Lời ghi trước: Ý nghĩa của Vu lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh. Vu lan là cơ hội giải phóng của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hóa để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình - mà đó là lòng hiếu thảo - hạnh nhân bản nhất - con người có được năng lực “xá tội vong nhân”, -“xá tội” chứ không “rửa tội”- vong nhân vô lượng vì mê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian ... Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hóa kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng! Cho nên lòng người náo nức niềm vui hóa kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hóa kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành! (Trích: "Vu lan Huế, thấp thoáng trở về" [1]).

Tranh Mẹ con - Mai Trung Thứ.

Một người thợ nề trẻ, dáng dấp bất ngờ khác với những người thợ nề thường gặp, hầu như thư sinh với vẻ người gầy cao, gần như ẻo lả, hai bàn tay dài lêu nghêu, gương mặt thanh tú khác thường, sốt sắng nhận lời lên tu sửa ngôi từ đường cũ nát của chúng tôi ở gần  chùa Linh Mụ. Hỏi em người ở đâu, người thợ trẻ trả lời với đôi mắt sáng to: “Nhà ở tận bên Châu Ê”. Hỏi em bảo đảm sửa được ngôi nhà cũ rích mà không bỏ cuộc? - “Dạ được!”. Hắn nhìn ngắm ngôi nhà và gật đầu mạnh mẽ, vẻ nhiệt tình, lại còn sốt sắng tự nguyện khăn gói lên ngủ qua đêm để trông nom nhà và sáng hôm sau cùng nhóm thợ bắt đầu sớm.

Nghe mọi người quen hắn đều bảo là một trong những người thợ trẻ chăm và giỏi tính nhất vùng, làm việc đâu ra đó, yêu nghề và không ngại khó. Nhà chúng tôi neo người, chẳng là phần đông đã tha hương, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, ai cũng ngại về, và có về cũng chỉ để ghé thăm, cảm tưởng hầu như giống nhau về ngôi nhà xưa ấy, ái ngại trong lòng, khi nhìn ngôi nhà tổ tiên quằn quại chịu đựng với thời gian, nhưng càng ngại hơn là gian phòng ẩm thấp ai đến rồi cũng đi, ít người chịu ngủ trong căn nhà cũ, đầy hơi mốc và tối tăm. Cho nên mừng nghe có người sẵn sàng lên ngủ trông nhà, mặc dù vẫn còn hồ nghi quá nửa. Nhưng không lâu, người thợ trẻ với vẻ mặt tươi cười đã cắp đùm khăn áo, hộp cơm tối, gọn gàng bước qua ngưỡng gỗ, nói yên tâm mọi người có mặt đang sắp sửa về phố và lịch kịch đóng mấy tấm cửa bàng khoa. Anh tôi bảo hắn bạo gan - thú thật nhìn vào căn nhà tối ai cũng sờ sợ làm sao mà hắn tỉnh bơ - lại nhiệt tình và có cái tâm vô ngại. Sau khi dặn dò vài thứ ai nấy an lòng ra về.

Người thợ trẻ đốt đèn, chọn khoảng nền nhà trước bàn thờ Phật làm nơi ngủ, trải chiếu, tắt đèn, hắn nhìn lên mái ngói có tấm gương hắt chút bóng đêm ngoài vườn vào nhà, gian phòng lờ mờ tối chìm trong im lặng, và chẳng bao lâu người thợ trẻ dễ ngủ đã thở đều. Hắn ngủ ngon lành giấc ngủ của một chàng trai tuổi hai mươi sau một ngày lao động quần quật khiêng vác.

Vào khoảng giữa đêm trong cơn mê, hắn bỗng nghe có tiếng đàn ca xướng hát, tiếng người nói chuyện lao xao, mỗi lúc một rộn ràng hơn, mùi hương trầm lẫn với hương hoa mộc, hoa sói trong vườn thoảng nhẹ khắp nhà, nghe có tiếng chào nhau mừng rỡ như tuồng đang có một cuộc gặp mặt gia đình mừng tuổi, nhiều tiếng cười chung quanh, tiếng lanh canh của chén bát sứ chạm nhau trong nhà. Đang còn bỡ ngỡ, chưa biết đâu vào đâu, tưởng mình nằm mơ, bỗng hắn thấy trước mắt mình một bà lão đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy guộc mà thanh tao quý phái, tươi cười đưa tay kéo hắn dậy và nắm tay hắn dẫn đi khắp nhà, đến từng người một giới thiệu. Vẻ nhu hòa êm ái của bà làm hắn mất hết e dè, trái lại còn vui lây, cảm giác đầy thân thuộc, nên bước theo bà mà không chút ngại ngùng. Bà vừa đi vừa kể chuyện, chuyện con cháu trong nhà, ai đi ai ở, rồi đến chuyện căn nhà, hình như đã có từ  mấy trăm năm nay, hết đời này sang đời khác, cho đến khi bà về làm dâu trong căn nhà ấy. Câu chuyện của bà hình như dài lắm mà hắn không nhớ hết, chỉ biết bà kể miên man bất tuyệt - mà trong khi cùng bà đi quanh thì tiếng ca hát văng vẳng bên tai càng nhộn nhịp, có tiếng đàn đệm theo tiếng hát, nghe rất ngọt ngào và điêu luyện như của những người tài tử sành điệu... Điều lạ lùng khác hẳn với ban ngày là căn nhà bỗng đầy sinh khí tươi mát, ánh sáng lấp lánh như nắng ban mai, không gian ấm cúng, chan hoà... Cuộc vui hình như kéo dài, đến bao lâu hắn không còn nhớ, chỉ biết là vui thật vui, hớn hở trong lòng không tả hết. Cho đến khi hồi chuông sớm từ chùa Linh Mụ vọng tiếng đầu tiên, người thợ nề trẻ giật mình, mới biết mình thật vừa mơ…

Câu chuyện người thợ nề trẻ nằm mơ trong căn nhà cổ tính ra đã hơn hai mươi năm, trước khi mẹ tôi rồi anh tôi lâm bạo bệnh và trở về với tổ tiên. Lần ấy vừa trở lại Huế, còn sinh thời anh tôi, chưa kịp đến nhà, từ phi trường, trên xe anh tôi đã kể và nhất định giới thiệu người thợ nề trẻ tuổi, nét mặt anh cẩn mật với một giọng kỳ bí lạ lùng. Một lần gặp, và sau đó mất hút tin. Tôi vẫn còn nhớ nét mặt thư sinh và đôi mắt sâu đen thông minh mỗi khi nhìn lên như nói với người đối diện nhiều điều hơn lời nói. Cảm giác thân thuộc như người trong nhà, và có lẽ hơn thế nữa, người ấy xuất hiện trước tôi như một người đưa tin, giây nối giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên này và bên kia, giữa minh dương hai ngã.

Trong tâm lẩn quẩn hai chữ tri ân mà không được nên lời, lại muốn giữ kín như một bí nhiệm cho riêng mình câu chuyện ấy, và kỳ lạ còn hơn cả bí nhiệm đeo đẳng trong hồn, mỗi khi chợt nhớ đến câu chuyện lại thấy lóe sáng tin vui có sức khởi động cả niềm tin - rằng trên nền đất cũ tịch liêu ấy vẫn sống động một thế giới toàn diện của hữu hình và vô hình, của lời và không lời, của tiếng và không tiếng - âm thanh và cõi lặng, tất cả được bao bọc bằng khi trời trong suốt hay mờ đục, và tầng tầng ánh sáng ngày đêm, mặt trời, trăng, sao,... rằng trong thế giới toàn diện ấy cơ hội gặp nhau, nghe nhau vẫn còn đó, vẫn nằm trong ngũ sắc cầu vồng, trong chớp mắt máy động tâm can.

Không những đêm mà cả giữa ngày, sự gặp gỡ hầu như xảy ra từng khoảnh khắc, kết thành một dòng liên tục, dòng chảy của chủ ý và vô tâm, của dòng ý thức - vô thức - bất tuyệt, những cuộc gặp gỡ vô hình và hữu hình, những chào hỏi vô thanh vang vọng nơi từng lá cây ngọn cỏ, trong gió đùa buổi sáng hay nắng hanh chiều bên song. 

Ta có biết và ta có thể không hay biết, những bay đi và trở lại thế gian, những xa lìa và đoàn viên, những trở về, gặp gỡ rồi lìa xa, tiếng cười và tiếng khóc. Những tưởng bóng tối là u sầu, ấy thế mà vang vọng tiếng cười thanh xuân; những tưởng quá khứ là lụi tàn, nhưng không, tương lai vẫn xanh màu lá non. Và như thế mỗi cuộc trở về bỗng mang ý nghĩa hồi sinh, cuộc ra đi mang theo hy vọng gặp lại, bất sanh bất diệt.

Tín hiệu ấy đã như tiếng khánh khi bước chân qua cổng nền đất cũ, nếu lắng nghe thì đã vọng tiếng chào hiền dịu từ góc vườn có cây nhãn cổ thụ bỗng sây hoa vào tháng ba, tiếng thì thầm thoáng hơi sữa ngọt của triệu triệu chấm nhãn vàng mơ lẫn trong nắng sớm, bước thêm bước nữa đã gặp màu xanh lá chuối như lời ru, nhìn sâu vào màu xanh ấy có thể nghe thêm tiếng mưa thủ thỉ một thời thơ dại rúc vào lòng bà những đêm mùa đông rét mướt, chạm được luôn cả thân thể ấm áp của bà. Bước quẩn quanh bất ngờ nghe hoa sứ khai hương như đang vẽ nét nhan như ngọc của người cha khuất bóng từ lâu, tưởng như đã xóa nhòa trong ký ức trẻ thơ, bỗng hiển hiện nguyên trinh trên đài hoa hương nguyện. Bước trật chân trên cỏ rối lại nghe tiếng cười ái ngại của chị gái hiền đâu đây, chợt thấy nét thuỳ mỵ diễm tuyệt đến phải quy hàng chỉ còn biết thương hết nỗi thương. Có bước gấp để đuổi kịp gió đang gom những mùi hương nhẹ nhất trong khu vườn dấu kín một nơi, và gặp nụ cười chúm chím của anh trai đang đùa em dấu chùm vải sau lưng, bắt phải đi tìm... Lại có khi dừng bước không đi ngoái tìm bông hoa núp lá bất ngờ tiết lộ mùi hương ngọt ngào như hương thơm da thịt của mẹ thời tóc dài chấm gót... Lại có khi rón rén để đừng xao động bóng chim hay cánh bướm đang nhỡn nhơ trên cỏ rồi ngẩn người chợt thấy mẹ và chị thấp thoáng sau cây hải đường vào ra như những ngày xưa ấy. Và sẽ kể hoài không dứt như câu chuyện của bà đã kể và còn đang kể trên lá trên hoa trong khu vườn ấy khi chân bước đến, khi tay lật viên gạch cũ thấy lại dấu tích ngày trước, khi lòng nóng hổi muốn gầy dựng lại mái xiêu, khi tâm thành như đất vườn được xới bốc hơi nuôi nấng con người, cây cỏ…

Hầu như mỗi phút, mỗi giây cuộc gặp gỡ đều có thể xảy ra, không phải ngày xưa ấy, mà bây giờ, nơi đây, trong khoảnh khắc hiện tại, trên đầu giọt sương, trên đầu bọt nước, trên từng bào ảnh, tên từng mộng huyễn, vô lượng kiếp kiếp, vô lượng chúng sanh, vô lượng vạn vật, không phải là mơ mà thật ngay nơi đây, giờ khắc này, như hoa mưa vừa bừng nở sáng lóng lánh trên màu xanh vọng tiếng...

Ghi chú:

* Ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, theo Phật giáo, là ngày tự tứ đầu tiên Đức  Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày tôn giả Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ, ngài Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người.

Tham khảo:

[1] http://tiasang.com.vn/-van-hoa/vu-lan-hue-thap-thoang-tro-ve-4270

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 05.9.2018.

20180824 VHMN

Bìa một số đầu sách văn học miền Nam trước năm 1975 nay được tái bản

Nếu tác phẩm có giá trị thì sức sống của nó vẫn còn lan tỏa, bằng không thì việc xuất bản lại chỉ đáp ứng sự tò mò hoặc công chúng tìm đọc vì hoài niệm 

Sự trở lại của các cây bút tiêu biểu miền Nam giai đoạn trước năm 1975, thiết nghĩ, cũng là điều hết sức bình thường, hợp lẽ tự nhiên, vì không ai có thể phủ nhận những đóng góp của họ trong tiến trình văn học nước nhà, nếu tác phẩm đó thật sự có giá trị lâu bền.

Đi đầu trong việc làm này, trước hết phải kể đến tiểu thuyết "Nguyệt Đồng Xoài" (3 tập) của Lê Xuyên; 3 tác phẩm "Tiếng sáo người em út", "Đôi mắt trên trời", "Nhan sắc" của Dương Nghiễm Mậu do NXB Văn Nghệ TP HCM cùng Công ty Sách Phương Nam ấn hành năm 2007. Về pháp lý, dù được Cục Xuất bản cấp giấy phép nhưng bấy giờ người làm sách lại không có sự giới thiệu, đánh giá lại tác giả - tác phẩm để giúp bạn đọc hiểu thêm về bối cảnh ra đời của nó, từ đó tiếp nhận một cách khách quan.

Hơn nữa, do không có sự giải thích chu đáo, cặn kẽ về ngữ nghĩa nên khi đọc đến những câu đại loại như "Bộ mình cưới nhau liền được sao? Anh còn lo vấn đề động viên. Việc gì mà mình phải gấp rút như vậy?" ("Nguyệt Đồng Xoài", tr.7), chẳng khác nào đánh đố người đọc, bởi từ "động viên" không hẳn mang ý nghĩa như nay ta hiểu... Theo kế hoạch, sau đó sẽ tiếp tục tái bản sách của những nhà văn khác nữa. Nhưng chỉ mới in đến đó, công việc phải tạm thời ngưng lại vì có nhiều luồng ý kiến không đồng thuận.

Bẵng đi một thời gian dài, việc tái bản này được "khởi động" lại với các bước "dọn đường dư luận" chỉn chu hơn. Có một điều cần ghi nhận là khi bổ sung, tái bản "Từ điển văn học bộ mới" (NXB Thế Giới; 2003), nhóm chủ biên Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Thiên, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá đã chọn thêm nhiều nhà văn miền Nam: Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Nhật Tiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Bùi Giáng… Việc làm này được xem là "táo bạo" vì bản in trước đó vào năm 1983, những tên tuổi trên chưa được đề cập.

Trong khoảng thời gian này, thỉnh thoảng các NXB cũng tái bản sách của các nhà văn như Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mộng Giác, Tràng Thiên, Lê Tất Điều, Nhật Tiến… Sự cởi mở trong sinh hoạt văn hóa nói chung, hầu như dư luận đánh giá tốt, không có gì đáng phàn nàn về chất lượng, nội dung. Đáng chú ý là năm 2013, NXB Hội Nhà văn và Công ty Sách Phương Nam in cùng lúc 3 tập truyện ngắn "Lạc đạn", "Nhà có cửa khóa trái", "Trở về mái nhà xưa" (NXB Hội Nhà văn) của Trần Thị NgH. Ngày 19-1-2013 tại quận 1, TP HCM, bộ sách này được tổ chức ra mắt rầm rộ mà không gặp phản ứng trái ngược nào từ dư luận.

Gần đây, sự kiện có thể nói là mạnh dạn nhất trong lĩnh vực xuất bản là cùng một lúc, NXB Hội Nhà văn và Công ty Sách Phương Nam đã tái bản toàn bộ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ - một trong 5 nhà văn nổi tiếng nhất của miền Nam trước năm 1975. Ngoài các tình tiết, phải kể đến điều đã khiến bạn đọc bất ngờ khi đọc "Khung rêu", "Thú hoang", "Lao vào lửa", "Chiều xuống êm đềm", "Như thiên đường lạnh", "Ngọn pháo bông", "Cho trận gió kinh thiên" là tác giả còn có biệt tài quan sát khi miêu tả sinh hoạt nghệ thuật quen thuộc ở nông thôn miền Nam thời trước. Chẳng hạn hát bội đình làng, giải sầu ca vọng cổ; ngoài ra còn là sự miêu tả các món ăn dân dã, quê mùa rất đỗi thân thương… nay đã ít nhiều trở thành dĩ vãng; kể cả khi khai thác về số phận vũ nữ, gái bán bar Sài Gòn với nhiều chi tiết sống động.

Sở dĩ bộ sách này được dư luận báo chí chú ý vì người làm sách đã nỗ lực thực hiện công tác chú thích trong chừng mực có thể đã giúp người đọc hiện nay tiếp nhận được lời ăn tiếng nói trước đây của người Nam Bộ. Chính sự phong phú, đa dạng về ngôn từ sẽ giúp ta hiểu hơn nữa về con người, vùng đất những nhà văn thế hệ trước đã từng "khai phá" bằng ngôn ngữ miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh… Nói cách khác, cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm của nhiều nhà văn miền Nam viết trước năm 1975 đã góp phần lưu giữ tiếng nói, cách phát âm một thời của bà con ở miền Nam đất Việt.

Không dừng lại đó, toàn bộ sách triết học của GS Kim Định như "Cửa Khổng", "Chữ Thời", "Tinh hoa ngũ điển", "Triết lý cái đình", "Vấn đề quốc học"… cũng được tái bản tương tự. Việc làm này liệu có quá "mạo hiểm" trong kinh doanh? Chúng tôi nghĩ là không, vì quy luật cung - cầu của thị trường sẽ quyết định. Hơn ai hết, những người làm sách còn phải nghĩ đến lợi nhuận mới có thể đi "đường dài". 

Hiện nhiều đơn vị làm sách tư nhân cũng mặn mà tái bản nguồn sách miền Nam - khi họ liên kết với các NXB, chẳng hạn, "Khúc thụy du" (Saigon Books), "Khúc thụy du" (Phan Books) - thơ của Du Tử Lê; "Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc" (DT books)…; "Tuổi nước độc" của Dương Nghiễm Mậu, "Hai chậu lan Tố Tâm" của Phan Du đều do Tao Đàn đầu tư…

Nhìn chung, sách đã in trước năm 1975 tại miền Nam về lâu dài vẫn có thể người làm sách tiếp tục tái bản. Tuy nhiên, đứng ở góc độ người đọc, chúng tôi thấy vẫn cần có sự thẩm định kỹ để kiểm chứng giá trị của nó, chứ không thể "thấy người ta ăn khoai, mình cũng vác mai đi đào". Ý thức "gạn đục khơi trong" với bất kỳ loại sách cũ nào, in ở thời kỳ nào, bao giờ cũng hết sức cần thiết. 

Lê Minh Quốc

Nguồn: Báo Người lao động, ngày 24.7.2018.

Khi văn hóa đọc thiếu nền tảng học thuật và pháp luật

Có lẽ chưa bao giờ văn hóa đọc lại nở rộ như ngày nay, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền và các kênh báo đài chính thống. Không khí tấp nập nhộn nhịp trong các hội trợ sách, các hội thảo sách, các cuộc chạy đường trường cổ vũ phong trào đọc dường như làm sống dậy cái không khí Đông Kinh nghĩa thục: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/Kỳ bình văn khách đến như mưa”. Chứng kiến cảnh “trăm hoa đua nở” của các đơn vị xuất bản, các cộng đồng đọc sách, các cá nhân cổ vũ đọc sách…v…v… chúng ta dễ lầm tưởng rằng một tương lai tươi sáng cho công cuộc nâng cao dân trí đang diễn ra. Tuy nhiên, nếu nhìn cận cảnh văn hóa đọc ở Việt Nam sẽ thấy một nguy cơ của tình trạng nhiễm độc “tinh thần” đang là vấn đề nan giải.

Một điểm dễ thấy ở thị trường sách Việt Nam đó là sự vượt trội về doanh số của các đầu sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống, tiểu thuyết tình yêu…v…v… so với các đầu sách khác. Những cuốn sách này thường khá dễ đọc, giải quyết các nhu cầu trước mắt của người đọc, và thường được những độc giả thiếu nền tảng kiến thức ưa thích. Ở phương Tây hay Trung Quốc, những cuốn sách dạng này cũng được số đông độc giả ưa thích nhưng chúng không có vị trí thống soái như ở Việt Nam. Dù cho chúng có thể là “best seller” nhưng người dân vẫn ý thức được rằng vẫn có những cuốn sách tầm cỡ cao hơn thế, có tính học thuật hơn và sách hàn lâm vẫn giữ một vị trí thống soái dù số lượng bán ra không bằng. Nhưng ở Việt Nam, sách hàn lâm cứ như thể là một thế giới vô cùng biệt lập đối với độc giả đại chúng.

Đặc biệt là các sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống luôn xuất hiện ở các giá sách của các quán café sách như một phần của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Đây cũng là các cuốn sách ưa thích trong các chương trình đào tạo nhân viên của các tập đoàn, các công ty bán hàng đa cấp...v…v… Đến nay, sự đúng – sai của các cuốn sách này vẫn gây nhiều tranh cãi trên thế giới và ở Việt Nam, tuy nhiên, nếu đưa số sách này vào làm một phần chiến lược của phong trào nâng cao dân trí thì chẳng khác nào vứt vào tay người dân những “cái cần” chẳng biết có “câu được cá” hay không? Và nếu các cuốn sách này không thực sự giúp được người dân cải thiện cuộc sống mà chỉ được sử dụng để khích lệ ham muốn kiếm lợi thì đó không phải là nâng cao dân trí mà là làm giảm đi khả năng làm việc có chuyên môn để thay bằng các phương pháp làm giàu nhanh chóng.  Trong khi ấy, các cuốn sách có tính chuyên môn sâu hay tính hàn lâm vẫn thiếu vắng trên thị trường sách và được in với số lượng rất ít.

Tiểu thuyết tình yêu hay còn có tên gọi mới là tiểu thuyết ngôn tình không chỉ xuất hiên nhan nhản ở các nhà sách, các trang bán sách online mà còn cả ở Thư viện Quốc gia, nơi vốn dĩ là tập hợp của những cuốn sách có tính hàn lâm hoặc hữu dụng. Nếu ai đã từng một lần tới phòng đọc của Thư viện Quốc gia Hà Nội hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy tiểu thuyết ngôn tình chiếm một vị trí lớn trong thư viện: không chỉ có ngôn tình Trung Quốc mà còn có đủ cả ngôn tình Anh, Pháp và Việt Nam. Trong khi ấy, thư viện lại thiếu vắng các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới mà các dịch giả từ đầu thế kỷ 20 đến nay vẫn tiếp tục dầy công chuyển ngữ. Thậm chí, nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam cũng không thể tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Hà Nội. Những bạn trẻ đến thư viện có thể thoải mái ngồi đọc tiểu thuyết ngôn tình bên cạnh những nhà nghiên cứu đọc các cuốn sách dầy cộp. Đây có lẽ là một cảnh khá hi hữu tại một Thư viện công có tầm cỡ quốc gia với nền tảng lưu trữ học thuật hơn 100 năm. Cùng lúc ấy, các tác giả trẻ viết tiểu thuyết tình yêu mang tính thị trường và các tác giả sáng tác văn chương mang tính nghệ thuật cũng rất khó để phân định được ranh giới dẫn đến một tình trạng loạn chuẩn trong nền văn học, và người đọc có thể hoàn toàn sẽ bị dẫn hướng bởi truyền thông. Ví dụ như các độc giả trẻ sẽ không thể phân biệt được sự chênh lệch về chất lượng giữa một cuốn tiểu thuyết ngôn tình sử dụng yếu tố lịch sử (như trường hợp “Thành kỳ ý” của Lê Ngọc Linh hay “Đại Nam dị truyện” của Phan Cuồng) với một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu (như “Hồ Qúy Ly” của Nguyễn Xuân Khánh hay “Vạn xuân” của Yveline Féray).

Tình trạng “vàng” không được coi trọng bằng “thau” này đã khiến cho nền văn hóa đọc của Việt Nam ở thời sung sức của giai đoạn đầu nhiễm những tạp chất khó có thể tẩy rửa khỏi thói quen đọc sách của thế hệ trẻ. Đây là hệ quả của sự thiếu nền tảng học thuật và pháp lý trong chiến lược của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Trong “ĐỀ ÁN Phát triển Văn hóa Đọc trong cộng đồng Giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030” của Thủ tướng chính phủ được thảo ra từ năm 2010, việc xây dựng nền tảng học thuật và pháp lý làm chỗ dựa cho xuất bản gần như không được đề cập đến mà hầu như chỉ nhấn mạnh vào công tác tuyên truyền nhằm gia tăng lượng độc giả. Trên thực tế, nếu không thể xuất bản ra những cuốn sách có chất lượng cao, đảm bảo tính chính xác của kiến thức, đạt các chuẩn của tiếng Việt và không có các sai phạm về bản quyền thì nền văn hóa đọc ấy sẽ chỉ gây hại cho độc giả mà thôi. Vấn đề chính yếu của văn hóa đọc hiện nay không phải là tình trạng giảm sút của số lượng độc giả mà tình trạng lỏng lẻo trong quản lý chất lượng sách.

Ngăn ngừa đạo văn có lẽ là vấn đề pháp lý quan trọng nhất của một nền văn hóa đọc. Tuy nhiên, cho đến nay, khung pháp lý xử lý đạo văn vẫn còn lỏng lẻo, không có cơ quan giải quyết các khúc mắc về đạo văn một cách chuyên nghiệp, cũng không có mức phạt nghiêm khắc thực sự để ngăn ngừa đạo văn. Hầu như trong các vụ đạo văn bị phanh phui trên truyền thông, những tác phẩm đạo văn không hề bị thu hồi và tác giả cũng không phải chịu một mức phạt nào, thậm chí nhiều trường hợp còn không xin lỗi một cách công khai. Qúy cuối năm 2015 cho đến quý I năm 2016, độc giả được chứng kiến hai vụ đạo văn đình đám: Một là sự việc nhà thơ Phan Huyền Thư đạo thơ của Phan Ngọc Thường Đoan. Hai là sự việc Lê Ngọc Linh trong tiểu thuyết ngôn tình có yếu tố lịch sử “Thành Kỳ Ý” đã đạo rất nhiều đoạn văn từ cuốn sách “Tứ thư bình giải” cùng nhiều bài báo từ các trang online của báo Dân Trí, Vietnamtourism…v…v… Cả hai trường hợp đạo văn này, sách đều không bị tịch thu và không bị nhận mức phạt nặng, cùng lắm chỉ là bị ép xin lỗi hoặc như nhà thơ Phan Huyền Thư chỉ cần trả lại giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội là đủ. Như trường hợp “Thành Kỳ Ý”, mức độ sai phạm trầm trọng hơn khi tác giả của cuốn sách này kêu gọi độc giả ủng hộ cô ta số tiền lên đến hơn 200 triệu đồng trước khi cô ta ra mắt sách. Số tiền này không hề được hoàn trả cho người ủng hộ khi cuốn sách được chứng minh là đạo văn, và cũng không có khoản phạt tài chính nào với sai phạm này. Cho đến nay, Lê Ngọc Linh vẫn không hề bị xử phạt dù cho đã có hơn 1000 chữ ký từ các độc giả vận động trên mạng và gửi thư khiếu nại đến Cục xuất bản. Hai ví dụ trên thật sự đã cho ta thấy sự quản lý lỏng lẻo của các đơn vị quản lý văn hóa. Đây chỉ là hai vụ scandal nổi tiếng trong số rất nhiều những sự vụ khác ít đình đám hơn và rất nhiều những vụ chưa được phanh phui vì chưa có ai phát hiện. Sẽ ra sao nếu Việt Nam có một nền văn hóa đọc mà ai ai cũng có thể đạo văn mà không phải chịu trách nhiệm gì? Đó là một nền văn hóa đọc không bảo vệ sự sáng tạo mà chỉ dung túng cho thói quen viết lách thiếu trách nhiệm và trình độ.

Không chỉ là một nền văn hóa đọc thiếu sự khuyến khích sáng tạo mà nền văn hóa đọc Việt Nam còn thiếu sự chính xác và tinh thần khoa học. Tình trạng nội dung sách không đảm bảo chất lượng ngôn ngữ hay khoa học là khá phổ biến. Gần như năm nào người đọc cũng được chứng kiến các sự việc sách dịch không chính xác ( như “Lolita” do Dương Tường dịch, “Sapiens, lược sử về loài người” do Nguyễn Thủy Chung và Võ Minh Tuấn dịch, “Căn tính và bạo lực – Huyễn tưởng về số mệnh” do Trần Tiễn Cao Đăng và Lê Tuấn Huy dịch…). Những cuốn sách này hoặc là thiếu chính xác trong chuyển ngữ, hoặc là diễn giải không đúng với văn phạm tiếng Việt. Bên cạnh đó còn phải kể đến không ít các cuốn sách nghiên cứu, khảo cứu, hướng dẫn… thiếu tính chính xác trong việc sử dụng kiến thức. Tôi sẽ không đề cập đến ví dụ về tình trạng sách nghiên cứu, khảo cứu sử dụng sai kiến thức bởi vì sẽ rất dài dòng để giải thích. Thay vào đó, tôi sẽ sử dụng một cuốn giáo trình tiếng Anh làm ví dụ. Đây là cuốn giáo trình tiếng Anh do trung tâm Elight phát hành, cấp phép bởi NXB Thanh Niên, có tên “Tiếng Anh cơ bản”. Một giáo viên dậy tiếng Anh rất nổi tiếng người Mỹ có tên là Dan Hauer đã chỉ ra rất nhiều lỗi sai ngữ pháp và từ vựng nghiêm trọng ở cuốn giáo trình này cùng với hơn 300 chi tiết đạo văn từ các giáo trình tiếng Anh khác. Cuốn sách được bán với giá 299 ngàn, một mức giá khá cao. Video nhanh chóng được lan truyền trên mạng với hơn 660 ngàn lượt xem và đến nay cũng chưa có dấu hiệu của đơn vị quản lý văn hóa và giáo dục xử lý các lỗi sai về kiến thức cũng như đạo văn trong cuốn sách này. Việc cung cấp sai kiến thức là một lỗi nghiêm trọng không kém gì đạo văn bởi những cuốn sách ấy phát tán các nhận thức sai lệch cho độc giả. Một nền văn hóa đọc mà trong đó độc giả dễ dàng bị nhồi nhét những nhận thức sai lệch thì đó là một nền văn hóa không lành mạnh. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do thiếu một đội ngũ có trình độ học thuật cao tham gia các khâu thẩm định chất lượng nội dung và một nền xuất bản thiếu các tiêu chuẩn khoa học.

Mặc dù vậy, ở góc khuất của nền văn hóa đọc nhốn nháo ngày nay vẫn có những cộng đồng đọc sách nghiêm túc những mong tuyển chọn các cuốn sách hay giới thiệu cho bạn đọc, vẫn có những tác giả và dịch giả miệt mài ngày đêm âm thầm cống hiến cho tri thức, vẫn có những độc giả khôn ngoan biết tìm đến các nguồn sách có chất lượng cao. Tất cả những yếu tố này tạo nên một ốc đảo tri thức nằm giữa biển sách ngổn ngang của thị trường. Tuy rằng biệt lập nhưng họ vẫn luôn cố gắng để duy trì ngọn lửa tri thức. Và dù cho xã hội không có một khung pháp lý hay một khung học thuật để quản lý chất lượng sách trên thị trường thị họ cũng tự xác lập cho mình những chuẩn mực riêng trong ốc đảo tri thức ấy.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ An, ngày 16.4.2018.

20180718 mNam

Ảnh: internet

So với những trào lưu hiện đại chủ nghĩa có tính chất tiền phong, mối quan tâm hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh chưa phải là vấn đề hình thức nghệ thuật mà là vấn đề đổi mới cách nhìn về con người và thế giới.

Tuy nhiên, đúng như Jean-Paul Sartre nhận xét, “người ta là nhà văn không phải vì đã viết cái gì mà vì viết như thế nào”. Chủ nghĩa hiện sinh đã đem đến cho văn học thế giới những tác gia và tác phẩm lớn, vì cùng với quan niệm hiện sinh về con người tự do, nó đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn hiện tượng luận vào sáng tạo nghệ thuật và đã nâng nghệ thuật miêu tả hiện tượng luận lên đến đỉnh cao.

Vận dụng hiện tượng luận, văn học hiện sinh tìm cách miêu tả thật chi tiết, cụ thể kinh nghiệm của con người trong một thời điểm nhất định và xem đó là cái thực. Với trào lưu này, điều quan trọng là miêu tả những hiện tượng diễn ra trước ý thức của con người chứ không phải là giải thích, diễn dịch hay phân tích. Chủ nghĩa hiện sinh không tin rằng cái tôi là một trung tâm của chân lý có khả năng nắm bắt hiện thực như nó vốn có. Cái tôi nhà văn chẳng qua là một ý thức hướng về thế giới, một thế giới mờ đục, không dễ thấu hiểu, vì nó bị che giấu, ta chỉ có thể nhìn thấy mặt ngoài của sự vật và khám phá một phần bản chất của nó thông qua những hiện tượng mà ta tiếp nhận được. Nói như vậy không có nghĩa là hiện tượng có thể xuyên tạc bản chất, bởi bản chất chính là toàn thể các hiện tượng chứ không phải là cái gì khác. Miêu tả hiện tượng luận là từng bước và từ nhiều góc độ vén bức màn cho ta nhìn thấy thế giới qua những bức tranh trắc diện của nó 1.

Tuy không giải thích, không phân tích, nhưng bằng sự miêu tả, văn học nghệ thuật sáng tạo ra ý nghĩa. Sứ mạng của con người là ban phát ý nghĩa: “con người bị kết án phải có ý nghĩa”, như Merleau- Ponty đã nói. Mọi cái nhìn, mọi hành vi của con người, kể cả những hành vi vô tình, đều là những ý nghĩa. Con người không thể hiểu thấu bản chất của sự vật, nhìn thấu bản thể của đối tượng, biết đến tận đáy của sự vật. Điều này chỉ xảy ra nếu đó là cái nhìn của Thượng đế hoặc nếu đó là một sự vật trong suốt và bất biến. Trên thực tế, con người chỉ có thể nhìn sự vật từ một góc độ, mỗi cái nhìn khai mở cho ta thấy một khía cạnh, một phương diện của sự vật mà thôi2.

Trên bình diện sáng tác văn học, chủ nghĩa hiện sinh đã đem lại cho văn học miền Nam (1954 - 1975) những thay đổi đáng kể, với quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lý, với ngôn ngữ và kỹ thuật miêu tả hiện tượng luận. Đây có thể là ảnh hưởng tự phát, nhưng cũng có thể là ảnh hưởng tự giác, ở những nhà văn trực tiếp đọc lý thuyết và sáng tác văn học hiện sinh Tây Âu. Cung Tích Biền, một người trong cuộc, ghi nhận: “Do có đồng khí tương cầu, chủ nghĩa hiện sinh đã có đất gieo mầm tại miền Nam một thời. Nó là dòng chảy, từ tư duy đến hành động, thái độ sống; nơi mỗi cá thể thành những tập thể quần chúng; từ cục bộ trí thức đã lan tỏa đến một tầng lớp xã hội; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lãnh vực văn chương nghệ thuật, âm nhạc, hội họa”3.

