroy-Beaulieu (1870-1916) : essai d’analyse thématique », in Hubert Bonin, Catherine Hodeir et Jean-François Klein (eds.), L’esprit économique impérial, Saint-Denis, SFHOM, 2008, pp. 103‑120.
[xv] Sỹ quan và quan chức cao cấp, sáng lập ra trường Tham biện Hậu bổ Sài Gòn (1873) nơi đào tạo nhân viên hành chính thuộc địa am hiểu các ngôn ngữ và văn hóa của ba nước Đông Dương. Bản thân ông được coi là một trong những nhà Việt Nam học người Pháp đầu tiên với hai cuốn sách Cours d’administration annamite (1875) và Le Pays d’Annam, étude sur l’organisation politique et sociale des Annamites (1878.
[xvi] Nhà lý luận về giáo dục thuộc địa, hiệu trưởng Trường Thuộc địa (1926-1937). Hardy là tác giả của khái niệm « cuộc chinh phục tinh thần ».

Nguyễn Thụy Phương

Nguồn: Tia sáng, ngày 7.8.2019.

Đại Nam dật sự và Sử ta so với sử Tàu của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947) là hai sử phẩm tái thông diễn về lịch sử Việt Nam. Bản thân cái tên “Đại Nam dật sự” (大南逸事) có hàm nghĩa khôi phục lại những trang sử tản mát đã thất tán theo dòng thời gian1. Người đời nay lật lại những trang sách cũ trong các mảnh dật thư để soi chiếu lại những sự - những việc - những người đã phôi pha qua dòng đời. Còn cuốn Sử ta so với sử Tàu, ngoài thao tác hiệu khám sử liệu và phê phán sử liệu, còn là một tác phẩm góp phần làm nên những đối thoại đa thanh trong bối cảnh mưa Âu gió Á đầu thế kỷ XX.

20190708 Nguyen van To

Giám đốc EFEO George Cœdès, Nguyễn Văn Tố (mặc bộ quần áo dài trắng) và các thành viên, nhân viên Việt Nam tại EFEO. Ảnh chụp năm 1936, tại trụ sở EFEO (26 Đại lộ Carreau, nay là phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội). Ảnh lưu tại Thư viện KHXH. Nguồn: Ngô Thế Long/Thông tin KHXH,số 11.2016.


Nguyễn Văn Tố là một nhà Nho thông kinh sử, đằm mình trong cái học Hán văn, đồng thời lại là người có học thức phương Tây được xây dựng trên cơ sở Pháp văn. Ông được coi là một trong tứ kiệt “Quỳnh - Vĩnh - Tố - Tốn”2 của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông biên soạn hai cuốn sách này3 với thao tác chính yếu là giải đọc, phiên dịch sử liệu từ Hán văn sang Việt văn đồng thời tiến hành các thao tác hiệu khám sử liệu, phê phán sử liệu. Ta cũng biết, thời điểm tác giả biên soạn cuốn này thì các bản dịch sử liệu Việt Nam hầu như chưa có.4 Thống kê các trích dẫn trong hai sử phẩm cho thấy Nguyễn Văn Tố là một nhà sử liệu tiên phong khi ông tiến hành phiên dịch và so sánh sử liệu nguyên cấp. Đó là các bộ sử và tư liệu Hán văn do người Việt Nam biên soạn như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử kýViệt sử lượcĐại Việt sử ký tiền biênKhâm định Việt sử thông giám cương mụcLĩnh Nam di thưViệt sử tiêu án, Hoàng Việt giáp tý niên biểuSĩ Vương sự tíchĐại Nam nhất thống chíLĩnh Nam chích quáiViệt điện u linhTiền biên dã sử, Nghệ An thi tập, Vân Đài loại ngữViệt sử khảo lượcĐại Việt sử ký cải lương,  Trung học Việt sử toát yếuViệt Nam phong sửViệt sử lược tứ tự kinhNgự chế Việt sử tổng vịnh,… trong sự đối chiếu các bộ sử Hán văn của Trung Quốc như Thủy kinh chúTư trị thông giámTrần thưViệt kiệu thưThanh nhất thống chíTrần thư, Tùy thưNam sửNguyên Hòa quận huyện chíThái Bình hoàn vũ kýPhương dư kỷ yếuĐường thư, Lương thư, Tống sử, An Nam chí nguyênLĩnh ngoại đại đápDư địa lý thắngNgô lục, Lĩnh biểu lục dị, Thông điểnTấn thưTân ngũ đại sửAn Nam kỷ yếuVăn hiến thông khảoThiếu vi thông giám, Ngự phê thông giám thọ lãm, Hán thư… Ở thời điểm 1943-1945, việc một sử phẩm trích dẫn và đối chiếu các nguồn sử liệu Hán văn (cho đến tận số trang nguyên bản) là điều tương đối hiếm hoi trong bối cảnh từ chương chuyên cậy nhờ các bộ não cường ký. Đúng hơn, việc trích dẫn sử liệu rõ ràng đã chịu ảnh hưởng từ thao tác nghiên cứu của các học giả người Pháp ở Viện Viễn Đông Bác cổ. Đây là các công trình khảo cứu sử liệu đầu tiên hiện biết mang đậm chất thao tác luận với những xử lý vi tế của những chuyện “bếp núc trong nghề”. Ở khía cạnh này, nếu không quá lời, có thể coi ông là nhà sử học bản địa đầu tiên đặt nền móng cho bộ môn sử liệu học ở Việt Nam thời hiện đại.
Điều đáng quý nữa là, Nguyễn Văn Tố còn thực hiện công tác phê phán sử liệu. Ông phân biệt giữa huyền thoại và lịch sử. Ví dụ khi viết về bài sấm ngữ báo điềm cho việc nhà Lê mất nhà Lý lên ngôi được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, ông cho rằng: “Tuy sử chép như thế, nhưng không nên tin là có thật; đại để cũng như chuyện Lê Lợi sai người lấy mỡ viết vào lá cây mấy chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi”. Mặc dù chưa đề cập đến chuyện sấm ngữ chỉ là một phương tiện truyền thông của người chiến thắng nhằm củng cố cho tính chính thống của phe giành quyền, song tác giả đã có lý khi cho rằng việc tồn tại sấm ngữ trước sự kiện lịch sử là điều không khả tín. Có nghĩa là, ông đã gạt bỏ tính thần bí tiên thiên của các sấm ngữ, coi đó một thủ pháp của sử chí Nho giáo, và nhích dần đến tìm hiểu sử thực.

Đây là các công trình khảo cứu sử liệu đầu tiên hiện biết mang đậm chất thao tác luận với những xử lý vi tế của những chuyện “nếp núc trong nghề”. Ở khía cạnh này, nếu không quá lời, có thể coi ông là nhà sử học bản địa đầu tiên đặt nền móng cho bộ môn sử liệu học ở Việt Nam thời hiện đại.

Nhìn về tổng thể, nếu như Sử ta so với sử Tầu khảo sát các quốc hiệu từ Văn Lang, Giao Chỉ, Vạn Xuân đến Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam và một số vấn đề quan trọng của cổ sử như vị trí Tượng Quận, hay những cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc, thì Đại Nam dật sự là một tác phẩm viết theo tuyến tính lịch sử, từ đời Hán qua Bắc thuộc đến cuối đời Lý. Trong đó tác phẩm sau chọn lối viết tiểu truyện tác giả (gồm người anh hùng nêu cao ngọn cờ độc lập, những người Nam làm quan bên Bắc, các vấn đề người cai trị, các vị vua đời Lý) làm xương sống cho toàn bộ cuốn sách. Mỗi chân dung của nhân vật hiện lên được miêu tả như là một biography biên niên theo hệ lịch Can Chi - Niên hiệu (được quy chiếu sang lịch Thiên Chúa). Nếu như các bộ sử cũ (như Toàn thư chẳng hạn), lấy sự tồn tại của các dòng họ cầm quyền làm cột mốc chính trong phân kỳ lịch sử, thì ở đây, tác giả đã đưa các nhân vật lịch sử (các anh hùng) lên làm mẫu hình chủ chốt chạy xuyên suốt trong các chương sách. Việc phân chia Ngoại kỷ và Bản kỷ từ Ngô Sĩ Liên - Lê Tung cũng không còn giá trị trong bối cảnh thời đại mới. Việc sử dụng khái niệm anh hùng và các diễn ngôn chính trị phức hợp cho thấy đây là một sử phẩm hòa trộn Tây - Đông, trong hòa trộn có cả đối thoại và đối kháng.5




Tri Tân là tạp chí có chiều sâu về học thuật và có đóng góp quan trọng về khảo cứu sử học, văn học cổ Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với nhiều bài viết và sự góp mặt của nhiều cây bút, trong đó đặc biệt là Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947). Trong ảnh: Bìa và Lời Phi lộ (tạp chí Tri Tân số 1, ngày 3/6/1941). Nguồn: Bảo tàng lịch sử Quốc gia.


Ông đã từng phát biểu rất hiển ngôn về quan điểm này như sau: “Nước Nam ta lập quốc đã lâu (2879 trước Thiên Chúa TC), không kể hơn hai nghìn sáu trăm năm của họ Hồng Bàng, là đời đã xa. Kể ngay trong khoảng hơn nghìn năm Bắc thuộc (207 tr. TC đến 905 sau TC), nước ta đã có các vị anh hùng - anh thư đứng lên chống cự những chính sách quận huyện và đô hộ để giữ lấy giang sơn, như Hai Bà Trưng (40-42 sau TC), Lý Nam Đế (541-602), Mai Hắc Đế (722), Bố Cái Đại Vương (791), đều là những bậc xây nền đắp móng cho tương lai,… Chỉ xin nhắc để độc giả nhớ rằng, dân ta đã biết trọng quyền độc lập từ bao nghìn năm nay, mà tinh thần thượng võ cũng đã cao lắm”.6 Phát biểu này là một hiện trường hiển minh cho quan điểm sử của thời đại ông. Các từ khóa đáng chú ý là anh hùng, anh thư, và đặc biệt là quyền độc lập. Chữ anh hùng - anh thư là một sự tiếp nối quan điểm sử về giới từ quá khứ Nho giáo. Còn chữ “quyền độc lập” là một từ khóa quan trọng của quan điểm sử được kiến tạo từ các học giả Pháp, Phan Bội Châu và các thế hệ Đông Du.

Phát biểu trên của Nguyễn Văn Tố đồng thời cũng cho thấy ông đã bảo tồn và kế thừa tư tưởng nhận đồng lịch sử từ các nhà Nho thời Trung đại để viết tiếp những trang sử mà thời đại ông cần có. Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã phải đối đầu với Pháp - một thế lực thực dân bành trướng còn mạnh mẽ hơn nhiều so với các triều đại Trung Hoa. Lịch sử nguồn gốc lâu dài được bảo lưu nhưng đã được tái cấu trúc dưới ngòi bút của ông. Các thế hệ lịch sử hiện lên dưới những gương mặt anh hùng - những người đã nổi lên chống lại sự đô hộ của các triều đại phương Bắc. Ông đã liệt kê các bậc anh hùng như Hai Bà Trưng (40-42 sau TC), Lý Nam Đế (541-602), Mai Hắc Đế (722), Bố Cái Đại Vương (791), để cho thấy một lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của người Việt, và để chứng minh rằng “dân ta đã biết trọng quyền độc lập từ bao nghìn năm nay”. Những dòng bút sử này thuật lại một lịch sử đối kháng Nam-Bắc, nhưng đồng thời coi đó như là tiền lệ cho đối kháng hiện thời giữa người Việt và người Pháp.

Cấu trúc xương sống của cuốn sách đã làm nên đối thoại đa thanh trong tác phẩm này. Ông dùng khái niệm “người Nam” đối lập với “người Tàu” và “sử ta” - “sử Tàu”. Và chính ở đây, cuộc đối thoại đã diễn ra rất phức tạp. Trong bài “Đỗ Viện là người Nam hay người Tàu”, ông đã có những diễn ngôn cụ thể về giống nòi trong mối quan hệ với quốc gia và quê cha đất tổ. Nguyên ủy, Đỗ Viện làm quan ở Giao Châu, phần nhiều được coi là người Nam, nhưng cháu của ông này là Đỗ Hoằng Văn khi được vua Tàu triệu về thì có nói: “Ta ba đời cầm cờ tiết ở Giao Châu, thường muốn thân hành sang đế đình.” Ứng Hòe cho rằng: “Xem câu nói ấy cũng biết là vẫn nhớ quốc tịch, và nhớ quê cha đất tổ”. Ông phân tích tiếp: “Chữ “quê cha đất tổ” (patrie, terre de nos pères), sách Tây cắt nghĩa là “cùng một đất nước, cùng một giống nòi, cùng một tiếng nói, cùng một lễ giáo, cùng một phong tục, cùng một quyền lợi, cùng một luật pháp, cùng một lịch sử. Có người đã bẻ rằng về nòi giống thì không cứ đồng chủng, ví như nước Thụy Sĩ có nhiều giống người mà vẫn thành nước. Tiếng nói, thì Bắc Mỹ nói tiếng Anh, Nam Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha, một phần Thụy Sĩ và Tỷ Lợi Thì nói tiếng Pháp, một phần nước Nga nói tiếng Đức; như thế thì không cứ gì phải đồng âm mới là quê cha đất tổ. Tôn giáo cũng thế: ngày xưa mới có tôn giáo quốc gia, chứ bây giờ thì khác, tôn giáo là việc của cá nhân, không cứ phải theo cùng một tôn giáo mới là cùng một nước. Còn như phong tục, tuy là thiên lý đồng phong, nhưng khắp trong nước không thể giống nhau hết cả. Luật lệ và lịch sử, cũng không cứ gì phải cùng nhau. Bởi thế, các nhà triết lý Âu châu cho tám cái tương đồng ấy chưa có thể gọi là nước được; phải cùng một tính tình, cùng một ý muốn mới gọi là nước. Ông Renan gọi nước là “một cái hồn, một mối tinh thần”, tức như bây giờ gọi là quốc hồn... Đương khi bên Tàu có loạn Lục triều, phía Nam có Lâm Ấp quấy nhiễu, thế mà ba ông cháu Đỗ Viện giữ được Giao châu làm một cõi thái bình thịnh trị, thì dù là người Tàu hay người Nam, cũng nên ghi chép”. Nhan đề bài viết cho thấy dấu vết rõ nét về quan điểm sử về nguồn gốc chủng loài. Đồng chủng (giống nòi) là một thuật ngữ mới được di thực vào Việt Nam bắt đầu từ sử phẩm của Phan Bội Châu (1906). Tác giả Nguyễn Văn Tố đã sử dụng tiêu chí “8 cùng” (cùng đất nước, cùng giống nòi, cùng tiếng nói, cùng lễ giáo, cùng phong tục, cùng quyền lợi, cùng luật pháp, cùng lịch sử” để biện biệt về vấn đề Đỗ Viện là người nước Nam hay người nước Tàu. Câu hỏi xuất phát từ một đối thoại Bắc - Nam, tiêu chí và thao tác khái niệm lại đến từ tư tưởng phương Tây, và kết quả thì lại mang tính dân tộc. Một cách hiển ngôn, ông cho rằng, dù Đỗ Viện là gốc Tàu hay gốc Nam, thì Đỗ Viện là một gương mặt anh hùng của lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc. Hai lý do để ông đưa ra nhận định này là vì Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ đã xây dựng một xã hội Giao Châu đạt đến “hoàng kim thời đại”, và là một tấm gương “trung thành với đất nước”. Vẫn là một giọng viết đa thanh, pha trộn giữa các hệ tiêu chí và các quan điểm sử.

Có thể nói, Nguyễn Văn Tố đã sử dụng sử học để tái lập truyền thống đấu tranh giành độc lập, và lịch sử ái quốc của người Việt. Đại Nam dật sự và Sử ta so với sử Tàu là những đối thoại đa thanh giữa Nam với Bắc, giữa Đông với Tây, giữa cổ với kim. Các diễn ngôn chính trị đã được lồng ghép đan cài dưới các khảo cứu sử liệu công phu nhằm hướng mục đích duy nhất “bồi quốc hồn - bổ quốc não”, chấn hưng dân chí, phục hồi dân khí, phát dẫn lòng yêu nước thương nòi.

Song vấn đề quan trọng nhất mà Ứng Hòe hướng đến là âm hưởng của khái niệm “ái quốc” và “độc lập”. Những người mà ông muốn đối thoại là những học giả người Pháp. Nếu như các học giả Pháp cho rằng người Việt không biết ái quốc nhằm phục vụ cho công tác cai trị thuộc địa, thì Ứng Hòe chứng minh rằng ái quốc là một hiện tượng lịch sử lâu dài của Việt Nam. Hàm ý rằng lịch sử ái quốc là tiền đề cho những nỗ lực giành độc lập của Việt Nam vào thời điểm đó. A. Launay trong cuốn Histoire ancienne et moderne de L’Annam (trang 106) cho rằng: “Gọi là nước thì phải liên lạc các tỉnh với nhau thành đoàn thể, kết hợp bằng những mối hồi tưởng vẻ vang hay buồn rầu. Đối với người An Nam thì không thế: chỉ là luật lệ, chế độ và phong tục mà thôi. Có lẽ người An Nam ghét người ngoại quốc hơn là yêu nước, không phải ghét vì cớ người ngoại quốc giày xéo đất nước, hay là truyền bảo theo lệnh chủ khác: chính là ghét vì cớ người ngoại quốc bắt theo luật mới, đổi tục cũ, không cho tập quán vào đâu cả”. Cách giải thích của A. Launay dường như là một diễn giải đánh lạc hướng chủ đề, và xóa nhòa các ranh giới giữa chính trị và văn hóa. Còn Nguyễn Văn Tố đã thẳng thắn nhìn vào bản chất vấn đề, ông dẫn lại chính A. Launay để phản bác rằng “Nhưng dù vì yêu nước, hay vì ghét người áp chế, bao giờ dân An Nam cũng giữ vững và giơ cao lá cờ độc lập”. Nguyễn Văn Tố đã phản bác lại quan niệm phổ biến khi đó cho rằng “Người nước Nam không biết nghĩa ái quốc”. Đại Nam dật sự ở khía cạnh này là một minh chứng hùng hồn về “một lịch sử ái quốc” của người Việt. Lịch sử ái quốc ấy đi liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập, mà những anh hùng - anh thư được nêu trong sách này là những tấm gương tiêu biểu cho quá trình người Việt đấu tranh để thoát khỏi ách đô hộ của người Tàu. Rõ ràng, một sử phẩm trong không khí đối thoại học thuật đã mang trong mình sự đối kháng chính trị với những diễn ngôn lịch sử ẩn tàng phía sau.

Tác phẩm “Đại Nam dật sử” (68 số, từ số 104, ngày 22/7/1943 đến số 209, ngày 25/10/1945), là công trình Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố chưa viết xong. Tác giả mới viết được đến năm 1207, đời vua Cao Tông triều Lý, sau đó ít lâu thì ông hy sinh. Trong ảnh: Bài viết “Đại Nam dật sử” (Tri Tân số 105, ra ngày 29/7/1943). Nguồn: Bảo tàng lịch sử Quốc gia.


Từ những phân tích trên ta thấy, một thực hành sử học đồng thời là một hành vi chính trị. Ngay chính ở đây tính hữu dụng của lịch sử (the ultility of history)7 đã thể hiện minh bạch. Một ví dụ về tính hữu dụng của nghiên cứu lịch sử là ở những đoạn Nguyễn Văn Tố viết về “chính sách người Tàu đối với nước Nam”. Theo tiêu chí “bị cai trị”, lịch sử mất nước được ông phân làm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn Bắc thuộc ở thiên niên kỷ thứ nhất; giai đoạn thứ hai là thời thuộc Minh (1413-1428). Cách phân chia này vừa tiếp thu từ các sử phẩm Nho giáo vừa mang ảnh hưởng từ Phan Bội Châu. Tám Điều thú vị là Nguyễn Văn Tố đã tiếp thu các tư tưởng phân loại của phương Tây, ông viết: “một nước lớn đối với các nước dưới quyền, chỉ có mấy cách như sau này: một là bá chủ, hai là lợi dụng, ba là thực dân, bốn là đồng hóa, năm là hợp tác, sáu là khai phóng. Nước Tàu lúc đầu sang ta không phải có nhiệt tâm khai hóa như người Ả Rập đi truyền giáo sang Âu châu vào thế kỷ thứ 17, cũng không phải chỉ tìm vàng như Tây Ban Nha sang Tân Thế giới vào thế kỷ thứ 16, lại cũng không phải vì trong nước thiếu chỗ ở phải di dân ra nước ngoài như người Anh ở thế kỷ thứ 17... Xem như thế, thì người Tàu lúc đầu sang ta đã gồm cả ba cách bá chủ, lợi dụng và thực dân. Còn như cách đồng hóa, hợp tác và khai phóng, sẽ xét sau trong chuyện những người sang đô hộ. Nhưng đại khái có thể nói tóm ngay rằng phần nhiều chỉ lợi cho họ, ít lợi cho ta.” Ta thấy, Nguyễn Văn Tố đã từ khước các khái niệm “Trung Quốc” - “Hoa Hạ” - “Thiên triều” - “phiên bang” - “chư hầu” của truyền thống sử chí Đông Á, ông sử dụng cặp khái niệm “nước lớn” - “nước dưới quyền”. Sự từ khước này còn hàm ý hướng đến “những người đang đô hộ”, ở thời điểm khi đó chính là người Pháp. Tiếc rằng, ông đã không có cơ hội để viết hết cuốn sử của mình.

Có thể nói, Nguyễn Văn Tố đã sử dụng sử học để tái lập truyền thống đấu tranh giành độc lập, và lịch sử ái quốc của người Việt. Đại Nam dật sự và Sử ta so với sử Tàu là những đối thoại đa thanh giữa Nam với Bắc, giữa Đông với Tây, giữa cổ với kim. Các diễn ngôn chính trị đã được lồng ghép đan cài dưới các khảo cứu sử liệu công phu nhằm hướng mục đích duy nhất “bồi quốc hồn - bổ quốc não”, chấn hưng dân chí, phục hồi dân khí, phát dẫn lòng yêu nước thương nòi. Tinh thần ái quốc của Nguyễn Văn Tố không chỉ thấm đẫm trong các trang sử bút mà còn thể hiện bằng cả sinh mệnh cá nhân và nhiệt huyết cuộc đời. Ông hy sinh năm 1947 trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng ngọn lửa ái quốc của ông còn truyền lại cho nhiều thế hệ sau này. Ông hiện lên với tư cách là một nhà sử học ái quốc, dùng lịch sử để thay đổi lịch sử của đất nước, dùng lịch sử như là một công cụ chính trị, và dùng cả sinh mệnh mình để cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

-------

Chú thích:

1 Hà Văn Tấn, Lời giới thiệu, trong “Đại Nam dật sử”, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, 1997, tr.7.

2 Gồm bốn vị Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn.

3 Đại Nam dật sự  là tuyển tập từ những bài viết của ông trên 72 số báo Tri Tân từ năm 1943 đến năm 1945: 104, 105, 106, 107, 108, 109, 110, 111, 114, 115, 116, 117, 118, 121, 122, 124, năm 1944 : 128, 129, 130, 131, 132, 137, 138, 139, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 149, 150, 152, 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 162, 163, 164, 165, 166, 167, 168, 169, 170, 171, 172, năm 1945 : 173, 174, 180, 181, 182, 183, 187, 188, 190, 191, 193, 195, 196, 198, 200, 202, 203, 207, 209 (thiếu một số, chưa hết) [Ngô Thế Long, Bùi Thị Thái, Thư mục sách, bài báo của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Viện Thông tin Khoa học Xã hội]

4 Đại Việt sử ký toàn thư mãi đến năm 1945 mới xuất bản bản dịch tập đầu của Nhượng Tống.

5 Nguyễn Trãi xưa viết về Hồ Quý Ly đã dùng viết: “Họa phúc duyên do đâu một buổi, Anh hùng để hận mấy nghìn đời.” (Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật, Anh hùng di hận kỉ thiên niên. 禍르唐첵렷寧휑,亶衿遺붸幾푤쾨)‭ ‬[Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Tập 1, 2001, tr.83-84].

6 Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Tinh thần thượng võ, Tri Tân số 211– thứ năm mùng 8 tháng 11 năm 1945, tr.722.

7 Trần Trọng Dương, 2019, Việt Nam thế kỷ X – những mảnh vỡ lịch sử, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 439tr.

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 03.7.2019.

20190208 Tet

Sáng mùng 5 Tết năm kia, trước ngày cùng trở lại Sài Gòn, chú Ba Lâm gọi tôi đến nhà ăn tân niên. Nhà chú và nhà tôi xưa ở hai thôn khác nhau cùng thuộc xã Đức Tân, nay sáp nhập vào thị trấn Mộ Đức (tỉnh Quảng Ngãi), trở thành trung tâm huyện, hai bên quốc lộ 1 đất lên đời phố xá, nhưng vẫn còn cánh đồng xanh ngát ở phía đông.

Tháng giêng nắng vàng hanh hao, trời se lạnh, hai chú cháu uống vài lon bia mà không dỗ được giấc ngủ trưa, tôi mở cửa bước ra đường. Bên kia đường, đối diện nhà chú Ba là trường tiểu học của tôi hồi nhỏ. Ngày xưa, sân trường nối với quốc lộ bằng một lối vào giữa hai ruộng lúa, nay bị che khuất bởi dãy nhà mới xây ở mặt tiền đường. Trường nghỉ Tết, hai cánh cổng buộc bằng một sợi dây xích không khóa, tôi nhẹ nhàng mở ra để bước vào sân tìm lại tuổi thơ mình. Đâu rồi những gốc phượng già ngày xưa, nay chỉ thấy hàng cây bàng rụng lá. Đâu rồi dãy phòng học nghèo nàn ngày xưa, nay là tòa nhà hai tầng sơn xanh mới mẻ. Đâu rồi những luống cải lớp tôi trồng ở góc sân trường, nay đã tráng xi măng phẳng láng.

Cổng nhỏ phía sau trường cũng chỉ khép hờ, tôi mở đi qua con đường làng trước đây là ranh giới ngăn cách hai thôn Thiết Trường và Vĩnh Phú. Khác với sân trường im vắng, ở đây vang tiếng nói cười của những nhóm thanh thiếu niên tụ tập chơi bài cào, chơi cờ cá ngựa, chơi bầu cua tôm cá gà nai… Vui quá, mấy chục năm rồi, quên mất tuổi thơ, tôi chẳng có dịp nào đánh bầu cua, nên móc ví ra lấy mấy chục tiền lẻ. Năm nay là năm Dậu, thử nuôi gà xem: A, có gà, những ba con gà, đầu năm gặp may rồi, được chung tiền gấp ba. Nhưng gà chỉ hiện ra có một lần, nuôi tiếp lứa nào cũng không thấy gà ra, chỉ trong vòng 30 phút vài trăm tiền lẻ trong ví đã theo gà bay đi hết. Đầu năm, đen bạc, cả năm sẽ sao đây! Mấy chú bé nói khích máu đỏ đen của tôi nhưng tôi kịp dừng lại, đứng lên rút khỏi vòng người. Trên đường về, tự cười mình, tôi nhìn trời nhìn đất và nhận ra một sự lạ: tất cả những nhóm người tụ tập chơi bài, chơi cá ngựa, chơi bầu cua… đều diễn ra ở bên phía lề đường hay sân nhà thuộc thôn Vĩnh Phú quê ngoại tôi, phía thôn Thiết Trường nhà chú Ba tuyệt nhiên không có một nhóm chơi nào.

Về ngồi uống trà với chú Ba, tôi nói với chú điều ngạc nhiên và thắc mắc của mình. Chú cười: Nếu Phương vào đây ngày mùng 3 thì vẫn thấy hai bên đường người ta vui chơi chẳng khác gì nhau. Nhưng từ mùng 4 thì hầu hết người Thiết Trường đã đi làm rồi, hoặc ra đồng làm ruộng, hoặc khởi công đổ đất, hoặc khai trương cửa hàng. Còn người bên Vĩnh Phú thì vẫn chơi tiếp cho đến mùng 7 mới xem là hết Tết. Đó là tập quán khác nhau giữa hai thôn từ mấy chục năm nay.

Nhờ lời giải thích của chú Ba, kết nối với những hiểu biết về nông thôn quê mình, tôi mới có câu trả lời cho thắc mắc về sự lạ nói trên. Tuy là hai thôn nằm bên cạnh nhau của cùng một xã, nhưng từ thời phong kiến, Vĩnh Phú và Thiết Trường đã theo hai chế độ ruộng đất khác nhau. Vĩnh Phú chủ yếu là đất công điền, cứ 3 năm một lần, ruộng được “quân cấp” (cấp bình quân) cho mọi công dân đủ 18 tuổi, tùy hạng ruộng mà chia theo tỉ lệ cho công bằng. Vậy nên người Vĩnh Phú hầu như không lo đói, vì lúc nào cũng được cấp ruộng, thậm chí có người nhận ruộng rồi cho kẻ khác làm, thu lúa cũng đủ ăn. Những ai giàu thì đi mua ruộng đất ở nơi khác. Tôi là cháu sống nhờ quê ngoại, đi học tận Sài Gòn mà cũng được cấp cho 2 sào ruộng công điền, có tiền bán lúa để chi tiêu ăn học.

Còn Thiết Trường chủ yếu là ruộng tư, nhà nghèo vài ba sào, nhà giàu vài ba mẫu. Ruộng đất điều chỉnh theo chế độ tư hữu, thuận mua vừa bán, bằng khoán được chính quyền chứng nhận. Người nghèo túng bán ruộng đã đành mà người giàu chuyển nhà hay cần vốn đi nơi khác làm ăn cũng được phép bán đứt bán đoạn mảnh ruộng của mình. Thành ra, so với người dân Vĩnh Phú, người dân Thiết Trường năng động hơn, có óc làm giàu, thích đầu tư ruộng đất hay kinh doanh, mạo hiểm hơn mà cũng dễ thành công hơn. Thời chiến tranh quê tôi hầu hết nhà tranh vách đất, chỉ có Thiết Trường nhà ngói liên dây…, như một câu ca dao lưu hành lúc đó.

Ngày hòa bình, cả Vĩnh Phú lẫn Thiết Trường, ruộng đất đều phải đưa vào hợp tác xã, người nông dân là xã viên, làm ăn theo tiếng kẻng hàng ngày và hưởng công theo điểm chấm của ban chủ nhiệm, giống y như miền Bắc. Đến thời Đổi mới, ruộng được chia theo hộ gia đình, nhưng đất đai vẫn thuộc về toàn dân, người dân chỉ được quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu.

Dù vậy, cái tâm lý hình thành từ trước đã in dấu trong cung cách sinh hoạt và làm ăn của hai thôn quê tôi. Rõ ràng, trong thời mở cửa và kinh tế thị trường, ai năng động, có sáng kiến, biết tận dụng thời gian thì gia đình mới trở nên thịnh vượng. Chú Ba nhẩm tính, chỉ mới hai mươi năm Đổi mới và mở cửa, mà riêng thôn Thiết Trường đã có gần 20 triệu phú đô-la nhờ ăn nên làm ra cả ở quê hương lẫn ở thành phố. Còn Vĩnh Phú, nghe tiếng tưởng là “giàu vĩnh cửu” mà chỉ vài ba người có tài sản mức đó.

Dân số nước ta ngày càng đông, nhưng đất đai thì không sinh ra thêm được, đất nông nghiệp ngày càng giảm theo tốc độ đô thị hóa, chuyển thành đất thổ cư, thành sân golf, thành khu du lịch sinh thái…  Mấy chục năm sau chiến tranh, bao người nông dân và cựu binh, chẳng sá gì cái chết cài đặt sẵn dưới chân, can đảm rà phá bom mìn để cứu từng tấc đất quê hương, phục hồi sản xuất. Chợt nhớ đến một truyện ngắn của Võ Hồng: Tình yêu đất. Phải rồi, điều làm nên bản chất và đặc trưng của người nông dân không chỉ là sự cần cù, siêng năng, thật thà, chịu thương chịu khó - người Việt nơi nào, làm nghề gì cũng có những đức tính này - mà trước hết là tình yêu sâu nặng với đất. Lo cho nông dân, thương yêu nông dân thực sự thì cần đáp ứng trọn vẹn tình yêu đất của họ.

Bởi có tình yêu đất mới có tình yêu nước. Có tình yêu đất mới có ý chí làm giàu dựng xây Tổ quốc. Có tình yêu đất mới dám hy sinh bảo vệ bờ cõi của Tổ tiên để lại.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Nguồn: Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số Xuân Kỷ Hợi 2019

20190629 daVinci

Nhân kỷ niệm 500 năm ngày mất  của thiên tài Leonardo Da Vinci năm 2019 sẽ có hàng trăm ý tưởng và đầu sách được xuất bản để đánh dấu một sự kiện quan trọng về một nhân vật kiệt xuất, một thiên tài có những khả năng siêu việt trong nhiều lãnh vực hiểu biết.

Năm trăm năm trước, nước Ý được hình thành từ nhiều tiểu quốc và được các gia đình quý tộc giàu có và hùng mạnh về quân sự lãnh đạo như gia đình Medici ở Firenze, gia đình Sforza ở Milano, gia đình Borgia ở trung tâm nước Ý và tiểu quốc Vatican với đức giáo hoàng Alessandro VI, người có tên thật là Rodrigo Borgia.

Leonardo  đã từng sống, làm việc và tích lũy được những kinh nghiệm đầu tiên của mình ở vùng Firenze dưới sự bảo trợ của Lorenzo de Medici, gia đình này cũng tài trợ cho các nghệ sĩ khác nữa như Verrocchio, Michelangelo, Raffaello, Brunelleschi.

Các gia đình quý tộc của thời ấy (khoảng năm 1450 - 1500) thường chứng minh sức mạnh và ảnh hưởng của mình[i] qua các tác phẩm nghệ thuật mà họ bỏ tiền để tài trợ cho các họa sĩ, điêu khắc gia, kiến trúc sư… nhằm làm đẹp các thành phố như Firenze, Milano, Roma… và nhờ đó mà chúng ta có những tác phẩm nghệ thuật hay công trình tuyệt đẹp và giá trị.

Khi ở thành phố Firenze Leonardo đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của mình nhưng tuy vậy ông cũng không tránh khỏi một vài vấn đề. Những tác phẩm mà người ta yêu cầu cần một thời gian thực hiện rất dài nên có một vài bức bích họa chưa kịp hoàn thành, như bức “Ngưỡng mộ các Magi” ( l’Adorazione dei Magi) hay cuộc chiến ở Anghiari nên sau đó bị hủy bỏ và không thực hiện nữa.

Nhưng vì Leonardo đã nhận tiền công trước cho các  tác phẩm này nên ông hiểu là mình phải rời xa thành phố Firenze và tìm sự bảo vệ và tài trợ qua một gia đình quý tộc khác ở Milano, Lodovico Sforza, mà thời đó người ta còn gọi là ông Nâu (il Moro) vì nước da hơi ngâm đen.

Nhưng vì sao mà Leonardo đã không hoàn thành các tác phẩm đã giao? Trên thực tế, thời gian thực hiện dài và lâu không phải vì ông xao lãng hay lười biếng mà chính là do sự tìm kiếm sự hoàn hảo gần như mê cuồng của ông. Bằng tất cả sự khiêm tốn Leonardo giải bày rằng mình chưa nghiên cứu kỹ và ông cần  phải biết chính xác là mình muốn sáng tác điều gì. Sự tiếp tục nghiên cứu của ông để đạt đến sự hoàn thiện đã đưa ông đến việc thử nghiệm các kỹ thuật mới và học hỏi thêm được những tầng kiến thức đa dạng, từ cơ học đến kỹ thuật thực hiện, từ lý thuyết khí động học đến giải phẩu học rất hữu ích cho các nghiên cứu về hội họa hay điêu khắc.

Trước khi gặp Ludovico Sforza ở Milano, Leonardo đã viết cho ông này một bức thư, một thứ lý lịch cá nhân gồm 10 điểm để  trình bày về các kỹ năng của mình liên quan đến việc xây dựng đến cơ học vũ khí chiến tranh, các cây cầu di động…và nói rõ là trong thời bình ông còn có thể vẽ và điêu khắc.

Cho đến lúc ấy Leonardo chưa được nhiều người biết đến tuy nhiên trong bộ tham mưu của Ludovico Sforza Leonardo đã nổi danh như một nhà dàn dựng nhạc kịch sân khấu, như một nhà cấu tạo những cỗ máy quay vĩ đại nhờ dùng hệ thống đòn bẩy, ròng rọc, tay quây hay qua các máy có hình thú vật chuyển động, (như các robot bây giờ) hay các khám phá về các cơ chế gõ đập để tạo ra âm thanh và âm nhạc.

Nhờ những công trình đó cho nên về sau hầu hết các ban tham mưu cho các nhà quý tộc Âu Châu đều nghe danh tiếng của Leonardo  dù có người chưa được tận mắt thấy các tác phẩm xuất sắc của ông về nghệ thuật. Tất nhiên là Leonardo chỉ thích dàn dựng các buổi trình diễn với giàn máy độc đáo của ông với những hiệu ứng đặc biệt, vì ông không thích chiến tranh. Những  cỗ máy chiến tranh được công tước ở Milano yêu cầu nên ông đã vẽ theo mô hình được làm mới theo cấu trúc từ quá khứ, có sử dụng các tư liệu và bản vẽ từ thời trung cổ hay từ thời La Mã, và ông đã vẽ lại các vũ khí mới, thích hợp với việc sử dụng thuốc nổ được khám phá trước đó.

Ngay cả khi ở Firenze người ta đặt hàng cho Leonardo vẽ về trận chiến ở Anghiari, Leonardo đã vẽ bức họa này trên một bức tường lớn một bầy ngựa và xác người trộn lẫn vào nhau để làm nổi bật lên sự tàn bạo và thiếu nhân tính của chiến tranh. Đối với ông chiến tranh là một sự “điên loạn thú vật”. Về bức tranh vĩ đại này hiện nay chỉ còn lại bản phát họa vì ý muốn của Leonardo là dùng các kỹ thuật mới để làm cho thật hoàn hảo nên vô tình đã làm hư tác phẩm. Đó thật là một điều rất đáng tiếc vì nếu còn, ngày nay chúng ta có thể đối chiếu với tác phẩm từ năm 1500 với tác phẩm của họa sĩ trứ danh Pablo Picasso (1881-1973), qua bức tranh nởi tiếng Guernica (1937), vễ trắng đen, đã từng trưng bày ở triển lãm quốc tế tại Paris vào năm 1937.

20190629 daVinci Anghiari

Anghiari (Leonardo)

20190629 GuernicaGuernica (Picasso) 

Thật vô cùng kỳ lạ là hai nghệ sĩ, thuộc hai thời đại khác nhau nhưng đã cùng có những cảm nhận về sự thú vật của chiến tranh. Guernica là thành phố của Tây Ban Nha, lần đầu tiên bị tàn phá vì máy bay thả bom trong lịch sử vào ngày 26 thang 4 năm 1937. Trên bức vẽ của Picasso không có màu sắc, chỉ có 3 màu xám, trắng và đen, bởi bì sau sự tàn phá đó là không còn sự sống.

Cũng giống như bức vẽ cuộc chiến ở Anghiari của Leonardo bây giờ chỉ còn lại bản phát thảo.

Về sau lãnh địa Milano bị Cesare Borgia chinh phục. Ông này chính là người con ngoại hôn của Rodrigo Borgia, sau trở thành Đức giáo hoàng Alessandro VI.

Cesare Borgia là một kẻ khát máu, thích chiến tranh nên lúc ở Milano Leonardo phải làm việc cho ông ta như một kỹ sư quân sự, tuy nhiên Leonardo ít khi chế tạo vũ khí mà dành toàn thời gian để vẽ những bản đồ và các cấu tạo phòng thủ, sau đó ông bỏ trốn về Firenze.

Rồi định mệnh xảy đến cho Cesare Borgia thật tàn khốc. Sau khi cha mình là Đức giáo hoàng Alessandro VI qua đời, mất đi sự che chở nên Cesare phải trốn qua Tây Ban Nha rồi sau bị bắt và bị giết. Leonardo thật đã có lý khi ông viết “kẻ nào không biết quý trọng đời sống, thì không đáng sống”. Như thế, Leonardo không chỉ là một thiên tài, mà còn là một triết gia.

 

Sài Gòn 5/2019

Elena Pucillo Truong

Nguyên tác: "Leonardo da Vinci: Imparare per creare" - Bản dịch của Trương Văn Dân.


[i] Ở Âu châu, nếu không có những nhà tài trợ nghệ sĩ, được gọi là mecenatismo, thì các công trình nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc, hội họa.. tuyệt mỹ làm vinh danh nước Ý và Âu Châu thời Phục Hưng đã không thể hình thành, và chắc chắn những tài danh sẽ bị mai một vì không có cơ hội phát triển tài năng. ( nd)

      Trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng, trước giây phút từ trần, cụ Tú Lãm thì thầm dặn dò hai con của mình là Mai và Huy: “Lẽ tất nhiên, ai cũng phải chết. Các con không nên buồn. Lúc nào cũng phải vui thì mới đủ can đảm, đủ nghị lực mà sống ở đời. Hai con nên theo gương cha. Cha vui đến giờ cuối cùng. Cha hy vọng thế nào các con cũng làm vẻ vang cha, cho linh hồn cha ở nơi chín suối. Cha hy vọng thế nào em Huy cũng được thành tài và trở nên một người hữu dụng cho xã hội. Cha mất đi còn của cải gì để lại cho hai con. Cha chỉ có ba thứ gia bảo này ông cha để lại cho cha, nay cha truyền lại cho hai con mà thôi. Là giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch, và đem hết nghị lực ra làm việc”.

      Là thành viên sáng lập Tự Lực Văn Đoàn, Khái Hưng chắc chắn chia sẻ quan niệm của trường phái văn học này: “Theo mới, hoàn toàn theo mới, không chút do dự” (Mười điều tâm niệm). Tác phẩm của ông, cũng như của Nhất Linh, Hoàng Đạo…, là tiếng nói nghệ thuật phê phán chế độ đại gia đình, đấu tranh cho tự do yêu đương và hôn nhân, cho quyền lựa chọn hạnh phúc của người phụ nữ.

     Thế nhưng, qua hình tượng nghệ thuật, tác phẩm của Khái Hưng cũng cho thấy rằng quan niệm đó không có gì mâu thuẫn với những giá trị tích cực của gia đình Việt Nam, với những “gia bảo” được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đã làm nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Điều đó có thể gọi là nếp nhà Việt Nam.

     Trong xã hội nông nghiệp, cái nhà và nếp sống của người Việt gắn liền với văn hóa làng xã. Một mặt, những nét bảo thủ của tư duy tiểu nông và tâm lý con người bị vây bọc, che khuất giữa bốn lũy tre làng làm cho nếp nhà khó đổi mới trong một thế giới có phần tù đọng. Mặt khác, nếp nhà lại góp phần bảo tồn căn cốt của văn hóa làng xã, họ tộc mà “phép vua” cứng nhắc, khắc nghiệt nhiều khi không lay chuyển được. Lịch sử từng chứng kiến những thế lực đàn áp từ bên ngoài, khi tìm cách phá giềng mối của gia đình, làng xã, đã bị sức mạnh tiềm ẩn bên trong từng ngôi nhà liên kết với nhau để chống trả, khiến nó bị chặn lại ngay ở cổng làng.

Trong thời đại công nghiệp hóa và toàn cầu hóa, nếp nhà bị rung chấn trước làn sóng xâm thực của văn minh đô thị. Ngày trước ông bà chúng ta từng lo âu, thậm chí hoảng hốt trước làn sóng hiện đại hóa. Người thiếu nữ trong thơ Nguyễn Bính chỉ mới ra tỉnh có một ngày, mang về một chút đổi thay, đã khiến người trai làng khổ tâm, hờn dỗi. Ngày nay bao nhiêu người con gái bỏ làng đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc… và mang về những đứa con hai dòng máu trước con mắt ngỡ ngàng của các chàng trai hàng ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Họ đã “mất bao nhiêu người tình” trong cuộc “toàn cầu hóa” dị thường này.

Trong âm thầm, một bộ phận tuổi trẻ đang bứt ra khỏi sợi dây liên kết về tinh thần và nới dần khoảng cách với các thế hệ trước không phải chỉ vì họ đi xa tìm kế mưu sinh, mà vì họ có blog, có facebook để kết nối với một thế giới khác do những quy luật khác điều chỉnh. Toàn cầu hóa đang biến không ít người trẻ trở thành những “người xa lạ”, theo nghĩa hoàn toàn trung tính - nghĩa là chưa định giá là tích cực hay tiêu cực - ngay trên quê hương mình. Không phải quá lời, khi có người nói một cách hình ảnh rằng toàn cầu hóa đang đi vào phòng riêng của từng gia đình.

 Chủ nghĩa cá nhân cực đoan bị lên án không phải vì nó đề cao cá nhân, mà vì nó nó đối lập cá nhân với cộng đồng, đối lập cái riêng với cái chung, một người với mọi người. Trong triết thuyết hiện sinh, nếu có quan niệm xem “địa ngục chính là kẻ khác”, “sống trên đời là chịu đựng sự ngộ nhận”, thì cũng có chủ trương “sống là sống với”, “cá nhân phải hiệp thông với tha nhân”. Dường như là mâu thuẫn và khó hiểu, trong thực tế, chính một số người ra rả kêu gọi bài trừ chủ nghĩa cá nhân lại đang tìm cách thâu tóm mọi lợi quyền về cho cá nhân họ hay cho một nhóm lợi ích nhất định.

Dù sao, trong một gia đình bao giờ cũng có những điểm tương đồng và dị biệt giữa các thành viên. Giữ nếp nhà chính là phát huy cái chung tích cực để thắt chặt sợi dây liên lạc giữa những cá thể. Đôi khi mỗi thành viên phải giảm trừ cái riêng của mình để giữ nếp sống chung của gia đình. Đứng trước những xung đột không mong muốn, cả gia đình cần thảo luận trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau nhằm đi đến một giải pháp mà không thành viên nào cảm thấy mình phải hy sinh hay bị thiệt thòi. Chẳng hạn, ở thành phố hiện nay, đến ngày Tết các bậc cha mẹ luôn mong ước con cháu sum vầy, đoàn tụ; trong khi những người trẻ lại thích tranh thủ kỳ nghỉ dài để đi du lịch, trốn khách khứa. Cách giải quyết hợp tình hợp lý nhất là người trẻ nên dành đêm giao thừa và ngày đầu năm để họp mặt gia đình, chúc Tết ông bà, cha mẹ và khởi hành du lịch sau đó.

Ngược lại, những người cao niên không nên áp đặt quan niệm và lối sống của mình cho con cháu. Thế hệ đến sau có những vấn đề của họ mà những người đi trước, dù có nhiều trải nghiệm hơn, cũng không thể nào giải quyết thay họ được. Thậm chí, sự vấp ngã cũng là cần thiết cho hành trình dài lâu của họ trên cuộc đời này, như ông bà cha mẹ họ đã từng vấp ngã vậy thôi. Trong một số trường hợp, con cái phản ứng lại  cha mẹ không phải vì trong thâm tâm họ phủ nhận ý kiến đúng đắn của bậc sinh thành mà vì họ không chấp nhận thái độ gia trưởng đã không còn phù hợp với thời nay nữa.

Lâu nay một số người hay nói đến nguy cơ của thời mở cửa là hễ mở cửa thì gió mát và gió độc, hương thơm và rác rưởi cùng ùa vào nhà, làm như mở cửa là chuyện bất đắc dĩ. Người ta quên rằng một căn nhà mà đóng cửa kín mít thì người ở sẽ thiếu oxy, ngộp thở, có thể chết. Vấn đề không phải là mở cửa mà là mở cửa về hướng nào, về hướng ánh sáng của văn minh nhân loại hay về hướng bóng tối, hoàng hôn.

Thiết nghĩ, nguy cơ chủ yếu làm xói mòn nếp nhà hài hòa và truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc Việt Nam hiện nay không phải do mở cửa, hội nhập mà là do sự khủng hoảng về niềm tin khiến sợi dây liên lạc giữa các thế hệ bị đứt gãy. Để kết nối sợi dây này, cần phải dựng lại niềm tin từ những tấm gương trong gia đình, nhà trường và xã hội. Nếp nhà chỉ được củng cố vững chắc khi giềng mối xã hội được củng cố; ngược lại nếp nhà được vun đắp thì dân tộc, đất nước có nền tảng vững vàng để đối phó với những biến động và thử thách.

Nguồn: Tạp chí Kiến trúc và Đời sống, số Xuân Kỷ Hợi 2019.

Lời dẫn: Trong thời gian tham dự hội thảo quốc tế “Toàn cầu hóa và châu Á hiện đại” do Đại học Waseda tổ chức vào ngày 22 và 23 tháng 4 năm 2005, Benedict Anderson đã có hai bài nói chuyện quan trọng. Chủ đề buổi nói chuyện thứ nhất xoay quanh Cộng đồng tưởng tượng. Chủ đề buổi nói chuyện thứ hai tập trung vào chủ nghĩa dân tộc, toàn cầu hóa và phong trào vô chính phủ diễn ra tại châu Á giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - những nội dung sẽ được Anderson trình bày chi tiết trong công trình được xuất bản vào cuối năm 2005 Dưới ba ngọn cờ: Phong trào vô chính phủ và tưởng tượng chống thực dân(Under three flags: Anarchism and the Anti-Colonial Imagination). Cả hai bài nói chuyện đều được Umemori Naoyuki dịch sang tiếng Nhật và đưa vào phần đầu cuốn sách Benedict Anderson bàn về toàn cầu hóa (ベネディクトアンダーソングローバリゼーションを語る, Umemori Naoyuki biên soạn, Kobunsha xuất bản, 2007).*Trong hai bài nói chuyện này, bài nói chuyện thứ nhất liên quan trực tiếp hơn cả đến Cộng đồng tưởng tượng, nơi tác giả trình bày lý do trở thành nhà nghiên cứu so sánh, quá trình viết Cộng đồng tưởng tượng, sự khác biệt giữa cuốn sách và các công trình khác xuất bản cùng thời điểm, đặc biệt là việc điều chỉnh và tự phê phán của tác giả sau khi công trình nhận được sự phê bình và đánh giá rộng rãi từ nhiều lĩnh vực chuyên ngành. Nhận thấy đây là một bài nói chuyện quan trọng có thể giúp độc giả hiểu rõ hơn Cộng đồng tưởng tượng và tác giả của nó, chúng tôi quyết định dịch ra tiếng Việt để bạn đọc tham khảo. Các ký tự Latin (I, II…) là do người dịch thêm vào.

