PNO - Tôi vẫn luôn hoài nghi cái ý nghĩa lớn lao của văn học ngày nay mà người ta từng nói. Nguyên do bắt nguồn từ hai điểm: một là, những gì đáng viết thì tựa hồ tiền nhân đã viết cả rồi; hai là, văn học vĩ đại tất nhiên được sinh ra trong thời đại phù hợp với nó, ngày nay lại là thời của mạng và khoa học kỹ thuật, văn học chỉ là một diễn viên phụ, không giống giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến thập niên 70 của thế kỷ XX - khi văn học là một diễn viên chính, một trụ cột văn hóa chiếm một góc trên vũ đài thế giới.

20200331

Nhà văn Diêm Liên Khoa

Sự yếu đuối và cô độc của văn học

Thời đại sản sinh ra nền văn học vĩ đại đã qua rồi. Chỉ thiên tài mới có thể được ông trời nhìn đến mà viết ra những tác phẩm kinh thiên động địa. Nhưng với tình thế và hiện thực ngày nay, thật khó có thể sản sinh ra những tác phẩm vĩ đại.

Văn học thế giới đã có trọn vẹn hai trăm năm huy hoàng của thế kỷ XIX và XX, lịch sử nhân loại đã không phụ văn học. Việc những nhà văn còn sót lại nên làm, chính là diễn xuất một cách hết sức vẻ vang vai diễn phụ của mình. Trong rất nhiều tiểu thuyết, phim truyện, ký kịch, sự vinh quang của vai phụ còn hơn cả vai diễn chính - chúng ta không ngừng cần mẫn tìm tòi và viết lách, đại khái cũng vì sự vĩ đại bất ngờ đó mà sáng tác.

Nhưng chúng ta cũng chớ quên diễn viên chính vẫn là diễn viên chính, diễn viên phụ vẫn phải diễn vai phụ mà lịch sử đã phân công. Chấp nhận sự bên lề của văn học chẳng phải một việc tồi tệ. Nó khiến chúng ta biết trong thời đại này, nhà văn chỉ là nhà văn, biết họ muốn làm gì và họ chỉ có thể làm gì.

Bệnh viêm phổi do vi-rút Corona chủng mới đã đến.

Nó quả thực giống như một cuộc chiến không đáng có, nhưng tiếng súng lại đột nhiên vang lên bốn bề. Chẳng phải chỉ một Vũ Hán, Hồ Bắc và Trung Quốc, mà toàn thế giới dần bị kéo vào tai họa ấy. Vũ Hán - thành phố nằm sâu trong đại lục Trung Quốc, trung tâm của nạn dịch ấy, kiếp nạn của bệnh tật và tử vong, tựa như tâm của cơn sóng thần vươn đổ ra bốn bên. Các nước trên thế giới đều không ngờ rằng, chúng ta lại lấy cách đó để chứng minh: nhân loại là một cộng đồng chung. 

Hoang đường và trái ngược luôn là một bộ phận của lịch sử nhân loại. Ở đó, sinh mệnh của người chết vẫn còn chưa nhắm mắt, nước mắt và tiếng than khóc bi thương vẫn vang vọng khắp nơi. Mấy vạn nhân viên y tế Trung Quốc bỏ lại con cái và gia đình luân phiên lao tới Vũ Hán, Hồ Bắc xông pha cứu chữa. Khi những nhân viên y tế đem mạng sống ra chống lại dịch bệnh, rất nhiều người đã trở thành một phần trong số những người đã chết. Có thể nói không chút nghi ngờ rằng, bất luận khởi nguồn của dịch bệnh ở đâu, nhưng sự lan tràn của nó bộc phát từ những kẽ hở trong kết cấu xã hội đặc thù của Trung Quốc.

Nhưng, từ sau khi phong tỏa Vũ Hán, thì cả Trung Quốc rất nhanh chóng kết lại làm một, tựa như những thanh củi lẻ tẻ được bó thành một bó bốc cháy. Vào lúc ấy, những thói xấu trong nhân tính giống như khói đen của bó củi ướt cuộn quanh chúng ta, đồng thời những ánh sáng và sự thuần khiết của nhân tính cũng giống như ánh lửa chói mắt, soi sáng sưởi ấm thế giới, đất trời, con người. 

Đó cũng chính là sức mạnh dân tộc như người ta vẫn nói. Cũng chính là hy vọng dân tộc ta đang nói đây.

Giữa sức mạnh và hy vọng ấy, ở điểm xung động giữa sự xa mờ của văn học với sự bức thiết cận kề của nạn dịch, chúng ta lại một lần nữa nhận ra sự yếu đuối và cô độc của văn học. Nó chẳng những không thể biến thành khẩu trang để đưa đến vùng dịch, mà cũng không thể trở thành một bộ quần áo bảo hộ y tế. Lúc cần ăn uống, nó không phải là sữa và bánh mì; khi cần rau cỏ, nó không phải là củ cải và cần tây. Thậm chí, khi mọi người sợ hãi, lo lắng bất an, nó cũng không thể trở thành một viên giả dược.

Vì sao, trong tiếng nói của một bộ phận truyền thông chính thức của Trung Quốc, và hầu như toàn bộ người dân có suy nghĩ, không hẹn mà cùng gọi Vũ Hán bị phong tỏa là “Auschwitz” (trại tập trung của Đức Quốc xã ở Ba Lan - người dịch)? Vì sao người ta liên tưởng giữa Auschwitz và “Thơ”?

Vì bệnh viêm phổi do virus corona chủng mới ở Vũ Hán đã trở thành một ẩn dụ. Vì trong kiếp nạn đột nhiên xảy đến này, xã hội Trung Quốc lại một lần nữa thể nghiệm được tính trọng yếu của việc bao dung những tiếng nói khác biệt. Cũng một lần nữa đem sự sống và cái chết để chứng minh, ở trong trại tập trung Auschwitz khi có thể viết thơ thì hãy viết thơ.

Bởi vì bài thơ lúc này, nó không phải là thơ, mà là tiếng nói khác biệt, truyền gửi và sống động. Nếu như năm xưa, trong trại Auschwitz, có người có thể viết thơ, và đem bài thơ ấy truyền ra ngoài, thì trại Auschwitz sẽ không kéo dài lâu như thế, sẽ không có những sinh mệnh vô tội bị phát xít giày xéo dưới gót chân như con sâu cái kiến nhiều đến thế. 

Bệnh nhân khỏi bệnh vẫy tay chào đội ngũ y bác sĩ ở Bệnh viện Dã chiến Lôi Thần Sơn, Vũ Hán ngày 1/3 - Ảnh: Reuters
Bệnh nhân khỏi bệnh vẫy tay chào đội ngũ y bác sĩ ở Bệnh viện Dã chiến Lôi Thần Sơn, Vũ Hán ngày 1/3 - Ảnh: Reuters

Trong giá lạnh, nhà văn vẫn nhiều hơn người khác một chiếc áo bông

Trong chiến tranh nếu không có mặt những phóng viên chiến trường coi sự thật như mạng sống của mình thì điều ấy thực sự là ngu xuẩn và đáng sợ.

Nhân loại đối mặt với kiếp nạn mà không tồn tại những tiếng nói khác biệt thì đó mới là kiếp nạn lớn nhất vậy.

Khi chiến tranh và nạn dịch xuất hiện, có những nhà văn có thể trở thành “chiến sĩ” và “phóng viên chiến trường”. Tiếng nói của họ còn vang xa hơn tiếng súng. Âm thanh của tiếng vang khác biệt ấy nhiều khi có thể khiến mũi dao trước mặt phải chùn lại, khiến tiếng đại bác của đối phương phải câm nín, giống như Isaac Babel và Hemingway, Norman Mailer, Singer và George Orwell.

Nói vậy không phải nhà văn trong chiến tranh nhất định phải thành phóng viên mới là nhà văn giỏi, mà là, một nhà văn trong chiến tranh nhưng không nhìn thấy cái chết, không nghe thấy tiếng súng, là một chuyện vô cùng hoang đường. Thậm chí, anh ta rõ ràng đã nhìn thấy cái chết, đã nghe thấy tiếng súng, nhưng lại nói tiếng súng ấy là tiếng pháo hoa mừng khải hoàn sắp tới, thì còn hoang đường gấp bội, và nó còn đáng sợ hơn cả chiến tranh hay dịch bệnh.

Dẫu rằng, Kafka trong nhật ký của mình có viết: “buổi sáng chiến tranh nổ ra, buổi chiều đi tắm”, nhưng chúng ta nhất định không được quên rằng ông ấy vô cùng mẫn cảm với sự hoang đường, và thực sự viết ra những con người hoang đường. Nhưng chúng ta, lại thường là người coi tiếng súng nổ là tiếng pháo hoa, thậm chí còn cầm cây bút của mình lên để chứng minh sự bình thường của hoang đường cũng như tiếng súng đích thực chính là tiếng pháo hoa. 

Không ai có quyền khiển trách khi giữa những tiếng khóc than, có người trở thành kẻ gào thét hay vung tay hô lớn; cũng không nên khiển trách khi vô số chân tướng còn chưa rõ ràng. Đã có những nhà thơ, nhà văn, giáo sư và những trí thức trong sự lựa chọn chính xác của chính trị, rất sớm đã tuyên bố sự lựa chọn, lập trường và quyết định của họ.

Trên thế giới rất ít người có thể hiểu nổi sự khiếp nhược và bất lực của nhà văn Trung Quốc, giống như những con chim cánh cụt yếu đuối ở Nam Cực chỉ có thể sống được trong giá lạnh. Cảnh ngộ thường quyết định sự cao thấp và khác biệt rõ ràng giữa nhà văn với nhà văn, văn học với văn học.

Ở Trung Quốc, việc cho phép tồn tại những tiếng nói khác còn cấp bách và quan trọng hơn nhiều việc sản sinh ra một hay vài tác phẩm vĩ đại ngoài ý muốn. Không ai có thể hiểu nổi sự yếu đuối, cô độc và bất lực của nhà văn Trung Quốc. Cũng không ai có thể hiểu, nhà văn Trung Quốc không hoàn toàn trân quý hay cần thiết sự bao dung và tự do kiểu “anh có thể thế này, tôi có thể thế kia”.