Trên bình diện lý thuyết, trí thức miền Nam, nhất là trí thức khuynh tả, chịu ảnh hưởng Sartre khá sâu đậm. Còn trên bình diện cảm thụ, độc giả Sài Gòn đọc Camus nhiều hơn Sartre và do đó, ảnh hưởng của Camus về mặt nghệ thuật có lẽ sâu sắc hơn. Phạm Công Thiện tinh tế khi nhận xét rằng “về con người thì Sartre cho rằng hiện hữu có trước yếu tính (L’existence précède l’essence), nhưng về nghệ thuật văn nghệ thì Sartre gián tiếp cho rằng yếu tính có trước hiện hữu (L’essence précède l’existence)”4. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, tác phẩm văn xuôi và kịch của Sartre phần nào có yếu tố minh họa cho triết học.

Liên quan đến chủ đề tình yêu trong sáng tác văn nghệ ở miền Nam, thế giới tính dục như là xung năng chi phối đời sống con người trở thành một mô-típ ám ảnh qua ngòi bút của Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Thực tiễn tiếp nhận văn học cho thấy giữa phong hóa dân tộc và những tác phẩm có yếu tố tính dục từng diễn ra những bất hòa, xung đột. Tiểu thuyết Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng bị phê phán một cách cực đoan vào giữa những năm 1960 là một trường hợp tiêu biểu.

Hình tượng thị giác, hình tượng âm thanh và hình tượng ngôn từ trong văn nghệ có thể là sự tái hiện từ tiềm thức hay vô thức của người nghệ sĩ. Những ám ảnh tuổi thơ và những chấn thương tinh thần thường để lại dấu vết dài lâu trong tâm hồn con người. Theo tinh thần phân tâm học, “đứa trẻ nào, tác phẩm ấy”. Những ảnh tượng từ thời thơ ấu đã bao năm mất hút trong lớp trầm tích của quá khứ, nhờ một sự khơi gợi tình cờ nào đó, bỗng sống dậy và trở thành cảm hứng của người nghệ sĩ.

Trong lĩnh vực âm nhạc, mối quan hệ giữa phân tâm học hiện sinh và sáng tác văn nghệ có thể được minh họa qua một số ca khúc của Phạm Duy và Lê Uyên Phương.

Bên cạnh những bài hát hay viết cho tuổi thơ mang âm hưởng dân ca như Em bé quê, Ông trăng xuống chơi…, Phạm Duy có những ca khúc viết về thời niên thiếu, trong đó phải kể đến Kỷ niệm và Tóc mai sợi vắn sợi dài. Bài đầu là tâm nguyện của một người muốn trở về trú ẩn trong tuổi thơ bình an: Cho đi lại từ đầu/ Chưa đi vội về sau/ Xin đi từ thơ ấu/ Đi vui và bên nhau/ Trong tim thì sôi máu/ Khóe mắt có trăng sao/ Bông hoa cài trên áo/ Trên môi một nguyện cầu… Bài sau là nỗi luyến tiếc về một mối tình thơ dại qua câu ca dao “Tóc mai sợi vắn sợi dài/ Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”: Đời sống trôi hoài không nghỉ ngơi/ Đời sống kéo dài nỗi trần ai/ Bao nhiêu bao nhiêu thiên trường ca/ Không qua không qua câu mẹ hò. 

Rời bỏ kháng chiến, giã từ miền Bắc vào miền Nam từ năm 1951, cuộc sống đô thị Sài Gòn hẳn có tác động làm thay đổi tư duy âm nhạc của Phạm Duy. Khoảng giữa những năm 1960 ông bắt đầu đưa yếu tố nhục cảm vào ca khúc, mới đầu còn nhẹ nhàng trong những bài Cỏ hồng, Nha Trang ngày về, như chính nhạc sĩ thừa nhận5. Ở đây người tình đưa người tình lên đồi cao Đà Lạt (Rước em lên đồi cỏ thơm mùi sữa/ Níu em yêu ngồi trên bãi cỏ tơ/ Giương đôi tay ôm thân tròn ơn mưa móc/ Hãy xõa mái tóc rũ trên vai anh mòn); hay người tình ngồi một mình trên bãi biển Nha Trang mà nhớ nhung (Lớp sóng mơn man thịt mềm da ngát hương/ Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang…) thì tình yêu cũng đã bước từ giai đoạn thuần khiết cảm tính sang giai đoạn nhục tính.

Về mặt này Phạm Duy táo bạo hơn rất nhiều so với lớp nhạc sĩ trẻ viết tình ca thời đó như Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng, Ngô Thụy Miên… Trịnh Công Sơn hiền lành chỉ viết được rất mơ hồ: Ru đời đi nhé, ôi môi ngon này giữa trần gian/ Ru từng chiếc bóng lênh đênh vào giấc ngủ ngon/ Cho tôi tay gối mong manh/ Cho tôi ôm lấy vai thon… 

Trịnh Công Sơn không dám qua mặt Xuân Diệu (Đã hôn rồi, hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt); còn Phạm Duy thì không chịu dừng ở đó. Những năm cuối của cuộc chiến tranh, ông còn viết Vỉa hè ca, Tục ca với ca từ thật sống sượng: Tôi có người yêu đ. to như mông Thẩm Thúy Hằng/ Cái đ. nhìn qua khiến ta phải ngỡ ngàng…

Tất nhiên, ở Sài Gòn lúc đó chẳng mấy người chịu hát những bài “ngợi ca tính dục” thô thiển của Phạm Duy; thậm chí đây là một trong nhiều lý do khiến nhà phê bình Nguyễn Trọng Văn diễn thuyết và in sách Phạm Duy đã chết như thế nào?. Vấn đề là tại sao tác giả của những tuyệt phẩm Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Giọt mưa trên lá, Nghìn trùng xa cách… lại chịu viết những bài hát câu khách và nổi loạn như vậy. Ở đây có ảnh hưởng của cuộc giải phóng tính dục sôi nổi đương thời từ phương Tây mới tràn vào các đô thị miền Nam; đồng thời cộng hưởng với tâm trạng bất an, mệt mỏi, rệu rã, mất phương hướng mà cuộc chiến tranh đem lại. Cho nên ám ảnh tính dục lúc đó gắn liền với ám ảnh về cái chết. Khao khát tính dục như một lối thoát khỏi ám ảnh về cái chết. Ngược lại, cái chết là bi kịch mà cũng đồng thời là giải thoát.

Ở miền Nam, người biểu hiện nỗi ám ảnh về cái chết ấn tượng nhất là đôi song ca Lê Uyên và Phương. Với hai tập nhạc cùng xuất bản năm 1970 (Khi loài thú xa nhauYêu nhau khi còn thơ) được chính tác giả giới thiệu với công chúng Đà Lạt và Sài Gòn, Lê Uyên Phương trở thành hiện tượng độc đáo của đời sống văn nghệ miền Nam giai đoạn đó. Nhạc tình của Lê Uyên Phương kêu gọi tuổi trẻ tận hưởng tình yêu khi cái chết cận kề, chết bởi chiến tranh hay bởi bệnh tật, tận hưởng như lần yêu nào cũng là lần yêu cuối. Cũng vì ám ảnh của cái chết mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, luôn luôn trong trạng thái chơi vơi, mong manh, thoáng chốc. Ca từ của Lê Uyên Phương là sự kết hợp của hơi hướng phân tâm học và hơi hướng hiện sinh, kết nối ám ảnh tính dục với ám ảnh về cái chết: Một chiều mưa áo trắng đưa nhau/ Bên kia đời tình buông nửa vời/ Lần này đây đã hết cho nhau/ Thôi điên cuồng thịt da rã rời […] Cuộc tình đó như qua ngày đông/ Phòng lạnh giá môi xô nụ hôn/ Người nằm đó xin cho được yên/ Còn tìm đâu áo mát thanh xuân/ Ấp hơi nồng trên da thịt đầy/ Còn tìm đâu gối thắm đê mê/ Còn gì đâu… (Đưa người tuyệt vọng).

Thế giới tình yêu trong ca khúc Lê Uyên Phương không chỉ là hoa thơm trái ngọt, gió thổi mây trôi, chim bay bướm lượn như tình ca thời lãng mạn. Trong thế giới đó, mê say đi liền với ê chề, nồng nàn đi liền với chua cay, đắm đuối đi liền với chán chường. Có lúc tác giả gọi thế giới đó là “vũng lầy”: Ta sống trong vũng lầy/ Một ngày vùi dần còn vùi sâu còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết cơn ê chề/ Ta sống trong vũng lầy/ Một ngày vùi dần còn vùi sâu còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết một lần đau (Vũng lầy của chúng ta).

Trong đời thực, Lê Uyên và Phương là đôi nghệ sĩ khởi nghiệp từ Đà Lạt giống như Khánh Ly và Trịnh Công Sơn, nhưng có điều khác là họ trở thành đôi tình nhân, rồi trở thành bạn đời chia sẻ một quãng đời trong nước đến một chặng đời ở hải ngoại. Nếu tiếng hát Khánh Ly biểu cảm những ca khúc hòa hợp được yếu tố hiện sinh, siêu thực và tinh thần Thiền học của Trịnh Công Sơn; thì tiếng hát Lê Uyên diễn tả nỗi đắng cay pha mùi khoái lạc hiện sinh cộng với nỗi hoang mang sợ hãi trầm thống trước điềm báo về cái chết. Phương, từ một vết đau trên da thịt luôn nghĩ về phút giây vĩnh biệt người tình đã sẻ chia, đồng cảm với ông trong âm nhạc và trong cuộc đời: Giờ này còn cầm tay/ Cầm chắc mối duyên bẽ bàng/ Cầm chắc mắt môi ngỡ ngàng/ Cầm giá buốt thương đau/ Ngày mai ta không còn thấy nhau (Cho lần cuối).

Không phải ngẫu nhiên mà Thế Uyên đặt nhan đề cho một bài viết về ca khúc Lê Uyên Phương là Tình ca - ranh giới sống chết: “Những tình tự chất liệu nguyên, hoang sơ như một đám cỏ tranh trên đồi, những xúc động nguyên thủy của nam nữ, tất cả qua giọng ca của một người nữ như còn run rẩy trong cơn làm tình và tê dại toàn thân trong đau đớn vì tình yêu đã bay đi. Và thích thú hơn, hình như tôi đã nghe thấy, cảm thấy thứ tình yêu ranh giới sống chết ấy”.

Lê Uyên và Phương đã đi đến cùng ranh giới đó, và cũng như sự an bài của định mệnh, họ đã không vượt qua được lời nguyền của sự chia cắt, khi hai người tưởng đã an trú nơi xa xứ, sau khi đã vượt qua những thử thách của hoàn cảnh. Lê Uyên Phương đã tiên tri cho số phận mình khi chính tác giả sớm viết bài Requiem cho linh hồn nghệ sĩ: Màn đêm mở huyệt sâu/ Mộng đời xin dài lâu/ Một vì sao lạ rơi/ Nghe hồn tê tái trên dòng hương khói bay/ Ái ân ơi đừng phụ lòng ta/ Nhớ thương sâu xin gửi người xa/ Khóc nhau trong cuộc đời/ Giấc mơ xưa khăn phủ vành sô/ Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau/ Chết bên nhau thật là hồn nhiên (Dạ khúc cho tình nhân).

Thật ra trong ca từ âm nhạc miền Nam đâu phải chỉ mình Lê Uyên Phương nói về cái chết. Phạm Duy, Trịnh Công Sơn còn nói nhiều hơn. Nhưng cái chết trong ca khúc của các tác giả này là cái chết hiện thực, cái chết do chiến tranh phi lý; còn cái chết trong ca khúc Lê Uyên Phương là ám ảnh của định mệnh cá nhân, gần với sự kết hợp đối nghịch giữa xung năng tính dục và chấn thương tâm lý trong phân tâm học.

Chủ nghĩa hiện sinh đi vào xã hội miền Nam vào thời buổi chiến tranh khốc liệt đầy bi đát. Những khái niệm “quê hương lưu đày”, “địa ngục”, “cô đơn”, “phi lý”, “buồn nôn”, “thời gian hữu hạn”… không phải là những từ ngữ văn nghệ thuần túy mà ứng với thực trạng của quê hương. Cái chết không còn là một ám ảnh siêu hình mà là sự thật, gắn với người thân yêu, với những địa danh, những trận đánh có thực. Tình ca của Trịnh Công Sơn bấy giờ là “tình ca của người mất trí”: Tôi có người yêu chết trận Pleime/ Tôi có người yêu ở chiến khu Đ/ Chết trận Đồng Xoài/... Tôi có người yêu chết trận Ba Gia/ Tôi có người yêu vừa chết đêm qua/ Chết chẳng hẹn hò, chết thật tình cờ/ Không hận thù, nằm chết như mơ (Tình ca của người mất trí).

Trong khi đó, những người tình nhân trong ca khúc Phạm Duy đứng trước một dự báo thảm khốc. Người trở về trong cuộc chiến tranh lần thứ nhất là “anh thương binh chống nạng cày bừa… có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ” với niềm vui và hy vọng. Còn người trở về trong cuộc chiến tranh thứ hai này, nếu may mắn là “trên đôi nạng gỗ… tật nguyền chai đá”, còn rủi ro là: Anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về trên chiếc băng ca/ Trong trực thăng sơn màu tang trắng […] Anh trở về chiều hoang trốn nắng/ Poncho buồn liệm kín hồn anh/ Anh trở về bờ tóc em xanh/ Chít khăn sô lên đầu vội vã… (Kỷ vật cho em, thơ Linh Phương).

Đời sống bi thảm đó dẫn con người đến những thái độ chọn lựa khác nhau. Âm nhạc Phạm Duy là một thái độ. Ông từng “khóc cười theo vận nước nổi trôi”, rồi ông tỏ thái độ bất cần dư luận, làm một “hippy già” ca ngợi những “hippy trẻ mặc áo rách đứng bên nhà thờ”. Theo chúng tôi, về mặt ca từ, ca khúc thể hiện rõ nhất tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh trong gia tài âm nhạc Phạm Duy là bài Một ngày… một đời…: Một ngày cho Tổ quốc/ Một ngày quên nợ nước/ Một ngày cho vợ con/ Một ngày cho tình nhân/ Một ngày đang cười ngất/ Một ngày ôm mặt khóc/ Một ngày bạn bè đông/ Một ngày chợt cô đơn…/ Hỡi, hỡi ôi, thân phận làm người/ Ôi thân phận làm người! 

Phạm Duy là một tài năng quái kiệt, là “tháp Bayon bốn mặt” như cách nói của Chế Lan Viên, thậm chí là “người nhiều mặt”. Sau những tình ca, kháng chiến ca, tâm ca, đạo ca, tục ca, khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, ông lại có bình ca, ngợi ca hòa bình: Sống sót trở về, tên cường đạo lau kiếm/ Xé áo giang hồ, xin chèo đò trên bến/ Sống sót trở về, quên màu hồng gái điếm/ Trút phấn son rồi, xin mặc lại áo huyền/ Sống sót trở về, tôi tạ từ vũ khí/ Sống sót trở về, tôi trở lại nhỏ bé/ Sống sót trở về, đeo một bầu rượu quý/ Sống sót trở về, vui một mình… tôi đi! (Bình ca 2: Sống sót trở về).

Sau thơ Nguyễn Bắc Sơn, có lẽ đây là lần đầu tiên, trong ca khúc có từ “gái điếm”, điều đó nói lên sự táo bạo trong sử dụng ngôn ngữ của Phạm Duy. Ông không ngại ngần dùng ngôn ngữ vỉa hè, bụi bặm, vì ông cho nó cũng có vẻ đẹp riêng. Về bản thân, dù có những lúc loạng choạng, ngả nghiêng, ông vẫn là người nghệ sĩ yêu nước, theo cách của ông. Những bài kháng chiến ca, những trường ca Mẹ Việt Nam, Con đường cái quan… nói lên điều đó. Hơn nữa, về một phương diện nào đó, ta còn có thể gọi Phạm Duy là người nghệ sĩ hiện sinh: ông ca ngợi giá trị con người, hạnh phúc trần thế, khát vọng tự do và sống như một cá thể tự do.

Tuy nhiên, người ta lại dè dặt khi muốn áp dụng khái niệm “dấn thân” hay “nhập cuộc” của chủ nghĩa hiện sinh vào trường hợp Phạm Duy. Có lẽ vì cái tôi của ông lớn quá, đôi khi bất chấp những trách nhiệm đạo đức. Hình ảnh con chuồn chuồn “khi vui nó đậu, khi buồn nó bay”, như hình bìa một tập hồi ký Phạm Duy, rất thích hợp với tính cách con người công dân và con người nghệ sĩ của ông.

Nói đến văn nghệ dấn thân ở miền Nam, người ta thường nhắc đến những ca khúc xuống đường, những bài ca tranh đấu của các nhạc sĩ sinh viên trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”. Gắn bó với phong trào này, từng cất tiếng hát bên cạnh các nhạc sĩ sinh viên, Trịnh Công Sơn đã đi từ Ca khúc da vàng đến Kinh Việt NamTa phải thấy mặt trời. Từ cảm xúc về người nô lệ da vàng ngủ yên, ngủ yên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ (Đi tìm quê hương), Trịnh Công Sơn cất tiếng hát ngợi ca đoàn người đi vào quê hương/ cầm ý thức xây tương lai mình/ cầm huyết thống đi cho nối liền, nối hai miền… (Hành ca); và vẽ ra viễn cảnh ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu/ Mẹ dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu/ cho hai miền trùng phùng lòng thấy nao nao/ Ngày Nam đêm Bắc tình chan trong mắt/ sẽ thấy trăm bình minh ngọt ngào… (Huế - Sài Gòn - Hà Nội). Danh hiệu “người nghệ sĩ dấn thân” thật thích hợp khi nói về trường hợp Trịnh Công Sơn.

Từ lý thuyết và quan niệm về con người và cuộc đời, chủ nghĩa hiện sinh đi vào cách sống và lối sống, với những ảnh hưởng khá tế nhị và phức tạp. Một mặt, không thể chối cãi rằng việc du nhập triết học và văn nghệ hiện sinh góp phần dẫn đến phản ứng “nổi loạn”, “tận hưởng cuộc đời” của một bộ phận thanh niên nông nổi không tìm thấy đường đi trong chiến tranh, như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Xuân, Thế Nguyên, Nguyễn Trọng Văn đã từng chỉ ra.

Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng trào lưu triết học và văn nghệ đó gợi lên những suy tư, trăn trở về thân phận con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh đất nước và chọn lựa thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha nhân. Có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người muốn tự khẳng định khuôn mặt tinh thần của mình trong điều kiện nước sôi lửa bỏng của dân tộc, đòi hỏi người trí thức không thể đứng “bên dòng lịch sử”. Họ đã sống cái triết lý đó chứ không phải làm công việc dịch thuật hay thông tin thuần túy bằng ngôn ngữ lãnh đạm của khoa học. Lữ Phương, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Hiếu Đằng… từng kể lại rằng ý thức trước thực trạng đất nước khiến họ tham gia kháng chiến được xúc tác về tư tưởng không chỉ của chủ nghĩa Marx mà còn của chủ nghĩa hiện sinh.

Vì vậy, cần phải thấy hết tính chất đa dạng và phức tạp trong ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam trước đây. Một là ảnh hưởng chiều sâu trong giới trí thức ở đại học, giới học giả và văn nghệ sĩ có tầm nhìn về văn hóa. Hai là ảnh hưởng chiều rộng có tính chất phổ cập trong giới sáng tác và một bộ phận công chúng thời thượng. Ba là ảnh hưởng có tính chất nghịch chiều nơi một số trí thức khuynh tả, vừa tiếp thu tinh thần dấn thân, phản kháng của chủ nghĩa hiện sinh, vừa phê phán tính chất học đòi, làm dáng của văn nghệ hiện sinh ở một đất nước đang có chiến tranh và bị lệ thuộc.

Như vậy là chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam đã được tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác nhau, những góc nhìn chắc chắn không thoát khỏi sự tác động của bối cảnh xã hội cũng như lập trường chính trị của người viết, nhưng hầu hết đều cho thấy tinh thần độc lập và tự trọng của người trí thức, nói theo những suy nghĩ riêng của mình mà không rập khuôn, một giọng.

Chủ nghĩa hiện sinh là triết học của một thời đại không lặp lại. Việc tiếp nhận, truyền bá, vận dụng nó cũng là “cơ duyên” của lịch sử. Nó đã đến trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền Nam những năm 1954 - 1975, khi con người khao khát tự do và quyền sống, mong muốn suy tư về chính tự do và thân phận làm người. Sau chiến tranh, hoàn cảnh xã hội thay đổi, chủ nghĩa hiện sinh không còn chỗ đứng trong sinh hoạt trí thức.

Từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới năm 1986, sáng tác và khảo luận về chủ nghĩa hiện sinh từng bước được phép tái bản và thu hút một lượng công chúng mới từ giới trẻ, trong đó có văn nghệ sĩ. Tuy nhiên, tiếng vang của nó không còn sâu rộng như ở miền Nam thời chiến tranh.

H.N.P  
(TCSH352&SDB29/06-2018)

-----------------
1. Theo Trần Thái Đỉnh: Hiện tượng học là gì?, Nxb. Hướng Mới, Sài Gòn, 1969, tr. 31-60.
2. Theo Trần Thái Đỉnh: Sđd, tr. 116-135 .  
3. Cung Tích Biền: “Hiện sinh, một thời kỷ niệm”. Trong Về  một dòng văn chương, Nxb. Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 69.
4. Phạm Công Thiện: Ý thức mới trong văn nghệ và triết  học, Nxb. An Tiêm, Sài Gòn, 1966, tr. 46.
5. Phạm Duy, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Nxb. Trẻ, TP  Hồ Chí Minh, 2007, tr. 17  

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 352, SDB 29.6.2018, phiên bản trực tuyến.

20180401 TCS va TNH

"Những bài hát của Trịnh Công Sơn về tình người giống như bài kinh mà chúng ta có thể tụng được”, thiền sư Thích Nhất Hạnh từng chia sẻ.

Thiền sư chưa một lần gặp cố nhạc sĩ ở đời thực nhưng giữa họ có những cuộc diện kiến qua âm nhạc, hòa điệu về tâm hồn, trí tuệ.

Phim tài liệu Walk with me (Bước chân an lạc, đạo diễn Marc J. Francis và Max Pugh) vừa ra mắt khán giả trong nướcTác phẩm có sự xuất hiện của vài gương mặt tăng sĩ Làng Mai từng dự đám tang Trịnh Công Sơn năm 2001. Ngày 1/4 của 17 năm trước, tin nhạc sĩ qua đời khiến khán giả trong, ngoài nước bàng hoàng, thương tiếc. Khi ấy, từ Pháp, Làng Mai đã cử một đoàn hơn 20 tăng sĩ, có cả người nước ngoài, về Việt Nam viếng ông. Họ, nước mắt rơi trên má, cùng bước vào gian nhà của Trịnh Công Sơn ở Phạm Ngọc Thạch (quận 1, TP HCM) đồng thanh hát Cát bụi, Một cõi đi về... như nén tâm hương gửi bậc tài hoa.

Phim Bước chân an lạc công chiếu là nhờ công lao của nhiều thiện hữu trí thức, trong đó phải kể đến sự hỗ trợ nhiệt tình của gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tác phẩm của nhạc sĩ họ Trịnh cũng được ca vang trong các buổi giao lưu ra mắt phim ba miền đất nước, ở TP HCM, Đà Nẵng và Hà Nội, như ngụ ý về sự hòa điệu giữa tâm hồn của hai bậc tiền bối.

Từ lâu, với các tăng thân Làng Mai nói riêng và nhiều người trong giới tu sĩ nói chung, nhạc Trịnh Công Sơn  một trong những nguồn suối tinh thần - nơi họ tìm thấy nhiều suy nghiệm về thân phận con người, sự giao hòa giữa đạo và đời. Nhiều tăng sĩ thuộc hơn 200 ca khúc nhạc Trịnh. Ở các buổi sinh hoạt hàng tháng, những người tu tập cùng nhau hát tác phẩm của ông.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh - trụ trì Làng Mai - là một khán giả mộ điệu nhạc Trịnh Công Sơn. Thiền sư ra nước ngoài từ sớm, vì hoàn cảnh, khoảng cách địa lý, họ không có dịp gặp gỡ nhau ngoài đời nhưng có một thời gian liên lạc qua thư từ, điện thoại. “Tôi bắt đầu thương Trịnh Công Sơn khi nghe Khánh Ly hát...”, Thích Nhất Hạnh có lần chia sẻ. Thiền sư thuộc nằm lòng nhiều tác phẩm Trịnh Công Sơn. Ông đã thực hiện buổi pháp thoại dài với chủ đề nhạc Trịnh.

Trịnh Công Sơn sinh năm 1939 tại Đăk Lăk. Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 ở Huế. Cả hai đều có sợi dây gắn bó máu thịt với đất Huế. Hồn cốt cổ kính, trầm mặc, nhẹ nhàng ở đất thần kinh thấm đượm trong lời thơ, ý nhạc và phong thái của họ. Một người ở lại quê hương, sống trọn vẹn cuộc đời thăng hoa với âm nhạc. Một người tu hành, thiền định nơi xứ người. Hai con đường tưởng như hai hướng rẽ nhưng thật ra đều dẫn chung về một lối. Những công việc, tác phẩm, lời nói họ gửi cho nhân gian đều là thiện ý trao duyên lành, trao yêu thương. Khán giả nhận ra ở họ sự đồng điệu khi nói về tình yêu, về cuộc đời, về thân phận con người, về sự thức tỉnh lương tri trước thời cuộc, về sự phản tỉnh bản thân lẫn tiếng nói trách nhiệm với xã hội, cộng đồng hay là về vạn vật, tự nhiên.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người đưa ra khái niệm "Đạo Bụt dấn thân" (engaged Buddhism). Theo đó, từ bi không phải là lý thuyết, từ bi được thực hiện ngay trong đời sống hàng ngày. Những ai theo đạo Bụt không đứng ngoài đời sống, mà hòa vào đời sống, đón nhận những hỉ, nộ, ái, ố với tâm thức phụng sự xã hội của người tu thiền. Nhạc Trịnh cũng chưa bao giờ đứng ngoài đời sống, dẫu ông có lúc viết về sự hư vô của kiếp người, của nhân loại, đó vẫn là tiếng vọng từ chính tâm hồn của một tha nhân tha thiết với đời - "Tôi là ai, là ai, là ai? Mà yêu quá đời này" (Tôi ơi đừng tuyệt vọng).

Vì lẽ đó, Thích Nhất Hạnh đã có cuộc tương phùng hoan hỉ với nhạc Trịnh. Vài năm trước khi Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dòng nhạc phản đối chiến tranh, kêu gọi hòa bình (khoảng 1965-1966), Thích Nhất Hạnh đã có nhiều bài thơ nêu bật sự phi lý của chiến tranhNghe nhạc Trịnh Công Sơn, thiền sư thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ tâm tư của một người yêu nước, xót xa trước cảnh bom rơi, đạn nổ và lầm than mà chiến tranh mang lại.

Hạt giống của nhân ái, của từ bi hay tình yêu dành cho hình tượng Mẹ... cũng là những điều trở đi trở lại trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn, Thích Nhất Hạnh. Bông hồng cài áo - nhạc phẩm được viết dựa trên bài văn xuôi của thiền sư viết về mẹ - nêu bật hình ảnh đứa con tự hào được cài lên ngực bông hồng đỏ - biểu tượng nhắc nhở sự may mắn khi mẹ còn hiện hữu bên đời. Còn Trịnh Công Sơn có Đường xa vạn dặm với nỗi thổn thức, đau đến thắt lòng của đứa con cần mẹ, nhớ mẹ nhưng mất mẹ.

Trịnh Công Sơn có Biết đâu nguồn cội, Ở trọ, Ngẫu nhiên, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vuiHãy yêu nhau đi... thấm đẫm chất thiền, triết lý về tình yêu, đời người, sự vô thường, một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên như vạn vật có sinh có diệt... Thích Nhất Hạnh có những vần thơ, những trang văn, bài thuyết giảng nói về tuệ giác, kiếp người, niềm vui, nỗi buồn của cuộc sống, về thoát tục, sự an yên vĩnh cửu trong tâm hồn lẫn sự nhập thế.

Ngẫu nhiên (Trịnh Công Sơn)

...Hòn đá lăn trên đồi
hòn đá rớt xuống cành mai
rụng cánh hoa mai vàng
chim chóc hót tiếng qua đời

Người ôm lấy muôn loài
nằm trong tiếng bi ai

Mệt quá thân ta này
tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi
mệt quá thân ta này
nằm xuống với đất muôn đời
Kìa còn biết bao người
dìu dắt tới quanh đây...

Sinh tử không hai (Thích Nhất Hạnh)

đêm nghe mưa gội
linh hồn thức dậy
trời thế gian ngập lụt
biển sóng gầm ảo tượng

trong phút giây chập chờn
đường nét hôm nay
ra vào thấp thoáng
đưa anh về đâu?


không
mầu nhiệm trong giây lát
hạt mưa cười
nghiêng đổ u sầu.

Thầy Trung Hải - một học trò của Thích Nhất Hạnh - kể trong bài giảng về nhạc Trịnh Công Sơn vào mùa xuân năm 2004 tại Mỹ, thầy nói nếu chọn con đường xuất gia (nghĩa là làm một nhà tu Phật giáo), Trịnh Công Sơn đã có thể trở thành một thiền sư.

"Là một học trò của thiền sư Thích Nhất Hạnh, cùng với những người bạn đồng tu, tôi học cách nghe được tiếng nói của bậc đạo sĩ trong ca từ của Trịnh. Đó là tiếng nói chân thật về những đau khổ của con người, của cuộc đời. Đó là lời kêu gọi tha thiết con người thương yêu nhau. Đó là thông điệp về mối tình nghìn năm với quê hương đất nước. Và đó còn là lời mời những người Việt Nam nhìn rõ tự thân mình để có thể tới gần nhau. Cuộc đời và những sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dạy tôi bài học ấy. Thông điệp một đời hành đạo của thiền sư Thích Nhất Hạnh lại dạy thêm cho tôi biết nhìn cả khổ đau và hạnh phúc bằng con mắt trầm tĩnh, biết hiểu thấu và chuyển hóa khổ đau, biết trân quý và nuôi dưỡng hạnh phúc, và cuối cùng, biết thưởng thức từng giây phút của cuộc sống", thầy Trung Hải chia sẻ.

Trước đây, Thích Nhất Hạnh từng viết thư nhờ Trịnh Công Sơn phổ nhạc giùm một số bài kinh nhưng những lá thư này bị thất lạc. Khi thư đến tay nhạc sĩ cũng là lúc ông trở bệnh nặng, không làm gì được nữa. "Những bài hát của Trịnh Công Sơn về tình người giống như bài kinh mà chúng ta có thể tụng được”, Thích Nhất Hạnh chia sẻ.

17 năm ngày Trịnh Công Sơn qua đời, âm nhạc của ông vẫn tiếp tục vang lên trên mọi nẻo đường. Như lời thiền sư, Trịnh Công Sơn không bao giờ mất. Người nhạc sĩ ấy hiện diện ở khắp nơi, trong tâm hồn những người yêu nhạc ông, trong tâm hồn người Việt Nam.

Thoại Hà

Nguồn: VnExpress, ngày 01.4.2018.

 

 

Tại thư viện quốc gia Thụy Điển, những nhà đàm phán mong muốn thúc đẩy truy cập mở để thoát khỏi cảnh trả phí thuê bao cho nhà xuất bản Elsevier. Nguồn: Nature

Những nỗ lực táo bạo thúc đẩy ngành xuất bản học thuật hướng về phía mô hình truy cập mở đang ngày càng gia tăng.

Những nhà đàm phán đại diện cho các thư viện và trường đại học trên khắp châu Âu đang chia sẻ chiến thuật về cách làm thế nào để có được những hợp đồng mới, qua đó đem lại khả năng đọc được nhiều công trình nghiên cứu mà không phải mất “tường phí” (paywall – chi phí người đọc phải chi trả để đọc được nội dung thông tin). Cuộc vận động truy cập mở này bắt nguồn từ Đức: nếu không thích những gì nhà xuất bản đề xuất, họ sẽ không trả tiền cho các tạp chí truy cập đóng. Vào ngày 16/5, một nhóm liên minh ở Thụy Điển cho biết họ sẽ không tái ký hợp đồng với “gã khổng lồ” xuất bản Elsevier nữa.

Loại hợp đồng mới này thực chất là các thỏa thuận “đọc và xuất bản”. Ký những thỏa thuận này, dù các thư viện vẫn sẽ phải trả phí thuê bao để có thể truy cập các bài báo nhưng các nhà nghiên cứu lại có thể xuất bản công trình của họ dưới dạng truy cập mở để bất kỳ ai quan tâm đến công trình cũng có quyền đọc nó miễn phí.

Những người ủng hộ cách làm này cho rằng những thỏa thuận như vậy sẽ thúc đẩy tiến trình của phong trào truy cập mở. Trong nhiều thập kỷ vận động để các công trình nghiên cứu được xuất bản công khai với lý do kết quả nghiên cứu của những công trình nghiên cứu được tài trợ cần đến với mọi người tuy nhiên mô hình kinh doanh đang thống trị thị trường của các nhà xuất bản vẫn chỉ công bố những bài báo đòi hỏi “tường phí” và thu các phí thuê bao từ các thư viện. Tuy nhiên nếu những nhóm liên kết thư viện lớn cố gắng đạt được thỏa thuận “đọc và xuất bản” thì tỷ lệ các bài báo truy cập mở có thể tăng lên.

“Một sự thay đổi trên khắp châu Âu đã tạo ra một nền tảng quan trọng [cho xuất bản học thuật]”, Koen Becking – nhà đàm phán chính của VSNU, một nhóm liên kết gồm 14 viện nghiên cứu ở Hà Lan. Vào năm 2014, VSNU là nhóm quốc gia đầu tiên đàm phán về thỏa thuận phí thuê bao, trong đó quy định về quyền của các tác giả công trình nghiên cứu. Từ đó, đã có nhiều thỏa thuận khác với nhiều cấp độ khác nhau về xuất bản mở được chấp thuận và sau Hà Lan, đến lượt nhiều tập đoàn ở Áo, Anh, Thụy Điển và Phần Lan cũng đạt được điều tương tự. Theo kết quả điều tra của Hiệp hội trường đại học châu Âu (EUA) - tổ chức có trụ sở Brussels, công bố vào tháng 4/2018 thì năm 2017, 11% nhóm liên kết ở châu Âu đã ký kết các thỏa thuận tính phí truy cập mở, tuy nhiên còn tới 63% nhóm liên minh mới dự kiến sẽ thực hiện điều đó trong tương lai.

Vào ngày 2/5/2018 tại Berlin, các nhà đàm phán từ nhiều quốc gia châu Âu đã đồng ý sắp xếp chiến lược thương lượng tại một cuộc họp kín có sự tham gia của điều phối viên đặc biệt về truy cập mở của EU, Robert-Jan Smits. Theo Gerard Meijer, một trong những nhà đám phán Đức thì các nhóm liên minh đã “nản lòng” bởi không có tiến bộ trong đối thoại và cảm thấy những giới hạn trong cộng tác giữa viện nghiên cứu và các nhà xuất bản lớn. “Bây giờ chúng ta phải cùng hành động, mạnh dạn thoát khỏi các đàm phán nếu nó không đi đến đâu cả”, ông nói.

