Cũng như ở Nam Bộ và Trung Bộ, địa danh Bắc Bộ mang tên cầm thú khá phong phú. Một số mang từ thuần Việt, một số mang từ Hán Việt và nhiều nhất là mang từ của các ngôn ngữ dân tộc. VHNN xin giới thiệu bài viết của PGS.TS Lê Trung Hoa, đăng trên báo Kiến thức Ngày nay, số ra số 882, ngày 10-2-2015, tr. 13-15  

1.Trong địa danh Việt Nam có hàng chục đơn vị có thành tố Ba ở trước. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ khảo sát một số địa danh có nguồn gốc tương đối rõ ràng. Số còn lại tạm thời gác để tìm hiểu thêm.

2. Yếu tố Ba này có nhiều nguồn gốc khác nhau.

2.1. Trước hết, vì kiêng húy hoặc vì biến âm, Hoa biến thành BaBa biến thành .

Như chúng ta đã biết, địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trường, thời đại mà nó chào đời. Có người cho rằng địa danh giống như “ vật hoá thạch” [5: 6]; người khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm”  Như vậy, qua địa danh, ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.

 

  (Cao Tự Thanh, Tạp chí Văn hóa & Du lịch , số 18 (72), tháng 7.2014)

TÓM TẮT

Nhìn từ phương diện ngôn ngữ, hệ thống địa danh Nam Bộ chủ yếu bao gồm các địa danh gốc Việt, gốc Việt Hán, gốc Khmer Việt hóa, trong đó mảng địa danh hành chính thời phong kiến phần nhiều là từ Việt Hán hay được Việt Hán hóa để đáp ứng các yêu cầu chuẩn hóa trong công văn của chính quyền. Bài viết này đi vào tìm hiểu nguồn gốc và cách thức hình thành các loại địa danh đó.

        Vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao là một lớp từ có cấu trúc ngữ nghĩa khá đặc biệt trong tiếng Việt. Về cấu tạo, vị từ loại này thường có hình thức song tiết gồm : một hình vị gốc + một hình vị mờ nghĩa (biểu thị mức độ cao). Chẳng hạn như : chán phèo, cấm tiệt, nhắm nghiền, xanh lè, nhọn hoắt... Trong bài viết này, chúng tôi tạm gọi những vị từ  loại này là vị từ dạng Vx (V :hình vị gốc; x : hình vị biểu thị mức độ cao).

Chao         1.Khi nghiên cứu về nghĩa, trên phương diện từ vựng người ta chú ý đến những kiểu quan hệ ngữ nghĩa như: đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm v.v…. Trên phương diện cú pháp cũng có những vấn đề tương tự: có những câu với cùng một hình thức từ ngữ nhưng lại được hiểu theo những nghĩa khác nhau, đó là những câu mơ hồ. Lại có những câu có hình thức khác nhau nhưng lại diễn đạt cùng một nội dung, cùng chỉ một đối tượng, một sự tình v.v… đó là những câu đồng nghĩa (paraphrase). Việc nghiên cứu vấn đề câu đồng nghĩa (CĐN) sẽ góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống các quan hệ ngữ nghĩa – cú pháp, xây dựng các mô hình cú pháp, phát hiện các cấu trúc đồng nghĩa trong các ngôn ngữ phục vụ công tác xử lý dịch tự động văn bản, tóm tắt văn bản, dạy tiếng v.v… Với ý nghĩa đó, bài viết này đề cập đến việc đối chiếu một số loại CĐN của tiếng Việt với tiếng Anh, phát hiện các loại CĐN tương ứng, các cấu trúc đồng nghĩa, sự giống và khác nhau trong việc sử dụng các loại phương tiện và phương thức diễn đạt đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình ngôn ngữ khác nhau.

Mong muốn một văn bản mang tính pháp quy về ngôn ngữ và chữ viết để có sự thống nhất trong tiếng Việt là tinh thần chính trong cuộc hội thảo khoa học quốc gia “Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng” diễn ra ngày 21.12.

20240410 5

Có thể nói, ở Nam Bộ cho đến thời thuộc Pháp, không có làng xã nào không có đình. Đến sau năm 1954 hầu như đình đã hiện diện đều khắp, do đó việc dựng cất đình làng xem như kết thúc. Tuy nhiên do yếu tố khách quan lịch sử, trong những lần tách nhập, minh định địa giới, hoặc mở thêm xã mới, rải rác đây đó thấy có dựng lên thêm một vài ngôi.

     Đình ở Nam Bộ về cơ bản không khác với miền Bắc, miền Trung, nhưng về sinh hoạt, kiểu cách kiến trúc và thiết kế thì do theo tính cách của miền Nam, nên các mặt đều đơn giản hơn, thoáng đãng hơn. Đã rộng, đình như lại rộng thêm, bởi bên trong đều không thiết kế vách ngăn (một phòng) nên sáng, mát và thoáng. Điều đó nói lên tính hài hòa của tổng thể, cởi mở và thân thiết. Đó chính là một bước cải tiến quan trọng, vượt bỏ khung cảnh đầy vẻ thâm nghiêm, u tịch và chật chội (vốn đã thành nếp từ lâu đời), làm tăng thêm tính gần gũi, thân mật giữa dân làng với thần linh, phần nào đó nói lên sự một lòng, một ngọn cờ của nhân dân đối với nhà đương cuộc. Không bị ngăn cách cũng có nghĩa là sát cánh, không cảm thấy bơ vơ, thiếu thốn sự che chở của chính quyền, đồng thời nó cũng nói lên tính “có nhau” của con người trong cộng đồng.

     Về thủ tục xin “sắc thần”, trước hết vị thần “dự thờ” do dân làng chọn (một, hoặc năm, mười vị, tùy ý), những người mà lúc sinh tiền từng nêu cao công to, đức lớn, từng ra sức che chở, bảo vệ cuộc sống nhân dân địa phương…, để dâng sớ lên triều đình xin được công nhận. Nếu lý lịch, chủ yếu là hành trạng các vị chưa rõ ràng, Bộ Lễ phải bỏ ra thời gian cần thiết để tra xét cẩn thận. Trường hợp đạt tiêu chuẩn, xứng đáng thì tùy theo uy danh và sự linh ứng thông qua những truyền thuyết phổ biến trong dân gian ở địa phương, nhà vua sẽ ban sắc xuống như một sự bổ nhiệm. Nội dung vuốt ve, ban cho tước hiệu, mỹ hiệu và dặn dò thần phải kính cẩn vâng mạng, lo tròn trách nhiệm “hộ quốc tý dân” trên một địa bàn nhất định.

     Sắc thần chính là một sự hóa thân của vị thần. Dân làng hiểu ngày mình đón nhận sắc là ngày vị thần ấy chính thức nhận nhiệm vụ tại địa phương, vì vậy quan trên thường chọn ngày tốt, thường là ngày rằm để chuyển sắc xuống cho làng. Thành ra, như ở An Giang, một số người theo đạo Phật, dù ngày ấy ăn chay, người ta cũng “xin lỗi Trời Phật” mà… độ mặn! Tuy nhiên vẫn có nhiều nơi giữ khá nghiêm giới cấm (cử sát sanh) nên cúng chay. Vì vậy, sau khi đã nghiên cứu về tín ngưỡng tôn giáo từng vùng, khi viết sắc, Bộ Lễ thường không quên ghi thêm câu “Thiên niên huyết thực” để nhằm ngăn chặn bớt những hình thức cúng chay buồn tẻ. Từ ấy thành lệ, không ai dám trái, điển hình như trong sắc phong ông Thư Ngọc hầu Nguyễn Văn Thư (Phủ thờ Nguyễn tộc ở xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang).

     Có năm, như năm 1852 do các địa phương dâng sớ xin sắc cùng một lúc, sắc ban xuống không kịp, không đủ – cũng không loại trừ ngân sách địa phương eo  hẹp,  vì  khi  được  sắc  chính  quyền  địa  phương  có  trách  nhiệm  hỗ  trợ  mọi mặt, kể cả việc cấp kinh phí để xây cất, hoặc trùng tu, cũng như chi cho việc cúng tế hàng năm – hay không được ban sắc, nếu dân làng tôn kính đối tượng, tha thiết muốn thờ thì cứ việc thờ. Vấn đề công trợ có thể là không cần thiết lắm, nhưng dù sao được trợ cấp vẫn tốt hơn, đỡ ra. Cái hơn hết là được triều đình thừa nhận vị thần ấy. Đình nào đang trông chờ ban sắc thì gọi thờ “Thần vọng”. Đã dựng cất đình rồi mà chờ mãi không thấy, hoặc khi đã biết chắc vua không ban sắc, thì dân làng đều buồn tủi, nhưng chẳng lẽ chức việc trong làng để cho làng mình quá trống vắng, dân làng mình mãi đi “cúng nhờ” và “vui ké” ở làng bạn? Vì vậy phải vận dụng, bằng cách xin sao chép lại sắc thờ từ một đình khác, thậm chí ngầm tổ chức cho người đi đánh cắp rồi mua lại!

     Như đã nói, đối tượng chính được thờ ở đình là một hay nhiều nhân thần hoặc  nhiên  thần  được  dân  làng  ngưỡng  kính.  Tuy  nhiên  ở  một  số  nơi,  thần Thành hoàng bổn cảnh, tuy mang tính trừu tượng nhưng cũng được các đình tôn thờ khá phổ biến. (Thành hoàng, nói đủ là Thành hoàng kinh đô, nguyên là vị thần cai quản ở kinh thành, sau nới rộng ra những nơi thị tứ, rồi dần dần áp dụng luôn cho thôn xóm; bổn cảnh là tại nơi này đây). Cho dù thờ thần nào, thứ bậc thuộc loại thượng, trung, hay hạ đẳng, bao giờ trong đình cũng có thờ thêm những bàn phụ, như bàn Hội đồng (nhiều vị), Tả ban, Hữu ban (những vị thân cận trợ giúp đắc lực cho đối tượng chính đang thờ); Tiền hiền, Hậu hiền (những vị có công đầu trong việc khai hoang lập ấp – “Tiền hiền khai canh, Hậu hiền khai cơ”); Tiên sư; các anh hùng liệt sĩ; và cả những đối tượng có quyền năng siêu hình thuộc tín ngưỡng dân gian đã ăn sâu vào tiềm thức, nay tuy thực tế cuộc sống con người không còn bị chi phối bởi những quyền năng huyền hoặc ấy, nhưng dân gian vẫn cố bảo lưu như giữ gìn một dấu ấn sinh hoạt buổi sơ thời cha ông khai hoang, dựng nghiệp…

     Tính ra, chỉ phần phụ thờ thôi, chí ít trong đình cũng có hàng chục lư hương (trên những bàn thờ riêng). Đó là chưa kể đến những bàn chỉ mang tính trang trí để nhằm làm tôn thêm vẻ uy nghiêm, gọi “bàn nghi” hay “ghế nghi”, thường làm kiểu “chưn cheo” có cẩn ốc xà cừ – cũng bày biện đầy đủ lư hương, chưn đèn, nhưng không nêu đối tượng thờ cụ thể nào như ở đình Vĩnh Ngươn, thị xã Châu Đốc.

     Mỗi năm, đình nào cũng thiết hai lần cúng chính là Xuân tế (lễ Kỳ yên, tổ chức rất trọng thể) và Thu tế (lễ Chạp miễu hay Lạp miễu), gọi là “Xuân thu nhị kỳ” với ý nghĩa quanh năm khói hương không dứt. Xuân tế diễn ra vào đầu mùa mưa, gọi Hạ điền (xuống đồng – gieo giống); Thu tế diễn ra vào cuối mùa mưa, gọi Thượng điền (đã thu hoạch mùa vụ – xưa). Tuy nhiên tại một số đình ngoài những lần tế chính vừa nói, cứ ba năm người ta lại tổ chức “cúng đáo lệ” một lần rất trọng thể, gọi “Kỳ yên tam niên đáo lệ”.

     Đặc biệt, lễ cúng đình ở các làng thường không trùng ngày nhau, đó là sự cố ý sắp đặt của những người có trách nhiệm để dân làng, kể cả quan chức và những gánh hát bội có điều kiện tham dự được nhiều nơi cho tăng phần đông vui. Do vậy lễ cúng đình, làng nào cũng thu hút rất đông người đến dự. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa sự trân trọng giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc.