Nhân loại đều có tâm lý muôn người như một: trời lạnh mọi người cùng lạnh, trời ấm mọi người cùng ấm. Nhưng thực sự có đúng vậy không? Với một tập hợp mờ nhạt của nhà văn, văn đàn mà nói, khi mùa đông lạnh giá thực sự tới rồi, trên mình tôi vẫn còn nhiều hơn anh một cái áo bông được người ta phát cho. Đó cũng chính là sự vi diệu, bối rối và thê lương của nhà văn và văn học Trung Quốc ngày nay. Bởi trong cái giá lạnh ấy, phần lớn các nhà văn vẫn nhiều hơn so với người khác một cái áo bông chống rét.

Y tá với dòng chữ “Có tôi đây đừng sợ” trên tay áo - Ảnh: CHINANEWS
Y tá với dòng chữ “Có tôi đây đừng sợ” trên tay áo - Ảnh: Chinanews 

Đừng biến văn học thành tội ác

Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, không phải tất cả những nhà văn đều ra tiền tuyến, đều cầm bút trên chiến trường như Babel, Hemingway và Orwell. Nhưng nếu Tolstoy chưa từng là một người lính, ông viết Chiến tranh và hòa bình thế nào? Nếu Remarque không tham chiến và bị thương trong Thế chiến I, ông viết Phía tây không có gì lạ thế nào? Và đến Joseph Heller với Bẫy số 22, Vonnegut với Bữa sáng của nhà vô địch, lại còn Albert Camus với Dịch hạch, José Saramago với Mù lòa

Những tác giả nêu ở trước đều từng là lính không quân hoặc tù binh, còn những tác giả kể sau lại là người có hiểu biết và cảm nhận rất sâu về dịch bệnh của nhân loại. Từ góc độ ấy mà nói, ở tình cảnh hôm nay, đến lượt những nhà văn Trung Quốc nên viết cái gì? Họ nên viết ra những con người cá biệt đau đớn nhất, lịch sử hoang đường bất kham nhất, tác phẩm sáng tạo riêng biệt nhất.

Trong lịch sử và hiện thực của đất nước, nhà văn Trung Quốc đã tự mình trải qua, trông thấy quá nhiều sự hoang đường: tử vong và tai nạn; sự bộc phát của dịch bệnh, và sau khi quên đi kiếp nạn rồi nó lại nổ ra. Trải qua những điều ấy rồi, chúng ta có suy nghĩ về sự cô độc, ký ức của con người, và tình cảnh khốn khổ của nhân loại như Camus và Saramago không? Có đối diện với chân tướng của con người, hiện thực và thế giới mà dùng sự sáng tạo để đi tới một sự thực nào đó sâu sắc hơn giống như họ không? Viết hay không viết? Viết thì sẽ viết những gì? 

Nói thật, ở Trung Quốc có rất nhiều nhà văn vô cùng tài hoa. Nhưng cái khó của văn học Trung Quốc không hoàn toàn ở chỗ, người ta cho chúng ta viết gì và không viết gì, mà còn ở bản thân chúng ta muốn viết gì và phải viết gì. Qua loa sống tạm là một việc, không thể không sống tạm lại là một chuyện khác. Nhưng tỉnh táo và tự nguyện sống tạm bợ lại là một cái khác trong số những cái khác ấy. Tôi biết, tôi là kẻ sống tạm, nhưng có thể từ trong cuộc sống tạm bợ ấy giành được hạnh phúc và niềm vui, đó là một bẩm tính và văn hóa của người Trung Quốc ngày nay, là một loại đặc chất di truyền. 

Văn học yếu đuối, cô độc và bất lực, nhưng nhà văn chẳng những không suy nghĩ về điều đó, mà có thể lại dùng bút mực, tiếng nói và quyền lực của mình để phổ lên những khúc nhạc, cất lên lời thơ ca ngợi hiện thực được tạo nên từ những hoang đường, chết chóc. Để sống tạm, họ lại mang những cái giày của anh hùng để che phủ lên những dấu chân đi đến mộ phần của người chết. Điều ấy khiến cho văn học chẳng những yếu đuối, cô độc và bất lực, mà hơn nữa còn khiến văn học biến thành tội ác. Khiến văn học không còn là văn học nữa. 

Điều đáng sợ, không phải là vai trò của văn học trong lịch sử đã bị thay thế và đẩy ra ngoài lề, mà nhà văn biết rõ điều đó nhưng lại vỗ tay cho sự yếu đuối và cô độc, lớn tiếng khen hay cho những sáng tác yếu đuối và cô độc ấy, và lột nốt cái giày cuối cùng của văn học ra, để nó đi chân trần trên gai góc, nhìn văn học gục xuống chết, mà cho rằng mình là nhà văn, là tấm gương đã cứu vớt văn học.

Đó cũng chính là một loại của văn học Trung Quốc hiện nay, là tên đao phủ của văn học mà nhà văn đã tự mình đảm nhận. Bi kịch của văn học Trung Quốc ở chỗ, rất nhiều nhà văn trong cơn giá lạnh đều mặc nhiều hơn người khác một chiếc áo bông. Và khi ra đường, đứng giữa mọi người đều rét mướt, những người mặc hơn người khác một cái áo bông ấy, có thể cởi áo bông của mình ra không? Nếu không, thì văn học sẽ là vô vọng, hoặc thậm chí là tội ác. 

Diêm Liên Khoa (Nhà văn Trung Quốc)

Châu Hải Đường (dịch) 

Nguồn: Báo Phụ nữ, ngày 20.03.2020.

TTCT - "Nếu như nhất định phải nói ai là chủ nhân của hành tinh, virus có tư cách hơn chúng ta nhiều. Virus xâm nhập lây lan, nó đã biến chủng như thế nào? Tại sao nó xông ra khỏi hang ổ, lây nhiễm vô tội vạ cho loài người? Chúng ta làm sao sống hòa bình với các loài sinh vật trong tự nhiên trên hành tinh xanh này? Đó đều là những điều chúng ta đáng phải suy ngẫm.."

Tháng giêng năm 2020, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng virus corona mới gây ra (COVID-19) bất ngờ tấn công thành phố Vũ Hán. Đầu tháng 2, khi dịch bệnh COVID-19 tiếp tục bùng phát, cư dân mạng Trung Quốc kháo nhau những gì xảy ra hôm nay rất giống với những gì nhà văn Tất Thục Mẫn đã viết trong tiểu thuyết Virus Tràng hoa (Corolla virus) xuất bản năm 2012: “Dịch bệnh bất ngờ, thành phố phong tỏa, người dân trốn chạy, ùn ùn mua sắm…, tiểu thuyết như một lời tiên đoán”. Gần đây, Tân Hoa xã (THX) đã phỏng vấn nhà văn Tất Thục Mẫn xung quanh tác phẩm này.

-----------------------------------------------------

THX: Sau khi dịch COVID-19 bùng phát, bà từng viết: “Tôi vẫn còn nhớ như in khi nghe tin ông viện sĩ Chung Nam Sơn cho biết dịch COVID-19 lây từ người sang người; cứ như bị sét đánh ngang tai, rụng rời cả tay chân… ”. Lúc ấy, bà đang làm gì? Thông tin đó từ đâu ra? Phản ứng đầu tiên, điều bà lo lắng nhất là gì?

- Tôi biết được thông tin đó khi xem thời sự nghe ông viện sĩ Chung Nam Sơn phát biểu. Vũ Hán sau khi xuất hiện bệnh viêm phổi lạ, tôi đặc biệt quan tâm vấn đề lây từ người sang người. Theo kinh nghiệm từ dịch SARS, đây chính là chiêu đoạt mạng hàng loạt của virus. Nghe tin đó xong, lòng tôi đau như cắt và nghĩ: Chiếc hộp ma quái đã mở ra rồi.

Từ khi nghe tin đến nay đã hơn chục ngày, cuộc sống bà như thế nào? Bà đã làm những gì liên quan đến dịch bệnh?

- Tôi nhớ tôi chưa xem hết chương trình giao thừa đã đi ngủ. Ngủ đủ giấc rất quan trọng cho việc tăng cường sức đề kháng. Mùng 1 tết tôi ăn sủi cảo đông lạnh. Vì đi chợ phải ra ngoài, nên hạn chế tối đa. Cơ bản thì cuộc sống của tôi như sau: Một là xem thời sự, tìm hiểu tình hình diễn biến dịch bệnh để biết phải làm gì vào lúc này. Hai là phối hợp với sắp xếp của khu phố, tuân thủ kỷ luật. Ba là giữ liên lạc với gia đình, bạn bè, động viên nhau cùng vượt qua khó khăn trước mắt. Bốn là giữ vững kỷ cương sinh hoạt. Vì thuộc nhóm người có nguy cơ mắc bệnh COVID-19 cao, tuổi cao, có nhiều bệnh nền, không muốn gây phiền hà cho xã hội, không muốn gây rắc rối cho con cái. Năm là may khẩu trang, mua được một ít vải vụn, loại vải không dệt, tự may khẩu trang để giải quyết vấn đề khẩu trang của người nhà. Sáu là tiếp tục viết tiểu thuyết. Bảy là đọc sách.

20200324

Nhà văn Tất Thục Mẫn

Là người trải qua đại dịch SARS 17 năm trước, cuộc sống của bà đã có những thay đổi gì?

- 8 năm sau đại dịch SARS, tôi hoàn thành tác phẩm Virus Tràng hoa. Đó là tiểu thuyết cuối cùng của tôi đến nay. Sau khi hoàn thành, tôi đã đi du lịch vòng quanh thế giới. Bước ra từ đại dịch SARS, tôi nhận thấy con người mới mong manh làm sao và thế giới thì có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tôi nghĩ mình đã già rồi, nếu không nắm bắt cơ hội đi khám phá thế giới có thể sẽ không còn kịp nữa. Từ đó đến nay tôi đã đi được mười mấy nước, các chuyến đi mang đến cho tôi rất nhiều cảm hứng, sự rung động. Tôi có viết một số du ký, như Châu Phi ba vạn dặm, Châu Mỹ vũ trụ nhỏ, Phía nam Nam Cực, Phá băng điểm Bắc Cực, Chìa khóa đồng của Balkans… Hi vọng chia sẻ những trải nghiệm, những điều mới lạ với bạn đọc.