20190617 Anderson

Xin cảm ơn lời giới thiệu hết sức nhiệt tình của giáo sưYabushita Shirō(1). Cảm ơn tất cả các bạn đã đến nghe bài nói chuyện của tôi trong ngày xuân tuyệt đẹp này. Tôi rất hạnh phúc và vinh dự trước sự có mặt tại đây của mọi người.

Cộng đồng tưởng tượng đã bỏ trốn

Hôm nay tôi được đề nghị nói về cuốn Cộng đồng tưởng tượng. Cuốn sách này đã có hai mươi hai năm tuổi đời. Có đúng là hai mươi hai năm? Đúng vậy, cuốn sách đã trải qua hai mươi hai năm kể từ khi được xuất bản.

Trước hết tôi muốn nói đến một thực tế mà bất cứ ai từng xuất bản sách đều biết và những ai công bố nghiên cứu của mình chắc chắn sẽ biết trong tương lai. Thực tế đó hết sức giản dị. Nếu đã xuất bản một cuốn sách nào đó thì cuốn sách đó sẽ thoát khỏi sự kiểm soát của bạn. Vì vậy một khi đã xuất bản, nó không còn là thứ của riêng bạn nữa. Với Cộng đồng tưởng tượng, tôi luôn nhận thấy điều đó. Nó cũng giống như đứa con mà tôi rất mực yêu quý bỗng nhiên bỏ trốn cùng người tình xa lạ. Và như vậy tôi chỉ còn biết cách cầu nguyện cho người đàn ông xa lạ kia sẽ coi trọng đứa con của mình. Con tôi đã không còn thuộc về tôi nữa. Tôi đang nhớ lại đứa con hai mươi hai tuổi đời này. Đó là một người con đã biết tự lập và có lẽ nó sẽ tồn tại với những đứa con của riêng mình. Giữa tôi và nó không còn sự đồng cảm nữa. Điều này tôi sẽ đề cập đến sau.

Có một điều nữa mà tôi muốn nói đến trước hết. Tôi đã viết về quãng thời gian thanh niên của tôi trong bài viết gửi tới mọi người, song không phải vì tự hào mà tôi viết cho các bạn như vậy. Lý do tôi đề cập đến tiểu sử của bản thân là vì có nhiều người đang hiểu sai về tôi.

Mọi người đều nghĩ tôi là người Mỹ. Nhưng thực tế không phải. Nhiều người cho tôi là một nhà nhân học, điều này cũng không chính xác. Tôi cũng bị gán nhầm thành sử gia, bị hiểu nhầm thành nhà phê bình văn học. Vì vậy tôi chỉ muốn loại bỏ những hiểu lầm đó mà thôi.

Tôi đã vượt lên những giới hạn chuyên ngành và kinh qua nhiều lĩnh vực, tôi cũng vượt qua biên giới quốc gia và di chuyển khắp đó đây. Đó là điều mà tôi cảm thấy rất vui. Tuy nhiên xét về mặt logic, có thể nói tôi được đào tạo trong hai lĩnh vực là khoa học chính trị và nghiên cứu cổ điển (classical languages) (2). Sau khi xác định hai lĩnh vực này là chuyên môn của mình, tôi đã trở thành một nhà nghiên cứu hết sức lệch tâm. Bởi vậy tôi trở thành một ví dụ rõ rệt cho khái niệm lai ghép (hybrid).

Hoàn cảnh gia đình phức tạp và giáo dục phổ thông

Một điều may mắn là tôi xuất thân từ một bối cảnh gia đình phức tạp. Cha tôi là người Ireland, mẹ tôi là người Anh. Trước 1921, Ireland từng là thuộc địa của Anh. Thời điểm Ireland giành được độc lập, cha tôi mới 28 tuổi. Xét theo một ý nghĩa nào đó, bản thân cha tôi cũng có thể coi là một hiện tượng lai ghép. Dòng dõi bà tôi là những tín đồ Cơ đốc chính cống xa xưa ở Ireland, họ đều là những thành viên hoạt động sôi nổi cho phong trào dân tộc chủ nghĩa từ 1799 đến 1890, bất kể hợp pháp hay phi pháp. Trong khi đó dòng dõi ông tôi đã có được đất định cư từ nửa sau thế kỷ XVII, họ là những “người nhập cư”, dần trở thành  “những cư dân Ireland gốc Anh trung thành” và cung cấp nhiều binh sĩ cho Đế quốc Anh ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Sự kết hợp giữa hai dòng dõi này diễn ra vào khoảng 1850. Phả hệ dân tộc chủ nghĩa đã kết hợp cùng phả hệ đế quốc chủ nghĩa. Chính vì sự kết hợp này, cha tôi đã sinh ra trong một gia đình thiếu tá của Đế quốc Anh vào năm 1893 tại Penang. Đó là nơi tập trung những quân nhân không còn tại ngũ. Ngoài ra, dòng dõi Ireland còn là sự pha trộn giữa các tín đồ Tin lành và Cơ đốc. Ngay từ nhỏ tôi đã được lui tới giữa giáo hội hai bên.

Phần lớn cuộc đời cha tôi sống tại Trung Quốc. Từ 1914 đến 1941, cha tôi là viên chức hải quan của Đế quốc Anh, có thể nói và sử dụng thành thạo Trung văn. Mặc dù yêu quý Trung Quốc và người Trung Quốc, cha tôi lại căm ghét bộ máy chính quyền mà mình làm việc. Tôi đã sinh ra tại Côn Minh của Trung Quốc vào năm 1936 trong bối cảnh gia đình như thế.

Ngay trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cha tôi lâm bệnh nặng và mong muốn đưa cả gia đình trở về Ireland. Tuy nhiên do cuộc chiến tranh tàu ngầm đang diễn ra dữ dội ở Đại Tây Dương, gia đình chúng tôi buộc phải ở lại Mỹ ba năm. Em gái tôi đã ra đời tại đó. Tôi được đi học lần đầu tại một ngôi trường tồi tệ ở California.

Năm 1945, chúng tôi rốt cuộc cũng được trở về quê nhà. Năm sau cha tôi mất, khi tôi mới mười tuổi. Sau khi cha mất, mẹ tôi quyết định ở lại Ireland và cho tôi đi học dưới sự kèm cặp của một gia sư dạy tiếng Latin. Cuối cùng tôi được học tại một trường tiểu học tốp đầu của Anh. Cảm giác của tôi lúc đó vẫn rất Ireland. Tại đây tôi đã giành được một suất học bổng để đến học tại trường trung học danh tiếng nhất nước Anh (3). Trường tôi học lúc đó dĩ nhiên chỉ là trường dành cho nam sinh và toàn bộ chương trình đều dạy về nghiên cứu cổ đại cổ điển, ngôn ngữ và văn học hiện đại, và lịch sử châu Âu. Tôi đã học tập trong một môi trường giáo dục như thế và tương đối thành thạo tiếng Hy Lạp và tiếng Pháp.

Ảnh hưởng của giáo dục đại học

Tôi học một năm kinh tế học tại đại học Cambridge. Song tôi chẳng có mấy hứng thú và tâm đắc. Bởi vậy tôi đã quyết định trở lại với nghiên cứu cổ điển. Vì lĩnh vực đó đơn giản đối với tôi.

Lúc đó tôi đã dành hầu hết thời gian để đọc những cuốn sách mà mình thấy hứng thú, hơn một nửa trong số đó là sách liên quan đến văn học và lịch sử châu Âu. Tôi cũng học một ít tiếng Nga và tiếng Đức. Điều cần nói ở đây là nền giáo dục mà tôi được thu nhận này, một nền giáo dục nhằm biến thanh niên thành quan chức, nhà ngoại giao và giáo sư, lại cực kì truyền thống và bảo thủ. Tuy nhiên ngay sau khi tôi tốt nghiệp, nền giáo dục đó đã được hiện đại hóa. Nghiên cứu cổ điển bị đẩy ra ngoài lề, trong khi những chuyên ngành mới như nhân học và xã hội học đã bắt đầu xuất hiện. Hơn nữa vào thời điểm tốt nghiệp, ngoài ý nghĩ không muốn trở thành công chức, tôi cũng không thật rõ mình nên làm gì tiếp theo.

Tình cờ tôi được rủ rê làm việc một năm tại đại học Cornell của Mỹ. Đó là giúp một người bạn dạy chính trị học. Nhưng dạy chính trị học lại là công việc mà tôi hoàn toàn không có chút nền tảng.

Đó là thời kỳ mà Indonesia gây náo động tin tức(4), bởi lẽ CIA đang đứng sau ủng hộ cuộc nội chiến kéo dài từ 1958 đến 1959. Đại học Cornell vào thời điểm ấy có George Kahin,5một chuyên gia nổi tiếng về chính trị Đông Nam Á, cũng là nơi xây dựng một trong hai chương trình nghiên cứu Đông Nam Á duy nhất trên thế giới.6 Đây là lĩnh vực mà tôi cảm thấy hết sức thú vị. Tôi hứng thú với các giáo viên và hào hứng được học tiếng Indonesia hiện đại.

Như vậy để thực hiện chương trình tiến sĩ chính trị học, tôi đã quyết định ở đây. Nước Mỹ lúc bấy giờ đang ở vào thời kỳ diễn ra chiến tranh Việt Nam và phong trào đòi quyền công dân. Cả hai đều có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi. Điều tình cờ là ý thức chính trị của tôi lại chính là chủ nghĩa chống đế quốc và chủ nghĩa dân tộc thân Á thuần phác.

Hôm nay tôi sẽ chia ra một số phần để nói như sau. Trước hết, tôi sẽ trình bày một cách giản lược tại sao tôi trở thành nhà nghiên cứu so sánh và trở thành như thế nào, mặc dù tôi hoàn toàn không chủ ý.

Thứ hai tôi sẽ trình bày chi tiết Cộng đồng tưởng tượng đã được hoàn thành ra sao.

Thứ ba điều mà tôi hy vọng các bạn sẽ hứng thú -là tôi sẽ nói về đứa con của tôi đã thay đổi như thế nào sau khi rời tay tôi, nghĩa là Cộng đồng tưởng tượng đã được bạn đọc tiếp thu ra sao.

Và cuối cùng, có lẽ cũng là điều quan trọng nhất, là tôi muốn phê phán một chút bản thân tôi. Tôi đã bị phê phán như thế nào? Phản ứng của tôi trước các phê phán ra sao? Tôi cho rằng một tật xấu của giới học giả là không thừa nhận ai cũng “từng sai”. Sẽ là ngu ngốc nếu vẫn giữ mãi điều mà hai mươi năm trước từng nói hoặc tìm cách nói rằng mình đã liều mạng phát ngôn nó. Tôi nghĩ rằng một người mà ngày hôm nay vẫn luôn nói về những điều đã nói hai mươi năm trước thì người đó cần thấy hổ thẹn với bản thân mình. Ngược lại giờ đây cũng có người vờ như cái điều mà họ đã phát ngôn mười năm trước chỉ là do lỡ lời, dù thực tế không có chuyện đó. Sở dĩ tôi tự phê phán ở đây, xét theo một ý nghĩa nào đó, là bởi tôi muốn tuyên bố rằng bất cứ lúc nào chúng ta cũng cần có sự chuẩn bị để nói rằng mình “từng sai”.

Tôi muốn điều chỉnh những nhầm lẫn mà mình đã phạm phải. Bởi lẽ mắc sai sót tuyệt nhiên không phải là điều gì xấu xa.

I. KHỞI ĐẦU CỦA NGHIÊN CỨU SO SÁNH

Chủ nghĩa đế quốc và nghiên cứu so sánh

Trước hết tại sao tôi lại trở thành người nghiên cứu so sánh? Ngoài lý do sinh ra tại Trung Quốc, cha mẹ có xuất thân từ các nước khác nhau và được giáo dục trong một hệ thống văn hóa và giáo dục mà chính việc học ngôn ngữ được cho là điều quan trọng nhất, tôi xin được nói về những lý do quan trọng hơn. Tôi cũng loại trừ lý do mình được đào tạo về cổ điển. Tất nhiên, lĩnh vực nghiên cứu so sánh này cũng đòi hỏi phải có một cảm giác nhạy bén đối với thời cổ đại cổ điển.

Bước ngoặt thực sự đối với tôi diễn ra vào thời điểm quyết định trở thành nhà chính trị học tại Hoa Kỳ sau những năm 1950. Điều cần nhấn mạnh hơn, đó đồng thời cũng là quyết định trở thành một chuyên gia về Indonesia.

Điều cần nói ở đây là xét theo nhiều ý nghĩa, tôi là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Ở đây cần phải hiểu rằng lập trường của Mỹ ở khu vực châu Á khác với hầu hết lập trường của các quốc gia đế quốc chủ nghĩa khác. Mỹ là nước duy nhất có tham vọng kiểm soát toàn bộ châu Á (hiện nay vẫn thế). Nghĩa là Philippines chỉ là một nhân tố nhỏ của tham vọng đó mà thôi.

Thứ hai, mục tiêu chiến lược cơ bản của Mỹ sau Thế chiến thứ hai về căn bản là loại bỏ các nước châu Âu:Anh, Pháp, Hà Lan ra khỏi châu Á và thay thế các nước đó bằng bá quyền toàn diện của Mỹ. Không một nước nào của châu Âu có khả năng và mục tiêu lớn như thế. Nước duy nhất từng có tham vọng đó là Nhật Bản. Từ 1942 đến 1945, Nhật từng bước tiến hành chiếm đóng quân sự trên toàn Đông Nam Á. Tuy nhiên Nhật không đủ khả năng để duy trì sự chiếm đóng đó.

Điều này có nghĩa rằng chương trình nghiên cứu Đông Nam Á tại Mỹ lúc đó không chỉ có đối tượng là thuộc địa của Mỹ, tức không chỉ có Philippines. Khi chuyên về Đông Nam Á, nếu bạn là sinh viên Hà Lan, bạn sẽ tìm hiểu về Đông Ấn thuộc Hà Lan (nay là Indonesia), nếu là sinh viên của Anh bạn sẽ nghiên cứu về Myanmar và Singapore, nếu là sinh viên của Pháp bạn sẽ tìm hiểu Việt Nam và Campuchia. Tuy nhiên nếu là người Mỹ, trong bối cảnh chiến tranh lạnh, thì bạn sẽ nghiên cứu tất cả các nước này. Điều này giải thích tại sao nghiên cứu Đông Nam Á lại được triển khai trước hết tại Nhật Bản và Mỹ. Chỉ có hai nước này mới có tham vọng đế chế áp đặt toàn bộ khu vực dưới sự kiểm soát của mình.

Từ góc nhìn của người học, ưu điểm lớn nhất của hình thái nghiên cứu này là bạn không được phép chỉ học về một nước nào đó. Nghĩa là việc giảng dạy thường được thực hiện dựa trên cơ sở so sánh: nhân học so sánh, chính trị học so sánh, sử học so sánh, kinh tế học so sánh. Dù không thích đọc sách về Singapore, bạn cũng phải đọc về Singapore. Dù không hứng thú với Việt Nam, bạn cũng phải đọc sách về Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã thúc đẩy tất cả chúng tôi trở thành những nhà nghiên cứu so sánh.

Khởi đầu của nghiên cứu Đông Nam Á

Ở Mỹ lúc đó lĩnh vực chi phối nghiên cứu Indonesia cũng như nghiên cứu Đông Nam Á nói chung trước hết là nhân học xã hội văn hóa, tiếp đến là chính trị học, cuối cùng là sử học và kinh tế học. Không có chuyên ngành nào liên quan đến văn học hiện đại. Bởi vậy tôi đã đọc nhiều tài liệu, đặc biệt là về nhân học. Và vì rất thích nhân học, tôi cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ chính lĩnh vực này.

Tôi học chung với một người bạn thân là Siegel James (7). Ông là một nhà nhân học vĩ đại, thực sự sáng tạo, chuyên nghiên cứu về Indonesia (8). Nghiên cứu Đông Nam Á ở đại học Cornell đã xuất hiện một cách nổi bật trong bối cảnh có tính quốc tế như thế. Trong những người mà tôi được học có giáo viên người Mỹ, người Anh và người Pháp. Dạy hay nhất trong số đó là một giáo viên người Nga lưu vong gốc Do Thái. Bà là một trí thức kỳ lạ, một vũ công chuyên nghiệp, đồng thời là một nhà phê bình nghệ thuật. Bà cũngtừng sống nhiều năm tại Indonesia thời kỳ thuộc địa. Sinh viên đến học cũng xuất thân từ nhiều quốc gia. Ngoài sinh viên Mỹ, còn có sinh viên Canada, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và sinh viên của gần như tất cả các nước Đông Nam Á. Hầu như không có khóa học nào chỉ dạy về một nước duy nhất. Gần như tất cả đều so sánh trong nội bộ Đông Nam Á. Chúng tôi, như thế, đã được đào tạo để vượt qua biên giới quốc gia và vượt qua các lĩnh vực chuyên ngành.

Đối với những người được đào tạo về ngôn ngữ và văn học thì vị giáo viên người Nga Holt Clare (9) đó là một người rất đặc biệt. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau về nhiều vấn đề của văn học châu Âu, văn hóa Java, nghệ thuật hiện đại và nghệ thuật truyền thống. Vào thời điểm đó, trên thế giới chỉ có tại đây mới mở ra khả năng này cho người học.

Hình ảnh của Việt Nam và Indonesia

Cũng có cái lợi khi trở thành người nghiên cứu so sánh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam -phần đông chúng tôi lúc đó đều phản đối chiến tranh -chúng tôi không hề thấy ngại ngùng, vẫn đi khắp nơi và tỏ vẻ là những chuyên gia về Việt Nam để diễn giảng về Việt Nam. Nhưng tuyệt đối không có chuyện chúng tôi tự nhận mình là những chuyên gia về Việt Nam. Chúng tôi chỉ có thể gọi mình là “những nhà nghiên cứu Đông Nam Á trẻ tuổi”. Khi đó những người Mỹ tốt tính đã nói thế này: “Ồ, đó là nơi nào vậy? Việt Nam cũng nằm ở đó à? Vậy là đủ rồi”. Thực tế chúng tôi là những nhà nghiên cứu Đông Nam Á, không phải chuyên gia về Việt Nam, nhưng dù sao bằng cách đó, chúng tôi đã có cơ hội được diễn thuyết về Việt Nam. Đây là một điều may mắn và là một trong những lợi thế quan trọng nhất.

Một lý do nữa của việc trở thành người nghiên cứu so sánh, như tôi vừa nói, là ở Mỹ lúc đó gần như không tồn tại sự cạnh tranh và ngăn cách giữa các lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến Đông Nam Á, khu vực mà mọi người hầu như đều không biết đến. Bên cạnh việc học các chủ đề về kinh tế, tất cả chúng tôi còn tham gia các lớp nhân học, kinh tế học và sử học. Trên thực tế, các luận văn cao học xuất sắc được thực hiện không phải trong lĩnh vực chính trị học mà chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế học và nhân học. Mọi người đều có một cảm giác linh động như thế đối với các lĩnh vực chuyên ngành mới. Tôi cũng may mắn khi được hưởng lợi từ đó.

Tuy nhiên hệ thống đó cũng có khuyết điểm nghiêm trọng. Nghiên cứu Đông Nam Á của Mỹ ngay từ đầu đã là một dự án đế quốc chủ nghĩa. Trước khi thâm nhập khu vực này, Mỹ hầu như không quan tâm đến Đông Nam Á. Những nội dung về văn học và văn hóa hoàn toàn không được để mắt tới. Từ những năm 1950 đến đầu những năm 1960, ở Mỹ không hề có một khóa học nào về những nội dung văn hóa (trong đó có văn học) của khu vực này. Những khóa học như thế là vô ích và cũng không có ai quan tâm.

Đây là những lý do giải thích tại sao tôi buộc phải trở thành người nghiên cứu so sánh. Nhưng cũng phải nói thêm một lý do nữa.

Năm 1962, tôi qua Indonesia, đất nước mà tôi đã đem lòng yêu mến. Trong hai năm rưỡi lưu trú tại Indo, tôi đã trải qua một khoảng thời gian tuyệt diệu và vui vẻ. Lúc đó tôi tin rằng mình sẽ dành toàn bộ phần đời còn lại để sống trong tư cách một chuyên gia về Indonesia.

Nhưng một cuộc chính biến bi kịch đã diễn ra tại Indo lúc đó. Hẳn trong số các bạn cũng có người vẫn nhớ, ngày mùng 1 tháng 10 năm 1965, một cuộc đảo chính đã được trù tính, khiến một số tướng lĩnh quân đội bị sát hại. Sau đảo chính Suharto lên nắm quyền lực. Suharto đã thực hiện hàng loạt vụ tàn sát, khiến ít nhất 500 ngàn người được cho là của phe cánh tả bị giết chết. Sau khi lật đổ chính quyền Sukarno, Suharto đã thiết lập một chính quyền độc tài kéo dài 32 năm.

Sự kiện này đã ảnh hưởng tới tôi theo nhiều ý nghĩa. Ảnh hưởng lớn nhất là việc tôi bị trục xuất khỏi Indonesia và bị cấm nhập cảnh trong vòng 27 năm (10) (chuyện này tôi đã viết trong sách, nếu các bạn đã đọc thì tôi không cần phải giải thích thêm). Ngay từ đầu tôi đã dự đoán việc cấm nhập cảnh sẽ kéo dài. Vì vậy lúc đó tôi phải quyết định mình sẽ làm gì tiếp theo. Việc nghĩ tới nghiên cứu các quốc gia khác của khu vực Đông Nam Á là một điều tự nhiên. Bởi vậy tôi đã nghiên cứu Thái Lan từ những năm 1970 đến đầu những năm 1980, sau đó xúc tiến nghiên cứu Philippinesđến đầu những năm 1990.

Nhờ có Suharto, tôi có được cơ hội hết sức thú vị để so sánh ba quốc gia này (11). Indonesia là một nước Hồi giáo, theo thế chế cộng hòa, và nếu mượn lời của Tổng thống Bush, là một cựu thuộc địa. Thái Lan là quốc gia Phật giáo, theo chế độ quân chủ và không có kinh nghiệm bị thực dân hóa. Philipines là một cựu thuộc địa, theo Thiên chúa giáo, đang dần chuyển đổi sang thế chế cộng hòa. Việc đối sánh giữa ba quốc gia được thực hiện một cách ráo riết và điều đó đã khiến cho suy tư so sánh trở nên kích thích và thú vị.

Du hành để hiểu bản thân

Một tiểu thuyết gia nổi tiếng của Na Uy từng nói “Cơ hội duy nhất để hiểu chính mình là khi lên tàu và ngắm nhìn phong cảnh xa xăm”. Theo nhà văn này, những chuyến đi chính là nguồn cội cho một dạng tự nhận thức nào đó. Điều này là sự thực.

Khi ở Indonesia, trong đầu tôi thường xuất hiện suy nghĩ rằng “Đây thực sự là một thế giới mới đối với tôi. Ở đây tôi sẽ cảm nhận ra sao cái thế giới mà tôi đã từng sống?”

Khi nói lên cảm giác này tôi thường sử dụng ẩn dụ về kính viễn vọng. Nếu thử nhìn qua kính viễn vọng, những chỗ mà ta thấy nhỏ sẽ nhanh chóng được phóng to. Nhưng giả sử quay ngược kính viễn vọng thì điều gì sẽ xảy ra? Những nhà khoa học như chúng tôi chính là những kẻ đi tìm những điều như thế. Nếu nhìn em trai và em gái ở gần mình qua những thấu kính lớn thì điều gì sẽ xảy ra? Họ sẽ trở nên nhỏ xíu. Chúng ta hãy thử nhìn nước Mỹ qua kính viễn vọng. Đất nước duyên dáng này sẽ trở nên rất nhỏ. Sự khác biệt này là do chúng ta nhìn kính viễn vọng từ phía nào.

Dự án so sánh của tôi không chỉ là dự án có tính hình thức. Học cái gì tại nơi đã đến thì phải mang cái đó trở về, rồi đối sánh nơi mà “mình” đang sống với nơi mà “mình” đang nghiên cứu, là những điều mà tôi nghĩ tới trong dự án. Có người nói với tôi “Hầu hết các nghiên cứu của ông đều giống một sự phiên dịch”. Ý người đó muốn nói là “À kể ra cũng tốt, nhưng không phải là những nghiên cứu quan trọng”. Nhưng khi bị nói như thế, tôi lại thấy rất hài lòng. Bởi đó là điều mà tôi muốn làm. Bởi lẽ khi tự mình nghiên cứu, tôi chỉ muốn đưa trở về châu Âu và Mỹ những điều đã phát hiện được.

II. SỰ LAN TRUYỀN CỦA NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA DÂN TỘC

Thời kỳ tăm tối của nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc

Trên đây là nội dung đầu tiên. Nội dung tiếp theo là về việc viết Cộng đồng tưởng tượng. Tôi sẽ trình bày một cách hết sức ngắn gọn, bởi mọi người đều biết nhiều thông tin về cuốn sách. Điều tôi muốn nói đến là điểm sau đây.

Trên thực tế kể từ sau khi kết thúc Thế chiến thứ hai cho đến những năm 1980, chủ nghĩa dân tộc chỉ là một khái niệm đáng ngờ. Việc chứng kiến trực tiếp những hành động tàn bạo của Hitler, của nhiều nhà dân tộc chủ nghĩa và các chính quyền Phát xít chính là nguyên nhân dẫn đến điều này. Một lý do khác là sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc theo đường hướng quân phiệt chủ nghĩa của Nhật Bản. Ngoài ra nhiều hành động ghê rợn cũng được thực hiện tại Trung Quốc và nhiều khu vực khác. Hệ quả là khái niệm chủ nghĩa dân tộc, trong một ý nghĩa nào đó, bị coi là một khái niệm phản động, lạc hậu, không còn có giá trị nghiên cứu. Hơn nữa, viễn cảnh thành lập cộng đồng châu Âu cũng gia cố cho khuynh hướng này.

Hoa Kỳ hiển nhiên có những phản ứng cực kỳ dân tộc chủ nghĩa đối với những người ngoại lai, nhưng lại hứng chịu một cú sốc như thể bị tấn công bởi cơn sóng thần của Đức quốc xã, chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Họ không hề nghĩ họ thuộc vềchủ nghĩa dân tộc. Họ nghĩ họ thuộc về chủ nghĩa dân chủ. Bởi chủ nghĩa dân chủ mang tính phổ biến, không phải tính địa phương. Vì vậy họ không hề trải nghiệm trực tiếp chủ nghĩa dân tộc.

Thời tôi là sinh viên, trường đại học không có một khóa học nào về chủ nghĩa dân tộc. Tôi đã hỏi một đồng sự người Mỹ - một người phụ nữ rất xuất sắc và tuyệt vời -  “bà có thể giới thiệu cho tôi một cuốn sách tốt nhất viết về chủ nghĩa dân tộc Mỹ được không?”. Bà nhìn tôi với một ánh mắt hoài nghi như thể tôi vừa hỏi một câu hỏi rất điên rồ. Sau đó bà đưa cho tôi mấy cuốn sách được viết vào thế kỷ XIX và nói với tôi “Có lẽ có cái để đọc trong những cuốn sách này”. Thú thực là tôi rất ngạc nhiên. Hầu hết những cuốn sách mà bà gửi tôi đều mang một chủ nghĩa dân tộc đẹp đẽ và về cơ bản đều được viết từ quan điểm của Mỹ hoặc Anh. Tôi cảm thấy một sự gần gũi nhau giữa các nước thân cận. Trong khi đó người ta nghĩ rằng cũng tồn tại một chủ nghĩa dân tộc xấu xí. Nó trở nên xấu xí tới mức lan sang cả phía Đông: Nga, Ba Lan, Trung Quốc, Nhật Bản. Càng tiến về phía Đông nó càng nhanh chóng bị coi là một thứ xấu xí. Cái được cho là nghiên cứu thực thụ trở nên lúng túng và không có tính lý thuyết.

Làn sóng mới của chủ nghĩa dân tộc

Tuy nhiên đến những năm 1970, tình hình bắt đầu thay đổi. Thực sự phải đến thời điểm đó. Từ những năm 60 đến những năm 70, nhiều khu vực trên khắp thế giới đã giành được độc lập từ tay thực dân. Thời kỳ giải phóng thuộc địa kết thúc bằng sự sụp đổ của đế quốc Bồ Đào Nha từ năm 74 đến năm 75. (12). Tính đến năm 75, hầu hết các thuộc địa đều giành được độc lập. Vì lý do này mà ngày nay có gần 200 nước là thành viên Liên hợp quốc (13). Chúng ta không thể bỏ qua cư dân những nước mới giành được độc lập này.

Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn là nhiều chủ nghĩa dân tộc đã bắt đầu hình thành bên trong các quốc gia dân tộc chủ yếu của châu Âu: Scotland, Wales, Catalonia và Basque của Tây Ban Nha, Bretagne, Sicilia (14). Ai cũng kinh ngạc trước điều này. Mọi người đều phát hiện thấy một phong trào dân tộc chủ nghĩa của khu vực đã bùng phát một cách mạnh mẽ không ngờ tới ngay tại các quốc gia mà chủ nghĩa dân tộc bị coi là đã phát triển đến điểm lạc hậu.

Giả sử tờ Ashahi đăng những bản tin kiểu như “các phong trào đòi độc lập của Shikoku bất ngờ nổ ra” hay “phải là Hokkaido vì người Hokkaido” thì mọi người sẽ sửng sốt đúng không? Tuy nhiên ai cũng cảm thấy thế trước cú sốc lúc này. Mọi người đều hoang mang và bất an. Nhờ hai yếu tố là độc lập của thuộc địa và chủ nghĩa dân tộc khu vực, mọi người sẽ nhận thức khác đi về tầm quan trọng của một cách hiểu mới về chủ nghĩa dân tộc.

Thế nhưng điều này không hề ảnh hưởng tới Mỹ, bởi ở Mỹ không tồn tại các phong trào dân tộc chủ nghĩa mới. Nhìn chung Mỹ không có đóng góp gì cho sự phát triển của lý thuyết chủ nghĩa dân tộc. Một điều ngẫu nhiên là nơi hiện diện đông nhất các nhà nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc - có lẽ nằm ngoài suy đoán - không phải là Pháp hay Đức mà là Anh.

Vào đầu những năm 1980, không chỉ cuốn sách của tôi mà còn nhiều công trình nổi tiếng sau đó về chủ nghĩa dân tộc cũng được xuất bản. Đó là cuốn sách chọn mốc nghiên cứu từ sau 1788 của Hobsbawm (15) và nhiều công trình của các tác giả khác.

Một điều rất thú vị liên quan đến tác giả của những cuốn sách được xuất bản vào thời kỳ này đó là phần đa họ đều là người Do Thái và phần đa họ đều có những trải nghiệm sống lâu dài ở châu Âu đại lục. Anthony D. Smith( 16) cũng nằm trong số đó. Gellner (17) có xuất thân Tiệp Khắc cũ, còn Hobsbawm từng sống tại Áo và Đức trong phần lớn thời kỳ thanh niên. Tất cả họ đều có những suy nghĩ được coi là chân lý của thời đại đó, tức đều duy trì một nhận thức rằng chủ nghĩa dân tộc là mối đe dọa đối với người Do Thái, chủ nghĩa dân tộc đồng nghĩa với chủ nghĩa bài Do Thái. Bởi vậy họ đều cảm thấy gắn bó với những đơn vị chính trị tồn tại trước chủ nghĩa dân tộc. Đế quốc Áo Hung và đế quốc Anh, do tính chất ấy, không được coi là dân tộc, và vì thế không phải là một quốc gia dân tộc.

Cuộc tranh luận tại Anh và cuộc chiến tranh của châu Á

Tôi vẫn nhớ năm 1982 - và có lẽ các bạn cũng nhớ - Tom Nairn (18) đã viết một cuốn sách quan trọng Sự tan rã của Vương quốc Anh, cho rằng vương quốc liên hiệp Anh sẽ dần tan rã - kỷ nguyên của Đại Anh đã kết thúc, đế quốc sẽ bị giải thể, Scotland, xứ Wales sẽ giành được độc lập. Lý do Tom Nairn viết cuốn sách này là vì bản thân ông cũng là một nhà dân tộc chủ nghĩa. Ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành của Scotland.

Tất nhiên cuốn sách này được viết từ một góc nhìn mới. Công trình của Nairn được viết với ý đồ tạo nên một cú sốc gây chấn động, và xét theo một ý nghĩa tích cực, nó đã tạo nên một cú sốc như thế. Ai cũng tham gia tranh luận xoay quanh cuốn sách này.

Trong bối cảnh đó, em trai tôi (19) - người biên tập tạp chí New Left Review -đã đề xuất với tôi “Anh thử nói một cái gì đó để góp thêm tranh luận xem sao”. Đây là một trong những lý do giải thích tại sao Cộng đồng tưởng tượng lại được viết để hướng đến độc giả của Anh. Nó được viết với mục đích đó vì New Left Review chính là nơi diễn ra các tranh luận nảy lửa nhất về cuốn sách của Nairn.

Có một chuyện thú vị khi đó. Tôi nhận được một bức thư tuyệt vời của một nhà phê bình nọ, trong thư bà viết rằng “Tôi rất thích cuốn sách của ông, song nó lại thiếu công bằng khi không dành sự tôn xưng cho các thành viên của hoàng gia Anh”. Khi đề cập đến danh xưng của tất cả các quý tộc vương hầu châu Âu ngoại trừ Anh, tôi thường viết “Luis XIV”, “Wilhelm III”, nhưng khi đề cập đến các thành viên của hoàng gia Anh, tôi đã không xưng theo lệ thường mà xưng “Anna Stuart”, “Elizabeth Tudor”. Nhà phê bình đã gửi cho tôi bức thư đó coi đây là một hành động rất khiếm nhã. Hiển nhiên đó là mục đích của tôi. Khiếm nhã ư, có gì là xấu?

Cộng đồng tưởng tượng đã được viết trong bối cảnh như thế, song trên thực tế còn có một lý do nữa khiến tôi chấp bút.

Giai đoạn 1979-1980 đã nổ ra các cuộc xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, giữa Việt Nam và Campuchia, ba nước cộng sản từng có cam kết với phong trào dân tộc chủ nghĩa của quốc tế. Không một nước nào trong số ba nước này hợp thức hóa các cuộc chiến tranh bằng một khái niệm Marxist có thể biện hộ cho chính họ. Với tư cách một nhà nghiên cứu Đông Nam Á, tôi buộc phải suy nghĩ tại sao chúng lại nổ ra. Chính quyền của ba nước này đã đưa ra những lý do rất đáng chú ý. Họ chắc chắn đề cao chủ nghĩa Marx, nhưng thay vì khẩu chiến về khái niệm đoàn kết quốc tế, họ lại phát động chiến tranh bằng cách thức tương tự các nước châu Âu. Tại sao xung đột lại nổ ra như vậy, đó là điều buộc tôi phải suy nghĩ.

Vượt qua biên giới và nghiên cứu

Bây giờ tôi sẽ trình bày một chút suy nghĩ của mình về sự khác biệt giữa Cộng đồng tưởng tượng và các cuốn sách khác được ấn hành cùng thời gian.

Trước hết các tác giả khác hầu như không có trải nghiệm ở thế giới ngoài châu Âu. Gellner nghiên cứu Bắc Phi, nhưng tôi không nghĩ ông hiểu chính xác tiếng Ả rập. Anthony D. Smith và Hobsbawm học về Mỹ và biết tiếng Tây Ban Nha, nhưng một từ tiếng Indonesia cũng không biết. Không một ai trong số họ hiểu về châu Á. Đây là một khác biệt lớn. Với tôi, châu Á khi đó đã hiện diện trong tư cách một khu vực quan trọng cần được phân tích về mặt lý thuyết.

Thứ hai, các tác giả khác nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc trong tư cách một ý thức hệ chính trị, hay nói cách khác xem chủ nghĩa dân tộc như một chất keo gắn kết xã hội, chẳng hạn trường hợp Gellner, trong khi tôi lại chú ý nhiều hơn đến tính tự trị của xã hội. Nghĩa là Cộng đồng tưởng tượng lý giải chủ nghĩa dân tộc như là một hiện tượng văn hóa. Hiện tượng văn hóa đó sẽ cho thấy chủ nghĩa dân tộc có mối quan hệ như thế nào với hiện đại hóa.

Tôi không tin lắm vào quan điểm của các tác giả khác. Bởi lẽ trong lập luận của mình, họ không thể giải thích vì sao người ta lại cuồng nhiệt và gắn kết như thế với chủ nghĩa dân tộc, lại sẵn sàng hi sinh, bất chấp cả sự sống của mình và dâng hiến không biết mệt mỏi. Để làm rõ được vấn đề này đòi hỏi phải lý giải ở một cấp độ sâu sắc hơn khoa học. Tức là cần phải giải thích sâu sắc hơn, thay vì những nghiên cứu lịch sử thường xuyên có tính bề mặt. Nói cách khác, suy nghĩ của tôi lúc đó là cần phải giải thích chủ nghĩa dân tộc từ góc độ nhân học.

Khác biệt thứ ba là tất cả những nhà nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc này, ngoại trừ Smith, không hẳn đều am hiểu chủ nghĩa Marx. Chắc chắn những công trình của Gellner đã xem xét các khái niệm chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa tư bản trong tư cách những khái niệm quan trọng. Tuy nhiên những gì mà Gellner viết ra lại là một thứ chủ nghĩa tư bản hết sức trừu tượng và cực kỳ mơ hồ. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với Cộng đồng tưởng tượng.

Tôi cảm thấy khái niệm chủ nghĩa tư bản được dùng để lập luận quá rộng và quá chung chung. Bởi vậy tôi đã tập trung vào việc gắn chủ nghĩa tư bản với xuất bản in ấn. Xuất bản, giống như đường và xe ô tô, là những hàng hóa quen thuộc trong cuộc sống. Nhưng đó lại là một hàng hóa hết sức kỳ diệu. Bởi nó có thể trò chuyện, có thể đối thoại với mọi người. Tôi đã sáng tạo ra khái niệm chủ nghĩa tư bản in ấn và đặt khái niệm này vào trung tâm của lập luận.

Trong Cộng đồng tưởng tượng, tôi đã trình bày các lập luận đúng như lý lịch nghiên cứu hỗn hợp của mình. Tôi không chỉ chú ý đến chính trị và kinh tế mà còn chú ý cả văn học.

Không có các thảo luận về văn học trong các nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc lúc đó. Có vẻ như không một ai quan tâm đến lĩnh vực này. Nhưng với tôi tiểu thuyết lại có vai trò quan trọng và tôi tin vào sự tồn tại của một mối quan hệ cơ bản mang tính cấu trúc giữa tiểu thuyết, báo chí và các tự sự về dân tộc. Ba loại hình này xuất hiện gần như cùng lúc. Ta sẽ rút ra một điều gì đó từ thực tế rằng ba loại hình này có hình thức giống nhau về mặt cấu trúc, hơn nữa dù không bị thao túng chúng vẫn có hình thức như thế. Nhờ đem văn học làm một luận điểm quan trọng, Cộng đồng tưởng tượng về sau đã gây hứng thú và nhận được sự chào đón không chỉ từ các chuyên gia chính trị học mà còn từ các chuyên gia phê bình văn học.

Nhận thức về thời gian và không gian

Và cuối cùng, khác với phần đa các tác giả khác, tôi tin rằng để lý giải được chủ nghĩa dân tộc chúng ta cần phải dừng ở cấp độ chiều sâu tinh thần của con người, tức là cấp độ diễn ra nhận thức cội rễ của kinh nghiệm.

Trong cuốn sách này, tôi đã nghiên cứu ý thức về thời gian. Tức là tôi tập trung tìm hiểu con người đã quan niệm như thế nào về thời gian. Vấn đề mà tôi phân tích là nhận thức của con người đã thay đổi ra sao qua thời gian tôn giáo, thời gian thế tục, thời gian của chúng ta dịch chuyển theo lịch biểu và thời gian được đo bằng máy móc số thức.

Về sau tôi mới nhận ra một điều rằng cần phải tìm hiểu cả địa lý bằng cách thức tương tự. Đó là vấn đề không gian, tức không gian đã được quan niệm như thế nào. Mặc dù không có vệ tinh nhân tạo, không có thiên đường, nhưng bằng cách sử dụng hình học người ta vẫn có thể mường tượng ra các quốc gia của mình. Người ta hệt như quan sát từ góc nhìn của Chúa. Cũng giống như bản đồ Nhật Bản nhìn từ vũ trụ.

Còn một điều nữa mà tôi cần nói đến, bởi thời gian sắp hết.

Những người viết sách lý thuyết, xét ở hầu hết ý nghĩa, đều là những người theo chủ nghĩa hiện đại. Gellner, tôi cũng như Hobsbawm đều cho rằng chủ nghĩa dân tộc là một hiện tượng hiện đại. Chỉ có Smith mới tin rằng chủ nghĩa dân tộc là một đơn vị đã tồn tại từ thời cổ đại, phát triển dần dần trong một khoảng thời gian dài.

Tuy nhiên điều cần nói ở đây là nếu như với các học giả quan điểm hiện đại chủ nghĩa này có vị trí chủ đạo, thì với đông đảo mọi người những quan điểm như Smith hiện vẫn chiếm ưu thế áp đảo. Tức là nhiều người vẫn thực sự tin rằng người Trung Quốc đã là người Trung Quốc từ 6.000 năm trước, người Việt Nam vẫn là người Việt Nam từ cổ xưa. Song hầu hết các học giả đều không tin như thế. Bản thân tôi cũng không tin.

Nhưng ở đây có một điều mà Hobsbawm và Gellner khác với tôi, đó là họ có khuynh hướng cho rằng lịch sử cổ đại là những tạo tác thuần túy và không hề có ý nghĩa. Nhờ được đào tạo về mặt văn học bao quát những suy tư của quá khứ (20), tôi cho rằng quá khứ này không phải là một bịa tạo hay tạo tác đơn thuần mà là một hiện tượng hiện thực xét theo một ý nghĩa nhất định nào đó, dù không phải đa phần chân thực. Chẳng hạn, những nhân vật xuất hiện trong các truyện kể như Huckleberry Finn, Hamlet, Hikaru Genji (21), bất kể có thực hay không, đều có vai trò rất quan trọng trong việc lý giải nền văn hóa mà những nhân vật đó thuộc về.

III. NHỮNG BÌNH LUẬN VỀ CỘNG ĐỒNG TƯỞNG TƯỢNG

Sự kết thúc của chiến tranh lạnh và lĩnh vực học thuật mới

Bây giờ tôi sẽ chuyển sang bàn về nội dung thứ ba. Tôi muốn trình bày một cách vắn tắt việc Cộng đồng tưởng tượng đã được tiếp nhận như thế nào. Tức là tôi sẽ nói câu chuyện đứa con của mình đã lớn khôn và điều gì xảy ra đối với nó.

Ban đầu Cộng đồng tưởng tượng được viết nhằm mục địch giới thiệu cuộc tranh luận tại Anh về chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Stalin. Sau khi xuất bản, cuốn sách nhanh chóng nhận được những phê bình thiện chí trên các tờ báo tri thức đương thời (22). Hiện nay ở Anh không còn một tờ báo tri thức nào, nhưng thời đó chắc chắn đã tồn tại một giới báo chí như thế. Điều rất thú vị là ngay sau khi được xuất bản, cuốn sách đã nhận được những bài phê bình của các nhà nhân học văn hóa có lẽ nổi tiếng nhất tại Anh lúc đó, những nhà báo trẻ tuổi ưu tú của Scotland, các cây bút của New Left Review và những nhà Marxist xuất thân từ quần đảo Tây Ấn.

Nếu như ở Anh cuốn sách nhận được sự chào đón của đông đảo các học giả thì ở Mỹ nó hoàn toàn không được tiếp nhận. Không đâu có bài phê bình Cộng đồng tưởng tượng. Ngoài New Left Review và những người ủng hộ Verso - vốn là nhà xuất bản cuốn sách - không một ai biết đến sự tồn tại của Cộng đồng tưởng tượng. Một sự trái ngược rất rõ. Ở phía bên kia Đại Tây Dương, đa phần mọi người đều hứng thú và đều nhanh chóng phản ứng. Trong khi ở phía đối diện, không hề có động tĩnh và không có bất cứ phản ứng nào đối với cuốn sách.

Chỉ một người duy nhất - mà mọi người có lẽ đều biết - đã viết bài phê bình cuốn sách là Ernst Haas (23) của đại học California, học giả từng có một số công trình về cộng đồng châu Âu. Ông viết rằng “Điều duy nhất có thể bình luận ở cuốn sách này là tiêu đề gây chú ý của nó”.

Tuy nhiên tình trạng này đã thay đổi sau đó vì một số lý do thú vị. Lý do đầu tiên và cũng là lý do mà tôi nghĩ quan trọng nhất là thắng lợi của Mỹ trong chiến tranh lạnh. Nói cách khác đó chính là sự sụp đổ của bức tường Berlin.

Những đế quốc dân tộc có quy mô lớn như Mỹ luôn cần những kẻ thù. Nếu như kẻ thù trong quá khứ của nó là chủ nghĩa cộng sản đã biến mất thì cần phải có một đối tượng nào đó đảm trách vai trò kẻ thù. Lúc đó Osama Binladen vẫn chưa xuất hiện. Từ thời điểm bức tường Berlin sụp đổ cho đến khi Osama Binladen xuất hiện, được phân vai kẻ thù của Mỹ là chủ nghĩa dân tộc. Tất nhiên không phải chủ nghĩa dân tộc của Mỹ mà là chủ nghĩa dân tộc của ai đó ngoài Mỹ.

Ở đây tôi xin được kể một câu chuyện thú vị. Vào khoảng năm 1990, các đại học lớn -mà tôi không tiện nêu tên ở đây - đã nhận được những cuộc điện thoại từ các đại học vốn là những viện nghiên cứu lớn chuyên về Xô Viết. Họ có nhờ tôi nói chuyện cho họ. Tôi trả lời “Tôi đâu dám. Tôi không hề biết gì về Liên Xô”. Họ nói “Không phải chuyện đó. Chúng tôi hiểu rất rõ Liên Xô. Ở đây chúng tôi muốn nhờ ông nói chuyện về chủ nghĩa dân tộc”. Tôi hỏi tại sao thì họ trả lời “Tình hình rất khó khăn. Chúng tôi nghiên cứu Liên Xô, nhưng Liên Xô đã tan rã. Sinh viên đã không có, lại chẳng mấy ai quan tâm đến chúng tôi. Không thể kêu gọi được bất cứ ai và bất cứ đâu. Không thể đến Washington, kinh phí nghiên cứu thì bị cắt, tiền nghiên cứu cũng không nhận được, tình hình nói chung rất tồi tệ. Tôi hỏi “Điều đó thì có liên quan gì đến chủ nghĩa dân tộc?”. Họ trả lời tôi một cách thản nhiên “Cần phải đổi mới trang bị. Vì dù sao chủ nghĩa dân tộc cũng là một mối đe dọa mới. Ông có thể đến đây và giúp chúng tôi một tay để thu hút nguồn kinh phí, sinh viên và các nguồn lực khác được không?...”

Điều may mắn là thời kỳ đó đã trôi qua và ngày nay mọi người đang thỏa mãn với kẻ thù mới là chủ nghĩa khủng bố của Hồi giáo. Nhưng trước đây một thời kỳ như thế đã từng tồn tại.

Sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu thực dân

Lý do thứ hai khiến cho chủ nghĩa dân tộc nhận được sự chú ý là sự sụp đổ liên tiếp của các quốc gia. Pakistan phân tách thành hai quốc gia, Nam Việt Nam bị sát nhập vào Bắc Việt, đế quốc Ethiopia của châu Phi sụp đổ (24). Canada cũng đứng bên bờ vực tan rã trong những năm 1990 (25). Có nhiều nguyên do khiến chủ nghĩa dân tộc nhận được sự quan tâm. Đó không chỉ là sự gia tăng những nguy cơ mới. Việc chủ nghĩa cộng sản không còn tồn tại (26), ở một ý nghĩa nào đó, cũng là nguyên nhân chính khiến cho chủ nghĩa dân tộc trở thành một đối tượng nghiên cứu thực sự, làm tăng thêm tầm quan trọng của nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc.

Tuy nhiên, điều thực sự thú vị là cùng với mối quan tâm ngày một sâu sắc đối với chủ nghĩa dân tộc, Cộng đồng tưởng tượng đã nhận được sự phê bình từ nhiều lĩnh vực chuyên ngành. Những phê bình quan trọng hầu như không xuất phát từ chính trị học vốn là lĩnh vực chuyên ngành của tôi. Chúng được viết từ lĩnh vực nhân học, sử học (xét theo một ý nghĩa nào đó) và kỳ lạ thay cả phê bình văn học. Tôi không ngạc nhiên trước các phê bình liên quan đến nhân học. Bởi khi xây dựng các ý tưởng của Cộng đồng tưởng tượng, tôi đã sử dụng nhiều khảo sát của nhân học. Hơn nữa bạn bè của tôi trong lĩnh vực nhân học cũng đông đảo. Tôi cũng không hề bất ngờ trước các phê bình trong lĩnh vực lịch sử. Nhưng tôi lại ngạc nhiên bởi các bài viết trong lĩnh vực phê bình văn học.

Mặc dù đã nghiên cứu nhiều về văn học, nhưng tại sao các nhà phê bình trong lĩnh vực này lại chú ý đến cuốn sách của tôi? Có thể đưa ra một giải thích thú vị về điều này. Ở đây chúng ta thử nghĩ đến đặc trưng học thuật của nước Mỹ. Nếu nhìn vào bản đồ học thuật của các trường đại học Mỹ, có thể thấy hình thành nên trung tâm các lĩnh vực học thuật có vẻ như quan trọng nhất của người Mỹ là khoa học tự nhiên, kinh tế học và xã hội học. Hầu hết những ai chuyên về những lĩnh vực học thuật này đều nghiên cứu ở Mỹ. Nhưng nếu học nhân học người ta chỉ có thể nghiên cứu ở những quốc gia ngoài Mỹ, bởi ở Mỹ không thể làm nghiên cứu về lĩnh vực này. Chính vì vậy các nhà nhân học thường có một cảm quan hết sức quốc tế. Còn với trường hợp phê bình văn học, có lẽ phải chỉ ra rằng đây là một lĩnh vực học thuật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng hiện đại Pháp, chẳng hạn Foucault, Derrida, Baudrillard (27). Ở lĩnh vực này có nhiều người thường rải ăng ten để bắt sóng các xu hướng học thuật của châu Âu.

Hơn nữa tôi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của một nhóm phê bình văn học của Mỹ, nhóm này tập trung nghiên cứu văn hóa học và văn hóa bình dân, chủ trương chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, mà nhân vật khơi mào là Stuart Hall (28) của Đại học Birmingham, một di dân đến từ quần đảo Tây Ấn. Trong bối cảnh này, cuốn sách của tôi được tiếp nhận trước hết trong tư cách một cuốn sách văn hóa học. Cũng có người nói cuốn sách chịu ảnh hưởng rõ rệt của Derrida và Foucault, tức chịu ảnh hưởng của các tác giả hậu cấu trúc và hậu hiện đại. Nhưng khi viết cuốn sách này cả Derrida và Foucault tôi đều chưa hề đọc.