Cuộc họp này là một phần trong chuỗi các sự kiện mà các nhà đàm phán thay đổi chiến thuật. “Ngày càng có nhiều người muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình”, Matthijs van Otegem, giám đốc Thư viện trường Đại học Erasmus ở Rotterdam, và là chủ tịch của nhóm liên kết về truy cập mở tại Hiệp hội các thư viện nghiên cứu châu Âu (LIBER) ở Hague, Hà Lan.

Vào tháng 9/2018, LIBER đã công bố một loạt nguyên tắc hướng dẫn các nhà đàm phán tìm cách thay đổi các thỏa thuận của họ với các nhà xuất bản, bao gồm việc khép lại những thỏa thuận không được phép tiết lộ mà các nhà xuất bản vẫn thường “đương nhiên” nêu trong hợp đồng (nó giúp các nhà đàm phán so sánh các thỏa thuận ở những quốc gia khác nhau), hay việc không đồng ý tăng giá mà không có thỏa thuận về truy cập mở. EUA cũng kịp thời mở một phiên họp quốc tế sau khi nghe được những lo ngại trong quá trình thúc đẩy những thỏa thuận mới, theo lời Lidia Borrell-Damian – giám đốc nghiên cứu của Hiệp hội.

Yếu tố quan trọng đằng sau hoạt động thúc đẩy thỏa thuận với các nhà xuất bản ở châu Âu là mục tiêu của EU: đến năm 2020, tất cả các nghiên cứu sẽ được truy cập miễn phí ngay sau khi chúng được xuất bản. Các nhà đàm phán Hà Lan đã được giao nhiệm vụ môi giới cho một thỏa thuận với giới xuất bản có thể đáp ứng tầm nhìn này. Còn tại Thụy Điển, các nhà đàm phán đã tự đặt mục tiêu cho truy cập mở hoàn toàn các nghiên cứu vào năm 2026, và Thụy Sĩ dự kiến ​​là năm 2024.

Thế giới cũng đang nỗ lực đấu tranh cho truy cập mở ngoài phạm vi châu Âu: tháng trước, các nhà đàm phán Đức đã tới Hàn Quốc để thảo luận với các tập đoàn tại đây và đại diện của hệ thống trường đại học California tới dự phiên họp kín ở Berlin. OA2020 - một liên minh toàn cầu được điều phối từ Đức, đã thu hút sự tham gia đăng ký của hơn 100 tổ chức học thuật trên khắp thế giới cho thấy họ muốn chuyển kinh phí từ phí thuê bao xuất bản sang trả cho truy cập mở. 

Thỏa thuận hay không thỏa thuận

Tình trạng này ở Đức đã chứng tỏ rằng “không thỏa thuận” là một sự lựa chọn, van Otegem cho biết. Kể từ năm 2016, một liên minh trường đại học đã từ chối hợp tác trong một thỏa thuận với nhà xuất bản Elsevier. Bất chấp tình trạng này, nhà xuất bản đã không ngăn các học giả Đức truy cập vào các bài báo của họ - cho thấy các trường đại học không cần phải e ngại sự phẫn nộ của các nhà nghiên cứu nếu các đàm phán thất bại. Kể từ đó, nhóm khác cũng loan báo “không thỏa thuận” với các nhà xuất bản.

Những tranh chấp hợp đồng

Ít nhất bốn nhóm châu Âu, đại diện cho các thư viện và các trường đại học, cho biết họ đã thất bại trong thỏa thuận các hợp đồng với giới xuất bản hàn lâm để tính phí thuê bao. Các thỏa thuận này bao gồm các yếu tố truy cập mở đã được môi giới với một số nhà xuất bản của Hà Lan, Thụy Điển, Áo, Anh và Phần Lan.

Một nguyên nhân khiến các thư viện không còn quá e ngại một cái kết cho hợp đồng của họ với các nhà xuất bản là ngày càng nhiều những bài báo vốn phải đóng phí để đọc nay đã có thể truy cập miễn phí theo nhiều phiên bản như bản in hoặc bản gốc do tác giả cung cấp, Heather Joseph – giám đốc điều hành Liên minh Các nguồn lực nghiên cứu và xuất bản học thuật (SPARC), một nhóm tư vấn ở Washington DC nói. Sci-Hub, một trang web không hợp pháp dẫn đầy đủ bản sao các bài báo và được các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới sử dụng, là một thực tế, Joseph Esposito – một cố vấn xuất bản ở  New York nhận xét. Anh cho biết thêm: “Không có Sci-Hub, các nhà nghiên cứu có thể sẽ kêu trời trong các thư viện vì không thể truy cập được các bài báo. Ảnh hưởng của Sci-Hub lớn đến nỗi ngay cả các cơ quan chính phủ cũng không thể làm gì được nó”.

Chi phí là một điểm gắn bó chính của “cuộc chiến” này. Một phát ngôn viên của Hội Hóa học hoàng gia Anh cho biết, tranh chấp hiện tại của nó với VSNU là một phần của việc đạt tới “một thỏa thuận để quá trình chuyển đổi sang truy cập mở bền vững” (Khi Nature liên hệ, các nhà xuất bản khác đã từ chối bình luận một cách chi tiết về các đàm phán).

Các nhóm liên minh thường không muốn thảo luận về việc liệu khi có hiệu lực, các hợp đồng “đọc và xuất bản” có trở nên tốn kém hơn không nhưng một số nhóm cho biết họ không muốn thỏa thuận bất kỳ hợp đồng đòi hỏi sự gia tăng chi phí nào. Tại Mỹ, nơi truy cập mở ít bị các động lực chính trị thúc đẩy hơn châu Âu, các thư viện đang cố gắng tiết kiệm tiền bằng việc hủy các hợp đồng “giá trị lớn” – toàn diện nhưng đắt đỏ, các hợp đồng cho phép truy cập một số lượng lớn tạp chí khoa học – một kiểu riêng để truy cập các tạp chí mà các cơ quan nghiên cứu của họ vẫn thường sử dụng nhất. Trước đây người ta từng áp dụng theo cách này và hiện tại thì tần suất ngày càng tăng lên.

Theo quan điểm của Steven Inchcoombe – giám đốc nhà xuất bản Springer Nature, một số thỏa thuận kết hợp cả chi phí đọc và xuất bản đã được môi giới ở Bắc Âu với sự ủng hộ truy cập mở mạnh mẽ từ các quỹ, các viện nghiên cứu và các chính phủ, nhưng trừ phi có nhiều tiền trả cho các thỏa thuận như vậy, chúng không thích hợp để trở nên phổ biến trong tương lai.

Nếu tình trạng này tiếp tục, Becking của VSNU cho rằng các nhà đàm phán có thể kết thúc các giao dịch nhưng có thể ngưng thương lượng với các nhà xuất bản riêng biệt. trong trường hợp này, các trường đại học có thể khuyến khích các nhà nghiên cứu phổ biến nghiên cứu của họ trên các nền tảng thay thế.

Anh Vũ dịch từ https://www.nature.com/articles/d41586-018-05191-0

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 12.7.2018.

Ngày 16-3-2018 là tròn 50 năm từ khi diễn ra cuộc thảm sát ở làng Sơn Mỹ, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, cách thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đông bắc.

Ngày đó, năm 1968, từ sáng sớm, đại đội Charlie thuộc tiểu đoàn 1, lữ đoàn 11, sư đoàn bộ binh 20 của quân đội Hoa Kỳ cùng đại đội không kích trực thăng 174 bất ngờ tấn công thôn Tư Cung và xóm Gò, nơi mà trong bản đồ hành quân của họ ghi tên là Mỹ Lai hay “Làng Hồng” (Pinkville). Trung đội 1, do trung uý William Calley chỉ huy, đã triển khai chặn đứng các lối thoát và biến từng nhóm dân làng đang ở trong nhà, đi trên đường hay ngoài đồng ruộng thành mục tiêu của cuộc bắn giết. Như đã được trù tính trước, lính Mỹ sử dụng tất cả vũ khí: lưỡi lê, lựu đạn, súng máy để “thanh toán” không thương tiếc những người dân lành trong tay không một tấc sắt. Trẻ con, người già, phụ nữ… bị đâm, bị bắn, xác bị ném xuống giếng hay xuống mương. Không một ai chống lại, cũng không một ai dám chạy trốn trước đám lính đằng đằng sát khí đang trong cơn say máu.

Con số được kiểm chứng cho thấy có đến 504 dân lành đã bị sát hại chỉ trong buổi sáng địa ngục ấy, trong đó có 60 cụ già, 182 phụ nữ, 173 trẻ em, không kể 17 hài nhi còn nằm trong bụng mẹ, 24 gia đình bị giết sạch và 247 ngôi nhà bị đốt cháy. Những người may mắn sống sót là nhờ bị vùi lấp dưới các xác chết và được một viên phi công giàu lòng nhân đạo cứu giúp. Chuẩn uý Hugh Thompson, mới 25 tuổi, cùng hai đồng đội của mình là Lawrence Colburn và Glenn Andreotta, đã tìm cách ngăn bàn tay tàn bạo của Calley và thuộc cấp rồi chuyển 11 người dân bị thương đến bệnh viện bằng máy bay trực thăng.

Một tội ác man rợ như vậy diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật lại bị các phương tiện truyền thông đại chúng Mỹ ém nhẹm trong một thời gian dài, mặc dù từ tháng 4-1968 Đài phát thanh Giải phóng và hai tờ báo Sud Vietnam en lutte Bulletin du Vietnam, phát hành tại Paris, đã loan tin chi tiết về cuộc thảm sát. Mãi đến khi có thư tố cáo của một người lính Mỹ chính trực tên Ronald Ridenhour và bài tường thuật của nhà báo Seymour Hersh, cộng với tiếng nói của phi công Thompson cùng những bức ảnh của phóng viên chiến trường Ronald Haeberle, dư luận mới gây sức ép buộc quân đội Mỹ mở cuộc điều tra vào mùa hè năm 1969. W. Calley bị truy tố và đưa ra tòa án binh ngày 17-11-1970. Những chứng cứ đều chống lại anh ta, nhưng guồng máy chiến tranh đã tìm cách gỡ tội cho Calley: con số nạn nhân hạ thấp xuống còn 109, rồi cuối cùng chỉ còn 22 người. Calley cùng luật sư âm thầm trở lại Việt Nam để tìm lý lẽ bào chữa. Ngày 29-3-1971 tòa kết án anh ta chung thân khổ sai, nhưng được tổng thống Richard Nixon cho phép chỉ phải chịu quản thúc tại gia, sau lại được giảm án xuống 10 năm tù, rồi đến năm 1974 thì anh ta được ân xá.

Nhiều năm sau này, người ta vẫn không tìm ra một nguyên cớ trực tiếp nào có thể giải thích được cho cuộc thảm sát tập thể ấy. Cũng như người ta đã không tìm thấy nguyên cớ trực tiếp nào cho việc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, ngoài cái “nguyên cớ” được nguỵ tạo là sự kiện tàu Maddox bị tấn công năm 1964, như hồ sơ mật của Lầu Năm Góc đã phơi bày. Calley phần nào có lý khi tự biện hộ rằng chẳng qua anh ta chỉ là người thừa hành mệnh lệnh của những cấp chỉ huy cao hơn. Anh ta nói trước tòa: “Tôi không thể dừng lại cân nhắc xem chúng là nam, là nữ hay là trẻ con. Tôi thực hiện mệnh lệnh được giao và tôi không thấy có gì sai trái”. Đúng, Calley chính là sản phẩm tất yếu của một đường lối hiếu chiến.

Sau chiến tranh, trên quốc lộ 24B chạy ven bờ bắc sông Trà Khúc, ngang qua chân núi Thiên Ấn để xuống bãi biển Mỹ Khê và cảng Sa Kỳ, một khu lưu niệm chứng tích tội ác đã được xây dựng. Ngày càng có nhiều cựu binh Mỹ trở lại Sơn Mỹ để sám hối tội lỗi và chữa vết thương tinh thần của chính mình. Tất nhiên trong số đó không có Calley, kẻ kéo lê những ngày cuối đời trong một cửa hàng bán đồ trang sức ở Colombus, bang Georgia. Hugh Thompson và Lawrence Colburn cũng đã trở lại Sơn Mỹ trong vòng tay của những người mang ơn các anh. Trong khi đó, vẫn còn không ít người Mỹ vô cảm và lãng tránh trách nhiệm của họ đối với những nạn nhân của cuộc chiến tranh hủy diệt.

Sơn Mỹ trở thành một đề tài của sáng tác nghệ thuật có sức nhắc gợi và đánh thức lương tâm nhân loại yêu chuộng hoà bình. Ngay trong lòng đô thị miền Nam, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác và phổ biến ca khúc Đâu phải một người, đâu phải một làng. Sau chiến tranh, nhà thơ Thanh Thảo viết trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ. Đạo diễn Trần Văn Thủy dựng phim Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai. Ở Mỹ, đạo diễn tài danh Oliver Stone chuẩn bị thực hiện phim Pinkville, nhưng thật đáng tiếc, do những trục trặc ngoài ý muốn, vào giờ chót, bộ phim phải ngừng quay. Những tác phẩm nghệ thuật sâu sắc có thể phần nào giúp cho oan hồn những người vô tội được siêu thoát, giúp cho những người còn sống trả được món nợ với quá khứ bi thương. Thời gian liệu có xóa mờ tất cả hay sẽ có thêm tác phẩm nhắc nhớ những cuộc thảm sát ở Diên Niên - Phước Bình (Quảng Ngãi), Thạnh Phong (Bến Tre), Khe Đá Mài (Huế), Tổng Chúp (Cao Bằng), Tân Biên (Tây Ninh), Ba Chúc (An Giang), Thổ Chu (Kiên Giang), Gạc Ma (Trường Sa)… như đã từng có những tác phẩm gây chấn động về những sự kiện tương tự ở làng Lidice (Tiệp Khắc) và thành phố Guernica (Tây Ban Nha) trong thế kỷ XX.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

                                                                     

Ở Ba Tri, Bến Tre có hai khu di tích xếp hạng quốc gia là khu di tích Nguyễn Đình Chiểu và Võ Trường Toản, nơi thờ hai danh nhân tiêu biểu cho đạo học Nam Bộ, nhưng cả hai đều vắng vẻ, sơ sài, thiếu nội dung học thuật.

Đoàn các nhà nghiên cứu đến thăm khu di tích Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh: Đ.L.G.

Tôi từng đến thăm di tích Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản ở Ba Tri nhiều lần, nhưng vừa rồi đi cùng với một nhóm học giả Việt Nam và nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc) thăm các di tích ấy, nghe họ thắc mắc mà không khỏi chạnh lòng.

Nam Bộ từng sinh ra Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, hai niềm tự hào về giáo dục của vùng đất này với cả nước và thế giới. Thế mà di sản của các cụ lại không được phát huy, và buồn thay đến nay đồng bằng sông Cửu Long bị mang tiếng là “vùng trũng” của giáo dục!

Thiếu vắng "phần hồn"

Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu được đầu tư đồ sộ, nhưng bên trong nhà trưng bày, ngoài tượng bán thân cụ Đồ, bàn thờ, hình ảnh, bút tích của các vị lãnh đạo đến thăm, hầu như chẳng có gì khác nữa. 

Không sách vở, tư liệu để nghiên cứu, học tập, không có hoạt động học thuật nào diễn ra thường kỳ ở đây, không có kỷ vật, quà lưu niệm để bán cho du khách. 

Cơ sở to lớn, khang trang nhưng hầu như không tận dụng vào việc gì. Bình thường khu di tích rất ít khách đến tham quan hay tìm tư liệu nghiên cứu, học tập. Có lẽ hằng năm chỉ vào dịp giỗ chạp mới có hoạt động bề nổi nào đấy.

Đền thờ Võ Trường Toản còn đìu hiu hơn nữa. Từ năm 1998 khi được công nhận là di tích văn hóa quốc gia, khu đền thờ, mộ phần này được tu sửa, xây cất một lần rồi thôi, không tu bổ gì thêm đáng kể nữa. 

Trong nhà thờ, bàn thờ sơ sài, chỉ có mỗi tượng Võ Trường Toản ngồi, không khám thờ, không hoành phi câu đối, không có đủ đồ thờ như nó phải có. Không bài vị học trò - những học trò lừng lẫy của cụ tạo nên học phong Nam Bộ: Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, ông Chiêu, ông Trúc, hay cả các học trò tinh thần của cụ: Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông...

Ở ngoài sân, có tấm bia mộ Võ Trường Toản do Phan Thanh Giản viết. Tấm bia ghi lại cuộc đời, sự nghiệp của Võ Trưởng Toản và đánh giá về tư tưởng giáo dục, học thuật của ông - một nhà tư tưởng, một nhà giáo dục lừng lẫy nhất xứ Nam Kỳ lục tỉnh. 

Đây là một trong vài tấm bia quý nhất ở Nam Bộ, thế mà hàng trăm năm nay vẫn dãi dầu mưa nắng, ngay cả khi xây dựng khu tưởng niệm, nó vẫn không có được một cái nhà bia để bảo quản, đến nay đá đã nứt, chữ đã mờ.

 

Bia Võ Trường Toản dãi dầu mưa nắng

Danh tiếng Nguyễn Đình Chiểu vang xa thế giới với bản dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp từ cuối thế kỷ XIX, dịch ra tiếng Nhật vào thập niên 1980 và một số tiếng khác nữa. Nguyễn Đình Chiểu là người đã nêu cao đạo vì nghĩa, vì nước, là tấm gương của đạo học Nam Bộ. Võ Trường Toản là nhà giáo dục lớn, người được coi như ông thầy chung của sĩ dân Nam Bộ, là người khơi nguồn cho học phong Nam Bộ - một học phong trọng đạo nghĩa, trọng thực tiễn, và học vì đời như giới nghiên cứu từng tổng kết.

Để di tích được sống

Thiết nghĩ cần phải làm mới lại, làm sống lại các di tích ngõ hầu chấn hưng giáo dục, tri ân người xưa. 

Theo tôi, Ban quản lý di tích kết hợp với Sở Văn hóa - thể thao và du lịch Bến Tre thành lập một ban vận động ủng hộ tư liệu và trùng tu di tích Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản (nếu có, bản thân tôi sẽ tham gia và ủng hộ tích cực). Ban này hoạt động trong thời gian dài với mục đích:

- Vận động các nhà xuất bản, các nhà nghiên cứu, các trường đại học, viện nghiên cứu ủng hộ các tư liệu có liên quan đến Nguyễn Đình Chiểu và Võ Trường Toản, gồm các tư liệu Hán Nôm, các tư liệu cổ, các công trình nghiên cứu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài viết trên báo chí về hai tác giả trên, cũng như về văn, sử trung, cận đại Nam Bộ. Từ đó thành lập thư viện về Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản ở hai di tích này.

- Quyên góp kinh phí từ các nhà hảo tâm để tu bổ đền thờ, đặt hàng một số nhà Hán Nôm học sáng tác hoành phi, câu đối. Đối với đền thờ Võ Trường Toản cần bổ sung ngay khám thờ, đồ thờ, bàn thờ, bài vị thờ các học trò trực tiếp và học trò tinh thần của ông. Nên khắc nguyên văn bài Hiếu trung hoài cổ phú, tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, đặt trong đền thờ.

- Khuyến khích các hoạt động học thuật, nghiên cứu, tọa đàm, hội thảo, sáng tác văn học nghệ thuật, câu lạc bộ Hán Nôm, câu lạc bộ đọc sách ở các cơ sở đó. Dành một phần diện tích cho học sinh, sinh viên địa phương đến đó để học tập.

- In các bản phục chế Hán Nôm quý, các bản in đẹp các tác phẩm của hai tác giả này, bán sách vở, các kỷ vật đề cao sự học, đề cao sự nghiệp của hai tác giả này cho du khách.

- Làm ngay nhà bia để gìn giữ bia Võ Trường Toản.

Cần học tập cách làm của các khu di tích danh nhân: gần thì khu lưu niệm Sơn Nam ở Tiền Giang, Trần Tuấn Khải ở TP.HCM, xa hơn thì khu lưu niệm Nguyễn Du ở Hà Tĩnh, Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội, ra nước ngoài thì miếu Khổng Tử ở Khúc Phụ, miếu Mạnh Tử ở Trâu huyện (Trung Quốc), nhà lưu niệm nhà thơ haiku Basho ở Nhật Bản... 

Tất cả các nơi đó khách tham quan, học tập, nghiên cứu đến tấp nập, tinh hoa giá trị của tiền nhân được tiếp thu và phát huy ở hậu thế.

Nguồn: https://tuoitre.vn/diu-hiu-di-tich-nguyen-dinh-chieu-va-vo-truong-toan-20180702110208446.htm

Tôi lần theo những bức vách, đi lẫn vào giữa những hàng cột no tròn, cao lớn hàng chục mét, sừng sững giữa đất trời, hằn lên các hình thù sắc sảo và hàm chứa không biết bao nhiêu chỉ dấu của cổ nhân trong khu đền Karnak. Trong khi tôi chưa hết sửng sốt về công trình được xây dựng bởi 30 Pharaoh liên tiếp nhau trong suốt hơn 400 năm (1580-1160 tr.CN) thì một người đàn ông - mũ trắng, khăn choàng trắng, áo đen, vải thô dày, tay dài, phần thân trên ôm vừa vặn, phần dưới xòe rộng dần và dài chấm đất - lừng lững hiện ra. Đôi mắt buồn bã, nước da đen sạm, dáng đứng trầm mặc, ông như một pho điêu khắc trời ban sánh đôi với cây cột, tặng cho tôi và bao nhiêu du khách những bức ảnh hoàn mỹ về đất nước và con người Ai Cập.

Pho điêu khắc trong đền thờ Karnak. Ảnh: DIễm Trang

Choáng ngợp tiếp nối choáng ngợp: pho điêu khắc tiến lại gần tôi xin tiền. Có chút vụn vỡ. Tôi bất giác nhớ truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Khoảnh khắc nhiếp ảnh gia Phùng chìm đắm trong vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật cũng là lúc anh phát hiện một bi kịch gia đình trần trụi.

Không chỉ có mỗi “bức tượng sống” trong đền Karnak, bảy ngày ở Ai Cập cho tôi cơ hội gặp gỡ thêm nhiều “người mẫu” khác tại các đền thờ Sobek, Luxor, Hatshepsut, Horus, đài tưởng niệm Obelisk, đại tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx. Ngay cả người lái xe điện trong thung lũng các vị vua, người lái thuyền sông Nile, người xà ích trên đường phố Luxor, người nài lạc đà Kim Tự Tháp, người thợ đá trong công xưởng Aswan... cũng tranh thủ xin tiền du khách. Công thức chung của họ là: thần thái và trang phục cổ tích + diễn xuất tự nhiên, nhiệt thành + “đoạn cuối thiên đường”.

Vừa làm quen với các chiêu thức xin tiền, tôi vừa bận rộn đối phó với “lực lượng” bán hàng cũng tinh tướng không kém. Dù bán lẻ hay bán sỉ, dù bán rong hay trong cửa tiệm thì truyền thống kinh doanh của Ai Cập luôn là nói thách gấp năm, bảy lần giá trị thực của món hàng; và thích nói giá bằng đô la Mỹ. Nhưng đó chưa phải là điều hay nhất. Tôi đặc biệt ấn tượng với cách tiểu thương Ai Cập, trăm người như một, không nỡ... thối tiền. Siết chặt tờ tiền chẵn khách đưa, họ nài nỉ khách hãy mua thêm món này món khác, miệng lưỡi dẻo quẹo thuyết trình các “combo” vô cùng phong phú. Khách phải kiên quyết, lạnh lùng lắm mới có thể lấy lại tiền thừa. Tôi rút kinh nghiệm là nên chuẩn bị sẵn số tiền vừa đủ trả. Bạn từng chứng kiến cuộc mua bán nào mà khách chạy như bay trên đường với vật phẩm chưa kịp gói trên tay, sau lưng là một đội quân “seller” rầm rập đuổi theo chưa? Cảnh tượng thường ngày ở Ai Cập đó. Là vì người mua đã để lộ cho người bán biết rằng mình vẫn còn khả năng mua nữa hoặc đang tìm kiếm một món gì.

Một xứ sở khát tiền. Tôi đã đúc kết như vậy khi hào hễn thoát khỏi vòng vây và an tọa trên xe. Nhưng tôi không sợ những người bán hàng ở đây, mà trái lại, thú vị lẫn cảm thương. Một tuần lễ hít thở khí quyển nền văn minh lâu đời bậc nhất thế giới là những cảm xúc trập trùng như đồi núi. Có ba thứ mà tôi cho rằng chẳng ai quên được khi đặt chân đến nơi này: bụi, đền đài và sông Nile.

Bụi nồng nhiệt thết đãi tôi từ khi bước ra khỏi cửa sân bay Cairo. Bụi sơn phết đất nước này thay cho vôi vữa. Người dân xây nhà xong cứ để gạch thô với ý nghĩ: dẫu có phủ lên màu gì đi nữa thì chúng cũng chóng vánh chuyển sang sắc vàng xỉn đặc trưng của bụi. Cũng vì vậy, xe cộ họa hoằn lắm mới cần phải rửa. Càng đến gần Kim Tự Tháp thì bụi càng dữ dội. Giữa mịt mùng thiên sa, Giza khổng lồ hiện ra, thách thức và mời gọi du khách chạm tay hay trèo lên nó. Không có bụi, cảm thức về Ai Cập sẽ chẳng còn ý nghĩa. Rẽ bụi mà đi, tôi lạc vào cửa hàng tranh papyrus mà các bức đắt giá có thể phát sáng trong bóng tối; ngơ ngẩn giữa trăm ngàn tượng Horus, Bastet, Tutankhamun, Amenhotep, Ramesses, Nefertiti, Ankhesenamun, Cleopatra, cá sấu trong bóng lá, nhân sư khuyết mũi... Biểu tượng Ankh như một chiếc chìa khóa thắt nơ mà bụi vương trên chúng bảo chứng cho yếu tố “made in Egypt”. Tất cả đều tinh xảo và đậm đà sắc màu Ai Cập.

Nhưng cũng có nhiều địa điểm ở vùng Đông Bắc Phi châu này lơ đễnh với bụi. Thư viện Alexandria lộng lẫy tựa một bảo tàng, hiện đại và độc đáo với cấu trúc như một chiếc bánh bông lan tròn vát xéo bề mặt, nằm hài hòa cạnh Địa Trung Hải và những con đường sầm uất. Các khách sạn 5 sao Marriott, InterContinental, Sheraton, Sofitel, Grand... được xây dựng dọc sông Nile với nhiều góc view được tính toán kỹ lưỡng. Tiếng dương cầm thánh thót vọng ra từ những ô cửa sang trọng, hào nhoáng cùng những đợt trình diễn pháo hoa lòa sáng mặt sông khiến người ta, trong phút chốc, thôi bị bụi - và cả cái đói nghèo, súng ống, máy soi an ninh - ám ảnh.

Chẳng biết tự khi nào, bản thiết kế tuyệt diệu của đất trời đã ướm sông Nile lên tấm thân Ai Cập. Đồng cát thành vườn hoa. “Sông Nile trên trời/Mưa cho xứ khác/Còn sông Nile dưới đất/Riêng dành Ai Cập thôi” - Tụng ca mặt trời của Akhenaten đã diễn giải đặc điểm hiếm mưa của Ai Cập và hàm ơn sông Nile mềm mại như vậy. Ngồi du thuyền dọc sông Nile, tôi thấy sắc sông thay đổi suốt ngày. Tôi yêu nhất những lần sông xanh nước biển, pha hòa cồn cát vàng ươm và lau trắng lau hồng. Dòng Nile trong ánh tà huy hay tách bạch thành hai màu - trắng bạc và xanh lá - như một hình chữ nhật được ngăn đôi bằng một đường chéo. Có một ngày, tôi bước từ thuyền lớn sang thuyền nhỏ có con mắt mi dài. Người lái thuyền sông Nile như bước ra từ một thước phim điện ảnh, vừa róng riết kéo buồm, nhổ neo vừa đánh trống ca hát khiến ai nấy đều mê say. Cho đến lúc thuyền... tông vào một rặng đá ngầm mới phát hiện ra chẳng có chiếc áo phao nào. Nghĩ bụng lẽ nào chết đẹp như này nhưng một phép màu nào đó lại đưa tôi trở về thuyền lớn an toàn.

Như bao du khách khác, tôi ngưỡng phục đền đài của xứ sở này. Trùng điệp đền thờ, lăng mộ, vách tường, trần nhà và tượng khổng lồ - kể cả những pho mất mũi, chi, đầu - toát lên khí chất thiêng liêng khiến lữ khách ngẩn ngơ mà không dám nhặt một hòn sỏi hay một nắm cát đem về lưu niệm. Khi móng ngựa nện đều đều xuống đường trộn lẫn với âm thanh lục lạc, khi lời kinh cầu Koran buồn tênh trong ánh chiều rơi rụng, thành quách Luxor bỗng hiện ra, đèn đuốc sáng choang khiến những hàng cột trông như các phím dương cầm khổng lồ, điệu nghệ và vững chãi nối nhau không dứt. Tôi xuống tận khu vực cuối đền, phát hiện một bầy bồ câu mũm mĩm cuộn mình trên những ngọn cột. Ngoan ngoãn, bình yên, mặc tình khách du huyên náo, xôn xao. Phải chăng đó là cách mà con người Ai Cập đối đãi với thế sự, với thời gian?

Đất sao người vậy. Ai nhân, nữ cũng như nam, vừa đẹp đẽ, thông minh vừa chậm chạp, cũ kỹ. Tức tưởi nao lòng khi biết một dân tộc tài hoa như vậy từng suýt không còn cả “tiếng ta”. Tôi ít được nhìn tận mặt phụ nữ do đặc thù của đạo Hồi nhưng cũng kịp tin vào nhan sắc của xứ sở Cleopatra. Còn nam giới, sóng mũi cao thanh tú, mắt mày đong đưa, vóc dáng tuấn nhã, giọng nói tông cao, ưa hát ưa cười, lãng mạn pha chút bí ẩn. Quên sao được anh hướng dẫn viên hài hước, chu đáo, giỏi đoán ý người, sáng nào miệng cũng hô vang “Anh yêu em” (tiếng Việt) với tất cả phụ nữ trong đoàn, tay thoăn thoắt cột khăn trùm đầu chống cát cho mấy chục nam phụ lão ấu. Quên sao được chàng mật vụ cao lớn có đôi mắt tựa sao trời lặng lẽ theo xe chặng Cairo để bảo vệ du khách. Quên sao được hai cô bé chừng năm, sáu tuổi bán vài món lụn vụn ở chợ Khan Khalili. Gương mặt ngây thơ, đôi chân líu ríu chim non, các em cứ quấn quýt chạy theo tôi, miệng cười và tay vẫy suốt đến khi cửa xe buýt đóng lại. Phần rung động, phần ân hận vì có lúc trót nghi ngờ hai thiên thần nhỏ, tôi bật khóc. Hiểu rằng Ai nhân hay bịn rịn, quyến luyến khách phương xa.

Không chỉ khóc một lần, suốt hành trình, tôi đã vài lần trốn vào restroom, vốc nước lên mặt để nước mắt mình hòa vào đấy. Đất nước này như một suối mật ngọt ngào từng phút từng giờ rót vào tâm tư tôi bao nhiêu êm dịu. Riêng vị đắng trần ai của nó làm tôi chua xót nghĩ đến những ngôi nhà trống trước hụt sau, những đứa trẻ cù bất cù bơ và cơ man người bán rong, xin ăn trên dải đất quê mình, quặn thắt một câu hỏi “Bao giờ thôi hết mong chờ?”. Bất an lẫn bình an, tuyệt vọng lẫn hy vọng, Ai Cập tặng tôi cảm giác muốn nguyện cầu cho xứ sở của họ. Và cho cả nước non tôi.

Tôi từng thắc mắc vì sao Chế Lan Viên, mới 17 tuổi đầu, đã vương buồn đến mức viết cả tập Điêu tàn: “Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ/Đã trôi trong một phút vội vàng qua/Ta lắng nghe những thế giới bao la/Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát” (Ngủ trong sao). Hóa ra, nhà thơ triết luận đã nói hộ biết bao dân tộc mắc kẹt vĩnh viễn trong nền văn minh thượng thặng do chính mình tạo ra. Để rồi, khuấy động cõi lòng hậu thế bằng những thứ điêu linh, tan tác mà vẫn huy hoàng, lấp lánh. 

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/269439/Huy-hoang-sanh-voi-dieu-linh.html

Được gặp gỡ và làm việc với GS Phan Huy Lê là sự may mắn của nhiều học trò, đồng nghiệp. Ông ra đi để lại khoảng trống không thể lấp đầy với người yêu lịch sử.

GS Phan Huy Lê - một trong "tứ trụ" sử học Việt Nam - vừa qua đời chiều 23/6.

Nhiều nhà khoa học và những người yêu lịch sử đã bày tỏ sự nuối tiếc, đau xót trước sự ra đi của một người thầy, một nhân cách lớn của nền sử học nước nhà.

Bộ Quốc sử còn dang dở

Trong những năm tháng cuối đời, dù sức khỏe thất thường, chuyển biến xấu, GS Phan Huy Lê vẫn cố gắng làm việc với tập thể nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam để hoàn thành bộ Quốc sử 25 tập do ông làm tổng chủ biên.

Đây không chỉ là nhiệm vụ được giao phó, mà còn là tâm nguyện cuối cùng của ông. GS Phan Huy Lê đã ra đi khi tâm nguyện hoàn thành bộ Quốc sử vẫn còn dang dở.

 
Giáo sư Phan Huy Lê (giữa) trong một lần công tác ở TP.HCM vào tháng 4 vừa qua. Ảnh: Trần Trung Hiếu.

Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, chia sẻ: “Tôi đang đi công tác xa, cũng vừa nhận được tin thầy mất. Quả thực rất buồn, thầy ra đi là sự mất mát rất lớn đối với những học trò như chúng tôi và cả với nền sử học nước nhà”.

Ông Dương Trung Quốc cho hay dù không được GS Phan Huy Lê đào tạo từ đầu như nhiều người khác, ông được thầy chỉ dạy rất nhiều về nghề, cách sống, lối sống trong thời gian công tác ở Hội Sử học.

Lễ viếng và truy điệu GS Phan Huy Lê sẽ được tổ chức hồi 7h30 đến 10h ngày 27/6 (tức ngày 14 tháng 5 năm Mậu Tuất) tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.

Lễ an táng tổ chức tại công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng, Hà Nội lúc 13h cùng ngày.

“Thầy đã đóng góp rất nhiều cho nền sử học nước nhà, không chỉ bằng kiến thức chuyên môn hay những tác phẩm để lại. Thầy còn có công đào tạo nhiều người nghiên cứu sử học, trong đó có tôi. Với tôi, GS Phan Huy Lê không chỉ là người thầy lớn, mà còn là nhân cách mẫu mực về tấm lòng yêu nước, nặng nợ với dân tộc”, ông Dương Trung Quốc nói.