Có nhà văn đã nói “17 năm sau, khi đối diện với thiên tai, khả năng động viên, khả năng ứng phó, khả năng quản lý, khả năng cứu trợ, khả năng hợp tác, khả năng sáng tạo và thói hay quên… của con người vẫn không thay đổi. Cái giá đau thương mà chúng ta phải trả ở năm 2003, 17 năm sau đã quay lại. Chúng tôi không muốn đợi đến 17 năm lần thứ nhất, lần thứ hai hay lần thứ ba, mà con người thì cứ mãi đi theo vết xe đổ…”. Có lẽ đó cũng là tâm nguyện và ý nguyện ban đầu khi 8 năm sau bà hoàn thành tác phẩm khoa học viễn tưởng Virus Tràng hoa, được ví như một lời tiên đoán này phải không?

- Bạn nói đúng. Lúc đầu, tôi đã bắt tay viết Virus Tràng hoa trong nỗi sợ hãi, lo lắng như vậy. Đó cũng là tác phẩm ít được bạn đọc quan tâm nhất trong số các tác phẩm của tôi. Tôi cũng chuẩn bị tâm lý trước phản ứng của độc giả. Tôi đã xuất bản 5 tiểu thuyết, tác phẩm Bài thuốc đỏ tái bản nhiều lần và được chuyển thể thành phim truyền hình. Tác phẩm Huyết Linh Long cũng vậy. Tác phẩm Cứu lấy bầu vú gây được tiếng vang lớn. Tác phẩm Nữ bác sĩ tâm lý tái bản nhiều lần và đang được chuyển thể thành phim. Duy chỉ có tác phẩm Virus Tràng hoa sau khi xuất bản thì im hơi lặng tiếng, không tái bản lần nào. Người dân vốn hay quên, luôn có tâm lý ăn may, cứ tưởng rằng thiên tai đã qua không đáng để nhìn lại.

Tôi từng nghĩ có lẽ phải đợi đến sau nhiều năm tôi qua đời, dịch bệnh mới lại bùng phát. Đến lúc đó có thể sẽ có ai đó tìm thấy quyển sách này trong một góc xó xỉnh bụi bặm, và phát hiện ra rằng hóa ra nhiều năm trước từng có người cảnh báo về vấn đề này. Lúc đó, tôi đã không còn trên thế gian. Chỉ có thể khóc cho nhân loại trên thiên đường. Tôi không ngờ lại nhanh vậy, chỉ 17 năm sau dịch bệnh đã tái xuất. Và lần này, dịch bệnh lan rộng hơn với số người tử vong nhiều hơn.

Bà đã trải qua đại dịch SARS năm 2003, nhận trọng trách đi thực tế ở tuyến đầu phòng chống dịch. Bà có thể kể về cảm nhận của bà trong thời gian bị phong tỏa, cách ly hay những câu chuyện xúc động nhất trong quá trình đi thực tế không?

- Có rất nhiều câu chuyện chạm đến trái tim tôi. Nhưng tôi nhớ nhất là các y bác sĩ chống dịch ở tuyến đầu từng nói với tôi họ có thể nhận biết khả năng tử vong của bệnh nhân ở giường bệnh nào cao hơn. Lúc đầu tôi cứ tưởng đó là do phán đoán từ góc độ y học, ví dụ ai bệnh nặng hơn, tuổi cao hơn hoặc có bệnh nền nhiều hơn. Nhưng họ nói dù các yếu tố khách quan đó đại khái giống nhau, nhưng tâm lý người bệnh mới là thứ quyết định số phận cuộc đời của họ.

Nói một cách đơn giản, người có tỉ lệ chiến thắng bệnh tật, sống sót cao chính là những bệnh nhân có tinh thần lạc quan, nỗ lực tiếp nhận trị liệu, bản năng sinh tồn mạnh, không dễ đầu hàng trước bệnh tật. Ngay cả trận dịch COVID-19 lần này, bạn thấy trên tivi rồi đấy, rất nhiều bệnh nhân hồi phục đều nói: Quan trọng là phải có lòng tin, tâm lý phải vững. Vậy làm thế nào để có tâm trạng tốt?

Nếu anh mắc bệnh nặng, một mình cô độc trên giường bệnh, năng lượng tâm lý tích tụ mỗi ngày sẽ thành chỗ dựa quan trọng trong cuộc sống. Còn nếu bình thường bạn rất bi quan, khi mắc bệnh chỉ động viên mình một cách uể oải thì hiệu quả sẽ rất thấp. Do đó, ngày thường chúng ta phải chú ý xây dựng tâm lý khỏe mạnh, rèn luyện ý chí ngoan cường, bình tĩnh, dũng cảm, hợp tác, không chịu khuất phục, không dễ từ bỏ khi gặp khó khăn. Điều đó rất quan trọng khi bước vào giai đoạn then chốt của cuộc chiến chống dịch bệnh. Tôi từng phỏng vấn rất nhiều y bác sĩ, nếu gặp họ ở ngoài đời, chắc tôi sẽ không nhận ra. Tôi chưa được nhìn rõ khuôn mặt của họ, nhưng tôi nhớ giọng nói của họ và sẽ nhớ mãi việc họ đã xung phong ra trận vào thời khắc nguy 
nan đó.

Được biết, sau khi bà có chuyến đi thực tế tuyến đầu phòng chống dịch SARS năm 2003, 8 năm sau mới bắt tay viết tác phẩm Virus Tràng hoa. Chúng tôi muốn biết suy nghĩ của bà lúc đó và tâm trạng của bà trong quá trình sáng tác. Tại sao bà đợi lâu như vậy mới quyết định viết, trong thời gian đó bà đã có suy nghĩ gì, ý tưởng sáng tác đã có sự thay đổi nào?

- Khi bị người Athens xử tử, Socrates - nhà triết gia Hi Lạp - từng tuyên bố với mọi người: “Cuộc sống mà không suy xét thì không đáng để sống”. Suy xét ở đây là động từ, nghĩa là xem một cách cẩn thận, phân tích nhiều lần. Tôi xin phép được mượn lời ông: Tư liệu về dịch bệnh khi chưa được suy xét thì không đáng để viết. Tôi đã tự răn mình như vậy sau khi đi thực tế, phỏng vấn ở tuyến đầu chống dịch SARS, khi đã sưu tầm được nguồn tư liệu sáng tác đầu tiên.

Tại sao nói suy xét rất quan trọng, là vì suy xét cho ta phương thức và con đường suy nghĩ. Nó yêu cầu con người tự đặt câu hỏi cho mình để tìm kiếm những hiện tượng đằng sau những việc tưởng như bình thường, lẽ đương nhiên liệu có tồn tại tội ác của tà ma và sự ngu dốt của mông muội.

Tôi cần thời gian, cần suy nghĩ, thậm chí cần những giấc mơ trợ giúp. Thời gian đó, tôi đọc rất nhiều sách, làm rất nhiều bài tập. Trong giấc mơ, tôi đã không biết bao nhiêu lần mơ thấy virus, chúng tà ác nhưng diễm lệ, biến hóa khôn lường.

Sau dịch SARS, về mặt lý trí, tôi phán đoán dịch bệnh không hề rời xa chúng ta. Nếu như nói dịch SARS bùng phát và rời đi, có người lạc quan cho rằng đó chỉ là sự ngẫu nhiên ngoài ý muốn, nhưng tôi cho rằng đó là sai lầm 
rất lớn.

Thông qua ký ức và suy nghĩ về quá trình diễn biến dịch SARS cộng với nhiều tài liệu về lịch sử tiến hóa nhân loại, virus học, tôi lo lắng không yên. Khi viết tiểu thuyết Virus Tràng hoa, tôi đã đưa suy nghĩ của mình vào trong cốt truyện, hi vọng truyền tải đến người đọc ý thức nguy cơ sinh học, với mong muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, cố gắng phòng chống, đừng để bi kịch lặp lại.

Virus là thứ vô tri vô giác, không có bộ não. Loài người là sinh vật cao cấp nhất trên hành tinh, có lương tri và lý trí. Virus đang biến chủng, loài người đang tiến hóa. Loài người cũng không phải vạn năng, virus cũng không thể tự động dừng tấn công loài người. Đối với virus, không làm phiền chúng, đừng ép chúng chạy ra khỏi nơi trú ẩn của mình, không nên tàn phá nơi sinh sống của chúng, không nên phá vỡ giới hạn sinh tồn “nước giếng không phạm nước sông” đã có từ hàng chục ngàn năm nay. Một khi nó biến chủng “tái xuất giang hồ”, giai đoạn đầu giao chiến với chúng, loài người hầu như không có biện pháp phòng ngừa. Virus là dao thớt, loài người là thịt cá, loài người đang trong tình thế bất lợi, số ca lây nhiễm và tử vong lớn là điều khó tránh khỏi.

Con người không thể giết sạch bọn virus. Theo báo cáo mới nhất của Ủy ban Phân loại virus quốc tế, đã phân loại được gần 5.000 chủng loại virus, chưa bao gồm những virus mới chưa được phân loại. Ngoài việc tìm thấy những điểm cân bằng để chung sống hòa thuận với chúng, bạn hầu như không còn cách nào khác.

Nhà văn Tất Thục Mẫn: "Virus là dao thớt, loài người là thịt cá"
Bìa sách

Sau khi dịch COVID-19 bùng phát không lâu, nhiều học giả giới thiệu quyển Virus Tràng hoa của bà, họ cho rằng cuốn sách viết cách đây 8 năm đã tiên đoán đúng, sau đó thì rất nhiều độc giả đã tìm đọc. Bà đánh giá thế nào về giá trị của cuốn tiểu thuyết?

- Khi quốc gia đại nạn, cuốn Virus Tràng hoa lại được lôi ra đọc. Nhiều người nói tôi tiên đoán như thần, thậm chí hỏi tôi liệu có năng lực đặc biệt nào không? Tôi ngoài ngòi bút và lòng nhiệt huyết ra thì không có bất cứ năng lực siêu phàm nào.

Có độc giả nói với tôi: “Hãy nhớ lấy, những con người và sự việc được con người nhớ đến những lúc lâm nguy thường rất có ý nghĩa. Ví dụ, chúng tôi sẽ nhớ đến lực lượng quân đội, thiên thần áo trắng, người thổi còi, những tình nguyện viên bình dị nhưng vĩ đại…, cuốn sách của bà được mọi người đem ra bàn tán là điều rất đáng mừng”. Tôi trả lời rằng năm ấy Hội Nhà văn Trung Quốc cử tôi đi thực tế ở tuyến đầu, đó chỉ là việc làm để không phụ lòng mong mỏi của cấp trên mà thôi. Nghe nói ở các chợ sách cũ, cuốn sách xuất bản 8 năm trước đang hét giá mấy trăm tệ. Gần đây, có nhà xuất bản đang gấp rút tái bản Virus Tràng hoa.