Tuy nhiên tôi buộc phải thú thực như vậy. Đứa con của tôi đã khởi hành lên đường. Nó đã kết hôn với Derrida, đã bỏ tôi sau khi ngoại tình với Stuart Hall. Một điều thú vị phải không? Bản thân tôi nghĩ rằng Cộng đồng tưởng tượng là một công trình thực thụ của chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa Marx, nhưng độc giả lại không tiếp nhận như vậy. Thành thử tôi đã thất bại trong cuộc hôn phối với chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa Marx.

Chủ nghĩa dân tộc của phiên dịch

Kể từ đây Cộng đồng tưởng tượng bắt đầu được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Ta có thể thấy một số mô thức thú vị trong việc phiên dịch cuốn sách. Về cơ bản Cộng đồng tưởng tượng lan tỏa nhờ ba làn sóng sau:

Làn sóng thứ nhất là Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ. Bản dịch tiếng Nhật do được thực hiện bởi hai cựu sinh viên của tôi nên đây là một công trình chung của hai người (29). Bản dịch tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha không phải được xuất bản tại châu Âu mà tại Mỹ Latin. Lý do nằm ở việc đặt vấn đề của các nhà dân tộc chủ nghĩa Mỹ Latin và lịch sử kháng cự lâu dài tại đó. Xuất hiện sau bản Anh văn là bản dịch tiếng Đức. Ở Đức lúc đó, trí thức Anh và văn hóa Anh đang nhận được sự quan tâm mạnh mẽ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, do tác động của phong trào cánh tả, đồng thời do là một khu vực có sự gắn kết mật thiết, người ta cũng đòi hỏi sự xuất hiện của một bản dịch Cộng đồng tưởng tượng.

Làn sóng tiếp theo diễn ra theo một đường hướng kỳ lạ. Làn sóng này dâng cao do sự đòi hỏi đối với chính chủ nghĩa dân tộc. Chẳng hạn sau khi bản dịch tiếng Thụy Điển xuất hiện, người Na Uy nói họ cần một bản dịch riêng. Người Đan Mạch sau đó cũng nói tương tự. Ba ngôn ngữ này (tiếng Đan Mạch, tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy) trên thực tế có thể tương thông nhau và sự xuất hiện của ba bản dịch thực chất không cần thiết. Tuy nhiên họ lại muốncó các dịch phẩm chỉ của riêng họ. Hơn nữa các bản dịch cũng được bán với các bìa sách khác nhau.

Tại sao lại xuất hiện bản dịch tiếng Ả rập của cuốn sách này? Tôi có thể hiểu được lý do. Đó là vì sự ra đời của bản dịch tiếng Do Thái. Tại sao lại xuất hiện bản dịch tiếng Hàn? Có lẽ vì sự có mặt có bản dịch tiếng Nhật. Bản dịch tiếng Hàn khiến tôi thực sự chú ý. Bởi lẽ bìa bản dịch là bức ảnh tuyệt đẹp chụp những thanh niên đang reo hò cổ vũ cho đội tuyển bóng đá Hàn Quốc trong kỳ Worldcup. Cuốn sách về chủ nghĩa dân tộc so sánh cuối cùng đã có được một trang bìa dân tộc chủ nghĩa hoàn mỹ.

Cuối cùng, chúng ta thử xem xét đứa con của tôi sẽ như thế nào nếu nó bỏ trốn theo kẻ xấu. Điều thực sự đáng mừng là sự xuất hiện của George Soros trên vũ đài cách đây tầm bốn năm (30). Ông đã quyết tâm khai hóa cho các nước từng thuộc Liên Xô. Ông triệu tập và thành lập một ủy ban gồm 100 học giả nổi tiếng và yêu cầu họ chọn ra 100 cuốn sách quan trọng nhất cần dịch sang ngôn ngữ của tất cả các nước Liên Xô cũ (tiếng Gruzia, tiếng Chechnya…). Danh sách mà họ đề xuất có cả Cộng đồng tưởng tượng.

Dự án của Soros đã tài trợ 50 phần trăm kinh phí cho những người tham gia dịch và xuất bản những đầu sách này. Nằm trong dự án, Cộng đồng tưởng tượng đã được dịch sang những ngôn ngữ mà tôi không ngờ tới. Thực tế cũng có những ngôn ngữ mà tôi không rõ có người đọc hay không, nhưng dù sao đó cũng là sự đầu tư của George Soros.

IV. TỰ PHÊ PHÁN CỘNG ĐỒNG TƯỞNG TƯỢNG

Tầm quan trọng của tự phê phán

Vậy thì chúng ta hãy nhanh chóng đi đến kết luận. Không nên trình bày dài như thế. Tôi muốn nói đến việc tự phê phán liên quan đến cuốn sách này.

Nhờ những nghiên cứu được thực hiện từ 1993 đến quãng 1998, tôi đã ý thức một cách rõ rệt những nhược điểm của Cộng đồng tưởng tượng. Việc sửa chữa cuốn sách là chuyện hiển nhiên. Nếu tất có lỗ thủng thì bạn phải may và bịt lại đúng không? Điều chỉnh những thiếu sót của Cộng đồng tưởng tượngcũng giống như vậy.

Bản in lần hai năm 1991 của Cộng đồng tưởng tượng đã bổ sung thêm hai chương hoàn toàn mới. Một chương là phản hồi của tôi đối với phê phán cho rằng bản in đầu chưa nhận thức đầy đủ các nguyên tắc của nhà nước thuộc địa đã tác động đến sự hình thành chủ nghĩa dân tộc. Chương còn lại là phản hồi trước phê phán cho rằng tôi chưa khảo sát đầy đủ vấn đề “ký ức được lựa chọn”. Vấn đề “ký ức được lựa chọn” trả lời câu hỏi các nhà dân tộc chủ nghĩa đã kể về lịch sử của mình như thế nào, cái gì không được họ viết ra, tại sao nó lại có hình thái đó và đâu là đặc thù được thừa nhận của nó.

Hai vấn đề này thực chất là những nội dung không tương thích với bản đầu. Chúng đòi hỏi tác giả phải sửa chữa cuốn sách một cách tổng thể. Nhưng ở đây chúng tôi quyết định làm một kẻ lười biếng. Chúng tôi gán những nội dung đó vào bìa sách cũ và chỉ gọi là bản tái bản bổ sung.

Sau khi được trải nghiệm một cách tuyệt diệu công việc điều chỉnh Cộng đồng tưởng tượng và khi thế kỷ đã chuyển mình, tôi xuất bản thêm một cuốn sách nữa. Đó là cuốn Bóng ma của những so sánh (31). Cuốn sách bao gồm năm chương có tính lý thuyết. Đây cũng là câu trả lời của tôi trước những phê phán và nhược điểm của Cộng đồng tưởng tượng, điều mà một số người đã chỉ ra và bản thân tôi cũng dần dần nhận thấy.

Cuốn sách này đã trả lời những phê phán hết sức giản đơn sau. Người ta nói rằng “Cộng đồng tưởng tượng tuy biện minh là sách lý thuyết, nhưng thực tế lại ít bàn về lý thuyết. Ông đã quá đồng tình chủ nghĩa dân tộc. Cần phải phân tích lạnh lùng và giữ thái độ khách quan từ xa hơn. Hơn nữa ông không thực sự bàn về bức tranh toàn cảnh của chủ nghĩa dân tộc. Vấn đề di dân xuyên biên giới quốc gia và toàn cầu hóa đã diễn ra như thế nào? Ông không đề cập gì đến những vấn đề này”. Tôi đã trả lời những nghi vấn này trong cuốn sách đó. Nếu có dịp xin các bạn hãy đọc.

Phản biện và vấn đề mới

Còn một vấn đề rất quan trọng nữa, đó là tôi đã tiến hành điền dã từ những năm 1980 đến những năm 1990. Vì thế tôi từng nhiều lần qua Philippines trong khoảng thời gian này. Philippines là một nước lớn trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, biểu thị qua tỷ lệ xuất khẩu lao động ra nước ngoài cao nhất thế giới. Người Philippines ngày nay đanglan tỏa trong tư cách những di dân có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Khi lên kế hoạch viết một cuốn sách về chủ nghĩa dân tộc Philippines, điều tôi phải suy nghĩ đó là mình có thể nói gìvề tình trạng này, về những cư dân tuy là người Philippines nhưng lại cảm thấy không thể cư trú ở Philippines. Họ có mối quan hệ ra sao với cố hương và với quốc gia mới mà mình di trú?

Trong giai đoạn này lần đầu tiên tôi đọc Derrida, Foucault và Baudrillard. Những công trình mà tôi viết sau những năm 90 tuy không phải là những công trình lớn, nhưng chắc chắn có thể thấy một vài dấu vết ảnh hưởng của các tác giả đó. Điều may mắn cho tôi là lúc đó chủ nghĩa hậu hiện đại đã qua thời đỉnh cao và đang hướng đến chỗ hội tụ. Tôi đã tạo ra một công việc thực sự thú vị. Sau đó, do ngày càng có nhiều việc mang tính chất mô phỏng, tôi cảm thấy như thể mất đi bầu nhiệt huyết sôi nổi dành cho công việc mà mình từng làm trong những năm 90.

Tuy nhiên ở đây vẫn còn hai phê phán lớn đối với Cộng đồng tưởng tượng. Bản thân tôi cũng thường xuyên tự phê phán, điều này các bạn có lẽ cũng đã rõ. Ở đây tôi chỉ trình bày một cách giản lược.

Thứ nhất là phản biện hoàn toàn hợp lý từ phía các nhà nữ quyền luận. Bởi cuốn sách của tôi hầu như không xuất hiện phụ nữ và nếu có xuất hiện cũng chỉ xuất hiện một cách hiếm hoi. Tôi bị phê phán là không khảo sát về mặt lý thuyết mối quan hệ giữa phụ nữ và chủ nghĩa dân tộc cũng như phụ nữ trong các quốc gia dân tộc. Đây thực sự là một phản biện xác đáng.

Tuy nhiên, tôi không những không thấy phiền toái trước vấn đề này mà thực tế còn suy ngẫm nó trong một thời gian dài. Có lẽ phải thú nhận rằng một trong những lý do khiến tôi không bàn luận trực tiếp vấn đề này là sự lười biếng của bản thân tôi. Khi được hỏi tại sao thì đơn giản tôi chỉ trả lời rằng“Tại sao tôi phải làm điều đó trong khi có rất nhiều phụ nữ xuất sắc trên đời. Phụ nữ nên viết về phụ nữ thì tốt hơn. Tôi không phù hợp”. Một trong những vấn đề đi kèm với sự phát triển mạnh mẽ của nữ quyền luậnlại không nằm ở các nhà nữ quyền luận mà nằm ở sự lười biếng của nam giới. Song nếu bắt tay vào xử lý vấn đề đó, tôi lại thấy có chút hổ thẹn. Bởi vậy nếu có thể tôi muốn người khác giải quyết nó.

Thứ hai là phản biện từ phía chính trị căn cước. Tôi phải làm thế nào khi bị các học giả da màu nói rằng, vì ông là người da trắng nên dù có được đào tạo đến đâu đi nữa ông vẫn không thể hiểu được kinh nghiệm của người da màu? Tôi cảm thấy rất buồn khi bị nói như thế và nghĩ rằng mình không nên viết về người da màu mà chỉ nên viết về những gì mà bản thân mình hiểu rõ hơn. Tôi không thể giải thích một cách thỏa đáng những phê phán ở khía cạnh này. Có lẽ phải thú nhận rằng tôi luôn nhút nhát và trốn tránh trách nhiệm trong vấn đề này.

Sức nặng của dân tộc

Cuối cùng chúng ta hãy thảo luận tiếp một vấn đề phức tạp. Đó là vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa dân tộc và tự do hóa.

Vấn đề có tính phương pháp luận trong trường hợp nghiên cứu so sánh chủ nghĩa dân tộc, hay có thể nói vấn đề chung của lý thuyết so sánh, là xác định như thế nào đơn vị so sánh. Trước hết phải xác định được đơn vị so sánh, đo được sức nặng của nó, rồi mới có thể gắn kết các đơn vị với nhau để tạo nên các tập hợp. Để nghiên cứu so sánh các dân tộc, cần phải ý thức dân tộc như một đơn vị đã được phân ranh giới: đơn vị Canada, đơn vị Nhật Bản, đơn vị Ireland.

Ngay cả trường hợp các đơn vị không tồn tại trên thực tế và có hình thức khác, để sử dụng so sánh như một phương pháp hiệu quả, chúng ta vẫn cần phải xem xét các dân tộc trong tư cách những đơn vị đã được phân ranh giới thực sự. Indonesia, Philippines, Peru, Brazil đều đượcnhìnnhận trong trạng thái này. Chúng ta phải tiến hành như thế. Đó là phương pháp luận so sánh có tính chuẩn mực.

Vấn đề là trong thực tế, khác với táo và camtrên bàn, dân tộc không cho phép so sánhmột cáchđơn giản. Cam màu vàng, táo màu đỏ. Nhưng đơn vịcó tên làdân tộc lại tự thay đổi và tương tác thường xuyên với các đơn vị kháctrong quá trình vận động liên tục.Vì vậy rõ ràng, so sánh dân tộc là một kiểu so sánh thực sự mang tính bổ trợ. So sánh được xác lập để củng cố một dạng thức bất biến và thống nhất nào đó. Nhưng không tồn tại một dân tộc bất biến và thống nhất như thế.

Đó là một nghiên cứu ngây thơ, giống như trẻ em ngắm sao trên trời đêm. Trẻ con có thể quan sát thấy rất nhiều sao khi nhìn lên bầu trời. “A, đằng kia có một ngôi sao lớn. Đằng này có một ngôi màu đỏ đáng yêu. Phía kia cũng có một ngôi lớn nữa”. Trẻ con nghĩ rằng những vì sao chỉ nằm rải rác trên trời và tồn tại như một sự thực của tự nhiên. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được học hành, trẻ con sẽ hiểu rằng những vì sao đó không phải là những vật thể chỉ đứng yên một chỗ, và chúng có thể đối sánh các vì sao trong tính tương quan. Nơi các vì sao chuyển động là một trường trọng lực không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Trọng lực đó đang giữ các vì sao trong mối quan hệ dịch chuyển.

Như vậy để so sánh và luận giải về chủ nghĩa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu, chúng ta phải chỉ ra trường trọng lực mà chủ nghĩa dân tộc sinh thành, biến chuyển và tương tác lẫn nhau.

Hướng đến các chủ đề nghiên cứu mới

Công trình hiện giờ tôi đang viết là tổng hợp những suy nghĩ của mình về giai đoạn khởi đầu của toàn cầu hóa (32)

Đó là một thế giới được kết nối bằng điện tín, một phương tiện giao tiếp toàn cầu đầu thế kỷ, có thể truyền tin tức một cách nhanh chóng. Lúc này nhân loại có thể truyền đạt thông tin nhanh chóng hơn bất cứ hình thức vận chuyển thực tế nào của động vật và con người. Một trăm ba mươi năm trước, hình thức giao tiếp này đã phát huy tác dụng. Nhờ sự khởi đầu và mở rộng của giao thông đường biển (một cách quy mô và an toàn), nhân loại khi đó đã suy tư, di chuyển, gặp gỡ và xây dựng mạng lưới quan hệ với tốc độ nhanh chóng không ngờ tới. Cũng có thể nói rằng, chính vì thế mà con người thường xuyên va chạm nhau.

Hiện tại tôi đang viết một cuốn sách tập trung nghiên cứu thế giới giai đoạn đó (từ 1870 đến 1900). Khi viết cuốn sách này, tôi chọn trọng tâm là vài ba nhân vật dân tộc chủ nghĩa thế hệ đầu tiên của Philippines, khảo sát xem cái cách mà họ đã vượt biển, thăm New Orleans, Liverpool, Thượng Hải, Yokohama, di chuyển bằng tàu hỏa khắp châu Âu và châu Mỹ lục địa và gửi thông tin bằng điện tín như thế nào. Tôi xem xét sự giao lưu này đã ảnh hưởng ra sao đến họ. Cuộc đấu tranh giành độc lập của Cuba, cuộc chiến tranh của người Boer ở Nam Phi, sự sát nhập Đài Loan của Nhật Bản, cuộc chiếm đóng Hawaii của Mỹ và sự thống trị của Bismarck đã có tác động như thế nào đến Tôn Trung Sơn, người anh hùng dân tộc của Trung Quốc. Đó cũng là những chủ đề của cuốn sách này.

Đặc biệt nhân tố then chốt của trường trọng lực đó -phe cánh tả -nhất là vào thời điểm trước khi Lenin xuất hiện, là một phái cánh tả áp đảo, theo chủ nghĩa vô chính phủ và có vai trò quan trọng. Thông qua châu Âu và các thuộc địa ở Nam Á, thông qua Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, phong trào này đã lan tỏa đến Mỹ Latin và Bắc Mỹ.

Hình thành nên phong trào hỗn loạn này là những kiểu nhân vật chẳng hạn những người Triều Tiên nói tiếng Nhật đến Trung Quốc và hoạt động cho chủ nghĩa vô chính phủ, những người khởi đầu hoạt động ở Paris và kết thúc tại Argentina. Họ di chuyển vòng quanh thế giới từ La Habana đến Paris. Các hoạt động được tiến hành bởi những người theo cánh tả này là một dạng thức phản kháng chủ nghĩa đế quốc hung bạo cuối thế kỷ XIX.

Sở dĩ tôi quan tâm đến giai đoạn này là vì đây là một giai đoạn xuất hiện các hành động khủng bố rõ ràng. Những người theo chủ nghĩa vô chính phủ trong giai đoạn này đã ám sát các lãnh tụ dân tộc và chính trị gia có ảnh hưởng. Các nhà dân tộc chủ nghĩa chống thực dân cũng bắt chước theo. Điều tôi thấy quan trọng là nhờ điện báo, những vụ ám sát mà họ thực hiện đã được thông tin rộng rãi trên thế giới. Chúng cũng được lan truyền trên báo chí. Những người thực hiện các vụ ám sát không hề trốn chạy. Sau khi sát hại một đối tượng nào đó, họ đợi ở hiện trường cho đến lúc bị bắt rồi bị hành hình một cách công khai. Những bức ảnh đó được đăng tải lên báo chí và thông điệp ngay lập tức được truyền ra thế giới. Sau khi tổng thống Pháp bị ám sát năm 1894, những người Argentina, những người ở Thượng Hải và Manila cũng nhanh chóng biết đến sự kiện đó.

Điều mà tôi chợt nghĩ tới ở đây chính là hoàn cảnh thời đại của chủ nghĩa khủng bố hiện nay. Hoàn cảnh thời đại lúc đó cũng giống thời đại của Osama Binladen và những kẻ khủng bố liều chết ngày nay. Thực sự là như thế. Những người theo chủ nghĩa vô chính phủ lúc đó có lẽ cũng cho rằng họ là một dạng khủng bố liều chết. Và nhiều người trong số họ là những người châu Âu. Đây là điều mà chúng ta nên nhớ.

Những gì tôi muốn nói chỉ có thế. Hi vọng rằng bài nói chuyện của tôi sẽ có thể giúp ích cho các bạn. Xin chân thành cảm ơn.

                                                                                    Lưu Ngọc An dịch

Nguồn: Benedict Anderson bàn về toàn cầu hóa (ベネディクトアンダーソングローバリゼーションを語る), Umemori Naoyuki 梅森直之 biên soạn, Kobunsha 光文社xuất bản, 2007, tr. 18-68.


*Umemori Naoyuki sinh năm 1962, chuyên gia về lịch sử tư tưởng chính trị Nhật Bản, lấy bằng tiến sĩ chính trị học tại Đại học Chicago năm 1991, hiện giảng dạy tại Đại học Waseda. Cuốn sách này ngoài phần đầu là hai bài giảng của Anderson, còn có hai phần quan trọng: phần hai là những phân tích của Umemori Naoyuki xoay quanh các luận điểm chính của hai bài giảng, phần ba là 14 đối thoại giữa cử tọa và Anderson, nơi diễn giả trả lời các câu hỏi sau khi kết thúc phần nói chuyện (ND).

1. Yabushita Shirō: Sinh năm 1943, nhà kinh tế học Nhật Bản, giáo sư Khoa chính trị và kinh tế học, Đại học Waseda (ND).

2. “Classical languages” nếu dịch chính xác phải là “cổ ngữ” hoặc “cổ văn”. Dịch giả tiếng Nhật để “nghiên cứu cổ điển” nhằm định danh rõ hơn lĩnh vực Anderson được đào tạo tại đại học: ngành nghiên cứu ngôn ngữ và văn chương Hy La, tiếng Anh là “classical studies” (ND).

3Tức Trung học Eton. Về quãng thời gian Anderson học tại Eton, xem hồi ký tác giả Một cuộc đời ngoài các ranh giới [A life beyond boundaries], Verso, 2016, tr. 13-18 (ND).

4. Sau cuộc đấu tranh chống thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập vào năm 1949, xét trên cả danh nghĩa và thực tế. Mặc dù đã ban hành hiến pháp trên cơ sở chính trị của các chính đảng vào năm 1950, nhưng tình hình chính trị Indo vẫn tiếp tục bất ổn. Nội chiến bùng phát từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1958. Sau khi trấn áp được nội chiến, năm 1959 tổng thống Sukarno đã tuyên bố phục hồi lại hiến pháp độc lập, tăng cường quyền lực độc tài dưới sự ủng hộ của quân đội và đảng cộng sản, sau đó tổ chức nội các tổng thống. [Các chú thích không đề ND từ đây đều của Umemori Naoyuki – ND].

5. George Kahin: Sinh năm 1918, nhà tiên phong của nghiên cứu Indonesia ở Mỹ, người sáng lập chương trình nghiên cứu Indonesia hiện đại tại Đại học Cornell. Công trình có Chủ nghĩa dân tộc và cách mạng tại Indonesia [Nationalism and Revolution in Indonesia], Ithaca: Cornell University, 1952. Tạp chí Indonesia, tập 69 (tháng tư năm 2000) có in điếu văn của Anderson dành cho Kahin khi ông mất vào năm 2000.

6. Ngoài Cornell, còn có một chương trình nghiên cứu Đông Nam Á khác của Mỹ được xây dựng tại Đại học Yale trong những năm 1950. Chi tiết về nghiên cứu Đông Nam Á tại Mỹ giai đoạn này, xem Hồi ký của tác giả, chương hai “Nghiên cứu khu vực” [Area studies] (ND).

7. James Siegel: Giáo sư Khoa nhân học, Đại học Cornell. Công trình gần đây có Đặt tên Phù thủy[Naming the Witch], Stanford: Stanford University Press, 2006.

8. Chính Siegel James là người đã dẫn Anderson tiếp xúc với Mimesis của Erich Auerbach và các công trình của nhà nhân học Victor Turner. Về mối quan hệ và ảnh hưởng của học giả này tới Anderson xem Hồi ký tác giả, tr. 121-122 (ND).

9. Clare Holt: Sinh tại Riga, Latvia. Từng sống tại Java thuộc địa Hà Lan trong những năm 1930. Trong Thế chiến thứ hai làm thông dịch viên và giáo viên tiếng Indonesia cho chính phủ Mỹ, sau đó dạy ngôn ngữ và văn hóa Indonesia tại Đại học Cornell. (Xem công trình của Anderson, Ngôn ngữ và quyền lựcKhám phá các nền văn hóa chính trị ở Indonesia, tr. 7).

10. Xem Sđd.

11. Anderson cũng nói về tác động của sự kiện này tới suy tư so sánh của ông trong Hồi ký: “Tôi phải nói rằng tôi chịu một món nợ kỳ lạ đối với Tướng độc tài Suharto, người đã trục xuất tôi khỏi Indonesia năm 1972 và cấm tôi nhập cảnh cho đến khi bị lật đổ vào năm 1998. Vì lý do này, tôi buộc phải đa dạng hóa, nghiên cứu Thái Lan chủ yếu từ 1974 đến 1986, nghiên cứu Philippines từ 1988 đến nay. Tôi biết ơn ông vì đã buộc tôi phải vượt ra ngoài góc nhìn của “một quốc gia”. Nếu không bị trục xuất, chưa chắc tôi đã viết Cộng đồng tưởng tượng”. Xem Hồi ký tác giả, tr. 55 (ND).

12. Thời kỳ này các thuộc địa châu Phi đã giành được độc lập từ tay Bồ Đào Nha, chẳng hạn Guiné-Bissau (tháng 9 năm 1974), Mozambique (tháng 6 năm 1975).

13. Tính đến thời điểm hiện nay (tháng 4 năm 2007) có 192 nước là thành viên Liên hợp quốc.

14. Scotland là khu vực nằm phía bắc của đảo Anh. Xứ Wales nằm ở tây nam đảo Anh. Catalonia là khu tự trị nằm ở đông bắc Tây Ban Nha, phía nam dãy Pyrenees, giáp Địa Trung Hải. Xứ Basque chỉ khu vực cư trú của người Basque ở phía bắc bán đảo Iberia, nằm ở cực tây của dãy Pyrenees, vắt qua hai nước Pháp và Tây Ban Nha. Bretagne là khu vực phía tây nước Pháp, trung tâm là bán đảo Bretagne nằm nhô ra bên bờ Đại Tây Dương. Sicilia là hòn đảo lớn nhất Địa Trung Hải, thuộc chủ quyền Italia, nay là một đặc khu tự trị. Tại các khu vực này, phong trào ly khai dựa trên sự độc lập về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ đã có ảnh hưởng lớn trong những năm gần đây.

15. Eric Hobsbawm: Sinh năm 1917, sử gia Anh, biên soạn cùng Terence Ranger công trình Sáng tạo truyền thống [The Invention of Tradition], Cambridge University Press, 1983 (Maegawa Keiji, Kajiwara Kageaki dịch, Kinokuniya xuất bản, 1992). Cuốn sách này được biết đến như là một công trình có tính bước ngoặt đã phơi bày tính hiện đại của chủ nghĩa dân tộc của đế quốc Anh. Nhiều công trình của Hobsbawm đã được dịch sang tiếng Nhật như Thời đại đế chế(Noguchi Takehiko, Nagao Shirō, Noguchi Teruko dịch, Misuzu Shobo xuất bản, 1993), Lịch sử thế kỷ XX: Thời đại cực đoan (Kawai Hidekazu dịch, Sanseido xuất bản, 1996).

16. Anthony D. Smith: Nhà xã hội học lịch sử của Anh. Công trình chính được dịch sang tiếng Nhật: Dân tộc và sắc tộc: Khảo sát xã hội học lịch sử (The Ethnic Origins of Nations, Oxford: B. Blackwell, 1987, Suyama Yasuji, Takagi Kazuyoshi dịch, Nhà xuất bản Đại học Nagoya, 1999).

17. Earnest Gellner: Nhà nhân học xã hội, sinh năm 1925 tại Paris, lớn lên tại Prague, theo đuổi hoạt động nghiên cứu và giáo dục chủ yếu tại Anh. Công trình chính được dịch sang tiếng Nhật: Dân tộc và chủ nghĩa dân tộc (Nations and Nationalism, Cornell University Press, 1983, Katō Takashi dịch, Iwanami Shoten xuất bản, 2000).

18. Tom Nairn: Sinh năm 1932, lý thuyết gia chủ nghĩa dân tộc của Scotland. Công trình được đề cập đến ở đây là Sự tan rã của Vương quốc Anh [The Break-up of Britain, London]: NLB, 1977, (Tái bản 1982).

19. Tom Nairn: Sinh năm 1932, lý thuyết gia chủ nghĩa dân tộc của Scotland. Công trình được đề cập đến ở đây là Sự tan rã của Vương quốc Anh [The Break-up of Britain, London]: NLB, 1977, (Tái bản 1982).

20. Tức văn học cổ điển, rộng hơn là nghiên cứu cổ điển, lĩnh vực mà tác giả được đào tạo về mặt chuyên ngành (ND).

21. Hikaru Genji: Nhân vật chính trong Truyện Genji (Genji monogatari) của Murasaki Shikibu (978–1016), nữa văn sĩ thời Heian của Nhật (ND).

22. Tức “giới báo chí chất lượng” (quality press) tại Anh, điều tác giả đã đề cập đến trong phần đầu khảo luận “Du hành và giao thông” của Cộng đồng tưởng tượng (ND).

23. Ernst B. Haas: Giảng dạy chính trị học tại trường Berkely, Đại học California. Thao khảo bài điểm sách Cộng đồng tưởng tượng của Haas: Ernst B. Haas “Chủ nghĩa dân tộc là gì và tại sao chúng ta cần nghiên cứu nó” [What is nationalism and Why should we study it], International Organization, Vol.40, No.3 (Hè 1986), tr. 707-744.

24. Sau chiến tranh Ấn Độ - Pakistan lần thứ ba năm 1971, Đông Pakistan giành được độc lập, trở thành Bangladesh. Sau khi Mỹ rút toàn bộ quân đội, nhờ sự thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nam Việt và Bắc Việt đã thống nhất vào năm 1976. Ethiopia được biết đến như là quốc gia độc lập lâu đời nhất của Phi châu. Năm 1975 chính quyền đế quốc Ethiopia bị loại bỏ sau cuộc nổi dậy của quân đội.

25. Tại Quebec -bang nằm phía đông Canada, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính -khuynh hướng ly khai chống lại chính quyền liên bang đã diễn ra một cách mạnh mẽ. Quebec từng tiến hành các cuộc trưng cầu dân ý đòi độc lập vào các năm 1980 và 1995, nhưng đều bị phủ quyết.

26. Tức sự sụp đổ của Liên Xô (ND).

27. Michel Foucault, Jacques Derrida, Jean Baudrillard là những tư tưởng gia Pháp đại biểu cho tư tưởng hiện đại. Các ông đã phát triển một phương pháp phân tích xã hội mới dựa trên những khái niệm chìa khóa như phân tích diễn ngôn, giải cấu trúc, huyền thoại, có ảnh hưởng lớn đến nhiều lĩnh vực học thuật.

28. Stuart Hall: Sinh năm 1932 tại Kingston, Jamaica. Thành tựu nghiên cứu chính tập trung trong lĩnh vực văn hóa học và nghiên cứu media, trọng tâm là các hoạt động nghiên cứu tại Trung tâm văn hóa học đương đại (Centre for Contemporary Cultural Studies) trực thuộc Đại học Birmingham. Ông được coi là một trong những lý thuyết gia tiêu biểu của nghiên cứu hậu thực dân và văn hóa học.

29. Dịch giả tiếng Nhật của Cộng đồng tưởng tượng là Shiraishi Saya và Shiraishi Takashi. Cả hai đều học tại Đại học Cornell và đều được coi là những nhà nghiên cứu Indonesia tiêu biểu của Nhật Bản.

30. GeorgeSoros: Nhà đầu tư, sinh năm 1930 tại Budapest, Hungary. Soros thu được lợi nhuận khủng nhờ vận dụng Quỹ tự bảo hiểm rủi ro(Hedge Fund). Năm 1993, ông được Tạp chíFinancial Worldxếp hạng là nhà tư sản số một thế giới. Ngoài ra ông còn tích cực triển khai nhiều chương trình hỗ trợ quá trình dân chủ hóa tại Đông Âu cũng như các nước đang phát triển và mới phát triển. Từ 1995, Soros bắt đầu triển khai dự án tài trợ dịch và xuất bản các công trình cơ bản của khoa học xã hội sang phương ngữ các nước Trung Âu, Đông Âu và Trung Á (CEU Translation Project). Danh sách các công trình được đề xuất dịch trong dự án này có cả Cộng đồng tưởng tượng của Anderson. Tính đến tháng 1 năm 2000, đã có tám nước dịch và xuất bản Cộng đồng tưởng tượng dưới sự tài trợ của dự án (http://www.osi.hu/cpd/spf/46_00.html#ceu). Thông tin khái quát về dự án dịch và xuất bản của Soros hiện nay, xem các mục của phần Information Program trên trang chủ của Open Society Institute (http://www.soros.org/initiatives/information).

31. Tên đầy đủ của công trình:Bóng ma của những so sánh: Chủ nghĩa dân tộc, Đông Nam Á và thế giới[The Spectre of comparisons: Nationalism, Southeast Asia, and the World], Verso, 1998 (ND).

32. Công trình này được Verso xuất bản vào cuối 2005 với tiêu đề Dưới ba ngọn cờ: Phong trào vô chính phủ và tưởng tượng chống thực dân [Under three flags: Anarchism and the Anti-Colonial Imagination] (ND).

Lưu Ngọc An dịch

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 13.6.2019.

(TBKTSG Xuân AL) - Hạnh phúc. Khát vọng của mọi khát vọng. Lời chúc của mọi lời chúc. Ngôi sao của mọi ngôi sao. Nhưng nó là gì vậy?

20190115 hanh phuc

Người ta không nghĩ cùng một điều khi nghĩ về nó. Cái đem lại hạnh phúc cho người này có thể đem đau khổ đến người khác.

Điều này có thể nói ngay: không ai CÓ hạnh phúc. Bởi hạnh phúc không phải là một vật để ta có, ta sở hữu.

Khi ta vui, ta nằm trong hạnh phúc và đó là hạnh phúc đang có ta-ta buông mình vào lòng nó.

Dẫu như thế, hạnh phúc, cũng như lương thiện, không phải ở bên ngoài ta mà nó ở ngay bên trong ta. Không có hạnh phúc nào ở bên ngoài ta.

Hạnh phúc không phải là một vật. Vì thế nó không thể ở bên ngoài. Thế giới của nó thuộc về bên trong. Bên trong ta.

Gọi một vật nào đó hay một người nào đó ở bên ngoài là hạnh phúc của ta thì đó chỉ là một cách nói, một cách lầm lẫn.

Tất nhiên, một vật và một người nào đó có thể làm cho ta hạnh phúc trong thời điểm nào đó khi nó có khả năng xuyên thấm vào thế giới bên trong ta, chân trời đón đợi của ta. Đó là lúc ta đánh thức hạnh phúc bên trong ta, giấc ngủ quên của ta như thi hào Ba Tư Hafiz diễn tả từ thế kỷ mười bốn:

Hạnh phúc đã ở trong ta từ bao giờ, từ ban đầu. Và nó thường ngủ quên. Nên ta cần đánh thức.

Hạnh phúc ngủ quên của tôi

vật vờ từ lâu lắm

sáng nay thức dậy rồi.

Hạnh phúc đã ở trong ta từ bao giờ, từ ban đầu. Và nó thường ngủ quên. Nên ta cần đánh thức. Vậy thì ai đánh thức? Chính là ta. Ta đánh thức ta. Nghịch lý ư? Thì nghịch lý mà. Thế mới là đời sống, một đại nghịch lý chứ sao!

Ta đang ngủ quên và ta phải đánh thức ta thôi. Đánh thức thế nào?

Tạm để hạnh phúc của ta ngủ quên trong khi ta chú tâm vào cuộc sống. Nhìn. Học cách nhìn. Nhìn chú tâm. Chẳng hạn nhìn một bông hoa nhỏ nơi hàng giậu. Như Nguyễn Trãi nhìn một cái cây mà thấy tĩnh và động trong cùng một lúc, cùng một nơi:

Cây tĩnh

Chim về

Rợp bóng xuân

(Quốc Âm Thi Tập)

Cái nhìn đó Nguyễn Du gọi là “khai nhãn mộng”: mộng mà vẫn mở mắt, mở mắt mà vẫn mộng, mở cả giấc mộng, mở cả thực tại, tĩnh mà động, động mà tĩnh... Đó là cách Nguyễn Du vào ra trần thế và vào ra giấc mộng của mình (Trần thế bách niên khai nhân mộng).

Đó cũng là cái nhìn của Ngô Thì Nhậm, người cho văn và võ là một, đạo và đời là một, mộng và thực là một. Trong bài phú Mộng Thiên Thai, ông cho rằng không cần đến một Đào Nguyên nào để tìm thấy hạnh phúc. Ta có thể tự trồng được cội đào của chính mình: Đâu chỉ Đào Nguyên có cội đào?

Đó là tự đánh thức hạnh phúc.

Đó là chú tâm nhìn và ghi nhận những khoảnh khắc đẹp mà ta thường bắt gặp. Bằng cách đó ta chuyển hóa nó, nội tại hóa nó. Một bông hoa nhỏ sẽ hóa thành ta và ta đồng thời hóa thành nó. Như nhà thơ Bashô ở Nhật nhìn hoa nazuna:

Ta nhìn bên ta

bên hàng giậu nở

đóa nazuna.

Đó là một khoảnh khắc đẹp. Bởi vì nó rất bình thường, rất đơn sơ.

Đó là một khoảnh khắc hạnh phúc. Bởi vì nó đẹp trong một toàn thể đẹp.

Cái đẹp đó, hạnh phúc đó không mất đi đâu bởi vì Bashô đã chú tâm nhìn nó và ghi nhận nó. Chỉ là một bông hoa trắng nhỏ, đóa nazuna ấy. Cái nhìn của Bashô tự đủ đầy, tự chứa chan hạnh phúc. Ông không có ý chiếm hữu nó hay chiếm hữu cái gì. Cái không có gì này chính là hạnh phúc: không cướp đoạt, tranh giành...

Bông hoa nở trong an nhiên và Bashô nhìn trong tự tại. Hạnh phúc của nở và nhìn chan hòa trong một ánh sáng tương chiếu. Khoảnh khắc hạnh phúc đó cần được đánh thức mỗi ngày.

Để mỗi ngày ta là hoa, là chim, là mây, là hạt bụi, là tia nắng..., là khoảnh khắc mà cũng là vô tận.

Có một anh chàng luôn cầu nguyện nữ thần Hạnh phúc đến với anh, rất khẩn thiết và gần như kiệt sức. Cuối cùng anh nghe tiếng nói: Ta đây! Anh hỏi: Ai thế?

- Ta là Hạnh phúc, người mà anh gọi suốt.

- Sao tôi không thấy?

- Ta vô hình kia mà.

- Xin ngài làm ơn hiện hình.

- Hạnh phúc không có hình. Nó ở bên trong của bên trong. Nếu có hình thì nó đã mất từ lâu, trước khi mi kịp cầu nguyện!

Chàng ta òa khóc. Còn câu chuyện thì cười.

Còn đây là thơ của Goethe, thi hào Đức:

Không có gì thuộc về tôi,

tôi biết chứ

Nhưng trong hồn tôi

không gì cản nổi

tư tưởng một dòng trôi.

Và hân hoan khi Tình yêu Mệnh

mang đến cho tôi

biết bao khoảnh khắc tuyệt vời

mà tôi đón đợi từ đời thắm sâu.

Chỉ cần chú tâm, chỉ cần ghi nhận thôi, thì trong một tuần, thậm chí trong một ngày ta sẽ “bắt” được biết bao khoảnh khắc tuyệt vời mà cuộc đời trong khẳm sâu sẵn sàng ném về phía ta. Như một ánh nhìn, một nụ cười, một giọt sương, một tiếng chim, một câu hát, một hơi gió, một trang sách, một cái bóng trong hồ nước, một chóp núi, một mẩu bánh, một nụ hôn, một quả quýt đang được ai đó từ từ bóc vỏ... Biết bao thứ đang chờ ta đón bắt hoàn toàn “miễn phí”, nghĩa là tự do.

Ngoài cách ghi nhận và đón bắt tự do đó, còn một cách đạt hạnh phúc đơn giản hơn, cứ như là đang chơi, đang giỡn.

Thử gọi tên mọi thứ, cả thứ dễ chịu lẫn khó chịu bằng những cái tên trìu mến. Tập gọi như thế cho đến khi trong tâm thức ta, cái tên và sự vật hòa lẫn vào nhau hết sức tự nhiên.

Như thi hào Kalidasa gọi mây là sứ giả của tình yêu. Như Krishnamuzti gọi cơn đau thường hành hạ mình là cái thân yêu. Như gọi đất là mẹ, cỏ cây là chị em. Bashô gọi bốn mùa là bạn. Hafiz gọi vầng trăng là thú cưng.

Như Adam trong vườn Eden, ta gọi tên từng sự vật quanh mình. Đặt những cái tên mới. Đầy thân ái.

Cái gì sẽ xảy ra? Bắt đầu một cái nhìn mới mẻ. Đời sống bỗng thanh tân. Khi ta gọi tên sự vật theo cách mới, thì ý nghĩa mới sẽ nảy sinh, nhịp điệu mới sẽ ngân theo tiếng gọi nồng nàn của ta. Niềm vui được đánh thức.

Điều ấy thường được diễn tả trong thơ Hafiz, như:

Tôi lấy ra một mặt trời

mỗi ngày từ ví tôi.

Và tôi thả con thú cưng là vầng trăng

chạy rong trên cánh đồng trời.

Khi tôi huýt gió

trăng quay đầu ngó nhìn tôi.

Khi tôi vẫy tay

nàng vẫy lại cái đuôi sao lộng lẫy.

Hàng ngày tôi tưới nước

cái cây trồng yêu quý của Trời

là trái đất này đây.

Có người sẽ cho rằng điều ấy viển vông quá. Hoặc là lãng mạn quá. Hoặc là tưởng tượng.

Nhưng niềm hân hoan và cái đẹp nào cũng cần pha lẫn cái chân thật với tưởng tượng đến độ nó trở thành một. Pha lẫn bờ bên đây với bờ bên kia, đến độ nó trở thành một. Như trên một vòng tròn, đâu là bờ nào?

Khi gọi vầng trăng là thú cưng, Hafiz khởi động một vòng tròn. Có gọi thì có hồi đáp. Và do đó, vầng trăng quay đầu ngó nhìn “tôi” và vẫy cái đuôi sao lộng lẫy.

Vậy thì gọi hạnh phúc đi. Đánh thức đi! 

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 15.02.2018.

Lời nói đầu. Murray Gell-Mann không còn nữa. Ông mất ngày 24 tháng 5, 2019, tại nhà riêng ở Santa Fe, New Mexico, Hoa Kỳ, hưởng thọ 89 tuổi. Ông là vị “anh hùng” có công giải mã núi hạt được quan sát vào những năm 1950-60 đem lại cho nó một trật tự. Trên hết, ông là người tìm ra định luật ba (3) hạt cơ bản được ông đặt cho cái tên bất hủ là Quark tạo thành các hạt neutron và photon trong mỗi nguyên tử. Những câu chuyện khám phá của ông, từ “Bát chánh đạo”, một loại bảng tuần hoàn, trong thế giới hạt đến hạt Quark, là đầy tính chất huyền thoại. Ông có một trực giác thiên tài. Dưới đây tôi xin giới thiệu trích đoạn từ những bài viết của tôi trong số Kỷ yếu Hạt Higgs xuất bản năm 2014 tại nhà xuất bản Tri Thức nhân sự kiện hạt Higgs cuối cùng được khám phá năm 2012, khép lại cuộc đi tìm Mô hình Chuẩn trong vật lý hạt, một cuộc hành trình trong thế giới hạt hơn một thế kỷ mới xong, từ J. J. Thomson khám phá electron (1897), Ernest Rutherford khám phá the proton (1919) cho đến Gell-Mann, và George Zweig một cách độc lập nhau, đưa ra cấu trúc bộ ba hạt Quark của các nhân trong nguyên tử (1964), Higgs đưa ra tiên đoán cơ chế được gọi là BEH mang tên Brout – Englert và Higgs (1964) (giải Nobel 2013), cùng với vô số các nhà vật lý hạt khác khám phá bản đồ các hạt cơ bản và các lực chi phối chúng, lực điện-yếu thống nhất, lực mạnh sắc động học QCD, và hai thế hệ hương vị quark và lepton, và cuối cùng hạt Higgs (2012), hạt bị nguyền rủa là “hạt trời đánh” cũng như được tôn vinh “Hạt của Chúa” đã giấu mặt gần nữa thế kỷ, để tạo thành Mô hình Chuẩn mô tả hoàn hảo thế giới hạt.

⁕⁕⁕

[1]

Hãy luôn luôn lắng nghe những gì Gell-Mann nói,

vì ông ấy có đường dây trực tiếp với Chúa.

(Một trong những lời khuyên của các nhà nghiên cứu  

của ITEP, Viện vật lý lý thuyết và thực nghiệm Moscow)

Murray Gell-Mann (1929-2019)

“Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi rất thích thú các môn lịch sử tự nhiên, ngôn ngữ học và khảo cổ học. Mặc dù sống ở thành phố New York, nhưng tôi cũng vẫn tìm đến những mảnh đất làng quê mà ở đó tôi có thể làm quen với các loại chim, bướm, cây và thảo mộc có hoa. Mặc dù thế tôi thấy bị thu hút mãnh liệt bởi các thành quả của sự tiến hoá sinh học và tiến hoá của nền văn hoá con người. Cho nên không phải là không tự nhiên khi tôi muốn thử hiểu chuỗi các mối quan hệ kết nối các định luật vật lý căn bản chi phối vật chất trong vũ trụ với sự vận hành của cấu trúc phức tạp và phong phú chúng ta thấy quanh ta mà chúng ta là một phần trong đó.

Tầm quan trọng của các sự cố (accidents) trong lịch sử của vũ trụ không thể nói hết. Mỗi con người chúng ta là sản phẩm của một chuỗi vô cùng dài các biến cố mà mỗi mắt xích trong đó có thể đã khác đi (nếu lập lại). Hãy nghĩ đến các thăng giáng (fluctuations) đã tạo nên thiên hà chúng ta, những sự cố đã dẫn đến việc hình thành thái dương hệ, bao gồm việc ngưng tụ của bụi và khí, những thứ đã làm nên trái đất, những sự cố đã góp phần định đoạt con đường đặc biệt cho cuộc sống bắt đầu tiến hoá trên trái đất, và các sự cố đã góp phần vào sự tiến hoá của các loài với những đặc thù riêng, kể cả các dạng của loài người. Mỗi cá nhân chúng ta có gen là kết quả từ một chuỗi dài của các đột biến ngẫu nhiên và các cơ hội gieo giống, cũng như sự sàng lọc tự nhiên”, như những lời tự sự của Gell-Mann trong The Third Culture.(1)

Gell-Mann nổi tiếng từ nhỏ là một thần đồng. Ông được sinh ra tại thành phố New York là con của một gia đình Do Thái giáo từ đế chế Áo-Hung di dân sang Mỹ năm 1911. Với tuổi 15 ông bước vào Đại học Yale với học bổng của trường để học vật lý, và năm 21 tuổi ông hoàn tất tiến sĩ tại Đại học MIT dưới sự hướng dẫn của Victor Weisskopf. Lúc mười tuổi, ông đã đọc Finnegans Wake của James Joyce, một tác phẩm khó đọc nhưng lại có vai trò đối với ông trong việc đặt tên “quark” cho hạt cơ bản ba mươi lăm sau.

Ông được xem là “Vua của các hạt cơ bản”, xuất hiện từ sự hỗn độn của thế giới hạt những năm 1905-60 của vô số hạt mới đến từ vũ trụ và các phòng thí nghiệm như là một Mendeleev mới của thế kỷ 20 để “làm luật” cho thế giới hạt, sắp xếp các hạt cơ bản theo mô hình “Bát chánh đạo” có tính tuần hoàn, một từ nhà Phật mà ông đã mượn từ vốn kiến thức hiểu biết uyên thâm; là người, dựa trên kiến thức lý thuyết toán nhóm, đặt ra tiên đề “ba hạt quark” (khái niệm quark lấy từ Finnegans) là cấu trúc tất yếu của các hạt vật chất proton và neutron của nhân nguyên tử (bên cạnh George Zweig độc lập), mô tả các tính chất khác thường của chúng, một phát kiến thiên tài, điều sau đó được thực nghiệm ở các máy gia tốc mạnh xác nhật tuyệt vời như một sự tiên tri.

Năm 1955, với sáng kiến của Feynman, Gell-Mann được bổ nhiệm làm giáo sự tại Đại học Celtech, một năm sau trở thành giáo sư thực thụ, giáo sư trẻ nhất (27) ở Caltech và hoạt động ở đó cho đến lúc về hưu 1993. Caltech đã trả ông một số lương ưu đãi nhất thời bấy giờ để giữ ông lại trước sự cạnh tranh của các đại học danh giá khác. Feynman có lời đánh giá bất hủ về Gell-Mann: “Tri thức chúng ta về vật lý cơ bản không chứa một ý tưởng nào mà lại không mang tên của Murray Gell-Mann.” Những năm của thập kỷ 1960, một đồng nghiệp đã gọi Gell-Mann và Feynman là “hai tài sản nóng nhất” trong ngành vật lý lý thuyết của Hoa Kỳ.

http://www.achievement.org/achievers/gel0/large/gel0-006.jpg

Gell-Mann và Feynman: hai “báu vật nóng nhất” của ngành vật lý hạt của Hoa Kỳ.

Tại hội nghị khoa học tại Brookhaven năm 1963, sau khi thuyết trình, ông từ chối nộp bài để đăng. Thay vào đó ông nộp một trang về âm nhạc của bản giao hưởng dang dở của Schubert, và bài đã được đăng thay cho bài tham luận khoa học. Ông không là một người đơn giản. Vật lý hạt là một ngành rất cạnh tranh. Đấu tranh với nhau là “thường tình”. Bạn hôm nay có thể là đối thủ ngày mai. Gell-Mann có thể phản ứng một cách ‘không thương tiếc”. Không riêng gì ông, Feynman, hay Pauli hoặc Oppenheimer. Lee và Yang, nhiều năm sau vinh quang, đã chia tay một cách cay đắng. Ý tưởng của người này có thể bị quên lãng, chống bán, hay cả chế nhạo bởi người khác. Thuyết trường Yang-Mills ra đời năm 1954, nhưng mười năm tới, chẳng có ai mời hai tác giả thuyết trình cả. Tương tự, các ý tưởng Bát chánh đạo, mô hình quark của Gell-Mann, ý tưởng trường Higgs tạo khối lượng của Peter Higgs, hay ý tưởng lực hợp nhất điện-yếu của Weinberg, và cứ như thế.

Murray Gell-Mann nhận giải thưởng Nobel năm 1969

Năm 1969, tức năm năm sau sáng kiến mô hình quark và một năm sau khi quark được tìm thấy thật tại Trung tâm gia tốc tuyến tính Stanford (SLAC) ở California, ông được tặng giải Nobel “cho những đóng góp và khám phá liên quan đến sự xếp loại các hạt cơ bản và tương tác của chúng”. Nhưng tập sách đăng lại các bài nói chuyện của các nhà nhận giải năm đó có một trang để trống dành cho Gell-Mann! Ông đọc bài diễn văn nhưng không nộp bản thảo cho uỷ ban Nobel in. Ông là một trong 20 nhân vật được giải thưởng Nobel đã ký tên vào “Stockholm Memorandum” về Sự bền vững toàn cầu tại hội nghị Stockholm lần thứ ba năm 2011 của các vị được giải thưởng.