Thạc sĩ Trần Trung Hiếu, giáo viên dạy Sử ở Nghệ An - một trong những người có nhiều thời gian gặp gỡ và gần gũi với GS Phan Huy Lê - tâm sự trong công việc khoa học, viết lách và các hội thảo khoa học, thầy Lê luôn tạo nên sự hấp dẫn đến lạ kỳ về phong thái lịch thiệp, cẩn trọng, chỉn chu, rõ ràng, nhẹ nhàng, sâu sắc.

Ngoài đời, thầy có lối sống bình dị, mộc mạc, khiêm nhường, luôn tôn trọng quan điểm, ý kiến góp ý, phản biện khi trò chuyện với đồng nghiệp và các thế hệ học trò.

Lần cuối cùng ông Hiếu được gặp GS Phan Huy Lê là tại hội thảo khoa học quốc gia về 40 năm cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tháng 4 vừa qua.

“Cùng ngồi với thầy trên ôtô, sau đó là cano đi tham quan rừng Sác - Cần Giờ, tôi không ngờ đó là lần cuối cùng may mắn được gặp thầy”, ông Hiếu nói.

Luôn đau đáu về Trường Sa, Hoàng Sa

Theo lời GS Phạm Hồng Tung, khi đảm nhiệm vai trò tổng chủ biên bộ Quốc sử có 25 tập chính sử và 5 tập biên niên, GS Phan Huy Lê luôn canh cánh việc làm sao đưa được Hoàng Sa, Trường Sa vào sách.

Trước khi mất, ông nhất quyết ra thăm Trường Sa. Biết sức khỏe ông yếu, gia đình và các học trò đều khuyên ngăn nhưng không vượt qua được quyết tâm của ông. Cách đây một tháng, GS Phan Huy Lê đặt chân đến Trường Sa đúng như ước nguyện.

Trở về sau chuyến đi, ông rất vui mừng, sung sướng với tình cảm của các chiến sĩ ngoài đảo. Những ngày đầu từ Trường Sa về, ông không có dấu hiệu mệt mỏi. Vài ngày sau, sức khỏe của giáo sư yếu đi, gia đình đưa đi khám thì phát hiện tim của ông có vấn đề. Ông được điều trị tại bệnh viện cho đến khi mất.

"Rất xúc động khi biết rằng trước khi mất thầy vẫn lo cho công việc chung. Trước khi rơi vào mê man kéo dài 17 ngày rồi ra đi vĩnh viễn, thầy nói chuyện với con gái và bảo 'bố không tắt được máy tính'. Trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, thầy vẫn nghĩ mình đang làm việc", ông Tung kể.

GS Tung cho biết dù rất uyên thâm về lịch sử Việt Nam cổ - trung đại, GS Phan Huy Lê là người hiện đại. Ông dùng máy tính tốt và thích dùng smartphone, luôn yêu cầu học trò cập nhật thông tin trên thế giới. Ông cổ vũ lớp trẻ nói, viết về lịch sử theo cách riêng của họ.

GS Lê có sự dung hòa giữa sự dung dị, gần gũi nhưng vẫn giữ nét tinh hoa, quý tộc. Ông rất thích món bánh khúc dân dã của miền Bắc, thuộc lòng những món ăn quê nhà của 3 miền. Ông cũng tinh thông văn hóa quý tộc của ta và cả các nước trên thế giới.

"Đi Pháp, thầy chỉ chúng tôi uống rượu vang ở đâu và uống như thế nào. Thầy nhắc chúng tôi đi nước ngoài nói vừa phải, đủ nghe thôi, đừng lớn tiếng", GS Tung nói.

Người thầy lớn của nhiều nhà nghiên cứu sử học

Không chỉ là người thầy của những nhà nghiên cứu sử học Việt Nam, học trò của GS Phan Huy Lê còn đến từ nhiều nơi trên thế giới. 

Giáo sư Phạm Hồng Tung - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển (ĐH Quốc gia Hà Nội) - cho biết một số học trò quốc tế của thầy Lê đã đưa tin thầy mất từ Nhật, sang Pháp đến Mỹ. Dù xa xôi, họ sẽ đến Việt Nam để tiễn thầy đoạn đường cuối cùng.

 
GS Phan Huy Lê trong một lần trả lời phóng vấn báo chí. Ảnh: Quyên Quyên.

Trên trang cá nhân, GS Philippe Papin - trường Cao học Thực hành thuộc ĐH Sorbonne (Pháp) - một học trò của thầy Phan Huy Lê viết: "Với tôi, đây là tổn thất vô cùng to lớn, bởi các bạn đều biết tôi từng gắn bó với thầy biết nhường nào. GS Phan Huy Lê không những là người thầy mẫu mực, tấm gương để noi theo, mà còn là người bạn tôi yêu mến, trân trọng".

Nói về giáo sư Phan Huy Lê, GS Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước cho rằng ông là một trong những nhà nghiên cứu lịch sử xuất sắc của Việt Nam, có uy tín cao trên trường quốc tế.

Ông là một trong "tứ trụ" Lâm, Lê, Tấn, Vượng của sử học Việt Nam.

Có một điều thú vị, dù học và nghiên cứu sử học, GS Phan Huy Lê rất thích toán học, vật lý và con rể của ông cũng chính là GS.TSKH Phạm Thế Long, nguyên Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam trong nhiều năm.

GS, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê (23/2/1934) là một trong những chuyên gia về lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Khóa II (1990-1995), khóa III (1995-2000), khóa IV (2000-2005, khóa V (2005-2010) và khóa VI (2010-2015), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học năm 2016. 

Ông sinh ra tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; là hậu duệ cùng họ với thượng thư, nhà ngoại giao Phan Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh.

Cụ thân sinh là tiến sĩ Nho học Phan Huy Tùng, từng làm quan trong triều đình Huế.

Mẹ ông là người dòng họ Cao Xuân giàu truyền thống khoa bảng với các danh nhân như Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy.

Nguồn: https://news.zing.vn/vinh-biet-cay-dai-thu-nganh-su-hoc-phan-huy-le-post854097.html

20180309 Le Thiet Cuong

Chân dung họa sĩ Lê Thiết Cương.

Mĩ học vuông-tròn là căn bản của triết lý âm dương thuộc minh triết phương Đông, thấm sâu tận đáy nghệ thuật Việt và dĩ nhiên – hội họa Việt.

 Có lẽ tài năng tự thân của người thầy hướng đạo, kiểu thi sĩ Đặng Đình Hưng, đã phát hiện tài năng hội họa bẩm sinh của Lê Thiết Cương và ý thức việc dắt dẫn Cương vào chính cái quỹ đạo mĩ học âm - dương đầy mê hoặc này, để từ đó hình thành độc đạo duy nhất mà Cương đang đi, như mê lộ, đó là vẽ tối giản. Với chỉ độc trọi bố cục riết róng hai khuôn hình chật chội: vuông-tròn. Té ra, trọn vẹn cả mỹ học hội họa của Cương, lại nằm ở hai khuôn hinh căn cơ ấy của triết lý sống phương Đông, với bản nguyên minh triết đến giản dị: Trăm năm tính cuộc vuông tròn-Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông. , mẹ tròn con vuông, Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài…, ấy là những triết luận về cái sống của cả dân gian lẫn bác học, tồn tại hằng thường và xanh li ti bất tận trong đời sống Việt, lúc nào, khi nào cũng như sông, thao thiết một lòng chảy ra biển...

 Vậy nên, Cương có một lối vẽ bố cục rất chặt chịa của tư tưởng mỹ học lấy tối giản về hình họa làm nguyên tắc tối thượng.

Từ nguyên lý mỹ học riêng tư này, Cương thấy mình chính là mình trong cả sự thách đố lẫn sự bùng nổ của vận động hội họa tự thân. Còn gì có thể thách thức hơn khi người họa sĩ tự neo mình chỉ vào hai khuôn hình cơ bản vuông tròn, mà cùng lúc lại khát khao nới rộng mình,bay đến chân trời xa xanh ngát, khởi từ chính hai hình họa cơ bản ấy? Cương đã suốt đời tìm kiếm câu trả lời đầy vô thường ấy, để rồi  “tự nhiên nhi nhiên” từ từ mở cánh (theo cách mà Trịnh Công Sơn diễn đạt, đẹp đến vô ngôn trong nhạc Trịnh, nhuốm đậm sự bung nở triết lý nhà Phật trong hình ảnh mãn khai của Đóa hoa Vô thường). Cương biết, có lúc bằng ý thức, song có lúc thành vô thức hồn nhiên (chẳng phải con đường vận hành của ý thức-vô thức cũng mang/cũng chính là chuyển động âm dương đó sao?Thì nó ở ngay trong giản dị của vỡ lẽ dân gian đấy thôi, với từng cặp đôi hệ quả, hệ lụy: trèo cao ngã đau,gieo gió gặt bão, ở hiền gặp lành, lạt mềm buộc chặt, cứng quá dễ gãy, nước chảy chỗ trũng, khóc lên tiếng cười, cười ra nước mắt vv và vv…) rằng, đã tựa được lưng vào biến ảo khôn cùng của triết lý vuông tròn phương Đông, thì bố cục tranh, một mặt sẽ rất chật chội, chặt chẽ, không lơi lỏng, buông bỏ trễ tràng, song, ý nghĩa, dư ba, dư ảnh của nó, cùng lúc, lại bùng phát những bát ngát mênh mông không giới hạn, chẳng bến bờ của… đóa hoa vô thường.

Trong triển lãm mới nhất gần đây, cuối năm 2013, lần đầu kết hợp tranh xé giấy của nữ họa sĩ Hoàng Phương Liên, gọi vui là Liên “xé giấy”, với tranh gốm mosaic của mình, Cương đã đưa bố cục tối giản vào chất liệu gốm, với phát hiện về sự lên màu lạ lùng đẹp của gốm mosaic trong mĩ học tối giản.

Tôi đâu nghĩ màu của gốm lại đẹp rực đến chói chang và thăm thẳm đến thế, trong biến ảo kì diệu của vuông tròn căn cơ, tạo thành tính dị biệt chẳng giống ai của hội họa tối giản Lê Thiết Cương. Khi hình họa Cương lại có thể đổi chỗ cả quan hệ vuông tròn về bản chất: dáng hình thiếu nữ thiếu phụ của Cương đều được nén chặt trong hình tròn, cong veo óng nuột như thể giọt nước, giọt sương, như thể hạt gạo trắng trong quê mùa mà hàng ngày ta vẫn bưng bát cơm thơm lên ăn, nhìn hạt mưa rơi tròn vo rớt xuống từ vòm cây xao động lá sau mưa qua cửa sổ nhà ta…(tròn vốn là mã số của yếu tố Dương đấy. Trong quy luật âm dương, tròn chính là chuyển động, vẫy vùng không đứng yên, mang vẻ đẹp dương tính, ấy thế mà Cương tai ngược độc đoán, đã chỉ dùng tròn để vẽ phái đẹp là phái yếu, âm tính, vốn mang biểu thị là hình vuông). Bởi vuông là mã của bản nguyên âm tính, ít chuyển động, tĩnh tại, về bản chất là đứng yên. Và Cương lại vẫn tiếp tục tai ngược, dùng vuông để vẽ đàn ông, trong bố cục vuông vắn, trầm tư và sâu thẳm, hình khối chằn chặn vững chãi.

Với ý nghĩ nhuốm đầy trực giác ấy, tôi bao giờ cũng thích một mình chiêm nghiệm và nhất định chỉ thích va đập với tranh Cương bằng…trực giác, như đã từng, đang và sẽ từng thích va đập với tranh đẹp của bất cứ họa sĩ nào, cũng  chỉ theo cách ấy, mặc lòng. Bức vẽ của Cương như toàn hình vuông góc cạnh, màu gốm đầm trầm nâu, hình đàn ông ghi xám nhạt, đáy tranh màu xanh lợt, đẹp đến thảng thốt, được Cương đặt tên tranh chỉ một chữ: Nghĩ, với câu thơ gắt buồn, ăn mặn vào tâm trạng tranh Cương của thi sĩ Du Tử Lê, do chính Cương chọn làm đề từ: cúi xuống một dòng sông/nhớ gì không bé dại/nghe tự hồn lược gương/tuổi thơ quành bước lại/ hờn em đầy hai vai/nghìn năm không gột rửa.

Đây đâu phải cuộc gặp vô tình giữa thơ và tranh, mà là một hạnh ngộ đớn đau của số phận. Và cùng dòng nghĩ, là tranh Độc thoại, với bố cục xoe tròn, cuốn chặt tư thế cô gái ngồi bó gối tròn trịa trước nụ sen còn ngậm (sen của Cương thường có tỷ lệ nhỏ xíu trong bố cục với hình người và không hiểu  sao, không bao giờ nở). Thật là một tư thế uốn tròn trong khuôn hình được Cương tạo dáng đẹp khủng khiếp, vừa kinh điển vừa gợi mở đến muôn trùng hiện đại. Đặc biệt là sự rạn vỡ màu xanh dương nhạt của các nét xô đẩy bên trong hình tròn cô gái, ngồi cúi đầu ngắm/đối thoại với đóa sen, nổi bật trên sắc đỏ tía của màu nền rực rỡ ánh đỏ. Bức tranh ấy đã bay lên vút cao vẻ đẹp chất liệu gốm mosaic-sơn mài, với rưng rưng câu thơ tình tinh tế của Du Tử Lê: đi, như nắng nỏ tay người tháng chạp,/trên môi tôi còn mặn,cỏ ai, rừng/chim ngậm ngải, tìm hương trầm tháng sáu/gối chăn kia thương mãi chỗ ai nằm.

Hóa ra nỗi tranh đong đầy buồn thương váng vất của nỗi thơ, không biết sao mà tranh Cương được duỗi mình êm đềm đến thế dưới bóng chữ xao động của thơ tình Du Tử Lê? Có thể những vỡ vạc li ti về trực giác ấy trước tranh Cương sẽ theo níu hồn ta, trong cả một chiều mùa đông trở tối ngày Tết Nguyên đán Mậu Ngọ 2014 năm nay, khi ta nhấp môi chút rượu màu hổ phách, nghe lòng ngâm ngấm cái chén xuân tàng tàng trong lòng con phố cổ Hà Nội của galery 39A Lý Quốc Sư, ngôi nhà cổ của Cương, nơi cố thủ pháo-đài-buồn của Cương, thỉnh thoảng rơi vào trưa vắng vài tiếng chuông Nhà thờ Lớn Hà Nội thong thả ngay gần đấy - nơi chốn duy nhất mà ta có thể đến nâng ly, chuyện trò nở như cơm gạo vàng giữa bạn hiền và có thể không chuyện trò gì, cũng chẳng sao…

Cương tuổi Nhâm Dần 1962, tính cách hội họa gắt gao quyết liệt như thế, cũng không tránh khỏi “ngã ngựa” ở đời riêng. Có điều, Cương chọn “ngã vào mình”, ngã vào trái tim mình thì thật đau, nhưng đó là lựa chọn của Cương. Tôi đã viết về cái sự ngã ấy trong bài thơ Hoa phố cổ bất  ngờ lượm được trên cánh máy bay Hà Nội - Sài Gòn hôm 29.12.2013: Chàng họa sĩ bảo mình thoát hiểm/đàn bà đã biến khỏi đời tôi/Tự do tôi, độc lập tôi/Như trúc đứng đầu đình, một mình một cõi/ Sớm nay, tự tay chàng cắm bình hoa chật cứng/mười chín bông hồng bạch/ngần ngận nụ trinh nguyên/Dìm thật sâu lòng bình/ trong suốt pha lê / Chàng cầm tù, nhốt chặt/ Không cho nụ hồng nào ngoi khỏi miệng bình/nước ngập tận cổ hoa/ Chao ôi/Giai phố cổ/ ngã vào lòng phố cổ/thành phố ở trong sông…

                                                      Sáng 5 Tết Mậu Ngọ 2014, Hà Nội

PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái

Phó Trưởng Ban Lý luận, Phê bình Hội NSSK Việt Nam

Năm 2016, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt bạn đọc quyển sách nhan đề Giở lại một nghi án lịch sử “Giả Vương nhập cận” – Có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả hay không? của học giả Nguyễn Duy Chính. Tác giả là người rất đam mê khám phá lịch sử Việt Nam thời cổ. Với vốn ngoại ngữ (Anh, Pháp) thành thạo và khả năng Hán học vững vàng, Nguyễn Duy Chính đã dành nhiều tâm sức tìm hiểu, làm rõ một số khía cạnh của lịch sử Việt Nam thời trung đại, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII liên quan đến vương triều Tây Sơn. Quá trình tìm hiểu, khám phá sử Việt của ông được cụ thể hóa thành nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Xưa&Nay, được xuất bản thành nhiều đầu sách khác nhau. Đó là điều đáng trân trọng về một người đầy tâm huyết với khoa học lịch sử, có ý thức tìm về cội nguồn, dụng tâm soi sáng các vấn đề lịch sử bằng những nguồn tài liệu mới và hiếm quý.

Trở lại quyển sách nói trên. Thông qua nhan đề, tác giả đã nêu rõ dụng ý muốn nhìn nhận lại một vấn đề lớn trong lịch sử vương triều Tây Sơn dưới thời Quang Trung, một vấn đề có ý nghĩa đối với nền hòa bình và sự phát triển đất nước sau cuộc vệ quốc chống Thanh thắng lợi, một vấn đề đã được nhất loạt khẳng định từ lâu và tưởng như không cần băn khoăn hay bàn luận gì thêm. Đó là có đúng người sang Trung Hoa năm 1790 là Quang Trung giả hay chính là Quang Trung thật? Cách đặt vấn đề rồi tìm cách giải đáp trong toàn bộ công trình đã thể hiện quyết tâm lớn của tác giả, không ngần ngại đương diện với quan điểm chính thống trước nay cho rằng vua Quang Trung sang nhà Thanh chỉ là giả vương.

Như vậy, vấn đề học giả Nguyễn Duy Chính đưa ra là một vấn đề khoa học lớn, có khả năng ảnh hưởng đến nhận thức xã hội và các kết luận khoa học hiện tồn về vương triều Tây Sơn – Quang Trung, nếu không giải quyết triệt để sẽ gây hoang mang, nghi ngờ, thậm chí làm đảo loạn cách tiếp cận, sự nhìn nhận của người đương thời về quá khứ đất nước, đi xa hơn dẫn đến sự nghi ngờ không cần thiết đối với tính khách quan, chân xác của các công trình sử học chuyên sâu về thời Tây Sơn thuộc nền khoa học lịch sử Việt Nam hiện đại. Xuất phát từ nhận thức này, trên tinh thần góp ý xây dựng, chúng tôi muốn trao đổi một vài ý kiến phản biện với học giả Nguyễn Duy Chính sau khi đọc công trình của ông.

Đền thờ nhà Tây Sơn Tam Kiệt ở Tây Sơn, Bình Định

Trong toàn sách, tác giả đã đưa ra nhiều chứng cứ và lí lẽ để đặt lại/nghi ngờ vấn đề Quang Trung giả. Có thể tóm lược như sau:

– Hệ thống hành chính và giám sát, truyền tin của nhà Thanh rất chặt chẽ, Phúc Khang An không thể tự chuyên và qua mặt triều đình về việc xếp đặt với Tây Sơn để đưa một người đóng giả Quang Trung sang triều kiến.

– Nhóm người Lê Chiêu Thống đang ở Trung Hoa, nhiều người biết mặt Nguyễn Huệ, nếu giả sẽ lộ ngay.

– Người đóng giả Quang Trung, theo một số sử sách là Phạm Công Trị hoặc Ngô Văn Sở, đều có mặt trong phái đoàn sang Thanh và phía nhà Thanh biết hai người này.

– Dư luận Việt Nam đương thời nhầm lẫn phái bộ Nguyễn Quang Hiển với phái đoàn Quang Trung. Từ chỗ lan truyền tin Nguyễn Quang Hiển không phải là cháu Quang Trung dẫn đến chỗ hiểu lầm Quang Trung sang Thanh là giả.

– Trong thời gian Quang Trung sang Trung Hoa, Thái tử Quang Toản thay cha quản lý triều chính. Hai trong số văn kiện thời Tây Sơn năm 1790 thể hiện điều này, không văn kiện nào chứng tỏ Quang Trung ở trong nước. Bên cạnh đó, còn có những dấu chỉ khác là thư từ giao thiệp giữa Quang Trung với Nguyễn Thiếp dường như bị gián đoạn trong năm 1790; thái độ hân hoan của các sứ thần Đại Việt khi sang Thanh năm này.

– Trong các tác phẩm của những người trong phái đoàn năm 1790 ấy, không có dòng, đoạn nào nhắc đến việc người sang Trung Hoa là Quang Trung giả.

– Tác giả còn dẫn một đoạn trong Khâm định An Nam kỷ lược nói đến chuyện Quang Trung về nước và phải đối diện với tin đồn không hay liên quan đến việc ông sang Trung Hoa.

– Nhà Nguyễn sau này viết về Tây Sơn đã bêu xấu Quang Trung phải “ôm gối” vua Thanh và hợp thức hóa tin đồn giả vương để làm giảm hào quang của triều Tây Sơn.

– Ghi chép của các bộ sử Trung Quốc là Việt Nam tập lược (nửa sau thế kỷ XIX), Thanh sử cảo và Thanh sử (đầu thế kỷ XX) tuy khăng định người sang Trung Hoa là Quang Trung giả nhưng không nói rõ dựa vào tư liệu nào, có thể do nghe được từ phía Việt Nam.

Từ những điều kể trên, Nguyễn Duy Chính đi đến kết luận: Người sang nhà Thanh chính là Quang Trung. Kết luận này làm nền dẫn đến các nhận định tiếp theo (trực tiếp hoặc ngụ ý):

– Bác bỏ toàn bộ tính xác thực trong ghi chép của các thư tịch cổ Việt Nam có đề cập đến vấn đề giả vương. Xem những ghi chép về sự kiện này của sách vở trong nước là không đúng.

– Nhà Nguyễn (cụ thể là vua Minh Mạng) đã chỉ đạo hợp thức hóa tin đồn giả vương, biến nó thành sự thật.

– Phủ nhận những ghi chép của các bộ sử Trung Quốc về vấn đề “giả vương”.

– Quang Trung sang Trung Hoa là một sự kiện trọng đại đương thời, đã nâng cao quốc thể và uy tín của nước Việt trong bối cảnh “Trung Hoa đang là một đế chế thịnh trị bậc nhất trong thiên hạ [hay người ta nghĩ thế] mà mọi quốc gia đều thèm khát có quan hệ ngoại giao, còn nước ta khi đó chỉ là ba tiểu quốc qua phân, trên uy tín quốc tế chưa mấy nơi biết đến” (trích Phi Lộ của sách).

Tuy nhiên, khi xem xét các cứ liệu cùng lập luận trong sách, có thể nhận thấy tác giả đã đi từ chỗ đoán định đến khẳng định và nâng lên thành kết luận chính thức trong khi còn nhiều vấn đề chưa được chứng minh rõ ràng, “rốt ráo”. Cụ thể:

Thứ nhất, tác giả luôn nói tin đồn Quang Trung giả là do nhầm lẫn từ tin đồn Nguyễn Quang Hiển là giả. Tin này lan rộng trong nước khiến mọi người tin như vậy và một số sách vở cũng chép theo hướng đó. Nhưng xét kĩ, ngoài việc chứng minh có tin đồn Nguyễn Quang Hiển không phải là cháu Quang Trung thì tác giả không đưa ra được cứ liệu chắc chắn nào để xác nhận người thời bấy giờ đã lẫn lộn Nguyễn Quang Hiển giả với Quang Trung giả.

Thứ hai, đâu là căn cứ để bác bỏ toàn bộ ghi chép của thư tịch Việt Nam về chủ trương đưa giả vương sang Trung Hoa thay Quang Trung? Hay chỉ dựa vào một số chi tiết đại loại như ghi chép bất nhất của các sách về tên nhân vật thế thân để rút ra nhận định? Những tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Lê quý dật sử, Nghệ An kí, Phan gia thế tự lục… đều sống cách sự kiện 1790 không quá xa, ít nhiều nắm thông tin về sự kiện này rõ hơn chúng ta ngày nay.

Thứ ba, tư liệu xác tín nào nào chứng minh việc nhà Nguyễn chỉ đạo biến vấn đề Quang Trung thật thành giả vương? Nếu chỉ đoán rằng nhà Nguyễn bôi nhọ Quang Trung bằng cách gán lễ “ôm gối” thay vì “bão kiến thỉnh an” cho ông và cách viết khinh miệt, hạ thấp Quang Trung như kiểu dùng chữ Cô (姑) trong sử sách nhà Nguyễn thì chưa chứng minh được vấn đề đã nêu, có chăng chỉ là cho thấy thái độ hằn học của triều Nguyễn với Tây Sơn. Không thể qua các chi tiết đó để đoán rằng nhà Nguyễn đã chỉ đạo các sử thần dàn dựng chi tiết, xác thực tin đồn (vốn không có thật – như quan điểm xuyên suốt của tác giả) và chính thức đưa mệnh đề giả vương vào quốc sử.

Thứ tư, trong khi chưa tìm cách xác minh được nguồn tư liệu mà Việt Nam tập lược, Thanh sử hay Thanh sử cảo sử dụng để dẫn các sách này đến khẳng định người sang Trung Hoa là Quang Trung giả, đã cho rằng chúng không đáng tin. Các tác giả của hai bộ sách trên là người Trung Quốc, sống cách sự kiện không phải là quá xa nên có thể tiếp cận nhiều nguồn tài liệu mà bên ngoài chưa dễ khai thác được. Vì vậy, nếu không có tư liệu khả tín để chứng minh các sách này viết sai thì không nên cho rằng thông tin chúng cung cấp là không xác thực.

Thứ năm, các thư tịch của nhà Thanh dưới thời Càn Long đương nhiên không thể ghi rằng đó là Quang Trung giả. Các ghi chép của người Việt Nam trong phái đoàn năm 1790 cũng vậy. Nếu cho rằng sử tịch nhà Thanh không ghi, các sứ thần Đại Việt không nói đến, để suy ngược vấn đề thật – giả là cách làm không khoa học. Trong bối cảnh lúc ấy, nếu quả thật đó là Quang Trung giả thì vì thể diện, nhà Thanh không bao giờ dám tiết lộ. Các sứ thần Đại Việt cũng không dại gì đưa vào thơ văn khi họ còn phục vụ dưới triều đại Tây Sơn; kể cả sau này, khi Tây Sơn không còn thì họ cũng không có lí do gì để nói lại một vấn đề mà trong dân gian đều biết Quang Trung không hề sang nhà Thanh.

Thứ sáu, nếu lấy Đại Việt quốc thư làm một bằng cớ để cho rằng Quang Trung đã sang nhà Thanh thì cũng không thuyết phục. Người thay Quang Trung vẫn có quyền xem mình chính là Quang Trung để thư từ qua lại với nhà Thanh, thậm chí “chỉ đạo” từ xa một số công việc trong nước. Đó là cách làm quyền biến có thể chấp nhận vào lúc ấy.

Thứ bảy, vẫn biết các văn kiện thời Quang Trung nay không còn nhiều, nhưng liệu tác giả đã tiếp cận hết chưa hay chỉ dựa vào hai văn kiện được gửi đến Quang Toản hay có đóng dấu của Quang Toản vào thời gian phái đoàn sang Thanh để cho rằng Quang Trung lúc ấy không ở nhà? Việc xây kinh đô mới ở Nghệ An đến khi Quang Trung mất vẫn chưa hoàn thành, nên không có gì chắc chắn để nói trong năm 1790 hễ không có thư từ qua lại giữa Quang Trung với Nguyễn Thiếp (hay việc xây kinh đô tạm dừng lại) thì đó là một chỉ báo của việc Quang Trung đang vắng mặt. Thêm nữa, sau chiến thắng, phái đoàn Đại Việt sang Thanh và được đối thủ tiếp đón trọng thị như vậy thì ai lại không hân hoan, phấn khích trong lòng?

Thứ tám, xuyên suốt công trình, tác giả không thể đưa ra những sử liệu đủ mạnh để bác bỏ hoàn toàn quan niệm giả vương và khẳng định hai năm rõ mười vấn đề “thật vương”. Thao tác nghiên cứu từ đầu đến cuối là nêu nghi vấn rồi suy diễn – đoán định qua một số tư liệu của nhà Thanh và đi đến khẳng định quan điểm. Muốn bác bỏ A để khẳng định B nhưng không chứng minh chắc chắn được B, mà chỉ đưa ra vài điểm bất hợp lí của A để khẳng định B. Đó chưa phải là cách làm khách quan, khoa học trên cơ sở thu thập, xử lí, giám định và phân tích tư liệu vốn dĩ rất chặt chẽ của khoa học lịch sử.

Như trên đã nói, vấn đề học giả Nguyễn Duy Chính đặt ra là một vấn đề khoa học lớn. Vì vậy, muốn thay đổi nhận thức vốn đã định hình về nó là điều không dễ dàng, đòi hỏi sự nỗ lực cao của nhà nghiên cứu, dựa trên hệ thống các nguồn tư liệu được khai thác và phân tích thấu đáo, chặt chẽ với một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, khách quan và toàn diện. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh tinh thần thận trọng trong các công bố khoa học hay phát hiện khoa học mới. Trong công trình của mình, học giả Nguyễn Duy Chính đã công bố nhiều tư liệu có thể nói là mới mẻ về thời đại Tây Sơn. Tuy nhiên, khi còn nhiều điều chưa chứng minh rõ ràng, tác giả đã vội vàng khẳng định theo hướng đảo chiều các kết luận và nhận thức xưa nay (mặc dù ông từng nói đã tìm hiểu vấn đề trên 15 năm). Điều này rõ ràng đã khiến dư luận xã hội có phần hoang mang, nhất là khi trong một số buổi nói chuyện và bài viết về sau, tác giả mỗi khi nhắc đến Quang Trung sang nhà Thanh đều cho rằng đó là Quang Trung thật, xem như vấn đề ông đặt ra đã được xác quyết và nhận thức xã hội cũng dần phải điều chỉnh theo hướng như vậy. Đó cũng chưa phải là cách làm nghiêm túc, thận trọng của một nhà nghiên cứu có trách nhiệm đối với xã hội và khoa học lịch sử.

Cuối cùng, chúng tôi muốn lưu ý rằng, các nghiên cứu của tác giả nên được đặt trong bối cảnh đặc thù với những thông lệ, quan điểm nhất quán của nền bang giao Việt Nam đối với Trung Hoa dưới thời phong kiến. Trong quan hệ với nhà nước phong kiến Trung Hoa thời trung đại, các triều đại quân chủ Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc chiến lược ngoại giao được lịch sử gọi là “thần phục giả vờ, độc lập thật sự”. Vì vậy, trong những tình huống bang giao phức tạp nhất, kể cả giai đoạn đối trí ngoại giao cam go và quyết liệt dưới triều Trần giữa hai cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất và thứ hai, chưa hề có vị quân chủ nào của nước Việt (đương nhiên không tính đến việc Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu viện) thân hành sang Trung Hoa để chầu hầu Hoàng Đế phương Bắc. Với ý thức tự tôn dân tộc rất cao, luôn xem Nam bang là nước văn hiến, cùng phương Bắc “mỗi bên hùng cứ một phương”, cac Đế Vương và tầng lớp chính trị tinh hoa, rộng hơn là toàn bộ các giai tầng trong nước đều mặc nhiên xem việc một vị vua nước Nam tự mình sang Trung Hoa là biểu hiện của thái độ quy phục thật sự. Đó là điều không thể chấp nhận và xúc phạm nghiêm trọng đến niềm tự hào dân tộc trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời trung đại, khi tư tưởng “vô tốn Trung Hoa”, ý thức tự cường luôn hiện hữu trong lòng dân tộc như một phương sách hằng xuyên để tự thức, tự lập và tự chủ trước một quốc gia to lớn cạnh bên luôn lăm le chờ đợi cơ hội để tiến chiếm nước Việt bé nhỏ.

Ở cuối thế kỉ XVIII, nhận thức xã hội về chiến lược bang giao với Trung Hoa chưa có những thay đổi rõ ràng về cấu trúc cùng chiều sâu, nên việc một vị Hoàng Đế nước Việt đã giành được vinh quang chiến thắng trước Bắc quốc lại tự động sang chúc thọ hoàng đế nhà Thanh là điều không thể chấp nhận trong tư tưởng, tình cảm của xã hội rộng lớn, càng không thể cho đó là sự kiện giúp nâng tầm hình ảnh và vị thế của nước Đại Việt. Khi nhà Thanh vẫn luôn xem Đại Việt là thuộc quốc, là chư hầu thì cũng không thể nói với việc Quang Trung đích thân sang Trung Hoa sẽ đánh dấu một bước ngoặt hệ trọng trong mối bang giao giữa hai nước. Đó là chưa kể, Quang Trung và đội ngũ dưới quyền không thể không tính đến những nguy hiểm tiềm tàng cho bản thân ông khi sang triều kiến nhà Thanh – kẻ chiến bại trước đó chưa lâu. Với hoàn cảnh lúc ấy, không có lí do đủ lớn khiến Quang Trung hành động như vậy. Cho nên, phương án dùng người đóng thế với tất cả sự công phu, tinh tế và sắp đặt kĩ càng của nó là giải pháp hợp thời hơn cả.

Trước lịch sử, sự thật việc Quang Trung sang Trung Hoa chỉ có một và rất đáng được nhận hiểu kỹ càng, chân xác thông qua hệ thống các tư liệu có độ tin cậy cao, giàu sức thuyết phục. Vậy nên, chúng tôi cho rằng trước khi chứng minh đầy đủ vấn đề thì bất kỳ ai, dù tâm huyết đến mấy, chỉ nên dừng lại ở góc độ quan điểm cá nhân hoặc đặt thành giả thuyết khoa học chứ không nên công bố rộng rãi như một thành tựu đáng ghi nhận. Chúng tôi cũng hi vọng học giả Nguyễn Duy Chính có thể từ chỗ đặt giả thuyết đi đến giải quyết thấu đáo các lỗ hổng hay sơ hở còn tồn tại để chiếu rọi, làm minh xác vấn đề đặt ra một cách thuyết phục và khoa học nhất, góp phần “trả lại một sự thật cho lịch sử” như ông tâm nguyện.
Nguồn: Xưa và Nay – Số 491 (01/2018)

Xây dựng một tạp chí Việt Nam học quốc tế ở Việt Nam cần một sự chuyển đổi lớn về mặt nhận thức của cộng đồng khoa học và các nhà quản lý.



Hội thảo Việt Nam học lần thứ 5, 2016.


Ba năm nay, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tổ chức hàng chục hội thảo, tọa đàm về việc xây dựng một tạp chí khoa học xã hội đạt “chuẩn quốc tế” và định hướng tạp chí Vietnam Social Sciences của Viện sẽ lọt vào danh mục tạp chí quốc tế (ít nhất là ACI) vào năm 2025. Cùng với đó, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng bộc lộ nỗ lực và quyết tâm tương tự với tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities của mình. Nhưng liệu hai cơ quan nghiên cứu uy tín hàng đầu về khoa học xã hội của Việt Nam và kể cả các cơ sở nghiên cứu khác có làm được điều đó, và họ có nên làm?