Nghe nói trong cuộc chiến chống dịch COVID-19 lần này, thuốc đông y đã phát huy không ít tác dụng, trong tiểu thuyết bà đã nhiều lần nhắc đến hiệu quả tích cực của thuốc đông y khi chống virus. Trong trận dịch COVID-19 lần này, bà đánh giá tác dụng và giá trị thuốc đông y như thế nào?

- Đông y từng giúp người dân Trung Quốc trải qua quá trình lịch sử phát triển gian nan dài đằng đẵng, giá trị quý báu của nó là điều ai cũng rõ. Tôi luôn tôn trọng, tin tưởng và kỳ vọng rất nhiều vào đông y. Tây y khi phát hiện căn bệnh mới sẽ bắt tay ngay từ vi mô, ví dụ như giải mã trình tự bộ gen của virus, vội nghiên cứu sản xuất thuốc chống lại chúng như văcxin. Đông y thì chữa trị trên quan niệm con người là một tổng thể, chú trọng điều chỉnh khả năng phòng chống bệnh của toàn thân. Tư duy và cách chữa trị khác nhau của hai nền y học đều đáng để kỳ vọng.

Virus Tràng hoa được xem là tiểu thuyết năng lượng tâm lý đầu tiên của Trung Quốc. Bà từng là bác sĩ tâm lý, trong lời tựa bà viết: “Khi thân thể và tâm hồn có sự đột biến cũng như tình huống khốn cùng cực độ xuất hiện, cuối cùng chỉ có thể dựa vào năng lượng tâm lý của chính bạn”. Xin hỏi trong giai đoạn này, người dân thường ngoài việc giữ tâm trạng tốt, không hoang mang, họ còn có thể làm gì?

- Trong thời kỳ dịch bệnh, nhất định phải giữ niềm tin và tâm trạng tốt, suy nghĩ tích cực, để năng lượng tâm lý ấm áp tràn trề, tâm lý và phương pháp chữa trị bằng thuốc men đều quan trọng như nhau, thậm chí có khi còn quan trọng hơn, phải luôn luôn có niềm tin quyết không bỏ cuộc.

Giờ thông tin đầy rẫy trên điện thoại di động, thật giả khó lường. Rất nhiều thông tin giả nhưng do có nhiều người chuyển tiếp, mọi người sẽ tin tưởng một cách vô thức, từ đó nảy sinh khủng hoảng, tâm trạng căng thẳng. Cách đối phó với nó là hãy bình tĩnh, phải biết nhìn nhận, có ý thức lựa chọn khi đọc, không tiếp nhận những thông tin không rõ nguồn gốc. Nếu không có cách phân biệt thông tin thật hay giả, có thể kiên quyết xóa 
nó đi.

Mỗi ngày nên xem tivi, tịnh tâm đọc sách nhiều hơn, tôi muốn nói là sách giấy xuất bản chính thống. Những hình thức truyền thống này sẽ giúp bạn bình tâm, mà còn mở mang 
tầm mắt.

Ông Bill Gates từng nói: “Trong tương lai, bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa còn nguy hiểm hơn cả chiến tranh hạt nhân”. Bà cảm thấy loài người nên làm gì trong cuộc chiến với kẻ thù vô hình này?

- Virus xuất hiện sớm hơn nhiều so với loài người. Nếu như nhất định phải nói ai là chủ nhân của hành tinh, virus có tư cách hơn chúng ta nhiều. Virus xâm nhập lây lan, nó đã biến chủng như thế nào? Tại sao nó xông ra khỏi hang ổ, lây nhiễm vô tội vạ cho loài người? Chúng ta làm sao sống hòa bình với các loài sinh vật trong tự nhiên trên hành tinh xanh này? Đó đều là những điều chúng ta đáng phải suy ngẫm. Nếu không, khi tai họa ập đến, chúng ta không biết nó đến từ đâu? Khi tai họa kết thúc, chúng ta cũng không biết tại sao nó rời đi. Chúng ta không biết được lần sau nó có quay lại nữa không. Loài người đang sống trong sự bất an với nhiều yếu tố bất ổn.

Đã có nhiều người cho rằng virus là kẻ thù cuối cùng trên hành tinh. Rủi ro lớn nhất mà loài người phải đối diện không phải là vũ khí hạt nhân (có thể được khống chế không phát nổ), không phải đói nghèo (có thể thông qua nỗ lực để cải thiện và xóa bỏ), mà là làm thế nào sống chung với virus (hiện loài người hầu như đang trong thế hoàn toàn bị động). Không có ai có thể đứng ngoài cuộc, không ai có thể chỉ lo bản thân mình. Loài người là một cộng đồng cùng chung vận mệnh, bạn không thể trốn chạy.

Biện pháp tốt nhất có khả năng chiến thắng virus chính là sự cân bằng. Căn cứ số liệu thống kê chưa đầy đủ, trên thế giới đã phân ra 310.000 loại thực vật, cộng thêm động vật và nấm, hơn 1.900.000 loại. Dự kiến số thống kê đầy đủ sẽ trên 10.000.000 loại. Với số lượng lớn như vậy, loài người nhất định phải chung sống hòa thuận với chúng. Không chỉ vì quyền lợi sinh sản của các loài vật đó, mà còn vì sự ổn định lâu dài của loài người và tự nhiên.

Loài người ngự trị trên ngai vàng động vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa, do đó càng phải có trách nhiệm hơn. Bạn không thể lợi dụng địa vị của mình đi tàn sát, đó là chủ nghĩa cực đoan của loài người, sẽ chịu sự trừng trị nghiêm khắc của tự nhiên.

Trong lời tựa Virus Tràng hoa, bà có viết “Loài người và virus sẽ còn một cuộc chiến”, đằng sau câu nói này có hàm ý sâu xa gì? Bà nhìn nhận thế nào về việc loài người và virus chung sống lâu dài?

- Bắt đầu từ virus ung thư đến dịch SARS, virus Nipah và Hội chứng hô hấp Trung Đông, virus corona… những căn bệnh truyền nhiễm mới đều có nguồn lây nhiễm từ động vật hoang dã. Thực ra, một số virus vốn không hề gần gũi với loài người, chúng chạy trốn khỏi nơi ẩn náu, sinh sống vốn có của chúng, xâm nhập cơ thể con người bằng nhiều cách. Khi thích ứng môi trường loài người, chúng trở thành sát thủ siêu cấp trực tiếp lây nhiễm trong dân gian.

Virus corona cơ bản có thể khẳng định bắt nguồn từ virus của động vật hoang dã. Nhìn thấy hình ảnh chợ hải sản Hoa Nam ngang nhiên buôn bán động vật hoang dã khiến người ta 
phát khiếp.

Tôi đang nghĩ ngoài Vũ Hán, Trung Quốc còn có bao nhiêu thành phố có những chợ như vậy? Chưa thấy có sự hối cải, kiểm điểm của các bên liên quan, nhưng tôi tin nhất định sẽ có. Có lẽ chợ hải sản Hoa Nam không phải là nguồn gốc đầu tiên của virus corona nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, nó đóng vai trò quan trọng trong việc phát tán virus. Loài người và động vật chung sống lâu dài, đương nhiên cũng phải chung sống lâu dài với virus trên cơ thể họ. Đó là điều không nói cũng đủ hiểu.

Về mối quan hệ giữa loài người và các loại sinh vật khác, chúng ta nên nắm bắt chúng như thế nào?

- Mối quan hệ giữa loài người và động vật hoang dã đã có cả một quá trình tiến hóa của lịch sử. Xã hội hiện đại đã khác, một số loài động vật hoang dã, do sự săn bắt của loài người và sự biến đổi của khí hậu, số lượng đang giảm mạnh, rất nhiều loài trở thành đối tượng dễ tổn thương nhất, đã không còn đủ sức uy hiếp đến sự sinh tồn của loài người. Tuy nhiên, cơ thể họ vẫn tồn tại virus, vi khuẩn hàng trăm ngàn năm nay; do thay đổi của điều kiện sinh sống và nơi cư trú, virus bắt đầu phát tán lây lan ra khắp nơi, có xu hướng biến loài người thành một chủ thể lưu trú của chúng.

17 năm qua, từ dịch SARS đến COVID-19, khoa học đã có bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, cũng có những thứ chưa hề thay đổi, đó chính là tính mệnh con người vẫn mong manh, những mảng tối trong bản tính con người vẫn còn tồn tại. Đương nhiên vẫn còn đó tinh thần dũng cảm, hi sinh quên mình đáng khâm phục. Chỉ trong vòng 17 năm, chưa đủ để cơ thể loài người tiến hóa sản sinh sức đề kháng với virus mới. Do đó, cuộc chiến vẫn chưa đến hồi kết.

Loài người và vạn vật trên Trái đất nhất định phải sống hòa thuận với nhau. Nếu không, bị giết sạch không chỉ là vạn vật, con dao đồ tể sẽ giống như vũ khí bumerang của thổ dân, lưỡi dao sắc bén sau khi bị ném đi sẽ quay ngược lại cắm vào cổ của loài người.

Chúng ta phải biết sám hối, giờ mất bò rồi phải biết lo làm chuồng. Đại dịch lần này, chúng ta phải tìm mọi cách phòng chống, cắn răng để vượt qua khó khăn, phải có niềm tin về cuộc chiến với COVID-19. ■

Cảnh Chánh chuyển ngữ. 

Nhà văn nữ Tất Thục Mẫn sinh năm 1952 tại Tân Cương, là nhà văn cấp quốc gia của Trung Quốc, là bác sĩ khoa nội, phó chủ tịch Hội Nhà văn Bắc Kinh, thạc sĩ văn học Đại học Sư phạm Bắc Kinh, tiến sĩ tâm lý, bác sĩ tâm lý. Bà nhập ngũ năm 1969, 11 năm công tác trong quân đội ở Tây Tạng, trải qua các chức vụ như nhân viên y tế, trợ lý quân y, quân y… Sau 20 năm làm việc trong ngành quân y, bà bắt đầu viết văn, năm 1989 gia nhập Hội Nhà văn Trung Quốc. Năm 2007, bà có thu nhập từ bản quyền sách lên đến 3.650.000 tệ, đứng thứ 14 trong danh sách nhà văn giàu nhất Trung Quốc.