     Cho đến nay, tuy đã có phần nào cải biên, nhưng về nghi lễ, kể cả lễ phục, lễ nhạc, hình thức bài bản tế văn… đều hãy còn giữ được phong cách đặc sắc cổ truyền. Rõ nét và tiêu biểu nhất là lễ cúng tại các đình “có tuổi” như đình làng Châu Phú (thị xã Châu Đốc), Đa Phước (huyện An Phú), Kiến An, Long Kiến, Mỹ  Luông,  Chợ  Thủ  (huyện  Chợ  Mới),  Mỹ  Phước  (thành  phố  Long  Xuyên), Thoại Sơn (huyện Thoại Sơn), và một số nơi khác.

     Về nội dung “cúng đình”, cả hai phần  lễ  và  hội  ở  An  Giang  nói chung  không  khác  mấy  so  với các  nơi  khác  ở  Nam  Bộ,  nghĩa là biểu hiện rất rõ nét sinh hoạt về đời sống nông nghiệp ở nông thôn. Song  về  mặt  thể  hiện, không  thể  không  có  những  nét đặc  trưng  đáng  ghi  nhận  như, trước  năm  1975  ở  đình  xã  Hòa Hảo (quận Tân Châu – nay là thị trấn  Phú  Mỹ,  huyện  Phú  Tân) và  một  số  đình  các  xã  lân  cận tuyệt nhiên không cúng mặn, và do đó tất nhiên chỉ đãi tiệc chay (nay đã khác). Khi nghênh sắc, hai bên đường suốt lộ trình có đoàn xe đi qua, người dân treo quốc kỳ, đặt bàn hương án trước nhà mình và túc trực hầu hương rất mực cung kính. Ở đình Châu Phú, do ngày trước có cử người ra tận kinh đô Huế học hỏi nên nghi thức cúng tế ở đây được xem là khá chuẩn theo nghi lễ ở triều đình.

     Để việc đình đám được chu đáo, từ những ngày trước khi lễ hội chính thức diễn ra, người ta đã thấy Ban Tổ chức họp bàn, phân công, phân việc rất cụ thể. Họ không chỉ đạt thư mời tận từng hộ dân trong xã, mà còn mời Ban Quý tế, các đình (hoặc dinh, miếu, đền thờ…) “láng giềng” đến dự. Một mặt, liên hệ mời gánh hát bội; cho quét dọn nội, ngoại thất; chuẩn bị củi, nước; đồng thời mua sắm những vật phẩm phục vụ cho công việc cúng tế; một mặt thông báo rộng rãi thể lệ các cuộc đua tài, chủ yếu là thể thao và các trò chơi dân gian truyền thống để mọi người đều có thể hào hứng tham gia. Rồi thì phân ô phần sân đất rộng quanh đình đặng tổ chức cho bà con bốc thăm xác định địa điểm dựng lều trại mở quán ăn uống phục vụ người tham dự lễ hội… Xem ra cũng khá tất bật!

     Sáng sớm ngày đầu tiên diễn ra lễ hội người ta thấy Ban Quý tế đình thần đã tề tựu đầy đủ, ai nấy khăn áo rất chỉnh tề để, khi nghe ba hồi trống tựu giục giã, tất cả đều nhanh chóng ra sân nghiêm trang cử hành thượng thần kỳ, và bái cúng “Thần Nông” tại một bệ gạch được xây đắp (như đàn Xã Tắc ở kinh đô) cạnh bức bình phong có tô vẽ hình con vật dựa theo lệ định dành cho các vị nhân thần (đối tượng chính được thờ, thí dụ Thần thượng đẳng thì hình con long mã, Thần trung/ hạ đẳng thì hình con kỳ lân); hoặc dựa theo bố tử của vị nhân thần, tùy từng nơi.(1) Tuy nhiên cũng thấy có một số hình khác, như cọp, nai, chim… mang ý nghĩa dấu ấn sâu sắc địa phương thời mới dựng lập.

     Các  cụ  hàng  ngũ  chỉnh  tề,  có  đội  quân  danh  dự  dàn  chào  –  đó  là  hình ảnh những người lính thú ngày xưa, trên tay tua tủa nào siêu, đao, nào chùy, thương, búa, kích… rất oai nghiêm. Thần kỳ cũng gọi đại kỳ, vì đó là lá cờ đỏ rất to, có thêu 4 chữ Nho (hoặc Quốc ngữ) như “Quốc thới dân an” hay “Thiên hạ thái bình”…, rất uy thế. Xong lễ sơ nghinh, các cụ là những người có nhiệm vụ cùng ra xe đi nghinh sắc (hoặc rước sắc, nếu sắc ấy được đặt thờ ở nhà riêng của một vị trong Ban Quý tế). Nơi ấy, trước hết là phải bảo đảm an toàn, tức không thể bị mất trộm; người được giao giữ sắc phải thành lòng tự nguyện khói hương chu đáo hàng ngày, do đó vị ấy không chỉ là người đạo cao đức cả, mà gia đình cũng được xem là tử tế, có uy tín trong làng, cho nên được giữ thờ sắc là cả một vinh dự! Đoàn xe đi nghinh sắc có đến hàng chục chiếc, được huy động trên cơ sở tham gia tự nguyện, mang tính “cây nhà lá vườn” để thể hiện tấm lòng, nên không đồng nhất, nào ô tô khách, ô tô con, nào máy cày, máy xới kéo rờ moọc, nào xe gắn máy kéo thùng, xe lôi đạp và cả xe đẩy cải tiến cũng được trưng dụng đặng để cái trống – không phải khiêng. Dẫn đầu là xe múa lân (hoặc long mã) có thêu vẽ 4 chữ “Phong điều vũ thuận”; kế đến là cỗ xe long đình, gọi “Long xa phụng tán” được chạm trổ rất mỹ thuật, sơn son thếp vàng rực rỡ, đó chính là xe để hòm (hộp) đựng sắc thần; tiếp theo lần lượt là xe học trò lễ, các nữ hầu (đào thài), các cụ Ban Quý tế, Ban Tổ chức…, cuối cùng là sự tháp tùng của hàng trăm xe gắn máy và xe đạp. Xen giữa là Ban Nhạc lễ với một số nhạc cụ truyền thống đã định hình là trống, mõ và phèng la, thong thả gióng lên từng hồi nhịp ba (ba dùi/ hồi), thỉnh thoảng chen lẫn vài hơi kèn lá, tạo nên những âm thanh thánh thiện, gợi nhớ cảnh quan hoang sơ thuở người lưu dân mới vào đây vẹt rừng phá bụi, phải thường xuyên đương đầu với biết bao khắc nghiệt, nào sơn lam chướng khí, nào thú dữ bạo hành… Nhạc cứ thế liên tục vang lên, đồng vọng trên suốt cả lộ trình (chính) từ “đầu làng đến cuối xóm” mang ý nghĩa đưa thần đi thăm viếng, cầu mong ngài phù hộ độ trì cho “già mạnh khỏe, trẻ bình an”, mưa thuận gió hòa, ngành nghề tinh thông, phát triển.

     Đón rước (sắc) thần, trước mỗi nhà người dân đặt bàn hương án, có người túc trực hầu hương rất mực thành kính. Xưa, đoàn thỉnh sắc đi bộ, có cầm hai bảng đề chữ Nho “Tĩnh túc” hay “Túc tịnh” (yên lặng, cung kính), và “Hồi tỵ” (tránh xa) nên mọi người, nhất là phụ nữ và trẻ con chấp hành rất nghiêm, thậm chí không dám ra đường khi đoàn nghinh sắc đi ngang qua – sợ có điều chi khinh suất, e bị quở phạt, nay đi bằng xe, đã có kèn hoặc còi hụ mở đường nên vấn đề “yên lặng” và “tránh xa” là đương nhiên. Tuy vậy hai tấm biển ấy vẫn được mang theo, nhằm khắc họa lại một dấu ấn lịch sử thuở xa xưa.

     Đoàn xe trở về đình. Khi đã an vị sắc xong tại vị trí nhất định (bàn thờ thần), các cụ, người nào việc nấy…

     Cũng  như  mọi  người,  hôm  ấy ông  Kế  hiền  rất  hãnh  diện  với bộ  quốc  phục  thẳng  thớm  của mình,  trông  rất  đẹp  lão.  Trên gương mặt ông lúc nào cũng nở nụ cười hân hoan. Cứ nhìn thái độ  cung  kính  của  mọi  người  đủ biết ông là nhân vật số một của Ban Quý tế. Ngày này, nếu vai trò ngoại vụ của ông Chánh bái (hay Đại  bái,  Phó  bái,  Bồi  bái, Tiền bái) đa đoan bao nhiêu thì phần  hành  đảm  trách  các  vấn đề nội vụ của các ông Chánh tế, Phó tế, Bồi tế cũng bận rộn bấy nhiêu. Bên cạnh các “hương chức hội chánh” vừa kể, các ông “hương chức hội hương” cũng đa đoan không kém bởi, nếu ông Hương lễ chịu trách nhiệm các phần việc của Ban Lễ sinh thì, ông Hương nhạc là người chỉ huy Ban Nhạc lễ; ông Hương quan lo về nghi lễ, tục lệ; ông Hương đăng và Thủ hương lo việc nhang đèn (thắp nhang hàng ngày thì do ông Thủ từ, cũng gọi ông Từ đình); ông Hương văn lo việc soạn đọc văn tế; ông Hương ẩm coi việc chiêu đãi, tiệc tùng. Bên cạnh họ hãy còn ông Giáo sư là người quảng kiến đa văn, cố vấn mọi mặt cả hình thức bài trí lẫn nội dung theo chương trình tế cúng. Còn thu chi tiền bạc thì đã có Thủ bổn và một số người phụ giúp như Hương bổn, Hương biện, Hương kiểm. Việc nấu nướng thì có các ông bà trong Ban Hỏa thực v.v… Những ngôi đình “lên lão” nhân sự của Ban Quý tế rất đông, vì các ông “Hương” được làng cấp “văn bằng” (như quyết định bổ nhiệm) với nhiệm kỳ là… vĩnh viễn, vì vậy chỉ khi nào bị khuyết mới cử người thay. Mặt khác làng cũng cử thêm một số người phụ giúp những cụ đã quá già yếu, dĩ nhiên phải nghiệm đặt những chức vụ mới, nghe khá lạ, nên có khi người nhận lãnh chẳng rõ nhiệm vụ cụ thể của mình là gì! Cũng do thế mà thành phần và số lượng nhân sự Ban Quý tế các đình đều không giống nhau.

     Hiện, bộ máy cồng kềnh này đã được tinh giản lại vừa gọn nhẹ, vừa thực tế nhằm thiết thực đảm trách vai trò bảo vệ văn hóa truyền thống ở nông thôn.

     Cũng ngay sau khi đã an vị sắc thần xong, dân làng lũ lượt kéo đến tham gia các cuộc vui chơi giải trí được tổ chức rất hào hứng, sôi nổi. Trong khi đó cũng có đến hàng trăm lượt người với những mâm lễ vật trên vai thành kính mang đến dâng cúng thần, phổ biến nhất là nhang, đèn, trà bánh và xôi vị, trên ấy có điểm xuyết vài ba bông điệp đỏ, điệp vàng để tỏ là thức cúng. Đối với  những  đình  cúng  “tự  do”  (tức  không  có  lệ  cúng  chay),  dân  làng,  nhất  là những người kinh doanh thành đạt mang cúng cả heo quay, bánh bò, bánh hỏi. Thường thì khi tiếp nhận và cúng xong, Ban Quản trị chỉ nhận 1/3 để dùng vào việc đãi khách, còn 2/3 thì “kiếng” lại chủ mang về để cả nhà cùng ăn, kể là “hưởng lộc thần ban”.