Nhu cầu bức thiết có một tạp chí Việt Nam học

“Mong muốn của chính phủ và của cả cộng đồng khoa học Việt Nam là thông qua việc xuất bản một tạp chí uy tín quốc tế để thế giới hiểu thêm về Việt Nam, để ngành Việt Nam học có vị thế và đóng góp nhiều hơn cho khoa học thế giới” – GS. Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Đại học KHXH&NV đồng thời là Tổng biên tập tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities cho biết. Hiện nay, trên thế giới chỉ có duy nhất một tạp chí trong lĩnh vực Việt Nam học, là Journal of Vietnamese Studies (JVS) của nhà xuất bản University of California, Berkeley Press ra đời cách đây 12 năm. Đây cũng là tạp chí thứ hai trong lịch sử chuyên về lĩnh vực này, sau khi tạp chí Diễn đàn Việt Nam của dịch giả và nhà sử học Việt kiều Huỳnh Sanh Thông đóng cửa vào những năm 1990. JVS tập trung vào các nghiên cứu về lịch sử, chính trị, văn hóa – xã hội của Việt Nam và những chủ đề bị bỏ quên bởi dòng nghiên cứu chính thống như người Việt Nam ở hải ngoại và Chiến tranh Việt Nam. Trả lời phỏng vấn Tia Sáng, Lưu Trinh, thư ký tòa soạn của JVS tự hào nói rằng tạp chí của họ là “ngọn cờ đầu” về Việt Nam học trên thế giới và “không có đối thủ”. Tiếng tăm của họ thông qua con đường “truyền miệng” và từ khi xuất bản đến nay, họ đã nhanh chóng tăng tần suất xuất bản từ một năm hai số thành ba số và hiện nay là bốn số với người viết đến từ khắp các châu lục trên thế giới. Ví dụ của JVS dường như mở ra một con đường rất tiềm năng trong việc xây dựng một tạp chí quốc tế về Việt Nam học.  

Mà chính Peter Zinoman, tổng biên tập đồng thời là người sáng lập JVS, hiện nay là giáo sư duy nhất ngành Việt Nam học tại University of California, Berkeley không chỉ cho rằng sự ra đời của tạp chí quốc tế chuyên về Việt Nam học là cấp thiết mà còn khẳng định tạp chí của ông, với những giới hạn về ban biên tập, ngôn ngữ và địa lý chưa đủ để bao trùm sự đa dạng và sôi động trong lĩnh vực Việt Nam học trên thế giới ngày nay. Trong công bố tại hội nghị Việt Nam học lần thứ ba năm 2009, Zinoman đã kể lại quá trình xây dựng JVS để minh chứng cho lập luận trên của mình. Trong đó, thế giới ngày càng quan tâm đến ngành Việt Nam học, thể hiện ở việc ngày càng nhiều học giả Việt Nam học tại các trường đại học và viện nghiên cứu danh tiếng trên thế giới với quá trình thi tuyển không kém phần cạnh tranh so với các lĩnh vực khác. Trong khi đó, ngoài JVS, các tạp chí nghiên cứu châu Á và Đông Nam Á khác lại có xu hướng ưu tiên “diện tích đất” cho những bài nghiên cứu về những nước lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật và Indonesia. Hơn nữa, các nghiên cứu về Việt Nam các trên tạp chí này cũng không thể quá chuyên sâu và phải đưa ra được những kết luận đầy đủ cho bối cảnh lý thuyết và khu vực rộng hơn. Ông kết luận rằng, việc không có tạp chí chuyên ngành Việt Nam học không chỉ “gây khó khăn” cho các học giả trong lĩnh vực này mà còn là “thiếu sót về mặt thể chế” khi mỗi nước trong khu vực đều có một tạp chí chuyên ngành đất nước học về họ (kể cả Lào và Campuchia). Nhưng, dẫu cho JVS giải tỏa được phần nào nhu cầu của cộng đồng Việt Nam học trên thế giới, Zinoman cũng tự nhận rằng, do ban biên tập chủ yếu ở Bắc Mỹ nên các nghiên cứu đăng trên tạp chí có thiên hướng đến từ khu vực này và chưa vươn ra được nhiều tác giả tiềm năng ở Úc, Anh và Singapore. Hơn nữa, cũng do đặc điểm các chủ biên tạp chí đến từ hai ngành lịch sử và văn học so sánh nên nội dung của JVS thiên về các lĩnh vực tương tự.


Bìa tạp chí Journal of Vietnamese Studies, tạp chí quốc tế duy nhất về Việt Nam học trên thế giới hiện nay. 

Còn có những lập luận khác về tính cấp thiết của việc xây dựng tạp chí quốc tế về Việt Nam học, chẳng hạn như GS. Lương Văn Hy ở Đại học Toronto cho rằng “có được tạp chí như thế cũng là một chỉ báo tốt về sự trưởng thành của KHXH&NV ở Việt Nam”. Lưu Trinh cho rằng “[một tạp chí như thế] sẽ đóng vai trò lớn trong việc thay đổi thực hành khoa học ở Việt Nam”. Cô thấy rằng phần lớn các nghiên cứu từ Việt Nam gửi đến JVS đều chưa tuân thủ nguyên tắc liên quan đến trích dẫn trong một bài báo khoa học khiến cho công trình thiếu thuyết phục, thiếu chuyên nghiệp. 


Không thể vừa mang tính quốc gia, vừa mang tính quốc tế

Nhưng mặc dù có những lí do chính đáng và bối cảnh thuận lợi, thì việc một viện nghiên cứu, trường đại học trong nước xây dựng một tạp chí quốc tế về Việt Nam học trong chưa đầy 10 năm nữa, đòi hỏi một nỗ lực vô cùng lớn nếu nhìn vào xuất phát điểm của Việt Nam. Số lượng công bố quốc tế ISI/Scopus của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội và Đại học KHXH&NV Hà Nội mỗi năm của mỗi đơn vị chưa vượt quá 10 bài, thể hiện số nhà khoa học thông thạo thông lệ quốc tế về xuất bản trên các tạp chí chưa nhiều, chưa nói đến việc điều hành và xây dựng một tạp chí quốc tế. Tạp chí tiếng Anh của hai đơn vị trên vẫn còn đậm nét “nội địa” thể hiện ở số bài trong nước và số thành viên người Việt Nam trong ban điều hành còn vượt trội. Cả hai tạp chí Vietnam Social Sciences của Viện Hàn lâm KHXHVN và tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities của Trường ĐHKHXHNV, Đại học Quốc gia mặc dù đã có rất nhiều cố gắng và đổi mới, vẫn còn phải phấn đấu rất nhiều mới đạt được các chuẩn mực quốc tế. Cả hai tạp chí đều được Lưu Trinh và GS Oscar Salemink   đang làm việc tại Đại học Copenhagen, Đan Mạch đánh giá là “rất khó tìm đọc”.


Việc hóa giải những bế tắc trên đặt cộng đồng khoa học và cả những nhà quản lý ở Việt Nam vào một cuộc chuyển đổi nhận thức mạnh mẽ: Xây dựng tạp chí quốc tế, ngay cả khi tạp chí đó là về ngành Việt Nam học, ngay cả khi tạp chí sử dụng nguồn lực của quốc gia, vẫn phải gạt bỏ mọi mục tiêu “chỉ” phục vụ riêng cho lợi ích đất nước, cho riêng cộng đồng khoa học Việt Nam. Nói cách khác, tạo ra một ấn phẩm như vậy phải xuất phát từ một tinh thần vô tư, phụng sự “khoa học không biên giới”.  GS. Phạm Quang Minh chia sẻ: “Cho Việt Nam ở đây phải hiểu là để thế giới biết về Việt Nam, để những nghiên cứu Việt Nam được thế giới biết đến, cho dù người đó đến từ nước nào và viết về lĩnh vực gì, không tổn hại đến lợi ích của Việt Nam.”Điều này không giống như quan điểm của một số người cho rằng tạp chí quốc tế của Việt Nam là một “hướng giải quyết”, “tạo điều kiện” cho các nhà khoa học Việt Nam công bố quốc tế. Nếu không có được tinh thần này, thì theo GS.Oscar Salemink, người đã có 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Việt Nam học, đặt ra việc xây dựng một tạp chí quốc tế “mâu thuẫn đến vô nghĩa” (oxymoron) bởi vì không bao giờ có được một tạp chí vừa mang tính quốc gia và quốc tế. Một tạp chí quốc tế, bắt buộc phải đạt tiêu chuẩn quốc tế, do đó ít quan tâm đến các quy tắc của quốc gia. Ngược lại, nếu muốn giữ kiểm soát tạp chí trong nước, giới nghiên cứu nước  ngoài sẽ không coi trọng nó.

Bốn yếu tố xây dựng một tạp chí quốc tế (ngoài việc phải xuất bản bằng một ngôn ngữ thông dụng): Một hội đồng biên tập quốc tế, Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình phản biện kín hai chiều, Hoàn toàn không có kiểm duyệt, Được xuất bản quốc tế, trên thực tế nghĩa là xuất bản online hoặc bởi một nhà xuất bản khoa học nước ngoài (vì Việt Nam chưa có khả năng này).
Là người có mặt trong hội đồng biên tập của nhiều tạp chí quốc tế về Đông Á và Đông Nam Á uy tín, Oscar Salemink đưa ra bốn yếu tố xây dựng một tạp chí quốc tế (ngoài việc phải xuất bản bằng một ngôn ngữ thông dụng): Một hội đồng biên tập quốc tế; Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình phản biện kín hai chiều, Hoàn toàn không có kiểm duyệt; Được xuất bản quốc tế, trên thực tế nghĩa là xuất bản online hoặc bởi một nhà xuất bản khoa học nước ngoài (vì Việt Nam chưa có khả năng này). Ông cho rằng ba yếu tố đầu là bắt buộc, “nếu không thì việc có một tạp chí quốc tế không có nghĩa lý gì. Và như thế thì tốt hơn là khuyến khích các học giả Việt Nam cố gắng công bố và công bố nhiều hơn trên các tạp chí quốc tế khác”.


Việc xây dựng tạp chí quốc tế không phải là vấn đề đầu tư tiền bạc (mặc dù cũng cần một khoản để thuê người biên tập thành thạo tiếng Anh và nắm rõ những vấn đề liên quan đến Việt Nam, tiền xuất bản hoặc tổ chức các hội thảo và tọa đàm chuyên đề định kỳ để quảng bá tạp chí) mà là những yêu cầu do Oscar Salemink đưa ra gắn liền với tự do học thuật ở Việt Nam. Đó chính là cục nam châm thu hút hoặc đẩy xa những nhà khoa học nước ngoài uy tín trong việc tham gia xây dựng ngành Việt Nam học, kể cả khía cạnh hỗ trợ việc phát triển một tạp chí khoa học quốc tế. Khi GS. Phạm Quang Minh mời David Marr, một học giả người Mỹ nghiên cứu nổi tiếng về lịch sử Việt Nam vào hội đồng biên tập của tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities, mặc dù ông đồng ý nhưng đã thẳng thắn chia sẻ: “Đừng nghĩ đưa tên của tôi sẽ làm uy tín của tạp chí tăng lên”. Để việc họ đứng trong hội đồng biên tập của các tạp chí không chỉ dừng lại ở cái tên mà thực sự tham gia vào chiến lược, sứ mệnh, mục tiêu và bản sắc của tạp chí, từ đó họ mới nhiệt thành trong việc quảng bá tạp chí và kêu gọi bài vở từ khắp nơi trên thế giới thì mức độ kiểm soát của ban biên tập tạp chí trong nước chỉ còn một phần nhỏ. Oscar Salemink chia sẻ rằng ngoài thi thoảng nhận được yêu cầu bình duyệt, chưa bao giờ ông nhận được lời đề nghị nào về tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tạp chí của Việt Nam, có lẽ là do ban biên tập muốn “giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát”. Hơn nữa, để có một tạp chí tốt, cần trao quyền cho ban biên tập là những nhà khoa học có công bố quốc tế và trẻ tuổi (vì làm tạp chí là một công việc đòi hỏi cao mà phần lớn là “không công”, những học giả uy tín ở giai đoạn sau của nghề nghiệp thường không đủ thời gian và năng lượng để làm) có khả năng trao đổi và tìm kiếm lời khuyên từ các nhà khoa học thế giới uy tín.    

Nếu vì một mục tiêu khoa học, Việt Nam với điểm xuất phát hiện nay vẫn có hi vọng xây dựng được tạp chí quốc tế để thúc đẩy ngành Việt Nam học. Theo lời GS. Phan Huy Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Hàn lâm KH&XH nên đứng ra chủ trì một tạp chí. Ông tin rằng thế giới sẽ quan tâm bởi mỗi năm Hội thảo Việt Nam học đều thu hút được 200 học giả trên khắp thế giới với 100 công bố giá trị. Hơn nữa, trao đổi với Tia Sáng, GS. Phạm Quang Minh cũng cho biết hoàn toàn có nhà khoa học Việt Nam đủ uy tín và khả năng kết nối để nằm trong ban biên tập. Sắp tới vào tháng 7, ông sẽ gặp gỡ với Đại học Quốc gia Đài Loan, theo lời đề nghị của GS triết học Trần Văn Đoàn để trao đổi về việc cùng hợp tác với Đại học Quốc gia và Viện Hàn lâm thành lập một tạp chí quốc tế về Việt Nam học.

Hảo Linh

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 07.6.2018

Việt Nam có một truyền thống ẩm thực lâu đời và phong phú. Nhiều đặc sản tùy theo vùng miền, miền nào cũng có. Bắc bộ thì “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần/ Nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét” . Trung bộ thì “Yến xào Vĩnh Sơn/ Nam sâm Bố Trạch/ Cua gạch Quảng Khê/ Sò nghêu Quan Hà/ Rượu dâu Thuần Lý”. Nam bộ thì “Bánh tráng Mỹ Lồng/ Bánh phồng Sơn Đốc”, “Muốn ăn bông súng mắm kho/ Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm!”.

Cách nấu ăn rất tinh tế được đúc kết thành những câu ca dễ nhớ: “Con gà cục tác lá chanh/ Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi…”. “Món ăn bài thuốc” – món ăn cũng chữa được bệnh, hay ngược lại, món ăn cũng kỵ nhau, nếu không để ý thì có hại cho sức khỏe, thậm chí gây nên bệnh tật. Ẩm thực cũng là một hành vi văn hóa: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, hay “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”.

            Tuy nhiên bên cạnh tri thức dân gian về món ăn như thế, thì sách dạy nấu ăn Việt Nam có không, nếu có thì từ khi nào, quyển sách nào là quyển đầu tiên?

“Thực phổ bách thiên”

Trước nay người ta có cho rằng cuốn Thực phổ bách thiên của bà Trương Đăng Thị Bích (1862-1947) là cuốn sách đầu tiên của thể loại này. Bà Trương Đăng Thị Bích là con gái một gia đình quan lại cấp cao triều Nguyễn, kết duyên cùng công tử Nguyễn Phúc Hồng Khẳng - con trai thứ của nhà thơ cung đình Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, hoàng tử thứ mười của vua Minh Mạng.  Thực phổ bách thiên  gồm 102 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt dạy cách nấu 100 món ngon xứ Huế, từ món dân dã đến món cung đình: canh rau, dưa cà, cá kho đến nem công, gân nai… Dưới đây là vài món:

“Cá rô um muối”:

Cá rô tách nạc bỏ xương ra

Mỡ nước um vàng rắc muối và

Lửa phải vùi tro không ngại khét

Đã thơm lại béo có chi qua.

Hay như món “Dưa giá” đặc trưng kiểu Huế:

Giá nhặt xong rồi rửa thí phèn

Muối trong, ớt đỏ, kiệu, măng xen

Chua vừa ướm, ướm dòn tan bã

Vị thiệt thinh thao chẳng phải hèn.(1)

            Tuy nhiên Thực phổ bách thiên vẫn chưa phải là cuốn sách dạy nấu ăn hiện đại, do tính chất vần vè nên vẫn còn gần với nấu băn bằng tục ngữ ca dao truyền thống. Sách dạy nấu ăn hiện đại thực sự thì phải đến Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam của bà Lê Hữu Công mới có.

“Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam” của bà Lê Hữu Công

Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam của bà Lê Hữu Công là sách dạy nấu ăn viết bằng văn xuôi, ghi đầy đủ, chi tiết cách nấu ăn để cho ai cũng có thể tự mình nấu ăn được. Thông tin bìa sách như sau:

Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam, publié par Madame LÊ-HỮU-CÔNG, Edité par Maison J.Viet.

Bìa trong ghi chi tiết hơn:

Trên cùng là hàng chữ nôm: Phép dạy nấu ăn An Nam, Quảng Đông, Cao Miên

Ở dưới viết: Phép dạy nấu ăn theo cách An Nam, và có phụ thêm đồ Quảng Đông và Cao Miên. Chủ bút Madame LÊ-HỮU-CÔNG, publié par Maison J.Viet, 59 rue d’Ormay, Sài Gòn. Cấm không ai đặng in theo bổn này. Saigon, Imprimerie F-H.Schneider, 1914.

Nhà xuất bản J.Viet là nhà xuất bản nổi tiếng, có từ rất sớm ở Sài Gòn, in nhiều sách có giá trị. Nhà in F.H.Schneider cũng là nhà in nổi tiếng thời bấy giờ.

Toàn bộ quyển sách dày 36 trang. Bìa sách vẽ một người phụ nữ mặc bộ đồ bà ba, cổ đeo kiềng đang đứng chế biến thức ăn trên một cái bàn cao. Bên tay phải cô là cái bếp được xây cao, ở dưới có khoang dựng củi gọn gàng, ở trên có hai bếp lò đang nấu thức ăn. Bức tranh cho thấy căn bếp đã khá hiện đại.

Về lý do làm sách, tác giả có viết rõ trong lời Tựa mở đầu quyển sách:

“Nói tóm sơ lược trong bổn này: Gẫm lại đứng tạo hóa phép tắc vô cùng, đã sanh người lại sanh vật, vật thì có nhiều loài: thượng cầm hạ thú, bá quả bá huê, sơn lâm thảo mộc, dưới sông thì kình ngư các thứ, mỗi mỗi đều có vật dùng. (…)

Bổn này làm ra đây là cố ý nhắc lại mấy trẻ còn thơ, việc nấu nướng chưa thạo, mua sách xem chơi, khi khôn lớn có tư riêng thì đã biết các cuộc nấu nướng, không lẽ cha mẹ theo mình nhắc nhở dạy biểu hoài. Việc nấu nướng tỉ là thường mà tưởng lại cũng ít người thạo đủ. Như cái việc chỉ bảo đây là vịnh theo lời mấy bà tuổi tác chỉ bảo, vì là mấy bà đã từng trải, lại thạo việc châm chế, coi vậy chớ cách thức cũng có khác nhau, người biết món kia lại không biết món nọ, vì là chưa dùng tới nên không thạo.”

Toàn bộ quyển sách có 124 món Việt, 9 món Quảng Đông, 4 món Cao Miên.

Các món Việt chia ra thành từng loại. Đa số các món vẫn còn được nấu hiện nay, như: Các món canh: Canh bầu, canh bắp chuối, canh bí rợ, canh bí đao, canh cải, canh cà tây, canh cải chua, canh chua, canh mít non, canh khoai mỡ, canh khoai môn…; Các món kho: kho cá bống kèo, kho ngót cá biển, kho thơm, kho nước dừa, kho tôm, kho hầm thịt…; Các món xào: xào thịt trâu, xào thịt bò, xào ốc len, xào cua…; Các món hầm: hầm trái khổ qua, hầm thịt heo…; Các món chả: chả giò heo, chả cua, chả cá…; Các món gỏi: gỏi vịt, gỏi nhộng, gỏi củ cải, gỏi da…; Các món cháo: cháo dơi quạ, cháo vịt, cháo cần đước (rùa), cháo ếch… Các món nem: nem công, nem ngỗng, nem gà…, Các loại món khác: Chiên,  Nướng, Chưng, Dưa muối, Tương…

Ví dụ: Món canh chua: “Gọi là nấu chua là cá nấu với me chín, me sống, khế, chùm ruột. Cá làm cho sạch, cắt hai bỏ vào trách nấu. Rồi bỏ me vào, hoặc là khế, hay là chùm ruột, mà bỏ vào vừa kẻo nó chua quá ăn không đặng, hoặc là xắt đôi ba trái chuối chát bỏ vào, cho nó chế bớt sự chua, chín rồi thì bõ ớt, hành, rau om.”

Hầm khổ qua: “Trái khổ qua lựa thứ trái lớn, mổ banh ra móc cho sạch ruột. Thịt ba rọi bằm cho nhỏ, khi bằm thịt thì phải bỏ tiêu hành với chút nước mắm. Bằm trộn đều dồn vô cho đầy ruột khổ qua. Rồi lấy dây chuối bó trái khổ qua lại, bỏ vào trã mà hầm. Khi chín rời thì sẽ nêm sau.”

Cầu kỳ hơn, đó là món nem công: “Thịt công lóc lấy cái nạc, đâm cho nát bấy bà, dằn ráo nước, lấy da heo luộc xắt cho mỏng, mà làm hoa, cũng như hoa nem thịt heo. Gạo rang chi vàng, đâm nhỏ trộn vào mà thính, rồi hoa cũng trộn vô sau mà gói bằng lá vông hay lá chùm ruột cũng đặng, ngoài gói lá chuối chừng lối một đêm ngày thì chua.”

Các món Quảng Đông chủ yếu là các món xào: Xào thịt sườn heo, Giò xào dấm, Cá xào giấm, Cá chưng, Xào bong bóng cá…

Các món Cao Miên chỉ có 4 món: Chưng trăn, chưng lươn, dồi lươn, nấu gà.

Sách dạy nấu ăn theo phép An Nam là quyển sách quý. Đó là cuốn sách dạy nấu ăn hiện đại đầu tiên của nước ta. Qua  quyển sách chúng ta có thể biết được các món ăn Việt theo phong cách Nam Bộ hơn một thế kỷ trước thế nào. Tù đó có thể hiểu rõ hơn văn minh ẩm thực Việt truyền thống. Việc giới thiệu các món Quảng Đông, Cao Miên có thể giúp ta hình dung các món phổ biến của các cư dân này cũng như ảnh hưởng, giao thoa món ăn giữa ba dân tộc.

 

Chú thích

(1) Ngô Minh Thuyên, “Thực phổ bách thiên”: Thơ dạy nấu ăn đặc sắc ở Cố đô (Báo Đà Nẵng cuối tuần),  http://www.baodanang.vn/channel/5433/201305/thuc-pho-bach-thien-tho-day-nau-an-dac-sac-o-co-do-2242993/

Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay số 492, tháng 2/2018

 

Sau khi phục hồi nền độc lập vào năm 939, tổ tiên của chúng ta đã bắt tay vào việc phát triển nền kinh tế sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, trong đó, ngoại thương đóng góp một phần quan trọng. Thương cảng Vân Đồn ra đời và hoạt động dưới thời Lý-Trần là bước khởi đầu của công cuộc phát triển thương mại ở nước ta từ các thế kỷ XII-XIII. Bước sang thế kỷ XVI-XVII, sự ra đời của các trung tâm thương mại Phố Hiến và Faifo (Hội An) đánh dấu thời kỳ cực thịnh của nền ngoại thương nước Đại Việt và thương nhân người Nhật có những đóng góp đáng kể, không chỉ riêng về mặt thương mại, mà còn trong những lãnh vực khác nữa.

Tranh cổ: châu ấn thuyền Nhật cập cảng Faifo (Hội An)

QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT-NHẬT 
Nói đến quan hệ Việt-Nhật trong lịch sử, hầu hết chúng ta nghĩ ngay đến sự hiện diện của người Nhật tại nước ta vào các thế kỷ 17 và 18. Song theo phát hiện của giáo sư Bùi Chí Trung, giảng dạy tại trường Đại học Aichi Shukutoku (Nhật Bản), một người Nhật tên Abe no Nakamaro (A Bội Trọng Ma Lữ) sống ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ 8 và làm quan dưới đời Đường đã được vua Đường Huyền Tông cử sang An Nam đô hộ phủ (Việt Nam ngày nay) để giữ chức An Nam Tiết độ sứ. Tuy nhiên, sử sách không xác định rõ Nakamaro đã thật sự đặt chân lên đất An Nam Đô hộ phủ chưa, nếu đã thì có lẽ ông là một trong những người Nhật Bản đầu tiên đến nước ta. Cũng theo giáo sư Trung, vào cuối thế kỷ 19, nhà nghiên cứu văn hóa Yanagida Kunio có dịp đi thăm miền Trung Nhật Bản và đã phát hiện những trái dừa từ các vùng đất phía Nam bị sóng xô giạt vào bờ. Từ đó ông đề xướng thuyết cho rằng dân tộc Nhật Bản có khởi nguyên từ phương Nam, thông qua quần đảo Okinawa. Không chỉ có thế, một tài liệu khác là Nhật Bản thư kỷ (Nihon Soki) cũng đề cập đến chuyện người dân Nhật vớt được một khúc gỗ lớn trôi giạt vào bãi biển đảo Awaji ở phía Nam Kobe. Họ mang đốt chung với củi của địa phương thì ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt bốc xa nên đặt tên loại gỗ đó là Trầm thủy (tức trầm hương). Tìm hiểu kỹ, họ biết rằng khúc trầm thủy đó xuất phát từ vùng đất Nhật Nam thuộc An Nam Đô hộ phủ dưới đời Đường. 
Nghiên cứu sự giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các dòng hải lưu chảy từ phương Nam về phía Bắc đã góp phần không nhỏ trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và các nước ở khu vực phía Nam châu Á. Mặt khác, những biến động về đường lối mậu dịch tại Trung Hoa vào nửa cuối thế kỷ 14 cũng làm thay đổi bộ mặt thương mại trong vùng. Từ năm 1371, Minh triều áp dụng một chính sách khắc nghiệt về ngoại thương, cấm thuyền dân ra nước ngoài buôn bán, “một miếng ván nhỏ cũng không được phép bơi trên biển”. Mãi đến gần 200 năm sau, vào năm 1567, vua Minh Mục tông mới bãi bỏ lệnh cấm này, cho phép thuyền dân sang các nước Đông Nam Á buôn bán, nhưng không được buôn bán với Nhật Bản. Theo tác phẩm Thuyền Xa Binh Chế Khảo của Trung Quốc, 10 năm sau khi lệnh cấm được giải tỏa, tức năm 1577, đã có 14 chiếc ghe mành của thương nhân nước này chở đồng, sắt, đồ sành sứ từ Phúc Kiến tới bán ở Thuận Hóa (Li Tana – Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 vá 18 – NXB Trẻ - 1999 – trang 88). Tuy nhiên, phải chờ đến đầu thế kỷ 17, thương nhân người Hoa mới hoạt động mạnh tại Đàng Trong, khi trung tâm thương mại Faifo (Hội An) hình thành, nơi diễn ra những cuộc buôn bán lớn giữa người Hoa, người Nhật, người phương Tây, và người bản xứ. Do tàu buôn Trung Quốc còn bị cấm đến Nhật nên Faifo đã có lợi thế trở thành nơi buôn bán giữa người Hoa và người Nhật, chính quyền của các chúa Nguyễn thu về những khoản thuế quan trọng, giúp trang trải các chi phí cần thiết cho việc phát triển dân sinh, đồng thời có đủ sức mạnh chống lại 7 cuộc tấn công của quân Trịnh trong suốt 45 năm trời (1627-1672). 
Về phần Nhật Bản, lợi thế về mặt thương mại trong suốt thời gian nhà Minh cấm người Hoa giong thuyền trên biển lại đẻ ra một tệ nạn khác: bọn hải tặc mượn danh nghĩa thương nhân Nhật hoành hành trên một vùng biển rộng lớn. Trong tình hình đó, từ trước thế kỷ 17, chính quyền nước Nhật đã áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ số thuyền bè xuất nhập bằng cách đặt ra một loại giấy phép gọi là châu ấn trạng, chỉ những thuyền buôn Nhật được cấp giấy này mới có thể vượt biển ra nước ngoài. Vì thế, từ cuối thế kỷ 16 đến những thập niên đầu thế kỷ 17, số châu ấn thuyền (thuyền được cấp châu ấn trạng) của thương nhân Nhật cập bến Đàng Trong rất nhiều. Theo tài liệu còn lưu trong các văn khố của Nhật Bản, trong quãng thời gian từ năm 1604 đến năm 1635 (thời điểm cấm hẳn thuyền buôn Nhật Bản ra nước ngoài), số châu ấn thuyền cập cảng Đàng Trong là 70 chiếc, cao hơn hết so với Đông Kinh (Đàng Ngoài) 36 chiếc, Champa 5 chiếc, Chân Lạp 44 chiếc, Xiêm (Thái Lan) 56 chiếc, và Luzon 53 chiếc. Số thương thuyền của người Hoa (do không được phép đi thẳng từ Trung Quốc sang Nhật Bản) xuất phát từ Quảng Nam (Đàng Trong) đi Nhật Bản trong thời gian từ năm 1647 đến năm 1720 là 203 chiếc, so với Đông Kinh 63 chiếc, Chân Lạp 109 chiếc, Xiêm 138 chiếc, Jakarta (Indonesia) 90 chiếc (theo Li Tana – sđd – các trang 90-91, 101). Trị giá hàng hóa do các châu ấn thuyền mang vào Đàng Trong có giá trị rất cao, tối thiểu 400.000 tiền đồng, nhiều nhất trên 1.600.000 tiền đồng. Họ mua về nhiều nhất là mặt hàng tơ sống, vải thô, trầm hương, da cá mập, đường phổi, mật ong, tiêu, song mây…. là những thổ sản phong phú trong vùng. Năm 1635, Nhật Bản nhập khẩu 220.000 kg tơ thì phần mua ở Đàng Trong là 25.000 kg. 
Trong tập hồi ký xuất bản tại Pháp vào năm 1631, giáo sĩ Cristoforo Borri đã kể lại những gì mắt thấy tai nghe trong những năm ông sống ở Đàng Trong (1618-1622). Theo Borri, thị trấn Hội An khi ấy đã chia ra hai khu vực riêng biệt, một khu vực là nơi sinh sống của người Hoa, một khu vực của người Nhật, mỗi năm phiên chợ kéo dài 4-5 tháng. Đến thập niên cuối thế kỷ 17, một hòa thượng người Trung Quốc là Thạch Liêm, pháp danh Thích Đại Sán, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang Đàng Trong thuyết pháp. Trong tập Hải Ngoại kỷ sự viết về chuyến đi này, Thạch hòa thượng đã mô tả Hội An như sau: “Vì Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập họp của khách hàng các nước; thẳng bờ sông, một con đường dài ba bốn dặm gọi là Đại Đường Cái, hai bên đường hàng phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mại. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố…” (Sđd – Viện Đại học Huế - 1963 – trang 154).
Bàn về quan hệ Việt-Nhật, điều đáng tiếc là nguồn sử liệu Việt Nam quá thiếu thốn, phần lớn phải dựa vào các tài liệu bên ngoài. Song cũng có điều đáng mừng là người Nhật sở hữu một nguồn tư liệu khá phong phú về mối quan hệ giữa thương nhân nước họ với nhiều nước trên thế giới, kể cả Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh quốc. Nguồn sử liệu tiêu biểu về lãnh vực này là bộ Ngoại phiên thông thư của Kondo Juzo (1771-1829), viết xong năm 1818, gồm 27 quyển, ghi lại mối quan hệ giữa Nhật Bản với 12 quốc gia và khu vực, trong đó phần “An Nam quốc thư” chiếm 4 quyển, từ quyển 11 đến quyển 14. Ngoài ra, còn có một số tác phẩm cũng đế cập đến quan hệ giữa Nhật Bản với nước ngoài như Dị quốc vãng lai ký, Cổ sự loại uyển, Hòa văn ngoại phiên thông thư …Một trong những người Việt Nam đầu tiên có điều kiện tiếp cận với các nguồn tư liệu trên là Sở Cuồng Lê Dư, người từng tham gia phong trào Đông Du vào nửa sau thập niên 1900. Đầu thập niên 1920, trên Nam Phong tạp chí số 54 phát hành tháng 12.1921, Lê Dư trích đăng nguyên văn bằng chữ Hán những thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với Mạc phủ của Nhật Bản. Bài viết này về sau được tác giả Nông Sơn dịch ra tiếng Việt, in trong tạp chí Văn Hóa Á Châu số tháng 3-4 năm 1958.


Châu ấn trạng (shuin-jo) do chính quyền Nhật Bản cấp cho ngư dân của họ vào thập niên 1610

Tranh cổ: cảnh thương nhân Nhật yết kiến và dâng lễ vật cho quan Trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm - Nguồn:  baotanglichsu.vn 

Tranh cổ vẽ một chiếc châu ấn thuyền thế kỷ 17

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/quan-he-viet-nhat-thoi-trinh-nguyen-phan-tranh-i

Li Tana sinh năm 1953, tốt nghiệp cao học về lịch sử Việt Nam ở Đại học Bắc Kinh (1983), trình luận án tiến sĩ về lịch sử Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 tại Đại học Quốc gia Úc năm 1992. Hiện bà Li Tana công tác ở Trường Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Úc.

Quyển sách của bà, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, đã được dịch sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999.

Bài dưới đây viết về vương quốc của họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18, được biết đến với tên gọi Đàng Trong, hay người Phương Tây gọi là Cochinchina. Chỉ trong vòng 200 năm, nó đã kiểm soát phần diện tích bằng ba phần năm lãnh thổ nước Việt Nam ngày nay. Những trải nghiệm của việc mở rộng biên giới về phía nam này có vẻ như đặt vấn đề về hình ảnh của một Việt Nam rất khác so với vùng lãnh thổ phía bắc khi đó, mở ra cánh cửa đến một thế giới khác, thế giới mà trong đó sự đa dạng được chấp nhận và tận dụng cho sự phát triển của chính Việt Nam.- Người dịch

Vương quốc của họ Nguyễn thế kỷ 17 và 18, kiểm soát khu vực mà sau này Tây Phương biết đến với cái tên Cochinchina, có gốc rễ tại khu vực miền Trung của Việt Nam thời hiện đại. Biên niên sử nhà Nguyễn mô tả Nguyễn Hoàng, giữ chức trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, nơi khi đó đánh dấu đường biên giới phía nam của Đại Việt, là người sáng lập vương quốc phía nam. Chiến tranh nổ ra năm 1627 giữa nhà Nguyễn ở phương nam và chính quyền Le–Trịnh. vốn kiểm soát khu vực từ Nghệ An đến đồng bằng sông Hồng. Bằng việc tạo dựng một nhà nước mới, nhà Nguyễn đặt mình vào vị trí phản loạn đi kèm với nguy hiểm vì họ yếu hơn phe chúa Trịnh ở gần như mọi mặt. Miền Bắc có những định chế vững chắc từ lâu, lãnh thổ rộng gấp ba, bốn lần so với nhà Nguyễn, và sức mạnh quân sự của họ cũng lớn hơn. Ngoài ra, phe họ Trịnh được thành lập ở một khu vực mà dân cư là người Việt và nghĩ là họ cai trị người của dân tộc mình, trong khi chính quyền nhà Nguyễn cai trị vùng đất từng thuộc Champă, một vương quốc Ấn hoá có những truyền thống khác hẳn so với người Việt [1] . Tuy nhiên, chính quyền nhà Nguyễn đã không chỉ tồn tại, đánh bại bảy chiến dịch của họ Trịnh, mà còn lần hồi đẩy biên giới vào sâu phía nam, kiểm soát ba phần năm phần lãnh thổ tạo thành nước Việt Nam ngày nay chỉ trong khoảng thời gian 200 năm. Vì sao những thế lực hoạt động trong môi trường mới lại tồn tại và thành đạt, trong khi thế lực vẫn ở lại trong môi trường quen thuộc thì chùn bước?