Các tác phẩm tiêu biểu: Tuyển tập văn Tất Thục Mẫn (12 cuốn); tiểu thuyết Bài thuốc đỏHuyết Linh LongCứu lấy bầu vúNữ bác sĩ tâm lýPhẫu thuật hoa tươi… Tản văn Học cách khám bệnh của bà được đưa vào sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 5 tại Trung Quốc.

Bà từng đoạt nhiều giải thưởng văn học: Giải thưởng văn học Trùng Khánh, Giải Bách hoa, Giải Văn học đương đại, Giải văn học Trần Bá Xuy, Giải thưởng văn học Bắc Kinh, Giải thưởng văn học Thanh niên, Giải thưởng văn nghệ Quân 
giải phóng…

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 22.03.2020.

Cách nay hơn một thế kỷ phân tâm học ra đời và ngay sau đó phê bình phân tâm học xuất hiện. Từ một khoa học được xây dựng thuần tuý trong lĩnh vực của bệnh học tâm thần với phương pháp thực hành lâm sàng, phân tâm học chuyển sang áp dụng những kinh nghiệm này của mình trong một lĩnh vực xa lạ, lĩnh vực của những sản phẩm văn hoá, văn học. Khái niệm phân tâm học ứng dụng (psychanalyse appliqué) hình thành vào đầu thế kỷ XX, với Freud và các đồng nghiệp của ông trong Hội tâm lý học ngày Thứ Tư (Société psychologique du Mercredi, 1902), mục tiêu là mở rộng tầm ảnh hưởng của lý thuyết.

Freud đã làm nên một cầu nối kỳ diệu giữa phân tâm học và văn học, từ điều kiện cá nhân (lòng say mê văn học; trực giác về nghệ thuật; khả năng tự phân tích và phân tích; khả năng liên kết, liên tưởng và liên ngành);  từ hoàn cảnh đào tạo (chương trình văn học ở trường trung học của Áo) và từ môi trường chuyên môn (những trải nghiệm đặc biệt về con người từ phân tâm học), như   Jean Bellemin-Noël đã viết: “Freud say mê đủ loại văn chương: kẻ ngốn sách đồng thời là một độc giả tinh tế. Văn hóa của ông là thứ văn hóa cách đây một trăm năm người ta dạy ở các trường trung học nước Áo: cổ điển, nhưng đa dạng hơn, phổ quát hơn, hiện đại hơn thứ văn hóa tương tự ở Pháp. Ví dụ, những tên tuổi trở đi trở lại nhiều nhất dưới ngòi bút của ông là các tác giả đã được thừa nhận vào năm 1870: Aristophane, Boccace, Cervantès, Diderot, Goethe, Hebbel, Heine, Hésiode, Hoffmann, Homère, Horace, Le Tasse, Milton, Molière, Rabelais, Schiller, Shakespeare, Sophocle, Swift; còn về các nhà văn đương thời: Dostoievsky, Flaubert, Anatole France, Ibsen, Kipling, Thomas Mann, Nietzsche1, Schopenhauer, Bernard Shaw, Mark Twain, Oscar Wide, Zola và Stefan Zweig[1].

Như vậy có thể nói, lịch sử lý thuyết phân tâm học không thể tách rời những cuộc gặp gỡ với văn học, từ văn học truyền miệng đến văn học viết.

Trong những bước đi đầu tiên, Freud đã tiến hành song song ba công việc: vừa phân tích bệnh nhân, vừa phân tích chính mình, vừa đọc tác phẩm văn học. Hai tác phẩm Œdipe làm vua của Sophocle và Hamlet của Shakespeare đã mang lại cho Freud một phát hiện lớn, năm 1897, hình thành một khái niệm chủ, một điển hình bệnh lý lớn: mặc cảm Oedipe  trong công trình Giải thích chiêm bao (1899). Năm 1907, một tập sách gồm nhiều người viết: Các trang viết của tâm lý học ứng dụng, tiểu luận «Hoang tưởng và chiêm bao trong truyện « Gradiva » của Jensen» của Freud được đăng trang đầu tiên. Đọc La Gradiva của W. Jensen, Freud nhận ra hoang tưởng như một diễn trình của vô thức, và ông khẳng định vai trò của văn học: ““Thi sĩ, trong sự cảm nhận tâm hồn con người, họ là thầy chúng ta (...) vì họ tắm trong những cội nguồn mà chúng ta còn chưa thể đạt tới trong khoa học » (…) ”Các nhà thơ và các nhà tiểu thuyết là những đồng minh quý báu của chúng ta, và các bằng chứng của họ phải được đánh giá thật cao, bởi lẽ giữa lưng chừng thinh không họ biết được nhiều điều mà túi khôn học đường của chúng ta còn chưa dám mơ tới. Về kiến thức tâm lý, họ là bậc thầy của chúng ta, những kẻ tầm thường, bởi họ đã đắm mình trong những mạch nguồn nơi chúng ta còn chưa đưa khoa học lại gần được”[2]. Cũng năm này, trong tiểu luận Người sáng tạo văn học và tưởng tượng (Le créateur littéraire et la fantaisie), Freud cho rằng người viết tiểu thuyết là người sắp xếp lại thực tại để làm nên một thế giới của riêng mình. Nghệ sĩ là đứa trẻ vẫn còn sống trong người lớn: “Nhà tiểu thuyết tâm lý chắc chắn vay mượn trong toàn thể nét đặc thù của mình với khuynh hướng từ các nhà văn hiện đại, tách cái tôi bộ phận khỏi cái tôi của mình, nhờ kết quả của tự sự quan sát; và nhờ con đường nhân cách hóa các dòng xung đột trong đời sống tâm thức của mình nơi nhiều nhân vật[3].

Trong một bài báo nhỏ năm 1909 có tên là Tiểu thuyết gia đình về chứng loạn thần kinh (Le roman familial du névrosé), Freud đã nghiên cứu các cội nguồn của thiên hướng nhà văn. Theo ông, trong mỗi một đứa trẻ luôn có ước vọng thay đổi phả hệ và muốn khám phá những ông bố bà mẹ khác, việc viết văn là để “hoàn tất các ước muốn, sửa lại cuộc sống hiện có của mình và hướng đến hai mục tiêu:  tính dục và tham vọng” [4]. Tiểu thuyết gia như vậy là người thành công trong việc sửa đổi thực tại mà không bị giới hạn bởi sự kiềm chế thần kinh hoặc bị lạc trong một mê sảng của giòng giõi. Luận điểm gây tranh cãi này đã kích thích nhiều nhà phê bình. 

Liên kết một chuỗi trải nghiệm văn học, qua ba tác phẩm kinh điển, Freud đưa ra một ghi nhận quan trọng, trong tiểu luận Dostoïevski và tội giết cha (Dostoïevski et le parricide, 1928): “Không hề ngẫu nhiên khi ba kiệt tác của văn học ở mọi thời như Oedipe làm vua (Œdipe Roi) của Sophocle, Hamlet của Shakespeare và Anh em nhà  Karamazov  của Dostoïevski, cùng có một chủ đề là giết cha”[5]. Từ đó, ông xem mặc cảm Œdipe là một bản chất phổ quát của con người.

Freud quan niệm rằng, khi viết văn, nhà văn đã phóng chiếu và cấu trúc lại các huyễn tưởng của mình, làm nên những hình tượng văn học. Có hai loại huyễn tưởng: loại đầu là kết quả của sự lai ghép với hiện thực, hình thành thế giới của nhà văn (như đứa trẻ bị bỏ rơi, đã tìm lại chính mình, tìm cách chữa lành những chấn thương), thể hiện qua Tolstoi, Balzac, Huygo, Dostoïevski, Dickens, Faulkner, Proust… Loại thứ hai là sáng tạo ra một thế giới mới khác với hiện thực (từ mặc cảm Œdipe, muốn hủy diệt đối thủ và thiết lập một tương quan mới), như Hoffmann, Melville, Kafka…[6]

Đọc phân tâm học văn học như vậy sẽ tương tự như việc dõi theo sự hình thành của vô thức, nghĩa là dõi theo các chiêm bao, các nói nhịu (lapsus), các nét tinh thần, các ảo tưởng. Freud tìm cách “lột mặt nạ” các diễn ngôn ý thức, tìm các ham muốn (désire) dồn nén (refouler) ở đằng sau nó và chiếu ánh sáng vào diễn trình tích tụ (condensation) và chuyển dịch (déplacement) nơi tác phẩm, vào các biến dạng nảy sinh từ kiểm duyệt (censure). 

Trong quá trình phân tích tác phẩm văn học, Freud tỏ ra ý thức mục tiêu và giới hạn của mình: “Mang lại một phán đoán thẩm mỹ về tác phẩm nghệ thuật hay làm sáng tỏ thiên tài nghệ thuật chắc chắn không phải là nhiệm vụ của phân tâm học. Mà dường như với phân tâm học là khả năng nói lên một từ ngữ mang tính quyết định trong tất cả các vấn đề liên quan đến cuộc sống tưởng tượng của con người”[7], nhưng xuyên qua các văn bản đọc văn học của Freud, người ta nhận ra ông đã kết hợp các phương pháp phê bình văn học như: phê bình tiểu sử, phê bình phát sinh… Sau này, Sarah Kofman còn cho là Freud đã sử dụng phương pháp cấu trúc “cho phép so sánh các tác phẩm khác nhau của một nghệ sĩ để phát hiện ra ảo ảnh chung như là chìa khóa của nghiên cứu” và đọc văn học theo phương pháp tiểu sử với Freud là tiến hành “lột mặt nạ” để “đáp trả thái độ thần bí hóa đối với các nghệ sĩ và nhận dạng tính ái kỷ” […] “Freud thay thế những gì được gọi là "tuyệt vời" trong sự lý tưởng hóa các nghệ sĩ bởi người viết tiểu sử, bằng việc tìm kiếm quy luật chi phối các bệnh nhân và cả người bình thường”[8].

Dù vậy, cũng nhiều khi, Freud không tránh khỏi những phân tích khiên cưỡng. Chẳng hạn, với  Shakespeare, ông đã khai thác tiểu sử của nhà văn này theo hướng cố làm cho nó tương thích với các tiền giả định của ông, và như vậy ông đã đi ngược lại với ý kiến của các chuyên gia uy tín về Shakespeare. Khi đọc Dostoïevski, Freud đã nói khác đi về bệnh động kinh của nhà văn này, để củng cố lập luận của mình.

Cho đến nay, phân tâm học đã chứng tỏ sức mạnh của mình trên nhiều lĩnh vực. Và phát hiện quan trọng nhất của nó là phát hiện về vô thức. Trong khi ghi nhận những cống hiến lớn lao của phân tâm học, người ta nói đến vai trò của vô thức trong lĩnh vực phê bình văn chương, và rộng hơn là trong nghệ thuật.