Ông là người có sở thích rất đa dạng và mạnh mẽ. “Tôi thích sự đa dạng và tôi thích lịch sử tự nhiên đằng sau sự đa dạng. Tại sao có nhiều ngôn ngữ, nhiều loài chim và cả nhiều chứng loạn thần kinh chức năng? Điều thú vị là tìm ra cấu trúc đằng sau đó.” Ông nổi tiếng có niềm đam mê mãnh liệt quan sát các loài chim. Theo George Johnson, tác giả tiểu sử Strange Beauty(2) về ông, thì Gell-Mann đã quan sát được gần bốn ngàn trong chín ngàn loài chim trên thế giới! Nhưng trong lãnh vực vật lý hạt, ông không phải chỉ “theo chim bắt bướm”, mà là kẻ sáng tạo, “thống lĩnh” thế giới hạt.

Một trong những bi kịch của đời ông là sự xa lìa hơn một thập niên khỏi đứa con gái Lisa của ông đã bỏ đi theo một nhóm Mác-Lê-Mao-ít cực tả đến mức độ cô ta không còn suy nghĩ lành mạnh nữa. Lisa là một cô gái rất thông minh từ nhỏ, giống như bố, và được mọi người kỳ vọng cũng sẽ trở thành một nhà khoa học xuất sắc. Nhóm này chỉ tan rã sau khi khối Đông Âu sụp đổ. Bản thân ông cũng có trải nghiệm không hay về chính trị, khi ông được mời có bốn buổi thuyết trình tại College de France tháng 6 năm 1972, nơi ông từng chiến đấu cho Bát chánh đạo. Vào buổi nói chuyện thứ ba ông thấy phòng chật ních cả trăm người tự nhận là Mao-ít được tổ chức. Họ không quan tâm đến các phép đối xứng trong vật lý hạt, mà chỉ quan tâm đến các bất đối xứng của quyền lực ngăn cách thế giới thứ nhất và thứ ba. Họ đã mắng chửi ông. Hôm sau, khi ông trở lại nói chuyện lần cuối, thì cũng thấy những người hôm trước có mặt ở đó, nên ông phải huỷ bỏ và được đưa ra khỏi giảng đường.

Đầu năm 2010, để vinh danh và mừng sinh nhật Gell-Mann 80 tuổi, một Hội nghị về Cơ học lượng tử, Hạt cơ bản, Vũ trụ học lượng tử và Phức hợp(3) được tổ chức trọng thể tại Đại học công nghệ Nanyang, Singapore, với sự đồng tổ chức của Viện nghiên cứu Santa Fe Institute, Hoa Kỳ, với sự tham dự của nhiều nhà vật lý giải Nobel kỳ cựu trong ngành vật lý hạt, trong đó có C.N. Yang. Proceedings của hội thảo này được nxb World Scientific Publishing House của Singapore phát hành.

NXX

Nguồn: Nguyễn Xuân Xanh, ngày 25.09.2019.

Tóm tắt: Dưới thời nhà Minh và nhà Thanh, vì các lý do chính trị và kinh tế, một số lượng lớn người dân ven biển đã rời bỏ quê hương ra nước ngoài sinh sống. Năm 1671, một người Hải Khang ở Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, là Mạc Cửu “Vì không thể chịu nổi sự nhiễu loạn vì rợ Hồ xâm nhập”, đã vận động gia tộc vượt qua Hải Nam đến nương nhờ nước Chân Lạp làm khách”. Tại đất Hà Tiên của Chân Lạp, Mạc Cửu đã dốc sức phát triển thế lực, xây dựng thị trấn, làng mạc, và đưa Hà Tiên thành một vùng dân cư đông đúc, “Hoa di chung sống”, một hải cảng phồn vinh, mang tính quốc tế, mà thời đó gọi là “Cảng khẩu quốc”; sau theo về Quảng Nam (đúng ra phải là Thuận Hóa*) xin làm thần thuộc. Sau khi Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ đã coi trọng phát triển kinh tế và tích cực mở rộng giao thương với Trung Quốc, Bán đảo Malaysia và quần đảo Indonesia, biến Hà Tiên thành một hải cảng thịnh vượng ở Đông Nam Á, được gọi là “Quảng Châu nhỏ”, đóng góp quan trọng cho sự phát triển và tiến bộ xã hội của Nam Việt Nam. Trong những năm gần đây, tác giả đã đến Hà Tiên của Việt Nam và Lôi Châu, Quảng Đông, để điều tra về lịch sử của gia tộc Mạc, và tìm thấy một số tư liệu văn bia và tộc phả mới trong ngôi đền thờ tổ tiên họ Mạc ở Hà Tiên và nghĩa trang của gia tộc ở thôn Đông Lĩnh, Lôi Châu, có giá trị sử liệu rất cao. Kết hợp các kết quả nghiên cứu và các tài liệu liên quan của các bậc tiền nhân về sự khởi phát của gia tộc họ Mạc, Mạc Cửu di cư về phương nam, cha con họ Mạc và sự hưng suy của chính quyền Hà Tiên, tác giả tiếp tục khám phá và suy ngẫm thêm nhằm phát triển học thuật ở trình độ cao.

Vào thế kỷ 17, Trung Quốc đang trong quá trình động loạn thay đổi triều đại, một số lượng lớn dân chúng không hài lòng với sự thống trị của triều đại nhà Thanh đã di cư ra nước ngoài, tới Triều Tiên và Nhật Bản ở Đông Bắc Á, đến An Nam, Campuchia, Xiêm La, bán đảo Malaysia, cho đến tận các quần đảo Indonesia và Philippines ở Đông Nam Á, còn có cả những người Hoa lưu vong thân ảnh. Trong thế kỷ 17, di dân mang tính chính trị đã trở thành một đặc trưng quan trọng của dòng lưu dân người Hoa hướng ra nước ngoài. Năm 1671 (Khang Hy năm thứ 10), Mạc Cửu, người Hải Khang, Lôi Châu, Quảng Đông đã di cư đến Chân Lạp, tại Hà Tiên ông bắt đầu thành lập một chính quyền rất có ảnh hưởng, lấy người Hoa làm chủ thể, có quân đội riêng, quan chức tự trị, tự chủ ngoại giao, cho đến độc lập tự chủ cả kinh tế; ngoài ra, ông còn theo làm phiên thần cho Chúa Nguyễn của Việt Nam, trở thành thành viên của “hệ thống triều cống” của Nhà Chúa. Mạc Thiên Tứ con trai ông kế vị, lấy chế độ và văn hóa của nhà Minh làm mẫu mực, xây Khổng miếu, lập Nghĩa học (học không mất tiền*), dạy thi thư, tương dung văn hóa các dân tộc địa phương với văn hóa tôn giáo Châu Âu, bắt tay khởi dựng một thứ văn chất tốt đẹp, có sắc thái “y quan văn vật chi bang” (nước có lễ nghi phép tắc) đậm chất Trung Hoa bên bờ đại dương, và trong các mối quan hệ quân sự và ngoại giao xung quanh cục diện chính trị quốc tế của bán đảo Đông Dương, có tác động quan trọng đến sự phát triển của lịch sử các quốc gia như Việt Nam và Campuchia.

Liên quan đến họ Mạc và chính quyền Hà Tiên, sách “Gia Định thành thông chí” của nhà cổ tịch học Việt Nam Trịnh Hoài Đức, và “Hà Tiên trấn diệp trấn Mạc thị gia phả” của Vũ Thế Doanh đều có ghi chép, ngoài ra sách “Đại Nam thực lục”, “Đại Nam nhất thống chí” thời Tự Đức, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, cho đến “Thanh thực lục”, “Thanh triều văn hiến thông khảo” của nhà Thanh đều rải rác ghi chép. 

Từ những năm 1950 trở đi, các học giả người Pháp E. Gaspardone, Maybon, học giả người Canada William E. Willmott và học giả người NhậtFujiwara Riichiro đều có những thảo luận hữu ích về các đóng góp và quan hệ đối ngoại của chính quyền Hà Tiên. Vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, chuyên gia lịch sử Trung Quốc nổi tiếng ở nước ngoài Trần Kinh Hòa giảng dạy tại Đại học Huế ở Việt Nam, đã thu thập một số tư liệu và tài liệu khảo cổ học có giá trị, tổ chức nghiên cứu một cách có hệ thống cây gia phả và dòng dõi họ Mạc. Từ sau thập niên 1970, học giả người Đài Loan Trịnh Thụy Minh và những người khác đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị. (1) Vào năm 1996, Nhà xuất bản Sách cổ Trung Châu của Đại học Trịnh Châu đã xuất bản các thư sách “Gia Định thành thông chí”, và “Hà Tiên trấn diệp trấn Mạc thị gia phả” và giới thiệu các thư tịch chữ Hán quý báu của Việt Nam cho người Trung Quốc, khiến cho việc nghiên cứu chính quyền họ Mạc trở nên thuận lợi hơn nhiều.

Trong những năm gần đây, tác giả đã đến Hà Tiên của Việt Nam và Lôi Châu, Quảng Đông, để điều tra về lịch sử của gia tộc Mạc, và tìm thấy một số tư liệu văn bia và tộc phả mới trong ngôi đền thờ tổ tiên họ Mạc ở Hà Tiên và nghĩa trang của gia tộc ở thôn Đông Lĩnh, Lôi Châu, có giá trị sử liệu rất cao. Kết hợp các kết quả nghiên cứu và các tài liệu liên quan của các bậc tiền nhân về sự khởi phát của gia tộc họ Mạc, Mạc Cửu di cư về phương nam, cha con họ Mạc và sự hưng suy của chính quyền Hà Tiên, tác giả tiếp tục khám phá và suy ngẫm thêm nhằm phát triển học thuật ở trình độ cao.

1. Vọng tộc của bán đảo – Họ Mạc hưng khởi

1.1. Họ Mạc thiên di đến Lôi Châu

Lôi Châu nằm ở bán đảo Lôi Châu, phía tây Quảng Đông, tương liên với Đại lục ở phía bắc, và biển ở phía đông và phía tây, đối diện với Hải Nam về phía biển. Theo bán đảo Lôi Châu, giữa đảo Hải Nam và Việt Nam ở phía tây là vịnh Bắc Bộ, còn được gọi là Vịnh Đông Kinh, có diện tích khoảng 130.000 km2. Khu vực này có nhiều cảng dọc theo bờ biển và các đảo nhiều tựa sao giăng cờ bày (tinh la kỳ bố), trên con đường huyết mạch giao thông hàng hải giữa Nam Trung Quốc và Đông Nam Á, trong lịch sử, đây là một khu vực biển quốc tế có sự trao đổi thường xuyên liên tục, cấu thành một hệ thống thương mại hàng hải tương liên mật thiết với Vịnh Bắc Bộ. Theo ghi chép của các sử sách Trung Quốc, từ Lôi Châu về phía tây “thông với quốc gia chư hầu An Nam, về phía đông “lênh đênh trên biển nối Ân Châu, Hoài Chiết (Hà Nam, An Huy, Giang Tô, Chiết Giang*), Phúc Kiến v.v., do đó, nó thường được các thương nhân từ Phúc Kiến, Chiết Giang và Quảng Đông ghé thăm. (2) Điển tịch nhà Đường “Nguyên Hòa quận huyện đồ chí” cho biết: “Từ Văn, vốn huyện cũ thời Hán vậy, cũng thuộc quận Hợp Phố... Thời Hán đã thiết lập xung quanh huyện Hầu Quan, cách huyện 7 dặm về phía nam, tích trữ hàng hóa ở đây, chuẩn bị theo nhu cầu, nên giao dịch rất có lợi, vì vậy ngạn ngữ cổ mới nói: Tham vọng thắng bần hàn, giỏi giang rồi sẽ vang danh (Dục bạt bần, nghệ từ văn) (3). Vào những năm 1940, nhà Đông phương học nổi tiếng người Pháp Georges Coedès đã chỉ ra rằng từ khi có sử đến nay, từ bán đảo Mã Lai mở ra đến các đảo xung quanh, hình thành một hàng rào tự nhiên bởi Biển Trung Quốc, Vịnh Xiêm La và Biển Java, vì vậy một số học giả gọi vùng biển vịnh Bắc Bộ là “Tiểu Địa Trung Hải” (4).

Trong thời Tần, Lôi Châu trực thuộc Tượng Quận. Nam Triều, thời Lương Vũ đế tách Hợp Phố, đặt thành Hợp Châu, năm Đại Nghiệp thứ hai nhà Tùy bỏ Hợp Châu, lấy huyện Hải Khang phụ thuộc vào Hợp Quận. Đường Vũ Đức năm thứ tư, gộp nam Hợp Châu, quản bốn huyện Hải Khang, Tùy Khang (sau đổi thành Toại Khê), Thiết Ba, và Châm Xuyên. Năm Trinh Quán thứ tám đổi đông Hợp Châu thành Lôi Châu, Thiên Bảo nguyên niên đổi thành quận Hải Khang, Can Nguyên nguyên niên gộp vào Lôi Châu. Các triều đại nhà Tống và Nguyên vẫn theo như vậy. Vào thời nhà Minh, Lôi Châu quản ba huyện Hải Khang, Toại Khê, và Từ Văn, Hải Khang được gộp vào Quách Huyện và lập thành hai “sương” (vùng, bên), bao gồm “ngung” (góc, cạnh) đông bắc và “ngung” tây nam. Có hai hương, trong đó hương Diên Đức quản 5 đô: Nhất, Nhị, Tứ, Ngũ, và Lục; hương Diên Hòa cũng quản 5 đô, gồm: Thất, Cửu, Thập, Thập Nhất, Thập Nhị (5). Đến đầu đời Thanh đổi “sương” thành “ngung”, lập 2 ngung, 2 hương, 10 đô; dưới hương lập 20 xã, 30 thôn, Lê Quách là một trong hai xã đó. Năm Khang Hy thứ 26, hai xã Na Hòa và Quan Sơn gộp thành xã Quan Hòa, tổng cộng huyện Hải Khang có 19 xã (6).

Trong thời Minh Thanh, họ Mạc sống tại thôn Đông Lĩnh và thôn Lê Quách, xã Lê Quách. “Lôi Châu phủ chí” thời Gia Khánh ghi xã Lê Quách gồm bốn thôn: “Thôn Lê Quách, cách thành hai mươi dặm về phía tây, Mạc tính (姓tính: họ mẹ*) nối đời ở đây; thôn Bình Nguyên cách thành mười lăm dặm về phía tây, là nơi Hoàng tính (姓 tính: họ mẹ*) cư ngụ; thôn Điều Sảng cách thành mười hai dặm về phía tây, là đất Trần tính (姓 tính: họ mẹ*); thôn Đông Lĩnh, cách thành hai mươi dặm về phía tây là nơi Mạc thị (氏 thị: họ cha*) nối đời sinh sống” (7). “Hải Khang huyện chí - Cương vực chí” mục “Lê Quách xã” thời Gia Khánh ghi chép giống với phủ chí. Họ Mạc ở thôn Lê Quách có trưởng phòng, họ Mạc thôn Đông Lĩnh có thứ phòng, phòng ba, phòng bốn, phòng năm, phòng sáu, phòng bảy.

Theo nhiều bản khắc được lưu giữ trong Hội quán tổ tiên của họ Mạc Đông Lĩnh, nguyên quán họ Mạc ở Phúc Kiến, thủy tổ thọ Mạc là Mạc Dữ làm thị ngự trong những năm đầu của nhà Nguyên, vì trực ngôn nên bị biếm đến phủ Lôi Châu làm kinh lịch [1] vì đó là vùng biển quê nhà (8). Bài tựa “Trưởng phòng nhất xuân” (Trưởng tộc một mình tổ phụ) của Mạc Nhữ Tương họ Mạc Lê Quách, viết: “Thủy tổ khai cơ họ ta vốn là người Long Khê, phủ Chương Châu, Phúc Kiến, được ban chức quan Tiến sỹ, Viện trưởng Đô sát viện [2], Tả đô ngự sử, tên thụy là Trung Trực, tên húy Dữ công, tên tự là Nguyên tể Lôi Châu, con cháu nối đời giữ lấy…(9). “Mạc thị tộc phả” Đông Lĩnh có một thiên ghi Minh Nam Lễ bộ Thượng thư Vương Hoằng Hối [3] soạn “Đông Lĩnh Mạc thị thế hệ tộc phả tự”, cũng nói là “Mạc thị chi tiên mân sản dã.” (Họ Mạc do tổ tiên ở Phúc Kiến sinh ra vậy) (10). Tuy nhiên, theo “Lôi Châu phủ chí – Chức quan chí” đời Gia Khánh, mục “Kinh lịch” ghi lại, triều đại nhà Nguyên Kinh lịch Lôi Châu chỉ có ba người, đó là Nguyên Bích, Quách Tư Thành, Phiền Ích Tuấn, mà không hề có Mạc Dữ, tuy nhiên, hồ sơ giảng sư lại có Mạc Dĩ Đạo. (11) Không biết đó có phải là Mạc Dữ không? Lẽ nào tộc phả lại ghi chép sai?

Mạc Dữ được công nhận là thủy tổ nhập Lôi Châu của họ Mạc, chết táng tại Bạch Sa, dốc Phùng Thôn, ngôi mộ hiện vẫn còn. “Trưởng phòng nhất xuân”, mục “Cự Lộc quận [4] Thái thủy tổ nhất thế Mạc Dữ” (Thái thủy tổ đời thứ nhất người quận Cự Lộc Mạc Dữ) của họ Mạc Lê Quách viết: “Công hưởng dương thọ 84 tuổi,…Công và mẹ  táng tại thôn Phùng, xã Đường Vĩ, huyện Hải Khang. Liên quan đến Mạc Dữ trở xuống vài đời, có những khác biệt trong gia phả của họ Mạc ở hai thôn Đông Lĩnh và Lê Quách. “Trưởng phòng nhất xuân” của họ Mạc Lê Quách ghi là Mạc Dữ sinh hạ hai con trai, con cả là Tiên Tri, con thứ là Tiên Giác, là đời thứ hai. Tiên Tri sinh ba con trai: Khiêm, Trung, Kinh là đời thứ ba. Khiêm sinh ra Khanh, là đời thứ tư, cử nhân khoa Tân Mão đời nhà Minh. Với trường hợp Tiên Giác, “Trưởng phòng nhất xuân” không ghi cụ thể, chỉ viết: “Công kế thừa thủy tổ với phận con thứ, là bào đệ của Tiên Tri công vậy,…tách ra sống tại thôn Đông Lĩnh”.Điều đó cho thấy ngay từ rất sớm họ Mạc đã phân cư ra hai thôn Lê Quách và Đông Lĩnh và phát triển riêng.

“Mạc thị tộc phả” thôn Đông Lĩnh tất có ghi lại rằng Mạc Dữ sinh một trai Tiên Giác, là đời thứ hai mà không hề nói đến “bào huynh” Mạc Tiên Tri. Tiên Giác sinh ba trai: Tri Mệnh, Như Mệnh, Như Nghĩa là thế hệ thứ ba. Vài đời đến đời thứ tám Dũ Lương, sinh bảy trai, phân thành bảy phòng. Họ Mạc đời thứ chín phòng thứ là Hoa, phòng ba là Ấu chết, phòng bốn là Nhu, phòng năm là Dụ, phòng sáu là Tung, phòng bảy là Dịch. Phòng sáu Tung sinh bốn trai: Ẩn Hiền, Ẩn Tính, Ẩn Nghĩa, Ẩn Trí là đời thứ mười. Truyền đến đời thứ mười một, họ Mạc Đông Lĩnh không chỉ giàu nhất một phương với rất nhiều điền sản tài vật, mà còn là một gia đình hoàng kim khoa bảng, thành một vọng tộc ở bán đảo Lôi Châu.

Tộc phả họ Mạc Lê Quách và Đông Lĩnh mô tả khác nhau về tổ tiên của họ, người ta nói rằng huynh đệ tổ tiên đã không còn hòa thuận, nhưng không rõ tình hình cụ thể. Căn cứ vào “Trưởng phòng nhất xuân” của họ Mạc Lê Quách, ghi chép thế thứ Mạc Khanh (đời thứ tư) để tính toán thì phả này ghi không chính xác về dòng dõi tổ tiên trên Mạc Khanh, và phải có thiếu sót. Ngày nay, đền thờ họ Mạc thôn Đông Lĩnh, duy nhất vẫn còn giữ được tên người viết bài minh “Dịch thế y quan” (Nối đời làm quan) trên bia, về thế thứ thì Mạc Khanh là đời thứ chín, bởi vì trong bảy năm đời Minh Thành Hóa (1464 – 1487*), ông đã giành được danh tiếng, thì thủy tổ họ Mạc nhập Lôi Châu đại để là vào thời Đại Đức (1297 – 1307*) nhà Nguyên có lẽ hợp lý hơn. “Trưởng phòng nhất xuân” ghi lại rằng Trưởng phòng Mạc Trung là tổ tiên thứ ba, điều đó là không chính xác. Nếu Mạc Trung và Mạc Khanh là cha con, thì không có sai sót nào về thế thứ, và Mạc Trung đương nhiên phải là Trưởng phòng đời thứ tám. Tộc phả chép ông là “Phủ học tuế cống sinh, nhậm chức tuần kiểm Giao Chỉ Bắc Nhai” (12), đương nhiên là chỉ thời Minh Thành tổ (1402 – 1424*). Vĩnh Lạc năm thứ tư (1405*), Minh Thành tổ phái Chu Năng, Mộc Thịnh, Trương Phụ, v.v., đánh An Nam, chiếm đất đó lập thành “Quận huyện”, bố trí Bố chánh ty Giao Chỉ, và phân thành 17 phủ, 157 huyện, và sau đó đến thời Tuyên Đức năm thứ hai, bỏ Giao Chỉ, trong khi đó, một số lượng lớn các quan chức phủ huyện đã được chọn từ các tỉnh lân cận như Quảng Đông và Quảng Tây, và Mạc Trung có thể được tuyển dụng nhậm chức tại Giao Chỉ.

1.2. Nhân tài họ Mạc hưng thịnh dưới thời nhà Minh

Tên của họ Mạc trong các kỳ khoa cử công danh đã thu hút sự chú ý của người đời, trước hết, đó là cống sinh Mạc Trung, trưởng phòng đời thứ tám, nhậm chức tuần kiểm Giao Chi Bắc Nhai. Trưởng phòng đời thứ chín Mạc Khanh được bổ nhiệm làm chi huyện, và đó là một sự kiện vinh quang mang tính thời đại trong lịch sử của Gia tộc Mạc ở Lôi Châu. Mạc Khanh là người đỗ đạt năm Tân Mão, Thành Hóa thứ bảy. “Phúc Kiến thông chí”, “Trường Thái huyện chí” đời Khang Hy có ghi lại rằng Hoằng Trị năm thứ năm Mạc Khanh nhậm chức tri huyện Trường Thái (13).

Đại tông từ họ Mạc thôn Lê Quách có hai tấm biển đề “Nhất ngạc” (一 鹗Con chim ưng biển đầu đàn) và “Chung tú” (鐘秀 Hội tụ tú khí linh thiêng), được làm từ thời nhà Minh. Biển đề “Nhất ngạc” còn ghi “Quý dậu khoa cử nhân Mạc□□”, v.v. “Quý dậu khoa” chính là Khoa thi Quý dậu năm Chính Đức, cho thấy rõ năm Chính Đức thứ tám (1512*) vẫn có người là Trưởng phòng trúng cử. Ngoài ra còn có các dòng chữ “Tuần án Quảng Đông giám sát ngự sử cao công…”, “Đề đốc…”, “Quảng Đông bố chánh ti phân ti”, “Chính Đức Ất hợi”, “Quý dậu khoa cử nhân Mạc□□” v.v. Chính Đức Ất hợi chính là năm Chính Đức thứ mười (1514*). Căn cứ vào ghi chép của sách “Quảng Đông thông chí” thì “Tuần án Quảng Đông giám sát ngự sử Cao công…” chính là Cao Công Thiều, người Nội Giang, Tứ Xuyên, tiến sỹ năm Ất sửu. (14) Họ Mạc được các cao quan ở Quảng Đông như Công Thiều tôn vinh cho thấy thời Thành Hóa – Hoằng Trị - Chính Đức (1464 – 1521*) gia tộc họ Mạc có thế lực và ảnh hưởng lớn tại địa phương.

Từ thời Gia Tĩnh (1521 – 1566*) về sau một số nhân tài họ Mạc đã đạt được công danh, tiến nhập quan trường, thậm chí cả việc nhậm chức tại Kinh sư, trong số đó Phòng bốn thể hiện là tột đỉnh xuất sắc. Trong tông từ họ Mạc tạiĐông Lĩnh vẫn giữa được thư tịch “Mạc thị Thế tổ từ tự tự” (Thứ tự thờ cúng các vị tổ họ Mạc) do Mạc Thiên Nhiên soạn vào năm Tân sửu Vạn Lịch thứ 29 (1601) có ghi sự tích họ Mạc về khoa cử thì truyền tục đỗ đạt, công nghiệp thì lớn lao chói lọi (Khoa đệ thiện tục, huân nghiệp hách dịch) như sau:

Họ Mạc ta, tổ tiên người đất Mân, thủy tổ tên húy là Dữ, đầu đời nhà Nguyên làm thị ngự (phục dịch nhà vua*), vì lời nói mà bị trách phạt đưa về Hải Khang, tức quê nhà Đông Lĩnh này vậy, nối đời làm người Hải Khang. Truyền đến đời thứ hai húy Tiên Giác công, nhậm chức học lục [5]; đời thứ tám tên húy Phủ công, nhậm chức Học chính [6]; vốn đều là nhân tài được tiến cử lên triều đình. Đời thứ chính tên húy Khanh công, do hương tiến làm ấp lệnh (tức huyện lệnh, đứng đầu huyện); đời thứ mười húy Huệ công, nhậm chức giám thừa [7]; tên húy Ngạn Nam công, nhậm Học chính; đều do tiến cử nhân tài hàng năm. Đời thứ mười một, người anh thứ hai húy Thiên Phú, thi đậu Tiến sỹ khoa Nhâm tuất Gia Tĩnh, lần lượt nhậm chức hiến phó (thời nhà Thanh là phó trưởng quan Đô sát viện, phụ trách Giám sát, Luận tội và Kiến nghị hình phạt, biệt xưng là Tả phó đô ngự sử*) Quảng Tây; người anh kế húy Lữ, nhân tài được tiến cử làm ty giáo; đời thứ mười hai, con trai của người anh thứ hai là Nhĩ Tiên, được tiến cử năm Mậu tý đời Vạn Lịch, từ đó khoa cử thì truyền tục đỗ đạt, công nghiệp thì lớn lao chói lọi, công thành như ý vậy.  

Cổng bài phường (tưởng niệm) tại Tông từ họ Mạc thôn Đông Lĩnh "Đời đời làm quan" (Dịch thế y quan - Đời đời mũ áo) ghi lại công danh 12 đời họ Mạc, bên phải là “Khoa giáp” (Đỗ đạt) ghi tên bốn người:


(1.) Thủy tổ Mạc Dữ, tiến sĩ, sĩ□.

(2.) Đời thứ chín Mạc Khanh, cử nhân, sĩ huyện□□.

(3.) Đời thứ mười một Mạc Thiên Phú, tiến sĩ, lịch□ phó.

(4.) Đời thứ mười hai Mạc Nhĩ Tiên, cử nhân.

Bên trái là “Cống giám” “Tuế cống” (Tiến cử) ghi tên 8 người:

(1.) Đời thứ hai Mạc Tiên Giác, cống sĩ, sĩ học□.

(2.) Đời thứ tám Mạc Phủ, giám sinh, sĩ học chính.

(3.) Đời thứ chín Mạc Huệ, giám sinh, sĩ giám thừa.

(4.) Đời thứ chín Mạc Nam Ngạn, cống sĩ, sĩ giáo dụ.

(5.) Đời thứ mười một Mạc Lữ, cống sĩ, tuyển ti giáo.

(6.) Đời thứ mười hai Mạc□, giám sinh, phụng sai lễ bộ chính sử.

(7.) Đời thứ mười hai Mạc Nhữ Hàn, tuyển cống sĩ Nịnh Viễn huyện lệnh.

(8.) Đời thứ □□□ Mạc Nhược Mẫn, giám sinh, sĩ quang lộc thự thừa.

Xét “Mạc thị Thế tổ từ tự tự” (Thứ tự thờ cúng các vị tổ họ Mạc) kể lại và đề danh khoa cử của “Dịch thế y quan” ở cổng Bài phường (cổng tưởng niệm)có hơi khác nhau, “Mạc thị Thế tổ từ tự tự” chép là đời thứ mười Mạc Huệ Công, Ngạn Nam công, còn Đề danh khoa cử lại ghi là đời thứ chín, và “Ngạn Nam công” thì viết là “Nam Ngạn công”, không biết cái nào đúng. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng từ đời thứ chín về sau số người họ Mạc đắc công danh khoa cử đã tăng đáng kể, Phòng bốn đời thứ mười một gồm anh em Mạc Thiên Phú, Mạc Thiên Nhiên là nổi tiếng nhất. Mạc Thiên Phú, tự Tử Dực, vốn tính tình ngay thẳng. Năm Kỷ dậu Gia Tĩnh (1549) được tiến cử, khích lệ chí khí, không dám cẩu thả cùng dòng tục. Năm Nhâm tuất (1562) đỗ hạng tiến sỹ, được bổ làm Phủ Điền lệnh (Trưởng quan) Phúc Kiến, gặp lúc cương giới ven biển không yên, địa phương động loạn, Thiên Phú chiêu tập người lưu tán, thu vén đổ nát, nhờ đó cả một phương trở nên yên ổn.

“Việt Đại ký” của Quách Phỉ viết khi vết thương vừa mới khởi phát, mà dòng người lưu tán vì đói khát đã lên đến hàng ngàn. Thiên Phú yên ủi úy lạo, dân tranh giành để được trợ giúp.  Giặc cướp địa phương trốn trong thành, lũ xấu ác rời khỏi hang ổ, kết đảng hoành hành, lột quần áo, đoạt vàng bạc, ngay tại cổng làng quen thuộc cũng chẳng ít oan sai. Sau hàng loạt tham cứu kiến nghị của phủ quan, vài chục người nhân đó mà liên lụy. Thiên Phúmật bạch với quận thủ [8] để trao đổi đàm đạo, yết bảng phủ dụ các thôn làng, lũ mạc quan (quan sau màn trướng, quan ở hậu trường*) bắt đầu co tay lại, không dám phạm tội. Lũ học trò (chư sinh [9]) y phục thô phác không thể thi lễ tất cấp cho quan phục và tiền. Nông dân bị khốn khó bại hoại không có trâu bò ruộng đất nông cụ tất được chia gia súc, giống má. Kiện lên tỉnh chuộc tiền, xóa tội nên đều êm đẹp, vậy nên người tin phục, đường đi hanh thông, sừng sững sum suê tươi tốt, Lỗ Cung [10] của Trung Mưu [11] cũng không hơn vậy. (15)

Mạc Thiên Phú làm Phủ Điền lệnh (Trưởng quan) Phúc Kiến, công nghiệp hanh thông, đời Vạn Lịch năm thứ ba (1575) ông được cất nhắc làm chủ sự Bộ hình ở Mân Nam, vì thế quan dân Phủ Điền vài trăm người nhờ ông mà thăng tiến. Kể từ đó quan dân Tứ Thượng (bờ bắc Tứ Thủy) tôn ông làm lệnh, lại cai quản thiện chính, nên dân chúng làm ca dao khen: “Xưa Hải Khang, Nay Tứ Thượng” (昔有海康,今有泗上 Tích hữu Hải Khang, kim hữu Tứ Thượng) (16). Ông đã mất mà thấy như vẫn còn ở đó. “Lôi Châu phủ chí” đời nhà Thanh viết: “Công nghiệp lẫy lừng, người Phủ Điền luôn tưởng nhớ, đời đời cúng tế” (17)    

Ngay sau khi Thiên Phú được thăng cấp Nam Hình bộ Lang trung, ông luôn xét đoán thận trọng. Làm thái thú Đại Lý, ông thăm nom những kẻ nghèo khổ tật bệnh, dốc sức hưng thịnh địa phương. “Phế bỏ lao động cưỡng bức cho dân đen, giảm hạn ngạch phân chia khai thác khoáng vàng, cứu sống hàng trăm nhân mạng. Lại cứu tế kẻ sa cơ, chẩn cấp người già cả, khuyến học, nuôi tài. Khi đó có khúc ca Thiệu Đỗ, lập bia Đức Chính ghi chép công nghiệp của ông.” Năm Vạn Lịch thứ tư, thăng Phó sứ đạo Hữu Giang, Quảng Tây, chưa kịp nhậm chức thì mất tại gia. Mạc Thiên Phú làm quan đều có thành tích trị dân, được người đương thời khen ngợi, “Sĩ phu Lôi Châu gọi ông là người tài học, tiết tháo, tất là Thôi Trọng công (người thúc đẩy sự cao quý) vậy (18). “Việt đại kí” của Quách Phỉ liệt ông vào hàng quan “Lòng lành, đức cả”.

_____________________________________   

Nguồn: 鄚玖與河仙政權(港口國); 南方華裔研究雑志,第四卷 Mạc Cửu dữ hà tiên chính quyền (cảng khẩu quốc); nam phương hoa duệ nghiên cứu tạp chí, đệ tứ quyển, 2010.

Người dịch: Hà Hữu Nga

Tác giả: 慶新 Lý Khánh Tân sinh năm 1962, người Yết Tây, Quảng Đông. Cử nhân Lịch sử, Đại học Tôn Dật Tiên, Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Nam Khai, Nghiên cứu sinh, Viện Lịch sử và Địa lý, Đại học Phúc Đán. Ông hiện là giám đốc của Viện Lịch sử và Tôn Trung Sơn của Viện Khoa học Xã hội Quảng Đông, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Đại dương Quảng Đông, và Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Hàng hải (CSSCI). Ông còn là thành viên của Hiệp hội Lịch sử Trung Quốc, Phó chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Lịch sử Giao thông Trung Quốc, Giám đốc điều hành của Hiệp hội Lịch sử Trung Quốc ở nước ngoài, Hiệp hội Lịch sử Kinh tế Trung Quốc, Hiệp hội Lịch sử Đối ngoại Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội Lịch sử Quảng Đông và “Nghiên cứu Lý thuyết Lịch sử”, “Con đường tơ lụa”, “Nghiên cứu học thuật”, “Khoa học xã hội Quảng Đông” và thành viên các ban biên tập khác, thành viên Ban chỉ đạo quốc tế Mạng lưới lịch sử toàn cầu, nhà nghiên cứu tại Trung tâm hợp tác nghiên cứu và đổi mới biển Nam Trung Quốc của Đại học Nam Kinh, Nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Công nghiệp văn hóa biển của Đại học Quảng Châu, Nghiên cứu Cơ sở Văn hóa Nhập cư của Đại học Phúc Đán.

Chú thích của người dịch

[1] Kinh lịch (經歷), vị trí quan văn thời cổ ở Trung Quốc, là quan chức của chính quyền trung ương và địa phương, được nhà Kim và nhà Nguyên thành lập, quản các tài liệu và các công việc hàng ngày khác. Thời nhà Minh thường là phụ tá của trưởng quan quân chính, tương đương với tham quân từ nhà Tống trở về trước.

[2] Đô sát viện (都察院) là tên quan thự chính thức của triều đại nhà Minh và nhà Thanh, được phát triển từ Ngự sử đài của các triều trước, chịu trách nhiệm giám sát, luận tội và kiến nghị, cùng với Bộ hình và Đại lý tự được gọi là Tam pháp ty, trong trường hợp đại án, do Tam pháp ty hội thẩm thì gọi là “Tam ty hội thẩm”. Năm thứ 15 (1382) đời Minh Hồng Vũ, đổi Ngự sử đài thành Đô sát viện, trưởng quan là tả hữu đô ngự sử, dưới có phó đô ngự sử, thiêm đô ngự sử. Theo đó, 13 đạo trong cả nước lập giám sát ngự sử, tuần án châu huyện, chuyên khảo sát quan lại, trưng ra những việc làm sai trái mà luận tội. Vào thời nhà Minh, đô sát viện không chỉ giám sát các cơ quan tư pháp, nó còn có quyền “án lớn thì dâng tấu tài phán, án nhỏ thì phán quyết” (大事奏裁,小事立断 đại sự tấu tài, tiểu sự lập đoán) và là cơ quan giám sát cao nhất. Thời nhà Thanh đổi lấy tả hữu phó đô ngự sử chính thức là quốc hàm tổng đốc, tuần phủ (thời Minh đô ngự sử, phó đô ngự sử đô kiêm dùng gia hàm - hư hàm) để làm phương tiện hành sự. Năm Càn Long thứ mười ba (1748), bỏ tả thiêm đô ngự sử.

[3] Vương Hoằng Hối (王弘誨1541 - 1617), tự Thiệu Truyền, hiệu Trung Minh, người huyện Định An, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông, nay là tỉnh Hải Nam. Chết được triều đình tặng Thái tử Thiếu bảo. Ông là danh thần nhà Minh, nhà giáo dục có tiếng, từng nhậm hàn lâm viện kiểm thảo, biên tu, khảo quan thi hội, Tế tửu Quốc tử lâm, Lại bộ hữu thị lang Nam Kinh, Lễ bộ thượng thư Nam Kinh. Tác phẩm văn học có “Thượng hữu đường cảo”, “Ngô việt du kí”, “Thiên trì thảo”, “Lai hạc hiên tập”, “Nam minh kì điện lục”, “Nam lễ tấu độc”, “Văn tự đàm uyển”. Sinh thời ông là vị quan hiền năng thanh chính, dân chúng đồng tình, quan tâm sự nghiệp giáo dục, lưu danh thơm ngàn đời. Vương Hoằng Hối thông minh hiếu học từ nhỏ, bác lãm quần thư, 20 tuổi thi hương trúng cử nhân đệ nhất danh, năm Gia Tĩnh 44 (1565) đỗ tiến sĩ.

[4] Cự Lộc quận (鉅鹿郡), hay Cự Lộc quốc, quận cổ của Trung Quốc, tên nước, do nhà Tần đặt ra, là một trong 36 quận thời Tần, tọa lạc tại thành phố Hình Đài, tỉnh Hà Bắc. Tần vương Chính năm thứ 25 (năm 222 TCN) diệt nước Triệu, lấy được quận Cự Lộc. Đầu thời nhà Hán thuộc Trùng Nhĩ nước Triệu. Hán Cao đế năm thứ 9 (năm 196 TCN), lấy Ẩn vương Lưu Như Ý làm Triệu vương, kiêm quản hai nước Triệu, Đại; đồng thì tách phần đông quận Cự Lộc lập thành quận Thanh Hà, và quận Hà Gian. Cảnh Đế năm thứ 3 (năm 154 TCN), các nước Triệu, Ngô, Sở, Tế Nam phát động “Thất quốc chi loạn”, sau khi dẹp xong loạn lạc, lấy quận Cự Lộc và quận Thanh Hà của nước Triệu. Thời Hán Vũ đế, chia phần nam quận Cự Lộc, lập quận Quảng Bình. Năm Thành Đế Nguyên Diên thứ tư (năm 9 TCN) quận Cự Lộc quản huyện Cự Lộc (nay là thành phố Hình Đài, huyện Bình Hương). Năm Nguyên Thủy thứ hai (2 SCN) thời Bình Đế phân quận Cự Lộc, lập nước Quảng Tông để con của Cảnh Đế là Đại Hiếu vương cúng tế, không lâu sau bị Vương Mãng soán ngôi nhà Hán nên phế bỏ.

[5] Học lục (學錄) là chức danh quan văn của Trung Quốc xưa, thuộc hàng quan chức cơ sở, được chính thức sắp xếp tại Quốc tử giám và cơ cấu nhà trường, tương đương giáo viên hoặc phụ trách hành chính giáo học. Năm 1910 nhà Thanh diệt vong nên phế bỏ chức quan này.

[6] Học chính (學正) là tên chức quan của Trung Quốc xưa, là người chịu trách nhiệm thực hiện các quy tắc và giám sát việc học. Thời Tống, Quốc tử giám bố trí cả Học chính quan và Học lục quan duy trì việc chấp hành học quy, khảo giáo việc dạy học. Đến thời Nguyên trừ Quốc tử giám, còn lại Bộ Lễ cho đến hàng tỉnh, tuyên vệ ty, cho đến các lộ, châu, huyện thì học quan đều gọi là Học chính. Quốc tử giám nhà Minh và nhà Thanh cũng đều bố trí như vậy. Thời Minh, Học chính hàm Chánh cửu phẩm, đầu nhà Thanh giữ nguyên, đến đời đầu Càn Long đổi thăng Chánh bát phẩm. Dưới thời nhà Thanh thì học quan ở các châu đều gọi là Học chính. Học chính là một trong những quan chức cơ sở. Nó được triển khai ở Quốc tử giám và chức ngạch tương đương với giáo viên hoặc quản trị viên trong hệ thống học đường. Vào năm 1910, sau sự sụp đổ của nhà Thanh, vị trí Học chính bị bãi bỏ.

[7] Giám thừa (監丞) thời nhà Thanh, là một vị trí quan văn chính thức được đặt ở Quốc tử giám, hàm chánh thất phẩm. Thời nhà Thanh, Quốc tử giám là trường học cao nhất trong hệ thống giáo dục, và Giám thừa là người chính thức phụ trách các quy tắc của trường. Vào năm 1910, sau khi nhà Thanh sụp đổ, vị trí này bị bãi bỏ.

[8] Quận thủ (郡守) là một loại quan danh chính thức thời cổ, là trưởng quan hành chính của một quận lần đầu tiên được lập ra vào thời Chiến Quốc. Các quốc gia thời Chiến Quốc tham chiến đã thiết lập các quận ở khu vực biên giới, phái các quan chức đến phòng thủ, bảo vệ nên có quan danh là “Thủ”. Vốn là võ chức dần trở thành trưởng quan hành chính điều hành địa phương. Sau khi thống nhất nhà Tần, hệ thống phân chia hành chính địa phương ở cấp quận, huyện được thực hiện, và mỗi quận đều có “Quận thủ” để cai quản dân chính.

[9] Chư sinh (諸生): các thí sinh ngày xưa tham gia các kỳ thi đã được nhận vào các trường trung ương, phủ, châu, huyện các cấp học, bao gồm cả sinh viên trường Thái học. Các sinh viên dôi dư (增生 tăng sinh), các sinh viên thêm vào (廩生 phụ sinh), các sinh viên hưởng bổng lộc (廩生 lẫm sinh), các sinh viên theo định lệ (例生 lệ sinh), v.v., đều gọi là “chư sinh”. 

[10] Lỗ Cung (魯恭 32-112), đại thần Đông Hán, tự Trọng Khang, người huyện Bình Lăng, quận Phù Phong (nay là thành phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây). Thời niên thiếu Lỗ Cung sống và học tập tại Thái học, tu tập Lỗ thi, đóng cửa giảng tụng. Sau đó nhậm chức quận lại, rồi lại được Thái phó Triệu Hi triệu vời tham gia hội nghị Bạch Hổ Quan, đảm nhậm huyenj lệnh Trung Mưu. Đương thì, thiên hạ bỏ khảo xét, chấp pháp bất nhất, nhưng tại Trung Mưu, Lỗ Cung lấy đức hóa mà cai quản, không coi trọng dùng hình phạt, mà vẫn an trị một phương. Sau vì tang mẹ nên thôi chức, rồi lại đảm nhậm thị ngự sử. Thời Hán Hòa đế (88 – 105 SCN), ông kiến nghị đình chỉ Đậu Hiến đánh Hung Nô ở phía bắc. Rồi nhậm chức Thị trung, Nhạc An quốc tướng. Vĩnh Nguyên năm thứ chín (97 SCN), đảm nhậm Nghị lang, rồi chuyển nhậm Quang lộc huân. Vĩnh Sơ năm thứ ba (109 SCN) có bệnh nên miễn quan, Vĩnh Sơ năm thứ sáu (112 SCN), Lỗ Cung mất tại nhà, thọ 81 tuổi. Con cháu: Lỗ Quỳ, làm quan đến chức Thái bộc, Đổng Trác thiên đô, theo Hán Hiến đế vào Quan Trung, cùng Vương Doãn đồng mưu diệt Đổng Trác. Bộ tướng của Đổng Trác là Lý Quyết, Quách Tỉ nhập thành Trường An, giết Thái bộc Lỗ Quỳ, Đại hồng lư Chu Hoán, Thành môn hiệu úy Thôi Liệt, Việt kị hiệu úy Vương Kì.

[11] Huyện Trung Mưu trực thuộc thành phố Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam. Nó nằm ở vùng nội địa của đồng bằng trung tâm và bờ sông Hoàng Hà. Nó thuộc về Trịnh Châu, thủ phủ của tỉnh Hà Nam. Nó được gọi là Phố Điền, Mưu Châu và nhà Hán lập huyện Trung Mưu, là nơi diễn ra Trận chiến Quan Độ lịch sử vào năm 200 tại bờ nam sông Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu là 2 thế lực quân sự mạnh nhất trong thời kì tiền Tam Quốc. Kết quả trận chiến là Tào Tháo đã tiêu diệt gần như hoàn toàn quân số của đối thủ lớn nhất Viên Thiệu, tiến tới đánh bại nốt các thế lực chống đối ở Trung Nguyên, tạo điều kiện xây dựng nên nhà Tào Ngụy đồng thời chấm dứt thời kì Tiền Tam Quốc.

Chú thích

*作者系廣東省社會科學院歷史與孫中山研究所所長、廣東海洋史研究中心主任、研究員。作者電郵:This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

*本文系2008 年國家社會科學基金專案“17-18 世紀華人南渡與越南社會”(08BZ052)的階段性成果。此文是作者首次發表于《海洋史研究》第一輯“鄚玖、鄚天賜與河仙政權(港口國)”(第171-216頁)一文的第一部分。

(1) 藤原利一郎:《鄚玖事蹟考》,《史窗》第五、六號(1954 年);同氏《廣南王阮氏ご華僑----特に阮氏の對華僑方針につぃて》,《東洋史研究》,第10 卷第5 期,1949 年。陳荊和:《河仙鄚氏世系考》,《華岡學報》第五期(1969 年);武世營撰、陳荊和注釋:《河仙鎮葉鎮鄚氏家譜注釋》,臺灣大學《文史哲學報》第七期(1955 年);鄭瑞明:《清代越南的華僑》,臺灣師範大學歷史研究所專刊,1976 年;同氏《十八世紀後半中南半島的華僑—河仙鄚天賜與暹羅鄭昭的關係及清廷的態度》,臺灣師範大學歷史研究所、歷史學會編《歷史學報》第六期(1978 年)。另外法國學者Maybon 的《安南近代史》(Histoire modernedu Pays d’Annam),加拿大學者William E. Willmott 的《柬埔寨的中國人》(The Chinese in Cambodia,Vancouver Canada: University of British Columbia,1967),張文和的《越南華僑史話》(臺灣黎明文化事業股份有限公司,1975 年)、呂士朋的《盛清時期的中越經濟關係—兼述華人對南圻的開發》(中央研究院近代史研究所編《近代中國初期歷史研討會論文集》下冊, 1989 年)等亦有述及。

(2) 樂史:《太平寰宇記》卷159《嶺南道·雷州》。

(3) 李吉甫撰、繆荃孫輯:《元和郡縣圖志闕卷逸文》卷3《嶺南道·雷州》,中華書局,1983 年;彭定求等編《全唐詩》卷877《徐聞諺》,中華書局,1960 年。

(4) G. 賽代斯(Georges Coedès):《東南亞的印度化國家》,蔡華、楊葆筠譯,商務印書館,2008 年,第14 頁。G. 賽代斯(Georges Coedès),過去誤譯為戈岱司或柯代司。2008 年3 月,澳大利亞國立大學、廣西社會科學院在廣西南寧舉辦了一個名為“小地中海:北部灣的歷史與未來”(A Small Mediterranean Sea: Gulf of Tongking through History)的國際性學術研討會,可見“小地中海”已經受到國際學界的關注。

(5) 黃佐:《廣東通志》卷15《輿地志·坊都》,香港大東圖書公司,1977 年。

(6) 鄭俊:《海康縣誌》卷上《輿地志》,海南出版社,2001 年。

(7) 雷學海修、陳昌齊纂:《雷州府志》卷2《地理志》,嘉慶十六年刊本。

(8) 明王弘誨:《海康莫氏族祠記》(萬曆辛卯年,1591),王弘誨:《莫氏嗣宗祠記》(萬曆丙申年,1596),柯時複:《莫公亞崖祠田跋》(萬曆二十五年,1597),何複亨:《莫公亞崖祠田記》(萬曆二十八年,1600),葉修:《海康莫氏族祠記》(萬曆壬寅年,1602),莫天然:《莫氏世祖祠自敍》(萬曆辛丑年,1601)等,

今存東嶺莫氏宗祠。

(9) 黎郭莫氏《長房一椿》,全名《廣東雷州海康縣黎郭社黎郭村莫西曆代宗公萬世系譜》,共三冊,版本不可辨識。篇首有“大明萬曆十八年歲次庚寅上浣六房十三世祖原任江西建昌府副府”莫行狀、“大清乾隆四十一年歲次丙申正月望五日六房十八世裔孫龍騰”莫汝驤所撰序言,10 《東嶺莫氏世系族譜序》,東嶺《莫氏族譜》謂明萬曆三十年南禮部尚書王弘誨撰,收錄於《族譜》卷首。東嶺《莫氏族譜》始修于道光十八年,同治八年、光緒二十四年、宣統三年、民國十六年、二十九年、1955 年、1968 年、1979 年、1986 年、1993 年、2001 年續修。

(10) 雷學海修、陳昌齊纂:《雷州府志》卷九《職官志》,嘉慶十六年刊本。

(11)同上。

(12) 黎郭村《長房一椿》“三世祖”條。

(13) 金鋐、鄭開極纂修:《福建通志》卷27《職官志》,北京圖書館古籍珍本叢刊,書目文獻出版社,1990年;王鈺修、葉先登等纂:《長泰縣誌》卷7《職官志》,國家圖書館藏清代孤本方志選,線裝書局,2001年。雷州白沙鎮“山裏宮”有《馮婷序言》碑刻,敍述明英宗時雷州府海四都徒閩村民馮仁義之女馮婷,“天資聰穎,識醫理,關照庶民,為凡解厄”;複建百草藥亭於村前,供鄉民歇息、飲茶、解疾,鄉民尊為仙女。一日,入山采藥,狂風大雨,鄉民遍尋不見,傳言已經仙化,皇天敕封“天曹聖娘”。題名“知縣莫卿撰”、“倡建人莫卿”、“首事”陳年修等六人、及“大明皇朝憲宗皇帝癸己年仲春吉旦豎立”。《序言》語涉怪誕,不合邏輯,當為後人托莫卿之名所作。黎郭村莫氏大宗祠保存有1997 年所立“鐘秀”石牌匾,並刻有銘文,據說是弘治壬子泰和府知府黃瑜為莫卿所立牌坊,民國時擴拆街道遺失,“今為保存先祖殊榮而仿製之”。

(14) 黃佐:《廣東通志》卷10《職官表》下,嘉靖三十六年刊本。

(15) 郭棐:《粵大記》卷20《獻征類》,黃國聲、鄧中貴點校,中山大學出版社,1998 年,第615 頁。

(16) 同上。

(17) 雷學海修、陳昌齊纂:《雷州府志》卷6《人物志》,嘉慶十七年刊本。

(18) 郭棐:《粵大記》卷20《獻征類》,第615 頁。

* Những chỗ có đánh dấu (*) cũng là ghi chú của người dịch.

Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/mac-cuu-va-chinh-quyen-ha-tien-cang-khau-quoc-i

TTO - Thèm bánh ướt, tôi chạy đến xe bánh ướt nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan vẫn còn được mang cái tên cũ mà thế hệ chúng tôi hay nhắc đến: bánh ướt Tân Văn. Tân Văn là tên của một trường trung học tư thục có xe bánh ướt bán trước cổng trường.

20190524 Tan Van

Ngôi biệt thự cổ góc đường Võ Văn Tần - Bà Huyện Thanh Quan đã một thời là Trường trung học tư thục Tân Văn - Ảnh: MAI THƯƠNG

Vâng, đó là Trường trung học tư thục Tân Văn, thuộc hệ thống trường trung học tư thục khắp Sài Gòn và miền Nam ngày trước. Và ngôi trường đó một thời nằm trong chính ngôi biệt thự Phương Nam ở góc đường Võ Văn Tần - Bà Huyện Thanh Quan đang được trùng tu.

Kỷ luật nghiêm minh

Trường trung học tư thục là trường do tư nhân bỏ tiền ra thuê mặt bằng, mướn giáo ban (thành phần giáo sư), phải đóng thuế và chưa bao giờ có cái tên mỹ miều là xã hội hóa, dân lập như ngày nay. Trường trung học tư xuất hiện là để đáp ứng nhu cầu cần học của nhiều học sinh không thi đậu vào trường công lập, cũng như dành cho những người đã qua tuổi thi vào trường công.

Khi cho con vào học trường tư, các bậc cha mẹ thường chọn cho con những ngôi trường danh tiếng. Nếu là gia đình Công giáo, họ sẽ cho chọn những trường như Lasan Taberd (nam), Lê Bảo Tịnh và Nguyễn Bá Tòng hay Thánh Linh, Couvent des Oiseaux, Regina Pacis, Regina Mundi (nữ). Tổng giáo hội Thiên Chúa giáo sở hữu 226 trường trung học và 1.030 trường tiểu học tư thục. 

Còn cha mẹ là Phật tử thường cho con theo học hệ thống trường Bồ Đề. Tính đến năm 1970, toàn miền Nam có 137 trường Bồ Đề (*).

Có những trường tư thục nổi tiếng do những cá nhân là nhà giáo tổ chức, như Trường Sơn (hiệu trưởng là nhà văn Nguyễn Sỹ Tế), Văn Học (hiệu trưởng là nhà thơ Nguyên Sa - Trần Bích Lan), Phan Sào Nam, Tân Văn - Tân Việt, Hưng Đạo, Huỳnh Khương Ninh, Văn Hiến... Những trường tư này ngoài có tiếng là kỷ luật nghiêm minh còn có một giáo ban hùng hậu. Thành phần giáo sư được chọn lọc từ những trường công uy tín, dạy tận tâm và có trách nhiệm.

Giáo sư Huỳnh Như Phương kể: "Tôi học trường công Trần Quốc Tuấn ngoài quê năm lớp 10, vô Sài Gòn thi bằng tú tài phần thứ nhất (không học lớp 11), nên lên 12 phải học Trường Trường Sơn. 

Không hiểu sao tôi học Trường Trường Sơn chỉ có một năm mà có nhiều ấn tượng và kỷ niệm đẹp. Có lẽ là nhờ quý thầy giáo: Nguyễn Sỹ Tế, Lê Trung Nhiên, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Chuyết, Lê Thế Thụ... 

Ngoài ra, một điều cần ghi nhận là "trường tư thục thu học phí để đảm bảo hoạt động, nhưng có sự cạnh tranh giữa các trường và có cả tư thục tôn giáo nên mức thu học phí thấp, tạo điều kiện cho học sinh con em lao động nghèo vẫn đi học được".(*)

Và cả... tà giáo

Tuy vậy, hệ thống trường tư lúc đó có một khiếm khuyết: chủ trường của một số trường tư thục nhỏ là những nhà kinh doanh, không có kinh nghiệm giáo dục nên chọn giáo ban rất là ý... ẹ. Họ thuê những sinh viên đang đi học năm thứ nhứt, thứ hai đi dạy cho lớp đệ thất, đệ lục... mà hoàn toàn không có một chút phương pháp sư phạm. 

Trong tác phẩm Ngôi trường đi xuống (in trước 1975 tại Sài Gòn), nhà văn Vũ Hạnh khái quát gương mặt các chủ trường này là những tay buôn chữ nghĩa như buôn hàng Mỹ. Chuyện học trò đánh thầy hoặc thầy "cua" nữ sinh không phải là chuyện không có.

Có nhà văn đã từng viết về tệ nạn này để lên án một nền giáo dục tư thục chạy theo đồng tiền mà bỏ quên những quy tắc đạo đức, những người mang danh nhà giáo nhưng rất... tà giáo. Những trường tư thục loại này không tồn tại được lâu dài vì phụ huynh thường chọn trường để gửi những tháng năm quý giá tuổi học trò cho con em mình.

Tuy nhiên nói gì thì nói, nhìn một cách tổng thể, hệ thống trường trung học tư thục hàng năm đã tạo điều kiện học hành cho đa số học sinh không thi đậu vào trường công. Số liệu năm 1971 cho biết hệ thống trường này đã giải quyết cho 77,6% học sinh toàn miền Nam không được trường công dạy dỗ.(*)

Bây giờ đi ngang khu vực Trường Tân Văn nhớ bạn Lê Hoàng, ngang Trường Trường Sơn nhớ Nguyễn Thanh Chính, giáo sư Huỳnh Như Phương, ngang Trường Huỳnh Khương Ninh nhớ nhà thơ Trương Chính Tâm... cùng những người bạn khác. Những ngôi trường tư ngày xưa đã mất đi nhưng những học sinh tuổi xanh ngày xưa cũng ít nhiều đóng góp sự nghiệp của mình cho mảnh đất Sài Gòn khi trưởng thành. Học sinh trường tư cũng đâu có thua gì học sinh trường công đâu há!

Theo quy chế trường tư thục được ban hành theo dụ số 57/4 ngày 23-10-1956, trường tư thục trung, tiểu và đại học chỉ cần được bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục hay giám đốc Nha học chánh địa phương được bộ ủy quyền cấp phép. Học sinh chỉ cần đóng tiền là có thể vào học trường tư và sau một thời gian có thể chuyển trường theo ý thích, miễn là có học bạ chứng minh mình đã học xong lớp nào đó ở trường tư cũ. Học sinh giỏi trường tư có thể trở thành học sinh trường công.

(*) Giáo dục phổ thông miền Nam (1954-1975) do Ngô Minh Oanh chủ biên (NXB Tổng Hợp TP.HCM).

LÊ VĂN NGHĨA

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 19.05.2019.

Không chỉ là sự thay đổi phong cách phát triển từ nghệ thuật Siêu thực thập niên 40 - 50 của thế kỷ XX, các tác phẩm của Dali dường như còn dự báo về một cuộc cách mạng mới trong hội họa: Nghệ thuật song hành với khoa học. Tác phẩm Crucifixion vẽ năm 1954 nổi tiếng nhất cho những nghiên cứu khởi đầu của Dali giai đoạn này.

Crucifixion, sơn dầu của Dali, kích thước 194,3 x 123,8cm, đang lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York, Mỹ

Đóng đinh trên thập giá là một chủ đề tôn giáo phổ biến trong nghệ thuật phương Tây nhiều thế kỷ. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX khi vai trò của nhà thờ bắt đầu suy giảm, những tác phẩm tranh tôn giáo như thế ít được đặt hàng hơn. Dẫu vậy, đề tài này vẫn trở đi trở lại trong các sáng tác hiện đại và đương đại nhưng với lý tưởng hoàn toàn khác. Ở bức tranh này của Dali cũng vậy. Một không gian hiện đại được mở ra, Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá dường như lơ lửng giữa không trung. Phía xa là vịnh cảng Lligat ở Catalonia, Tây Ban Nha. Nền gạch của những ô bàn cờ đen trắng phía dưới chân và Đức bà Magdalene đang đứng cầu nguyện.

Dường như không có gì đặc biệt khi người ta đã quá quen với tư duy Siêu thực của Dali trong việc tạo dựng các hình ảnh đầy chất hư cấu trong một không gian dẫu thấu thị mà vẫn hết sức hư cấu. Tuy nhiên, so với phần lớn những tác phẩm sáng tác trước đó thì bức tranh này đã trở thành biểu tượng khởi đầu cho lý thuyết “hạt nhân thần bí” do Dali khởi xướng năm 1951. Ông tuyên bố, nghệ thuật hiện đại phải là sự kết hợp của những lý tưởng Công giáo, toán học và khoa học. Do đó Crucifixion (Đóng đinh câu rút) đã hướng tới chủ nghĩa cổ điển rất rõ ràng. Hình tượng Jesus đã được vẽ ra như một mẫu mực về hình họa, tỷ lệ, hướng nhìn cũng như ánh sáng một chiều. Quan sát kỹ hơn, người ta còn có thể thấy cả những mạch máu, gân tay cũng như đầu gối, bắp chân đầy chuẩn mực như bậc thầy Phục hưng Michelange cách đấy 4 thế kỷ từng đạt đến. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất, đồng thời cũng là điểm mấu chốt của tác phẩm này so với phần lớn các tác phẩm cùng chủ đề đóng đinh trên thập giá thông thường, là khối lập phương đa diện. Cũng có thể xem khối chữ thập đó giống như một Tesseract trong toán học hình học, biến đổi và chuyển động qua các diện. Ở đây chính sự nhân lên của các khối vuông mà kiến tạo nên nền cảnh cho chữ thập. Có lẽ vậy mà cái tên ban đầu của bức tranh là Corpus Hypercubus (Thể chuyển động khối).

Có quá nhiều ngữ nghĩa được thể hiện trong hình tượng mà thoạt nhìn người ta chỉ thấy tinh thần tôn giáo hiện đại. Dali cho rằng việc ông sử dụng khối lập thể như vậy là sự đồng nhất hóa giữa bản chất siêu việt của Thiên Chúa và khoa học. Và không gian không điểm tựa của hình tượng giữa bao la trời đất càng như tôn vinh tinh thần cao cả của người. Dường như không hề tĩnh lặng, khối hình chữ thập đã để lại dấu ấn riêng trên những ô bàn cờ bên dưới, khiến cho người xem mường tượng như có sự vút lên với kỹ xảo tạo ra đường chân trời thấp ở phía quá xa.

Khuôn mặt Jesus dường như ngoảnh đi hoàn toàn. Mũ gai của người cũng không được mô tả. Những vết máu thường thấy trên ngực, chân và tay cũng bị giản lược để tạo nên vẻ đẹp có phần lạnh lùng. Nó được liên tưởng tới tâm trạng hậu chiến ở một thái cực khác. Đó là sự cô độc đến rợn ngợp mà hình tượng Magdalene nhỏ bé đứng dưới chân đức chúa Trời là một thị hiện về sự lạc lõng đó. Magdalene được lấy nguyên mẫu từ vợ ông là Gala - cũng là một biểu tượng siêu thực được ông tạo dựng trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, đến tác phẩm này, hình ảnh đó vẫn tồn tại nhưng lại mang nhiều ngữ nghĩa hơn về sự đoạn tuyệt với Siêu thực. Ông muốn thiết lập nên xu hướng hoàn toàn mới mà ông cho rằng đó là con đường tất yếu của nghệ thuật. Hạt nhân, nguyên tử sẽ làm “nổ tung” nghệ thuật để bắt nó đi theo con đường khác của khoa học. Và quả vậy, nghệ thuật sau Dali, các nghệ sĩ đã tiến những bước rất dài trong việc đưa khoa học vào nghệ thuật.

Trang Thanh Hiền

Nguồn: Báo Đại biểu nhân dân, ngày 14.12.2015.

Những câu chuyện thần tiên mà nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875) kể suốt cuộc đời mình đã phản ánh gần như trọn vẹn thế giới ông sống. Âm nhạc cổ điển cũng không ngoại lệ, tinh thần của âm nhạc và nghệ thuật đã xuất hiện một cách đậm nét trong tác phẩm cũng như cuộc đời ông.

Hans Christian Andersen nổi tiếng với những Nàng tiên cá, Bầy thiên nga, Chim họa mi, Chú lính chì dũng cảm, Cô bé tí hon… Nguồn: classic-literature.co.uk

Không phải ngẫu nhiên nhà nghiên cứu Anna Harwell Celenza đã viết cuốn Hans Christian Andersen và âm nhạc: con chim họa mi được tiết lộ (Hans Christian Andersen and music: The nightingale revealved). Trong tác phẩm này, bà đã khám phá những quan sát và những hoạt động âm nhạc của nhà văn trong đời sống âm nhạc thời đại mình và nhận thấy người đọc thường quan tâm đến những Nàng tiên cá, Bầy thiên nga, Chim họa mi, Chú lính chì dũng cảm, Cô bé tí hon… mà không biết rằng Andersen rất say mê âm nhạc. Với giọng hát truyền cảm, con trai người thợ đóng giày thành phố Odense này từng ôm ấp giấc mơ trở thành một nghệ sỹ opera hay vũ công tại nhà hát Det Konggelige Teater tại Copenhagen. Vỡ giọng khi lớn lên và buộc phải từ bỏ ước mơ nhưng ông cũng cố gắng duy trì nó dưới dạng khác, đó là trở thành khán giả trung thành của âm nhạc, bạn bè thân thiết với nhiều nhà soạn nhạc và hơn thế, tham gia vào đời sống âm nhạc. Bằng cách đó, sợi dây liên hệ với thế giới âm nhạc của ông vẫn được duy trì bền chặt trong suốt cuộc đời.

Người kể chuyện âm nhạc

Thật khó hình dung về không khí âm nhạc châu Âu thế kỷ 19, bởi dưới cái nhìn ngày nay thì nhiều quy định của thời kỳ ấy thật kỳ cục, ví dụ như để tránh “cạnh tranh”, các nghệ sỹ đã ký hợp đồng với nhà hát Det Konggelige Teate chỉ được phép tổ chức các buổi hòa nhạc riêng có bán vé khi không trùng thời gian tổ chức vở diễn nào của nhà hát và mỗi buổi diễn như thế không được phép có nhiều hơn 2 nghệ sỹ tham gia. Để những buổi diễn ấy khỏi trở thành tẻ nhạt, các nghệ sỹ đã thuê Andersen viết một kịch bản riêng, một mạch dẫn riêng có khả năng kết nối các aria và ca khúc nghệ thuật mà họ sẽ biểu diễn. Theo cách đó, buổi hòa nhạc với các tác phẩm riêng rẽ có xu hướng trở thành một vở kịch âm nhạc ngắn thu hút.

Ở Copenhagen thời kỳ đó, người dẫn chuyện trong buổi hòa nhạc như vậy thường có lời giới thiệu mỗi màn dưới hình thức một câu đố. Thay vào việc nói với khán giả cảnh tiếp theo như thế nào, người dẫn chuyện phải đưa ra một số gợi ý để họ có thể đoán ra. Là một nhà văn nổi danh bằng những chuyện kể vừa hư ảo thần tiên vừa man mác nỗi buồn như thể các ca khúc nghệ thuật của Schubert, Andersen nổi trội bởi sự sáng tạo những “câu đố” thu hút:

“Thi thoảng âm nhạc của ông vang lên như câu đố tuyệt đẹp, hay như thể nhạc của Domenico Cimarosa… Với vương trượng âm nhạc của mình, ông có đủ khả năng dẫn dắt giọng ca của các linh hồn và đưa chúng vang xa từ hầm mộ. Các giai điệu, các nhân vật mà ông sáng tạo nên, ngay cả trong tác phẩm không mấy nổi trội của mình, cũng chứng tỏ được tài năng của ông… Ông là Raphael của âm nhạc, nước Đức đã trao ông cho châu Âu 1. Vượt qua các vùng đất và các đại dương, từ bến cảng đến bến cảng, tên ông bừng nở giữa những đóa hoa. Tên ông là gì? Tôi không thể tiết lộ sớm với các bạn; hãy chìm đắm trong tác phẩm của ông. Vì Raphael của âm nhạc này vĩnh viễn thanh xuân và tràn ngập sức sống”.

Khi bức màn được vén lên, câu đố đã được giải đáp: đó là cảnh cuối cùng từ vở opera Don Giovanni của Mozart – khi Don Giovanni phải kết thúc cuộc đời do những tội lỗi anh ta gây ra trong quá khứ.

Andersen rất am hiểu âm nhạc. Bên cạnh đó, ông còn có những trải nghiệm thú vị ở nhiều sân khấu khác nhau của châu Âu. Vào giữa những năm 1830, ông có chuyến du lịch khắp châu Âu lần đầu tiên và trong suốt cuộc đời mình, ông đã có tới 30 chuyến đi như vậy, mỗi chuyến lại có thêm các buổi hòa nhạc được ông ghi chép tỉ mỉ trong nhật ký.

Những trang nhật ký ghi lại các ấn tượng âm nhạc của Andersen. Ông bị các vở opera Italia cuốn hút và say đắm nghệ thuật hát belcanto. Vào những năm 1850 và 1860, ông choáng váng trước ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc trong âm nhạc cổ điển – xu hướng bùng nổ ở giai đoạn này ở châu Âu. Những hiểu biết này đã đưa Andersen vào vị trí của một nhà hoạt động nghệ thuật, vừa là người sáng tạo, vừa là người viết sử âm nhạc. Ví dụ trong Vandring gjennem Opera-Galleriet, Andersen đã cho khán giả thấy một bản tổng kết opera Đan Mạch: màn 1 là các trích đoạn aria từ các vở được trình diễn lần đầu tại Det Konggelige Teater từ năm 1790 đến 1810; màn 2 là các vở từ những năm 1820; màn 3 phản ánh những thay đổi trong gu thưởng thức của những năm 1830. Về tổng thể, Vandring gjennem Opera-Galleriet của Andersen đã đưa ra một cái nhìn nhanh về lịch sử opera Đan Mạch cho đến đầu những năm 1840, thời điểm các nhà soạn nhạc Đan Mạch bắt đầu thành công trên sân khấu opera và Mozart được công nhận là một trong những nhà soạn nhạc nước ngoài được yêu mến nhất. Và “khẩu vị” thưởng thức âm nhạc của khán giả Copenhagen đã thay đổi: opera bắt đầu thay thế dần vị trí của các vở singspiel (kịch hát dân ca Đức) và vaudeville (kịch vui Pháp); các vở opera của những nhà soạn nhạc Ý và Pháp đã xuất hiện như Norma, Il barbiere di Siviglia, Les deux nuit…; các nhà soạn nhạc Đức củng cố vị trí như Mozart, C.M von Weber, Heirich Marschner; sự nổi lên của một thế hệ trẻ các nhà  soạn nhạc Đan Mạch như J. P. E. Hartmann, Niels W. Gade, Carl Nielsen.

Không chỉ là người kể chuyện trên sân khấu opera, Andersen còn là một tác giả libreto (phần lời) của một số vở opera, ví dụ như vở Ravnen, Little Kirsten của nhà soạn nhạc Hartmann, những vở được nhà soạn nhạc Đức Robert Schumann yêu thích.

Những ý tưởng nghệ thuật

Việc tham gia vào các hoạt động âm nhạc châu Âu cũng như danh tiếng sẵn có của một nhà văn đã đem lại cho Andersen những mối kết giao thân thiết với Franz Liszt, vợ chồng nhà soạn nhạc Rober - Clara Schumann, Mendelsonhn, Brahms và Wagner. Là người viết những chuyện thần tiên, Andersen ngay lập tức đã bị các vở opera mang màu sắc thần thoại Bắc Âu của Wagner chinh phục, đặc biệt là Longhegrin. Ông tâm đắc ý tưởng nghệ thuật tương lai của Wagner cũng như ở nhà triết học Đan Mạch Hans Christian Ørsted, nhà thơ Pháp Baudelaire. Đâu là điểm chung giữa ba con người này? Họ đều có những chiêm nghiệm về tương lai của nghệ thuật, đặc biệt là Wagner. Mãi về sau này, người ta mới tỏ tường con người Wagner nhưng ở thời đại của Andersen, nhà soạn nhạc Đức hiện ra với một hình ảnh hoàn toàn khác biệt, nhất là sau khi vở Lohengrin mới được ra mắt ở Đan Mạch. Lúc đó, Wagner còn chưa được xem bộ Der Ring des Nibelungen hay Parsifal - những tác phẩm gây tranh cãi về tư tưởng nghệ thuật và bị cho là có mầm mống phân biệt chủng tộc hay bài Do Thái, và lại càng chưa biết về “chủ nghĩa dân tộc cực đoan” của Wagner. Wagner mà Andersen biết vẫn là một nhà soạn nhạc của các vở tráng lệ và đẹp đẽ như Tannhäuser  Lohengrin. Trong tâm trí của nhà văn, Wagner là người đầu tiên nhận ra “tinh thần của tự nhiên” trong văn chương và âm nhạc, vốn do Ørsted đề xuất vào năm 1850. Với Andersen, Wagner là nghệ sỹ của tương lai và là nguồn cảm hứng cho Andersen và những người cùng thế hệ ông.

20190422 Andersen

Wagner đang sáng tác các vở opera nổi tiếng của ông. Bức họa trong bộ sưu tập của Mary Evans. Nguồn: maryevans.com

Hoàng tử Ludwid xứ Bavaria từng rơi lệ khi Longhegrin ra mắt ở Weimar Court Theater và ấn tượng của vở diễn khiến ông nhiều năm sau khi lên ngôi vua đã quyết định xây lâu đài Neuschwantein thần tiên và trở thành nhà bảo trợ nghệ thuật lớn nhất của Wagner. Còn Andersen? Tuy chỉ ghi lại trong nhật ký một cách giản dị là vở opera “đã diễn ra trong khung cảnh lộng lẫy và được khán giả đón nhận” nhưng ảnh hưởng của nó với nhà văn trên thực tế còn lớn hơn nhiều: Andersen bắt tay viết Lykke Peer với những điểm trùng hợp kỳ lạ giữa xuất thân của Peer – nhân vật chính của tác phẩm, với Andersen, khi cùng là con của một gia đình nghèo và rút cục cũng trở thành một nhân vật nổi danh, chỉ có điều Peer là một nhà soạn nhạc tạo ra nhiều cách tân về opera với những ảnh hưởng rõ nét từ Wagner. Lykke Peer thể hiện những ý tưởng cuối đời ông về nghệ thuật, trong đó chiêm nghiệm về âm nhạc của tương lai và lý giải ý nghĩa văn hóa cũng như số phận của các nhà soạn nhạc như Beethoven, Mendelshonn và Wagner bằng kinh Talmund của người Do Thái.

Lykke Peer có thể được coi là một ví dụ về phương pháp biên soạn lịch sử âm nhạc (historiography) với những nghiền ngẫm sâu sắc về mối liên hệ khăng khít giữa tầm nhìn về tương lai và sự trân trọng quá khứ: mặc dù coi những vở opera của Wagner như hình mẫu của một thế hệ tác phẩm mới nhưng Peer vẫn ngưỡng mộ những nhà soạn nhạc tiền bối: “Mỗi tuần một lần, ở đây lại có biểu diễn các tứ tấu. Đôi tai, tâm hồn và ý nghĩ của Peer ăm ắp các bài thơ âm nhạc của Beethoven và Mozart… Như thể nụ hôn nóng bỏng của lửa đã trượt xuống xương sống và nhanh chóng tỏa khắp các dây thần kinh của anh. Đôi mắt anh lập tức đầy lệ. Với anh, mỗi buổi tối âm nhạc ở salon này là một festival, nó tạo ra ấn tượng sâu sắc hơn bất kỳ vở diễn nào ở nhà hát, nơi vẫn thấy những điều không hoàn hảo... Những vần thơ âm nhạc ngân lên với vẻ tráng lệ của mình… Và anh ở đây, trong thế giới âm nhạc các bậc thầy đã tạo nên”2.

Peer say mê Wagner, khám phá thế giới âm nhạc mới mẻ của nhà soạn nhạc. Sau lần ra mắt thành công vai chính trong Lohengrin, anh quyết định học theo bậc thầy: tự sáng tác lời và phổ nhạc cho tác phẩm của mình, Aladdin. Thậm chí, anh còn vượt qua cả Wagner để tạo ra một kiệt tác độc nhất vô nhị trong lịch sử opera: anh không chỉ sáng tác libreto, viết nhạc mà còn đóng vai chính trong vở opera của mình. Khán giả bị Peer mê hoặc trong buổi ra mắt vở diễn. “Một vài hợp âm vang lên từ dàn nhạc, và rèm nhung kéo lên… Aladdin đứng trong một khu vườn kỳ diệu. Từ những đóa hoa, những hòn đá, từ hang sâu và dòng suối dường như vang lên thứ âm nhạc dịu dàng êm ái, những giai điệu đẹp đẽ hòa quyện với nhau tạo thành một hòa âm vĩ đại… Ngân lên từ chính hòa âm đó là bài ca của Aladdin… Giọng ca vang rền, xúc cảm và thứ âm nhạc của trái tim đầy mạnh mẽ đó ôm ấp, bao bọc lấy toàn bộ khán giả” 3. Viết những dòng này, Andersen đã lặp lại cái nhìn nhận của Baudelaire về Wagner.

Khi qua đời vào năm 1875, Andersen đã kịp hoàn tất tác phẩm lớn của đời mình với một thông điệp: tương lai của âm nhạc là sự kết hợp giữa tinh thần đổi mới sáng tạo và gìn giữ truyền thống, là sự cân bằng giữa cái cũ và cái mới. Như cái nhìn của Peer, những con người như Mozart và Beethoven sẽ sống mãi nhưng mỗi thế hệ tiếp theo cần viết tiếp lịch sử âm nhạc bằng tinh thần của Wagner. 

Anh Vũ tổng hợp

---------

Tài liệu tham thảo:

“Music history as reflected in the works of Hans Christian Andersen”. Nguồn:  http://www.rilm.org /historiography/celenza.pdf;

“Hans Christian Andersen and Music”. Nguồn: http://wayback-01.kb.dk/wayback/20101108104712/http://www2.kb.dk/elib/noder/hcamusik/komponister_en.htm

1. Ở đây, Andersen đã nhầm lẫn đôi chút, Mozart là người Áo chứ không phải người Đức.

2, 3. Trích tác phẩm “Lykke Peer”.

Mặc dù bị đồn thổi nhiều về giới tính nhưng rõ ràng, Andersen có những say mê đặc biệt với Jenny Lind, sau lần đầu tiên được nghe cô hát vào năm 1842. Không riêng Andersen mà gần như cả giới yêu nghệ thuật châu Âu say mê nữ nghệ sỹ giọng soprano Thụy Điển này, ngay cả nữ hoàng Victoria cũng phải ném một bó hoa xuống chân Lind trong buổi biểu diễn ra mắt khán giả London của cô vào năm 1847. Các nhà soạn nhạc đương thời như Chopin, Mendelssohn và Clara Schumann cũng ngưỡng mộ cô. Mendelssohn coi Lind là “nữ nghệ sỹ xuất sắc nhất tôi từng biết” và viết vở oratorio (thanh xướng kịch) Elijah với giọng hát của cô trong tâm trí. Lind hết sức thân thiết với Chopin, trong những năm cuối đời nhà soạn nhạc, cô đã hát để ông quên đi cảm giác đau đớn của bệnh lao phổi. Khi ca ngợi “cô gái Thụy Điển không chỉ phô diễn giọng ca trong ánh sáng ban ngày thông thường mà trong những tia sáng kỳ diệu của Bắc cực quang”, Chopin muốn diễn tả những nốt pianissimo tuyệt đẹp và sự bừng lên lộng lẫy ở âm vực cao của Lind. Còn với Clara Schumann thì “cô ấy ngay lập tức đã thu hút ngay từ cái nhìn đầu tiên, dẫu khuôn mặt cô không thực sự đẹp nhưng cái biểu cảm ngập tràn trong cặp mắt trong trẻo… Mỗi nốt cô ngân lên đều căng tròn tuyệt đối và màu sắc giọng của cô là âm thanh đẹp nhất tôi từng được nghe. Âm lượng cô không thực sự lớn nhưng đủ sức lấp đầy bất kì khán phòng nào, và lấp đầy mọi tâm hồn”. Rõ ràng Lind đã khiến Andersen say mê và viết “Chim họa mi” tặng cô như một cách thể hiện niềm say mê đó. Đáng buồn là Lind không đáp trả tình cảm của Andersen nhưng dẫu sao, tình yêu đơn phương và tài năng của ông đã đem đến cho thế giới thêm một tác phẩm xuất sắc cũng như đem lại cho nữ ca sỹ biệt danh bất tử, “chim họa mi Thụy Điển”. Nguồn: http://www.classicfm.com/discover-music/who-was-jenny-lind-greatest-showman;

 

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 18.4.2019.

PGS.TS.Nohira Munehiro

Cái hại của học thuật tay ngang

(Lời phi lộ cho bài “Một giả thiết khác về hành trình đi sứ của Nguyễn Du năm 1813 - 1814” của TS.Nohira Munehiro)

Gần đây có loạt bài viết của tác giả tên là Phạm Trọng Chánh về việc Nguyễn Du từng đi Trung Quốc trước chuyến đi sứ 1813-1814. Ông ấy cho rằng Nguyễn Du đã "vân du" đến nhiều nơi khác ngoài con đường đi sứ ra. Ông nói khơi khơi vậy, cứ làm như ngày xưa muốn đi thì đi dễ dàng. Cụ Nguyễn không thèm biết tiếng Hoa, đường đi Trung Quốc xa xôi dặm thẳm, tiền không có, mà chẳng có "công ty du lịch" nào biết đến cụ để đưa cụ đi chơi miễn phí, thế thì cụ đi làm sao? Câu chuyện hoang đường ấy của Phạm Trọng Chánh thế mà được khối người tin, nhất là nghiên cứu sinh, học viên cao học. Có cả tờ báo giấy, báo mạng đăng nữa, làm cái hại càng thêm hại. Tìm thông tin tác giả Phạm Trọng Chánh trên mạng, tôi thấy ông ấy chẳng liên quan gì đến nghề nghiên cứu văn sử, ông làm nghề khác, có lẽ giờ về hưu đâm rảnh rỗi, nghiên cứu tay ngang. Văn bản Bắc hành tạp lục ông không tìm hiểu kỹ, hàng mấy chục luận văn, luận án, bài nghiên cứu của học giới Trung Quốc về con đường đi sứ của sứ bộ Việt Nam ông không tham khảo. Chữ Nôm chữ Hán ông không rành, không biết ông có tự học không và tự học tới cỡ nào mà nói toàn chuyện động trời. Tôi đang lo các nhà xuất bản thích sách giật gân sẽ in sách của ông thì cái hại còn nhân lên ghê gớm và cơ hồ không xoá được nữa (tương tự như câu chuyện hão về Quang Trung mặt choắt 80 tuổi đích thân vào chầu Càn Long mà có ông nào đấy tung lên hôm trước, được một NXB bập vào, in hàng chục đầu sách).

Để chứng minh con đường đi sứ Trung Quốc của Nguyễn Du không giống như cố học giả Đào Duy Anh nói, một nhà nghiên cứu người Nhật: PGS.TS. Nohira Munehiro, từng làm việc lâu năm ở Trung Quốc, đã phải tham bác bao sách địa chí, tra cứu bao bản đồ. Và kết quả nghiên cứu của anh thật bất ngờ: Nguyễn Du không hề đến mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu, và con đường đi sứ của Nguyễn Du khá khác với con đường mà các học giả Việt Nam hình dung.

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của anh ở đây, cũng là nhắc nhở các nhà nghiên cứu tay ngang, các nhà báo, nhà xuất bản tay ngang thích giật gân, in tạp!

 

(Facebook Đoàn Lê Giang)

1. Nguyễn Du có tạt xuống Lâm An hay không?

Khi nghĩ về cuộc hành trình của sứ bộ Nguyễn Du vào năm 1813-1814 và sắp xếp lại các bài thơtrongBắc hành tạp lụctheo hành trình đi sứ, theo chúng tôi, vấn đề lớn nhất là: Nguyễn Du có tạt xuống Lâm An (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang hiện nay) hay không, bởi việc Nguyễn Du có ghé qua Lâm An hay không sẽ ảnh hưởng đến sự suy đoán các địa điểm Nguyễn Du làm thơ.Khi soạn lại tập thơ ấy, Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đềuđoán rằng Nguyễn Du đến Lâm An. Nhưng ở đây, chúng tôi đặt vấn đề: sự suy đoán ấy có đúng không?

Trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc” đăng trên Tạp chí Văn học số 11, năm 1964, Nguyễn Văn Hoàn giới thiệu nội dung tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du gửi vua nhà Nguyễn tâu trình về công việc của sứ bộ. Xem nội dung ấy, chúng ta xác nhận được rằng khi về nước, Nguyễn Du đi qua các tỉnh Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc và Quảng Tây, chứ không nói là ghé qua Lâm An[1]. Trong khi đó, Nguyễn Văn Hoàn lại nói rằng “một số bài thơ chứng tỏ rằng Nguyễn Du có đến Hàng-châu”. Một trong “một số bài thơ” ấy chắc là bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” tức là Mộ Nhạc Vũ Mục, Mộ Nhạc Phi.

Bây giờ chúng ta hãy xem bản chép tay Bắc hành tạp lục, ký hiệu A.1494 bảo tồn ở Viện nghiên cứu Hán Nôm. Trong phần “Lời giới thiệu” của sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trương Chính khẳng định rằng cách sắp xếp các bài trong bản chép tay này đã ổn[2]. Chúng tôi cũng đồng ý với nhận xét này, nhưng theo chúng tôi, nói chính xác hơn thì các bài thơ trên đường đi Bắc Kinh khá ổn, song các bài thơ làm khi về nước thì bị mất trật tự sắp xếp. Theo đó, xem thử bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” nằm ở đâu, nằm giữa những bài nào trong bản chép tay A.1494 thì có thể trình bày như bảng dưới đây:

 
Số thứ tự các bài theo bản chép tay A.1494

北行雑録
BẮC HÀNH TẠP LỤC

bản chép tay A.1494

Nơi viết (suy đoán)

62 比干墓
TỈ CAN MỘ
河南, 衛輝府 
phủ Vệ Huy, Hà Nam
63 阻兵行
TRỞ BINH HÀNH
河南 
Hà Nam
64 嵇侍中祠
KÊ THỊ TRUNG TỪ
河南, 湯隂縣
huyện Thang Âm, Hà Nam
65 岳武穆塋
NHẠC VŨ MỤC HUỲNH
 
66 秦檜像
TẦN CỐI TƯỢNG
 
67 王氏像
VƯƠNG THỊ TƯỢNG
 
68 銅雀臺
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
河北, 鄴
Nghiệp, Hà Bắc
69 七十二疑冢
THẤT THẬP NHỊ NGHI TRỦNG
河北,  鄴錦城
thành Nghiệp Cẩm, Hà Bắc

Dựa vào thứ tự các bài trong bản chép tay này, chúng ta xác nhận được rằng bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” (và các bài “Tần Cối tượng”, “Vương thị tượng”) nằm giữa những bài viết ở miền bắc Hà Nam và những bài viết ở miền nam Hà Bắc, trên đường đi Bắc Kinh, chứ không phải trên đường về như Đào Duy Anh đã suy đoán. Nếu theo dõi cuộc hành trình đi sứ của Nguyễn Du thì chúng tôi có thể đoán rằng mộ của Nhạc Phi ở Hà Nam hoặc Hà Bắc, và Nguyễn Du ghé qua mộ ấy trên đường đi Bắc Kinh.

Sách Minh nhất thống chí, địa chí Trung Quốc, xác nhậnrằng ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam, tức là nơi sinh của Nhạc Phi, có ngôi miếu của Nhạc Phi: 「岳飛廟 在湯隂縣治西南飛宋將本朝建賜額精忠勅有司春秋致祭」(『明一統志』巻二十八)[3].Nơi đấy cũng gần ngôi miếu của Kê Thị Trung(「嵇紹廟 在湯隂縣西南」(『明一統志』巻二十八)、「嵇紹墓 在湯隂縣境内」), gần chỗ mà Nguyễn Du viết bài thơ “Kê Thị Trung từ”đặt trước bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”trong bản chép taynày.

Tôi chưa bao giờ đếnđó,nhưng trên mạng Internet có những trang giới thiệu miếu Nhạc Phi ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam và cũng xác nhận rằngở miếu đó có tượng Tần Cối và tượng Vương thị[4]. Có điều, chỗ ấy là ngôi miếu chứ không phải là ngôi mộ. Nhưng điều quan trọng là Nguyễn Du coi ngôi miếu ấy là ngôi mộ của Nhạc Phi. Việc miếu ấy có phải là mộ thật sự của Nhạc Phi hay không, ở đây không quan trọng.

Hơn nữa, khi xem kĩ nội dung bài thơ, chúng tôi có thể khẳng định rằng chính lúc ở cách xa Lâm An, Nguyễn Du mới viết được bài này. Ở cuối bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” có câu: “悵望臨安舊陵廟” (Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu - Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An). Ở đây, chúng ta hãy chú ý đến 2 chữ “trướng vọng 悵望”. Ở phần chú thích bài ấy, Lê Thước và Trương Chính viết rằng: “Có người dựa vào câu bảy: ‘Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu’ mà nói Nguyễn Du không đi đến Lâm An. Đứng xa nhìn nên mới nói ‘vọng’”[5]. Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với chú thích này. Ở ngay Lâm An thì không thể nói “trướng vọng Lâm An” được, không tự nhiên. Chữ Hán “vọng” có nghĩa: từ xa mà nhìn, nên có lẽ phải ở cách xa Lâm An, theo bài thơ này thì là ở Hà Nam, tác giả mới nói là “trướng vọng Lâm An” được.

Như vậy, chúng tôi tạm kết luận rằng Nguyễn Du viết bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” ở Hà Nam chứ không ở Lâm An. Cũng có thể suy đoán rằng hai bài thơ “Tần Cối tượng” và “Vương thị tượng” được Nguyễn Du viết tại miếu Nhạc Phi ở Hà Nam.

2. Xem xét lại một số địa điểm Nguyễn Du làm thơ trên đường về

Nếu giả thuyết nói trên của chúng tôi đúng thì các nơi Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đã suy đoán cũng phải xem xét lại, bởi vì ngoài bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”, hai giáo sư còn cho rằng một số bài thơ khác được Nguyễn Du viết ở Lâm An, hoặc những nơi gần Lâm An, nhưng theo giả thuyết của chúng tôi thì Nguyễn Du không đến Lâm An. Vì hạn chế nên chúng tôi chỉ xem xét lại địa điểm viết các bài: “Chu Lang mộ”, “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” và “Tổ Sơn đạo trung”.

2.1. Mộ Chu Lang

Đào Duy Anh nghĩ rằng mộ Chu Lang ở Nam Kinh[6]. Nhưng xem sách địa chí Trung Quốc thì có 2 địa điểm mộ Chu Lang ở tỉnh An Huy:

1) Tại huyện Lư Giang, phủ Lư Châu (tỉnh An Huy):「周瑜墓 在廬江縣東一十里安豐郷瑜三國時呉將又見安慶府」(『明一統志』巻十四). 

2) Tại huyện Túc Tòng, phủ An Khánh (tỉnh An Huy):「周瑜墓 在宿松縣北三十五里」(『明一統志』巻十四). 

2.2. Núi [Ngũ] Tổ Sơn

Đào Duy Anh cho rằng Tổ Sơn ở tỉnh Chiết Giang[7]. Nhưng khi xem kỹ bản chép tay A.1494, chúng tôi nhận thấy bản chép tay ghi tên bài thơ là “Ngũ Tổ Sơn đạo trung” chứ không phải là “Tổ Sơn đạo trung”. Núi Tổ Sơn nằm ở phía bắc Hàng Châu như Đào Duy Anh viết, nhưng núi Ngũ Tổ Sơn lại nằm ở nơi khác, đó là huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc: 「五祖山 在黄梅縣東北三十里」(『明一統志』巻六十一).

2.3. Thạch đài của Chiêu Minh Thái tử

Đào Duy Anh suy đoán thạch đài nằm ở hoặc giữa Nam Kinh và Hàng Châu. Nhưng theo sách địa chí Trung Quốc thì ngoài Lâm An, ở huyện Túc Tòng, tỉnh An Huy cũng có một địa điểm được tương truyền là thạch đài:

「分經臺在宿松縣北五十里有石高百餘丈梁昭明太子金剛經於此宋嘉泰間建法華亭」(『江南通志』巻三十四). 「法華寺〔宿松〕縣五十里北全舉禪師道塲有昭明太子分經臺」(『江南通志』巻四十七)「分經臺在宿松縣北五十里有石臺相傳梁昭明太子嘗於此金剛經為三十二分」(『大清一統志』巻七十六).

Có thể tóm tắt các địa điểm Nguyễn Du đến để làm 3 bài thơ trên như sau: Sau khi qua tỉnh Sơn Đông, chắc Nguyễn Du chỉ đi qua miền Bắc tỉnh Giang Tô như Từ Châu thôi, sau đó đi vào tỉnh An Huy như tờ bẩm và viết 2 bài “Chu Lang mộ và “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”, sau đó đi vào tỉnh Hồ Bắc, viết bài “Ngũ Tổ Sơn đạo trung”, chứ không đi xuống Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, hay Lâm An, tỉnh Chiết Giang.

3. Xem xét lại một số địa điểm khác

Ngoài 3 địa điểm vừa bàn ra, cũng có một số địa điểm hình như chưa chính xác, nên chúng tôi muốn xem xét lại ở đây.

3.1. “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” (nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa)

Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên cho rằng núi Đông Sơn được nhắc đến trong bài “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” nằm ở Chiết Giang[8]. Tuy nhiên, chúng tôi đoán núi Đông Sơn được nói tới trong bài thơ này là núi Thái Sơn hoặc núi Đông Mộng Sơn ở tỉnh Sơn Đông, vì câu chuyện giữa Khổng Tử và Vinh Khải Kỳ diễn ra ở tỉnh Sơn Đông nên như vậy sẽ hợp lý hơn.

3.2. “Tây Hà dịch” (Trạm Tây Hà)

Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn xem xét lại trạm Tây Hà ở đâu, bởi vì trong 2 bài thơ “Tây Hà dịch” và “Sở kiến hành”, Nguyễn Du có nhắc đến địa điểm Tây Hà, nhưng việc nó nằm ở đâu vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Đào Duy Anh viết rằng “Tây Hà: không rõ trạm ở chỗ nào. Có lẽ là trên đường An Huy đi Hồ Bắc”[9]. Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên nghĩ “Tây Hà ở tỉnh Sơn Tây[10]”, tuy nhiên, nếu đối chiếu với cuộc hành trình của Nguyễn Du thì thấy nơi ấy không hợp lý. Sách địa lý Trung Quốc cho biết trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu (蘄州):

「西河驛 在蘄州北五十里」(『大清一統志』巻二百六十四)

Chỗ ấy cũng gần Quảng Tế mà Nguyễn Du đã nói đến trong bài thơ “Quảng Tế ký thắng”. Cho nên, chúng tôi đồng ý với Đào Duy Anh và có thể đoán rằng trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu, miền Nam Hồ Bắc.

4. Tạm kết

Chúng tôi đã xem xét lại một số địa điểm mà Nguyễn Du làm thơ trên đường đi sứ về. Dĩ nhiên, điều quan trọng nhất là nội dung các bài thơ mà Nguyễn Du để lại cho thế hệ sau. Ví dụ, đọc bài “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”, bản thân tôi rất xúc động và kinh ngạc trước tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Du. Nhưng trước khi tìm hiểu nội dung, chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm về phần cơ sở một cách khách quan, một cách khoa học một lần nữa, cần phải đối chiếu lại với sách địa chí Trung Quốc một lần nữa, ít nhất cá nhân tôi nghĩ như vậy. Bởi vì việc suy đoán Nguyễn Du làm thơ ở đâu sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến cách giải thích thơ như chúng tôi đã bàn về bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”. Ngoài ra, giả thuyết của chúng tôi có lẽ sẽ đóng góp một phần nào đó để bác bỏ giả thuyết quá nhiều tưởng tượng[11].

Chúng tôi đã lập luận giả thuyết của mình căn cứ vào 2 tài liệu chính: (1) bản chép tay Bắc hành tạp lục A.1494, (2) tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du được giới thiệu trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc” của Nguyễn Văn Hoàn. Chúng tôi phải thú thật rằng nếu 2 tài liệu này có vấn đề gì thì giả thuyết của chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Nếu có bằng chứng chứng minh một cách khách quan rằng Nguyễn Du đã đến Lâm An thì chúng tôi sẵn sàng từ bỏ giả thuyết của mình. Nhưng khi chưa có bằng chứng khách quan nào phản bác lại điều đó thì phải chăng vẫn có quyền bàn luận thêm về giả thuyết của chúng tôi?

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Văn Hoàn. “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp chí Văn học, số 11. 1964.

2. Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. In lại theo bản 1965. Nxb Văn học và Công ty Sách Thời đại. Hà Nội. 2012.

3. Đào Duy Anh (sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. 1988.

4. Mai Quốc Liên (biên soạn). Nguyễn Du toàn tập, tập I. Nxb Văn học. 1996.

5. Viện nghiên cứu Văn Sử - Đại học Phúc Đán, Trung Quốc & Viện nghiên cứu Hán Nôm, Việt Nam (hợp biên). Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, tập 10. Nxb Đại học Phúc Đán. Thượng Hải. 2010.

(中国・復旦大学文史研究院、越南・漢喃研究院(合編)『越南漢文燕行文献集成』(越南所蔵編)第十冊. 復旦大学出版社. 上海. 2010)

6.『文淵閣四庫全書』原文電子版、武漢大学.

(Nguồn: kỷ yếu Di sản văn chương đại thi hào Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.283 - 290) 


*PGS.TS., ĐH Ngoại ngữ Tokyo, Nhật Bản


[1]Tờ bẩm chép: “Ngày 22 lại nhận được công văn thay đổi đường đi, theo một dãy các tỉnh Trực-lệ, Sơn-đông, An-Huy, Hồ-bắc mà về Quảng Tây” (Nguyễn Văn Hoàn.“Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp chí Văn học, số 11. 1964. Tr.46).

[2]Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. In lại theo bản 1965. Nxb Văn học & Công ty Sách Thời đại. Hà Nội. 2012. Tr.15.

[3]Tôi tra cứu sách địa lý Trung Quốc và trích dẫn nguyên văn, có tham khảo bản điện tử Tứ khố toàn thư 電子版『四庫全書』.

[4]Ví dụ: http://www.keyunzhan.com/knews-99919.

[5]Lê Thước, Trương Chính. Sđd.Tr.308.

[6]Đào Duy Anh (sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Chú thích 107. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. 1988. Tr.435.

[7]Đào Duy Anh. Chú thích 109. Sđd. Tr.437.

[8]Mai Quốc Liên (biên soạn). Chú thích 3. Nguyễn Du toàn tập (tập I). Nxb Văn học. Hà Nội. 1996. Tr.508.

Lê Thước, Trương Chính. Chú thích 4. Sđd. Tr.367.

[9]Đào Duy Anh. Chú thích 121. Sđd. Tr.440.

[10]Mai Quốc Liên. Chú thích 1. Sđd. Tr.564.

Lê Thước, Trương Chính. Chú thích. Sđd. Tr.381.

[11]Xem Phạm Trọng Chánh. Nguyễn Du, từ Thái Nguyên sang Vân Nam cuối năm 1787. Truy cập tại: http://chimviet.free.fr/vanhoc/phamtrongchanh/PhamTrongChanh_ND_01SangVanNam.html

Rachel Carson, tác giả của quyển sách Mùa xuân im lặng (Silent Spring) – được coi như quyển sách gối đầu giường của nhiều nhà hóa học, là người đầu tiên nhắc đến ảnh hưởng của thuốc trừ sâu DDT, là khởi nguồn của nhiều phong trào bảo vệ môi trường sau này.


Rachel Carson được phỏng vấn tại nhà cho chương trình CBS Report, tháng 4/1963. 

Năm 1963, trong chương trình “CBS Report” dài 60 phút, một người phụ nữ trung niên nói năng lưu loát, bình tĩnh nêu ra rằng việc hằng năm phun 900 triệu pounds (408 triệu kg) thuốc diệt côn trùng DDT trên khắp đồng ruộng, bãi cỏ, đường phố ở Mỹ có lẽ không hẳn là tốt, bởi chúng ta không thể lường trước những hậu quả lâu dài của nó, với con người và động vật hoang dã. Người phụ nữ đó là nhà sinh vật biển và bảo tồn tự nhiên Rachel Carson. 
Phát ngôn viên Robert White-Stephens của công ty hóa chất American Cyanamid phản đối quan điểm của bà. Trong chiếc áo thí nghiệm trắng và đeo cặp kính dày gọng đen, ông cho rằng Carson sai lầm khi nghĩ rằng phải cẩn trọng khi làm đảo lộn tự nhiên. Các nhà khoa học khôn ngoan hơn nhiều, ông nói. Thực tế, họ biết chắc “con người” đang rất ổn trên con đường “làm chủ” thiên nhiên.
Carson bình tĩnh đưa ra những luận điểm và chứng minh của mình. Lúc đó, bà đã đội tóc giả để che đi mái đầu không còn tóc do trị xạ ung thư vú, căn bệnh sẽ khiến bà lìa trần gian chưa đầy 1 năm sau đó. Tuy vậy, cuối cùng Carson đã giành chiến thắng trong cuộc tranh luận, và phần nào đó, chiến thắng trong một cuộc chiến dai dẳng hơn bảo vệ môi trường. Hơn một nửa thế kỷ sau, nhiều người vẫn nhớ đến bà và những câu chuyện về cuộc đời bà.