     Không như ở một số nơi, hầu như đình nào ở An Giang cũng không phân biệt chỗ ngồi theo kiểu “chiếu trên, chiếu dưới”, cũng không thấy có chuyện chia (biếu) thịt cho các cụ theo thứ bậc. Tất cả đều bình đẳng và được Ban Tổ chức ân cần mời dùng những bữa ăn thịnh soạn hoàn toàn miễn phí. Tất nhiên toàn bộ chi phí cho cả ngàn thực khách đều được lấy ra từ sự hỉ cúng của dân làng. Tuy các khoản chi trong lễ hội cúng đình rất lớn, nhưng dường như không bao giờ ngân quỹ bị thâm hụt, vì con số đóng góp tự nguyện của nhân dân thường rất cao, thậm chí dư nhiều nếu năm ấy dân tình bình an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Nhờ đó mà có kinh phí trùng kiến, mua sắm hoặc đóng góp việc công ích xã hội. Nhiều nơi, Ban Thư ký (tức Thủ bổn, Hương biện…) được tăng cường 5, 7 người mà có khi ghi thu không kịp!

     Trời càng khuya, dân làng xem lễ hội càng thưa dần. Cho đến khoảng 23 giờ số người còn lại chỉ chừng đôi trăm. Đó là những người quyết tâm ở lại. Họ đứng nép sát hai bên vách đình, hướng về gian Túc yết là nơi Ban Quý tế đang chuẩn bị lễ vật và trang phục để tiến ra đại bái đường bắt đầu cử hành lễ Túc yết đúng theo tục lệ cổ truyền vào lúc nửa đêm. Lúc này không khí trong đình thật trang nghiêm, huyền diệu, vì người không có phận sự, nhất là trẻ con đã được Ban Tổ chức nhắc nhở lui ra phía ngoài để trả sự yên tịnh cho Ban Quý tế tiến hành nghi lễ. Tuy nhiên nếu ai biết tự ý thức giữ gìn trật tự chung, ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề vẫn có thể được ở lại dự khán. Cả sân và nội thất của đình lúc này người xem đứng chật cả vòng trong, vòng ngoài. Tất cả đều chăm chú dõi theo mọi diễn biến hành lễ, đến mức gần như không ai dám thở mạnh!

     Để mở đầu lễ Túc yết (túc trực chờ được yết kiến thần linh), sau hồi trống “thông thiên triệt địa”, cũng là trống hiệu tập trung, mời các “viên chức tân cựu tựu vị”, và khi các cụ đã “tĩnh túc thị lập” tức đã thực sự ổn định trật tự, không ai còn việc gì phải di chuyển lui tới thì, người điều động chương trình lễ bắt đầu “xướng” (đảm trách phần xướng có hai người, mặc lễ phục, đứng hầu hai bên bàn nghi, mỗi lần xướng thì vòng hai tay cung kính). Đây là một điệu xướng rất đặc thù chỉ diễn ra trong những buổi tế ở đình, hoặc đền thờ, giọng đưa lên, hầu như tiếng nào cũng có “thanh sắc” nghe lanh lảnh. Và, đặc biệt là luôn có ngân thêm tiếng “a” (xướng lên nghe “á”) kéo dài sau mỗi câu. Thí dụ như “Chánh tế tựu vị, a…” thì xướng “Chánh tế tứu ví, á...” (mời những vị có trách nhiệm “chánh tế” đến vị trí quy định). Cũng như thế, thay vì “Cúc cung bái” thì xướng “Cúc cúng bái, á…” (quỳ xuống lạy); “Hưng bình thân” thì xướng “Hứng  bính  thấn,  á...”  (đứng  lên);  “Tấn  tước,  á...”  (nâng  chén  rượu  đưa  lên); “Châm tửu” thì xướng “Chấm tứu, á…” (rót rượu vào); “Hiến tước, á…” (dâng lên bàn thờ) v.v… Rất chu đáo, kính cẩn!

     Trước hết là lời xướng: “ Nghệ quán tẩy sở, a…” (những người có trách nhiệm trực tiếp phụ trách việc tế tự, từ học trò lễ đến Chánh tế đều phải đến thau nước lã đặt sẵn trên giá bên cột đình để rửa/lau tay và mặt – tất nhiên chỉ là động tác tượng trưng).

     Lại xướng: “Chỉnh y quan, a...” (sửa lại khăn áo cho chỉnh tề).

     Rồi: “Khởi cổ lịnh, a...” (đánh lên mấy tiếng tiểu cổ – loại trống nhỏ, có cán cầm) như báo tin thần đang di chuyển, sắp ngự trên khánh vị. Ngay sau đó một hồi mõ được đánh to lên để cung kính đón chào thần, gọi “Khai thái bình thinh”.

     Lại xướng: “Khởi minh chinh, a...” (đánh chiêng), rồi “Khởi đại cổ, a…”(đánh trống lớn). Tiếp theo, hai người trong Ban Nhạc lễ tiến đến trước chánh điện trình tấu trống lễ để một lần nữa cung kính đón chào. Khi đã “tác nhạc” xong, cả hai người đồng “hoàn cựu sở” (lui về vị trí).

     Tiếng trống chào mừng vừa ngưng, lễ Tĩnh sanh được tiến hành (tĩnh là tinh khiết; sanh là hy sanh/hy sinh – chết thay thế). Đây là lễ tế vật sống, thường là heo, gọi “con hy sinh” được tiến hành “y cựu phụng sự”. Một người áo dài khăn đóng dẫn đến con heo trắng to béo (thường thì phải đúng tạ, hiểu là 60 ký, hoặc hơn, không tế heo “tiền sắc” tức heo bông, vì các cụ cho rằng loại ấy gốc ở Hải Nam, Trung Quốc, không dùng) đã được tắm rửa sạch sẽ, đến trước “khánh vị” (bàn thờ thần), rót 3 tuần (lần) rượu (trắng) cung kính đặt lên. Mỗi tuần rượu, vị Chánh tế kính cẩn khấn vái… Xong dồn rượu lại một ly, một phần đổ vào họng con heo, một phần rót lên mình nó, từ đầu dài theo lưng, rồi dẫn xuống “nhà trù” (không thấy vật ngã ngay trước bàn thờ thần như nghe nói có diễn ra ở một số nơi khác – để mọi người không phải xúc động trước cảnh tượng thương tâm). Sau đó lấy một nhúm lông bỏ vào chén huyết có đậy lá chuối, học trò lễ mang đến trao cho viên Thị lập. Viên này đón nhận rồi kính đặt lên bàn thờ như để trình với thần.

     Chương trình tế lễ được khởi đầu bởi “Tuần củ sát tế vật” (sát cũng gọi là soátvật cũng gọi là phẩm). Trước tiên, hai lễ sinh (học trò lễ, với lễ phục và cả hia mang, mũ đội toàn màu xanh thẫm với những đường nét hoa văn, họa tiết theo kiểu thức thuở cựu trào rất đặc trưng, đẹp mắt) nghiêm chỉnh tiến đến xem soát các lễ vật trên bàn thờ. Khi thấy tất cả đều được dâng lên đầy đủ (trầu, rượu, xôi vị…), ngay ngắn, đúng quy cách thì tiến hành tuần hương, hay phàn hương, cũng gọi “Nghệ hương án tiền” (thắp nhang). Các vị Chủ tế và Bồi tế làm lễ Thượng hưởng (dâng nhang), từng động tác đều phải làm theo lời xướng.

     Tiếp theo là tuần Ế mao huyết (bưng chén lông và huyết của con hy sinh đem chôn – hủy bỏ vật cúng ấy một cách tế nhị). Xong, tới phần “Nhạc sanh khởi túc”. Lúc này, dàn nhạc lễ gồm đờn cò, đờn kìm, kèn, trống… cùng lúc nổi lên rộn ràng.

     Phần Chánh tế bắt đầu. Khởi đầu là “Sơ hiến lễ”, kế đó là “Á hiến lễ”, sau cùng là “Chung hiến lễ”, tức phải cử hành liên tục đúng bài bản 3 lần y nhau, mỗi lần 12 lễ sinh đồng bái, rồi một cách rất ăn nhịp, họ chia ra mỗi tốp 4 người từ từ tiến đến trước những bàn thờ mình thọ nhiệm, bằng những bước đi theo kiểu “chữ Tâm” (Nho) một cách vừa khoan thai vừa “cực kỳ điệu bộ”.

     Cạnh mỗi bàn thờ đều có hai hương chức túc trực tại chiếu để sẵn sàng cúc cung đúng nghi thức theo từng “tuần” nhất định (một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà). Tùy theo yêu cầu nội dung của mỗi “tuần” các lễ sinh thi lễ với cung cách hết sức thành kính, bài bản: vòng cao hai tay ra phía trước, có nâng đài rượu, rồi lần lượt là hương, đăng, trà, quả…; trên khay, hoặc dĩa đựng vật tế đều có đôi đèn sáp màu đỏ được thắp sáng lên như để soi cho tỏ rõ, đưa lên trán, vẻ mặt nghiêm nghị, thành kính, mắt hướng thẳng, tập trung… Tất cả như một màn đồng diễn tài hoa: họ cùng nhún mình, rồi nhón gót lên và trụ vững chân trái, đoạn đồng loạt ngoéo chân phải ra sau rồi rút trở về vị trí cũ, xong đá thẳng tới, giựt nhẹ lại mới hạ chân xuống. Thế là đã tiến được một bước. Xong đổi sang chân kia. Cứ theo nhịp điệu của dàn nhạc lễ mà thong dong “nhứt bộ nhứt bái”. Khi đã tiếp cận với bàn thờ thì lễ sinh lạy hai lạy rồi rót rượu dâng lên. Lại lạy hai lạy nữa, vị chi bốn lạy. Theo sau các lễ sinh là các cô “đào thài” với y trang rực rỡ, trang điểm phấn son theo kiểu “nhấn mạnh” như đào hát bội, khá duyên dáng, tay cầm quạt phe phẩy lễ sinh, vừa đi vừa hát những câu đưa đẩy ca ngợi tổ quốc xinh đẹp, chúc mừng minh quân thạnh đức, đồng thời dâng lên thần linh nào rượu ngon, trà thơm, nào hương trầm bát ngát…, theo một giọng điệu rất riêng, rất ngọt ngào, gọi “ca theo điệu chúc”.

     Hiến lễ được tiến hành 3 lần, các động tác hành lễ như rót rượu, dâng rượu, quỳ lạy đều được cung kính tiến hành theo lời xướng. Dứt phần Chung hiến lễ (dâng rượu lần ba) các vị Thị lập đón nhận và dâng thêm trái cây, bánh trà lên bàn thờ thần. Đến đây xem như thần và “chư vị” đã “độ” xong buổi tiệc trọng.

    Để tỏ sự thân mật, tưởng nghĩ lòng hiếu kính, lúc này Chánh tế và Bồi tếđược phép đại diện dân làng nâng chén “ẩm độ”, tức nhắm một hớp rượu đã cúng thần – tất nhiên các nghi thức quỳ lạy, ẩm phúc (uống chén rượu cúng), thụ tộ (nhận miếng thịt phần, có khi thay bằng miếng trầu)… cũng phải theo lời xướng.

     Đến đây chương trình được chuyển sang phần đọc văn tế, tức đọc bài văn tế viết bằng chữ Hán trên giấy hồng đơn, nội dung kể rõ công nghiệp, đức tính vị thần cụ thể đang thờ. Nếu là thần Thành hoàng bổn cảnh thì tưởng vọng chung chung, tha thiết cầu xin “chư thần” (kêu kể tất cả các “thần cổ sơ” theo mức  hiểu  biết  từ  những  truyền  thuyết  dân  gian)  hiển  linh  thông  qua  những lễ vật mọn mà chứng giám tấm lòng  thành,  phù  hộ  độ  trì  cho dân làng an vui, trúng mùa…

     Khi ông Hương văn đọc, có người cầm  đèn  sáp  màu  đỏ  rọi  (tượng trưng)  từng  chữ  theo  ngón  tay ông rà rà trên bổn. Trong khi đó tất  cả  các  vị  trong  Ban  Quý  tế đều quỳ, tỏ vẻ cầu xin tha thiết. Đọc  xong,  bài  văn  tế  được  đốt (gọi  “phần  chúc”)  ngay  bên  đàn tế, trong một nồi bung bằng đất nung để “chuyển sớ đến cõi âm”. Một số bô lão dự khán hướng về ánh lửa đang cháy sáng, sụp lạy, biểu hiện cao nhất tấm lòng thành kính tuyệt đối trước thần linh.