Phân tâm học là một lĩnh vực mênh mông, phức tạp và không thuần nhất.  Khởi đi từ Freud, nó vận động không ngừng trên phương diện lý thuyết và thực hành, trong sự phát triển nội tại và trong xu thế mở ra tiếp biến nhiều lĩnh vực khác. Chính vì vậy, phê bình phân tâm học, hay nói khác đi là việc đọc phân tâm học, cũng đã hình thành và phát triển hết sức đa dạng.

Trước hết về tác giả, sẽ có những nhà phân tâm học đọc văn học và những nhà phê bình văn học vận dụng phân tâm học, tư thế, mục tiêu và phương pháp của họ có khác nhau.

Thứ hai, về xu hướng lý thuyết, từ khi hình thành đến nay, đã có những xu hướng phân tâm học khác nhau : Sigmund Freud (Áo-Anh, 1856-1939),  Pierre Janet (Pháp, 1859-1947), Alfred Adler (Áo –Anh, 1870-1937),), Carl Gustav Jung (Thụy Sĩ, 1875-1961), Melanie Klein (Áo-Anh, 1882-1960), Otto Rank (Áo-Mỹ, 1884- 1939), Theodor Reik (Áo- Mỹ, 1888-1969), Marie Bonaparte  (Pháp, 1882-1962), Charles Baudouin (Pháp –Thụy Sĩ, 1893-1963), Anna Freud (Áo- Anh, 1895-1982), Wilhelm Reich (Áo –Mỹ, 1897-1957), Erich Fromm (Đức, 1900-1980), Jacques Lacan (Pháp, 1901-1981) Georges Devereux (Pháp –Mỹ, 1908 - 1985), Jean Laplanche (Pháp, 1924- 2012)…, các nhà phê bình phân tâm học có thể tựa vào xu hướng lý thuyết này, hay xu hướng lý thuyết khác, hoặc dung hợp.

Thứ ba, mối quan hệ giữa phân tâm học và văn học sẽ được quan niệm và xử lý lại, theo từng trường hợp đặc thù với từng nhà phê bình, ở đó có thể có sự dung hợp với những lý thuyết hoặc trường phái phê bình khác.

Thứ tư, đối tượng của phê bình phân tâm học là văn bản văn chương trong mọi thời, mọi nơi, mọi thể loại. Những thay đổi về yếu tố thời gian, không gian bên ngoài (contexte) và những quy luật bên trong của văn bản (texte) hẳn sẽ mang lại những cách đọc vô thức khác nhau. Sự đa dạng và linh hoạt là một yêu cầu cơ bản trong phê bình phân tâm học, bởi nó giúp cho nhà phê bình tránh được nguy cơ sao chép máy móc và công thức hoá.

Đứng trước cái kiến trúc to lớn nhiều cửa là phân tâm học ấy, chúng ta nên bắt đầu đi vào bằng cửa nào?

Chúng tôi sẽ không bắt đầu bằng cách giới thiệu những nét chính về lịch sử và các vấn đề lý thuyết phân tâm học như thông lệ. Từ mối băn khoăn, do đâu mà Sigmund Freud, một bác sĩ chuyên nghiên cứu thần kinh bệnh học, lại chọn văn chương, như một đối tượng phân tích, cùng với các bệnh nhân của ông, chúng tôi đi tìm lý do của sự quan tâm này. Bởi đó cũng là lý do tồn tại của phê bình phân tâm học.

Trong nhiều tài liệu về cuộc đời S. Freud, người ta nói rằng ông rất yêu văn chương và là một độc giả sành văn. Nhưng có lẽ khi đưa văn chương vào thế giới khoa học của mình, Freud không xuất phát từ một sở thích cá nhân. Bằng trí tuệ cực kỳ nhạy bén và tài hoa của mình, Freud đã phát hiện ra những điểm chung trong cơ chế tâm lý của con người (bệnh nhân) và cơ cấu nghệ thuật của tác phẩm văn chương. Theo chúng tôi, đó là những điểm chung về đặc trưng, chất liệu và phương pháp.

-Về đặc trưng, có lẽ không ai phủ nhận, tưởng tượng là một khả năng không thể thiếu của con người và tác phẩm văn chương. Những bệnh nhân tâm thần, khả năng tưởng tượng phát triển một cách khác thường, những tuyệt tác văn chương luôn sáng lên từ một sức tưởng tượng phi thường.

-Về chất liệu, con người và tác phẩm văn chương đều phải sử dụng ngôn từ. Nhà thần kinh bệnh học làm việc với bệnh nhân của mình qua những cuộc đối thoại nghĩa là qua lời nói. Nhà phê bình phân tích tác phẩm văn chương qua văn bản, vẫn là cuộc trò chuyện trong phạm vi  ngôn từ với  nhà văn, độc giả. Lời nói của bệnh nhân và ngôn từ nghệ thuật có nhiều điểm chung như sức nén, tính ẩn dụ, tính ngẫu nhiên…(chứa đựng những nội dung từ vô thức), chúng có khả năng hé mở cho chúng ta nhiều vấn đề bí ẩn.

-Về phương pháp, chúng ta nhận thấy rằng thực hành phân tích về bản chất là một trải nghiệm độc đáo của ngôn từ và của diễn từ. Phân tích bệnh nhân, nhà phân tâm học làm những cuộc đối thoại trong tinh thần “hợp tác tự do” (association libre), phân tích tác phẩm, nhà phê bình đọc kỹ văn bản với sự tự nguyện đầy cảm hứng. Và trong suốt quá trình phân tích này nhà phân tâm học cũng như nhà phê bình không tránh khỏi… cúi xuống phân tích chính mình.

Trước phân tâm học rất lâu, văn chương (truyền khẩu và viết) đã tỏ rõ sức mạnh của mình trong việc sử dụng ngôn từ để sáng tạo nên một không gian độc đáo, nằm ngoài những giới hạn thường thấy của ngôn ngữ giao tiếp. Việc nghiên cứu những văn bản văn chương cho phép phân tâm học rời bỏ mảnh đất y học chật hẹp vươn tới tầm lý thuyết tổng quát về tâm lý học và về sự tiến triển loài người. Ngược lại, phân tâm học cũng đã làm thay đổi quang cảnh phê bình văn học.

Những đối chiếu vắn tắt trên đây, và mối quan hệ tương tác trong thực tế giữa phân tâm học và văn học đã nói với chúng ta lý do phân tâm học có mặt trong đời sống văn chương, và phê bình phân tâm học hôm nay đã hình thành như một trường phái lớn, có nhiều xu hướng.

Theo Marcelle Marini[9], trong  Mỹ học và phân tâm học [10], nhà phê bình Gilbert Lascault (Pháp, 1934) đã ví phân tâm học với tháp Babel. Ông cảnh báo sự ngưỡng mộ thái quá phân tâm học để rồi dẫn tới hai thái độ: hoặc là nhà phân tích hướng về phía tác phẩm văn học để tìm kiếm ở đó sự minh họa đơn giản cho các luận điểm của họ, hoặc là nhà phê bình hướng về phân tâm học để tìm ở đó một kiến thức có sẵn, một kiểu giải thích làm sẵn, mang tới “chân lý” của văn bản. Chống lại những “công thức đơn điệu”, Gilbert Lascault cho rằng một phê bình phân tâm học đích thực phải được thực hiện bằng việc đọc đích thực. Đây là nguyên tắc đầu tiên phải tuân thủ. Đọc đích thực nghĩa là nhà phê bình vừa tiến hành công việc phân tích tâm lý vô thức mà văn bản khơi dậy nơi mình, vừa tiến hành công việc giải thích. Trong việc đọc này không ai đoán trước được những gì sẽ đến.

Không đi vào lịch sử phân tâm học, không dừng lại nhiều với các tác giả, công trình và luận điểm, vốn đã được nhiều tư liệu nói đến, trong những hiểu biết còn giới hạn của mình, chúng tôi thử trình bày một cách khái quát những tiêu điểm và định hướng  khác nhau của phân tâm học và phê bình phân tâm học.

Phân tâm học

Quá trình hình thành phân tâm học của Freud trải qua hai giai đoạn:  giai đoạn thứ nhất từ 1895 đến 1920, giai đoạn thứ hai từ 1920 đến 1938. Trong giai đoạn thứ nhất, Freud hình dung cơ chế tâm thức (mécanisme psychique) của con người có ba tầng: ý thức (le conscient), tiềm thức (le preconscient) vô thức (l’inconscient) và đề xuất các khái niệm: dồn nén (refoulement), kiểm duyệt (censure), chứng ái kỷ (narcissisme), cái tôi (le moi)…Công trình Năm bài học về phân tâm học (Cinq leçons sur la psychanalyse) ra đời trong thời gian này, xác định chiêm bao là “con đường hoàng đạo của nhận biết vô thức” (“la voie royale de la connaissance de l'inconscient”)[11]. Với Freud, không có biểu hiện hành vi và tâm lý nào là ngẫu nhiên, không có ý nghĩa, không có nguyên nhân; và ý nghĩa thực sự, nguyên nhân lớn nhất của các biểu hiện ấy có thể tìm thấy ở vô thức: vô thức quyết định con người chúng ta trong từng giây phút: người ta gọi đây là nguyên lý quyết định luận tâm thức (Principe du déterminisme psychique). Quan sát tâm lý con người, Freud cho rằng, thường có nhiều nguyên nhân và cả một phức hợp động lực cho một biểu hiện, nhưng chúng ta thường bằng lòng với việc giải thích theo một nguyên nhân.[12] Trong khi giải thích chiêm bao, Freud phát hiện ra hiện tượng sự chuyển vị (transposition) của các hình ảnh và sự kiện theo một trình tự rối loạn, biểu hiện những xáo trộn tâm thức (troubles psychiques). Theo ông, các xáo trộn này bắt nguồn từ một ham muốn, có từ trẻ em đến người lớn, những ham muốn bị cấm đoán (interdit) bởi giáo dục, văn hóa, tôn giáo…thường được giải tỏa bằng chiêm bao. Vậy chiêm bao là kết quả của ham muốn và cấm đoán. Theo Freud, chiêm bao cấu thành bởi hai lớp nội dung: nội dung hiển lộ (contenu manifeste), gắn với ý thức, và nội dung ẩn tàng (contenu  latent), gắn với vô thức. Giải thích chiêm bao là đi từ nội dung hiển lộ đến nội dung ẩn tàng. Không chỉ dừng lại ở đó, Freud xác định cơ chế tâm thức của chiêm bao: cơ chế kịch hóa (la dramatization: tự sự), cơ chế hình tượng hóa (la figuration: hình ảnh), cơ chế tích tụ (la condensation: sự nén lại của hình ảnh và tự sự), cơ chế chuyển dịch (le déplacement: sự di chuyển các yếu tố). Các cơ chế trên đây của chiêm bao thoạt tiên có vẻ không gắn gì với diễn ngôn văn chương, nhưng chúng có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn kỹ thuật kịch, các nét đặc thù của ngữ pháp tự sự, thành tựu của nghệ thuật miêu tả trong tiểu thuyết, cách biên soạn một ẩn dụ…Đặc biệt, nó làm cho cách viết không còn là một công việc thuần túy ngôn ngữ (hình thức), mà là một công việc của trí tưởng tượng bằng ngôn ngữ và công việc của ngôn ngữ bằng tưởng tượng,với điều kiện không lẫn lộn sự biểu hiện với việc sao chép đơn giản thực tại.