Không gian để tung hoành và sự phát triển của các yếu tố xã hội mới có vẻ đã cung cấp một sự kích thích trọng yếu cho điều mà sau đó sẽ phát triển thành một xã hội và thực thể tách khỏi mô hình Nho giáo của triều Lê. Những khác biệt này có thể được thấy ở nhiều khía cạnh đời sống [2] . Nếu dân số tăng trưởng và chu kỳ thiên tai gia tăng [3] đã khiến cuộc sống ngày càng bất ổn và nghèo đi ở phương bắc của Lê / Trịnh, thì ở phương nam của họ Nguyễn, sự trù phú thiên nhiên lại thắng thế và dân số thì ít. Nếu các tai hoạ kinh tế, chính trị từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18 đã buộc người nông dân xứ bắc phải bỏ nhà, lang thang sang vùng đông nam hay tây bắc, thì các gia đình người Việt ở vương quốc nhà Nguyễn năng động lại sẵn lòng di dời để sống chung với những dân tộc khác ở vùng biên thay đổi, rộng mở.

Từ thế kỷ 17, đồng bằng sông Hồng không còn là trung tâm duy nhất của văn minh Việt: một trung tâm mới – Phú Xuân (Huế) – đã thách thức Thăng Long (Hà Nội), và một khu kinh tế xã hội quan trọng thứ hai – Thuận Quảng – hình thành cách xa khỏi đồng bằng sông Hồng. Đây không đơn thuần là một sự mở rộng về nam của xã hội và nền kinh tế cũ của người Việt, mà đúng hơn, một xã hội mới đã phát triển, với một nền tảng văn hoá khác và những hoàn cảnh kinh tế, chính trị khác. Là cư dân của một khu vực mà chính quyền thù địch Lê / Trịnh chưa bao giờ chính thức từ bỏ quyền kiểm soát, người ở phía nam Việt Nam mô tả lãnh thổ của họ là “Đàng Trong” và gọi khu đồng bằng sông Hồng phía bắc là “Đàng Ngoai”. Cách dùng từ như vậy thể hiện rõ rệt là họ xem phương nam như một thực thể riêng, và sự trỗi dậy của những khác biệt giữa hai khu vực tương đương với hai cách làm người Việt khác nhau [4] .

Sự hình thành Đàng Trong là một sự thay đổi sâu sắc và căn bản trong lịch sử Việt Nam, mà tầm quan trọng có thể so sánh với việc Việt Nam giành lại độc lập từ Trung Quốc thế kỷ 10. Thoạt nhìn, những sự kiện này có vẻ, giống như cách chúng thường được mô tả trong sách sử chính thức hồi thế kỷ 19, không hơn gì mấy một câu chuyện về sự sống còn và cuối cùng thành công của một gia đình đã thất thế ở Thăng Long. Thế nhưng, những thành công của nhà Nguyễn đã tạo nên một xã hội mới và một văn hoá mới. Các yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định: trong vài thập niên ngắn, dù là một khu vực mới mở, ít dân hơn, và vào giai đoạn này còn nhỏ hơn đồng bằng sông Hồng, nhưng Đàng Trong trở nên giàu có và mạnh hơn vùng đất phương bắc (mặc dù không đủ mạnh để lật đổ họ Trịnh). Cả điều kiện kinh tế của người dân và sự cởi mở có thể so sánh của xã hội tại Đàng Trong tương phản một cách có lợi so với cái gọi là “chính quyền trung ương” của vương quốc nhà Lê. Những lợi thế này lập thành nền tảng của quá trình nam tiến mà cuối cùng đưa họ đến đồng bằng sông Mekong [5] . Đàng Trong trở thành đầu tàu thay đổi mang tính lịch sử, và kéo trọng tâm quốc gia – dù là được nhìn theo nghĩa chính trị, kinh tế hay thậm chí văn hoá – về hướng nam từ thế kỷ 17 cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị [6] .

Một miền Nam hữu Phật, phi Nho

Đối với người Việt trong thế kỷ 16 và đầu 17, phương nam, và cái ý niệm về nơi này, mang ý nghĩa không chỉ là một nơi để sống. Vùng đất phương nam hứa hẹn nhiều lựa chọn. Việc giữ vị trí là “phản loạn” hay “bất hợp pháp”cho nhà Nguyễn một cảm thức tự do được thử mọi thứ có khả năng thực hiện mà không phải tham khảo những quy chuẩn ràng buộc của luân lý Nho giáo. Ví dụ, một điều chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, nhà Nguyễn cho phép người Nhật và Trung Quốc làm quan, và cho người Tây phương có vị trí trong triều, ngay cả nếu chỉ làm thầy thuốc. Đồng thời, việc họ sống trong một phần của thế giới Đông Nam Á cho phép cư dân Việt mượn, pha trộn và hấp thu rộng rãi từ các nền văn hoá của người Chàm và các dân tộc khác trong khu vực.

Trong những hoàn cảnh như thế, chế độ nhà Nguyễn thấy có lợi khi họ nhấn mạnh tính cách địa phương của mình. Khi xưng vương năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tự hào tuyên bố, “Nhà nước ta, phát tích Ô châu” [7] , dùng cái tên có màu sắc địa phương mạnh để chỉ nơi xuất thân của hoàng gia và nhiều quan cao cấp. Châu Ô nhấn mạnh một nhận thức về Đàng Trong như một đất nước riêng đã phát triển kể từ đầu thế kỷ 17. Sự nhận diện này thực tế bao hàm hai ý nghĩa: một đất nước ngang hàng với miền bắc và một chế độ mang chất địa phương với người địa phương, chứ không mang tính xa lạ. Cái cảm thức thứ hai này liên quan đến tính chính danh và sự tự tin của nhà Nguyễn.

So sánh với miền bắc, nơi chế độ thi cử kiểu Trung Hoa bảo đảm rằng Nho giáo không bao giờ để mất sức hút đối với giai tầng sĩ phu tinh hoa, tư tưởng Nho giáo lại chỉ đóng vai trò xã hội, chính trị nhỏ hơn nhiều ở Đàng Trong. Tôi mượn lời của Nola Cooke:

Nho giáo ở Đàng Trong trở thành chuyện lựa chọn và thực hành cá nhân, ở một mức độ không thấy có ở miền bắc kể từ thế kỷ 13. Trên thực tế, vị trí của nó trong không gian tư tưởng ở phương nam khiêm tốn đến nỗi không ai màng đến việc ghi chép lại sự kiện khi một ngôi đền nhỏ kiểu Văn Miếu đầu tiên được dựng lên ở đó. [8]

Nhưng nhà Nguyễn không loại bỏ các truyền thống Việt Nam khác; đặc biệt, họ lấy Phật giáo Đại thừa làm giải pháp cho nhu cầu tinh thần và ý thức hệ cho một tông tộc cai trị mới. Phật giáo một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và củng cố tính hợp pháp cho các nhà cai trị họ Nguyễn. Từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các chúa Nguyễn thời kì đầu tất thảy đều là những tín đồ sùng mộ Phật giáo. Ít ai có được sự tha thiết như vị chúa thứ sáu, Nguyễn Phúc Chu (cai trị từ 1691 đến 1725), người tự nhận mình thuộc thế hệ thứ 30 của dòng thiền Lâm Tế [9] . Sự khẳng định này làm nhớ lại những vị vua triều Lý thế kỷ 11, những người trở thành thế hệ thứ nhất, thứ ba và thứ năm của dòng thiền Thảo Đường, và cũng gợi lại các vị vua Trần, Thái Tôn và Nhân Tôn, nổi tiếng với thiền phái Trúc Lâm. Nhưng người ta không thấy có điều gì tương tự tại miền bắc Việt Nam kể từ khi nhà Lê thành lập, mà nền tảng của nó gắn với các lý thuyết chính trị cổ điển Trung Quốc. Tại miền Bắc, vua là đỉnh cao của xã hội, là liên hệ trực tiếp với ông trời, và vì thế đứng cao hơn mọi người. Tại đây, nếu một vị vua lại chỉ là một trong nhiều thế hệ kế tiếp của bất kỳ tông phái tôn giáo nào cũng sẽ bị xem là giảm giá trị. Tuy nhiên, thoát khỏi những ràng buộc vương quyền như thế, các vua Nguyễn ở Đàng Trong thoải mái hành đạo như họ muốn. Phật giáo nở rộ với sự ủng hộ của nhà Nguyễn, đến mức năm 1749, nhà lữ hành Pháp, Pierre Poivre, tường thuật rằng chỉ riêng ở quanh Huế đã có khoảng 400 ngôi chùa, cùng nhiều chùa ở các nơi khác [10] .

Nhắc đến đạo Phật, sự khác biệt bản chất thật sự giữa hai thực thể ở phía bắc và phía nam thể hiện ở tầm mức triều đình, tức là việc nhà Nguyễn trước sau như một bảo vệ Phật giáo và thực tế đã đưa nó thành tôn giáo nhà nước của Đàng Trong. Phải thừa nhận rằng cả các vua Lê lẫn chúa Trịnh ở phía bắc cũng bảo trợ Phật giáo trong những thế kỷ này, trong một số trường hợp cũng rất nhiệt thành. Vào cao trào ảnh hưởng của giới nho sĩ trong thập niên 1660, và chỉ vài năm sau khi các học giả đã soạn một chỉ dụ luân lý gồm 47 điều chịu ảnh hưởng Hán hoá, công kích các hành vi mê tín và hạn chế việc xây lậu các chùa Phật [11] , thì chính họ Trịnh đã mời các nhà sư Trung Hoa vào để khôi phục Phật giáo tại địa phương năm 1667. Các hoàng thân nhà Trịnh thường xuyên thăm các địa điểm Phật giáo, đi lễ, trong khi một thành viên trong gia đình họ còn lập một chi phái mới. Tuy nhiên, dù có sự bảo trợ cấp cao này, không người nào ở miền Bắc lại tin rằng Phật giáo có thể thách thức các quan niệm chính trị và ý thức hệ chính thức kiểu Trung Hoa vốn là “nguyên tắc căn bản của nhà nước” [12] . Thật ra, Phật giáo được khuyến khích ở miền Bắc chỉ ở trong mức độ nó là phương tiện giải thoát cá nhân, không trở thành đe doạ cho trật tự chính trị [13] . Nếu làm khác đi, Phật giáo chắc chắn sẽ bị kiểm soát chặt chẽ như Thiên chúa giáo, tôn giáo có nguồn gốc ngoại quốc và dính líu Châu Âu mà đã gây nghi ngờ cho cả chính quyền ở phía bắc và phía nam thời kì đó.Việc Phật giáo miền Nam mang tính tổng hợp (syncretic) giúp nó có sự thu hút rộng rãi hơn. Ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ, là một ví dụ ấn tượng chứng tỏ các dòng tôn giáo khác nhau đã kết hợp ra sao, và làm thế nào mà, từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các nhà cai trị lại có thể đan kết những thành phần khác nhau này thành một mô hình tôn giáo bản địa hợp thuỷ thổ và giúp hỗ trợ cho quyền lực của họ. Chùa Thiên Mụ toạ lạc trên một ngọn đồi có phong thuỷ mạnh tới nỗi, theo truyền thuyết địa phương kể, nó đã buộc một viên quan Trung Quốc thế kỷ 9 (Cao Biền) phải tìm cách cắt yểm đi bằng việc đào hào phía sau chân núi. Địa điểm này cũng có một ngôi đền quan trọng thờ nữ thần Po Nagar. Theo truyền thuyết Việt Nam, năm 1600, một vị nữ thần hiện ra trong hình dáng một bà lão, mà sự mô tả về bà kết hợp những yếu tố của thần Po Nagar và nữ thần của Lão giáo. Bà nói bậc quốc chủ đã đến và sẽ khôi phục vượng khí linh thiêng bằng việc lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này. Chúng ta có thể không bao giờ biết liệu lời tiên tri này được loan ra trước hay sau khi Nguyễn Hoàng hoàn tất điềm linh ứng bằng việc cất dựng chùa vào năm 1601. Điều quan trọng ở đây là khi vị chúa Nguyễn đầu tiên cất dựng chùa Phật ở điểm linh thiêng này, ông đã làm một cử chỉ có tầm quan trọng chính trị. Nếu quả như nhận định của Nguyễn Thế Anh, đây là một sự xây dựng mang tính biểu tượng tại một nơi đã có sẵn ngôi đềm mà thần linh ở đấy chưa được nhà Lê chính thức sắc phong, thì hành động của Nguyễn Hoàng lại càng mang đậm nét ý nghĩa địa phương hơn [14] .Còn về thần Po Nagar, nữ thần lớn của người Chăm này mau chóng được Việt hoá thành Thien-Y-A-Nâ, và khu vực xung quanh Huế sau đó có nhiều ngôi đền thờ bà. Vào đầu thế kỷ 20, Leopold Cadiere đếm thấy số lượng đền còn tồn tại nhiều đến mức Nguyễn Thế Anh đặt giả thiết là “trung tâm quyền lực của nhà Nguyễn đã luôn gắn trong một môi trường chịu ảnh hưởng sâu sắc của vị thần này” [15] . Chắc chắn tại khu vực này, việc thờ phụng bà diễn ra tự do và gần gũi với gốc gác Chăm. Còn có thêm nhiều vật thờ giữa những người dân bình thường, như thờ đá, thờ cá sấu, thờ cọp [16] . Poivre viết: “Núi, rừng, sông, ngòi, ký ức về tổ tiên, lòng kính trọng đối với người đã khuất, và đặc biệt thần là thánh, đều là đối tượng của việc thờ cúng. Mỗi người có một vị thần cho óc tưởng tượng của mình” [17] . Mặc dù tôn giáo dân gian ở miền Bắc cũng có đền thờ bách thần gồm các loài thú hay cây cỏ, nhưng chính quyền tại đó cố gắng thực thi các biện pháp “thanh luyện xã hội”. Ở Đàng Trong không xảy ra điều tương tự; tại đây, nhà Nguyễn tìm cách bảo trợ thay vì trừng phạt các vị thần địa phương, công nhận rằng các vị thần miền Nam cũng đa dạng như chính xã hội miền Nam.

Những điểm tương tự với các khu vực khác của Đông Nam Á cũng thể hiện qua khái niệm vương quyền. Như O.W. Wolters đã chỉ ra, tại Đông Nam Á, “địa vị của vua là độc nhất vô nhị chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo” [18] . Đây có lẽ là lý do nhà Nguyễn đã xưng là Chúa Tiên hay Thiên Vương vào năm 1744, sau khi đã từng dùng tên hiệu chúa Sãi. Đại Sán, một vị sư Trung Quốc đến thăm Nam bộ năm 1695 nhận xét rằng cung điện của Nguyễn Phúc Chu trang hoàng bằng cờ Phật, rèm trướng, cá gỗ, những quả chuông lộn ngược giống như một ngôi chùa [19] . Làm như vậy, nhà Nguyễn chứng tỏ với thần dân là họ kết hợp uy quyền hoàng gia và tôn giáo ở Đàng Trong, và thể hiện bản sắc văn hoá và quốc gia của họ trước người Việt trong lúc cũng thể hiện với dân địa phương là họ tiêu biểu cho quyền lực cao nhất tại khu vực này. Có lẽ đi theo dấu của các láng giềng phương nam, những hành vi của nhà Nguyễn giống những điều mà các nhà cai trị các vương quốc như Chămpa và Campuchia đã làm trong nhiều thế kỷ. Họ Nguyễn cũng phân biệt mình với họ Trịnh, vốn còn chấp nhận ý niệm Nho giáo rằng hoàng đế chỉ là con trời, chứ không phải là trời [20] .

Mô hình phi Nho giáo này có hiệu quả trong xã hội Đàng Trong đến mức nó cho phép người Việt tại đó sống theo một cách khác với người bắc. Vào cuối thế kỷ 18, đáng chú ý khi thấy một viên tướng Tây Sơn ở Nghệ An chế giễu đền xã tắc, một khái niệm Nho giáo quan trọng được kính ngưỡng ở miền Bắc (Xã là nền xã thờ Thần Đất. Tắc là nền tắc thờ Thần Nông). Viên tướng nói: “Cẩu hữu lợi ư xã tắc [Một con chó cũng còn hữu dụng hơn xã tắc]” [21] . Khái niệm thần này hầu như không được dân chúng ở Đàng Trong biết tới; theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường, các đền xã tắc không xuất hiện cho mãi đến đời vua Minh Mạng (1819-1841), khi triều Nguyễn, lúc này đã cai trị toàn Việt Nam, có nỗ lực thống nhất tư tưởng tôn giáo trên toàn quốc [22] . Tình tiết này minh hoạ sự khác biệt ngày càng tăng trong tín ngưỡng giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài sau hai thế kỷ phân cách. Nhiều giá trị cũ ở miền Bắc đã đánh mất ý nghĩa của chúng, trong khi một điều mà người bắc xem là dị giáo như một nữ thần Chăm lại trở nên có ý nghĩa cho người Đàng Trong. Phật giáo – trong nhiều thế kỷ bị giới sĩ phu cuối thời Trần và Lê phê phán – lại trở thành tôn giáo chính, ở cả mức độ chính sách lẫn tín ngưỡng quảng đại ở Đàng Trong.

Tính di động dễ dàng ở miền Nam cũng trực tiếp xung khắc với tính cách ưu tiên của tập thể, một giáo lý căn bản của Khổng giáo nhấn mạnh giá trị của nhóm xã hội – gia đình, làng – hơn là nhu cầu hoặc mong ước của những thành viên của nó. Khi cách ly, các cá nhân không có bao nhiêu giá trị hay định hướng, mà cá nhân chỉ đáng kể khi hoàn thành một loạt những quan hệ cố định bên trong cộng đồng. Nói cách khác, bất kì ai không có địa vị trong một nhóm xã hội như gia đình hay làng, thì không thực sự là một nhân vị và đừng hy vọng có tương lai tốt đẹp hơn trong một xã hội làng xã truyền thống. Những con người này dường như đã là một trong những dòng di cư Việt chính vào miền Nam. Như một nhà nghiên cứu, Huỳnh Lứa, mô tả, miền Nam là một nơi dành cho “những người đã không có quyền sống trên vùng đất cũ” [23] . Hickey cũng nhấn mạnh điểm này:

Với ngôi làng mới [của miền Nam] được thành lập bởi những người có địa vị thấp chứ không phải bậc vị vọng của xã hội cổ truyền, một số lượng tri thức riêng tư liên quan những phương thức cũ không tránh khỏi bị mất đi… Tuy vậy, cũng theo lý lẽ đó, những người khai hoang lại ít chịu ràng buộc bởi những gò bó của một địa vị xã hội và những quy định trong cách hành xử của xã hội cũ, vì thế họ được tự do sáng tạo, một đặc điểm thiết yếu cho việc thay đổi thành công (và tồn tại) khi họ tiếp tục tiến xuống phía nam. [24]

Những hoàn cảnh như vậy khiến con người cởi mở và tự phát hơn, để trở thành những người dám chịu rủi ro như Nguyễn Hoàng, người mà Keith Taylor đã tinh tế mô tả là “dám mạo hiểm mà không sợ bị quy là phản loạn, bởi vì ông đã tìm thấy một nơi mà chuyện gán ghép này không còn ý nghiã” [25] . Đó là một thế giới rộng hơn, và cho con người cảm thức lớn hơn về tự do.

Những khía cạnh xã hội của quá trình địa phương hoá của người Việt

Tính chất tứ xứ lưu dân của Đàng Trong lại được thay đổi thêm bởi môi trường trong những ngày đầu. Đất rộng người thưa, lắm cá nhiều tôm thiên nhiên trù phú – đây là một tình trạng giống với các láng giềng của Đàng Trong ở Đông Nam Á hơn là khu vực Đàng Ngoài ở miền Bắc. Vì thế, cũng tự nhiên khi họ đón nhận những khía cạnh của cuộc sống vật chất của người khác tại đây.Ví dụ, chúng ta biết cho đến cuối thế kỷ 18 đa số các ngôi nhà của thường dân tại Đàng Trong là loại nhà cất trên cọc giống như ở các nước Đông Nam Á khác, và một loại tàu của Mã Lai, ghe bàu, đã được sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Loại ghe này gần như chắc chắn được người Việt làm theo mẫu của người Chăm, vì người Chăm buôn bán nhiều với người Mã Lai, và khu vực có loại thuyền này trải dài từ Hội An xuôi xuống phía nam đến Thuận Hải [26] , là vùng đất đã có người Chăm cư trú. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam thậm chí còn đặt giả thuyết là không chỉ kỹ thuật, mà đến cả từ ghe và bàu đều là mượn của Mã Lai. Họ chỉ ra sự giống nhau của từ ghe trong tiếng Việt và từ gai trong tiếng Mã Lai (một sợi dây thừng hay dây néo cột buồm), và cho rằng từ bàu là đọc trại đi của từ prahu của Mã Lai (một thuyền nhỏ) [27] . Sự tương tự đủ mạnh để John Barrow, năm 1793, nhận xét rằng các con thuyền lớn ở vùng Tourane giống các thuyền buồm Mã Lai cả về thân ghe lẫn chằng néo các cột buồm [28] .

Ảnh hưởng Chăm cũng được thấy trong kỹ thuật làm ruộng của người Việt. Cái cày mà người Việt dùng ở đồng bằng sông Hồng và sông Mã không mạnh ở phần đế và có một cái lưỡi nhỏ. Loại cày này phù hợp cho loại đất không rắn lắm, và ở nơi ít cỏ. Những điều này đáp ứng các đặc tính đất đai ở phía bắc – đã được cày cấy trong cả ngàn năm bởi một dân số đông đúc – và loại cày này chỉ tìm thấy ở phía bắc sông Gianh, nơi đánh dấu biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ở Đàng Trong, người Việt gặp phải loại đất cứng, cỏ dầy, và khó trồng trọt. Để trở đất, người Việt đã mô phỏng cái cày của người Chăm, vốn chắc hơn, đặc biệt ở phần đế, nhưng người Việt cũng chế thêm một cái nang để điều chỉnh góc. Các bộ phận của cây cày lấy từ mô hình Chăm thì giữ tên gọi theo tiếng Chăm, trong khi các phần gắn với cái nang thì mang tên Việt (to nang hay tế nang). Loại cày mới này được người Việt mang theo khi họ chuyển đến đồng bằng sông Mekong [29] .

Tại miền trung Việt Nam, văn hoá Chăm cũng có ảnh hưởng rộng lớn đến độ ngày nay ta vẫn thấy những ảnh hưởng này trong nhiều phong tục: từ việc ăn gỏi đến cách thức đội khăn [30] , chôn cất người chết trong huyệt theo kiểu người Chăm mặc dù người Việt không nhất thiết đã hiểu rõ nguồn gốc của những tập tục này [31] . Đáng ngạc nhiên, ngay cả mắm nêm tiêu biểu cho cách nấu nướng Việt Nam, theo một số học giả Việt Nam, cũng có thể có nguồn gốc Chăm. Một nhà người cứu người Việt chuyên về tập tục miền Nam thậm chí chỉ ra sự tương tự giữa áo dài (được gọi là quần áo “truyền thống” của phụ nữ Việt Nam mà mọi phụ nữ Việt Nam đều mặc trong dịp đặc biệt), và chiếc váy của phụ nữ Chăm (tah trong tiếng Chăm); áo dài chỉ phân biệt ở chỗ có bổ sung thêm cổ áo. Kiểu áo này rất khác với áo tứ thân vốn là trang phục trang trọng của phụ nữ miền Bắc trước thế kỷ 20 [32] .

Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất khiến người Việt mới ở phương nam khác người Việt ở phương bắc là thái độ của họ với ngoại thương. Đàng Trong ra đời trong một “thời đại thương nghiệp” [33] . Nền tảng nông nghiệp yếu ớt tại Đàng Trong thế kỷ 17 gần như không thể trợ đỡ cho cuộc đối đầu với lực lượng có ưu thế hơn hẳn của họ Trịnh, và họ Nguyễn thời kì đầu đã phải từ bỏ hành vi của tất cả các nhà nước Việt Nam trước đó và cho phép thương mại khá tự do. Tuy điều nay tự thân nó đã là bất thường, nhưng những gì diễn ra ngay sau đó thì gần như chưa từng xảy ra bao giờ: nhà Nguyễn nhanh chóng trở thành những người nhiệt tình với ngoại thương, và với người nước ngoài. Khi có cơ hội, họ mau mắn nối kết Đàng Trong với các tuyến đường thương mại Nhật Bản và Trung Quốc. Việc một phần tư của toàn bộ các thuyền có hải trình Châu Á của Nhật Bản đã tới buôn bán với Đàng Trong, và việc 30% số thuyền của người Hoa từ các nước Đông Nam Á đến Nhật từ 1647 đến 1720 xuất phát từ Đàng Trong, chứng tỏ trong thế kỷ 17, khu vực này trở thành đối tác thương mại quan trọng của Nhật, và có vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại tại Châu Á [34] . Sự tồn tại độc lập của Đàng Trong, và quyền lực cũng như của cải của nhà Nguyễn, chủ yếu dựa vào việc ngoại thương này, một tình trạng độc nhất vô nhị trong toàn bộ lịch sử Việt Nam thời trước thuộc địa. Theo gương người Chăm, Đàng Trong thế kỷ 17 đã tìm thấy tài nguyên và khí lực để tiến hành một giai đoạn bành trướng về dân số, của cải và đất đai, mặc dù có cuộc chiến với miền Bắc kéo dài 50 năm. Riêng đặc điểm này của Đàng Trong đã phân biệt nó với Việt Nam trước đó, vốn có một nền kinh tế hàng hoá yếu ớt.

Người Việt ở phía nam cũng tiếp nhận các hành vi khác như cướp biển và sử dụng binh tượng [35] . Đặc biệt, việc buôn bán nô lệ, một hành vi không thể chấp nhận ở phía bắc, lại là một phần bình thường trong cuộc sống của người Việt ở môi trường mới, như Poivre nhận thấy vào năm 1750:

Tôi yêu cầu nhà vua cho tôi ít nhất là một số người Mọi hay nô lệ để làm thợ thủ công (vì người nô lệ trong vùng này chỉ là những người thô lỗ bị người Đàng Trong bắt từ núi về). Nhà vua trả lời là điiều này không có gì khó nhưng ông gợi ý là tôi chờ sang năm sau và ông hứa sẽ cung cấp đủ cho tôi số nô lệ vào khi ấy. Ông nói thêm rằng năm nay ông chỉ có thể dàn xếp để mua hai loại nô lệ: loại man dã vì mới bắt được, chưa được giáo dục đầy đủ nên chả làm được gì có ích; và loại đã quen với vùng này và được dạy dỗ một số kỹ thuật. Nhưng tôi mới vừa mua về xong thì chúng đã bỏ trốn vì chúng muốn quay về với vợ con. [36]

Rõ ràng chúa Nguyễn đã quen thuộc với chế độ nô lệ, và việc buôn bán người Thượng đã trở nên bình thường đến độ triều đình đã đánh thuế cùng tỉ lệ với việc buôn bán voi ở khu vực Thuận Hoá [37] . Trong việc này cũng như những khía cạnh khác của đời sống, nhà Nguyễn chắc thấy rằng việc áp dụng tập tục văn hoá bản địa vừa thuận tiện lại vừa có lợi. Có lẽ không quá xa sự thật khi nói sức mạnh của nhà Nguyễn thật sự nằm trong việc địa phương hoá của họ.

Họ Nguyễn cũng hoàn toàn khác với họ Trịnh trong chính sách đối với người Hoa. Đã sống trong bóng của Trung Quốc và trải qua các cuộc xâm lăng, các nhà cai trị người Việt ở miền bắc luôn rất cảnh giác trước người Hoa, nhưng nhà Nguyễn lại có một thái độ rất thoải mái với người Hoa và cho phép các cộng đồng buôn bán quan trọng của người Hoa thành hình ở Huế, Hội An, Quy Nhơn và sau này ở Sài Gòn. Đến cuối thế kỷ 18, dân số người Hoa ở phía nam Việt Nam có lẽ ở khoảng từ 30 đến 40 ngàn [38] . Vào cuối thế kỷ 17, nhà Nguyễn tước quyền kiểm soát Biên Hoà và Mỹ Tho khỏi Campuchia, phần lớn nhờ vào nỗ lực của khoảng 3000 người Minh hương từ Quảng Đông, những người được đưa đến định cư tại đây sau khi họ xin tỵ nạn tránh khỏi nhà Thanh vào năm 1679. Hà Tiên, một cảng quan trọng chiến lược khác trên biên giới Khmer – Việt, rơi vào tay nhà Nguyễn nhờ hoạt động của Mạc Cửu, một người Minh lánh nạn từ Quảng Đông, trong đầu thế kỷ 18. Cả ba vị trí này đã phát sinh những thị trấn sung túc và thu hút ngoại thương, làm suy yếu Campuchia, trước đó vốn là quyền lực thống trị tại khu vực. Ở những thị tứ này, người Hoa là thương nhân và thợ thủ công, và một số người được bổ nhiệm làm nhân viên thuế quan, một tình trạng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Năm 1698, nhà Nguyễn chấm dứt vị thế nửa tự trị của người Hoa ở đồng bằng sông Mekong bằng việc lập phủ Gia Định. Họ ghi danh sổ sách những cư dân người Hoa ở hai làng Minh hương, xem đây là thường trú nhân chứ không phải là thương gia tạm trú. Điều này đưa nhà Nguyễn trở thành chính quyền sớm nhất tại Đông Nam Á áp dụng một chính sách địa phương hoá [39] . Trong điều kiện thuận lợi đó, người Hoa đóng vai trò phức tạp trong giai đoạn Tây Sơn, khi cả Nguyễn Ánh lẫn anh em Tây Sơn nhờ đến người Hoa để có nhân lực và sức mạnh kinh tế.

Kết luận

Sự phát triển một bản sắc Việt Nam địa phương hoá tại Đàng Trong có vẻ là một phản ứng thành công trước môi trường mới. Không có nghĩa là tôi nói người Việt ở Đàng Trong không “còn là người Việt Nam nữa”. Mà đúng hơn, như Keith Taylor đề nghị, khu vực này cho phép việc tạo dựng một “phiên bản khác của việc làm người Việt, được phân biệt nhờ sự tự do tương đối tách khỏi quá khứ của Việt Nam” [40] , đặc biệt là tách khỏi quá khứ gần của mô hình Nho giáo đã được thực thi kể từ khi nhà Lê thành lập ở phía bắc. Giai đoạn hai thế kỷ của họ Nguyễn đã tạo nên nhiều tính cách của người phương nam, thí dụ như óc tò mò và cởi mở trước cái mới và tư tưởng mới, tính hồn nhiên và khoáng đạt hơn, và thái độ không dễ dàng chịu bị ràng buộc bởi lịch sử và truyền thống.

Mặc dù những thay đổi trong thời kì này rõ ràng đóng vai trò tích cực trong văn hoá Việt Nam, nhưng chúng cũng tạo ra những sự đứt đoạn trong mối liên kết cộng đồng mà những nho sĩ Việt Nam thế kỷ 19, những người phụ trách việc viết sử chính thức về những thế kỷ này, thấy không chấp nhận được. Một bản thảo lưu giữ trong Viện Hán Nôm tại Hà Nội nói rằng trong năm thứ hai Minh Mạng (1820), nhà vua lệnh cho Quốc sử Quán viết nên bộ sử của vương quốc, chỉ rõ rằng “văn phong, cách biểu lộ và các sự kiện phải được đo lường và cân nhắc trước khi được ghi vào sách” [41] . Nhiều thông tin đã bị loại bỏ trong quá trình đo lường và cân nhắc này. Trong suốt thế kỷ 19, các sử quan có khuynh hướng lờ đi hoặc giảm nhẹ những khía cạnh không chính thống hay phi Nho giáo của xã hội Đàng Trong, ví dụ như chế độ nô lệ và liên hệ với người Chăm, Nhật Bản, và Khmer – chắc chắn đây là một nỗ lực nhằm đạt tới những cân bằng và thoả hiệp mà người ta muốn có.

Nhà Nguyễn cũng không được đối xử khá hơn trong tay các nhà nghiên cứu Việt Nam thời hiện đại. Như David Marr đã chỉ ra, các nhà viết sử Việt Nam thế kỷ 20 đã thường “được yêu cầu phải cân bằng những yếu tố liên tục với những yếu tố thay đổi trong câu chuyện” [42] . Sự thống nhất quốc gia và tinh thần chống ngoại xâm là hai chủ đề được xem là trung tâm trong kinh nghiệm làm người Việt, mà nhà Nguyễn thì vi phạm cả hai nguyên tắc này. Thứ nhất, Đàng Trong đã huỷ hoại sự thống nhất quốc gia trong hai thế kỷ. Thứ hai, viết sử sau giai đoạn Tây Sơn (một phong trào đã tiêu diệt chế độ họ Nguyễn năm 1774), các sử gia tại Hà Nội ghi công vua Quang Trung Nguyễn Huệ là đã thống nhất đất nước khi đội quân này nổi dậy đánh bại họ Trịnh, và rồi đánh bại cuộc xâm lăng của Trung Quốc năm 1789. Còn Nguyễn Ánh, người sống sót cuối cùng của họ Nguyễn, sau đó đánh bại các anh hùng Tây Sơn vốn được ca ngợi, lại có sự giúp đỡ của người nước ngoài, trong đó có các linh mục và sĩ quan Pháp, vốn bị các sử gia tại Hà Nội xem là tiền thân của chủ nghĩa thực dân Phương Tây. Có lẽ vì điều này, các sử gia nhà nước tại Hà Nội không mấy chú ý tới Đàng Trong, với luận điểm là nó chỉ đại diện cho một biến thể địa phương của một lịch sử chung mà nhân vật chính là Lê / Trịnh [43] . Họ xem vương quốc “Đại Việt” phía bắc trong thế kỷ 17 và 18 là một thực thể duy nhất bao quát toàn bộ các vùng của Việt Nam và thể hiện “tính cách Việt Nam” chung. Trong nhiều thập niên, cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài Việt Nam đều chấp nhận cách mô tả này về “một quá khứ Việt Nam đơn nhất” [44] .Bài viết này cho rằng có hai “Đại Việt„ tồn tại vào lúc đó, và rằng thực thể ở phương nam có một ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Việt Nam bởi vì nó thể hiện “một ý thức đa chiều hơn về bản sắc Việt Nam” [45] . Thử nghiệm của nhà Nguyễn đã mở ra một cánh cửa phát triển khác cho Việt Nam. Nó cung cấp một không gian mới mà trong đó, các phong cách của lưu dân người Việt và các láng giềng có thể giao tiếp với nhau, và thể hiện rằng xã hội Việt Nam, ngay từ thế kỷ 17 và 18, đã có thể phát triển tương đối ở ngoài cái khung Nho giáo. Và nó đánh dấu một khoảnh khắc lịch sử hiếm hoi khi người Việt Nam có cơ hội diễn giải lại truyền thống của họ theo một cách tươi mới và sinh động. Cuối cùng cánh cửa này bị đóng lại khi mà trật tự trở thành một quan ngại xã hội to lớn của triều Nguyễn sau năm 1802, một triều đại được thành lập sau một thế hệ nội chiến. Từ Minh Mạng trở về sau, triều đình tìm cách vẽ nên một hình ảnh chính thống, ổn định và trang nghiêm hơn về Việt Nam trước thế giới bên ngoài. Lịch sử xã hội Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã được viết lại bởi các nho sĩ thế kỷ 19 với nhu cầu “sửa lại sai trái”, và “làm gương tốt” cho tương lai theo đúng truyền thống Nho giáo. Nhưng nếu cái xã hội thành hình ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã bị các sử quan thế kỷ 19 cố tình lờ đi, thì sự bỏ qua này lại để lại một không gian hấp dẫn cho các sử gia về sau khai phá. Tôi hy vọng bài viết này là một đóng góp nhỏ cho nỗ lực đó.