     Đây chỉ là bài văn tế được ai đó soạn viết một cách chung chung, như bài mẫu. Muốn sử dụng, người ta thêm vào ở phần đầu một số chi tiết về ngày, tháng (âm lịch), giới thiệu danh sách Ban Quý tế trực tiếp chịu trách nhiệm tại ngôi đình thuộc làng/xã, huyện, tỉnh (và cả đến quốc hiệu) nơi diễn ra cuộc cúng tế cầu an năm ấy. Tuy nhiên, trong tinh thần đổi mới, khoảng vài mươi năm nay hầu hết các bài văn tế kiểu cũ này đã được cải tiến cho phù hợp nếp sống, nếp nghĩ của thời đại. Ở đó, về nội dung tập trung kể lai lịch, tiểu sử, ca ngợi đức tính, hành trạng đối tượng đang thờ, ôn nhắc công nghiệp tiền nhân đã thiết thực phù hộ độ trì cho dân làng bình an, cuộc sống của các hạng sĩ, nông, công, thương ngày càng thịnh đạt, phát triển, cũng là một cách nâng cao lòng tự hào dân tộc, giúp mọi người được dịp sống lại với cội nguồn, với hồn thiêng sông núi…, nghĩa là đã mạnh dạn bỏ đi những phần cầu khẩn, vọng tế những thần thánh viễn vông không rõ ngọn nguồn, tông tích, mê tín thái quá. Tất nhiên vấn đề viết và đọc cũng được đại chúng hóa bằng chữ Quốc ngữ. Dù vậy, về phần lễ trong lúc tế, các “câu thiệu” kể cả điệu giọng, khi xướng, phần lớn các đình vẫn cố giữ lấy những nét đặc trưng cổ truyền, xem như đó là cái vốn quý thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi như chúng ta đều biết, nếu hiện đại hóa một cách máy móc thì hẳn nhiên cúng đình sẽ không còn là cúng đình nữa!

     Khi ông Hương văn đã đọc và đốt bài văn tế xong, phần hành chánh lễ xem như đã kết thúc. Kể từ giờ này dân làng đã có thể tự do lễ bái khắp các bàn thờ trong đình (thật ra dân chúng lễ bái lúc nào cũng được ngoại trừ lúc đang cử hành chánh tế và hành chánh lễ). Nhưng chưa việc gì phải vội, vì ngày mai bái thần cũng không muộn, bởi lúc này gà đã gáy hiệp nhất, hiệp nhì, tức gần sáng!

    Tuy thấm mệt, nhưng ai nấy cũng cảm thấy nhẹ hẳn người, vì không khí thiêng liêng của phần lễ nghi đã được diễn ra đúng bài bản, và không một mảy may khinh suất với lòng tín ngưỡng sẵn dành.

     Chương trình cúng đình hãy còn những đêm hát bội rất đặc sắc, bao gồm “hát hiến” (đêm đầu) rồi “hát tuồng”. Tuồng cổ nào cũng được kết thúc trên cơ sở tuân thủ công thức nhất định: “Tôn vương – phục nghiệp”. Tất cả đều nhằm trước hết là phục vụ cho thần “giải trí”, sau giúp vui dân làng – xem như đây là phần “hội” chính. Đặc trưng của lễ và hội Kỳ yên là đan xen nhau, gắn bó rất hữu cơ. Tuy nhiên do hát bội chỉ phù hợp đối với người cao tuổi, vì họ đều thuộc làu  làu  tuồng  tích,  và  tỏ  ra  rất  sành  điệu  khi  thưởng  ngoạn  loại  hình  nghệ thuật truyền thống đặc biệt này, cho nên, để đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, phần “hội đình” được mở rộng thêm bởi những trò chơi dân gian, như bắt vịt, nhảy bao, đập nồi; những cuộc đua tài truyền thống như đua xuồng, chạy đua, tranh giải thể thao, hoặc biểu diễn long mã, múa lân, văn nghệ quần chúng, nhất là hát cải lương – bầu gánh nào cũng cố mời được 5, 7 nghệ sĩ tài danh làm nòng cốt để, trước hiến vui sau… hốt bạc!

     Lễ  hội  cúng  đình  được  kết  thúc  vào  sáng  ngày  thứ  ba  bởi  lễ  hoàn  sắc. Ngày chuyển trả sắc về an vị nơi cũ cũng nhạc, cũng lân, cũng sáng choang đồ binh khí, bát bửu, và cũng với niềm tin đầy thành kính của dân làng bên những bàn hương án trang nghiêm dọc hai bên đường, y như ngày thỉnh sắc.

     Thế là ai nấy đã yên tâm làng mình sẽ được thần linh tiếp tục phù hộ độ trì “phong điều vũ thuận”, “già mạnh khỏe, trẻ bình an”… để rồi năm sau, cứ đến ngày ấy, tháng ấy lễ hội cúng đình lại được rộn ràng đáo lệ.Về nghi thức cúng diễn ra tại từng đình, từng nơi, tùy hoàn cảnh, điều kiện mà có khi hoặc được chế thêm, hoặc được châm chước, nhưng cả về hình thức lẫn nội dung chung nhất là như thế.

     Chú thích:

      (1) Lê Quý Đôn có ghi lại bài thơ nói về phẩm phục các quan văn trong Vân đài loại ngữ (dịch):

Áo các quan nhất, nhị phẩm thêu tiên hạc và chim trĩ,

Tam, tứ phẩm thêu công và nhạn bay trên mây.

Ngũ phẩm thêu nhạn trắng,

Lục, thất phẩm thêu cò và uyên ương, chim kê thốc.

Bát, cửu phẩm, và tạp chức thêu chim liêu, chim thuần, chim thước và chim hoàng ly,

Nha môn phong hiến (tức quan ngự sử) chuyên giữ phép tắc thì đặc biệt thêu con giải trãi.

     Còn các quan võ thì (dịch):

Áo các tước công, hầu, phò mã và bá,

Thì bố tử thêu kỳ lân và bạch trạch.

Nhất, nhị phẩm, thêu sư tử,

Tam, tứ phẩm, thêu hổ, báo.

Ngũ phẩm thêu con hùng, con bi,

Lục, thất phẩm, thêu con bưu.

Bát, cửu phẩm, thêu hải mã,

Hoa dạng thì có con tê ngưu.

Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang)

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (96), 2012, tr.98-107.

Địa danh học là môn học rất thú vị, nó giúp cho người ta trả lời những câu hỏi về nguồn gốc, lý do của những tên làng xóm, cầu cống, chợ búa, tỉnh thành... Ví dụ: Tại sao lại gọi là Sài Gòn, Cần Giờ, Giồng Ông Tố, Sóc Trăng, Mặc Cần Dưng, Chắc Cà Đao?…PGS. TS. Lê Trung Hoa là một trong những người đặt nền móng và theo đuổi đến cùng môn địa danh học với mục đích lần lượt tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Vì thế người đọc rất vui mừng khi đón nhận công trình Địa danh học Việt Nam của ông mới xuất bản gần đây (NXB.KHXH, 2011). Công trình đặt ra những vấn đề nhập môn và những thao tác cơ bản của môn học này: Địa danh học là gì; Phân loại và định nghĩa địa danh; Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh; Cấu tạo của địa danh Việt Nam; Qui cách viết hoa địa danh Việt Nam; Địa danh vùng Tây Nguyên; Địa danh vùng Chăm; Địa danh vùng Khmer

 

Công trình Địa danh học Việt Nam ra đời sẽ thúc đẩy phân môn này phát triển. Từ công trình này, người đọc mong chờ một quyển từ điển địa danh Việt Nam đầy đủ - cả hiện tại và quá khứ của ông và các cộng sự sẽ ra mắt tới đây.  

Nói đến Tết là nói đến tranh dân gian. Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên đán, người dân mua tranh về dán trên cửa, bàn thờ, tường, xà nhà… hết năm lại bóc bỏ, dán tranh mới. Nay, thú chơi tranh dân gian có xu hướng quay trở lại trong đời thường, không chỉ vào dịp Tết cổ truyền.

20240209 3

Tranh nghỉ ngơi sau buổi cày, gợi lên cảnh thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc (tranh Đông Hồ). Ảnh: Đỗ Quang Tuấn Hoàng

“Tranh dân gian Việt Nam được làm và bán lẻ vào mỗi dịp Tết, các dịp lễ trọng đại hoặc dành cho nghi thức tôn giáo hay đơn giản chỉ là thú tiêu khiển trong gia đình. Là loại tranh thủ công, tranh dân gian vừa phụ thuộc các mẫu tranh thịnh hành nhưng đồng thời cũng để lại dấu ấn sâu sắc do tính độc đáo của những nghệ nhân sáng tạo ra chúng”, Maurice Durand trong cuốn sách Tranh dân gian Việt Nam (L’Imagerie populaire Vietnamienne) do École franςaise d’Extrême-Orient xuất bản tại Paris năm 1960 đã viết như vậy.

Một phần hồn Việt trong lành

Theo ghi chép của Maurice Durand, sau mùa gặt tháng Mười Âm lịch, các gia đình ở làng Đông Hồ bắt đầu lấy ván in ra làm tranh cho đến khoảng ngày 20 tháng Giêng Âm lịch năm sau.

Ông cho biết: “Vào dịp Tết, tranh dân gian được bày bán khắp các phố phường, dán trong nhà hoặc triển lãm nơi công cộng dù chúng không hẳn là những tác phẩm hội họa có giá trị to lớn. Đó là những sản phẩm thủ công được tạo ra từ kỹ thuật lưu truyền từ đời này qua đời khác với nguồn cảm hứng gần như bất di bất dịch”.

Năm 1957, ông thực hiện cuộc khảo sát ở Hà Nội về việc làm tranh Tết, “cho ra con số 300.000 tranh trên giấy thường và 2.000 bộ tranh, mỗi bộ thể hiện một chủ đề khác nhau trên loại giấy đã được bồi. Số liệu này chỉ chiếm một phần sáu số tranh được làm trước những năm 1940-1945”. Đủ biết nhu cầu chơi tranh Tết của người dân Bắc bộ lớn đến thế nào.

Ở Việt Nam có bốn làng tranh dân gian nổi tiếng là Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng và Sình.

Nếu như các làng tranh Đông Hồ, Hàng Trống, Sình sản xuất theo từng hộ gia đình, khép kín thì việc tổ chức làm tranh ở Kim Hoàng mang tính cộng đồng, thành phường hội, gắn kết chặt chẽ với nhau. Người có uy tín trong làng được cử ra làm trưởng phường; trưởng phường gần nhất là ông Trần Bá Sơ. Giỗ tổ phường là ngày rằm tháng Một (tháng 11 Âm lịch). Mỗi năm một gia đình trong phường luân phiên đứng ra làm lễ giỗ tổ, dù không rõ tổ nghề là ai.

Ngày giỗ tổ cũng là ngày mọi người chia nhau ván in tranh phục vụ Tết. Trong quá trình in, các gia đình có thể trao đổi ván in cho nhau. Tổng số mẫu tranh cổ của làng Kim Hoàng là 93, trong đó có 21 tranh vẽ tay. Sau một tháng làm tranh tất bật cả ngày rồi tối đến lại chong đèn ba dây mà chấm phẩm (vẽ màu), đến ngày rằm tháng Chạp (tháng 12 Âm lịch) thì phường làm lễ thánh sư. Đó cũng là lúc các gia đình tỏa đi bán tranh ở khắp các chợ làng trong vùng như chợ Canh, Diễn, Sấu Giá, Phùng, Tây Tựu, Sơn Đồng, Diễn, Vạng, chùa Thầy… nhưng cũng chỉ dồn dập vào một tuần cận Tết Nguyên đán.

Tranh Múa rồng (tranh Hàng Trống). Ảnh: Đỗ Quang Tuấn Hoàng

Một phiên chợ Tết ở các nơi trong vùng thường đặt 10-15 chiếc chiếu bày tranh Kim Hoàng. Nông dân ở vùng quê xứ Đoài rất thích mua các tờ tranh đỏ in vẽ hình con lợn bột, lợn nái đen, cặp gà đối nhau… Các cụ già kể rằng những năm phát đạt, đi chợ bán tranh về phải được một gánh nặng tiền Tự Đức.