Từ trường hợp chiêm bao, Freud đề xuất ra hai phương thức khác nhau khi xem xét tác phẩm văn học: một mặt, một tấm màn mỹ học hay lý trí che khuất sự thật trần truồng của vô thức; mặt khác, văn bản  hiển lộ, giống như “nội dung hiển lộ” của chiêm bao, nằm trong mối quan hệ biểu tượng hoá chặt chẽ với “nội dung tiềm ẩn”, có mặt bên cạnh vô thức. Hai quan niệm về sản phẩm nghệ thuật này luôn luôn cạnh tranh nhau.

 Nhấn mạnh giai đoạn đầu đời, Freud chú ý đến kỷ niệm tuổi thơ, trong đó, ông cho rằng các kỷ niệm – kính lọc (souvenir- écran: những kỷ niệm mà ta không hề biết, nhưng lại luôn chi phối đời ta) có vai trò rất lớn, đặc biệt là các kỷ niệm gắn với biến cố gây chấn thương (événement traumatique). Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong khi phân tích chi tiết sự cấu thành của vô thức, Freud đã làm việc như một nhà ngôn ngữ học, dù lúc ấy ngành ngôn ngữ học còn rất sơ khai. Việc nghiên cứu kỷ niệm này của Freud cũng gắn với văn học, một trong những tác giả văn học mà Freud chú ý và nêu ra các dữ kiện kỷ niệm là Goethe.

Năm 1910, tiểu luận “Sự xáo trộn gen tâm lý của cái nhìn trong khái niệm tâm lý học phân tích” (Le trouble psychogène de la vision dans la conception psychanalytique »), thể hiện cái nhìn nhị nguyên luận của Freud về xung năng (dualism pulsionnel): theo ông, trong vô thức con người luôn có những cặp xung năng đối lập nhau: xung năng tính dục đối lập với xung năng sinh tồn; xung năng sống (pulsions de vie) đối lập với xung năng chết (pulsions de mort)…

Năm 1920, tiểu luận “Để giới thiệu thuyết ái kỷ” đã mang lại một bước ngoặt, hình thành giai đoạn thứ hai. Cơ năng tâm thức được hình dung lại với các khái niệm mới : cái tôi (bản ngã: le moi, ego), cái siêu tôi (siêu ngã: le surmoi, superego) và cái ấy (tự ngã: le çà, id). Công trình Bên kia nguyên lý khoái lạc (Au delà du principe de plaisir, 1920) tiếp tục khẳng định mặc cảm Œedipe (Le complex Œedipe),

Như vậy, Sigmund Freud  xem xung đột, mâu thuẫn là tình trạng thường xuyên diễn ra nơi con người, và điều này làm ta nhớ đến Karl Marx. Nhưng nếu Marx nhìn thấy xung đột trong giai cấp, bắt nguồn từ điều kiện kinh tế thì Freud nhìn thấy xung đột trong từng cá nhân, bắt nguồn từ cơ chế tâm thức.  Cũng  như Marx, Freud có cái nhìn nhị nguyên, qua các cặp đối kháng gần như thường trực: ý thức /vô thức; nguyên tắc khoái cảm / nguyên tắc thực tế; ham muốn / cấm đoán; thế giới bên trong / thế giới bên ngoài; cái tôi (bản ngã), cái siêu tôi (siêu ngã) / cái nó (tự ngã), bản năng sống và bản năng chết…

Trong tác phẩm  Cái tôi và cái nó (Le moi et Le çà, 1923), Freud đã trình bày các mối quan hệ trên, đồng thời phân tích tình trạng lệ thuộc của cái tôi. Theo Freud, con người chịu sự quy định rõ rệt bởi cơ chế tâm - sinh lý của chính mình. Các xung năng trong vô thức chịu sự chi phối mạnh của xung năng ham muốn (ta nhớ đến khái niệm của nhà Phật là dục) có vai trò quan trọng, trong đó có xung năng tính dục (libido), chúng luôn có xu hướng chuyển hóa lên hai tầng trên, dẫn dắt ý thức, chi phối hành vi. Ngược lại, nếu có xung đột giữa các xung năng của vô thức và các xung năng của ý thức, do áp lực từ siêu ngã của chính người đó, hay từ quy phạm của gia đình, nhà trường, xã hội, cộng đồng, thì cơ chế bảo vệ (mechanism de defense) của tâm lý sẽ xuất hiện và can thiệp. Nó có thể đàn áp (répression), hoặc kiểm duyệt, ngăn chặn các ký ức, cảm xúc và ý tưởng từ tâm thức, đẩy các xung năng ấy trở lại vô thức. Những dồn nén này tạo thành các ẩn ức, ngày một nhiều, có khả năng tạo nên một sự mất quân bình về tâm lý, gây ra chứng nhiễu tâm, hoặc nặng hơn là chứng loạn thần kinh. Nó cũng có thể làm công việc định dạng (identification), nghĩa là để cái tôi của mình thích ứng với những đặc điểm tính cách của cha mẹ; Freud cho rằng vào những thời điểm then chốt này, vai trò của những bậc cha mẹ  rất quan trọng, họ sẽ giúp con mình vượt qua các mặc cảm để tiếp nhận các quy ước một cách nhẹ nhàng và trưởng thành. Với những trường hợp mà xung đột giữa vô thức và ý thức diễn ra thường xuyên trong cả cuộc đời, cơ chế bảo vệ của tâm lý sẽ thu xếp để lập lại sự cân bằng tạm thời, tìm con đường giải tỏa bằng cách ngụy trang (camouflage). Một trong những giải tỏa quen thuộc mà ai cũng từng trải qua, có thể mỗi ngày, ấy là chiêm bao (còn gọi là giấc mơ, mộng mị: rêve); ít phổ biến hơn là hành vi nói/viết nhịu (còn gọi là nói liệu, lapsus); trong đó con đường giải tỏa và hình thức ngụy trang đẹp đẽ, lý tưởng, có ý nghĩa nhất, là hoạt động sáng tạo (khoa học, nghệ thuật, văn chương), hoạt động nhân đạo (từ thiện, tôn giáo) và tình yêu: Freud gọi giải tỏa đó là sự thăng hoa (sublimation). Freud còn cho rằng, do cơ chế sinh học và do trải nghiệm cá nhân, mỗi cá nhân khi được sinh ra và trưởng thành có thể thiên về bản năng sống (eros) hay bản năng chết (thanatos), hoặc có cả hai, lúc ngả bên này, lúc ngả bên kia; và tùy theo đó mà con đường giải tỏa của mỗi người có thể khác nhau. Bản năng sống thường biểu hiện nơi khả năng sinh tồn (survivance); khả năng hái lấy niềm vui (có khi được dịch hẹp là khoái lạc: plaisir); khả năng tái tạo (reproduction), nó có vai trò rất lớn trong việc duy trì cuộc sống của cá nhân cũng như sự tiếp tục của giống loài. Đôi khi người ta đánh đồng bản năng sống với bản năng tính dục (instinct sexuel), cũng như đánh đồng désire (ham muốn nói chung) với libido (ham muốn tính dục), do cách nói của Freud và do trong lịch sử dài của nhân loại, bản năng tính dục là điều cấm kị (tabou). Những người thiên về bản năng sống thường có biểu hiện mà ta gọi là tích cực: yêu thương, lạc quan, dễ dàng nối kết với mọi người, tin vào cái mới..., cách giải tỏa của họ thường theo hướng thăng hoa. Trong khi đó, người có bản năng chết thì thường gắn với lòng thù hận, oán trách (từ sân theo quan điểm nhà Phật); thường bị hút về nỗi buồn, nỗi sợ, hoài nghi; thường ham muốn hủy diệt và tự hủy diệt. Năng lượng sinh ra từ bản năng chết thường có thể dẫn đến hiện tượng thích tự làm đau mình: khổ dâm (masochism), hoặc/và thích làm đau người khác: bạo dâm (sadism), bằng ngôn ngữ, bằng hành động gây hấn, bạo lực[13]. Theo Freud, những kẻ độc tài, những người chủ chiến, những kẻ sát nhân, những tên bạo hành tình dục thường có trong mình bản năng chết, và như vậy, các vấn nạn lớn của nhân loại từ xưa đến nay như: chiến tranh, tội phạm, nạn cưỡng dâm…đã được Freud lý giải bằng một cách nhìn khác, cách nhìn từ góc độ trách nhiệm cá nhân, khác với cách nhìn của những nhà Marxist.

Freud xác định xung năng là một lực đẩy liên tục hướng đến sự thỏa mãn và là phương tiện đầu tiên của sự thỏa mãn. Trong tiểu luận “Các xung năng và số phận của xung năng” (“Pulsions et destins des pulsions”)[14], Freud đã bàn nhiều về khái niệm này, như phân biệt xung năng tính dục (pulsions sexuelles) và xung năng tự tồn (pulsions d’autoconservation). Ông  xác định con đường của xung năng là một “diễn trình năng động”, qua bốn mô thức: lực đẩy; cội nguồn, đối tượng, mục đích; với các diễn biến: hoặc chuyển thành cái đối lập (tình yêu thành thù hận); hoặc quay lại chống cái tôi của chính mình; hoặc dồn nén tất cả vào vô thức; hoặc giải tỏa bằng hành vi gây hấn, hoặc sáng tạo, chỉ có như vậy thì con người mới vượt qua trạng thái dư thừa về nhu cầu và hài lòng với bản thân.