Một nhà văn bẩm sinh

Rachel Carson là một cô gái nông thôn, sinh năm 1907, lớn lên trong một trang trại rộng 60 mẫu Anh ở quận Springdale, bang Pennsylvania. Tại đó cô bé Rachel đã dành nhiều giờ lang thang trên những cánh đồng gọi tên từng loài cây hoa và con vật như mẹ cô đã dạy. Cuộc sống đó không khác mấy cảnh thôn quê miêu tả trong cuốn sách yêu thích của cô Gió qua rặng liễu hay các tác phẩm của Beatrix Potter. Nhưng cha cô không phải là một người nông dân thành công. Để đủ tiền trang trải, ông phải bán dần từng tấc đất cho những nhà xây dựng. Thế là đô thị bắt đầu len lỏi vào cuộc sống của cô bé Rachel, đường phố và cửa hàng ngày càng trở nên gần nhau hơn. Sự thay đổi sinh thái này sẽ mở ra cuộc tàn phá nghiêm trọng do thuốc trừ sâu mà về sau Carson kể tường tận trong cuốn sách Mùa xuân im lặng.
Từ năm 10 tuổi, cô bé Rachel đã là cây bút có tác phẩm được xuất bản trên tạp chí St. Nicholas, một ấn phẩm truyện kèm tranh minh họa dành cho trẻ em từng in các tác phẩm thời thơ ấu của các nhà văn nổi tiếng như F. Scott Fitzgerald, William Faulkner hay E.E. Cummings. Cô thường viết về những người lính dũng cảm trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và nhiều câu chuyện trong đó đoạt huy hiệu bạc, vàng của tạp chí St. Nicholas. 
Thời trẻ, Carson đọc sách và viết lách thường xuyên. Cô sáng tác nhiều đoạn văn thơ ngắn và tiểu luận. Sau này Carson kể lại rằng cô luôn mặc định mình sẽ trở thành nhà văn. Mặc dù không thể giải thích tại sao nhưng Carson cho rằng đó là một thôi thúc bản năng không tránh khỏi. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cô theo học chuyên ngành ngôn ngữ Anh ở Cao đẳng nữ Pennsylvania (nay là Đại học Chatham).


Rachel Carson (phải) cùng Dorothy và Stanley Freeman tại đảo Southport

Tuy vậy, trong thời gian ở trường, Carson đã tham gia một lớp sinh học và trở nên say mê bởi giáo sư Mary Scott Skinker. Ảnh hưởng của Skinker mạnh đến nỗi Carson quyết định chuyển hẳn sang ngành sinh học biển và tham gia một khóa thực tập hè để cùng làm việc với bà tại Phòng thí nghiệm Hàng hải Mỹ tại Woods Hole, Bang Massachusetts. Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên và vô cùng quan trọng của cô với đại dương. Sau này, mặc dù Carson nổi tiếng nhất với tác phẩm Mùa xuân im lặng về thảm họa thuốc trừ sâu, nhưng đại dương mới chính là chủ đề xuyên suốt và đam mê suốt đời của cô.
Cuối cùng thì không phải Carson đã rời bỏ tiếng Anh cho sinh học, mà đã hợp nhất cả hai niềm đam mê tuổi trẻ đó lại thành một nhà văn khoa học. Cô cũng là một trong những cây bút hiếm hoi viết về khoa học cho những người bình thường nhất cũng có thể hiểu và gắn kết được. 

Phá vỡ “trần thủy tinh”

Sau khi nhận bằng cử nhân, cô đăng ký học tại Đại học Johns Hopkins vào năm 1929 để hoàn thành bằng thạc sĩ về động vật học. Năm 1932, cô đã bắt đầu chương trình tiến sĩ về nghiên cứu sinh học biển, nhưng cuộc Đại khủng hoảng đã thay đổi mọi thứ. Khi đang học tiến sĩ, gia đình Carson chuyển đến sống cùng cô. Vừa làm trợ lý phòng thí nghiệm vừa làm giáo viên, Carson trở thành trụ cột trong nhà và có trách nhiệm trợ cấp không chỉ cho cha mẹ mà còn cả một chị gái và hai người cháu gái.
Dưới áp lực tài chính nặng nề, Carson đã từ bỏ việc học tiến sĩ để kiếm một công việc hỗ trợ gia đình. Năm 1935, cha cô qua đời và hai năm sau, chị gái cô cũng mất, khiến trách nhiệm chu cấp tài chính cho mẹ và các cháu gái rơi thẳng xuống vai Carson. Từ đó, con đường học thuật của cô trở nên bất khả thi.
Đến cuối đời, Carson cũng nhận nuôi đứa cháu trai 5 tuổi Roger Christie và dành nhiều thời gian dạy dỗ cậu bé. Những cuộc dạo chơi trong rừng, ngoài bờ biển, khám phá thế giới tự nhiên bình dị mà tươi đẹp cùng đứa cháu trai đã được Carson thuật lại trong cuốn sách Kỳ thú (The Sense of Wonder, 1965). 
Mặc dù bị buộc phải từ bỏ việc học sau đại học để hỗ trợ gia đình, Carson vẫn quyết định thử việc trong khối công lập. Đó là năm 1935 và Tổng thống Franklin Roosevelt đã ra quyết định tăng số lượng việc làm trong chính phủ để giúp đất nước thoát khỏi cuộc Đại khủng hoảng. Carson ghi điểm xuất sắc trong kỳ thi công chức. Do có nền tảng sinh học biển, cô sớm được nhận vào làm tại Ngư cục Mỹ (sau này là Cơ quan Ngư sản và Động vật Hoang dã Mỹ) với vị trí viết kịch bản radio cho các chủ đề khoa học. Carson đã trở thành người phụ nữ thứ hai từng làm việc ở đây. Song song với đó, cô cũng viết các bài tiêu điểm về lịch sử tự nhiên cho tờ báo Baltimore Sun.


Một bức ảnh chụp vào thập niên 1950 cho thấy DDT được sử dụng rất đại trà bằng cách phun để diệt muỗi và những côn trùng có hại. Những chất như DDT, PCBs và Dioxin (Chất độc màu da cam) đều có nhiều tính chất hóa học giống nhau. 

Năm 1936, cô được giao làm nhà sinh vật học thủy sinh cấp dưới và năm 1943, thăng chức thành nhà sinh vật học thủy sinh. Trong suốt 15 năm làm việc tại Ngư cục, Carson hoạt động như một nhà nghiên cứu, biên tập viên và trở thành Tổng biên tập cho tất cả các ấn phẩm của cơ quan. Trong Thế chiến thứ II, Carson cũng là một thành viên trong nhóm nghiên cứu về bản chất âm thanh và địa hình dưới nước giúp Hải quân Mỹ phát triển chương trình tàu ngầm. Cô đồng thời là tác giả của nhiều tờ hướng dẫn dành cho các bà nội trợ về cách nấu cá tốt nhất cho bữa ăn trong điều kiện khẩu phần thịt ít ỏi thời chiến. Sự nghiệp của Carson là minh chứng cho việc phá vỡ những rào cản thăng tiến vô hình mà phụ nữ thường phải đối mặt thời kỳ đó.
Những quyển hướng dẫn nhỏ của chính phủ không đủ sức chứa được những bài viết xuất sắc của Carson. Khi cô gửi bài luận Thế giới nước (The World of Waters) dài 11 trang về sinh vật biển cho cấp trên, ông cho rằng nó quá xuất sắc để chỉ in trên những ấn phẩm của chính quyền do đó thuyết phục cô thử tìm một tạp chí để đăng. Carson liên hệ với biên tập viên của tờ Atlantic Monthly và họ sẵn lòng xuất bản. Bài viết xuất hiện trên tạp chí được chuyển sang tựa đề Dưới biển (Undersea, 1937) và đây là tác phẩm khởi đầu cho sự nghiệp hoạt động của một nhà tự nhiên học. Được khích lệ bởi thành công, Carson bắt tay vào viết một cuốn sách khác, Dưới làn gió biển (Under the Sea-Wind, 1941). Thời điểm xuất bản sách thật không thể tệ hơn, chỉ vài tuần sau đó xảy ra vụ đánh bom Trân Châu Cảng và đột nhiên không một ai có thời gian cho những cuộc khám phá thơ mộng về sinh vật biển. 
Có lẽ đó là lý do tại sao tờ The Atlantic không quan tâm đến tác phẩm thứ hai của cô, Biển quanh ta (The Sea Around Us), do vậy Carson đã gửi tác phẩm của mình cho tờ The New Yorker. Wallace Shawn, biên tập viên huyền thoại của tạp chí này rất thích tác phẩm của Carson và ngay lập tức đồng ý đăng dưới dạng nhiều kỳ trên báo. Lúc đó là năm 1951. Khi tác phẩm phát hành dưới dạng sách, Biển quanh ta đã tại vị 86 tuần trong Danh sách bán chạy nhất của báo New York Times, giành được Giải hưởng Sách Quốc gia năm 1952 và đã được dịch ra 28 thứ tiếng. Cuốn sách thứ hai này, với giọng văn đầy hình ảnh nhưng không kém phần chính xác về mặt khoa học, là một cuộc khám phá kỳ quan thú vị về những gì con người đã biết về các vùng biển trên Trái đất, cách mà núi, đảo, đại dương, gió, mưa, thủy triều hình thành; các loài động thực vật đã sinh sống trên đó và bị thay đổi ra sao.

Sống và viết bên biển

Năm 1951, sau thành công của cuốn sách Biển quanh ta, Carson từ chức ở Ngư cục để theo đuổi việc viết lách toàn thời gian. Cùng với tiền thưởng giải Guggenheim Fellowship dành cho ‘những người chứng minh khả năng sáng tạo đặc biệt trong nghệ thuật’ và tiền bản quyền sách, Carson đã mua một miếng đất nhỏ trên bờ biển Maine. Ở đó, cô dành hết thời gian và tâm huyết để viết sách. Cuốn tiếp theo, Bờ biển (The Edge of the Sea, 1955) về việc nhận diện những cư dân biển “trong tất cả những biểu hiện khác nhau từ khi xuất hiện, tiến hóa và mất đi” cũng trở thành một tác phẩm bán chạy khác. 
Đến lúc này, các cháu gái của Carson đã trưởng thành và mẹ cô, bà Maria, tiếp tục sống cùng cô. Mặc dù không có nhiều học vấn chính quy, bà Maria vẫn là người có đầu óc nhạy bén, tò mò và có niềm đam mê trọn đời với các loài chim.Bà đã dạy cô con gái cách phân biệt vô số âm thanh khác nhau của chim chóc ở Maine. Carson từ lâu tập chỉ trung vào cuộc sống bên dưới những con sóng và rìa đại dương giờ đây hướng sự quan tâm của mình tới những sinh vật bầu trời.
Rachel Carson không kết hôn và cũng chưa từng thể hiện sự quan tâm lãng mạn nào đối với người khác giới. Sau khi chuyển đến Maine, cô gặp một người phụ nữ tên là Dorothy Freeman. Đó là sự khởi đầu của một mối tình say đắm nhưng gần như hoàn toàn bí mật. 
Với thế giới bên ngoài, hai người là bạn thân của nhau. Freeman hơn Carson gần 9 tuổi, kết hôn và có con với người chồng Stanley Freeman. Phần lớn trao đổi của Carson và Freeman tiến hành qua thư từ. Để bảo vệ bí mật, họ thường gửi hai lá thư trong một phong bì, một lá dùng khi ở đám đông để người kia có thể đọc to cho gia đình và bạn bè, lá thư còn lại riêng tư và thân mật hơn nhiều, chứa đầy cảm xúc cùng suy nghĩ, mà thế hệ đọc sau này mới hiểu được phần nào mối quan hệ thực sự của cả hai. Những lá thư riêng tư được thỏa thuận sẽ gửi vào “Hộp kín” - mật danh riêng của họ cho việc đốt bỏ sau khi đọc. Nhưng hai người phụ nữ ấy rốt cuộc không nỡ hủy tất cả những lá thư. Vào năm 1995, cháu gái của Freeman xuất bản cuốn sách Mãi mãi, Rachel (Always, Rachel) với những tờ giấy còn sót lại.

Cảnh báo về sự nguy hiểm của DDT

DDT (Dichloro Diphenyl Trichlorothane) được phát triển vào những năm 1940, lần đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh để giúp kiểm soát sự lây lan của bệnh sốt rét , sốt phát ban và các bệnh khác do côn trùng gây ra. Nhưng khi thế chiến II kết thúc, những nhà sản xuất tìm cách sử dụng thương mại chúng với hy vọng thâm nhập vào những thị trường mới nổi. Lúc đầu, DDT là loại thuốc trừ sâu cho cây trồng rất thành công, nhưng người ta không rõ ảnh hưởng của nó với sinh vật khác, bao gồm cả con người. Một số nhà khoa học đã liên tiếng báo động nhưng những rủi ro liên quan đến việc sử dụng DDT không được biết đến rộng rãi.
Từ đầu những năm 1940, Carson đã lo ngại về việc thải khối lượng lớn chất độc như thế vào môi trường. Khi ở Ngư cục, cô đọc nhiều báo cáo của chính phủ về DDT và thấy rằng nó chưa được thử nghiệm cho mục đích dân sinh, cũng như hóa chất đó giết chết động vật và côn trùng như thế nào. Carson đề xuất một bài viết về chủ đề này cho tờ tạp chí nổi tiếng Reader’s Digest, nhưng họ từ chối. Mặc dù quan tâm chính về biển, Carson vẫn lưu tâm đến những bằng chứng tích tụ ngày càng nhiều chỉ ra rằng DDT có thể không kỳ diệu như người ta vọng tưởng.
Vào năm 1958, một nhóm công dân thành lập Ủy ban chống ngộ độc hàng loạt đệ đơn kiện tại bang New York để ngừng việc phun thuốc trừ sâu trên không trung. Olga Owens Huckins, một thành viên của Ủy ban, liên lạc với Carson nhằm thúc giục cô viết về vụ kiện này. Carson tỏ ra miễn cưỡng vì điều đó đồng nghĩa với việc bà phải rời Maine đến New York. Bà có lý do hoàn toàn chính đáng cho sự lưỡng lự  này. Một mặt, Carson còn trách nhiệm nuôi nấng một đứa cháu nuôi Roger sau khi một cháu gái bà qua đời. Mặt khác, Carson bắt đầu đối mặt với căn bệnh ung thư vú. Tuy nhiên, bà vẫn rất quan tâm đến việc sử dụng thuốc trừ sâu, đặc biệt là DDT. Càng tìm hiểu sâu, Carson càng tin rằng mình phải viết một cái gì đó về nó. Bà nhờ các đồng nghiệp theo dõi phiên tòa ở New York trong khi ở nhà bắt đầu nghiên cứu. Đó là những bước đi đầu tiên hình thành một tác phẩm sẽ đi vào lịch sử.
Vài phần trong bài tiểu luận Mùa xuân im lặng (Silent Spring, 1962) của Carson được đăng dưới dạng nhiều kỳ trên tờ The New Yorker và tạo ra một làn sóng dư luận ngay lập tức. Nhiều người, bao gồm cả nhà văn đáng kính E.B White, tuyên bố đây là một trong những tác phẩm hay nhất và quan trọng nhất từng được công bố trên tạp chí. Không lâu sau, tác phẩm được xuất bản thành sách.
Các ông trùm hóa chất gào lên, “Đây là cuốn sách sẽ đẩy chúng ta đến chân tường”. Những công ty có quyền lợi liên quan chuyển sang công kích Carson và cố sức làm mất uy tín của bà bằng cách gọi Carson là kẻ nghiệp dư hoặc cộng sản. Các bài báo liên tiếp ra đời “nện” cho cuốn sách tới tấp, có nhà báo gọi Carson là kẻ gàn dở tự nhiên (Nature Nut). Trong khi đó, người dân khẩn thiết kêu gọi những nhà khoa học như bà phải làm gì để ngăn chặn thảm họa gây ra bởi DDT. 
Không giống như các cuốn sách trước đó chỉ nhận được lời khen ngợi, Mùa xuân im lặng nhận được tất cả phản ứng trái chiều ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy vậy, tác phẩm vẫn thống trị danh sách bán chạy nhất và thúc đẩy một loạt tranh luận mang tầm cỡ quốc gia về nguy hiểm của thuốc trừ sâu. Tổng thống John F. Kennedy đã coi cuốn sách của Carson như một nhân tố quan trọng. dưới áp lực của dư luận, Ủy ban cố vấn khoa học của Kennedy đã thực hiện điều tra, nghiên cứu và báo cáo của Ủy ban đã ủng hộ quan điểm của Carson. Việc sử dụng DDT cũng như các thuốc trừ sâu khác được quy định lại ngặt nghèo. Đến năm 1972, DDT đã bị cấm sử dụng ở Mỹ và đến 2001 thì bị cấm trên toàn thế giới. Mùa xuân im lặng được ghi nhận rộng rãi vì đã châm ngòi cho phong trào môi trường cũng như đặt nền móng cho việc hình thành Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA).
Không có gì ngạc nhiên khi Carson bị tấn công bởi ngành công nghiệp hóa chất. Bà đã lường trước được điều đó và mãnh mẽ lên tiếng chống lại những gì được coi là đe dọa với tự nhiên. Nhưng không mấy ai biết rằng lúc đó Carson cũng chiến đấu một cuộc chiến khốc liệt khác với căn bệnh ung thư vú. Bà không muốn công chúng biết điều đó. Khi làm chứng trước Quốc hội năm 1963, Carson đã đội tóc giả để che mái đầu hói do trị xạ. Các khớp xương của bà đau đớn và khó mà di chuyển được. Chỉ một năm sau, bà đã qua đời do căn bệnh di căn. Khi đó Rachel Carson mới chỉ 57 tuổi. 
Carson đã trải qua đau đớn và bệnh tật đáng kinh ngạc để hoàn thành cuốn sách cuối cùng của mình. Người bạn đời Dorothy Freeman luôn cho rằng Mùa xuân im lặng đã giết chết bà. Nhưng trước khi chết, Carson viết rằng bà đang suy nghĩ về cuốn sách tiếp theo nói đến việc mực nước biển dâng lên bí ẩn. Giá như Carson còn sống, rất có thể bà sẽ là người công khai những nguy cơ của biến đổi khí hậu nhiều thập kỷ trước khi chúng trở thành mối quan tâm toàn cầu như hiện nay.
Năm 1980, Tổng thống Jimmy Carter vinh danh Rachel Carson với Huân chương Tự do của Tổng thống, giải thưởng dân sự cao quý nhất ở Mỹ, vì những cống hiến không mệt mỏi của bà về các vấn đề môi trường và nhấn mạnh “bà đã cảnh báo người Mỹ về những nguy hiểm mà con người tự đặt ra cho môi trường riêng của họ.”□

Ngô Hà tổng hợp

Nguồn: EPA, CBS, U.S. Fish & Wildlife Service, New Yorker, New York Times
Bài khung: https://science.howstuffworks.com/dictionary/famous-scientists/biologists/10-things-should-know-about-rachel-carson.htm 

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 27.03.2019.

Một trong những kỳ tích vĩ đại nhất chưa được giải thích trong lịch sử nhân loại đó là triết học văn bản ra đời độc lập từ những nơi khác nhau trên thế giới gần như cùng một lúc. Nguồn gốc của triết học Ấn Độ, Trung Hoa và Hy Lạp cổ đại, cũng như đạo Phật, tất cả đều có thể truy nguyên về một thời kỳ kéo dài khoảng 300 năm, bắt đầu vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên.

20181110 Khong Tu 

Khổng Tử (551-479 Trước Công Nguyên).


Nhưng, với tất cả những truyền thống triết học đa dạng và phong phú trên khắp thế giới, triết học phương Tây mà tôi đã nghiên cứu trong hơn 30 năm – dựa hoàn toàn vào những văn bản kinh điển của phương Tây – được giới thiệu như thứ triết học phổ quát, là sự chất vấn cuối cùng về hiểu biết của nhân loại. Triết học so sánh – nghiên cứu hai hoặc nhiều truyền thống triết học – gần như bị bỏ lại hoàn toàn cho những người làm việc trong ngành nhân học hoặc nghiên cứu văn hóa. Việc những nhà nghiên cứu triết học từ chối quan tâm đến vấn đề này thể hiện quan điểm cho rằng triết học so sánh chỉ có thể giúp chúng ta hiểu các nền văn hóa trí tuệ của Ấn Độ, Trung Hoa hay thế giới Hồi giáo, chứ không phải về thân phận con người. Gần đây và thật muộn, tôi mới khám phá các nền triết học cổ điển vĩ đại ở phần còn lại của thế giới, du hành qua các lục địa để tiếp xúc với chúng. Đó là hành trình tri thức bổ ích nhất cuộc đời tôi.

Hành trình triết học ấy đã thuyết phục tôi rằng chúng ta không thể hiểu bản thân mình nếu không hiểu người khác. Để hiểu người khác đòi hỏi một người phải lường trước được nguy hiểm kép đó là quá đề cao những điểm chung giữa mình và hay quá coi trọng những điểm khác biệt giữa họ và mình. Những giá trị nhân văn và những vấn đề muôn thuở trong đời sống mà loài người cùng chia sẻ khiến chúng ta luôn có thể học hỏi và đồng cảm với những suy nghĩ và việc làm của người khác, bất kể ban đầu họ có thể kỳ dị đến đâu. Đồng thời, chúng ta đều có thể có những khác biệt rất sâu sắc hoặc tinh tế trong cách tư duy. Nếu chúng ta vội giả định rằng mình có thể nhìn mọi thứ từ điểm nhìn của người khác, thì rốt cuộc chúng ta chỉ thấy họ từ một bản tùy biến của chính chúng ta mà thôi.

Du hành khắp các nền triết học của thế giới là một cơ hội để thách thức các niềm tin và cách thức tư duy mà chúng ta vốn có. Bằng cách thu nhận thêm hiểu biết về cách suy nghĩ của người khác, chúng ta có thể trở nên bớt chắc chắn về tri thức mà chúng ta có, vốn luôn là bước đầu tiên để hiểu rộng hơn.

Lấy ví dụ về thời gian. Trên khắp thế giới ngày nay, thời gian là tuyến tính, được sắp xếp theo thứ tự quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngày tháng của chúng ta được tổ chức dựa vào vòng quay của kim đồng hồ, hay tóm gọn lại trong ngắn và trung hạn bằng lịch và nhật ký, lịch sử theo dòng thời gian được tính bằng đơn vị thiên niên kỷ.

Thời gian tuyến tính khớp với quan điểm cho rằng toàn bộ lịch sử nhân loại đều tiến về một phán xét cuối cùng. Điều đó giải thích tại sao, dần dần, nó trở thành một cách nhìn nhận phổ biến về thời gian trong phần lớn người theo đạo Thiên Chúa phương Tây. Khi Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới, ông bắt đầu với một câu chuyện về một khởi đầu, diễn biến, và một kết thúc. Như Sách Khải Huyền đã ghi, trong khi tiên đoán về những thời khắc kết thúc của nhân loại, Jesus chính là “Alpha và Omega, khởi đầu và kết thúc, đầu tiên và cuối cùng” của sử thi.  

Thời gian tuần hoàn

Nhưng luôn có những cách tư duy khác về thời gian. Rất nhiều trường phái tư tưởng tin rằng khởi đầu và kết thúc luôn là một bởi vì về bản chất thời gian là tuần hoàn. Đây là một cách tư duy đúng đắn và trực quan nhất về sự vĩnh cửu. Khi chúng ta hình dung thời gian như một đường thẳng, cuối cùng ta lại thấy lạc lối: chuyện gì xảy ra trước khi thời gian bắt đầu? Làm thế nào một đường thẳng kéo dài tới vô tận? Một đường tròn cho phép chúng ta hình dung về quá trình lui lại và tiến lên liên tục vĩnh viễn, không có một điểm nhất định nào là khởi đầu hay kết thúc.

Tư duy về thời gian tuần hoàn đặc biệt có ý nghĩa trong các xã hội tiền hiện đại, nơi chỉ có ít đổi mới sáng tạo xuyên suốt nhiều thế hệ và người ta sống một cuộc đời rất giống với ông mình, cụ mình và nhiều thế hệ trước trong gia đình. Không có thay đổi, thì tiến triển là việc không thể tưởng tượng nổi. Bởi thế ý nghĩa cuộc đời chỉ có thể được tìm thấy trong việc đón nhận chu kỳ của sự sống và cái chết và làm tốt nhất có thể với vai trò của mình.

Có lẽ đó là lý do cho việc thời gian tuần hoàn có vẻ như là một sự mặc định của con người. Người Maya, Inca và Hopi đều nhìn thời gian theo cách này. Rất nhiều truyền thống phi-Tây-phương chứa các yếu tố về tư duy về thời gian tuần hoàn, có lẽ rõ ràng nhất trong triết học cổ điển Ấn Độ. Triết gia kiêm chính khách Sarvepalli Radhakrishnan đã viết: “Tất cả những hệ thống [chính thống] đều chấp nhận quan điểm tiết tấu vĩ đại của thế giới. Những thời kì dài cho sáng thế, duy trì và biến mất tiếp nối nhau liên hồi vô tận.” Chẳng hạn, một đoạn trong kinh Vệ đà nói về Dyaus và Prithvi (Thiên đường và Trái đất) như sau: “Cái gì có trước, cái gì có sau? Chúng sinh ra thế nào? Này các hiền nhân, ai phân biệt được chứ? Chính chúng chứa đựng tất cả những gì từng tồn tại. Ngày và đêm tiếp nối nhau như trên một vòng quay.”

Triết học Đông Á bắt rễ rất sâu trong chu kỳ của các mùa, cũng một phần của một chu kỳ tồn tại lớn hơn. Chuyện này càng rõ ràng trong Đạo Lão, và được minh họa sống động nhờ sự hân hoan đáng kinh ngạc của triết gia Đạo Lão thế kỷ thứ 4 TCN Trang Tử khi tất cả mọi người nghĩ rằng ông ấy nên đau buồn vì người vợ đã khuất. Đầu tiên, ông đã giải thích rằng mình cũng khốn khổ như bất cứ ai. Sau đó ông nghĩ xa hơn về sự khởi đầu của chính thời gian: “Trong tất cả những cái khác thường và rối rắm, có gì đó đã thay đổi và có khí. Khí đã thay đổi, và hình cũng vậy. Hình thay đổi và cô ấy có sự sống. Hôm nay lại có sự thay đổi khác và cô ấy qua đời. Chuyện cũng giống như vòng tròn bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông vậy.”

Trong tư tưởng Trung Hoa, tri thức và sự thật là vĩnh cửu, và chúng ta không cần phải tiến lên để học, chỉ cần nắm bắt những gì mình đang có mà thôi. Như nhà Hán học người Scotland ở thế kỷ 19, James Legge, đã nói, Khổng Tử không nghĩ rằng mục tiêu của ông là “thông báo bất cứ sự thật mới lạ, hay khởi đầu bất kỳ nền kinh tế mới nào. Ông chỉ ngăn những gì từng được biết đến khỏi sự mất mát.” Tương tự như vậy, Mạnh Tử, đã phê bình những vị hoàng đế ở thời kỳ của ông bởi vì “họ không làm theo lối của những vị hoàng đế xưa.” Mạnh Tử cũng đã nói, trong chương áp chót của cuốn tuyển tập những cuộc đối thoại của ông cũng mang tên Mạnh Tử, gần với phần kết luận của cuốn sách: “Bậc đại nhân đơn giản là tìm lại những chuẩn tắc bất biến, và, nếu tìm đúng, thì thiên hạ được đánh thức trước đức hạnh.” Chương cuối cùng lập đồ thị các thời kỳ giữa các vị vua và triều đại vĩ đại.

Du hành khắp các nền triết học của thế giới là một cơ hội để thách thức các niềm tin và cách thức tư duy mà chúng ta vốn có. Bằng cách thu nhận thêm hiểu biết về cách suy nghĩ của người khác, chúng ta có thể trở nên bớt chắc chắn về tri thức mà chúng ta có, vốn luôn là bước đầu tiên để hiểu rộng hơn.

Một thứ lai giữa thời gian tuần hoàn và tuyến tính hoạt động trong các dải tư duy Hồi giáo. “Khái niệm của Hồi giáo về thời gian về căn bản dựa trên quá trình trẻ hóa tuần hoàn của lịch sử nhân loại qua sự xuất hiện của các lời tiên tri khác nhau,” Seyyed Hossein Nasr, giáo sư danh dự Hồi giáo học của Đại học George Washington nói. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ đều đưa nhân loại tiến lên, với mỗi lần mặc khải dựng lên từ cái cũ – tiếng gọi của Qu’ran tới Muhammad trở thành lời tuyên bố hoàn thiện, tối hậu của Chúa Trời – cho tới khi cuối cùng chuỗi những chu kỳ này kết thúc với sự xuất hiện của Mahdi, người trị vì trong suốt 40 năm trước ngày phán xét cuối cùng.

Thời gian không thể tách khỏi nơi chốn

Bởi thế, sự phân biệt giữa thời gian tuyến tính và tuần hoàn không phải lúc nào cũng rõ ràng. Giả thiết về một song đề sai đã dẫn nhiều người tới việc giả định rằng những truyền thống triết học truyền miệng chỉ đơn giản là khái niệm thời gian tuần hoàn. Thực tế phức tạp hơn thế. Ví dụ như các triết học của người bản địa Úc. Không có những người Úc đơn lẻ đầu tiên nào khởi xướng một văn hóa tập thể, nhưng có đủ những điểm chung giữa họ trên khắp đất nước cho phép tổng quát hóa thử một số ý tưởng chung hay có ảnh hưởng chính. Nhà nhân loại học quá cố David Maybury-Lewis đã đặt ra giả thuyết rằng thời gian trong văn hóa Úc bản địa vừa không tuyến tính vừa không tuần hoàn; thay vào đó, nó giống với không-thời gian của vật lý hiện đại. Thời gian được gắn kết chặt chẽ với địa điểm trong cái mà ông gọi là “thời-gian-mơ-tưởng” của “quá khứ, hiện tại, tương tai đều tất thảy hiện hữu ở địa điểm này”.

“Người ta sống ở một địa điểm hơn là một thời gian,” là cách mà Stephen Muecke viết trong cuốn sách Ancient and Modern: Time, Culture and Indigenous Philosophy (Cổ đại và Hiện đại: Thời gian, Văn hóa và Triết học Bản địa). Quan trọng hơn sự phân biệt giữa thời gian tuyến tính hay thời gian tuần hoàn là liệu thời gian tách biệt hay gắn kết chặt chẽ với địa điểm. Chẳng hạn, xét xem chúng ta nhận thức thế nào về cái chết. Ở phương Tây ngày nay, cái chết nói chung được nhìn nhận như sự tắt thở của một cá nhân, với thân thể như địa điểm và vị trí của thân thể đó thì không quan trọng. Trái lại, Muecke nói: “Rất nhiều câu chuyện bản địa về cái chết của một cá nhân đều không mấy liên quan đến sự chết của thân thể mà là sự trả về năng lượng cho nơi nguồn cội mà với đó nó tái xác định.”

Cách tư duy như vậy là đặc biệt kỳ lạ với phương tây hiện đại, nơi sự theo đuổi tính khách quan đã hạ thấp một cách có hệ thống vai trò của một địa danh rõ ràng, cụ thể. Trong một câu mang tính khiêu khích và khơi gợi, Muecke nói: “Tôi cho rằng sự nhìn xa trông rộng là một dạng thiển cận triết học của châu Âu và rằng các phiên bản khác của triết học, như của những người bản địa chẳng hạn, có kết nối sinh động và sâu sắc hơn hơn đến các xã hội loài người và cách họ nói về mình”

Muecke trích dẫn quan điểm hàn lâm của Tony Swain rằng khái niệm về thời gian tuyến tính là một thứ tách rời khỏi địa điểm. “Tôi cảm tưởng rằng vật lý hiện đại đã tách những chiều kích này (thời gian, không gian) khỏi nhau và nghiên cứu trên đó, vì thế chúng ta tạo ra thời gian như đã biết thông qua rất nhiều hoạt động lý thuyết và thực nghiệm,” Muecke nói với tôi. “Nếu bạn không tách biệt những chiều kích này ở dạng khái niệm và thực nghiệm, thì chúng sẽ có xu hướng trôi cùng nhau.” Những người bạn bản địa của anh ta ít nói về thời gian và địa điểm một cách độc lập, mà nói nhiều hơn về các sự kiện có địa điểm xác định. Câu hỏi quan trọng về thời gian không phải là “Chuyện này đã xảy ra khi nào vậy?” mà là “Chuyện này liên quan gì đến các sự kiện khác?”

Từ “liên quan” rất quan trọng. Thời gian và không gian đã trở thành những khái niệm trừu tượng về mặt lý thuyết trong vật lý hiện đại, nhưng trong văn hóa của con người thì chúng là những thực tế cụ thể. Không có gì tồn tại thuần túy như một điểm trên bản đồ hay một thời khắc trong thời gian: mọi thứ đều nằm trong mối liên kết với những thứ khác. Vì vậy, để hiểu thời gian và không gian trong các truyền thống triết học truyền miệng, chúng ta phải nhìn chúng như những khái niệm sống thay vì những khái niệm trừu tượng trong các lý thuyết siêu hình, là bộ phần của một cách hiểu rộng hơn về thế giới – một thứ khởi sinh từ sự liên quan. Hirini Kaa, giảng viên ở Đại học Auckland, nói rằng “trụ cột quan trọng của tư tưởng của Maori là mối quan hệ máu mủ, sự kết nối giữa nhân loại, giữa người này người khác, giữa môi trường tự nhiên.”

David Mowaljarlai, người từng là Chấp pháp trưởng lão của bộ tộc Ngarinyin ở Tây Úc, gọi đây là nguyên lý của sự kết nối “tư duy mô thức”. Tư duy mô thức ngập tràn thế giới tự nhiên và thế giới xã hội, mà, sau cùng, theo cách tư duy này, chúng chỉ là một phần của cùng một thứ. Như Muecke đã viết, “Khái niệm liên kết là cơ sở của tất cả các hệ thống họ hàng […] Kết hôn, trong trường hợp này, không chỉ là kết đôi, mà theo một cách nhìn khác, nó là sự sẻ chia bản thân mình cho nhau.”

Từ địa phương đến phổ quát, từ phổ quát đến địa phương

Sự nhấn mạnh vào tính kết nối và địa điểm dẫn tới một cách thức tư duy đi ngược với chủ nghĩa phổ quát trừu tượng đã phát triển tới một mức độ nhất định trong tất cả các kiệt tác triết học phương Tây. Muecke mô tả điều này như một trong “những nguyên lý trường tồn [Úc Bản địa]” mà “một hình thức tồn tại sẽ đặc trưng cho nguồn lực và nhu cầu ở tại một thời gian cũng như nơi chốn và rằng cách cư xử của một người sẽ gắn với trách nhiệm đặc trưng của nơi đó” Đây không phải là thuyết tương đối “sao cũng được”, mà là một sự nhận biết rằng các quyền, trách nhiệm và giá trị chỉ tồn tại trong văn hóa con người, và dạng thức đích thực của chúng sẽ phụ thuộc vào bản chất của các tình huống.

Chuyện như thế chắc đã đủ rõ ràng. Nhưng các truyền thống của triết học phương tây, nói riêng, đã cố đạt đến tính phổ quát đòi hỏi sự phân biệt rõ ràng giữa thời gian và địa điểm. Chẳng hạn, từ “university” (đại học) còn có chung từ nguyên với “universal” (phổ quát). Trong những cơ sở đào tạo này, “chân lý không có biên giới quốc gia” như một người bình luận nhận xét. Địa điểm không hề quan trọng trong triết học phương tây tới mức khi tôi khám phá ra rằng đó là chủ đề của Hội thảo Triết gia Đông-Tây diễn ra 5 năm một lần vào năm 2016, tôi đã tự hỏi mình có gì đó để nói trước hội thảo hay không. (Tôi đã quyết định rằng chính sự thiếu vắng nơi chốn trong triết học phương Tây đáng được cân nhắc)

“Tư duy mô thức” của Maori và các triết học Úc Bản địa có thể chỉnh lý lại cho giả định rằng các giá trị của chúng ta là các giá trị phổ quát còn các giá trị khác thì đều lầm lạc. Nó lý giải một cách mạch lạc và thuyết phục ý tưởng cho rằng triết học luôn gắn liền với địa điểm và những tư tưởng chẳng hề gắn với một nơi chốn cụ thể thì sẽ sớm lụi tàn và chết.

Tuy nhiên những hồ nghi về tính phổ quát chỉ có thể dừng lại ở đó. Chí ít thì vẫn có một mâu thuẫn khi nói rằng không có chân lý phổ quát nào, bởi vì đây cũng là một khẳng định mang tính phổ quát về chân lý.  Quan điểm đúng đắn có lẽ nằm đâu đó giữa các khẳng định của những người theo thuyết phổ quát ngây thơ và những người theo thuyết địa phương đầy hoài nghi. Có cảm giác là ngay cả khát khao mang tính phổ quát phải có nguồn gốc từ một thứ gì đó đặc thù hơn. T. S. Eliot được cho là đã nói rằng: “Mặc dù quá dễ để người viết trở nên địa phương mà không bị phổ quát, tôi nghi ngờ rằng một nhà thơ hay tiểu thuyết gia sẽ chẳng thể trở nên phổ quát nếu thiếu đi tính địa phương.” Thuần túy phổ quát nghĩa là ta đang nương náu trong một vũ trụ trừu tượng tách biệt hoàn toàn khỏi thực tế. Nhưng, cũng giống một tiểu thuyết gia có thể chạm tới những điều phổ quát về thân phận con người qua một vài nhân vật và một câu chuyện cụ thể, những truyền thống triết học địa phương khác, mặc dù được tiếp cận từ góc nhìn riêng của người bản địa, cũng có thể đưa những chân lý triết học phổ quát ra ánh sáng.

Chúng ta không nên sợ hãi rồi mắc cạn trong truyền thống của chính chúng ta, mà cũng không nên bị chúng hạn chế. Như Gandhi đã rất thơ khi viết: “Tôi không muốn nhà mình bị các bức tường bao tứ phía, và các cửa sổ thì đóng chặt. Tôi muốn nền văn hóa của tất cả các vùng đất ùa vào nhà tôi tự do hết sức có thể. Nhưng tôi từ chối bị bất cứ thứ gì thổi bay. Tôi từ chối sống trong những ngôi nhà của người khác như một kẻ không mời mà đến, một kẻ ăn mày hay một tên nô lệ.”

Những cách thức khác nhau mà các truyền thống triết học đã dùng để nhận thức thời gian hóa ra lại định hình cách ta nghĩ về cả vị trí đương thời của ta trong lịch sử và mối liên hệ của chúng ta với vị trí vật lý mà ta đang sống. Nó là một trong những ví dụ dễ nhất và rõ ràng nhất cho việc làm thế nào mà việc mượn cách tư duy khác lại có thể mang lại một góc nhìn mới mẻ về thế giới. Đôi khi, đơn giản nhờ việc thay đổi khung tranh mà cả bức vẽ có thể trông hoàn toàn khác biệt.

Julian Baggini

* Nhà triết học người Anh, tác giả của nhiều cuốn sách triết học cho đại chúng

Hoàng Mai lược dịch (các tít trong bài viết là do tòa soạn đặt)
Nguồn bài và ảnh: https://www.theguardian.com/news/2018/sep/25/about-time-why-western-philosophy-can-only-teach-us-so-much?CMP=share_btn_fb
-----------
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 4.11.2018.

Nhà thơ Baudelaire từng viết rằng: “Tính cá nhân, sự sở hữu bé nhỏ này, đã ăn mòn tính độc đáo tập thể... Tức là người họa sĩ đã giết chết hội họa”.

20190320

Tính độc đáo tập thể (l’originalité collective), quả thực đã bị bào mòn rất nhiều từ khi nền nghệ thuật Hiện đại ra đời. Kandinsky đã sáng tạo ra hội họa trừu tượng một phần từ nền tảng tranh dân gian Nga, và đôi khi chúng ta vẫn thấy “âm hưởng Nga” trong tranh trừu tượng của ông. Nhưng khi chủ nghĩa trừu tượng được lan tỏa toàn thế giới thì nó đã không còn giữ được mã gien dân tộc của các họa sĩ học tập theo. Một bức tranh trừu tượng (hoặc biểu hiện trừu tượng) ngày nay do một họa sĩ Mỹ vẽ không khác gì mấy so với một họa sĩ Việt Nam. Tính độc đáo tập thể còn bị “khủng bố” mạnh hơn nữa trong các dạng thức “ngoài giá vẽ” của nghệ thuật đương đại. Từ Duchamp, Kosuth cho tới Kabakov, Ngải Vị Vị, chúng ta chỉ thấy những ý tưởng quốc tế hay vị lai, về một giá trị đại đồng mơ hồ nào đó, mà rất hiếm khi thấy một giá trị cá nhân chứ chưa nói đến giá trị dân tộc. Kosuth có rất nhiều các ý tưởng mới lạ, nhưng khi gộp tất cả các tác phẩm khái niệm hay sắp đặt đó lại, ta rất khó xác định một “phong cách Kosuth” hay xa hơn là “nghệ thuật khái niệm Mỹ”. Quả thực, nghệ thuật đương đại là một thử thách khó khăn trong việc xác định mã gien di truyền của cộng đồng. Nói theo cách khác, nghệ thuật đương đại đang trốn tránh tính độc đáo tập thể một cách có chủ ý.

*

Stravinsky là một trong những nhạc sĩ xuất sắc nhất thế kỷ 20 và thành công trong nhiều xu hướng âm nhạc khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đời: truyền thống Nga (1907 - 1919), Tân cổ điển (1920 - 1954), chuỗi 12 cung (1954 - 1968). Nhưng những tác phẩm mang lại vinh quang cho ông và ảnh hưởng lên toàn thế kỷ lại là những tác phẩm viết cho ballet được sáng tác trong giai đoạn truyền thống Nga: Con chim lửa (1910), Petrushka (1911), Nghi lễ mùa xuân (1913). Rõ ràng, vị trí của Stravinsky trong lịch sử âm nhạc thế giới được ghi nhận bởi sự lưu giữ và phát triển mã gien “truyền thống Nga”, trong đó vai trò của nhịp điệu, vốn được coi trọng trong âm nhạc dân gian Nga, được đẩy lên đỉnh cao. Như lời nhà phê bình A.J. Browne thì “Stravinsky chính là nhạc sĩ giỏi nhất trong việc phát triển nhịp điệu trở thành phẩm giá của âm nhạc”. Phương Tây tôn vinh Stravinsky không phải vì muốn tôn vinh những giá trị âm nhạc Nga (ngược lại, người phương Tây thường có tâm lý e ngại và lo sợ đối với người Nga), mà vì những mã gien truyền thống Nga trong âm nhạc Stravinsky đã đưa âm nhạc loài người đến những vùng đất mới mà những mã gien của người Tây Âu lại không thể đến đó được. Sự bảo tồn và phát huy những mã gien nghệ thuật của các dân tộc khác nhau là rất quan trọng để nghệ thuật loài người nói chung có thể đi được xa hơn.

*

Trước thế kỷ 20, người ta không khó để nhận ra sự khác biệt giữa kiến trúc Pháp (thậm chí giữa các vùng miền nước Pháp cũng có phong cách kiến trúc khác nhau) với kiến trúc Nga, kiến trúc Hà Lan, và càng khác hơn nữa với kiến trúc Việt Nam hay Trung Quốc. Nhưng giờ đây, khắp các đô thị trên toàn thế giới ta chỉ thấy những khối hộp giống nhau như những sản phẩm công nghiệp. Nếu như có một xu hướng kiến trúc mới nào đó ra đời và được tâng bốc thì ngay lập tức nó lan tỏa ra toàn thế giới bởi những hãng kiến trúc toàn cầu và sự bắt chước của các kiến trúc sư có nền lý luận phê bình yếu kém. Nhớ lại năm 1932 khi kiến trúc sư nổi tiếng đương thời của Pháp là Le Corbusier trình bày đồ án Cung Xô Viết ở Moskva với phong cách hiện đại, Stalin trả lời rằng: “Tôi không phải là một kiến trúc sư, tôi không biết nhiều về kiến trúc, nhưng tôi biết chắc rằng người dân Xô-viết không đánh giá cao nó”. Và quan điểm của Stalin không phải là không có lý khi ta nhìn lại kiến trúc và đô thị hiện đại khắp các nước tư bản phương Tây là “na ná” nhau, rất khó phân biệt tính dân tộc, còn nghệ thuật của Liên Xô, nhất là giai đoạn Stalin cầm quyền, lại có đặc trưng riêng khó nhầm lẫn. Có thể kiến trúc Liên Xô cục mịch và không bay bổng như kiến trúc của các nước tư bản, nhưng rõ ràng nó chứa đựng mã gien của dân tộc mình. Sự kiên định về bản sắc dân tộc và không a dua theo xu thế của Stalin là yếu tố quyết định tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của kiến trúc Liên Xô dưới thời ông lãnh đạo. Phong cách kiến trúc thời Stalin, đặc biệt ở những tòa nhà cao tầng như Khách sạn Ukraina, Đại học Tổng hợp Moskva, Trụ sở Bộ ngoại giao,... cho thấy phảng phất hình ảnh của những tháp canh, pháo đài Nga cổ, những hình ảnh gợi lên khát vọng vươn cao dựa trên những nền tảng bền chặt vững chắc, như chính tính cách của người Nga, mà người Việt Nam ta hay nói vui rằng “nồi đồng cối đá”.

Ở một trường hợp ngược lại, năm 1952 - 1959 Ấn Độ đã trải thảm đỏ mời Le Corbusier đến quy hoạch thành phố mới và thiết kế các tòa nhà hành chính quan trọng của bang Chandigard. Thành phố này đã đi vào sách giáo khoa kiến trúc và đô thị thế giới như là biểu tượng chiến thắng chói lọi của chủ nghĩa Hiện đại. Nhưng sau hơn nửa thế kỷ, giờ đây Chandigard là biểu tượng cho sự thất bại của chủ nghĩa Hiện đại nói chung và của Le Corbusier nói riêng. Chandigarh hiện tại là một thành phố không có sức sống và không trở thành nơi chốn theo đúng nghĩa mà một đô thị phải có. Công trình Dinh thống đốc đã bị phá hủy vì xuống cấp trầm trọng. Còn Tòa nhà Hội đồng tuy chưa bị phá, bởi đã được công nhận là Di sản thế giới, nhưng gần như trở thành nơi tập kết phế liệu. Việc các công trình nhếch nhác ở Chandigard trở thành di sản thế giới là điều mà chúng ta nên trân trọng và thận trọng, bởi lịch sử dù huy hoàng hay đau buồn thì nó vẫn là lịch sử, chúng ta không thể chối bỏ nó, có ngày xưa thì mới có hôm nay. Hơn nữa, việc đề cao và gìn giữ các công trình kiến trúc thất bại cũng là việc cần thiết để răn dạy các thế hệ kiến trúc sư sau này. Trung tâm hành chính Chandigard trở thành một nơi chốn thất bại là có nhiều lý do nhưng trong đó không thể bỏ qua các nguyên nhân liên quan đến kiến trúc: thứ nhất, bê tông thô không phải là vật liệu bền vững cho thẩm mỹ và không phải bất cứ lúc nào chỗ nào cũng dùng được; thứ hai, hình thái kiến trúc các công trình ở đó chưa thật phù hợp với truyền thống và điều kiện Ấn Độ; thứ ba, sự thiếu vắng mã gien, văn hóa, tinh thần Ấn Độ trong kiến trúc nơi đây.

*

Ngày nay, tính độc đáo tập thể trong kiến trúc nói riêng và trong nghệ thuật nói chung vẫn bị mờ nhạt dù cho chủ nghĩa Hậu hiện đại đã khích lệ lên ít nhiều. Quá trình toàn cầu hóa nhanh chóng đã làm cho các cộng đồng yếu thế ngày càng yếu thế hơn, các nhóm người có ưu thế về tài chính, dữ liệu, truyền thông ngày càng gia tăng sức ảnh hưởng của mình. Không ít các nghệ sĩ Đương đại ở các nước (phát triển và đang phát triển) chỉ chờ đợi các dự án bảo trợ của giới đầu tư ngồi ở New York, London..., nếu chưa có bảo trợ thì không thể làm gì cả. Nghệ thuật ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, mà thị trường không phải do nghệ sĩ quyết định mà do giới tinh hoa ở các trung tâm tài chính định hướng. Tất nhiên trong giới văn nghệ vẫn luôn có những người giữ vững đức hạnh thẩm mỹ của mình, nhưng họ phải rất nỗ lực thì mới có thể chống đỡ và chuyển hóa được sức mạnh của toàn cầu hóa. Trước sự tấn công tư tưởng của các nhóm tinh hoa thế giới ẩn nấp trong danh xưng “toàn cầu hóa”, những nền nghệ thuật yếm thế (như Việt Nam chẳng hạn) rất cần có chiến lược và chiến thuật cụ thể để bảo vệ và phát huy tính độc đáo tập thể của cộng đồng mình.

Bên cạnh thách thức của toàn cầu hóa, tính độc đáo tập thể, như lời Baudelaire, còn bị bào mòn bởi chủ nghĩa cá nhân; các nước Nga và một số nước châu Á như Iran, Ấn Độ, Trung Quốc,... đi theo xu hướng kết hợp chủ nghĩa dân tộc với các tư tưởng chính trị khác, như là một phương cách chống lại chủ nghĩa tư bản cá nhân và đế quốc của phương Tây. Chủ nghĩa tư bản dân tộc đã giúp các nước châu Á không bị sụp đổ sau những đợt tấn công vào hệ thống tài chính từ phố Wall năm 1997, cũng như giúp Nga đứng vững trước những đòn trừng phạt từ phương Tây năm 2015.