Theo họa sĩ Phan Ngọc Khuê, tác giả cuốn sách Tranh dân gian Hàng Trống Hà Nội (NXB Hà Nội, 2018), tranh Hàng Trống có những điểm độc đáo mà nhiều dòng tranh khác không có. Kỹ thuật độc đáo cũng khiến khổ tranh Hàng Trống thường lớn hơn các dòng tranh dân gian khác. Điều này liên quan trực tiếp đến thú chơi tranh của người xưa và nhu cầu trang trí nhà cửa. Đối với dân thành thị, treo tranh, chơi tranh không đơn giản là cho có không khí Tết, mà bức tranh còn đồng thời là vật trang trí để kiến tạo một không gian sang trọng và quý phái, chứng tỏ được nề nếp gia phong.

Bố cục của tranh Hàng Trống cũng khác. “Chẳng hạn, bộ tranh Tố nữ đã thoát khỏi cảm quan thẩm mỹ cũ, với đường nét mới mẻ, thanh thoát, nhẹ nhàng. Bề rộng của bức tranh gần bằng một phần năm chiều cao, tạo nên một sự khác lạ cho bố cục. Trọng điểm của tranh vẽ hình người, đặt vào phần nửa dưới của bức tranh, khoảng trống “mênh mông” ở phía trên như muốn kéo vút lên cao dư cảm thẩm mỹ của nghệ thuật hội họa và dư âm của nghệ thuật nhạc”.

Phó giáo sư, tiến sĩ Trang Thanh Hiền cho biết: “Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam. Tranh Tết là một phần hồn Việt trong lành, nhân hậu và đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt. Người ta cho rằng tập quán chơi tranh lâu đời này xuất phát điểm từ thời Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400), nhưng thực tế lại không có một bằng chứng xác thực nào cả”.

Đề tài trong tranh dân gian vô cùng phong phú và đa dạng. Nhưng đã là tranh treo Tết thì bao giờ cũng mang một nội dung là cầu chúc những điều tốt đẹp.

Những bức tranh chính là những câu chúc cho gia chủ một năm phát tài phát lộc. Tiến tài, Tiến lộc, là những bức tranh luôn được người dán ở cổng như muốn mời gọi thần tài đến nhà. Hay bộ tranh Phúc – Thọ với câu chúc Phúc như Đông hải và Thọ tỉ Nam sơn, là những chữ được viết lấy hình sau đó trong các chữ lại được minh họa cho nội dung câu chúc. Đây cũng là cách chơi thư họa đồng nguyên.

Nhiều bức chữ phúc được khắc vẽ một cách rất cầu kỳ có tới 24 hình ảnh về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, hay trong chữ thọ có vẽ tới 28 chòm sao; phần lớn thuộc về dòng tranh Hàng Trống, bởi thẩm mỹ của giới thị dân bao giờ cũng trọng cái tinh tế, tỉ mỉ và cầu kỳ. Các bức tranh này bao giờ cũng được gia chủ treo ngay ở gian giữa và đăng đối sang hai bên. Ngoài ra trong dòng tranh Hàng Trống còn có một số tranh đơn cũng được treo vào dịp tết như Lý ngư vọng nguyệt hay Múa rồng. Một bức thì nói lên triết lý của người phương Đông về âm dương giao hòa, một bức là lời cầu chúc cho một năm phồn thịnh, đem không khí xuân sắc tưng bừng đến nhà.

Ngày xưa, các cụ sáng tác tranh thường có đôi như đôi câu đối. Có bốn kiểu đối tranh.

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả, làng tranh dân gian Đông Hồ, giải thích: Kiểu thứ nhất: Hai tranh hoàn toàn đối xứng nhau (đối xứng trục), chẳng hạn hai con lợn châu đầu vào nhau. Kiểu thứ hai: Hai tranh cũng đối xứng trục nhưng trên mỗi tranh có chữ khác nhau. Chẳng hạn tranh Tiến tài có đôi của nó là Tiến lộc. (Hai vị thần đối xứng nhau nhưng chữ trên mỗi tranh khác nhau). Kiểu thứ ba: Sự đối xứng không còn thực hiện nghiêm ngặt nữa, đối ý là chính. Chẳng hạn, em bé ôm gà và em bé ôm vịt (Vinh hoa, Phú quý), hay em bé cầm quả đào và em bé cầm quả phật thủ. Kiểu thứ tư: Chỉ đối ý, loại này nhiều tranh nhất: Hứng dừa – Đánh ghen, Đu đôi – Bắt chạch, Trưng vương khởi nghĩa – Triệu ẩu xuất quân, Trai tứ khoái – Gái bảy nghề… Đôi khi hai tranh đối xứng được vẽ thành một như Phúc lộc song toàn hay Lý ngư vọng nguyệt…

Đầu năm mới cũng là dịp người ta quét tước nhà cửa, sửa soạn lại bàn thờ, do vậy các tranh mang đề tài tín ngưỡng cũng được bày bán khá nhiều trong dịp Tết như tranh ông công, ông táo. Trong các đền phủ thì là các tranh như tam tòa thánh mẫu, tứ phủ, tranh vẽ về các ông hoàng… Các tranh ngũ quả cũng được nhiều người treo để thay thế cho những bức tranh của năm ngoái. Loại tranh mười hai con giáp cũng không thể thiếu được trong thú chơi tranh Tết, năm con giáp nào thì treo tranh con ấy. Rồi tranh các trò chơi dân gian, tranh phong cảnh làng quê… cũng góp phần mang không khí Tết vào mỗi nhà.

Phả hồn đương đại

Thú chơi tranh Tết dân gian có xu hướng quay trở lại. Việc đóng khung tre cho những bức tranh dân gian Đông Hồ là một cách thức mới để họ có thể tìm được sự hòa hợp giữa truyền thống và khung cảnh của một phòng khách hiện đại. Còn các tranh Hàng Trống với dạng trục cuốn lại tạo nên vẻ sang trọng và quý phái.

Nguyễn Thị Thu Hòa, Giám đốc Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội và là nhà nghiên cứu tranh dân gian với sáu cuốn sách về loại tranh này được xuất bản. Theo bà, tranh dân gian hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống hàng ngày mà nhiều khi nhiều người không để ý. Đó có thể là tranh đá, tranh phù điêu ở đình, chùa. Đó có thể là tranh đồ thế, vàng mã đốt vào ngày lễ… Đến Tết lại là thời điểm bán tranh dân gian sôi động nhất, người ta mua về trang trí trong nhà, cầu may mắn, tài lộc…

Hiện nay tranh dân gian lại được chuyển thể vào các vật dụng hàng ngày: in vào áo, sổ tay, giấy gói quà, kẹp sách, áo dài, vẽ lên tranh đương đại… Bằng cách này hay cách khác, tranh dân gian luôn len lỏi, tồn tại và phát triển trong cuộc sống đời thường.

Bảo tồn tranh dân gian không có nghĩa là chỉ khư khư giữ nguyên di sản của tiền nhân, mà trong cuộc sống đương đại, mỗi người cần nỗ lực tìm ra hướng đi riêng để góp phần giúp chúng lan tỏa theo những dạng thức khác.

Ứng dụng họa tiết truyền thống trong thiết kế sản phẩm và thiết kế bao bì là một trong chuỗi hoạt động tiếp nối dự án sách Họa sắc Việt từ tranh Hàng Trống. Dự án đã nhận được sự hợp tác của nhiều doanh nghiệp tâm huyết và mong muốn kể những câu chuyện tự hào về sản phẩm bằng những hình ảnh, thiết kế mang đậm bản sắc dân tộc. Đó là các sản phẩm thiết kế đồ họa, thiết kế thời trang, sản phẩm thủ công – mỹ nghệ như khăn lụa Nha Xá, vỏ hộp xà bông thơm Cỏ Mềm, sổ tay chỉ khâu châu Á và túi tote của Monosketch, bao bì trà xanh của Dreamfarm, áo thời trang của nhà thiết kế Trần Thảo Miên…

Được truyền cảm hứng từ tranh Kim Hoàng, thương hiệu thời trang áo dài La Sen Vũ thì đưa hình ảnh con lợn vào bộ sưu tập Phú quý niên hoa. Nghệ nhân đậu bạc Quách Tuấn Anh lấy hình ảnh tranh Kim Hoàng để sáng tác các sản phẩm đậu bạc. Công ty La Sonmai đưa hình ảnh tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống lên ốp lưng điện thoại thông minh làm bằng sơn mài.

Cũng có nhiều người thành công khi đưa tranh dân gian vào tác phẩm hội họa. Chẳng hạn, họa sĩ Bùi Thanh Tâm đưa họa tiết tranh dân gian vào tranh, tạo ra một cách tiếp cận tranh dân gian theo kiểu khác. Từ tranh của Bùi Thanh Tâm, công chúng sẽ tìm hiểu tranh dân gian Việt Nam. Họa sĩ Nguyễn Tiến Ngọc, họa sĩ Kim Mỹ đưa đề tài tranh Kim Hoàng vào các tác phẩm sơn mài. Họa sĩ Xuân Lam thì chung thủy với các họa tiết dân gian từ lúc bắt đầu sáng tác, thiết kế đến nay. Ngũ hổ là tranh thờ, nhưng khi đưa lên trang phục thì không còn cảm giác thờ phụng nữa. Cộng với việc phối màu, trang phục trở nên có chất đương đại…

Mỗi người một vẻ, họ đã góp phần lan tỏa giá trị độc đáo của tranh dân gian Việt Nam.

Đỗ Quang Tuấn Hoàng

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 07.2.2024.

SGTT.VN - Mặc dù đã dự đoán trước, chúng tôi vẫn bất ngờ về lượng ý kiến phản hồi của bạn đọc đối với gợi ý đưa một số từ vựng của ngôn ngữ chat vào từ điển tiếng Việt nhân tiền lệ của từ điển Oxford. Vì tiếng Việt là tài sản chung, quan điểm của chúng tôi là tất cả mọi ý kiến về thứ tài sản này đều phải được tôn trọng như nhau, và việc xem xét đưa ngôn từ chat vào từ điển phải hết sức thận trọng, phù hợp với các tiêu chí chức năng và chính tả như ý kiến dưới đây của nhà nghiên cứu Hán Nôm, dịch giả Cao Tự Thanh.

Ở Việt Nam, rồng là linh vật thân thuộc trong cuộc sống của người dân. Từ xa xưa, rồng đã được các nhà điêu khắc, họa sĩ vẽ, chạm trổ, đắp, gò, đan, thêu, tết... tạo nên dáng vẻ kỳ diệu, dũng mãnh, oai nghiêm. 

Ngày nay, hình tượng rồng vẫn là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận. Những người làm tranh dân gian Đông Hồ (phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) đang tích cực lưu giữ, sáng tạo chủ đề mới về rồng nhằm làm phong phú thêm dòng tranh này.

Ước vọng phát triển

Làng tranh dân gian Đông Hồ nằm sát bờ sông Đuống thơ mộng, cách Hà Nội chừng 25km, đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua. Đây là một dòng tranh quý, độc đáo, gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp, cuộc sống lao động, phong tục, tập quán, sinh hoạt của người nông dân bình dị, chất phác. Không chỉ bảo tồn, phát huy nếp cũ, những nghệ nhân Đông Hồ còn sáng tạo những bức tranh với nhiều chủ đề mới, đặc biệt là những con giáp biểu tượng cho năm mới.

Tranh dân gian Đông Hồ có 2 bức tranh cổ về hình tượng rồng là "Rước rồng" và "Chuột rước rồng". Cả hai bức tranh này đều được nghệ nhân Đông Hồ khắc họa khá độc đáo, hài hòa. Mỗi bức tranh có ý nghĩa riêng nhưng đều phản ánh tâm tư, tình cảm của người xưa, phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của con người nơi đây.

Năm Thìn nói chuyện hình tượng rồng trong tranh Đông Hồ - Ảnh 1.
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Oanh vẽ tranh rồng. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN

Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Thị Oanh (phường Song Hồ) cho biết: Với chủ đề về rồng thì bức tranh "Rước rồng" là độc đáo nhất. Trong tranh là hình ảnh 9 người đang cầm cờ, trống, rước rồng. Mọi người đều trong trạng thái động, đang di chuyển, tươi vui, phấn khởi. Trên nền 5 màu cơ bản, nguyên liệu tạo màu gần gũi mộc mạc, từ tro bếp, lá tre, hoa hòe, bột sò điệp..., quang cảnh đám múa rồng trong ngày hội Xuân hiện lên với vẻ độc đáo, thể hiện sự sáng tạo trong cách chọn chất liệu, cách thể hiện và đặc biệt là cách truyền tải văn hóa truyền thống.