Lê Quỳnh dịch

Nguồn: “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th Century”, tạp chí Journal of Southeast Asian Studies, tháng Ba 1998.

[1]Để đọc về phát hiện những điều quan trọng nhất giúp thay đổi cách nhìn về Chămpa, xem Po Dharma, Le Panduranga 1802-1835. Ses rapports avec le Vietnam (Paris: EFEO, 1987), hai tập (Paris: Travaux du Centre d’histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1988), đặc biệt là bài của Bernard Gay, “Vue nouvelle sur le composition ethnique du Campa”, trang 49-55, và bài của Po Dharma, “Etat des derniers recherches sur la date de l’absorption du Campa par le Vietnam”, trang 59-70. Cũng xem Pierre-Bernard Lafont, “Les grandes dates de l’histoire du Campa”, trong Le Campa et la Monde Malais (Paris: Centre dHistoiré et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1991), trang 6-25.
[2]Một sự thảo luận rọi sáng về hai xã hội có thể tìm thấy trong bài của Keith Taylor, Regional Conflicts among the Viet People between the 13th and 19th centuries, đọc tại hội thảo “La conduite des relations entre societes et etats: Guerre et paix en Asie du Sud-Est”, Paris, tháng Bảy 1996.
[3]Theo thống kê của Sakurai, trong số 49 trận lụt ở đồng bằng sông Hồng từ 1422 đến 1786, thì 22 trận xảy ra trong vòng 100 năm gần nhất. Xem: Yumio Sakurai, “A Study on the Peasant Drain During Le Dynasty in Vietnam”, To-nan A ja kenkyu 1, 16 (1978): 137
[4]Danh từ Đàng Trong và Đàng Ngoài dường như bắt đầu có trong thập niên 1620, hoặc trước hoặc ngay sau khi chiến tranh nổ ra giữa Trịnh và Nguyễn. Từ điển của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651 có chứa đựng cả hai từ này. Xem cuốn Dictionarivm Annamiticvm, Lvsitanvm, et Latinvmope (Rome: Typis & Sumptibus eiusdem Sacr. Congreg, 1651), trang 201.
[5]Để tham khảo một thảo luận về từ “nam tiến”, xem Keith Taylor, Regional Conflicts
[6]Xem Li Tana, Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the 17th and 18th centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program Monograph, 1998)
[7]Đại Nam thực lục tiền biên (Tokyo: Keio Institute of Linguistic Studies, Mita, Siba, Minato-ku, 1961), quyển 10, trang 136
[8]Nola Cooke, “Nineteenth-Century Vietnamese Confucianization in Historical Perspective: Evidence from the Palace Examinations (1463-1883)”, Journal of Southeast Asian Studies 25, 2 (tháng Chín 1994): 284
[9]Lời tự nhận này xuất hiện trong câu ghi của ông lên một bia tại Thiên Mụ tự. Ngũ kiên Thiên Mụ tự bi, kệ số 5683, Viện Hán Nôm, Hà Nội.
[10]P. Poivre, “Journal de voyage du vaisseau de la compagnie le Machault a la Cochinchine depuis le 29 aout 1749, jour de notre arrivee, au 11 fevrier 1750”, được H. Cordier in lại trong Revue de l’Extreme Orient, III (1885), trang 381. Ngày nay Huế có hàng trăm chùa và được gọi là “thủ phủ của Phật giáo”. Xem Thanh Tùng, Thăm chùa Huế (Huế: Hội Văn Nghệ Thành Phố Huế, 1989), trang 3
[11]Tiền biên, quyển 19, trang 974; Lê triều chiếu lệnh thiên chính (Sài Gòn: Bình Minh, 1961), trang 311; K. W. Taylor., “The Literati Revival in 17th-century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies 18, 1 (1987), 1-23.
[12]Philippe Langlet, La Tradition vietnamienne: un etat national au sein de la civilisation chinoise (Sài Gòn: BSEI, 1970), trang 70-71.
[13]Insun Yu, Law and Society in 17th and 18th Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, Korea University, 1990), trang 29. Bản tiếng Việt được in với tựa Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18 (Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 1994)
[14]Nola Cooke, “Vietnamese Confucianism”, trang 283-84; Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trong cuốn Essays into Vietnamese Pasts, do Keith Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: SEAP, Cornell University, 1995), trang 49. Cũng xem A. Bonhomme, “La pagode Thien-Mau: Historique”, trong Bulletin des Amis du Vieux Huế 2, 2 (1915): 175-77.
[15]Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trang 49
[16]Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm và Mạc Đường, Văn hoá và Cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Khoa học Xã hội, TP. HCM, 1990, trang 376-77
[17]“Description of Cochinchina, 1749-50”, trong Documents on the Economic History of Nguyen Vietnam, 1602-1774, do Anthony Reid và Li Tana biên tập (Singapore: Institute of Southeast Asia Studies / ECHOSEA, Australian University, 1993), trang 84

[18]O. W. Wolters, History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives ̣(Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1982), trang 19
[19]Da Shan, “Hai Wai Ji Shi”, trong Shi Qi Shi Ji Guang Nan zhi Xin Shi Liao, do Chen Chingho biên tập (Taipei: Zhong Hua Cong Shu Bian Sheng Wei Yuan Hui, 1960), trang 15
[20]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 220-23
[21]Lời bình phẩm về xã tắc của Cao Huy Diêu vào đầu thế kỷ 19, được ghi lại trong Việt điện u linh tập, do Lê Hữu Mục dịch. (Sài Gòn: Khai Trí, 1961), trang 218
[22]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 235
[23]Huỳnh Lứa, “Quá trình khai phá vùng Đồng Nai – Cửu Long và hình thành một số tính cách, nếp sống và tập quán của người nông dân Nam Bộ”, trong cuốn Mấy đặc điểm Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hoá, Hà Nội, 1984, trang 121
[24]Hickey, The Vietnamese Village Through Time and War, The Vietnam Forum 10 (1987): 18
[25]Keith Taylor, “Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press)
[26]Thuận Hải là tên cũ của tỉnh Phan Rang.
[27]Nguyễn Bội Liên, Trần Văn An, Nguyễn Văn Phi, Ghe bầu Hội An – Xứ Quảng, bài tham luận tại Hội thảo quốc tế về Phố cổ Hội An, 3-1990
[28]John Barrow, A Voyage to Cochinchina, in the years 1792 and 1793 (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975), trang 319
[29]Ngô Đức Thịnh và Nguyễn Việt, “Các loại hình cày hiện đại của các dân tộc ở Đông Nam A”’, Khảo cổ học, số 4-1981, trang 55-56.
[30]Cách thức này được ghi lại bởi Fei Xin trong cuốn Xing Jue Sheng Lan (Bắc Kinh: Zhong Hua Shu Ju, 1954), trang 3.
[31]Các ngôi mộ quanh khu vực Huế rất khác với mộ ở các nơi khác ở Việt Nam, cả Bắc lẫn Nam. Tôi đa tạ GS. Đỗ Văn Ninh, người đã chỉ cho tôi biết những ngôi mộ này theo lối Chăm cổ.
[32]Phan Thị Yến Tuyết, Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1993, trang 92, 290
[33]Anthony Reid, trong cuốn Southeast Asia in the Age of Commerce, 1450-1680, tập 1&2 (New Haven: Yale University Press, 1988, 1993)
[34]Về chi tiết, xin xem Li Tana, Nguyen Cochinchina, chương 3 và 4
[35]Năm 1749, Poivre thấy 12 con cọp bị 40 con voi giết trong một ngày giải trí dành cho vua và quần thần.
[36]Xem: Poivre, Journal, trang 439
[37]Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, viết năm 1776 (Sài Gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá, 1973), quyển 4, trang 5a, 5b
[38]Nguồn chính thức của Việt Nam cho con số có 20.241 người Minh hương chỉ riêng tại Quảng Nam năm 1805. Châu bản, Quyển 1, Triều Gia Long, lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia số 1, Hà Nội. Crawfurd ước tính dân số người Hoa ở Sài Gòn năm 1822 ở khoảng từ hai đến ba ngàn. Xem John Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochinchina (Singapore: Oxford University Press, 1967), trang 214. Riêng tại Hội An, dân số người Hoa được ước tính khoảng từ bốn đến năm ngàn vào năm 1642. Xem “A Japanese Residents’ Account”, trong Southern Vietnam under the Nguyen, do Li Tana và Anthony Reid biên tập.
[39]Wang Gungwu,“Sojourning: The Chinese Experience in Southeast Asia”, trong Sojourners and Settlers: Histories of Southeast and the Chinese, Anthony Reid biên tập (Sydney: Allen & Unwin, 1996), trang 7
[40]“Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press, 1993)
[41]Xem Hàn các tập lục, ngăn số A. 1463, Viện Hán Nôm
[42]David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1971), trang 4
[43]Vì những lý do chính trị trong và sau cuộc chiến Việt Nam, Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 gần như không được chú ý trong cách sách giáo khoa lịch sử xuất bản tại Hà Nội. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở miền Nam như Tạ Chí Đại Trường và Phan Khoang đã có nhiều nỗ lực để đưa thông tin về Đàng Trong vào các sách Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771 đến 1802 và Việt sử xứ Đàng Trong, trong cuối thập niên 1960 và 1970.
[44]Keith Taylor, Lời nói đầu trong quyển Essays into Vietnamese Past, do K. W. Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: Cornell University Press, 1995), trang 5
[45]Alexander Woodside, Political Theory and Economic Growth in Late Traditional Vietnam, bài đọc tại hội nghị “The Last Stand of Autonomous States in Southeast Asia and Korea” (Bali, 1994), trang 15

 

Trong bang giao Đại Việt và Đại Thanh thời Tây Sơn có một sự kiện độc đáo xảy ra năm Canh Tuất [1790], đó là sau cuộc chiến tranh cuối năm Mậu Thân, đầu năm Kỷ Dậu [1789] với đại thắng của Đại Việt. Hai phía đã giảng hòa; nhân đại lễ bát tuần đại khánh của vua Càn Long năm Canh Tuất[1790], Nguyễn Quang Bình (vua Quang Trung) cùng các bồi thần trên 150 người được phía Đại Thanh đón tiếp long trọng, chu đáo từ đầu chí cuối gần một năm. Các sử gia đã nghiên cứu và đã nêu hết ý nghĩa to lớn của nỗ lực ngoại giao gần hai năm của triều Quang Trung, mà đỉnh cao là sự kiện nổi bật nêu trên.Nhờ vậy Đai Việt tránh can qua, hóa giải "lửa hận" hừng hực của những đầu nóng, quen chiến thắng hơn là chiến bại của vua quan nhà Thanh. Tuy nhiên vẫn còn tồn nghi chưa giải quyết rốt ráo: Nguyễn Quang Bình nhập Thanh là vua Quang Trung thực hay giả? Nếu giả thì ai đã làm vai trò "giả vương" của Đại Việt, nghĩa là đóng giả vua Quang Trung, để được vua tôi Càn Long đón tiếp long trọng từ biên giới Lạng Sơn đến hành cung Nhiệt Hà suốt năm Canh Tuất [1790]?

Để tiện trình bày kiến giải vấn đề nêu trên,thiết tưởng cần tổng quan những ý kiến tiêu biểu của các sử gia, các nhà nghiên cứu, các nhà báo từ trước đến nay.

A. Tổng quan vấn đề:

Các tác giả trong Ngô gia văn phái khi soạn Hoàng Lê nhất thống chí đã viết "giả vương nhập cận" là võ quan Nguyễn Quang Trực, người làng Mặc Điền, huyện Nam Đường (Nam Đàn), trấn Nghệ An. Ngô Thì Chí (1753 - 1788) viết chính biên và Ngô Thì Du (1772-1840)viếttục biên. Các dữ kiện giúp các tác giả là do các vị trong họ Ngô cung cấp, trong đó có Ngô Thì Nhậm. Ngô Thì Nhậm từng tổ chức sứ bộ có giả vương Quang Trung nhập Thanh để viếng Càn Long năm Canh Tuất[1790], có chú ruột là Ngô Tưởng Đạo.Con của Ngô Tưởng Đạo làNgô Thì Du sống ở Nghệ An, người viết hồi 15(có sự kiện giả vương) nên dữ liệu do HLNTC cung cấp có độ tin nhất định, khó bỏ qua.

Các sử quan trong quốc sử quán triều Nguyễn khi viết về " Ngụy Tây" trong Chính biên liệt truyện sơ tập, sách viết từ 1821 đến 1851, đã cho biết hai "giả vương", một "giả vương" tiếp chiếu Càn Long phong An Nam quốc vương cho vua Quang Trung vào tháng 11 năm Kỷ Dậu [1789] tại cố đô Thăng Long, một "giả vương" được Càn Long tiếp kiến ở hành cung Nhiệt Hà năm Canh Tuất [1790], đều do người cháu gọi bằng cậu của vua Quang Trung là Đại đô đốc Trị An hầu Phạm Công Trị đảm trách.Vì chính sử cung cấp dữ liệu nên các nhà nghiên cứu khó bác bỏ.

Nguyễn Thế Long trong sách Đại Việt quốc thư, xuất bản năm 2005 đã dựa vào một đoạn trong tờ dụ của vua Càn Long gửi bầy tôi của ông, từng đặt vấn đề "giả vương nhập cận" không phải là Phạm Công Trị, đoạn trích: "Còn như con y là Nguyễn Quang Thùy còn tuổi trái đào cũng có lòng ân cần thiết tha muốn chiêm cận, trẫm khen là có bụng trung hiếu, gốc ở chí tình nên trước đây đã giáng chỉ phong làm thế tử. Nay vì trên đường đi chẳng may nhiễm bệnh nóng lạnh, quốc vương kia khẩn khoản xin cho về nước điều trị nên thuận cho lời xin đó.Nguyễn Quang Thùy tuổi nhỏ, sức yếu, đang bị bệnh mà đi đường xa vạn dặm, không khỏi thêm phần mệt nhọc. Nghe Phúc Khang An nói đã phái bồi thần Đặng Văn Chân cùng với cháu của quốc vương là Phạm Công Trị cùng đưa ra khỏi cửa quan về nước, dặn là chữa trị cho chu đáo, việc đó rất đúng." Cùng quan điểm với Nguyễn Thế Long, sử gia Tạ Chí Đại Trường trong cuốn "Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến" (Nxb CAND, 2007) cũng đặt vấn đề nghi vấn: "Theo Liệt truyện thì vua giả là Phạm Công Trị, người có mặt ở Gia Định năm 1783. Rắc rối là trong sứ bộ năm 1790 lại có tên Phạm Công Trị đã đến Quảng Tây mà vì Nguyễn Quang Thùy bị bệnh, phải hộ tống trở về".

Phan Duy Kha trong bài viết "Bí ẩn sự kiện Quang Trung giả thời Tây Sơn" (blog Phan Duy Kha, 13/11/2012) đã nhắc lại quan điểm của Nguyễn Thế Long, Tạ Chí ÐạiTrường về sự kiện có Phạm Công Trị trong đoàn sứ bộ 1790, đã vào Quảng Tây nước Thanh nhưng đã hộ tống con trai Nguyễn Quang Thùy của vua QT trở về nước. Phan Duy Kha vẫn tin vào Đại Nam chính biên liệt truyện, ra sức lập luận logic nhằm chứng minh nhân vật hộ vệ Nguyễn Quang Thùy trở về là Phạm Công Trị giả, còn Phạm Công Trị thật vẫn tiếp tục là giả vương Quang Trung trong sứ trình.

Vào ngày 1-3- 2013, nhà báo Bùi Ngọc Long trong loạt bài "Theo dấu tích vương triều Tây Sơn" đăng trên báo Thanh Niên, đã dựa vào công bố của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu khi đề cập "giả vương" Phạm Công Trị. Năm 1988, nhà nghiên cứu Lê Nguyên Lưu được cộng tác viên Đỗ Văn Tri thông báo, đã tiếp cận tấm bia cổ, ở Niêm Phò, Hương Điền, Thừa Thiên Huế, chủ nhân là bà Hoàng Thị Nghĩa, chánh thất của Phạm Công Hưng, em trai của bà Phạm Thị Liên (chánh cung hoàng hậu của vua Quang Trung).Nhờ văn khắc trên bia phát hiện, Lê Nguyễn Lưu xác định quả có Trị An hầu Phạm Công Trị, con của Thái úy quận công Phạm Văn Hưng. Ông Hưng là em trai của bà chánh cung hoàng hậu Phạm Thị Liên của vua Quang Trung. Như thế Phạm Công Trị là cháu gọi bằng cô của bà chánh cung, gọi vua Quang Trung là "bác" hoặc " dượng" chứ không là cháu gọi vua Quang Trung là "cậu" như chính sử đã chép.Phạm Công Trị từng đóng giả vua Quang Trung để tiếp kiến vua Càn Long năm 1790. Bùi Ngọc Long nhắc lại quan điểm của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu về người đóng giả vua Quang Trung là Nguyễn Quang Trực, người Mặc Điền, Nam Đàn, Nghệ An.Theo Lê Nguyễn Lưu thì Nguyễn Quang Trực là giả vương tiếp chiếu sắc phong An Nam quốc vương ở Thăng Long vào tháng 11 năm Kỹ Dậu [1789]; lý do lúc bấy giờ Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung ủy quyền lo liệu việc bang giao vớí nước Thanh, việc tiếp chiếu ở Thăng Long không quan trọng bằng " giả vương triều cận," năm Canh Tuất [1790] nên họ Ngô đã chọn Nguyễn Quang Trực ở Nghệ An.

Với công bố của Phan Duy Kha, Bùi Ngọc Long vào năm 2012,2013 thì có thể chấp nhận "giả vương nhập cận" là Trị An hầu Phạm Công Trị như chính sử đã công bố. Tuy nhiên, trên giatocnguyencuu.wordpress.com, ngày 22-1- 2014 ông Nguyễn Cửu Vịnh (đời 10, thủy tổ là Nguyễn Cửu Kiều) đã chuyển từ Vân Dương Kinh phổ (gia phả họ Nguyễn Cưủ 1999) sang word, có đoạn "2. *NGUYỄN CỬU TRỊ 5KP – 22BP:Nội đội Trị An hầu, con thứ 12 của Hoán Quận công, dung mạo cao lớn đẹp đẽ tánh lại khôn khéo. Thuở giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Bình chiếm cứ, khiến ông cải trang làm giả vương sang triều kiến vua Cao Tông (Càn Long) nhà Thanh.Về sau ông sống tại Hà Nội, coi thuế hầm mỏ Tuyên Quang, không biết chết như thế nào". Công bố của tộc họ Nguyễn Cửu khiến giới nghiên cứu trở lại vấn đề "giả vương nhập cận". 
TS Nguyễn Duy Chính trong quyển "Giở lại một nghi án lịch sử Giả vương nhập cận - có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả hay không" (NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2016) đã dựa trên nhiều nguồn tư liệu xác thực đương thời của cả hai bên, đặc biệt là văn thư trao đổi của các đại thần hai triều, những chỉ dụ của Càn Long, biểu tấu của Quang Trung để bác bỏ quan điểm "giả vương nhập cận". Ông cho rằng chính vua Quang Trung, tức Nguyễn Quang Bình theo danh xưng của nhà Thanh, đã được vua Càn Long mời sang Bắc Kinh dự lễ bát tuần khánh thọ của vua Thanh. Nguyễn Duy Chính cho rằng cựu thần nhà Lê và các sử gia triều Nguyễn bịa đặt sự kiện "giả vương nhập cận" nhằm hạ thấp uy danh của Quang Trung cũng như triều đình Tây Sơn trong bang giao với triều Thanh.

Ngày 25-10-2016, tại phòng đọc Doanh nhân-Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM , nhà nghiên cứu, TS Nguyễn Duy Chính có cuộc giao lưu với bạn đọc về đề tài lịch sử, nổi bật là các ý kiến quanh triều Tây Sơn, trong đó nổi cộm sự kiện có hay không có "giả vương nhập cận".Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn đã bác bỏ lập luận của TS Nguyễn Duy Chính, bảo vệ quan điểm chính sử; rằng người sang Trung Hoa lúc bấy giờ là Quang Trung giả. Theo Trần Đình Sơn thì với tình hình lịch sử, xã hội khi đó, Quang Trung không thể rời quốc đô phú Xuân, dẫn theo phái đoàn văn võ hơn 150 người sang nước Thanh, trong thời gian dài gần một năm. Là người dẫn chuyện tại cuộc giao lưu, TS Trần Ðức Anh Sơn thông báo rằng khi ý kiến không có Quang Trung giả sang Trung Hoa được ông đưa lên Facebook cá nhân, liền có nhiều ý kiến cho rằng ý kiến của TS Nguyễn Duy Chính là không đúng với sự thật lâu nay sách sử Việt Nam công bố.

Hai nhà nghiên cứu Đình Đính và Võ Vinh Quang đã viết bài "Giả vương nhập cận-một nhân vật khác"(Tạp chí Sông Hương, 1-8-2017), sau quá trình tìm hiểu, đã tiếp cận "Vân Dương Kinh phổ" viết bằng chữ Hán, của họ Nguyễn Cửu, tầm danh gia vọng tộc của Đàng Trong. Hai tác giả đã xác nhận Vân Dương Kinh phổ, bản chữ Hán được viết năm 1850, có ghi chép Nguyễn Cửu Trị từng là "giả vương nhập cận". Vấn đề "giả vương nhập cận" được khơi lại, tiếc rằng hai nhà nghiên cứu Đình Đính và Võ Vinh Quang chỉ nêu vấn đề nhưng chưa kiến giải để khẳng định giả vương nào mới thực sự làm lễ "bảo kiến" với Càn Long.

B. Kiến giải mới về "giả vương nhập cận":

1/ Không có vua Quang Trung thật "nhập cận" :

Vua Quang Trung không thể qua nước Thanh để tiếp kiến Càn Long năm CanhTuất [1790] vì vua phải ở kinh đô Phú Xuân để lo đối phó "thù trong giặc ngoài" cả hai phía Bắc và Nam:

Phía Bắc "thù trong" là cựu thần nhà Lê, "giặc ngoài" là vua quan nhà Thanh còn "hậm hực" trận đại bại mùa xuân Kỷ Dậu [1789];mặt trận này vua Quang Trung tin tưởng Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, Phan huy Ích khi giao trọng trách cho họ.

Phía Nam, vua Quang Trung ở kinh đô Phú xuân để đối phó "thù trong" là vua anh Nguyễn Nhạc cùng các triều thần, hoàng tộc Qui Nhơn chưa nguôi việc Nguyễn Huệ từng phát hịch, đưa đại quân vào "bức ép" trung ương hoàng đế...và "giặc ngoài" là Nguyễn vương Phúc Ánh đang đứng vững ở Gia Định, có sự giúp rập của phương Tây, thủy quân đang phát triển mạnh; từng đánh chiếm một phần lãnh thổ phía nam của vua anh.

Thật vậy, có thể qua những thư từ của một số giáo sĩ viết năm 1790 để thấy vua Quang Trung không bao giờ có mặt ở nước Thanh.

Phù Lang Trương Bá Phát trên Tập-san Sử-Địa, số 21, 1-3-1971, có bài "Cuộc khởi dấy và chiến tranh của Tây Sơn", với đoạn dịch: "Cha Ginestar viết rằng: "Tây Sơn không ngờ Nhà Vua tới Bình Định hồi bấy giờ....Nhà vua ngó thấy gió mùa còn thuận tiện cho Ngài thật-hiện ý muốn của Ngài nên Ngài xuất hiện trước cảng của Tây Sơn, nơi đây Tây Sơn gom lại nào là tam bản, nào là thuyền chiến và những tàu khác. Tàu buồm thứ nhất của Nhà Vua là "chiếc tàu vỏ bằng đồng" (vật chưa từng thấy ở Quảng Nam quốc) vô trong cảng dưới quyền chỉ huy của ông Dayot....Song le, Tây Sơn liên-tiếp sử dụng đại bác để bắn, nhưng, hồi chiếc tàu vỏ đồng mới day qua để bắn, quân bảo vệ hải- cảng đều bỏ chỗ chạy trốn và trong hai ngày ở lại hải cảng,Nhà Vua xuống lịnh hỏa thiêu tất cả các tàu bè…

Nhà vua hoàn về Đồng- Nai lấy tư cách người chiến-thắng,với thâu-thập được tin mừng rằng hai anh em Tây Sơn đánh nhau vào 1790 đến 1792, mối bất- hòa ấy tồn-tại luôn luôn giữa hai anh em. Nhà vua lãnh-hội viễn-ảnh chiến thắng thuận lợi cho ngài…"(tr.90). Dẫn liệu này cho thấy giữa Phú Xuân và Qui Nhơn lục đục dai dẵng, không những Nguyễn Huệ Nguyễn Nhạc đánh nhau lớn trước năm 1789 mà còn giằng co đất đai, của cải, thứ vị,…kéo dài qua hai năm 1790, 1791. Vì vậy vua Quang Trung phải "hổ phục" ở Phú Xuân trong những năm cuối đời, để lo đối phó những thế lực phía Nam trong đó có năm 1790 vậy.

Đặng Phương Nghi trong bài "Triều đại Tây Sơn dưới mắt các nhà truyền giáo Tây phương", đăng ở Tập-san Sử-Địa, số 13, 1-3-1969, có dịch giới thiệu:

13-6-1790: Thư của ông Le Roy gửi ông Letondal [tr.1401-1403]

[tr. 1402] Theo như ông nói, thì chúng tôi không hay biết gì về cựu vương Nam Hà ở Dôúng Nai (Đồng Nai). Quân Nam Hà. Tiếm vương đã toàn thắng chúng tôi và để một người con khoảng 10, 11 tuổi cai trị chúng tôi.Bắc Hà đã thái bình nhưng người ta sợ sự yên ổn này không kéo dài. Quân Trung Hoa bị bại trận năm ngoái có thể sẽ trở lại tấn công nay mai. Mọi người tin tưởng rằng mùa tháng 5âm lịch sẽ phong phú nhưng gió không thuận mà mùa quá kém. Các giáo sĩ của ta ở Nam Hà nói rằng họ đã mất mùa này và nạn đói kém đang phá hoại xứ họ.Có người đề nghị với Tiếm Vương Quang Trung nên ngược đãi giáo đồ Gia Tô nhưng khi đình nghị, các quan đại thần tâu với ông rằng dân Công giáo rất đông, có nhiều trong các binh đội, nộp thuế đầy đủ và không hại ai cả.Nghe vậy, Tiếm Vương liền cả cười và nói rằng ông hy vọng đến tháng 6 dân Công giáo sẽ nộp đồng cho ông..."(tr.169). Dẫn liêụ này chứng tỏ năm 1790, xứ sở vua Quang Trung đang mất mùa, lại xảy ra vấn đề Công giáo ở Gia Định, Đồng Nai đang ủng hộ tích cực Nguyễn vương Phúc Ánh khiến một số triều thần tâu vua cấm đạo nên vua Quang Trung đã đình nghị ở triều đình Phú Xuân. Đây là bằng chứng vua Quang Trung thật đang ở kinh đô Phú Xuân vào tháng 5 Canh Tuất [1790].

Cũng trong bài đã dẫn, Đặng Phương Nghi dịch giới thiệu: "28-5-1790: Thư của ông La Mothe gửi ông Blandin[tr.216].

Tiếm Vương Quang Trung đang yên hưởng kết quả của sự tiếm ngôi dầu lời đồn [ngược lại]...ông vẫn đắm chìm trong niềm hoan lạc và bình thản hưởng cái kết qủa của những chiến thắng của ông ở Phú Xuân, và như chúa Sơn Lâm, tuy ra vẻ nằm ngủ nhưng sẵng sàng vồ mồi nếu kẻ nào chọc tới nó.

Về phần dân Bắc Hà chúng tôi, chúng tôi chỉ có một cậu bé 6,7 tuổi là con cả của Tiếm Vương, làm vua hay đúng hơn làm chúa, nhưng cậu bé đó có đại tướng và đại thần biết kiềm chế chúng tôi và bắt chúng tôi vâng lời."(tr.149).

Dẫn liệu này cho biết vua Quang Trung ở Phú Xuân trong năm 1790, ít xuất hiện trước ba quân, dân chúng; chỉ ẩn trong cung cấm kiểu "hổ phục" nhưng đang ra sức đối phó với hai thế lực Qui Nhơn và Đồng Nai.

Đến đây có thể khẳng định chính sử chép sự kiện "giả vương nhập cận" là chính xác và yên tâm kiến giải ai là "giả vương nhậpcận" ?

2/ Ai là "giả vương nhập cận"?

a/Giả vương tiếp chiếu ở Thăng Long:

Vì sự kiện "giả vương nhập cận" vô cùng quan trọng trong bang giao giữa hai nước "cựu thù" nên những người đương thời có liên quan, tham gia việc ấy sẽ giữ bí mật tối đa là điều tất nhiên. Đó là lý do từ năm 1790 đến nay, người đóng "giả vương" vẫn còn bí ẩn. Những sử gia đương thời hoặc đời kế tục cũng hạn chế thông tin nên ghi chép không sai nhưng chưa đủ.

Đoàn ngự đạo với giả vương Phạm Công Trị từ kinh đô Phú Xuân ra Thăng Long tiếp chiếu phong An Nam quốc vương vào tháng 11 năm Kỷ Dậu [1789] thì nhiều người biết, trong đó có tình báo của Nguyễn vương Phúc Ánh đang ở Phú Xuân và tai mắt dày đặc của cựu thần nhà Lê ở Thăng Long. Chưa kể các võ tướng cao cấp của Tây Sơn về hàng Nguyễn vương Phúc Ánh là những nhân chứng sống.Vì thế các sử quan của Quốc sử quán triều Nguyễn về sau khi viết về "giả vương" Phạm Công Trị ra Thăng Long tiếp chiếu là khả tín. Tất nhiên bồi thần giúp "giả vương" dâng biểu tạ ơn và hứa sẽ "nhập cận" vào đầu năm sau. Giả vương tiếp chiếu ở Thăng Long, không diện kiến Càn Long cùng các thân vương đại thần triều Thanh nên triều Tây Sơn không cần chuẩn bị kỹ lưỡng lắm, chỉ cần chọn người hao hao dáng vóc vua Quang Trung là được. Vả lại, chọn người thân ruột cũng không lo tình huống xấu như bị giữ lại làm con tin.Vì thế người cháu Phạm Công Trị của vua Quang Trung dễ dàng được triều đình Phú Xuân chọn để đảm trách việc trên.

b/ Tại sao Ngô Thời Nhậm, Phúc Khang An phải chuẩn bị "giả vương" Nguyễn Quang Trực ?

Những người liệu việc như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích,...của Đại Việt rất chỉnh chu. Ngay Phúc Khang An, tổng đốc Lưỡng Quảng của nước Thanh, đã cho người thân tín qua gặp Ngô Thì Nhậm để bàn bạc, dặn dò kỹ lưỡng việc tổ chức phái đoàn. Thật vậy "giả vương nhập cận" phải ở suốt năm trời bên nước Thanh, không những tiếp kiến vua Càn Long mà còn thù tiếp biết bao người từ cửa ải biên giới Lạng Sơn, qua những dịch quán đến cung đình vua Thanh. Vì thế "giả vương nhập cận" phải được chọn kỹ lưỡng, hội đủ nhiều tiêu chí như dáng vóc, độ tuổi phải trung niên như vua Quang Trung, biết phép tắc cung đình phong kiến Đại Việt, Đại Thanh và phải có văn học để thù tiếp, ứng xử không chỉ đối với vua Càn Long mà còn đối với các thân vương, đại thần, các sứ thần các lân bang trong đại lễ "bát tuần đại khánh" của hoàng đế Càn Long.Người trẻ tuổi như Phạm Công Trị khó đảm trách. Hơn nữa, những người trải đời như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, không thể đề phòng bất trắc xảy ra, lỡ có hại đến sinh mạng con cháu của Chánh cung hoàng hậu Phạm Thị Liên, ắt mang trọng tội. Cho nên phương án chọn võ quan Nguyễn Quang Trực làm "giả vương nhập cận", như Ngô Thì Du đã biết và chép ở hồi 15 của Hoàng Lê nhất thống chí, là tối ưu.

c/Tại sao phái đoàn Đại Việt vào Quảng Tây mới hoán đổi "giả vương nhập cận"?

Một vấn đề cần xử lý là Ngô Thì Nhậm dù đã chuẩn bị "giả vương" Nguyễn Quang Trực nhưng vẫn để "giả vương" Phạm Công Trị nhập Thanh trước. Từ khi tiếp chiếu ở Thăng Long vào tháng 11năm Kỷ Dậu đến đầu xuân Canh Tuất, vài tháng đủ cho kẻ thù nắm bắt tin tức về giả vương Phạm Công Trị, có thể dâng sớ "tố cáo" lên thiên triều. Vì thế, triều Tây Sơn vẫn để "giả vương" Phạm Công Trị dẫn đầu đoàn, khởi hành từ Phú Xuân, ra Thăng Long, có thêm hoàng trưởng tử Nguyễn Quang Thùy. Ngô Thì Nhậm vẫn chỉ đạo lập danh sách các thành viên của đoàn, có tên Phạm Công Trị, Nguyễn Quang Thùy để báo cáo vua Thanh. Khi từ Thăng Long đến biên ải Lạng Sơn, có thể "giả vương" là Phạm Công Trị, còn Nguyễn Quang Trực tạm đóng vai Đai đô đốc Trị An hầu Phạm Công Trị. Như thế "tình báo viên" của cựu thần nhà Lê vẫn nắm tin Phạm Công Trị là "giả vương". Nhưng khi đến Quảng Tây, việc hoán đổi "giả vương" được bí mật tiến hành. Phái đoàn dâng biểu lên vua Càn Long rằng Nguyễn Quang Thùy bị ốm, nên cử Phạm Công Trị và Đặng Văn Chân hộ vệ Nguyễn Quang Thùy về nước. Vua Thanh chấp thuận. Khi ấy Nguyễn Quang Trực trở thành "giả vương nhập cận" vậy. Nguyễn Quang Thùy và Phạm Công Trị vì anh em cô cậu nên ít nhiều giống nhau, chứ giả vương Nguyễn Quang Trực khó giống Nguyễn Quang Thùy, nghĩa là để Nguyễn Quang Thùy cùng Nguyễn Quang Thực đóng vai phụ tử dễ bị lộ. Sự kiện này được giữ kín, đến nổi hơn ba mươi năm sau các sử quan triều Nguyễn viết Chính biên liệt truyện sơ tập cũng không hề biết bí mật hoán đổi nêu trên. Do vậy chính sử chép Phạm Công Trị là "giả vương nhập cận". Sau này nhờ tiếp cận dụ do Càn Long ban cho đại thần mới biết sự kiện Phạm Công Trị hộ tống Nguyễn Quang Thùy quay về như Nguyễn Thế Long, Tạ Chí Đại Trường từng thông báo.

d/ Điều bí ẩn đến lúc hé lộ .