Ngày nay, nghệ thuật thế giới có thể chia thành hai xu hướng chính: thứ nhất, toàn cầu hóa và tự do cá nhân được giới tinh hoa phương Tây bảo trợ; thứ hai, bản sắc dân tộc, chủ yếu ở Nga, một số nước Ả rập và Đông Á, được nhà nước và các giới tư bản có tinh thần dân tộc bảo trợ. Ví dụ ở Nga, như một số hồ sơ tiết lộ, thông qua những tập đoàn mà nhà nước có cổ phần lớn hoặc các tài phiệt thân hữu với tổng thống, một số tiền đáng kể dùng để mua tranh từ nước ngoài, sắm các nhạc cụ đắt tiền, đầu tư các bộ phim chuyển thể từ các kiệt tác văn học Nga, tạo điều kiện cho những nghệ sĩ có xu hướng dân tộc được phát triển. Ở Việt Nam, thực tế cho thấy, ngay từ khi giành độc lập, giới văn nghệ sĩ mặc dù vẫn đi theo xu hướng chung của khối là hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn có không ít những nghệ sĩ sớm nhận ra “mỏ vàng” truyền thống dân tộc, mà người khai thác thành công nhất là Nguyễn Tư Nghiêm. Còn nói về bảo trợ nghệ thuật, thời bao cấp các nghệ sĩ sống chủ yếu nhờ vào tiền lương hoặc ít nhiều trợ cấp từ nhà nước. Nhưng sau khi Đổi mới, các nghệ sĩ phải sống nhờ vào thị trường. Mà thị trường thì lại liên quan đến truyền thông và thị trường quốc tế, nơi giới tinh hoa tư bản đế quốc kiểm soát. Đừng vội vui mừng khi Việt Nam có những họa sĩ đương đại có giá tranh cao ngất ngưởng. Đó có thể là những vụ đầu cơ khiến cho nền nghệ thuật của chúng ta trở nên suy yếu. Hiện nay ở Việt Nam, nhà nước cũng như giới tư bản mới nổi đều chưa thấy được tầm quan trọng trong việc bảo trợ cho nghệ thuật theo hướng phát huy mã gien dân tộc mình. Trong khi, giới chóp bu tài phiệt đế quốc dùng nghệ thuật như một phương cách để tô vẽ bản thân và mua chuộc giới trí thức các nước bằng những khái niệm mỹ miều như “tự do”, “phong cách mới”, “đương đại”... và giới tinh hoa nước ta vẫn chưa ý thức được vai trò của nghệ thuật đối với mô hình chính trị kinh tế mà họ đang được hưởng lợi. Hồ sơ giải mật của CIA mới đây đã tiết lộ về những điệp vụ bảo trợ, nâng giá, quảng bá cho các họa sĩ biểu hiện trừu tượng Mỹ như Pollock, Rothko trở thành những sản phẩm ưu việt của Mỹ so với các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa “tù túng” ở Liên Xô. Với tiền sự như vậy, ta có cơ sở để tin rằng giới tài phiệt tinh hoa quốc tế đang muốn kiểm soát và định hướng tư tưởng, nghệ thuật của các dân tộc bằng những quỹ đầu tư, giáo dục, đào tạo, văn hóa của họ. Đó có thể chỉ là một cuộc tranh giành để phân chia vùng ảnh hưởng, nhưng cũng có thể là một cuộc chiến sát ván. Các dân tộc khác và Việt Nam nên chuẩn bị cho những tình huống xấu có thể sẽ xảy ra. Trách nhiệm đó không chỉ là của các nghệ sĩ mà còn là của các nhà quản lý và các doanh nghiệp có tinh thần dân tộc.

*

Đối với người nghệ sĩ, việc lựa chọn giữa sự bứt phá sáng tạo ra những đặc tính cá nhân nổi trội của mình với lưu giữ và phát huy những giá trị của truyền thống cộng đồng, giữa phát triển phong cách cá nhân với tạo dựng bản sắc tập thể, cái nào quan trọng hơn? Câu trả lời tùy thuộc vào mỗi người, nhưng đối với những nghệ sĩ ở những nền nghệ thuật chưa có nhiều thành tựu đỉnh cao, như Việt Nam chẳng hạn, thì bản sắc tập thể là một lựa chọn đáng để cân nhắc. Việc cùng nhau tạo ra một sắc thái, phong cách, hay mã gien nghệ thuật của dân tộc và cộng đồng mình có ý nghĩa rất quan trọng. Một con sư tử được coi là chúa của khu rừng chỉ khi trước hết giống loài của nó thống trị khu rừng. Chúng ta đã từng có một Nguyễn An, kiến trúc sư tham gia xây dựng Tử Cấm Thành, hay Đặng Thái Sơn chơi piano đẳng cấp hàng đầu thế giới, nhưng nếu nền kiến trúc và âm nhạc Việt Nam vẫn còn mờ nhạt khi so với các nền kiến trúc và âm nhạc khác, thì Nguyễn An, Đặng Thái Sơn không thể được thế giới ghi nhận bằng Kenzo Tange hay Sviatoslav Richter. Người ta đánh giá một con người không chỉ ở bản thân con người ấy mà còn cả cái cộng đồng xung quanh và truyền thống con người ấy được thừa kế.

V.H

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 359/01-2019; phiên bản trực tuyến ngày 12.03.2019.

Lịch sử Việt Nam nếu nhìn từ thân phận đàn bà thì đó là những tiếng nói vô thanh, tức là không có (hoặc rất ít) giọng nói cất lên từ phía phụ nữ, mà chỉ là những tiếng lồng đa thanh của những kẻ đàn ông cho những khuôn mặt đàn bà đã phôi pha theo dòng chảy thời gian. Hình tượng Thái hậu Dương Vân Nga trong lịch sử là một trong những điển hình cho điều đó. Trong khi Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là một biểu tượng đa năng, như là câu chuyện của những đại tự sự với những xu hướng chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như là một hình ảnh phụ bị cuốn theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông. Trong khi, các sử gia Nho giáo chỉ coi Dương hậu như là một bài học cho sự vi phạm đạo vợ chồng, phê phán để làm gương cho các bậc hoàng đế và vương hậu đời sau; thì các nghiên cứu trong thế kỷ 20 lại lấy bà như là một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam biết hy sinh hạnh phúc cá nhân để giữ gìn sự thống nhất và bảo vệ nền độc lập dân tộc.

20181022 Duong Van Nga

Nghệ sĩ Bạch Tuyết trong vai diễn Thái hậu Dương Vân Nga trong vở kịch cùng tên.

Sử liệu về Dương Vân Nga

Dương hậu hay Dương Vân Nga, được biết đến nhiều vì liên quan một lúc đến cả ba họ Ngô- Đinh- Lê. Cho đến nay, người ta vẫn không hết tranh luận bà là một người hai hay người. Nhưng dù là một hay hai người thì đây vẫn gương mặt phụ nữ kỳ lạ nhất của thế kỷ X, và cũng là một/ hai người phụ nữ đáng nhớ nhất trong lịch sử Việt Nam trung đại. Nếu bà là một người, thì bà vừa là cháu của một ông Tiết độ sứ (Dương Đình Nghệ) và một ông vua (Bình Vương), là vợ của 3 vị vua (Ngô Xương Văn, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn), là mẹ của 2 ông vua nữa (An Vương Ngô Nhật Khánh, và Vệ Vương Đinh Toàn), cuối cùng bà còn là mẹ vợ của hoàng đế Lý Công Uẩn (như truyền thuyết). Nếu quả như thế thật thì sử liệu nào cho phép suy luận và vẽ ra một nhân vật tầm cỡ - thú vị đến như vậy?

Sử liệu 1: ghi chép sự kiện tháng 10 âm năm 979, sau khi Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị ám sát. “Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng Trường Yên”1.

Sử liệu 2: chép ở mục Phế Đế: “Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công, tự xưng là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn, nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: “Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước nhà ta. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nổi nhiều nạn, các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về sau”. Hoàn nói: “Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương trách nhiệm”.

Sử liệu 3: Chép sự kiện cuối năm 979 về Ngô Nhật Khánh: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước. Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại đem công chúa gả cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng: “Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta”. Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.”2

Sử liệu 4: tháng 7 âm năm 980, nhà Tống nghe nói nhà Đinh có biến, bèn sai Hầu Nhân Bảo sang đánh Đại Cồ Việt. “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm Đại tướng quân. Khi [triều đình] đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế!”. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [980], giáng phong vua làm Vệ Vương.”3

Sử liệu 5: Sau chiến thắng Nam Hán, năm 980, Lê Hoàn được bề tôi tôn xưng là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế. Năm 981, “Lập Hoàng thái hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ của Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Vệ Vương Toàn. Khi vua lấy được nước, đem vào cung, đến đây lập làm Hoàng hậu, cùng với Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quấc Hoàng Hậu, Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu (về sau, tục dân lập đền thờ, tô tượng hai vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ [đầu thời Lê] vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ)”.4

Các sử liệu trên trình bày rõ một hiện trường phong phú về bà trong bối cảnh chính trị cung đình thế kỷ X. Chúng ta thấy, lần đầu tiên trong lịch sử thế kỷ X, một người phụ nữ đã lên tiếng và được ghi vào chính sử, hoặc ít ra lần đầu tiên các sử quan để cho phái yếu được phát ngôn.

Dương Thái Hậu bảo Hoàn mà cũng là bảo cả những người theo phe mình: vua còn nhỏ dại, các ông cứ liệu tính chớ để di họa. Hoàn tự đáp với tư cách Phó vương, đương nhiên đó là trách nhiệm của mình. Một kịch bản mà có lẽ cả hai người đã tính toán rất kĩ trước khi ra chầu trước bách quan. Rồi trước nguy cơ chiến tranh với nhà Tống, trong thế “trứng đặt đầu đẳng”, lần thứ hai, người đàn bà quyền lực lên tiếng. Toàn thư ghi, Thái Hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đánh giặc, chọn được Phạm Cự Lạng ở Nam Sách Giang5 làm Đại tướng quân. Cự Lạng về Hoa Lư chuẩn bị kế hoạch chống giặc. Nhưng trước tiên là phải ổn định triều chính. Thái Hậu và Lê Hoàn chọn Phạm Cự Lạng làm Đại Tướng Quân. Đại Tướng họ Phạm liền tấu thẳng giữa triều đình về việc tôn Hoàn làm Hoàng Đế. Ba lý do được đưa ra: Hoàng Đế thì trẻ mỏ; giặc Tống đã đến gần; xuất quận ra trận, nếu thắng thì ai biết cho mà ghi công. Hai ý cuối cùng đã đánh trúng tâm lý của tất cả những người đang ăn lộc triều đình. Điểm tinh tế ở chỗ, sử mô tả Đại Tướng Quân Phạm Cự Lạng vào triều lại “mặc nguyên giáp trụ đi thẳng vào Nội phủ” để bàn kế hoạch tôn Hoàn làm Thiên tử trước khi đánh giặc. Lạng nói xong thì quân sĩ đều hô vạn tuế. Vậy thì hiển nhiên, việc triều đình Hoa Lư đồng ý Lê Hoàn lên ngôi còn vì phải chịu dưới sức ép của lực lượng quân sự. Vở kịch diễn ra đúng như dự toán của đạo diễn Dương Thái Hậu, lúc này bà mới sai người mang áo long cổn đến khoác lên mình Lê Hoàn, mời ông lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, và giáng ông con ruột 6 tuổi xuống làm Vệ Vương.

Dương Hậu – từ tấm gương “tày liếp” của đạo đức Nho giáo

Trong suốt chiều dài lịch sử sau này, chúng ta hãy cùng xem Ngô Hậu - Dương Hậu đã được hiện lên như thế nào dưới ngòi bút của các sử thần Nho gia.

Về Dương Hậu thời Đinh- Lê, Ngô Sĩ Liên đã phê bình từ góc độ đạo đức rằng: “Đạo vợ chồng là đứng đầu nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sau?”6 Ngô Thì Sĩ bàn thêm: “Đại Thắng Minh là tôn hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành dùng tôn hiệu của vua đã mất, làm tên hiệu cho Hoàng hậu của mình, không còn kiêng kị gì nữa. Thật là quá quắt”7. Ngô Sĩ Liên đã phê bình Dương Hậu và Lê Hoàn từ một bối cảnh thời đại mà Nho giáo đậm đặc hơn rất nhiều so với 500 năm trước đó. Ông phê phán Thập đạo Tướng quân lợi dụng chức vụ (ra vào cung cấm) thông dâm với vợ vua cũ và là mẹ vua mới (lại trong lúc tang gia bối rối, mẹ góa con côi), là không biết đến liêm sỉ, rồi “dâm dật đến nỗi mất nước”, đó là truyền lại cho con cháu cái thói dâm dật ấy. Mặc dầu, đây là một lối sử bình của một ông Nho thần dành cho một ông vua Nho giáo, nhưng ta vẫn thấy, thân phận người phụ nữ họ Dương!

Những phê phán ấy, từ chính sử, đi vào trong dân gian nhiều đời, với nhiều mức độ khác nhau. Nó trở thành một diễn ngôn sống động mà các sử thần đời sau, núp bóng quyền uy của ông vua đương thời, để mắng mỏ hoàng đế vương hậu triều trước như là các “tấm gương tày liếp” cho việc lỗi đạo vợ chồng, loạn mối nhân luân, đầu têu cho con cái và bách tính làm chuyện phản loạn. Toàn thư ghi việc thờ cúng ba vị Đinh Hoàng Đế - Dương Hậu – Lê Hoàng Đế đã tồn tại từ thời Lê sơ8. Sử quan cho rằng, đó là do tục lệ dân gian tự thờ cúng nên mới có sự “ngồi chung” bất chính như thế! Việc An phủ sứ Lê Thúc Hiển9 bãi bỏ việc thờ cúng theo kiểu “dâm từ” cho thấy quyền lực “vương hóa” của triều đình.

Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là một biểu tượng đa năng như là câu chuyện của những đại tự sự với những xu hướng chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như là một hình ảnh phụ bị cuốn theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông.

Ở một chiều hướng ngược lại, đầu thế kỷ 17, triều đình Lê - Trịnh (chính xác là Trịnh Kiểm) đã sai Quận công Bùi Thời Tung và bộ Công dốc tiền làm lại miếu thờ và tô tượng ba vị, nhưng tác làm hai đền thờ khác nhau. Bia Tạo tác Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh (1611) ghi việc tạo 3 tượng thờ ở đền vua Lê gồm có: Lê triều Đại Hành Hoàng đế, Bảo Quang Hoàng thái hậu và Ngọa triều Hoàng đế10. Bảo Quang Hoàng Thái Hậu có lẽ chính là thụy hiệu/ miếu điều tra văn hóa từ những năm 1980, mỗi khi đến ngày kị Đinh Tiên Hoàng dân làng có làm nghi lễ rước tượng, tượng Dương Hậu được rước từ đền thờ vua Lê sang đền thờ vua Đinh rồi cúng xong lại trả “Bà” về. Nhưng có chi tiết quan trọng nhất của nghi lễ là lật đít tượng lên đánh mười roi trước khi cho về với ông chồng cũ11.

Nhân dân trước nay (trong cuối thế kỷ XX) vẫn coi tượng này là “Dương Vân Nga”. Tượng này có đặc điểm là tô mặt đỏ (một thủ pháp mới lạ so với các hệ thống tượng vương hậu thời này), mặt xoay về hướng đền thờ Đinh Tiên Hoàng, hàm ý biểu thị sự hổ thẹn vì đã thất tiết với chồng cũ12.  Rõ ràng, triều đình Lê Trịnh, trong quá trình xây dựng các thần điện cho các vua triều trước (như tiền lệ cho tính chính thống của triều đại mình), đã tái sử dụng “lưỡng triều Hoàng hậu” Dương thị để tiếp dục giáo dục xã hội về đạo đức của người phụ nữ. Cùng một biểu tượng, nhưng mỗi thời có cách xử lý khác nhau. Đầu thế kỷ XV, ba vị được thờ theo kiểu “táo công” dân gian, để người đời sau giễu nhại, một bà hai ông ngồi chung một bệ: miếu đông thẹn ngắm duyên bà già (Đông miếu tu khan lão phụ duyên”13. Sau năm 1436, Lê Thúc Hiển coi Dương Hậu không đủ tư cách ngồi chung với hai ông Hoàng đế vì chuyện mất đức làm vợ, và gạt bà ra khỏi thần điện của nước Đại Việt. Đến đầu thế kỷ XVII, triều đình lại đưa bà vào thờ nhưng có “siêu chỉnh” về cách thức tô tượng và hướng thờ. Việc nêu gương thất tiết không còn chỉ nằm trong chính sử mà lại được đưa vào trong tự điển quốc gia.

Sách Đại Nam quốc sử diễn ca ghi:

Nối sau Thiếu Đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rày dọc ngang.
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
14


Cuối thế kỷ 19, các huyền thoại đã phủ khắp dân gian, rồi lại tiếp tục đi ngược vào chính sử và quốc chí. Đại Nam nhất thống chí khi ghi về trấn cũ Vân Sàng thì có giải thích từ nguyên rằng: “tục truyền là cái giường (sàng) mây nước (vân) giao nhau vì Dương Hậu (bà phi của Đinh Tiên Hoàng) đặt giường trên sông để đón Lê Hoàn. Khi vua đến có mây ngũ sắc xuất hiện nên gọi là vân sàng”15.

... bị dân gian biếm họa

Trong khi các bộ sử quan phương và điển lễ triều đình nhấn mạnh về sự bất chính của Dương Hậu từ góc độ chính trị, thì dân gian lại xoáy thêm vào mặt tính dục của bà hoàng này. Sách Hoàn Vương ca tích sưu tầm ở đất Hà Nam mô tả vẻ đẹp của Dương Hậu như sau:  

“Môi son rừng rực, mặt hoa rờn rờn
Mắt kia sao mọc cờn cờn
Cổ kia đã trắng lại tròn hân hân”…
Ðồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàng
Suối trong tựa ánh nguyệt tràn
Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây
Chim kề mỏ, bướm xỏ mày
Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm.
16


Các ngữ liệu văn học vừa nêu trên trình bày một hiện trường hiển minh về quyền lực kiến tạo tri thức lịch sử của triều đình Nho giáo. Các tri thức lịch sử, và tính chất của các sự kiện đã hiện rõ chính – ngụy, thông qua các lời bao biếm của các sử quan, từ đó hệ tư tưởng Nho giáo lan tỏa đến các tầng lớp khác nhau. Những người biên soạn các tác phẩm văn học có chủ đề lịch sử (từ các nhà Nho vô danh, khuyết danh, cho đến các ông đồ làng xã, các vị quan lại lịch triều, các vị thân vương, đại thần), trên một hệ tư tưởng thống nhất về đạo đức, trinh tiết của phụ nữ, đã tiếp tục lan tỏa quan điểm của mình đến nhiều tầng lớp xã hội thông qua các tác phẩm văn học Nôm diễn ca lịch sử, các tác phẩm này là để cho phụ nữ (phần lớn là mù chữ) học thuộc lòng. Dung mạo của Dương Thái Hậu được mô tả với hình ảnh đầy chất đa tình. Tức là lý giải mối quan hệ bất chính của Dương Hậu có thể xuất phát từ góc độ sinh lý. Các loại động vật cũng được huy động để mô tả hành động: chim thì kề mỏ, bướm thì xỏ mày, mây thì ngồi xổm, cá thì lượn thành đàn trên mây. Rõ ràng ở đây, một tác giả dân gian (vô danh) đã không hề có một ý niệm về sự tôn kính đối với một vị Hoàng hậu- Hoàng Thái Hậu trong quá khứ đã xa. Ông (có lẽ vẫn là đàn ông) chỉ nhìn thấy hình tượng một người đàn bà quyền lực với câu chuyện tình sống động qua lời bình của sử sách.

Cho đến một Dương Thái Hậu – có huân lao với quốc dân

Sang đến đầu thế kỷ XX, khi hệ hình tư tưởng thay đổi, biểu tượng Dương Thái Hậu đã bắt đầu có những chuyển biến quan trọng, nhưng không ít trường hợp vẫn bảo lưu nội hàm Nho giáo xưa cũ. Những tranh luận, đối thoại trực tiếp giữa các tác giả cho thấy sự chuyển đổi ít nhiều về tư tưởng sử ngay trong tầng lớp trí thức nửa phong kiến nửa thực dân. Đến nửa sau thế kỷ XX, cùng với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, và hệ tư tưởng mới, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức Nho giáo và khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc gia”, “dân tộc” và “chủ nghĩa yêu nước”.

Năm 1942, Tạp chí Tri Tân đã ra riêng một số chuyên đề về Đinh Tiên Hoàng, trong đó có bài của Song Cối với nhan đề “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, ông mở đầu như sau: “nói đến Dương thị, một vị Hoàng hậu trước đã đẹp duyên với Đinh Tiên Hoàng Đế, sau lại nối dây cầm sắt với vua Lê Đại Hành, nhiều người tin trí rằng bà là một gái phụ tình, một nàng dâm phụ; rồi vì thành kiến đã in sâu hàng nghìn năm nay, người ta vội cho ngay là một vết nhơ trên lịch sử. Cái án ấy quả có đúng không, công bằng không, ta nay cần phải lập một “tòa án công luận”, xét lại hồ sơ mà phúc xử mới được...”17. Tác giả đã giũ bỏ hoàn toàn quan niệm về Trung – Trinh, về tiết hạnh, về đạo phu phụ (nhân luân) của Nho giáo. Đàn bà (dù là Hoàng hậu) thì không nhất thiết phải thủ tiết với một đời chồng, nhất là khi chồng đã chết. Ông đã tiếp thu các tư tưởng duy vật của phương Tây để lý giải chuyện nam – nữ cũng chỉ là vấn đề sinh lý tự nhiên18, là nhu cầu tối thiểu như cơm ăn nước uống mà “thánh nhân” Nho giáo ngày xưa ai cũng có. Ông cho rằng nhu cầu tình dục (của đàn bà) cũng là “một quyền tự tồn của cá nhân”. Như thế, tác giả đã sử dụng “nhân quyền” để lên tiếng bảo vệ cho Dương Thái Hậu, với tư cách một người phụ nữ cũng có quyền tồn tại như những người đàn ông (ít nhất về thiên tính). Chẳng những thế, khi so sánh với “tình trạng hôn nhân của Đinh Tiên Hoàng”, ông cho rằng, đàn ông được đa thê, thế thì làm sao mà phụ nữ không được quyền tái giá. Ông đòi bình quyền cho nữ giới, và yêu cầu xã hội phải cải chính danh dự cho Dương Hậu.

Một biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc

Các bộ sử được viết trong nửa sau thế kỷ XX, thường chỉ nhấn mạnh đến vai trò của Lê Hoàn, và bỏ qua chi tiết Dương Thái Hậu khoác long bào cho Lê Hoàn, cũng như chuyện tình cảm cá nhân giữa hai người19. Cuốn Lịch sử Việt Nam mô tả “vận mệnh của cả dân tộc đang bị nạn ngoại xâm đe dọa nghiêm trọng. Chính quyền độc lập non trẻ đang đứng trước một thử thách lớn. Trong lúc đó, vua Đinh còn ít tuổi chưa đủ khả năng và uy tín để tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, quân sĩ và một số quan lại liền suy tôn Lê Hoàn lên làm vua…”20
Sự biến mất của Dương Thái Hậu cũng là một chỉ số cho thấy, các sử gia chỉ quan tâm đến các đại tự sự, các biến cố lớn trên chính trường, và không quan tâm đến các chuyện cá nhân đan xen với chính trị, nhất là chuyện liên quan đến phụ nữ và tình cảm.

Cho đến năm 1971, Văn Tân là người đầu tiên trong giai đoạn mới, đã lên tiếng về Dương Thái hậu trong bài “Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến thắng Chi Lăng lần thứ nhất (981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ X”. Ông đã mô tả lại việc sử dụng lực lượng quân sự của Lê Hoàn và Phạm Cự Lạng để thực hiện cuộc chuyển ngôi từ Đinh sang Lê. Trong khi “triều đình còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao, thì bà Dương Vân Nga tức Dương Thái Hậu, mẹ Đinh Toàn, lấy áo hoàng bào khoác vào Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua. Hành động mạnh dạn và sáng suốt của bà Dương Vân Nga mở một lối thoát cho triều đình, tạo cơ sở pháp lý cho Lê Hoàn để ông này có thể lên thay nhà Đinh mà vẫn không mang tiếng là cướp ngôi của vua nhà Đinh”21. Văn Tân đã lược bỏ các chi tiết tình ái đời tư giữa Dương Thái Hậu và Lê Hoàn, cũng như bỏ qua toàn bộ các kiểu phê phán của sử thần phong kiến. Ông cô lập hóa sự kiện để việc chuyển ngôi mang sắc thái trung tính và khách quan. Sự tái mô tả của Văn Tân là một hiện trường hiển minh cho quá trình con người chính trị (phe đàn ông) đã tái sử dụng hình ảnh của phụ nữ cho những gì mà thời đại mong muốn.

Năm 1981, Văn Tân tiếp tục phát biểu về Dương Thái Hậu với những ý vị mới. Ông viết: “tiếng nói của quân đội lúc này là tiếng nói của cả dân tộc trong lúc thế nước gặp gian nguy… Truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc Việt Nam nói chung và của phụ nữ Việt Nam nói riêng đã làm cho Dương Thái Hậu nhanh chóng tìm ra một lối đi phù hợp với lợi ích của dân tộc… Việc chủ động chuyển quyền hành của bản thân mình và của con mình cho Lê Hoàn, Dương Thái Hậu tỏ ra là một phụ nữ khôn ngoan, sáng suốt, dám lựa chọn sự hy sinh lớn khi cần phải lựa chọn. Hành động của bà rất đẹp đẽ, nó có tác dụng hàn gắn mọi rạn nứt trong lực lượng dân tộc nảy sinh ra từ cái chết đột ngột của Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Đinh Liễn.”22 Cách đánh giá về sự kiện Dương Thái Hậu như trên có một bước ngoặt quan trọng về hệ hình viết sử. Văn Tân đã đưa “dân tộc”- khái niệm quan trọng nhất của bối cảnh chính trị đương thời, vào trong hoạt động nghiên cứu lịch sử. “Dân tộc” là vấn đề trung tâm, “đoàn kết dân tộc” là hoạt động thiết thực của người làm chính trị, các “rạn nứt trong lực lượng dân tộc” là nguy cơ của việc phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, dẫn đến việc giặc xâm lược, đe dọa đến độc lập dân tộc. Mà Độc lập là lợi ích sống còn của dân tộc. Dương Thái Hậu đã được đặt vào khung lý thuyết mới, hệ tư tưởng mới. Bà được đánh giá là người đã biết hy sinh lợi ích cá nhân để hàn gắn rạn nứt dân tộc, là người đã khôn ngoan tiến hành công tác đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí của toàn thể dân tộc.

Đến nửa sau thế kỷ XX, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức Nho giáo và khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc gia”, “dân tộc” và “chủ nghĩa yêu nước”.

Nhiều tác giả ở thời điểm này như Nguyễn Danh Phiệt, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huệ Chi cũng có  những tiếng nói tương đồng với Văn Tân trong việc đánh giá vai trò của Dương Thái Hậu. Sau này, có những nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử nữ phân tích hình tượng Dương Thái Hậu, nhưng việc phân tích từ quan điểm, giọng nói của phụ nữ vẫn còn khá hiếm hoi. Đến Lee Seon Hee là người phụ nữ đầu tiên phân tích về hình ảnh Dương Thái Hậu góc độ “phê bình nữ quyền” (Feminist Narratology)23, từ quan điểm và giọng nói của phụ nữ. Lee Seon Hee đã sử dụng các khái niệm như “nữ tính”, “quyền tự do yêu đương”, “quyền tự do hôn nhân”,… trong lập luận của mình. Hành động Dương Thái Hậu yêu Lê Hoàn, trao ngôi cho Lê Hoàn, làm Hoàng hậu của Lê Hoàn được nhận định như là chuỗi hành động thuộc về “tính nhân bản”. Theo Lee Seon Hee, Thái hậu đã “chứng minh giá trị lớn lao của người phụ nữ không chỉ ở sự giác ngộ tự thân về quyền lợi về địa vị của mình phải gắn liền với quyền lợi và địa vị của quốc gia dân tộc mà còn ở cả trí thông minh, tầm nhìn chiến lược đồng thời lại cũng rất nữ tính nữa”24. Dương Vân Nga là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên trong lịch sử đã nêu một tấm gương sáng về quyền tự quyết định vận mệnh của bản thân mình – quyền tự do yêu đương, tự do hôn nhân mà không bị lệ thuộc vào giáo lý phong kiến, cũng như thói thường của dư luận”25. Giá trị cuối cùng là bà đã được nhân dân thờ ở vị trí trung tâm, coi bà như một biểu tượng “của một tinh thần xả thần vì cộng đồng,…, của một trái tim phụ nữ tha thiết yêu đương, nhưng cũng vô cùng dũng cảm để tự quyết định tình yêu của mình”. Lee Seon Hee đứng hẳn về phía phụ nữ, muốn phá bỏ sự bất bình đẳng giới đối với Dương Thái Hậu, phản đối cách nhìn của đàn ông (nhất là đàn ông Nho giáo) đã áp đặt lên. Lee Seon Hee đã khước từ giọng nói của phía đàn ông bằng những biện luận về căn tính nữ của chủ thể lịch sử.   

Nhìn chung, hình tượng Dương Hậu là một kết quả của cả quá trình tái tạo tri thức lịch sử bằng cả khoa học và nghệ thuật. Về cơ bản, dù bị mắng nhiếc hay minh oan, hay xuất hiện ảo mờ - khuất lấp, bà (và các bà hoàng hậu khác) vẫn chỉ là các nhân vật phụ được tạo dựng dưới nhãn quan của nhiều lớp đàn ông với hệ tư tưởng hiện dụng của thời đại. Các bà hoàng hậu hiện lên dưới ngòi bút của cánh đàn ông, không phải vì bản thân họ (với tư cách là phụ nữ) mà vì đàn ông vì các lợi ích gia tộc - phe nhóm - lợi ích chính trị xã hội của đàn ông, họ là tệp đính kèm, tệp phụ, minh họa cho hoạt động chính trị của đàn ông, và thể hiện các diễn ngôn chính trị mà đàn ông đã tạo nghĩa lên hình ảnh của họ.

---

Chú thích:

1,2,3,4,6 Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, 1998.
5 Có lẽ là Lạng là Thứ sử châu Nam Sách Giang (xem thêm phần viết về “Có hay không loạn 12 sứ quân?”
7 Đặng Xuân Bảng, 1905, <越史綱目節要> Việt sử cương mục tiết yếu, Ký hiệu: A.1592/1 – 2: 609 tr., 31 x 20, VNCHN, Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. Tr.69.
8 [Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, 1998, tr.221-2]. Tạ Chí Đại Trường cho là việc thờ cúng này đến Lê sơ đã qua vài trăm năm.
9 Toàn thư ghi Năm 1436, Lê Thúc Hiển được làm “An phủ sứ lộ Trường yên. Hiển người thôn Hồn, thuộc Hồng Châu, có tài về chính sự, được mọi người khâm phục”.
10 Nguyễn Lễ soạn, 1611, Tạo tác Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh, Văn bia đền thờ Vua Lê, Ninh Bình.
11 Trần Hậu Yên Thế, 2013, bđd, tr.715. Xem thêm Nhị Hà, 2009, Có nên duy trì tên đường Dương Vân Nga, Tạp chí Hồn Việt, Nguồn: http://www.honvietquochoc.com. vn/bai-viet/3068-co-nen-duy-tri-ten-duong-duong-van-nga.aspx. Ngày đăng: 06 Tháng Mười 2009.
12 Trần Hậu Yên Thế, 2013, Bảo Quang Hoàng Hậu là ai? Tại sao lại có danh hiệu này? Trong “Thông báo Hán Nôm học 2012”, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.713-718.
13 Song Cối, “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số 41, thứ 3, 7 Avril 1942, tr. 18.
14 Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, 1870,  <大南国使演歌> Đại Nam quốc sử diễn ca, Trí Trung Đường in năm Tự Đức 23. VNv. 118, Lã Minh Hằng khảo cứu phiên âm chú thích, Nxb Văn học, Hà Nội, 2008. Tr.92.
15 Quốc sử quán triều Nguyễn, 1910,  Đại Nam nhất thống chí, T2. Hoàng Văn Lậu dịch, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2012. Tr.1044. Nguyễn Tử Mẫn 阮 子忞, 1862, <寧平全省地誌考辨> Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện, A.922, VNCHN, Nguyễn Mạnh Duân dịch, Nguyễn Thụy Ứng hiệu đính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.126
16 Hoàn vương ca tích, Bùi Văn Cường, Nguyễn Tế Nhị, Nguyễn Văn Điềm sưu tầm, giới thiệu, Lao động, Hà Nội, 2011. Đền thờ ở đình Bách Cốc, xã Thành Lợi, Vụ Bản, Nam Định.
17 Song Cối (Hoàng Thúc Trâm), “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số 41, thứ 3, 7 Avril 1942, tr. 18.
18 Đầu thế kỷ 20, các sách về tình dục của phương Tây đã được dịch sang tiếng Hán và tiếng Việt.
19 Ví dụ Đào Duy Anh (Lịch sử Việt Nam, sđd,), hay bộ Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
20 Ủy  ban Khoa học Xã hội, 1971, Lịch sử Việt Nam, T.1, Nxb.KHXH. Hà Nội, tr.145.
21 Văn Tân, Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến thắng Chi Lăng lần thứ nhất (981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ X, NCLS, 1971, số 140, tr.2.
22 Văn Tân, Vai trò của Lê Hoàn hồi thế kỷ X đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, NCLS, 1981, số 2 (197), tr.7.
23 Susan Lanser, “Toward a Feminist Narratology”, in Feminisms: An Anthology of Literary Theory and Criticism, Robyn Warhol & Diane Price Herndl, Rutgers University Press, New Brunswick & New Jersey, tr.674-693.
24 Lee Seon Hee, Thái hậu Dương Vân Nga và vai trò của người phụ nữ Việt Nam hồi thế kỷ X , NCLS, 2000, số 5 (312), tr.52.
25 Lee Seon Hee, bđd, 2000, số 5 (312), tr.53.

Nguồn, Tạp chí Tia sáng, ngày 19.10.2018.

TTCT - ...​Khắc khổ, rét mướt thì nói chung tết thời bao cấp là vậy, nhưng bất an, đấy là tâm trạng của chỉ tết 1979...

20190308 Bao ninh

Minh họa: Sà Và Ná

Trong số anh em chúng tôi con dân khu phố Nguyễn Thái Học nhập ngũ đợt tháng 9-1969 còn thọ được đến sau Ba Mươi tháng Tư chỉ mỗi anh Dần ngõ Thanh Miến, tức Dần “lé”, tiếp tục đời bộ đội. Mãi tới đầu 1978 anh mới phục viên, ra Bắc, về nhà. Mất tay trái, mắt trái. Bị từ mùa mưa 1977, tại An Giang, mảnh DK của Khmer Đỏ.

Gặp lại anh, người bạn từ thuở thiếu thời, mừng vui mà bàng hoàng. Hòa bình đã hơn hai năm, nào ngờ một miền đất nước vẫn chiến trường ác liệt, anh em mình vẫn người hi sinh, người bị thương nặng đến thế này.

Mặc dù, ngay từ hồi 1972, 1973 lính ta đã chẳng còn lạ gì bọn Khmer Đỏ, vậy nhưng từ sau ngày chiến tranh kết thúc thì ngoài những đồn thổi mù mờ, ở Hà Nội chúng tôi hầu như không được biết một tí gì về những cuộc tấn công gây hấn điên cuồng, xâm chiếm và thảm sát mà bọn chúng đã liên tiếp gây ra suốt từ ngày đầu tháng 5-1975 cho đến tận bấy giờ.

Hồi đó, đầu năm 1978, cao đỉnh thời bao cấp, tin tức cũng như thể là bị ngăn sông cấm chợ, các đài báo thông tấn triệt để kín miệng chứ đâu có mở như thời nay, thành thử tôi lần đầu biết về những gì đã và đang thực sự xảy ra trên dọc vùng biên giới Tây Nam là qua những lời kể thẳng tưng của bạn tôi, thượng úy Dần “lé”, nguyên chính trị viên tiểu đoàn.

Thực ra thì Dần đã hết là Dần “lé”, “nhờ” bị đạn bọn Pol Pot khoét đi con mắt trái, là con mắt khiến anh có biệt danh ấy từ thuở học trò. Sức khỏe cũng đã khá lên. Nhưng vì tay trái không còn, không về lại được với nghề thợ tiện, Dần nhận chân bảo vệ tại Bảo tàng Mỹ thuật.

Anh bảo làm ở đấy lương tiền chả mấy nhưng được cái gần nhà, mẹ ới là nghe thấy. Nhà anh trong ngõ Thanh Miến. Nhà chỉ hai mẹ con. Mẹ anh là cô giáo tiểu học, từ lúc về hưu sinh kế là cái máy may, mạng vá và sang sợi quần áo cũ.

Cha anh mất từ hồi trước chiến tranh. Hai cô em gái đều lấy chồng xa. Còn cậu em út, tên là Tý, sinh năm 1960, cách Dần mười tuổi, thì đi nghĩa vụ quân sự khi Dần vừa phục viên về được có vài tháng. Thuộc diện được miễn, nhưng Tý xung phong, bà mẹ không cản được, Dần thì chẳng cản.

Đầu năm 1979, một hôm, buổi chiều, Dần qua nhà tôi rủ tôi cùng đi tiễn cậu em, vừa về phép sau khóa huấn luyện tân binh, bữa nay trả phép, đi tàu lên nhận nhiệm vụ ở đơn vị công an vũ trang mà cậu ta được điều động về, trên Lạng Sơn. Lười và ngại rét, nhưng tôi vẫn cùng Dần ra ga. Buổi chiều muộn, đoàn tàu Bắc, cửa vào ga phố Trần Quý Cáp.

Tháng chạp, trời chiều rét căm căm, sân ga thì thông thống hút gió, nhưng nhóm lính trẻ đang đứng tụ lại trên ke chờ tàu chuyển bánh như là chẳng thấy lạnh lẽo gì, ồn ã vui vẻ cười nói, hút thuốc, tán dóc. Chỉ mỗi Tý, em trai Dần, là không thoải mái, bối rối và lúng túng thấy rõ. Có lẽ vì là lính Hà Nội duy nhất trong nhóm nên nhà gần ga, duy nhất được mẹ đưa tiễn, thành thử cậu ta ngượng.

Với lại, bởi vì, không hiểu sao, hôm ấy bà mẹ lại quá thể là ảo não. Bà cứ rấm rứt khóc, khóc lặng ngắt không thành tiếng, và vì nước mắt khôn cầm nên cũng chẳng nói được gì cả với con trai, bà chỉ cứ nghẹn ngào bám riết lấy khuỷu tay con không chịu rời, cả khi hành khách đã lên hết trên toa, còi tàu đã rúc lên giục giã.

Và, hồi lâu, trong bóng tối sân ga, bà cứ mãi ngóng vọng theo đoàn tàu đã khuất dạng, mặc cho Dần năn nỉ khuyên giải.

“Tao bực mẹ tao quá”. Dần bảo vậy. Tối ấy, đưa mẹ anh về nhà rồi, tôi và anh ra quán nước đầu ngõ Thanh Miến gọi cút rượu đĩa lạc, ngồi với nhau.

“Mẹ tao xót thằng Tý không được ở nhà ăn tết, với lại thương nó từ rày sẽ đời lính gian nguy, nhưng trước lúc ra ga, với lại cả suốt mấy hôm về phép Tý nó đã hết lời động viên, tao cũng tích cực động viên, nên mẹ tao nghe xuôi, trông có vẻ còn vui vui lên nữa là khác, ấy vậy mà ra ngoài ga lại thế, làm rối lòng thằng Tý, làm tao bực quá”. Dần nói vậy, nhưng vẻ mặt anh, giọng nói anh không phải sự bực bội mà là buồn bã, lo lắng.

Tôi bảo hay là do anh không biết cách nói, động viên mẹ nhưng lại làm mẹ thêm bất an. Anh bảo: “Tao không động viên an ủi lấy được, mà tao khuyên giải mẹ tao bằng sự thật, rằng Tý nó là lính biên phòng, nó đi lên mạn Bắc gác ải Hữu Nghị, tức là nó đi nhận nhiệm vụ ở một cái chốn tuyệt đối bình an vô sự chứ không có phải là xông pha vào nơi trận mạc, nên mẹ đừng có lo mẹ ơi, nghe tao phân tích thế mẹ tao còn gì nữa mà không an tâm, đúng không, rõ ràng là vậy, chứ mày tính tít trên Lạng Sơn thì có thể xảy ra cái sự gì đáng để không an tâm cơ chứ”.

Tuy nhiên tôi lại thấy là chính Dần đang chẳng chút an lòng, anh nói khẳng định, anh nói quả quyết như thế mà kỳ tình là đang tự trấn an. Không hiểu cái nỗi lo lắng đó, mà lúc đấy tôi cho là rất vô căn cứ, là do bị ảnh hưởng từ tâm trạng của bà mẹ, hay là do khi ấy trong thâm tâm Dần đã âm thầm nhói lên linh cảm của một người anh.

“Mà nghĩ cũng lạ thật đấy, chứ ngày trước, ra Hàng Cỏ tiễn tao lên tàu đi B, đi vào chốn biết rõ là một sống hai chết, nhưng mẹ tao rất vững, không khóc, còn động viên tao can trường mạnh bước, chân cứng đá mềm, ấy thế mà hôm nay, tiễn em tao, mẹ tao lại đuối hẳn đi như vậy, là tại sao chứ?”.

Lúc đấy, tôi nhớ, chừng 7 giờ tối. Loa phóng thanh trên cột điện ở góc phố Văn Miếu đang ọ ẹ hát hò, chợt ngưng. Đoạn, lên tiếng trở lại, tiếp âm Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Mời đồng bào và chiến sĩ đón nghe thông cáo đặc biệt.

Bấy giờ, kể từ mùa thu năm 1978 tình hình vùng biên giới Tây Nam đã không còn trong vòng bảo mật, đài báo đã chính thức đưa tin, nhất là từ cuối tháng 12, đã thành là tin chiến sự hằng ngày. Tuy vậy thông cáo tối ngày 7-1-1979 vẫn tạo nên một mừng vui đột ngột. Ấy là bản tin đầu tiên thông báo thủ đô của Campuchia đã hoàn toàn được giải phóng.

Hồi đó suốt trong mấy năm hậu chiến bao cấp, mòn mỏi đi vì nghèo túng và trì trệ, khu phố của chúng tôi lúc nào trông cũng có vẻ xạm xịt, mờ tối, cau có, mà tối hôm ấy như bừng rạng lên. Trong nhà ngoài đường, vang vọng tiếng reo mừng. Dọc phố Văn Miếu và trong ngõ Thanh Miến bọn trẻ con cho nổ ran lên hàng dây dài pháo tép, cả pháo đùng nữa, y như thể là đã giao thừa xuân sang.

Nhưng trong cái quán nước lụp xụp ở đầu ngõ, Dần và tôi chẳng nói rằng, thầm lặng đón tin.

“Mắt đền mắt, tay đền tay, bọn Pol Pot hôm nay chết rấp cả lũ coi như là trước nhất bọn chúng phải đền tội trước anh đấy, Dần ạ”. Chỉ tay chủ quán, nguyên lính Đoàn 559 và cũng là thương binh, bình luận như vậy, một câu. Rồi cũng ngồi im.

Ba chúng tôi, ba người lính đã về vườn, cứ vậy ngồi thần ra với nhau trong quán, lẳng lặng nghe và lẳng lặng đợi để ở bên ngoài thiên hạ tiếng pháo dứt đi, hân hoan lắng xuống. Hồi lâu, như sực tỉnh, Dần vội chia tay. Anh bảo phải về nhà với mẹ ngay, hẳn là bà đang rất lo.

Đêm đấy, cả đêm tôi chẳng sao chợp mắt, nằm nghe gió mùa đông bắc tăng cường, từng đợt hú lên dồn dập tràn về. Gió bấc giật trụi lá của hai hàng cây long não vốn xanh lá quanh năm ở dọc hai bên vỉa hè phố Nguyễn Thái Học. Cuối đêm, lại thêm mưa xuống. Mưa phùn mùa đông giá buốt mà nặng hạt như mưa rào. Sáng ra, đất trời thâm tái, nhà cửa phố xá ướt át, lạnh cóng.

Đợt rét đó xuyên suốt tháng chạp, mà đến tết vẫn rét đậm, vẫn mưa phùn gió bấc. Một cái tết rét mướt, khắc khổ, và nhất là, âm thầm cảm giác bất an. Khắc khổ, rét mướt thì nói chung tết thời bao cấp là vậy, nhưng bất an, đấy là tâm trạng của chỉ tết 1979. Chẳng vì một can cớ cụ thể nào mà lòng dạ không yên, đón giao thừa mà thấy nóng ruột, thấy bồn chồn như thể là phấp phỏng đợi một điều gì đấy, không rõ là cái điều gì, bất tường, vô hình nhưng lừng lững đang kề tới nơi chân trời năm mới.

Có thể nói không khí tết ở Hà Nội trong Nguyên đán Kỷ Mùi 1979 là bầu không khí trước một cơn bão. Hay, chính xác hơn, bầu không khí giữa hai cơn bão. Bởi sự thật là thế, ấy là một mùa đông nặng nề dông tố.

Tôi sẽ mãi mãi nhớ ngày hôm đó. Làm sao mà có thể quên được.

Lịch ta là 22 tháng giêng. Chủ nhật, 7 giờ sáng. Trời nặng mây, phố xá là là sương mù. Tôi đang đợi tàu điện ở bến đầu Hàng Đẫy. Tàu điện tới, vừa khi cái loa phóng thanh cỡ lớn nơi vườn hoa Bách Việt phát bản tin Thông tấn xã. Phát thanh viên đọc chậm, bản tin từng từ một vang động màn sương. Tôi điếng người, như là bị một làn roi vút thẳng vào tim. “Vào rạng sáng ngày hôm qua, 17-2-1979...”.

Tin tức đầu tiên về cuộc tấn công của hàng trăm ngàn quân bành trướng Trung Quốc cùng xe tăng và đại pháo trên dọc toàn tuyến biên giới nước ta mặc dù sau một ngày đêm mới đến với người dân Hà Nội, nhưng vẫn là một cái tin hết sức bất ngờ. Phút chốc không gian và cả thời gian nữa dừng đứng.

Không, không phải do bây giờ hồi tưởng lại mường tượng thế mà thực sự khi ấy tôi thấy thế, cả một quãng phố dài đang ồn ào tấp nập bỗng chốc người và xe tất thảy sững lại, lặng đi.

Thực ra, can qua giặc giã thì người Việt Nam mình, trong thế kỷ 20, đâu có còn lạ lùng gì và vì thế đâu có ngán gì. Nhưng một trận giặc nổ ra thình lình như trận này thì có lẽ là chưa từng. Kể cả vào hồi giữa thế kỷ 19, với sức mạnh lấn át mà đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp cũng phải hơn ba chục năm ăn cướp dần từng thước đất.

Đến lần thứ hai Việt Nam bị Pháp xâm lăng, chiến sự diễn biến qua hơn một năm cho tới cuối 1946 mới bùng lên thành Kháng chiến toàn quốc. Ngay như trong cuộc đối đầu sống mái hai chục năm trường chống Mỹ, chiến tranh trên hai miền đất nước cũng leo thang, sau vài năm qua nhiều nấc cao dần lên cho đến trước khi bọn xâm lược tổng lực đổ quân dốc bom đẩy chiến cuộc tới tột đỉnh tàn khốc.

Nhưng, vào tháng 2-1979, thì không những bất thình lình, mà ngay lập tức phút đầu tiên ngày đầu tiên quân bành trướng đã tổng lực tấn công, đã ồ ạt những đạo binh khổng lồ tiền pháo hậu xung tấn công biển người trên toàn khắp 1.200 cây số đường biên giới. Những ngày ấy, tôi và có lẽ chẳng riêng tôi hình dung rằng, về tầm mức cuồng bạo và gây nguy cấp sát kề từng ngày từng giờ cho sự tồn vong của nước Việt thì trong suốt ngàn năm qua chỉ cuộc tấn công xâm lược lần thứ hai vào đầu năm Ất Dậu (1285) của 50 vạn quân Mông Cổ là sánh tày cuộc tấn công lần này của 60 vạn quân bành trướng Trung Quốc.

Ngày hôm ấy, ngay sau ngày chiến tranh bùng nổ, phía trước nhà tôi, Phòng thông tin dựng một tấm pano rất lớn bản đồ Việt Nam; trên đó, quân bành trướng Trung Quốc là tua tủa những mũi tên đen nhọn hoắt đang tiến vào, mũi tên đỏ là quân và dân ta đang chặn chúng.

Qua từng ngày, những quyết chiến điểm hình ngọn lửa trải dài suốt từ cực tây Lai Châu tới mép biển Quảng Ninh cứ tràn rộng ra, rực lên kín hết cả một mảng lớn phía Bắc của bản đồ. Sìn Hồ, Phong Thổ, Mường Tè... Cam Đường, Mường Khương, Bát Xát... Mèo Vạc, Đồng Văn, Vị Xuyên... Trùng Khánh, Thông Nông, Phục Hòa, Trà Lĩnh... Đồng Đăng, Tràng Định, Na Dương, Tam Lung, Đình Lập... Bình Liêu, Hoành Mô, Móng Cái... Khôn xiết kể tên tuổi những địa phương đang ngập chìm dưới lửa đạn, hằng ngày hằng đêm, từng giờ vang dội trong lòng Hà Nội.

Thành phố tuy vẫn nếp sống thường nhật thời bình, nhưng ý chí và khí giới đã sẵn sàng. Dẫu gì thì lúc bấy giờ những tháng năm quyết liệt của thời đại chống Mỹ cứu nước chưa phải là đã lùi quá xa vào dĩ vãng.

Sáng ngày 5-3-1979, lệnh tổng động viên. Ở khu phố chúng tôi, hôm trước hôm sau, hầu hết các thượng sĩ, trung sĩ, hạ sĩ của thời chống Mỹ đã nhận giấy gọi tái ngũ. Tờ giấy khổ chỉ bằng lòng bàn tay, giấy xấu, đánh máy vội, ngắn gọn và nghiêm khắc triệu tập công dân cựu chiến binh, họ tên, ngày sinh, cấp bậc, đúng 7 giờ ngày 8-3 có mặt tại Khu đội Ba Đình, lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Chữ ký của đại úy Khu đội trưởng.

Dạo đó tôi còn giữ được tương đối đầy đủ quân tư trang. Cái balô cóc, cái võng dù, cái bọc võng, cái bình tông, cái cóng nhôm, cất kỹ trong tủ, nay lấy ra. Quân phục tô châu vẫn còn một bộ, vận vào. Thắt lưng bộ đội, mũ cối, dép đúc thì hồi ấy vẫn đang là vật dụng thường ngày của tôi. Nhìn tôi đầu tới chân, Dần khen rằng đã trở về được với gần nguyên trạng tư thế và nhuệ khí của một người lính quân giải phóng. Thêm khẩu AK với vài trái u-ét ngày mai sẽ nhận, là vào trận được rồi. Anh bảo vậy.

Chiều đấy anh đến nhà tôi gặp gỡ chia tay, cho tôi một bịch nửa ký thuốc lào với mấy phong lương khô 702 nội hóa để ăn đường, anh còn tặng tôi một cái la bàn KM và một con dao găm Kabar của biệt kích Hải cẩu anh thu được từ thời chống Mỹ để tôi mang theo vào trận chiến này. Chia tay tôi, Dần cố vui mà không cố được. Anh nói rằng bây giờ mới thật thấm thía tiếc cái tay, mất nó, không trở lại được với quân ngũ, không thể cầm súng lên đường chiến đấu tiếp ứng được cho em trai.