Chú rồng được rước ở trên cao đang uốn lượn, mềm mại nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghi. Thông qua đó, nghệ nhân xưa phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của người Kinh Bắc. Đây là mảnh đất của các lễ hội, trong đó rước rồng là hoạt động được mọi người mong chờ nhất bởi đây là trò trình diễn kết hợp tài khéo léo và sức mạnh, thể hiện tính cộng đồng và cầu cho mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng tươi tốt. Những hình ảnh tươi vui đầy sức sống thể hiện cuộc sống đủ đầy, mong ước cuộc sống tươi vui, hạnh phúc.

Còn tranh "Chuột rước rồng" lại thể hiện sự tiếu lâm dân gian, miêu tả đàn chuột rước rồng trong một lễ hội. Đoàn rước gồm những con chuột cầm đèn lồng hình cá, hình các loại hoa quả, có nhóm cầm cờ hay phù hiệu, có nhóm nhạc công thổi kèn, đánh trống trên xe kéo, đánh chiêng, đốt pháo. Qua đó, tác giả muốn phản ánh không khí ngày xuân không chỉ con người vui chơi, trảy hội mà những con vật cũng cảm nhận được niềm vui đó...

Năm Thìn nói chuyện hình tượng rồng trong tranh Đông Hồ - Ảnh 2.

Vẽ hình tượng rồng trong tranh Đông Hồ. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN

“Cùng với những bức tranh truyền thống, năm 2024, gia đình tôi sáng tạo thêm bức tranh rước rồng và tranh rồng sao cho phù hợp với cuộc sống đương đại. Theo đó, bên cạnh thể hiện không khí vui tươi với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng của con người, con rồng chuyển động theo tư thế cuộn mình từ trên xuống nhưng đầu ngóc lên thể hiện sự vươn mình, phát triển, ước vọng vào khí thế mới, bước tiến mới”, nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh chia sẻ.

  • Nghề làm tranh Đông hồ còn không?
  •  

  • Gặp người chụp hàng ngàn bức ảnh về tranh Đông Hồ

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả (phường Song Hồ) đã có hơn 50 năm gắn bó với tranh dân gian Đông Hồ, không nhớ đã vẽ bao nhiêu bức tranh về 12 con giáp. Con rồng là một tác phẩm nghệ thuật khiến nghệ nhân có nhiều cảm hứng nhất bởi rồng là biểu tượng của sự cao quý, sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ trụ. Ông chia sẻ, hình tượng rồng thường xuất hiện ở những nơi linh thiêng, sẽ mang đến những điều tốt đẹp. Nên khi vẽ hình tượng rồng trong tranh dân gian Đông Hồ, ông thường thể hiện rất sáng tạo và đa dạng, thể hiện ước vọng của con người về một cuộc sống hòa bình, yên ả, ấm no, sung túc. Đặc biệt, rồng đại diện cho điềm lành, sự may mắn, thịnh vượng. Bởi vậy, trước Tết nhiều tháng, gia đình ông đã có bên đến đặt hàng, lựa chọn những bức tranh rồng đầy ý nghĩa để trưng bày vào năm mới.

20240209 2

Tranh rồng được nghệ nhân ưu tú làng tranh Đông Hồ sáng tạo cho những người tuổi Thìn. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN

Lưu giữ thú chơi tranh ngày Tết

Tranh Đông Hồ có cội nguồn từ xa xưa và ra đời chủ yếu phục vụ cho nhu cầu người chơi tranh vào dịp Tết đến, Xuân về. Mỗi bức tranh hàm chứa giá trị riêng, tượng trưng cho mơ ước của người dân và luôn gửi gắm vào đó những lời chúc phúc tốt đẹp nhất cho năm mới. Bởi vậy tranh Đông Hồ thường được gọi là tranh Tết.

Gia đình ông Nguyễn Hữu Hoa (phường Song Hồ) đã có 7 đời làm tranh Đông Hồ và coi đây một phần máu thịt, không thể thiếu trong cuộc sống. Hiện nhà ông còn lưu giữ hàng trăm bộ ván khắc cổ với hàng nghìn bức tranh với các chủ đề phong phú, đa dạng. Với mong muốn gìn giữ, phát huy dòng tranh truyền thống, gia đình ông hiện có 3 người thường xuyên khắc, in, vẽ tranh. Đặc biệt, vào thời kỳ cận Tết nguyên đán, mỗi ngày gia đình ông thường đón tiếp hàng chục đoàn khách đến tham quan, mua tranh.

Năm Thìn nói chuyện hình tượng rồng trong tranh Đông Hồ - Ảnh 5.

Những người làm tranh Đông Hồ vẫn đang miệt mài giữ nghề. Ảnh: Thanh Thương - TTXVN

Ông Nguyễn Hữu Hoa chia sẻ, chợ tranh Tết xưa diễn ra tại đình Đông Hồ vào các ngày 6, 11, 16, 21 và 26 tháng Chạp hàng năm. Trong mỗi phiên chợ có hàng nghìn bức tranh các loại được mang ra bày bán. Khách mua tranh từ khắp các tỉnh gần xa xuôi theo sông Đuống, theo các tuyến đường bộ về buôn tranh. Mọi người mua tranh trả tiền hay dùng hàng hóa đổi lấy tranh đều được. Sau năm 1945, chợ tranh Đông Hồ không còn được tổ chức. Tuy nhiên, thời gian gần đây, với sự nỗ lực bảo tồn làng nghề của các gia đình và các cấp chính quyền, thói quen chơi tranh, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ cũng dần khởi sắc. Thói quen chơi tranh ngày Tết cũng đang được mọi người tiếp nối.

Cận Tết, trời rét lạnh nhưng  anh Nguyễn Văn Chiến (quận Đống Đa, Hà Nội) vẫn đến làng tranh Đông Hồ để được lựa chọn những bức tranh phù hợp. Năm nào mỗi độ Tết đến Xuân về anh đều đến Song Hồ để chọn bức tranh ý nghĩa để trưng bày trong gia đình và tặng người thân. Thông thường anh chọn các loại tranh như vinh hoa, phú quý, thày đồ cóc dạy học, hứng dừa, tố nữ Quan họ… Năm nay, anh chọn bức tranh rước rồng. Anh chia sẻ, Bắc Ninh – Kinh Bắc vốn là nơi phát sinh của vương triều Lý. Vua Lý Thái Tổ dời đô, đặt tên Thăng Long là kinh đô của đất nước. Bởi vậy, bức tranh rồng ở đây càng có ý nghĩa, thể hiện sự cao quý, sức sống vĩnh hằng.

Trước đây, một cái Tết cổ truyền đầy đủ, không thể thiếu vắng tranh Đông Hồ với những nét vẽ giản dị nhưng lại mang hàm ý sâu xa. Ngoài tô điểm cho không gian gia đình, tranh dân gian Đông Hồ còn được chọn làm quà tặng cho người thân, bạn bè vào dịp Tết. Đó là nét đẹp văn hóa truyền thống đáng quý của người Việt Nam. Ngày nay, nhu cầu chơi tranh Đông Hồ ngày Tết không còn độc tôn như xưa. Nhưng thú chơi tranh Đông Hồ ngày Tết vẫn hiện diện trong một số gia đình. Với họ, tranh Đông Hồ vẫn còn nguyên giá trị và có sức hút đặc biệt bởi đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi, gắn liền với văn hóa người Việt.

 Nguồn: Thể thao và văn hóa, ngày 09.2.2024.

LTS: Đó là một gợi ý của GS.TS Nguyễn Đức Dân, nhân câu chuyện ban biên tập của bộ từ điển tiếng Anh danh tiếng Oxford vừa thông báo đã bổ sung thêm một số từ vựng của ngôn ngữ thời @. Chúng tôi trân trọng giới thiệu và mong muốn nhận được những trao đổi khác của các chuyên gia ngôn ngữ học và bạn đọc xung quanh câu chuyện thú vị này.

Sáng ngày 8/01/2024, Chi hội Văn nghệ dân gian - Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học với chủ đề "Lịch sử phát triển và hiện trạng của loại hình nhạc đờn ca tài tử Nam Bộ" do TS. Lê Hồng Phước - Phó Trưởng khoa Ngữ Văn Pháp trình bày với sự hỗ trợ phần nhạc cụ của NSUT. Văn Hai.

20240108

Đầu tiên, TS. Lê Hồng Phước nhấn mạnh, buổi sinh hoạt học thuật này thêm phần ý nghĩa vì cũng nhân kỉ niệm 10 năm Đờn ca tài tử được UNESCO ghi tên vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện Nhân loại.

Liên quan đến nội dung buổi tọa đàm, TS. Lê Hồng Phước đã lược lại lịch sử hình thành và phát triển của đờn ca tài tử Nam Bộ. TS. Lê Hồng Phước đã đi sâu phân tích cái hay, cái đẹp của Đờn ca tài tử  có đờn ca minh hoạ cùng với NSUT. Văn Hai. Tiếp theo đó, diễn giả đã khái quát sự hình thành của Cải lương trên cơ sở của Đờn ca tài tử, Hát Bội và sự tiếp biến văn hoá từ kịch nghệ của Pháp.

Tuy nhiên dù có lịch sử phát triển chỉ hơn 100 năm, nhưng do thiếu tư liệu nên hiện Đờn ca tài tử còn nhiều điểm còn chưa được rõ ràng hoặc chưa được nghiên cứu tới nơi tới chốn. Có một tín hiệu vui là những năm gần đây, trong nhiều luận văn, luận án ở các trường đại học, Đờn ca tài tử và Cải lương bắt đầu được quan tâm và nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn khác nhau ở nhiều ngành học khác nhau: lịch sử, ngôn ngữ, văn hoá học, văn học.. Điều đó góp phần không nhỏ cho việc nghiên cứu Đờn ca tài tử và Cải lương, TS. Lê Hồng Phước nhấn mạnh.

Nói về thực trạng của Đờn ca tài tử, TS. Lê Hồng Phước nhấn mạnh một chữ “thiếu”: thiếu người chơi đờn, thiếu người ca đúng chất tài tử. Vì thế, cần có định hướng và chính sách đãi ngộ từ phía nhà nước để hỗ trợ lực lượng truyền nghề và đào tạo thế hệ kế thừa.

TS. Lê Hồng Phước cảnh báo hiện tượng “tam sao thất bản” trong lĩnh vực Đờn ca tài tử - Cải lương. Hiện tượng này ngày càng mạnh vì sự truyền tải thông tin quá dễ dàng ở thời đại Internet, và diễn ra ngay trong giới học thuật. TS. Lê Hồng Phước cũng nhấn mạnh, hiện tại có người vẫn còn chưa phân biệt được người làm công tác nghiên cứu, lý luận phê bình và người trực tiếp hành nghề. Đồng thời, TS. Lê Hồng Phước cảnh báo hiện trạng “trộn tài tử với cải lương” đang diễn ra ở các câu lạc bộ Đờn ca tài tử và ngay cả ở các nhà đài. Một hiện trạng khác cũng đáng lo ngại mà TS. Lê Hồng Phước nêu lên đó là nguy cơ thất truyền 20 bài bản tổ của Đờn ca tài tử .

Cuối cùng TS. Lê Hồng Phước nhấn mạnh, người nghiên cứu Đờn ca tài tử - Cải lương cần nghiêm túc về mặt khoa học, cần tôn trọng việc “tư liệu tới đâu thì nói tới đó”; còn đối với tuổi trẻ, việc yêu hay không yêu Đờn ca tài tử - Cải lương đó là thuộc về sở thích cá nhân, nhưng mỗi người cần có trách nhiệm với việc bảo tồn bản sắc văn hoá, trong đó có việc bảo tồn và phát huy Đờn ca tài tử - Cải lương.

20240108 2

Buổi sinh hoạt khoa học của Chi hội Văn nghệ dân gian được nhiều sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh cùng các nhà nghiên cứu yêu thích loại hình Đờn ca tài tử đến tham dự. Buổi sinh hoạt là hoạt động mở đầu cho chuổi hoạt động của chi hội trong năm 2024.