Vậy Nguyên Quang Thực là ai ? Ngô Thì Du chỉ biết Nguyễn Quang Trực là võ quan Tây Sơn, người làng Mặc Điền, huyện Nam Đàn, trấn Nghệ An. Do giữ bí mật nên hành trạng của Nguyễn Quang Trực hoàn toàn bí ẩn.

Nêú sự kiện hoán đổi giả vương ở Quảng Tây đươc giữ kín thì Nguyễn Quang Trực cũng được Tây Sơn giấu tông tích, sau khi về nước. Có chăng người đóng giả vương Nguyễn Quang Trực sẽ giữ mãi trong lòng "kỷ niêm sâu sắc" trong đời và tất nhiên sẽ kể cho người thân tín kỷ niệm ấy. Thời Tây Sơn phải giữ kín, qua thời vua Nguyễn lại càng giữ kín vì đã lập đại công cho "Ngụy Tây". Tuy nhiên, con cháu sẽ truyền khẩu không dứt sự kiện cha ông làm "giả vương nhập cận" có một không hai này. Con cháu sẽ chép vào gia phả khi tình hình "triệt bỏ Ngụy Tây" đã hạ nhiệt. Nhờ vậy tông tích nhân vật đóng "giả vương nhập cận" Nguyễn Cửu Trị đã được Nguyễn Cửu Trường, cháu gọi Nguyễn Cửu Trị bằng chú, chép vào giả phổ của họ Nguyễn Cửu năm 1850 và họ Nguyễn Cửu công bố trên thông tin đại chúng năm 2014, được Đình Đính, Võ Vinh Quang xác nhận năm 2017.

Ông Trị An hầu Nguyễn Cửu Trị là người huân cựu của triều chúa Nguyễn, lại cộng tác với triều Tây Sơn, làm một việc "tày trời" nên họ Nguyễn Cửu chỉ truyền ức chứ không ghi vào gia phổ, nên phổ không ghi chép năm sinh, năm mất. Người soạn Vân Dương Kinh phổ là Lãm quận công Nguyễn Cửu Lãm, chung ông nội với Nguyễn Cửu Trị. Cuốn phổ được soạn vào những năm đầu triều Gia Long. Ông Lãm biết ông Trị đã theo "ngụy Tây’’ làm "giả vương nhập cận" năm 1790 là một việc "tày trời" trong lịch sử, nên có khả năng ông Lãm chưa chép kỹ về ông Trị. Nhưng "họ Nguyễn Cửu" có tự hào ngầm, đã truyền ức cho con cháu về ông Trị. Đến thời Tự Đức , khoảng năm 1850, ông Nguyễn Cửu Trường, Hữu thị lang sung biện nội các, hàng cháu gọi Nguyễn Cửu Trị là chú trong họ, đã mạnh dạn chép sự kiện "giả vương nhập cận" của chú Nguyễn Cửu Trị khi tu bổ Vân Dương Kinh phổ nhưng không biết năm sinh năm mất của Nguyễn Cửu Trị.

Còn tuổi Nguyễn Cửu Trị như thế nào?Vân Dương Kinh phổ không chép tuổi Nguyễn Cửu Trị nhưng cho biết năm sinh, năm mất của cha, ông nội, ông cố của ông Trị và cho biết ông Trị là con thứ 12 nên có thể đoán độ tuổi của Nguyễn Cửu Trị vào năm 1790 như sau: Cha của ông là Phò mã Hoán quận công Nguyễn Cửu Pháp [1703-1775](con thứ 4), ông nội của ông là Phò mã đô đốc Thiếu phó Trung quốc công Nguyễn Cửu Thế [1666-1734](con thứ 3), cố của ông là Trấn quận công Nguyễn Cửu Ứng [1634-1705]. Hoán quận công Nguyễn Cửu Pháp lập gia đình khoảng năm 1720, đã có 11 người con trai mới sinh con trai thứ 12 là Nguyễn Cửu Trị. Như thế Nguyễn Cửu Trị có năm sinh trong khoảng từ 1742 đến 1752, do đó khoảng năm 1790 thì Nguyễn Cửu Trị tuổi trên dưới 50, nghĩa là ông có tuổi xấp xỉ tuổi vua Quang Trung. Lúc quân Lê Trịnh chiếm Phú Xuân thì ông đã là võ quan Nội đội trưởng tước Trị An hầu.Vì ông là cháu ngoại của chúa Nguyễn Phúc Chu nên so với thanh niên Phạm Công Trị ông đã chính chắn, có văn học, quen lễ nghi cung đình và tướng mạo tuấn tú, đủ tiêu chí để làm "giả vương nhập cận". Một yếu tố để Ngô Thì Nhậm chọn Nguyễn Cửu Trị hơn chọn Phạm Công Trị là vì ông không phải con cháu vua Quang Trung.

e/ Nguyên do ông Nguyễn Cửu Trị cộng tác với Tây Sơn:

Vì dòng họ Nguyễn Cửu là thân tộc với họ Nguyễn Phúc Đàng Trong, nhiều người là đại công thần của triều chúa Nguyễn nên khi quân Lê Trịnh chiếm Phú Xuân, rồi Tây Sơn từng về hàng Lê Trịnh, đánh giết con cháu họ Nguyễn và con cháu các đại công thần, nên gia đình Nguyễn Cửu ly tán, người theo chúa Nguyễn xuôi Nam, lớp tử trận, lớp mai danh ẩn tích. Có khả năng Nội đội trưởng Trị An hầu Nguyễn Cửu Trị khoảng năm 1774 đã mai danh ẩn tích, từ dinh Quảng Bình chạy ra Nghệ An, trốn ở làng Mặc Điền, Nam Đàn, Nghệ An dưới vỏ bọc là một nông dân có tên Nguyễn Quang Trực. Khi vua Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh Thanh, có khả năng Nguyễn Quang Trực (Nguyễn Cửu Trị) "vì nước quên thù nhà" đã tòng quân đánh quân Thanh. Vì ông có dung mạo tốt và có tài cầm quân nên sớm thành võ quan Tây Sơn dưới trướng của Đại tư mã Ngô Văn Sở, dễ "lọt mắt xanh" của Ngô Thì Nhậm khi đang tìm người làm "giả vương nhập cận". Ngô Thì Du (1772-1840), năm 19 tuổi, thường trú ở Nghệ An, biết việc ông bác Ngô Thì Nhậm chọn võ quan Nguyễn Quang Trực làm "giả vương" nên về sau viết hồi thứ 15, HLNTC, không biết lai lịch thật của Nguyễn Quang Trực nên viết theo tên họ quê quán thời Nguyễn Cửu Trị mai danh ẩn tích, trước 1789. 
Sau khi về nước, tất nhiên triều Tây Sơn phải bố trí Nguyễn Quang Trực (Nguyễn Cửu Trị) ở Thăng Long để tiện bề "quản lý" nhằm giữ bí mật. Mười hai năm sau vua Gia Long ra Bắc thanh toán triều Bảo Hưng Nguyễn Quang Toản [1802], võ quan nhỏ như Nguyễn Quang Thực ra hàng, sớm được bố trí làm viên quan thu thuế mỏ ở tận Tuyên Quang. Biết phận đời éo le, ông Nguyễn Cửu Trị giấu tông tích của mình, chỉ có một số người thân thích biết mà thôi. Nhờ vậy đến năm 1850, ông mới được cháu Nguyễn Cửu Trường bổ sung vào Vân Dương Kinh phổ (lưu hành nội bộ).

C- Hướng kiểm chứng :

Với tình hình tư liệu chính sử, dã sử hiện có, chúng tôi đã trình bày kiến giải như một giả thuyết công tác. Cần phải có kiểm chứng khoa học. Hiện nay, nhờ phương tiện truyền thông hiện đại, các tộc họ có những trang web nối kết, liên lạc các họ, phái, chi...trên toàn quốc, kể luôn hải ngoại, trong đó có tộc họ Nguyễn Cửu ở Thừa Thiên Huế và ở huyện Quảng Ninh thuộc Quảng Bình. Nguyễn Cửu Lãm chấp bút Vân Dương Kinh phổ vào những năm đầu triêù Gia Long, trú tại Quảng Bình. Nội đội trưởng Trị An hầu Nguyễn Cửu Trị trước khi làm giả vương nhập cận từng trú ở Quảng Bình, sau đó lại thường trú ở Thăng Long, làm việc thu thuế mỏ ở Tuyên Quang. Trong Vân Dương Kinh phổ có chép ông có con trai là Nguyễn Cửu Lễ.

Ngày 4-9-2017, chúng tôi cùng hai cộng tác viên là Nguyễn Văn Tuấn và Trần Viết Hòa đã về An Cựu Đông tìm trưởng tộc họ Nguyễn Cửu. May mắn chúng tôi gặp được ông Nguyễn Cửu Lợi, sinh năm 1956, em ruột của ông tộc trưởng. Ông Lợi sốt sắng mời chúng tôi vào phủ thờ (nhánh), nguyên ngaỳ xưa bà Ni cô Vân Dương (húy Nguyễn Ngọc Tuyên) từng ở.Ông lợi cho biết di vật thời bà còn lại là pho tượng Phật bằng đồng đang tôn trí án giữa, phía trước trong phủ thờ.Sau đó ông Lợi đưa chúng tôi gặp tộc trưởng Nguyễn Cửu là ông Nguyễn Cửu Dãnh, sinh năm 1946, phái III, trú tại 94 kiệt 1/1đường Tôn Thất Cảnh. Ông tộc trưởng sốt sắng mang toàn bộ thư tịch của tộc họ trong đó có Bắc phổ và V ân Dương Kinh phổ (ngài Nguyễn Cửu Trường, đời VI, chấp bút), không có bản do ngài Nguyễn Cửu Lãm viết những năm đầu triều Gia Long. Đặc biệt ông tộc trưởng cho biệt đã liên lạc chi Nguyễn Cửu ở Hà Nội, hậu duệ ngài Nguyễn Cửu Trị (giả vương nhập cận). Theo ông tộc trưởng chi Nguyễn Cửu Hà Nội đã có vài trăm hậu duệ. Ông tộc trưởng cung cấp số điện thoại của ông Nguyễn Cửu Thược,một vị hậu duệ Nguyễn Cửu Trị.

Chúng tôi bằng điện thoại liên lạc với ông Nguyễn Cửu Thược, biết ông Thược là hậu duệ đời thứ 9. Ngài tổ của ông là vị võ quan Tây Sơn, trong đạo quân do vua Quang Trung chỉ huy đại phá quân Thanh. Sau thắng trận, ngài tổ mới lập gia đình và lập nghiệp ở làng Trường Yên, Hà Đông, nay là xã Ngọc Sơn, huyện Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội. Mộ ngài tổ vừa được trùng tu, có bia nhưng không khắc danh tính của ngài. Đây là một tín hiệu cho thấy hy vọng kiến giải của chúng tôi đúng hướng.

Ảnh: Tác giả và cộng tác viên Nguyễn Thanh Tuấn tại phủ thờ 
Sư cô Vân Dương (dâu của họ Nguyễn Cửu)

Huế, tháng 9-2917 
Trần Viết Điền

20180502 Pham Quynh
Tại sao đặt ra câu hỏi này? Tại bởi Phạm Quỳnh là một trong những con người đã để lại tên tuổi trong lịch sử cận đại và hiện đại của đất nước Việt Nam. Họ là những con người phong phú, đa dạng và phức tạp trong tổng thể cấu thành nên xã hội Việt Nam thế kỷ XX. Họ là những con người một thời dài bị mất bóng trong đời sống tinh thần nước nhà. Tại bởi Phạm Quỳnh vừa được Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh 2018 vinh danh là “Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại”. Tại bởi Phạm Quỳnh tuy thế cho đến nay vẫn chưa được hiểu đúng, hiểu hết, hiểu sâu. Nói đến Phạm Quỳnh là nói đến tạp chí Nam Phong, và ngược lại. Sự nghiệp của ông để được/bị hậu thế ca ngợi hay kết tội là cả ở đây.

Phạm Quỳnh sinh 1892 (có tài liệu nói 1893), mất 1945. Nam Phong tạp chí ra đời 1917, chấm dứt 1934. Phạm Quỳnh làm Nam Phong (là chủ nhiệm và chủ bút) từ 1917 đến 1932, trong 15 năm, từ tuổi 25 đến 40. Khi Phạm Quỳnh vào Huế làm việc triều đình, Nam Phong được giao cho Nguyễn Tiến Lãng và sống thêm hai năm nữa. “Suốt trong 17 năm tồn tại, Nam Phong đã đăng 1.391 bài tiếng Việt, 414 bài tiếng Pháp, không kể phần Hán văn, tổng cộng đã công bố gần hai nghìn bài. Trong gần hai nghìn bài này đã có 123 tác giả viết tiếng Việt, 41 người viết tiếng Pháp… Người viết nhiều nhất là Phạm Quỳnh (còn ký bút danh Thượng Chi, Hồng Nhân) với 458 bài tiếng Việt và 33 bài tiếng Pháp (chưa kể chữ Hán), chiếm khoảng trên dưới 30% tổng số bài đã đăng trên Nam Phong, số bài còn lại khoảng 50 - 60% là do 162 người viết, trung bình cứ một tuần trong 17 năm tồn tại của Nam Phong, bên cạnh các công việc khác, Phạm Quỳnh viết được và đăng được một bài” (Nguyễn Văn Khoan).

Bởi vậy, ngay từ đương thời tạp chí này, Phạm Quỳnh đã được coi là linh hồn của Nam Phong. Nói tới Nam Phong là nói tới Phạm Quỳnh và ngược lại. 

* * *

Nhưng phần lớn thời gian trong một trăm năm qua, việc đọc Nam Phong để xét Phạm Quỳnh và xét Phạm Quỳnh để đọc Nam Phong là cả một quá trình vật lộn trong nhận thức và học thuật của cả một thời kỳ.

Ông đã bị các nhà nho Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phê phán nghiệt ngã: “Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng là bao, mới lom lem những học thuyết ông Mạnh, ông Lư, bập bẹ những cách ngôn họ Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập làm một đấng văn hào, tự xưng khai hóa quốc dân, mà không ngó lại mình đã khai hóa hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằng, tán nhảm, nói bậy nói càn không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa”. 

Ông đã bị nhà cách mạng Đặng Thai Mai kết tội nặng nề: “Tờ tạp chí hàng tháng này là một công cụ hết sức tốt của chủ nghĩa thực dân trong mười mấy năm ròng rã (...) Mácti, tên trùm mật thám Đông Dương hồi đó, đã trao đủ bửu bối cho Phạm Quỳnh”. 

Ông đã bị nhà trí thức Nguyễn Văn Trung kết án gay gắt: “Nếu phải kết án Phạm Quỳnh thì... kết án Phạm Quỳnh thời làm báo vì lúc đó Phạm Quỳnh có khả năng mê hoặc, lừa bịp một số người, và sở dĩ mê hoặc, lừa bịp được là vì Phạm Quỳnh làm chính trị bằng văn hóa núp dưới danh nghĩa một người viết báo, nhà trí thức, nhưng thực ra là một cán bộ chiến tranh chính trị của phòng nhì phủ Toàn quyền”.

* * *

Đối lại những ý kiến phủ nhận Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong là những ý kiến khẳng định, đề cao. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan ngay từ thập niên 1940 đã viết: “Trong mười sáu năm chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ Bắc chí Nam người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây”. 

Học giả Vương Hồng Sển khi được hỏi về cái câu “Truyện Kiều còn tiếng ta còn…” của Phạm Quỳnh đã nói: “Câu này chỉ có nghĩa là tiếng nói của mình chải chuốt hay ho được như Kiều thì đạt tới trình độ tương đối rồi và tiếng của ta mà mất, để các tiếng ngoại quốc xâm nhập tức là tới lúc nước mất. Tiếng nói là chìa khóa mở bất kỳ cánh cửa nào”.

* * *

Phạm Quỳnh từ chỗ bị coi là một “bóng đen” trong lịch sử chính trị suốt một thời gian dài, đến thời kỳ Đổi mới, đã dần dần được rọi sáng, lộ sáng, để từng bước hiện ra chân dung một “nhà văn hóa tiên phong” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) trong buổi đầu nền văn hóa hiện đại Việt Nam. Địa vị và vai trò của Phạm Quỳnh đối với văn hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX ngày càng được khẳng định. Các sách ông viết và tập hợp bài viết của ông lần lượt được in lại. Các sách viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông được in ra. Các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ về tạp chí Nam Phong được bảo vệ ở nhiều trường đại học. Một tọa đàm nhân 100 năm ra đời Nam Phong đã được Hội Nghiên cứu lịch sử Việt Nam tổ chức cuối năm 2017. 

Đặc biệt lần đầu tiên những bài viết bằng tiếng Pháp của Phạm Quỳnh được dịch ra tiếng Việt và xuất bản đã khiến giới nghiên cứu và đông đảo độc giả kinh ngạc, khâm phục. Đó là tập Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932 (NXB Tri Thức & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2007). Cuốn sách gồm những bài nói và bài viết của Phạm Quỳnh trên báo chí và trước Viện Hàn lâm Pháp tập trung vào một chủ đề xuyên suốt là sự tồn tại và phát triển của giống nòi và dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa.

Từ trên diễn đàn của giới hàn lâm chính quốc, nhà trí thức thuộc địa trẻ tuổi Phạm Quỳnh đã tự hào nêu bật truyền thống và sức sống của dân tộc mình để yêu cầu kẻ thù đang xâm lăng mình phải thay đổi đường lối khai hóa thực dân. Ông nói: “Dân nước Nam không phải là một tờ giấy trắng; đó là một cuốn sách cổ chứa đầy những dòng chữ được viết bằng một thứ mực không thể tẩy xóa từ bao đời nay; không một chất thử nào có thể tẩy xóa chúng được hoàn toàn và người ta không thể tự do muốn viết gì vào đấy thì viết. Người ta chỉ có thể đóng lại cuốn sách cổ đó theo một cách mới, bày biện nó theo lối hiện đại hơn, chứ đừng mơ tới việc viết vào đó một thứ chữ xa lạ đè lên thứ chữ đã có từ ngàn xưa.

Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là cần phải biết đưa lại cho người Nam thứ giáo dục nào để khi truyền bá cho họ thứ văn hóa hiện đại bậc cao mà họ cần có thì không phải là “phi dân tộc hóa” họ, làm họ mất đi bản sắc dân tộc và cá tính lịch sử của mình, biến họ thành một trong những dân tộc vô định hình, không sinh khí, không còn nét độc đáo nào nữa, như một số thuộc địa cũ của Pháp đã bị sa vào” (1922). Khi con người bị lâm tình thế, họ phải buộc lựa chọn thái độ ứng xử từ chỗ đứng của mình. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước đã mất vào tay người, Phạm Quỳnh thuộc phái chấp nhận chung sống, nhưng đó phải là cuộc sống chung “dưới khẩu hiệu một chính sách thực sự tôn trọng nhau”. Diễn biến lịch sử là vừa tất yếu vừa mù quáng. Và Phạm Quỳnh đã phải trả giá cho quan niệm và sự lựa chọn của mình.

20180502 Pham Tuyen

Nhạc sĩ Phạm Tuyên (phải) thay mặt cha là Phạm Quỳnh nhận tôn vinh từ Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh - Ảnh: L.Điền

Nhưng lịch sử ở hướng đi hiện nay của đất nước lại đang cần đến quan niệm của ông như một hành trang, một gợi ý cần thiết. Lấy một thí dụ là khi ông “suy nghiệm về lịch sử nước Nam” để trình bày cho những người Pháp biết. Đây là một suy nghiệm của ông: “Việc ở sát ngay một nước lớn liên tục muốn áp đặt sự chi phối nặng nề của nó, đã khiến cho người nước Nam có một tính cách mềm dẻo đôi khi kìm hãm nó trong một tính hai mặt. Tất cả các quan hệ của nước Nam với Trung Hoa đều nhuốm đậm tính chất này, biểu hiện trong việc tìm cách vì nể ít ra là về bên ngoài người láng giềng hùng mạnh mà bên trong vẫn giữ được nền tự chủ của mình. Vì vấn đề “thể diện” đối với Thiên Triều là rất quan trọng, nên các vua nước Nam bên ngoài tỏ ra hết sức kính trọng đối với Trung Hoa, đồng thời vẫn không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để gây cho họ những bất ngờ chẳng dễ chịu chút nào, nếu họ quên mất quá khứ mà muốn làm cho quyền bá chủ hoàn toàn là danh nghĩa của họ trở thành thực tế” (1930). Đó là một cách yêu nước của Phạm Quỳnh. Trường hợp Phạm Quỳnh vẫn đang chờ đợi những khám phá đi sâu, và một sự đánh giá khách quan, khoa học, theo một sử quan công chính.

Cuốn sách này, cùng những trước tác khác của Phạm Quỳnh đã và rồi sẽ còn được trả lại không gian văn hóa tinh thần của nước nhà, là kết tụ những tư tưởng, cảm xúc, tâm trạng của một nhân vật lịch sử đã can dự, ở những tầm mức khác nhau, vào tiến trình chính trị văn hóa của nước nhà khoảng đầu thế kỷ XX. Ông đã chấp nhận và chịu đựng lịch sử. Ông đã thành nạn nhân của lịch sử. Nhưng lịch sử xã hội là lịch sử của con người. Karl Marx có nói đại ý: cơ bản nghĩa là xét sự vật tận gốc rễ của nó, mà gốc rễ của con người chính là bản thân con người. Đọc Phạm Quỳnh chính là mở ra cánh cửa tìm đến gốc rễ của ông, tìm về cơ bản của ông, và qua ông là cả một thời kỳ lịch sử mới trôi qua nhưng nhiều khoảng sáng tối đan xen. Đọc ông cũng để đi tìm câu trả lời Phạm Quỳnh là ai.

Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh 2018 vinh danh Phạm Quỳnh là một cách trả lời như vậy. 

Nguồn: Người đô thị, ngày 30.4.2018.

20180118 Nguoi tu do A1

Cuối năm 2017, chủ một tiệm sách cũ ở trung tâm Sài Gòn chuyển đến tôi ấn phẩm đặc biệt: bộ tranh Người Cao Nguyên vùng Đà Lạt của họa sĩ Bui Van Duong, ấn hành tại Đà Lạt vào năm 1955. Đây là một bộ tài liệu ghi chép hình ảnh dân tộc học quý giá ở vào một giai đoạn khá thú vị trong lịch sử cộng đồng dân tộc thiểu số cao nguyên Lang Biang.

Bộ tranh có lớp giấy bìa áo dày, qua thời gian đã rách, gãy tả tơi nhiều miếng. Trên bìa chính, ngoài tựa chữ đỏ Người Cao Nguyên vùng Dalat nét khá mềm mại, nền nã, tựa như manchette một tờ báo, thì có hình vẽ một góc thác Cam Ly in bốn màu bên cạnh dòng chữ Hán viết sổ dọc: “Cao nguyên sơn khu dân tộc”, tạm dịch nghĩa: “Dân tộc miền núi cao nguyên” và bài thơ thất ngôn tứ tuyệt theo lối vịnh cảnh: “Cơn nhàn đi viếng thác Cam-Ly/ Bốn phía rừng cây, cảnh rậm-rì/ Giòng nước thao-thao chồm ép đá/ Đá ngồi vững chật, nước tuôi đi.”

Bên dưới đề tên tác giả “Tranh vẽ, bản đồng, bản kẽm Bui Van Duong, Dalat”.

Ở góc trên, cánh trái của trang in lời giới thiệu, có thủ bút đề tặng: “Kính tặng cụ Phó giám đốc Nha Địa dư Dalat” của tác giả bộ tranh, ghi ngày 27.12.1955.

Bộ tranh có 26 bức in trên giấy rời, mỗi bức in trên một trang. Điều này khiến người tiếp cận bộ tranh hôm nay có quyền nghi ngờ rằng, số tranh trong tập của ấn bản gốc có thể nhiều hơn số hiện hữu. Nội dung lời nói đầu (nguyên văn) của tác giả Bui Van Duong:

“Chúng tôi vẽ tranh trong quyển này, cốt yếu ghi nhớ những thành tích của Bộ lạc tự do thiểu-số của xứ sở; hiểu cho Quý bạn cơ nhàn để thưởng thức thẩm-mỹ hình dạng của người Cao-nguyên.

Những tranh này chúng tôi thuê những người ở vùng Blao, Dran, Djiring, Fyan, làm mẫu, vẽ một cách khảo sát hiện tại rất châu đáo; về lối diện mạo y phục, dáng điệu cử chỉ, vui, buồn, v.v.

Vẽ mẫu rồi, chính tay chúng tôi tự vẽ sang qua làm bản kẽm in ra; qua cái bìa, cũng tự tay chúng tôi khắc bản đồng, in ra hai ba màu, rất dày công phu.

Mặc dầu rất dày công và các tổn phí phức-tạp đắt-đỏ, xong chúng tôi cố gắng để phụng-sự nghệ-thuật cho nước nhà.

Xong rồi, chúng tôi thiết-tưởng, người thì phải có tâm hồn, có hình bóng, tranh thì phải có lời mới có linh-hoạt đặng, vậy muốn cho vui, chúng tôi không thẹn lời thô, dụng lời nói bắt-vần mà trình bày theo sát-ý, với những tranh trong quyển này.”

Thời gian bộ tranh được sáng tác, ấn hành đúng vào một khoảng chuyển giao khá quan trọng trong lịch sử chính trị xã hội tại Đà Lạt nói riêng, những vùng cao nguyên lân cận nói chung. Và khoảng chuyển giao này có ảnh hưởng đến đời sống, tâm thế đối tượng mà bộ tranh phản ánh – người dân tộc bản địa – đồng thời cũng ít nhiều cho thấy cái nhìn, nỗ lực của nghệ sĩ địa phương trong việc “hiểu” những cộng đồng dân tộc thiểu số bản địa.



Đây là quãng thời gian chuyển tiếp từ thời Hoàng Triều Cương Thổ (tiếng Pháp: Domaine de la Couronne, kéo dài từ 15-4-1950 đến 11-3-1955, lấy Đà Lạt làm thủ phủ) với sự trở lại chính trường Việt Nam rất ngắn ngủi trong vai trò Quốc trưởng của vua Bảo Đại nối sang thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Có thể nói, những chính sách trong thời Hoàng Triều Cương Thổ mà Quốc trưởng Bảo Đại dành cho các sắc tộc cao nguyên trong vùng địa giới của Hoàng Triều gồm xứ Thượng miền Nam, đặc biệt ở vùng ven Đà Lạt, nơi được xem là thủ phủ của cương vực Hoàng Triều là một giải pháp nỗ lực chính trị nhằm khôi phục tính biểu tượng quốc gia ở một khoanh vùng cương vực cuối cùng của Bảo Đại – khi ngôi hoàng đế cũng chỉ còn giá trị biểu tượng chứ không còn chút thực lực nào trên quê hương mình, thì sẽ hiểu chính sách tiếp theo “nâng niu” những thần dân còn lại của vị vua này qua việc bãi bỏ lệ lao động cưỡng bách dưới mọi hình thức tại vùng xứ Thượng Nam Đông Dương. Các hình thức lao động áp đặt trước đó từ chính quyền thuộc địa (bao gồm lao động không trả công, lao dịch, công sưu thấp…) được bãi bỏ trong quyết định ký ngày 31.12.1951. Hai năm sau đó, những người dân bản địa bấy lâu làm việc dưới hình thức không thù lao được thay bằng các “hợp đồng nhóm”1.

Một mặt, những chính sách này vừa ngăn cản bước tiến của Việt Minh, vừa là sự vùng vẫy yếu ớt của tinh thần độc lập quốc gia trước sự áp đặt quyền lực của người Pháp và cả sức ép của các phe phái ở Nam Kỳ. Những chính sách này đã bị người Pháp phê phán là cấp tiến một cách vội vàng với dân tộc thiểu số bản địa, sau đó lại bị “chồng chéo” bởi một chính sách khác từ chính văn phòng quốc trưởng, liên quan đến vấn đề đất đai. Trong một nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Văn Huy về Quan hệ giữa quỹ đất và và quyền lực tại Việt Nam gần đây, có đề cập về sự tự diễn biến và gây ra “xung đột” này: “Để hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo Đại ban hành Chương trình phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do Nguyễn Đệ2 soạn thảo, ngày 11-2-1952, theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Đệ đổi thành Chương trình Công tác Xã hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là “khu trù mật”.

Trong cuộc thế chính trị khá phức tạp, nhóm dân tộc Lạch, Kơ Ho vùng Lang Biang bước ra khỏi những đồn điền và trở thành mối quan tâm, cân nhắc đặc biệt trong chính sách của chính quyền Quốc trưởng cũng như những thế lực chính trị trước và sau 1954. Người Kinh mới nhập cư và người bản địa từ chỗ có nguy cơ dẫn đến những xung đột đã đi đến những kết nối văn hóa sâu sắc hơn. Cũng dễ hiểu, khi những cư dân Đà Lạt – thành phố được xây dựng từ những người nhập cư – luôn mang trong tâm khảm một nhu cầu được hiểu “châu đáo” về những người anh em bản địa, những “bộ lạc tự do thiểu-số của xứ sở”, hiểu “về lối diện mạo y phục, dáng điệu cử chỉ, vui, buồn” của họ – như lời đề dẫn đầy trân trọng của họa sĩ Bui Van Duong ngay trang đầu ấn phẩm.



Một bối cảnh khác thiết nghĩ cũng cần nhắc đến, đó chính là từ thập niên 1920, cùng với chính sách thuộc địa, những nhà truyền giáo đã đặt chân đến Djiring. Dù nhìn ở khía cạnh nào, thì cũng phải thừa nhận rằng những linh mục người Pháp đã đem đạo Công giáo đến với cộng đồng dân tộc bản địa và ít nhiều làm thay đổi khung cảnh, cơ cấu sinh hoạt, văn hóa của một vùng cư dân.

Thế nên, từ bối cảnh chính trị, văn hóa, tôn giáo như đã nêu trên, bộ tranh vẽ bằng chất liệu than chì, sau đó, in bản đồng, kẽm của họa sĩ Bui Van Duong là một tài liệu quý giá về người Tây Nguyên ở khía cạnh nhân học. Ở bộ tranh này, người xem có thể thấy sinh hoạt đời sống của người dân tộc ở Djiring, Dran, Fyan khá cụ thể cả chiều kích bản sắc lẫn tiếp biến văn hóa. Ví dụ: thói quen ăn bốc vẫn còn, cách ngồi xổm uống rượu cần (quả rất khác với cách mà chúng ta vẫn thấy ở những làng dân tộc bị du lịch hóa hôm nay dưới chân núi Lang Biang); trang sức, trang phục đặc thù (tuy nhiên, nếu chú ý có thể thấy trang phục cổ truyền đã được thay thế dần bằng đồ “tây” đặc biệt ở đám trẻ con); sự gắn kết với thiên nhiên, rừng rú, thác, suối hoang dã vẫn còn lưu giữ bên cạnh đó; hoạt động, công cụ săn bắn cho đến trình tấu âm nhạc bằng nhạc cụ dân gian; sự xuất hiện của không gian đô thị với bảng hiệu, đường phố… khá chi tiết, sống động (có bức họa sĩ còn ghi chép được tên bảng hiệu Vinh Hoa) ở hậu cảnh một nhóm người bản địa lang thang, ngơ ngác giữa phố phường… Về những đặc thù nhân diện, cơ thể và cả văn hóa phóng khoáng hài hòa với tự nhiên được thể hiện rất rõ qua cách vẽ những người đàn ông đóng khố, những người phụ nữ quấn xà-rông với khuôn ngực trần trong các ngôi làng hay tự do rong chơi giữa đại ngàn.

Bộ tranh cũng toát lên thần thái, đặc trưng nhân trắc của người Mạ, Kơ Ho bản địa cách đây hơn nửa thế kỷ, có thể bên cạnh hướng tới giúp người nay “thưởng thức thẩm-mỹ hình dạng của người Cao-nguyên”, còn có thể là một tài liệu đối chiếu để làm rõ về sự thay đổi nhân trắc đặt trong sự biến đổi môi trường sống của cộng đồng này hôm nay.

Bộ tranh công phu, lẽ ra người viết sẽ phải truy tầm cho được về lai lịch của tác giả. Tuy nhiên, sách vở tra cứu về lịch sử văn hóa Đà Lạt giai đoạn này không thực sự đầy đủ, các kho sách tài liệu chưa thực sự cởi mở. Hiện chỉ có thể tìm thấy trong chương III của Địa chí Đà Lạt3  đoạn nói về Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thì có một dữ liệu có thể kết nối và đặt một giả thiết về tác giả bộ tranh, như sau: “Tranh chạm bút lửa ở Đà Lạt xuất hiện từ những năm 1950. Người đầu tiên phát hiện ra nghệ thuật chạm bút lửa là ông Bùi Văn Dưỡng, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris.”

Về thời gian ông Bùi Văn Dưỡng tạo ra nghệ thuật chạm tranh bút lửa tại Đà Lạt là thập niên 1950, trùng khớp với thời gian bộ tranh quý về người Cao nguyên Đà Lạt của “Bui Van Duong” sáng tác. Rất có thể chính họa sĩ Bùi Văn Dưỡng chính là tác giả bộ tranh Người Cao Nguyên vùng Đà Lạt nêu trên.

Hành trình tìm kiếm, xác định lai lịch tác giả và bộ tranh, với người viết bài này, còn dài phía trước.

Trân trọng giới thiệu với độc giả một số bức tranh trong số 26 bức mà tôi được may mắn tiếp cận trong bộ tranh trên.
------------
Chú thích:
1 Eric T. Jennings, sđd.
2 Ông Nguyễn Đệ giữ chức Đổng lý Văn phòng Quốc trưởng.
3 Nguồn: http://w3.lamdong.gov.vn

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 12.01.2018.

Thông tin truy cập

61105701
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
5177
9374
61105701

Thành viên trực tuyến

Đang có 161 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website