Tý, em trai anh, tuần trước tết biên thư về cho biết hiện đang làm nhiệm vụ tại đồn công an vũ trang thị trấn Đồng Đăng. Được thư, mẹ anh giục anh mau mau đưa bà đi tàu hỏa lên thăm, thế mà anh lại cản, bảo rằng Tý nó vừa chân ướt chân ráo nhập đơn vị mới mà chưa gì đã người thân lịch kịch quà cáp thăm nom này nọ là không có nên đâu, vậy mẹ hãy để thư thư, đợi cuối xuân ấm trời lên đã. Nào ngờ...

“Hồi bảy nhăm giải phóng xong Sài Gòn điều mừng vui nhất trong lòng là ý nghĩ từ rày đất nước được yên hưởng hòa bình, bao nhiêu gian khổ hi sinh thời kháng chiến lứa cha chú bọn mình với lứa bọn mình gánh trọn cả rồi, nào ngờ, giờ đây, trách nhiệm đánh giặc giữ nước giữ nhà lại tiếp tục nặng trên vai lứa đàn em bọn mình...”.

Rất nhiều năm sau, giáp Tết Ất Dậu 2005, tôi mới lần đầu lên đến thị trấn Đồng Đăng. Quý, con trai anh Dần, đi cùng tôi. Hai chú cháu men lối mòn đi lên một quả đồi ở phía nam thị trấn. Pháo đài Đồng Đăng trên đồi ấy. Mưa phùn mùa đông, triền đồi hoang vắng, pháo đài đổ nát.

Không khí lạnh và ướt mà bó nhang hai chú cháu thắp nơi cửa hầm đã vỡ sập xuống của pháo đài vẫn phừng phực bùng lửa. Quý đứng bên tôi một lát, rồi quỳ xuống, lặng lẽ thổn thức. Năm ấy 2005, Quý mười chín tuổi, vừa đúng bằng tuổi của Tý, người chú của cậu hồi đầu năm 1979. Tôi không khóc, mà nước mắt nhói đau như kim châm trong tròng mắt.

Tý tuổi nhâm tý, sinh nhật vào tháng 2. Và hi sinh cũng trong tháng 2. Giấy báo tử ghi, ngày hi sinh: 17-2-1979. Mặt trận biên giới phía Bắc.

Không hiểu là lý do thế nào, mãi cuối năm 1983 tờ giấy báo tử ấy mới tới tay Dần. Mẹ anh đã qua đời trước đấy nửa năm. Nhưng, vì báo tử muộn thế mà phần nào lại thành ra là may, Dần bảo vậy, bởi mẹ anh trước khi nhắm mắt đã không phải chịu nỗi đau mất người con trai út. Từ sau ngày cuộc chiến bùng nổ, không được tin gì của Tý, mẹ anh đuối dần đi từng ngày, nhưng bà vẫn mòn mỏi hi vọng, vẫn cứ mong Dần làm cách nào đó lên được Đồng Đăng tìm em.

Dần cũng đã từng âm thầm nuôi hi vọng. Sau ngày quân bành trướng Trung Quốc thất trận phải tháo lui (cũng do đó mà Bộ Quốc phòng đã hoãn lệnh tái ngũ các cựu chiến binh như tôi), suốt một thời gian dài anh âm thầm mong tin em trai.

Mặc dù không được đài báo chính thức đưa tin, thậm chí cho đến tận bây giờ, nhưng cuộc chiến đấu bi hùng của các quyết tử quân bảo vệ pháo đài Đồng Đăng thì ngay hồi đó, ngay lập tức, đã loan truyền trong dân gian. Không cần phải từng là bộ đội người ta cũng có thể hình dung ra được phần nào diễn biến và cảm thấu được kết cục không thể tránh khỏi của cuộc tử chiến hoàn toàn không cân sức ấy.

Nhưng mà, biết đâu chừng, biết đâu, vẫn có một số anh em mình rút ra được... Hồi đó, gặp tôi là Dần bảo vậy, bất chấp niềm vô vọng. Anh rủ tôi cùng đi một chuyến lên cửa khẩu. Song làm sao mà đi được. Cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, lúc tạm lắng, lúc bùng lên dữ dội. Thị xã Lạng Sơn vẫn trong tầm pháo kích, nói gì Đồng Đăng. Dần phải dằn ước muốn ấy xuống, mà sống.

Hơn mười năm ấy, 1979-1990, người dân Hà Nội như thể là đã phải gồng mình lên mà sống cuộc sống thời bình. Đất nước bị bao vây cấm vận, mạn Bắc mạn Nam hai cuộc chiến song hành. Miền biên ải địa đầu, như Lạng Sơn, cách hồ Gươm chỉ non hai trăm cây số vẫn vùng chiến sự nóng bỏng. Nền kinh tế chủ đạo thì cứ nặng nề trì đọng lại trong cung cách bao cấp.

Thế nên, phải tự cứu lấy mình, câu ấy người bình dân Hà Nội đã nói với nhau từ lâu trước thời Đổi Mới. Không phải là người cầm súng thì phải là người làm lụng, lao động, góp phần bảo vệ đất nước bằng trước nhất là nỗ lực nuôi sống bản thân mình và gia đình mình, không được để cho ngôi nhà của mình, ngõ xóm của mình và rộng ra là thành phố quê hương mình suy tàn đi trong bi ai và nghèo đói.

Sống thức thời chính là sống như vậy, Dần bảo với tôi thế. Là thương binh loại hai, đã gần như là mất sức lao động, nhưng anh đã thực sự thức thời sống vượt trội lên. Anh thôi việc ở bảo tàng, và mặc dù Đổi Mới chưa bắt đầu mà bằng cách nào đó anh đã mở được một hiệu sửa chữa đồ điện gia dụng. Sau ngày đoạn tang mẹ, anh lập gia đình. Vợ anh trẻ trung, đảm đang tháo vát, khiến sự làm ăn của anh mau phát đạt. Hai vợ chồng rời ngõ nghèo Thanh Miến ra nhà mặt phố.

Tuy nhiên, mức sống lên mà sức khỏe của Dần lại xuống. Thương tích ngày xưa, cánh tay, hốc mắt, thường tái phát, đau dội lên. Anh bảo là còn đau hơn cả hồi mới bị thương. Nhất là vào mùa đông. Cái lạnh mùa đông chẳng những khía sâu các vết thương trên thân mình mà còn day dứt khơi dậy nỗi đau đớn trong lòng. Niềm thương nhớ người em, anh tưởng sẽ cố để có thể nguôi ngoai theo thời gian, mà không thể nào.

Ban ngày mải mốt làm ăn thì tạm quên đi được, nhưng đêm đêm, nhất là những đêm gió mưa mùa đông, thường bất chợt thức giấc lặng nghe tiếng những đoàn tàu hỏa mải miết ngang qua thành phố chở quân chở pháo chở đạn lên tiếp ứng cho phòng tuyến phía Bắc.

Năm 1991 chiến tranh biên giới chấm dứt, nhưng Dần đã trọng bệnh liệt giường từ trước đấy. Từ khi anh rời bệnh viện về hẳn nhà, ngày nào tôi cũng tới với anh. Lúc tỉnh lúc thiếp đi, nhưng lúc tỉnh trò chuyện được với nhau thì bao giờ cũng vậy lời cuối là anh dặn tôi một ngày nào đó, khi con trai anh đã lớn đưa nó lên pháo đài Đồng Đăng để nó có thể thay mặt anh thắp hương tưởng nhớ hương hồn người chú của nó.

Và vì biết tôi khi đó đã bắt đầu viết văn nên anh cũng yêu cầu tôi không được quên những người chiến sĩ thế hệ em trai anh. Hãy viết về năm bảy chín. Anh bảo vậy. Với tôi, ấy là lời trăng trối thiêng liêng của người bạn chiến đấu thân yêu ruột thịt của đời tôi.

Vậy mà cho đến bây giờ, đã chừng bấy năm rồi, cả trong lời lẽ cả trên trang giấy tôi vẫn hoàn toàn lặng thinh về năm 1979, như thể tôi là một kẻ hoàn toàn vô cảm, nhẫn tâm dửng dưng, nhẫn tâm bỏ qua, bẵng quên đi máu xương của biết bao đồng đội đồng bào đã ngã xuống trong mùa đông bão tố ấy và trong suốt những năm trường gian nguy đầy đau thương ấy của Tổ quốc. ■

Bảo Ninh

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 23.02.2019.

 

Trước khi đến với sách, những tờ tạp chí và truyện tranh lôi cuốn những đứa trẻ chúng tôi. Ban đầu, chỉ riêng cái bìa tạp chí với màu sắc rực rỡ đã đủ tạo niềm vui lấp lánh trong mắt khi được cầm lên rồi. Trước khi gắn bó với tờ tuần báo Thiếu Nhi đầy tính giáo dục, tôi nhận ra mình yêu văn chương từ những truyện ngắn trên báo Tuổi Ngọc...

Một ngày thu, một nữ văn sĩ tìm lên vùng núi cao thuê ngôi nhà trọ của một cô nhi viện để viết sách và lấy lại sức khỏe. Bà sống giữa thiên nhiên tươi đẹp với những cây bắp ngô, trái bí và hạt dẻ. Bà nhờ cô nhi viện tìm một người chẻ giúp bà số củi để đốt lò sưởi. Một buổi chiều, có chú bé khoảng 11-12 tuổi, nhỏ và gầy đến gặp bà. Chú bé tên là Gie-ri, đã ở viện mồ côi từ năm bốn tuổi. Bà đồng ý để chú bé chẻ đống củi vì bà thấy chú rất thành thạo.

Bà nhận xét: “Tóc chú có màu vàng hoe của những trái bắp khô, đôi mắt chú, rất thành thực, gợi nhớ đến vùng núi khi trời sắp có cơn mưa”. Chú bé im lặng khi bà cho ít tiền sau khi xong việc mỗi ngày và có lúc đã giúp bà trông chú chó khi bà đi vắng. Một buổi tối, chú bé đến gặp bà, bên cạnh lò sưởi, kể chuyện mấy ngày bên cạnh chú chó. Chú bé bảo với nữ văn sĩ: “Bà hơi giống mẹ em, nhất là trong bóng tối, như lúc này bà ngồi bên lò sưởi”. Rồi chú bé khoe đã được mẹ, đang ở một tỉnh khác, đến thăm để cho bộ đồ vào năm ngoái và sắp tới mẹ sẽ tặng một đôi giày trượt patin. Chú bé bảo sẽ dùng tiền bà cho để mua tặng mẹ một đôi bao tay. Mùa hè nào mẹ cũng đến đón chú bé.

Nghe tới đó, bà cảm thấy giận người mẹ đã bỏ mặc đứa con ở viện mồ côi trong mấy năm trời với chút ít quà gửi đến. Và bà cũng cảm thấy giảm bớt lòng thương hại với đứa trẻ. 

Một sạp bán sách, báo ở Sài Gòn trước 1975. Ảnh: TL

Mùa thu tàn, chú bé vẫn đến giúp bà, nói chuyện với bà nhiều hơn bên lò sưởi, thỉnh thoảng tặng bà những chiếc lá mùa thu đỏ rực rỡ và chạy chơi với chú chó. Đến một ngày, bà chia tay chú bé vì sáng hôm sau phải ra đi. Chú bé nghe xong lẳng lặng bỏ đi không nói một lời. Sáng hôm sau, bà đến cô nhi viện trả chìa khóa, và nói với giám đốc viện là muốn chào từ giã chú bé đã đến giúp bà suốt mấy tháng qua. Bà được cho biết là chú bé có vẻ không được khỏe hay có gì buồn, không ăn sáng và đã đi lên núi từ sớm. Bà muốn hỏi thăm về mẹ của chú bé, vì sao phải đưa bé vào đây.

Nhưng bà vội đi, nên chỉ xin gửi bà giám đốc viện một số tiền nhờ mua quà cho chú bé, miễn không trùng với món quà là đôi giày trượt patin mà mẹ chú bé sẽ cho. Bà giám đốc già nhìn lên và dường như không hiểu lời của nữ văn sĩ: “Ở đây, các em nhỏ không được chơi patin... - Bà nhíu đôi lông mày hỏi lại - Và thưa bà, Gie-ri là một em bé mồ côi. Gie-ri đâu còn mẹ!”.

Đó là câu chuyện Mùa hè mẹ tới mà tôi được đọc trong báo Tuổi Ngọc từ năm bằng cỡ tuổi chú bé trong truyện. Mùa hè năm 1973 nhiều mưa, tôi ôm tờ báo to trên tay, ngồi bên cửa sổ đế lấy ánh sáng từ bên ngoài cửa sổ. Tôi nhận ra cách kể chuyện rất gần gũi của nhà văn Rawlings là tác giả truyện ngắn trên, cũng là tác giả cuốn Con nai tơ tôi đã đọc nhiều lần trước đó.

Mùa hè mẹ tới tiếp tục làm tôi xao động, sau cảm giác buồn se sắt khi đọc Con nai tơ, đến chi tiết con nai hiền lành của Cu Tý bị bắn chết và sau đó thằng bạn Diều Rơm tật nguyền của Cu Tý cũng qua đời. Câu chuyện chú bé mồ côi không khiến tôi khóc, nhưng tôi nhớ mình đã ôm ghì mẹ khi bà đi bán về, ướt lướt thướt. Tôi nhận ra có những đứa bé trên đời đã và đang sống rất buồn, khao khát một tình thương đơn giản nhiều người có và đang dửng dưng với nó.  

Trước khi đến với sách, những tờ tạp chí và truyện tranh lôi cuốn những đứa trẻ chúng tôi. Ban đầu, chỉ riêng cái bìa tạp chí với màu sắc rực rỡ đã đủ tạo niềm vui lấp lánh trong mắt khi được cầm lên rồi. Trước khi gắn bó với tờ tuần báo Thiếu Nhi đầy tính giáo dục, tôi nhận ra mình yêu văn chương từ những truyện ngắn trên báo Tuổi Ngọc, không phải là tờ Tuổi Ngọc tuần báo của tuổi vừa lớn khổ nhỏ sau này mà là Tuổi Ngọc khổ lớn “tuần báo của yêu thương”, ra đời số đầu từ tháng 7.1969. Chị Bạch Liên, con một nhà khá giả trong xóm đã mua đủ hết 24 cuốn của bộ này và người lần lượt đọc hết và đọc rất kỹ - không phải chị Liên hay chị Vân của tôi, người được cho mượn về - mà là tôi.

Tôi đọc và luôn trì hoãn yêu cầu trả lại bộ báo. Tôi thương những nhân vật trong đó và bộ báo như cánh cửa thông ra một thế giới rộng lớn và đa dạng. Ở đó có những chú bé miền Bắc lanh lợi, tán dóc bằng những từ lạ tai trong truyện của Vũ Mộng Long, có không khí một thị xã mùa đông tôi chưa từng đặt chân tới, có cuộc sống thiên nhiên thơ mộng ở một vùng núi châu Âu tuyết phủ.

Khi đọc truyện ngắn Cái tủ chè của mẹ tôi của Hoàng Hải Thủy, lúc đầu tôi thích thú với cách miêu tả chi tiết đời sống miền Bắc ngày xưa, với cái tủ chè khảm ốc từ nhóm thợ của Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, dẫn đến chuyện chú bé nhiều lần dùng chìa khóa giả mở hộp phấn của mẹ để lấy tiền ăn gỏi thịt bò khô đu đủ xanh. Đọc đến đó, tôi thấy xấu hổ vì thói vô tư lấy tiền cắc của má thường để trong túi áo bà ba móc trên giá để mua đậu phộng hay kẹo để nhâm nhi mà không cảm thấy tội lỗi. Chú bé trong truyện khi bị bắt gặp ngỡ sẽ bị la mắng, nhưng điều chú nhận chỉ là tiếng thở dài và câu nói “mẹ buồn lắm” khi bà ngồi thừ người trong bóng chiều mùa thu xám đang đi dần vào tối bên khung cửa sổ.

Cảm giác khó chịu lan tỏa trong lòng thằng bé 12 tuổi khi đọc những dòng đó và tôi biết mình phải bỏ thói xấu kia. 

Tạp bút Một ấu thời hà khắc của Viên Linh mở rộng cho tôi thêm góc nhìn về một thời xa xôi ở vùng đất xa lạ xứ Bắc mà tôi không thể tưởng tượng mình sẽ được đến khi đất nước còn chia cắt. Tác giả khi là chú bé tám tuổi, ban đầu học chữ nho đến khi có ông chú đi Hà Nội về bắt bỏ bút lông gạt, bỏ nghiên mực tàu, xé giấy bồi, sau khi cãi nhau với người ông một trận kịch liệt. Chú bé được học chữ quốc ngữ. Cùng trong truyện có thân phận người phụ nữ trong nhà.

Tác giả nhớ mỗi khi nhà có khách đàn ông, thì “cùng với mấy con ngan, con ngỗng giữ nhà, là y như đàn bà con gái trong nhà, mẹ tôi, thím tôi, cô tôi vội vã lẩn vào sau cánh cửa”. Suốt thời gian có khách, chỉ người cô chưa chồng được xuất hiện đâu đó, thấp thoáng. Những phụ nữ khác nếu có việc gì cần làm, phải đi phía xa xa, đi vòng dưới sân phía trước hay vòng quanh nhà phía sau. Phụ nữ muốn đi từ đầu nhà tới đầu kia, dù là những lúc thường, cũng không bao giờ được đi trên thềm gạch. Phải xuống sân, đi ra mé sân, rồi mới băng ngang nếu không muốn đi phía sau.

Lúc đó chú bé trong truyện cảm thấy mình oai, nhưng sau ngẫm nghĩ thấy đó là dấu ấn của một thời hà khắc. Câu chuyện chỉ vỏn vẹn một trang, kết thúc đột ngột khiến tôi hụt hẫng. Sau này, khi theo nghề viết, tôi nghĩ cấu trúc bài vậy là đủ. Tác giả đã nói hết những điều cần nói bằng những kỷ niệm đọng lại ở tuổi thơ.

20181001 Tuoi ngoc

“Tuổi Ngọc bộ cũ”, trong những ngày mưa hè tuổi nhỏ, chỉ là một cái khe cửa để người trẻ cảm nhận cuộc sống qua văn chương”. Ảnh: TL

Sau này, tôi được đọc lại bộ Tuổi Ngọc khổ lớn nhờ anh Trần Hữu Nghiêm, có bài viết trong bộ này, cho mượn. Ở số 6 ra tháng 8.1969, tôi nhận ra bài viết ở tuổi 15 của anh: bài Quê hương trong trí nhớ viết về cảm xúc từ một vùng đất cao su mà anh tả như cảnh thiên đường khiến một đứa trẻ sinh ra ở phố thị như tôi ngơ ngẩn. Ở đó có tơ trời trắng nõn như bông trôi chầm chậm, đi qua con đường mòn trong hàng cao su điểm vàng những cánh hoa nhỏ xíu sẽ thấy cánh đồng lúa đẹp như tranh thủy mặc, xa xa có vài căn nhà tranh có giàn bầu giàn bí. Trời ở đó trong sáng, soi bóng trên dòng suối lững lờ. Nhưng tác giả khiến người đọc thất vọng vì cảnh quê đã nhanh chóng thay đổi vì chiến tranh.

Anh nhìn quê hương điêu tàn sau hàng rào kẽm gai mà tiếc nuối và vẫn mong có ngày tái tạo một quê hương thật đẹp. Khi tôi bảo còn giữ ấn tượng khi đọc bài viết này hồi nhỏ, có thể tác giả không tin nhưng đó là sự thật. Nó đã chạm đến cảm xúc và khao khát hiểu biết của tôi về một chân trời xa lạ chưa đến bao giờ và một sự hủy hoại của cái đẹp chưa bao giờ được nhìn ngắm.

Có thể “Tuổi Ngọc bộ cũ”, trong những ngày mưa hè tuổi nhỏ, chỉ là một cái khe cửa để người trẻ cảm nhận cuộc sống qua văn chương, nói như Trương Trào. Ở tuổi quá trung niên, những câu chuyện trong đó đọc lại vẫn thấy cảm giác dung dị, vẫn làm xao động. Không tạo ra nhiều ẩn ý hay làm văn chương, được viết một cách chân thành, các tác giả tài năng ấy chỉ bằng lòng chân thật cũng đủ khiến người đọc, dù đã đến tuổi “ngắm trăng ngoài sân” hay “ngắm trăng trên đài cao” (Trương Trào), còn cảm xúc vẹn nguyên khi đọc lại vì chúng đã thấm đậm từ lần đầu đọc hồi thơ bé.

Nguồn: Người đô thị, ngày 30.9.2018.

Phòng trà ca nhạc là một hình thức sinh hoạt văn hóa ra đời tương đối muộn ở Hà Nội so với sự ra đời tân nhạc từ nửa sau thập niên 1930. Những phòng trà đầu tiên được xác nhận xuất hiện sau khi nước Việt Nam độc lập năm 1945. Trong hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy, ông đã nhắc đến những phòng trà đầu tiên ra đời quanh Hồ Gươm cuối năm ấy.

Trong vòng chưa đầy một cây số quanh Bờ Hồ, những phòng trà là nơi lưu dấu các tên tuổi của tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu.

Nơi khai mở tân nhạc

Hơn 80 năm trước, ở những con phố chật hẹp Hà thành quanh Hồ Gươm, đã có nhiều địa điểm ghi dấu các sự kiện văn hóa. Người ta đã ghi nhận sự ra đời chính thức của tân nhạc gắn với Hội quán Trí Tri ở 47 Hàng Quạt. Vào tháng 3.1938, tại đây đã có buổi giới thiệu một vài ca khúc tân nhạc của Nguyễn Văn Tuyên, và được báo Ngày nay đăng tải trong số các ca khúc tân nhạc được công bố đầu tiên, cùng với các bài hát của Nguyễn Xuân Khoát và các nhạc sĩ trẻ như Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Thẩm Oánh, Lê Yên...

Hội quán Trí Tri (Société d’Enseignement Mutuel du Tonkin) có trụ sở là một ngôi nhà kiến trúc Pháp-Á, mặt tiền trang trí hoa văn Á Đông, nơi những học giả Bắc kỳ mở những lớp dạy về kiến thức với chủ trương quảng bá tân học gồm các đề tài khoa học như vệ sinh, phong tục, cùng các kiến thức mới lạ đến trí thức Việt Nam từ năm 1892 đến 1945.

Quán rượu Taverne Royale ở phố Đinh Tiên Hoàng năm 1954

Ngày 29.8.1938, cùng năm với cuộc vận động tân nhạc, nơi này ra đời Hội Truyền bá chữ quốc ngữ với Hội trưởng là học giả Nguyễn Văn Tố, ông cũng là Hội trưởng Hội Trí Tri. Hội Truyền bá chữ quốc ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc xóa nạn mù chữ trong quần chúng, tiền thân của Nha Bình dân Học vụ sau Cách mạng tháng Tám. Nơi đây cũng là trụ sở của Hội Âm nhạc Bình Minh, một hội âm nhạc yêu nước trong cao trào cách mạng. Ngôi nhà ở phố Hàng Quạt, cách Hồ Gươm chỉ hơn 300m tình cờ hội tụ những dấu mốc thời gian quan trọng của những hoạt động văn hóa và tri thức của dân tộc, ngày nay là trung tâm giáo dục thường xuyên, được mang tên Nguyễn Văn Tố.

Trong những ngày tháng sau đó, các rạp chiếu bóng là nơi những bài hát được trình bày. Nằm trong trào lưu cải cách văn hóa hay còn gọi là Âu hóa, các bài hát cũng mang tên nhạc cải cách. Những sân khấu nhỏ bé tại các chợ phiên, rạp chiếu bóng, cải lương, nơi các bài hát được hát trước và giữa các giờ giải lao, thậm chí tham gia như tiết mục biểu diễn trong các vở cải lương, đã gieo một ý niệm về âm nhạc mới.

Cuối năm 1940, Đặng Thế Phong đã biểu diễn ca khúc Con thuyền không bến tại rạp Olympia (nay là rạp Hồng Hà, trước chợ Hàng Da) trong một buổi diễn kịch. Nhưng đến lúc đó, tân nhạc vẫn chưa hẳn đã chiếm lĩnh không gian văn hóa đô thị. Vào đầu thập niên 1940, thú vui của các tao nhân mặc khách vẫn là những xóm cô đầu như Khâm Thiên, Vạn Thái hay Ngã Tư Sở, thậm chí Vũ Bằng vào năm 1973 khi nhớ lại, đã gọi đây là “cái nôi của văn nghệ Hà Nội ba chục năm về trước”.

Đơn giản là ca trù (tức hát cô đầu) đã có địa chỉ riêng, còn tân nhạc vẫn là thân phận ở nhờ những sân khấu ca kịch truyền thống hay chiếu bóng. Nhà hát Lớn vẫn chỉ dành cho những sự kiện long trọng, các vở kịch nói và không mở cửa thường xuyên.

Vì thế, các phòng trà ra đời như một quy luật tất yếu, nhờ quy mô nhỏ gọn. Đi cùng việc ra đời phòng trà vào cuối năm 1945 là nhờ lứa nhạc công đã có kinh nghiệm chơi nhạc từ trước trong các quán rượu hay các dàn nhạc nhà thờ, như các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Giệp, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thiện Tơ... Sự lớn mạnh của tầng lớp tư sản thành thị và lòng tự tôn dân tộc được cuộc cách mạng bồi đắp đã dẫn tới nỗ lực trình bày những bản nhạc cải cách.

Một trong những giọng ca nam chính là nhạc sĩ Phạm Duy đã kể lại những chi tiết về các phòng trà đầu tiên ở Hà Nội khi phong trào đi nghe nhạc ở đây diễn ra như “Quán Nghệ Sĩ ở đường Bờ Hồ, do tay violonist số một là Nguyễn Văn Giệp điều khiển”, “ở phố Hàng Bông, có Phòng trà Thăng Long” hay “phố Thợ Nhuộm có Phòng trà Tuyết Sơn có Vũ Thành thổi sáo”. Phòng trà Thiên Thai lấy theo tên bài hát của Văn Cao ở phố Hàng Gai, nơi Phạm Duy cũng biểu diễn như một ca sĩ tại đây, và ông đã giới thiệu Thương Huyền, “giọng hát phái nữ hay nhất của lúc đó”, đưa cô trở thành ngôi sao tân nhạc.

Những giọng ca nổi bật của nước Việt Nam mới lúc này cũng biểu diễn ở các phòng trà như Mai Khanh, Kim Tiêu, Bùi Thị Thái (tức NSND Tuyết Mai sau này), hay các nhạc sĩ nổi tiếng cũng chơi đàn hoặc dẫn chương trình tại các phòng trà như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh... Tại những phòng trà như thế này, các bài hát lãng mạn được phổ biến ra công chúng, nhưng ngay cả các bài hát cách mạng trong cao trào giải phóng dân tộc vừa thành công khi ấy cũng được vang lên.

Trong Đốt lò hương cũ,  Đinh Hùng đã kể lại câu chuyện nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cùng Nguyễn Văn Giệp chơi đàn trong Quán Nghệ Sĩ mùa thu năm 1946, khiến cho một toán lính lê dương say rượu thôi làm loạn quán nhạc. Âm nhạc ở phòng trà như thế này vào thời gian ấy đã được chấm phá đôi nét nhiều gợi cảm trong tùy bút Một lần tới thủ đô của Trần Đăng:

Thủ đô Việt Nam được tô điểm bằng bao nhiêu mầu sắc quốc tế. Đời sống Việt Nam cũng phản chiếu được ngay cái ánh sáng phù hoa ấy. Phòng trà ở góc phố; bàng bạc một ánh sáng đều nhạt, dịu dàng. Những thanh niên tuấn tú ngồi bên những mầu áo thêu hoa. Những tiếng đàn rên rỉ ở những cung trầm. Xa chút nữa, cánh cửa của một tiệm nhảy hé mở để một võ quan ngoại quốc cao lớn lách vào cùng với một tà áo đỏ để thoáng lộ ra những cặp thướt tha cũng như chợt thoáng bay ra ngoài tiếng đàn lả lướt.

Tiếng đàn lả lướt vẳng đưa trên trời và trong đêm Hà Nội. Những ham muốn mạnh mẽ và hồi hộp nặng sa vào trong lòng mấy chàng thanh niên bước vội trên vỉa hè. Nước Hồ Gươm rung làn ánh sáng như giục giã. Chút sương mờ trước mắt như đợi chờ.

Ký ức về phòng trà đã trở nên đáng kể trong tạo dựng hình dung về Hà Nội những năm tháng ấy. Phòng trà cho dù chỉ đáp ứng một thiểu số thị dân có điều kiện nhưng vùng âm thanh lan tỏa của chúng rộng hơn, vang hơn trong không gian và thời gian.

Giai đoạn tạm chiếm

Trong thời gian Hà Nội tạm chiếm (1947-1954), hoạt động biểu diễn âm nhạc thoạt đầu còn thưa thớt do hoàn cảnh chiến tranh. Dòng người hồi cư năm 1949-1950 kéo theo nhu cầu giải trí đô thị, tạo ra động lực cho các chương trình âm nhạc trên đài phát thanh bên cạnh chức năng tuyên truyền thông tin, các chương trình ca nhạc phụ trợ cho các buổi diễn cải lương hay chiếu bóng. Vào thời điểm đầu thập niên 1950, Hà Nội có khoảng 16 rạp chiếu bóng, 9 rạp hát. Những nơi này gần như là điểm thu hút thị dân hàng tuần đông nhất để được giải trí và tạm quên đi đời sống nhộn nhạo thời chiến. Tại các sân khấu này, vào nửa tiếng trước giờ chiếu hoặc giữa các buổi diễn sân khấu, thường có một chương trình ca nhạc ngắn độ 4-5 ca khúc tân nhạc, biểu diễn những bài hát được yêu thích lúc ấy, mà nhiều bài được sáng tác ở vùng kháng chiến.

Những giọng ca nổi bật lúc này phải kể tới ca sĩ Minh Đỗ, Ngọc Bảo, Tâm Vấn, Anh Ngọc, Đoàn Minh, Bích Thọ hay chính nhạc sĩ Hoàng Giác, được quảng cáo là “tinh hoa của âm nhạc cải cách”. Vào thời điểm chiến cuộc ở Đông Dương đi vào ngã ngũ, ở Hà Nội xuất hiện một lứa ca sĩ được giải qua các cuộc thi hát của đài phát thanh Hà Nội hay từ các cuộc hát chợ phiên như Thanh Hằng, Thanh Hiếu, Trần Ngọc, Huyền Nga, Anh Tuấn... cùng với các ca sĩ từ Hải Phòng lên hay từ Huế, Sài Gòn ra như Mộng Dung, Lệ Thu, Mộc Lan, Châu Kỳ...

Quảng cáo phòng trà Hoa Việt cuối năm 1954

Các nghệ sĩ cải lương cũng lấn sân tân nhạc như Kim Chung, Kim Xuân, hai nữ nghệ sĩ đóng vai chính trong phim Kiếp hoa, bộ phim nói tiếng Việt hoàn chỉnh đầu tiên năm 1953. Trong phim này, các nghệ sĩ đoàn Kim Chung đã hát các bài tân nhạc như Dư âm (Nguyễn Văn Tý), Làng tôi (Chung Quân) hay Cây đàn bỏ quên (Phạm Duy), góp phần đưa bộ phim trở nên ăn khách bậc nhất cũng như các bài hát được phổ biến rộng rãi. Các sân khấu tại rạp Long Biên (phố Hàng Chiếu), Hiệp Thành (Đào Duy Từ), Olympia (chợ Hàng Da) hay Mê Linh (Lò Đúc) là những địa điểm để các ca sĩ xuất hiện.

Nhạc sĩ có những hoạt động âm nhạc năng suất nhất giai đoạn này có lẽ là Thẩm Oánh. Bên cạnh việc dạy nhạc, ông xuất bản rất nhiều bài hát và cộng tác với đài phát thanh Hà Nội, tham gia Ban Việt Nhạc, nơi đã biểu diễn và phát sóng hàng trăm ca khúc của 120 tác giả, cả ở vùng kháng chiến lẫn những người hồi cư. Nhiều bài hát mới sáng tác cho kháng chiến như Tiến về Hà Nội, Ngày mùa, Nương chiều, Tiếng hát sông Lô, Mơ đời chiến sĩ, Người Hà Nội... được phát sóng thời gian này.

Điều này một mặt cho thấy sự nới lỏng kiểm duyệt để tranh thủ tình cảm đồng bào hồi cư, những người đã quen với không gian âm nhạc kháng chiến, mặt khác cho thấy sự cởi mở tương đối của người chủ trì nhạc mục phát thanh này. Vào giai đoạn này, vợ nhạc sĩ Thẩm Oánh là bà Tô Anh Đào, một nghệ sĩ dương cầm, mở một salon nghệ thuật ở 164 phố Huế. Những salon nghệ thuật như thế mọc lên trong thành phố, thay thế các xóm cô đầu ngày trước. Các nhạc sư cũng góp phần khiến nam thanh nữ tú say mê việc đàn hát như Nguyễn Thiện Tơ, Nguyễn Văn Khánh, William Chấn...

Các nghệ sĩ Việt thời này vẫn ôm ấp những khát vọng học hỏi Liszt, Schubert hay Chopin, những đại biểu của âm nhạc cổ điển lãng mạn. 

Thời kỳ chuyển hóa

Giai đoạn sau khi tiếp quản Hà Nội, các hoạt động âm nhạc của thành phố mau chóng trở lại náo nhiệt. Nhiều rạp hát đã hội tụ các nguồn lực âm nhạc Hà Nội cũ cũng như từ vùng kháng chiến về, tạo ra một không khí khá hân hoan đón chào một đời sống mới. Các rạp Majestic (Tháng Tám), Eden (Công Nhân) hay nhiều rạp quanh khu phố cổ tưng bừng các chương trình chào mừng chiến thắng mà trong đó vẫn biểu diễn những bài hát lãng mạn. Ca sĩ Trần Ngọc trước khi di cư vào Nam đã biểu diễn một thời gian tại rạp Eden cuối năm 1954, khi vào Sài Gòn ông chuyển sang sáng tác với bút danh Tuấn Khanh mà nhiều người biết.

Giai đoạn này đời sống âm nhạc được sôi động là nhờ các ban nhạc của các nhạc sĩ danh tiếng như Tu My, Tạ Tấn, Hoàng Dương, Huy Cẩn, Đỗ Liên. Các ban nhạc Lúa Vàng, Sóng Vàng, Tự Do, các ban hợp ca Zota (Tháng Mười) hay Bình Minh lôi cuốn nhiều thanh niên yêu văn nghệ tìm đến. Nếu trước đây âm nhạc là phương thức giải sầu thì giờ đây, là lĩnh vực để thể hiện bản thân và sự hòa nhập cộng đồng.

20190304 Ban nhac viet

Ban Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội tại trụ sở 58 Quán Sứ vào năm 1949. Hàng đứng từ trái: Canh Thân, Nghĩa, Nguyễn Hách Hiển, Bùi Ngọc Bảo, Nguyễn Văn Sợi, Nguyễn Đại, Vũ Thành, Nguyễn Thường, Nguyễn Thái Quy, Trần Văn Nhơn, Nguyễn Trí Nhượng, Nguyễn Thiện Tơ, Huy Thư. Hàng trước: các ca sĩ Minh Đỗ, Minh Phương, Tâm Vấn. (Ảnh trong bài là tư liệu Nguyễn Trần Dũng)

Cuối năm 1954, quán rượu Taverne Royale cũ ở đường Bờ Hồ (tức Đinh Tiên Hoàng) được đổi tên là Phòng trà Hoa Việt. Đây có lẽ là địa chỉ hiếm hoi định danh là một phòng trà, nhưng dường như cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn. Vào ngày đầu năm 1955, rạp Đại Đồng khai trương với giám đốc Đoàn Chuẩn và phó giám đốc Từ Linh, cặp tác giả của những tình khúc mùa thu nổi tiếng. Tại sân khấu số 46 Hàng Cót này, các danh ca Minh Đỗ, Thanh Hằng, Thanh Hiếu hàng đêm chinh phục khán giả Hà thành. Thanh Hằng là ngôi sao thủ khoa cuộc thi hát hè 1953 của đài phát thanh Hà Nội, giờ đây là nàng thơ cho Đoàn Chuẩn, tạo cảm hứng cho ông sáng tác những bài tình ca đặc sắc sau 1954 như Lá đổ muôn chiều, Tà áo xanh, Vàng phai mấy lá

Ngày nay, khi các phòng trà đã quay trở lại với đời sống đô thị, khán giả vẫn có xu hướng hồi cố bóng dáng của phòng trà hay sân khấu xưa, nơi các tao nhân mặc khách tụ hội, định hình một phong cách thẩm mỹ Hà Nội gây ảnh hưởng đến bây giờ.

 

Rạp Đại Đồng duy trì sân khấu ca nhạc sôi nổi, giống như một phòng trà quen thuộc bên cạnh chiếu phim suốt năm 1955, rồi hoạt động âm nhạc cũng chấm dứt khi Đoàn Chuẩn thôi không sở hữu rạp và chuyển sang dạy đàn ở trường Âm nhạc phổ thông vào năm 1956.

Sân khấu ca nhạc từ thời điểm này chuyển dần sang các sân khấu ngoài trời cũng như tại các nhà văn hóa do nhà nước quản lý. Các ca sĩ cũng sinh hoạt trong các đoàn thể, hình thức biểu diễn tự do nhường chỗ cho các chương trình trong kế hoạch. Đời sống giải trí thị dân cũng chuyển hướng sang hệ thống thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa. Nhưng tự thăm thẳm trí nhớ, vẫn còn những dư âm. Trong một đêm đông thời chiến tranh, Văn Cao đã thốt lên: “Nhớ một điệu đàn. Vũng sao khuya sóng sánh” (Một đêm Hà Nội). 

Ngày nay, khi các phòng trà đã quay trở lại với đời sống đô thị, khán giả vẫn có xu hướng hồi cố bóng dáng của phòng trà hay sân khấu xưa, nơi các tao nhân mặc khách tụ hội, định hình một phong cách thẩm mỹ Hà Nội gây ảnh hưởng đến bây giờ. Trong ca khúc cuối đời của mình, Đoàn Chuẩn đã nhớ lại không khí phòng trà, rạp hát thời ghi dấu những cuộc tình và sự thăng hoa nghệ thuật của mình: 

Một gói nho khô, một cánh pensée
Một áo nhung đen, lấp lánh ánh đèn, đèn quay màu tím
... Tim cũng không ngờ, làm nên lời thơ
Tim cũng không ngờ, làm nên lời ca

(Một gói nho khô, một cánh pensée - 1988)

Những chất liệu nhỏ bé như áo nhung đen, ánh đèn quay màu tím, đã đi vào ký ức và trở thành nguồn cơn cho những mỹ cảm không phai. Như Đoàn Chuẩn đã đúc kết, tim cũng không ngờ làm nên lời ca, những thứ như phòng trà, sân khấu, ánh đèn... đã được không gian hóa và chứa đựng hồn vía cả một thời đoạn, một tuyên ngôn nghệ thuật và một cá tính đô thị. 

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 24.02.2019.

Chuyện văn chương xưa nay vốn là của riêng cánh nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, cơi nới một chút thì thêm cánh nhà báo. Những tưởng chuyện này vốn không có gì để bàn cãi, cho đến khi khái niệm copywriter ra đời. 

Copywriter, hiểu nôm na là những người viết quảng cáo, cái danh xưng ấy bản thân nó đã mang hai tiếng “writer” - người viết, dù giới viết lách truyền thống hiếm ai thừa nhận copywriter ở ngang trình độ với các writer thứ thiệt. Và họ sẽ tiếp tục không thừa nhận, cho đến khi, tình cờ, họ đọc được một đoạn quảng cáo của lọ Chanel No.5 chẳng hạn.

Khái niệm văn chương bành trướng

Trước khi quay trở lại chủ đề liệu quảng cáo có nên được xếp như một chi mới trong họ nhà “Văn” hay không, hãy thử nhìn vào sự mở rộng của biên giới văn chương theo dòng thời gian cái đã.

Năm nay, Viện Hàn Lâm không trao giải thưởng Nobel Văn học, còn vào năm ngoái, họ trao cho Kazuo Ishiguro, một văn sĩ lão làng được lòng từ giới phê bình lắm điều đến khán giả đại chúng hời hợt và cả “bè lũ” Hollywood vốn giỏi đánh hơi ra tiền - ngắn gọn là không có gì để bàn cãi. Nhưng liên tiếp 2 năm trước đó thì không sóng yên bể lặng như thế.

Năm 2015, khi dân cá cược đang thi nhau đặt cửa cho Haruki Murakami và Ngugi wa Thiongo thì một tin “sét đánh ngang tai” đến: giải Nobel Văn học được trao cho Svetlana Alexievich. 

Chuyện không ai biết người phụ nữ này là ai đã đi một nhẽ nhưng vấn đề lớn hơn nằm ở chỗ Svetlana là một nhà báo và thể loại sở trường của bà là các loại sách phi hư cấu (non-fiction). Svetlana không phải người đầu tiên được vinh danh dù không theo lối văn chương truyền thống. 

Trước bà đã có Theodor Mommsen, Bertrand Russell và Winston Churchill - những người viết luận hoặc viết sử. Nhưng dù sao cũng đã hơn 50 năm qua chuyện này không lặp lại.

Chúng ta sống trong thế giới toàn quảng cáo. Ảnh: L.G.

Một số nhà bình luận gật gù trước quyết định của Viện Hàn lâm vì đã thừa nhận vai trò của thể loại phi hư cấu - đứa con ghẻ của văn học. Và thành thực là, không ai đọc tới đoạn các nữ chiến sĩ lao ra con sông dẫu bên kia quân thù đang bắn, chỉ vì các cô muốn gột sạch dấu vết của kì kinh nguyệt, mà lại không xúc động rơi nước mắt. 

Văn chương phi hư cấu cũng có sức lay động không khác gì văn chương hư cấu vậy. Nhưng, nhiều người không nghĩ như thế. Và họ gần như phát điên vì sự kiện này. “Các cây viết phi hư cấu chỉ là công dân hạng hai. (...) Chúng tôi không thể hiểu được. Nó làm tôi phát cáu” - một phản ứng của giới nhà văn trưởng giả.

Lùm xùm của Nobel Văn học năm 2015 mới lắng xuống chưa được bao lâu thì Viện Hàn lâm lại khiến văn đàn xôn xao một lần nữa khi năm 2016, Hội đồng Hoàng gia trao giải Nobel cho Bob Dylan - một nhạc sĩ. Người ta vẫn thường gọi Dylan là nhà thơ trong âm nhạc. Không ai phản đối hết. 

Nhưng nếu dừng lại là nhà thơ của âm nhạc thôi thì được, chứ "nhà thơ" nhận giải Nobel ư? Không thể tưởng tượng nổi. Còn hàng tá các nhà văn nhà thơ đích thực đang chờ đến lượt mà chưa được, tại sao Bob Dylan được ưu ái? Hẳn lại là một sự can thiệp về chính trị đang diễn ra?

Trong diễn từ nhận giải của mình, chàng lãng tử du ca một thuở cố gắng phân trần sự công bình của giải thưởng, rằng hãy nhìn Homer - người đã nói “Hãy hát tôi lên, nàng thơ, và thông qua tôi, hãy kể những câu chuyện của mình”, và hãy nhìn Shakespeare - các vở kịch của Shakespeare là để diễn trên sân khấu, chứ không phải để đọc trên giấy, thì những lời thơ của Dylan cũng vậy, được dùng để hát chứ không dùng để đọc chay. 

Lý lẽ nghe rất xuôi tai. Nhưng chẳng ai quan tâm cả. Người ta chỉ quan tâm tới nghi án bài diễn từ của Bob Dylan đạo văn trên mạng. Cụ thể là đạo đoạn tóm tắt tiểu thuyết Moby Dick trên một website phân tích văn chương. 

Có người hóm hỉnh nhận xét: hội đồng xét tuyển lười đọc nên lựa tạm một ông nhạc sĩ nhận giải, ai dè ông nhạc sĩ cũng lười đọc nốt nên đi... đạo tóm tắt.

Mặc dù thế, sự thừa nhận từ giải thưởng văn chương danh giá nhất hành tinh đã chính thức làm những biên giới văn chương bốc hơi. Mọi thứ đều có thể là văn học: từ phóng sự, lời bài hát, đến luận văn, hồi ký, sử học, bên cạnh những thể loại cũ như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, tạp văn. Đó dường như là một quy luật rất đỗi tự nhiên. 

Sự phân biệt thể loại ngày càng phức tạp: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân vừa là truyện ngắn mà cũng là tùy bút. Phù dung ơi, vĩnh biệt của Vũ Bằng là tiểu thuyết mà cũng là hồi ký. Bỉ vỏ là tiểu thuyết có tính phóng sự.

Còn nói về văn học phương Tây, có thể nhìn rõ nhất vào trường hợp tiểu thuyết Cold blood (nhan đề tiếng Việt là Máu lạnh) của Truman Capote. Cuốn tiểu thuyết theo chân một vụ án có thật và gần như là một bản phóng sự mang tính văn chương. 

Khi mới ra mắt, một số người cười nhạo rằng thể loại này thì đến một cây bút bất tài của tờ New Yorker cũng dễ dàng viết được. Nhưng thời gian đã chứng minh Cold blood là một kinh điển của lịch sử văn học.

Quảng cáo là môn nghệ thuật đích thực?

Vậy thì liệu chăng có một ngày nào đó, copywriting - viết quảng cáo cũng được thừa nhận như một nhánh của văn học hay không, mặc dù điều này thoạt nghe thì thấy giống như một sự “sỉ nhục” dành cho những người viết “chân chính”.

Lưu Quang Vũ từng viết: “Ta đã làm gì? như lũ viết thuê/ Chạy theo những biển hàng ngắn ngủi (...)”. Âu cũng là một cách khinh bạc nghề bán chữ cho mục đích kinh doanh thuần túy, còn nghệ thuật ở mức độ tối cao, nó đâu cần tiền, nó khinh rẻ tiền và những chiêu trò thương mại.

Trong một cuốn tiểu thuyết của mình, George Orwell đã đả kích quảng cáo bằng cách xây dựng nhân vật chính là một người đàn ông với nhiều tham vọng viết văn nhưng mắc kẹt trong công việc của một kẻ viết quảng cáo, cả ngày chỉ tìm cách nặn ra những câu vần vần bắt tai. 

Gần hơn, Frédéric Beigbeder châm biếm copywriter trong chân dung của một kẻ bị chủ nghĩa tiêu dùng biến thành nô lệ. Điều đó vẫn tương đối đúng trong thời điểm hiện tại, khi mà với nhiều doanh nghiệp, triết lý quảng cáo vẫn đi theo lối càng ngớ ngẩn càng dễ tiếp cận công chúng.

Nhưng trong một xã hội tri thức, những nguyên tắc cũ cũng dần lỗi thời.

Bạn có tin được không, khi Salman Rushdie - tác giả của những cuốn tiểu thuyết đồ sộ ngồn ngộn chữ với một vốn từ khổng lồ - đã từng trưởng thành nhờ nghề copywriter? 

Trước khi viết Những đứa trẻ lúc nửa đêm, Rushdie là tác giả của những câu slogan huyền thoại trong ngành quảng cáo. 

Đáng nhớ nhất có lẽ là câu “Nhìn vào gương ngày mai - bạn sẽ thích những điều bạn thấy” cho tờ báo lá cải Daily Mirror (ông chơi chữ từ “Mirror” nghĩa là tấm gương).

“Góp một tay cứu lấy động vật hoang dã”, thông điệp quảng bá ngắn gọn nhưng đủ sức nặng cộng hưởng với hình ảnh thiết kế sáng tạo khiến cho chiến dịch bảo vệ động vật của một tổ chức phi chính phủ gây ảnh hưởng mạnh mẽ lên cộng đồng.

Vậy Salman Rushdie nói gì về việc viết quảng cáo? Ông cho hay: “Nó dạy cho tôi cách viết lách như một công việc nghiêm túc. Giả sử bạn có một vị khách tới vào buổi chiều với ý tưởng về chiến dịch quảng cáo sắp tới của họ, bạn không thể nói: Tôi có thể sẽ viết ra một cái gì đấy. Bạn phải viết ra một cái gì đấy. Chưa hết, cái bạn viết ra còn phải hay”.

Tuy điều này không có giá trị chứng minh copywriting nên được xếp chung với văn chương nhưng nó cho thấy việc viết quảng cáo cũng là một công việc phức tạp, đòi hỏi sự động não không thua gì viết một bài thơ cả. 

Văn phong quảng cáo, thường xuyên, khá đơn giản, nhưng Hemingway cũng là người hành văn đơn giản và hầu như không bao giờ sử dụng những từ ngữ lạ. Chính xác thì các copywriter ngày nay coi Hemingway như chuẩn mực của một bài quảng cáo hiệu quả. Và viết như Hemingway thì dễ sao?

Không chỉ Salman Rushdie mà nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng đá qua đá lại với ngành quảng cáo, trong số đó phải kể tới F. Scott Fritzgerald, Martin Amis, Don Delillo, Joseph Heller - toàn những nhân vật có tác phẩm lọt vào danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20.

Từ sự ra đời của series tranh cà chua đóng hộp hiệu Campbell của nghệ sĩ trường phái Pop-art Andy Warhol, người ta đã dần (một cách tự nguyện hay miễn cưỡng) công nhận các hình ảnh quảng cáo cũng là một phần hội họa. 

Sự sáng tạo trong các thiết kế quảng cáo, từ Louis Vuiton cho đến Coca-cola, có lẽ chỉ phân biệt với các sản phẩm nghệ thuật thuần túy ở mục đích chứ không phải vì gu thẩm mỹ kém tinh tế.

Cũng như vậy, copywriting cũng có thể được viết với cùng tầm vóc của một bài thơ đích thực, nên không có lí do gì để từ chối kết nạp nó như một anh chị em họ xa của viết lách truyền thống, nhất là trong thời đại mà biên giới văn chương đã mờ nhòe?

Và hãy thử đọc những dòng này: “Bộ hành trên con đường thanh xuân, qua miền đất ấu thơ, qua căn nhà, qua những gì có thực. Ở bên tôi, chỉ lối cho tôi, luôn đứng kề sát tôi. Cho tôi tự do. Tự do. Hãy lang thang qua nơi đây, rộng lớn và quen thuộc. Sân chơi ngày nào trong kí ức. Chúng ta là những kẻ lữ hành, không bao giờ lạc lối...”.

Bạn nghĩ đó là một bài thơ ư?  Hoàn toàn không. Bạn có thể bất ngờ, nhưng đó là một đoạn quảng cáo về Johnny Walker.

Hiền Trang

Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, ngày 17.9.2018.

Thông tin truy cập

61095174
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
4024
12210
61095174

Thành viên trực tuyến

Đang có 206 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website