TS. Lê Hồng Phước tốt nghiệp Tiến sĩ ngành lịch sử văn hoá tại Pháp, chuyên sâu nghiên cứu lịch sử văn hoá xã hội Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc. Ông cũng là nhà nghiên cứu và là người thực hành Đờn ca tài tử và Cải lương. Ông là cựu phóng viên của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp tại Paris (RFI-Paris) chuyên viết phê bình về Đờn ca tài tử - Cải lương. Ông đã có nhiều hoạt động quảng bá Đờn ca tài tử -Cải lương ở Pháp và Việt Nam từ nhiều năm qua. Ông cũng là người chuyển soạn cải lương cho vở "Đợi Kiều" (kịch bản văn học của TS. Đào Lê Na) công diễn năm 2022 và 2023, gây được tiếng vang trong giới học thuật, giới truyền thông và khán giả trẻ. 

Lược thuật: TS. Bùi Việt Thành

20231226

Bói Kiều trong những ngày đầu năm mới là hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo trong dân gian Việt Nam. Có lẽ do lúc ban đầu, người đọc nhận thấy nhiều câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể mô tả chính xác tâm trạng của mình trong những bối cảnh cụ thể nào đó, như thể thi nhân đã thấu hiểu cả tâm can của mình một cách đáng kinh ngạc nên họ đã tìm đến Truyện Kiều để tìm lời giải đáp cho những dự báo về tương lai.

Vì sao chỉ Truyện Kiều mới dùng để coi bói được?

Truyện Kiều là cuốn sách của cuộc đời, là ghi chép của tâm trạng. Truyện Kiều gần như bao hàm hết mọi cảnh ngộ của con người trong cuộc đời này, với nhiều mối quan hệ từ trong gia đình (cha con, anh chị em, chồng vợ…), đến ngoài xã hội (vua - tôi, ông bà chủ - kẻ ăn người ở, kẻ mua - người bán, quan lại - người dân…). Truyện Kiều cũng hiện diện đủ loại người: giai nhân, tài tử, binh lính, sai nha, thầy tu, khách làng chơi, gái điếm… Hơn thế, mọi cảm xúc của con người đều được Nguyễn Du đặc tả kỹ lưỡng, tinh tế như hạnh phúc, khổ đau, tự hào, nhục nhã, hờn ghen, dối trá, yêu thương, nhung nhớ… Có thể nói, đọc Truyện Kiều, ai cũng có thể tìm thấy ở đó cảnh ngộ của mình, tâm trạng của mình, tình cảm của mình. Vì thế, người ta mới nảy sinh “bói Kiều” để xem nhân vật đó trong hoàn cảnh đó đã làm gì, như một cách giải đáp nỗi âu lo, thắc mắc của mình.

Nếu như các hình thức bói toán khác thường có người đặt quẻ (bằng tiền hay lễ vật), rồi có thầy bói thông qua một vài tín hiệu (tung đồng xu, coi chân gà, coi chỉ tay, lên đồng, nhập hồn, nhập cốt…) để nói cho người đến bói biết về sự việc đã xảy ra hay sắp xảy ra, thì bói Kiều rất khác. Việc bói Kiều có khi được thực hiện chỉ một mình, người bói thành tâm xin câu Kiều và tự giải đáp cho mình, hoặc đa phần bói Kiều được thực hiện trong gia đình, người cao tuổi giải đáp cho con cháu trong nhà. Hoặc cùng lắm là trong phạm vi họ hàng, thầy trò hay người dân trong một làng xã nhỏ hẹp… Và tất nhiên, người giải đáp chẳng bao giờ đòi hỏi lễ vật hay bạc tiền từ người muốn coi bói.

Người giải đáp bói Kiều phải là người rất thông làu Truyện Kiều và có kiến thức uyên bác, trải nghiệm xã hội phong phú. Có như thế mới có thể lý giải được chiều sâu ý nghĩa của câu Kiều hoặc ít nhất là phải giải thích được rành rẽ hệ thống ngôn ngữ dày đặc từ Hán Việt và đầy ắp điển tích, điển cố trong Truyện Kiều, điều mà không thầy bói thông thường nào làm được.

Hơn nữa, khi bói Kiều, người ta không nhằm để cầu xin một thế lực thần linh nào đó hỗ trợ mình thăng tiến, vượt qua khó khăn và bệnh tật hay làm ăn phát đạt mà bói Kiều là để đi tìm lời giải cho những băn khoăn, những câu hỏi có sẵn trong lòng mình.

Người bói Kiều cần chuẩn bị gì?

Đơn giản là cần một cuốn Truyện Kiều đủ 3.254 câu thơ và lòng thành tâm muốn được giải đáp những băn khoăn trong lòng mình.

Người bói cầm cuốn sách bằng hai tay, thắp một cây nhang và nhắm mắt vái: Lạy Phật Thích Ca, lạy ma Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, lạy cụ Nguyễn Du cho con xin một quẻ, con tên là, bao nhiêu tuổi, ở đâu, con muốn được giải đáp về… Tất cả đều khấn thầm trong lòng, người giải câu Kiều sẽ không được nghe người bói cầu xin hay hỏi về vấn đề gì.

Ngắn gọn hơn thì chỉ cần khấn 4: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, lạy cụ Nguyễn Du”. Tuy nhiên, có những vùng, câu khấn còn được đọc hẳn thành một bài đồng dao, như: “Thúy Vân, Thúy Kiều/ Vương Quan, Kim Trọng/ Ông bà Viên ngoại/ Từ Hải, Giác Duyên/ Sống khôn chết thiêng/ Về đây bói quẻ/ Thấy hoa đừng bẻ/ Thấy trẻ đừng chơi/ Thấy quán đừng ngồi/ Về đây mà gieo quẻ…”

Rồi sau đó người bói mới xưng tên họ và điều cầu xin của mình. Khấn xong thì lật quyển Kiều ra, dùng ngón tay cái trái hoặc phải của mình ấn vào bất kỳ vị trí nào trong cuốn sách, cặp lục bát nơi ngón tay ấn vào chính là câu Kiều ứng vào quẻ của người bói.

Người giải sẽ dùng hai câu Kiều đó để giải đáp và lúc này câu Kiều chỉ có ý nghĩa về mặt văn bản, hoàn toàn tách khỏi nội dung, tình cảnh của nàng Kiều cũng như số phận và tính cách của các nhân vật trong truyện. Do vậy, có những lời giải gần như ngược lại sự kiện diễn ra trong Truyện Kiều đã được miêu tả bằng chính hai câu lục bát đó. Chẳng hạn, khi người bói xin được hai câu: “Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu. Nội dung của hai câu này thực ra là tin xấu (đối với nhân vật Thúy Kiều), vì đây là lời tự nhủ của Hoạn Thư khi biết Thúc Sinh chồng mình dan díu với nàng Kiều ở thanh lâu. Khi nói câu này, Hoạn Thư đã biết cách xử lý Thúy Kiều đơn giản trong lòng bàn tay mình. Nhưng lời của người giải câu Kiều ấy lại theo hướng tốt: Những băn khoăn của người coi bói trong năm tới đều không đáng lo, cái gì cũng có thể hóa giải được và cái gì thuộc mình sẽ không thể mất đi, kiểu “kiến trong miệng chén có bò đi đâu”.

Một cách tìm điểm tựa cho lòng tin

Bản thân tôi từng trải qua nhiều lần bói Kiều vào mỗi đêm giao thừa và ba tôi chính là người giải Kiều vì ông rất mê Kiều và thuộc cả 3.254 câu thơ trong truyện. Ông thậm chí còn có thể ngâm Kiều rất hay và thuở nhỏ, tôi đã được ông ru ngủ bằng những câu Kiều ấy. Năm tôi sẽ thi đại học, giao thừa ấy tôi xin trúng hai câu: “Thông minh vốn sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm” (Nguyễn Du miêu tả tài sắc Thúy Kiều ở đầu truyện). Ba tôi giải rằng tôi vốn được trời cho nhanh nhẹn học đâu biết đấy, giờ chỉ cần “pha nghề thi họa đủ mùi” nghĩa là cố gắng mở rộng kiến thức, đọc thêm sách thì sẽ thi đâu đậu đó. Tôi không biết ba tôi có nói cho tôi yên tâm thi cử hay không nhưng lòng tôi đầy tin tưởng và học hành mê say hơn, tin chắc chiếc vé vào đại học đã có tên mình.

Cũng trong cái Tết đó, có một bác gái gần 70 tuổi ở trong xóm đến nhờ ba tôi bói Kiều. Bác xin được câu: “Dùng dằng nửa ở nửa về/ Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần” (Nguyễn Du tả cảnh Thúy Kiều đi tảo mộ, chuẩn bị về thì gặp Kim Trọng). Ba tôi hỏi: Có phải bác tính đi đâu xa mà lòng còn chưa quyết được hay không? Bác khai thật là tính chuyển vào Nam ở với con gái vì nhà nó neo người, lại mới sinh con nhưng còn vướng ông chồng nhất định không chịu xa quê.

Năm tôi sắp bảo vệ tiến sĩ, đã gần 5 tháng mà người phản biện độc lập chưa gửi lại kết quả nhận xét cho trường, tôi lo lắng vô cùng. Mồng 6 Tết, chúng tôi tụ tập đến chúc Tết thầy tôi và thầy lại mang Truyện Kiều ra cho chúng tôi bói. Anh đồng nghiệp tôi xin được câu: “Đùng đùng gió giục mây vần/ Một xe trong cõi hồng trần như bay(Nguyễn Du tả chiếc xe hoa của Mã Giám Sinh rước cô dâu Thúy Kiều như dự báo những chuỗi ngày bão tố trước mắt). Không ai trong chúng tôi biết là anh hỏi điều gì nhưng thầy tôi giải là “có khi năm nay em sẽ đi nước ngoài”. Anh bạn hết hồn vì đúng là khi bói anh có hỏi về việc xin đi nghiên cứu ngắn hạn ở nước ngoài và giữa năm ấy anh đi thật. Còn tôi thì xin được câu:Dù khi gió kép mưa đơn/ Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì” (Lời Sở Khanh hứa sẽ mang Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh). Thầy không hề biết tôi hỏi về luận án, thầy giải là “Thi Gia cứ yên tâm, làm gì cũng sẽ có người hỗ trợ em và mọi việc em mong đều thuận lợi”. Và năm ấy tất cả những thứ tôi mong chờ đều được hanh thông thật.

Cho đến bây giờ, dù xa quê hương đã hơn 20 năm, không còn mấy khi về quê ăn Tết để xin ba bói cho một quẻ Kiều nữa nhưng tôi vẫn còn giữ thói quen tìm đến Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du khi lòng có những băn khoăn cần chỉ dẫn, không chỉ vào dịp Tết mà vào bất cứ thời gian nào trong năm. Tôi học cách giải Kiều của ba tôi và thầy tôi, rời xa nghĩa văn bản, rời xa cuộc đời 15 năm lưu lạc và bất trắc của Kiều, tự chọn cho mình cách hiểu đầy niềm tin về những điều lành sẽ tới. Mới hôm qua đây thôi, trước những lo âu mất ăn mất ngủ về bệnh tình của mẹ cha, tôi lại tìm đến với Kiều và gặp câu thơ sum họp: “Một cây cù mộc, đầy sân quế hòe”.

La Mai Thi Gia

Nguồn: Bản tin Đại học quốc gia, số 214-215, Xuân 2024.

Nguồn ảnh: VnExpress

1. Trong tiếng Việt, có những câu mà trên ngôn bản, chỉ do một từ hay một ngữ chính - phụ tạo thành. Có thể nhận thấy thái độ không giống nhau (biểu thị những quan điểm lý thuyết khác nhau) của các nhà nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đối với hiện tượng đó.

20231219

Đồng tiền ngoại thương vào thế kỷ 19 tại Việt Nam

Một trưa hè cách đây không lâu, tôi ngồi với một người bạn từ miền Trung vào, uống mấy ly bia hơi Sài Gòn trong cái quán ven đường phía bên Thủ Thiêm, lúc ấy cầu Ba Son chỉ mới khởi công được nửa đường, còn ngổn ngang cát đá xi măng. Đã quá đầu giờ chiều, quán vắng tanh chỉ còn 2 đứa, câu chuyện về thuở thiếu thời của một đứa li quê và một đứa bám quê cũng đã dịu dần. Trong không gian yên tĩnh chỉ lao xao tiếng gió lùa trong mấy đám dừa nước xung quanh bỗng vang lên câu hát ru con bằng cái giọng miền Tây ngọt lịm:

Ầu ơ…ơ… Anh ham chi đồng bạc con cò

Bỏ cha bỏ mẹ, ầu… ơ… ơ bỏ cha bỏ mẹ theo phò Lang- Sa… ơ…. ơ

Người bạn ngạc nhiên hỏi “trời đất, cũng có câu hát ru con về đồng bạc con cò luôn hử?”. Tôi – cái đứa hơn 20 năm điền dã khắp vùng quê Nam Bộ, táy máy tò mò với bao nhiêu cuốn ca dao dân ca Nam Bộ từ cuối thế kỷ 19 đến nay – khẳng định chắc nịch “có chứ, thậm chí còn nhiều nữa là khác”. Nói rồi, từ từ nhẫn nha đọc cho bạn nghe hết câu ca này đến câu ca khác, câu chuyện lại tiếp tục kéo dài cho đến lúc mặt trời từ từ trôi xuống phía bên kia sông Sài Gòn, đỏ au một vùng mây nước mênh mông.

Trải qua thời kỳ dài mấy mươi năm là thuộc địa của Pháp từ cuối thế kỷ 19 cho đến năm 1945, bên cạnh những tác động mạnh mẽ về chính trị và kinh tế thì văn hóa miền Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa Pháp ở nhiều mặt như giáo dục, ngôn ngữ, văn chương, sinh hoạt vật chất và tinh thần… Tránh sao khỏi những dấu ấn đậm nét của người Pháp để lại trong những câu hát dân gian xưa cũ của miền Nam do nhân dân sáng tác, những câu hát ấy không nhằm để miêu tả, kể lể về bối cảnh xã hội, chính trị của đất nước trong thời kỳ đặc biệt ấy mà chỉ là do người dân mượn cớ để nói về tâm tư tình cảm của mình. Tìm đọc các bộ sưu tập câu hát dân gian đã được xuất bản ở Sài Gòn giai đoạn từ năm 1988 đến 1945 với những người mở đầu như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Công Chánh, Nguyễn Bá Thời,… dù không biết gì về lịch sử cũng sẽ thấy rất rõ sự có mặt của người Pháp ở Nam Bộ đã tác động một cách tự nhiên đến đời sống hàng ngày của nhân dân qua các câu hát dân gian được truyền miệng từ người này sang người khác. Về sinh hoạt vật chất, có lẽ nên nhắc đến trước hết là đồng bạc Đông Dương mà vẫn được lưu hành trong nhân dân qua nhiều cái tên khác nhau như “đồng bạc trắng”, “đồng bạc đầu hình”,  “bạc trắng hoa xòe”, “đồng bạc con cò”, “bạc trắng thằng Tây”,… Các cách gọi như trên đều nhằm để chỉ các loại tiền lưu thông ở các nước Đông Dương trong thời thuộc địa. Sau khi chiếm được Đông Dương, Pháp cho phát hành đồng bạc chung này để nhằm ổn định tình hình tiền tệ ở các nước thuộc địa và cũng để dễ bề điều hành kinh tế thương mại. Đồng bạc trắng hay đồng bạc con cò tức là để chỉ màu trắng của loại bạc đúc tiền và hình con cò (thực ra là hình con ó nhưng dân gian nhìn như con cò quen thuộc của nước mình) in dập nổi trên một mặt của đồng tiền.

Câu hát ru con của cô gái miền Tây ở trên như một lời trách móc người yêu vì ham “bạc trắng thằng Tây” mà theo giặc Lang Sa, đầu quân vào làm lính tập để ăn lương. “Lang Sa” hay Pha Lang Sa, Phú Lang Sa hay Phú Lãng Sa,… là cách mà người Việt dùng để chỉ người Pháp ở Nam Bộ hồi đầu thế kỷ 19 một cách phổ biến mà ngày nay không còn dùng nữa.

Tương tự như câu hát ru con ở trên cũng có một câu hát là lời trách móc của cô gái với người đàn ông của mình:

“Tham chi bạc trắng thằng Tây

Anh đi lính tập bỏ bầy con thơ”

Lính tập là các đơn vị quân đội bản xứ do người Pháp tổ chức thành lập nhằm phụ trợ cho quân chính quy Pháp trong việc đánh dẹp các thế lực chống đối và nhằm bảo vệ an ninh của chính quyền cai trị sau khi chiếm được Nam Kỳ. Tên đồng bạc con cò còn xuất hiện trong những câu hát dân gian có tính huê tình, giao duyên nam nữ, chứ không chỉ là lời trách móc người chồng theo giặc như câu hát ru con ở trên

“Cưới em phải bạc con cò

Đâu phải hẹn hò nói chuyện đẩy đưa”

Hay

“Con cò nó bạc như vôi,

Chứ tôi với bạn xứng đôi quá chừng”

Cụm từ “con cò nó bạc như vôi” khiến ta dễ liên tưởng đến hình ảnh con cò trắng muốt, một biểu tượng quen thuộc trong văn học Việt Nam và là một loài vật quen thuộc trên cánh đồng lúa ở các vùng nông thôn nước ta. Tuy nhiên trong câu này lại dùng để chỉ đồng bạc con cò – đồng bạc Đông Dương của Pháp, cũng vừa nói đến sự bạc nghĩa bạc tình, chỉ vì tiền tài vật chất mà đôi lứa phải chịu xa nha.

Hoặc ngược lại, là lời trách móc của chàng trai bị người yêu phụ bạc cũng vì cái nghèo hèn của mình, tình yêu của anh ta bị vụt mất bởi những đồng bạc trắng. Có thể đó là lời trách cứ, giận dữ:

“Thằng Tây đen, đồng bạc trắng

Em ham chi đồng bạc con cò

Đêm nằm với nó đen mò như cục than”

 

“Anh tiếc cho em phận gái má đào

Ham đồng bạc trắng, dấn mình vào Tây đen”

Hay lại là lời thương tiếc xót xa của anh chàng khi nhìn tấm thân xinh đẹp nõn nà hay nhân phẩm của người yêu mình bị chà đạp bởi đồng tiền:

“Ngán thay đồng bạc con cò

Tiếc thay giá trắng đen mò vì mi”

Ngoài cách gọi là đồng bạc con cò hay đồng bạc trắng thì “đồng bạc đầu hình” cũng là cách mà dân gian Nam Bộ hay dùng để chỉ đồng bạc Đông Dương này.

Giàu kết dươn, khó lại phụ tình,

Sao mình không nhớ thuở bạc đầu hình trao tay”.

“Cái thân em nom kỹ cũng tỷ như đồng bạc đầu hình,

Người người ai cũng muốn nhìn,

Bớ anh ôi, lăng xăng đương buổi chợ, biết gởi mình vào đâu?”

Đồng bạc đầu hình chính là cách mà dân gian dùng để gọi đồng xu mà mặt trước in hình bà đầm Marianne đầu đội vương miện cùng hào quang tỏa sáng (biểu tượng nền Tự do của Cộng hòa Pháp).

Ngoài ra, còn một tên gọi nữa về đồng bạc Đông Dương đã từng được nhà văn Ma Văn Kháng đặt tên cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của mình, đó là đồng bạc trắng hoa xòe. Trong một câu hát dân gian cũng có nhắc đến tên gọi này:

“Em ham đồng bạc hoa xòe

Trốn cha trốn mẹ đi kề thằng Tây”

Cách gọi đồng bạc hoa xòe cũng chính là dựa vào hình hoa văn dập nổi trên một mặt của đồng xu mà mặt kia là hình con cò.

Trong lúc tôi đang thao thao bất tuyệt với anh bạn về kiến thức của mình thì phía sau hàng dừa nước lại vang lên câu hò ngọt xớt:

“Hò.. ơ…ơ.. Cha mẹ tôi sinh ra ba người con gái, bày người con trai. Phận tôi là út, kết thúc cây kiềng vàng. Áo đen kia ba mớ, bạc đầu hình chẵn trăm… hò ơ ơ ơ…”./.

La Mai Thi Gia

Nguồn: Tap chí Truyền thông và phát triển, 11/2023

1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

            Cấu trúc song tiết Vx gồm : một hình vị gốc (V) + một hình vị không độc lập  (x) chẳng hạn như : chán phèo, cấm tiệt, nhắm nghiền, xanh lè, nhọn hoắt... là loại vị từ có hình thức là một từ ghép. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo sát một số đặc trưng ngữ pháp của vị từ Vx trên cơ sở so sánh đối chiếu với các đặc điểm ngữ pháp của vị từ nói chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận diện và xác định bản chất ngữ nghĩa của vị từ loại này.

 

Lễ mừng thượng thọ 90 tuổi của Phó Giáo sư - Nhà giáo ưu tú (PGS-NGƯT) Chu Xuân Diên vừa được Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia TPHCM tổ chức trang trọng.

20231121 6

Đây cũng là dịp ra mắt cuốn sách Nhà giáo - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Chu Xuân Diên (NXB Tổng hợp TPHCM) như món quà tri ân bậc lão thành trong giới nghiên cứu, giảng dạy văn hóa dân gian.

Tác phẩm do nhóm tác giả là học trò của PGS-NGƯT Chu Xuân Diên tổ chức biên soạn, gồm: PGS-TS Lê Quang Trường, TS La Mai Thi Gia, TS Lê Hồng Phong, TS Phan Xuân Viện, TS Hồ Quốc Hùng, TS Lê Thị Thanh Vy. Sách dày 512 trang, gồm 2 phần: Nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên: Một số công trình tiêu biểu, in lại những tác phẩm nghiên cứu giá trị vượt thời gian của ông; Nghĩ về thầy, nghĩ về nghề với gần 30 bài viết của đồng nghiệp và học trò về cuộc đời và sự nghiệp của ông.

PGS-NGƯT Chu Xuân Diên sinh năm 1934 tại Bắc Ninh, tốt nghiệp ngành Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội khóa đầu tiên (1956-1959) và được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy văn học dân gian. Năm 1984, ông được Nhà nước phong học hàm PGS, sau đó là NGƯT. Đến năm 1986, PGS-NGƯT Chu Xuân Diên chuyển vào Nam giảng dạy tại Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Tổng hợp TPHCM cho đến khi nghỉ hưu năm 2000. Tiếp đó, ông được mời làm Chủ nhiệm Khoa Văn hóa học, Trường ĐH Văn Hiến, góp phần gầy dựng khoa này từ ngày đầu còn nhiều khó khăn.

Chu Xuân Diên hợp cùng Đinh Gia Khánh thành “cặp đôi” nổi bật về nghiên cứu folklore học của thế hệ sau năm 1954. Vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, PGS-NGƯT Chu Xuân Diên đã xuất bản hơn 20 công trình, tiêu biểu như: Giáo trình văn học dân gian (biên soạn chung, 2 tập - 1972, 1973); Tục ngữ Việt Nam (biên soạn chung - 1975); Sáng tác thơ ca dân gian Nga (dịch chung, 2 tập - 1983); Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam (biên soạn chung - 1987); Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học (1989); Văn hóa dân gian (folklore) và phương pháp nghiên cứu liên ngành (1995); Cơ sở văn hóa Việt Nam (2002)…

GS-TS Nguyễn Xuân Kính, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, nhìn nhận: “Điều dễ nhận thấy là, trong hơn 40 năm qua, cùng với bước đi của ngành, PGS-NGƯT Chu Xuân Diên luôn luôn là một trong số ít người đứng ở vị trí đề xuất hoặc góp phần giải quyết những vấn đề lý luận về văn học dân gian nói riêng, về văn hóa dân gian nói chung. Ông thuyết phục mọi người bằng vốn tri thức phong phú, bằng sự cập nhật những thông tin mới”.

Hoàng Thúy

Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng, ngày 24.11.2023.

Thông tin truy cập

60767878
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
12048
10454
60767878

Thành viên trực tuyến

Đang có 658 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website