Freud cho rằng cơ chế tâm- sinh lý này hình thành căn bản từ yếu tố bẩm sinh và sau đó phát triển thành nhân cách hoàn chỉnh ngay trong thời niên thiếu, với những dấu ấn quan trọng từ trải nghiệm cá nhân, gia đình, đặc biệt là mối quan hệ của người con với mẹ, cha mình. Những quan sát tỉ mỉ của Freud về các giai đoạn phát triển tâm lý tình dục của con người thời trẻ[15] đưa ông đến những khái quát táo bạo mà sau này nhiều nhà tâm lý học và phê bình văn học không chia sẻ hoàn toàn: Thứ nhất, rằng sự thất vọng tình dục mà đứa trẻ trải qua trong giai đoạn phát triển tâm lý này, sẽ làm nảy sinh nơi người ấy một trạng thái lo âu (anxiety) kéo dài đến tuổi trưởng thành như một chứng loạn thần kinh,  hay rối loạn tâm thần chức năng;  thứ hai rằng những mặc cảm sẽ nảy sinh từ đó, như mặc cảm Oedipe  (là con trai thường yêu mẹ ghét cha); mặc cảm Electra (Electra complex: con gái thường yêu cha ghét mẹ;)[16] mặc cảm bị thiến hoạn (complexe de castration), có cả nơi hai giới, trước ý nghĩ đối thủ là cha, mẹ của mình gây ra cho mình …Về sau, quan niệm của Freud có ít nhiều thay đổi. Năm 1920, trong công trình Bên kia nguyên lý khoái lạc, Freud cho rằng vô thức và cơ chế tâm lý con người nói chung tiếp tục vận động theo thời gian, với những tác động từ xã hội. Theo ông, dấu hiệu chưa trưởng thành của một con người, một cộng đồng, có thể nhìn thấy nơi việc người ta tiếp tục muốn được dẫn dắt, muốn được tuân phục, ngưỡng mộ một ai đó, như dạng một người cha của xã hội.

Cuộc đời và sự nghiệp của Freud đã tạo nên một sức hấp dẫn lớn. Có hàng trăm bài viết và hàng chục công trình, trong đó có tác giả là nhà văn như Stefan Zweig (Chữa trị bằng tinh thần, Guérison par l’esprit, 1932) ; Thomas Mann (Tự phân tích của Freud và việc phát hiện phân tâm học- Auto-anlyse de Freud et la découverte de psychanalyse, 1998) và nhiều người khác. Dù không phải là nhà văn, năm 1930, Freud nhận được giải thưởng Goethe tại Franfurk. Năm 1936, có trong bài nói chuyện với nhan đề «Freud và tương lai », Thomas Mann cho rằng Freud « tư duy như một nghệ sĩ, cũng giống Schopenhauer, ông như là một nhà văn của Châu Âu ». Marthe Robert thì nhấn mạnh vai trò to lớn của Freud: Cuộc cách mạng phân tâm học (Revolution psychanalytique). Nhưng vào thế kỷ XXI lại  có những công trình phê phán Freud nặng nề : Những lời nói dối của Freud. Lịch sử của một thế kỷ thông tin sai lạc (Mensonges freudiens. Histoire d'une désinformation séculaire, 2002) của Jacques Bénesteau; Sách đen về Freud (Livre noir de Freud, 2005) do Catherine Meyer chủ biên (được đáp trả với Élisabeth Roudinesco: Tại sao nhiều thù hằn vậy ? Giải phẫu cuốn sách đen về phân tâm học (Pourquoi tant de haine ?Anatomie du Livre noir de la psychanalyse, 2005); Hoàng hôn của một thần tượng (Le crépuscule d'une idole, 2010) của Michel Onfray…

Với sự mở đầu của Freud, phân tâm học từ Áo đã lan rộng ra Thụy Sĩ, Đức, Pháp, Anh và Mỹ, năm 1920 trở thành một ngành học mới, và nửa sau thế kỷ XX tiếp tục phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Ở Pháp, các nhà phân tâm học tranh cãi về hệ thống khái niệm cực kỳ phong phú mà Freud đã đề xuất, nhưng vẫn tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt và các nguyên lý nền tảng trong nghiên cứu, trong đạo đức và trong điều trị. Với Jacques Lacan (Pháp, 1901-1981), nhà phân tâm học nổi tiếng là khó đọc,  có nhiều ý kiến phê phán. Ở Anh, có hai xu hướng: xu hướng thứ nhất chủ trương duy trì quan điểm truyền thống của Freud, đại biểu là con gái Freud: Anna Freud (Áo, 1895-1982), xu hướng thứ hai muốn đổi mới học thuyết Freud, đại biểu là Melanie Klein (Áo, 1882-1960).

Nhìn chung, xu hướng đổi mới phân tâm học đã để lại nhiều thành tựu hơn. Các nhà phân tâm học sau Freud đã có sự kế thừa, phát triển, và đổi khác nhất định, tùy theo quan niệm của họ về vai trò của vô thức, đặc biệt là vị trí của libido, cũng như vai trò của giai đoạn đầu đời của con người. Hầu hết đều thừa nhận những đóng góp của Freud, nhưng cho rằng mỗi người có một cơ chế tâm sinh lý riêng (và theo đó có một nhân cách riêng), nhưng cơ chế tâm sinh lý ấy có khả năng vận động, kể cả khi người ấy đã trưởng thành, do sự tương tác, va chạm giữa cá nhân ấy với môi trường như nhà trường, xã hội mà họ đã trải qua.

Trong một hiểu biết giới hạn, bài viết này sẽ giới thiệu đôi nét, theo trình tự xuất hiện, về một số nhà phân tâm học chính xuất hiện sau Freud để hình dung sức sống và con đường phát triển của phân tâm học sau Freud.

Pierre Janet (Pháp, 1859-1947), nhân vật hàng đầu trong ngành tâm lý học của Pháp thế kỷ XIX, người khai sinh khái niệm tiềm thức (subconscient). Trong mô hình vô thức,  Janet dành một vị trí quan trọng cho chấn thương tâm thần, qua bệnh mất trí nhớ, đứt rời với kỷ niệm. Ông có ảnh hưởng lớn ở Mỹ, trong việc điều trị căng thẳng sau chấn thương. Pierre Janet thuộc xu hướng « tâm lý học ứng xử » (psychologie des conduites) là một xu hướng tổng hợp thực nghiệm những lĩnh vực tương ứng như : tâm lý học tri nhận (psychologie cognitive), tâm lý học xã hội (pssychologie sociale), tâm lý học năng động (psychologie dynamique). Janet tập trung vào cảm xúc và chú ý mối quan hệ giữa cảm xúc với hành vi. Ông phản đối việc Freud đặt tính dục vào vị trí hàng đầu như là động cơ chính chi phối con người, gây nên những rối loạn tâm thức. Pierre Janet có các tác phẩm của: Thuyết tự động hóa tâm lý (Automatisme  psychologique, 1889); Từ lo âu đến ngây ngất. Nghiên cứu về tín ngưỡng và tình cảm (De l'Angoisse à l'extase. Études sur les croyances et les sentiments,1926);  Tư tưởng bên trong và  các rối loạn của nó (La Pensée intérieure et ses troubles, 1927); Sự tiến hóa của ký ức và của khái niệm thời gian (L'Évolution de la mémoire et de la notion du temps, 1928);  Sự tiến hóa của tâm lý học về nhân cách (L'Évolution psychologique de la personnalité, 1929)...

Carl Gustav Jung (1875-1961), người cộng sự thân thiết của Freud trong những năm 1909-1913, đã chia sẻ với Freud về tầm quan trọng của giai đoạn đầu đời của con người, nhưng ông sớm tìm những hướng đi khác cho mình. Năm 1913, ông đưa ra khái niệm Tâm lý học phân tích (Psychologie analytique) và vô thức cộng đồng (inconscient collectif). Theo ông,  những vết hằn trong tâm thức của con người thời nguyên thủy vĩnh viễn được lưu giữ lại trong vô thức và chúng đã được thể hiện qua các cổ mẫu (archétype) trong huyền thoại. Nghiên cứu vô thức là dõi theo các biểu tượng lớn mà con người đã tạo lập nên. Quan điểm phân tâm học của Jung có chịu ảnh hưởng ít nhiều triết học phương Đông. Việc mở rộng chiều kích của vô thức, từ cá nhân sang cộng đồng; việc mở rộng phạm vi của vô thức từ tâm sinh lý con người sang văn hóa; việc cắt nghĩa các hiện tượng tâm lý bằng cả yếu tố vũ trụ siêu nhiên…đã làm cho Jung đi rất xa Freud và đó là lý do làm họ bất hòa. Công trình Các hóa thân của tâm hồn và các biểu tượng của nó (Métamorphoses de l’âme et ses symbols) từng bị Freud phê là “dị giáo” (hérésie). Các tác phẩm: Con người và các biểu tượng của con người (L’Homme et ses Symboles); Aïon- Những nghiên cứu trên quan điểm hiện tượng luận về Cái Ấy (Aïon- Etudes sur la phénoménologie du Soi, 1951), Con người trên đường khám phá tâm hồn của chính mình (L'homme à la découverte de son âme) là những tác phẩm cung cấp một cái nhìn trọn vẹn về phân tâm học của C.G.Jung. Những phương diện của thảm kịch hiện tại (Aspects du drame contemporain) là tập hợp các bài viết rải rác từ các năm khác nhau: 1928, 1936, 1945, 1946  và 1958 của Jung. Những gì C. G. Jung nói (C.G. Jung parle) hơn 50 bài về các cuộc trò chuyện rất đa dạng, đã cố gắng khắc họa tính cách và trinh thần của C.G. Jung. Bình luận về cái bí ẩn của đóa hoa bằng vàng (Commentaire sur le Mystère de la Fleur d'Or) là một chuyên luận mang tinh thần thuật giả kim Đạo giáo Trung Hoa.  Thư từ từ 1906-1940 (Correspondance 1906 – 1940. Thư từ từ 1941-1949 thể hiện những suy tư của Jung về thế kỷ XX.

Alfred Adler (Áo, 1870-1937) người từng cộng tác với Freud, sau này cũng đã rẽ đi hướng khác. Nếu Freud cho rằng con người luôn bị dẫn dắt bởi bản năng thì Adler tin vào một bản tính tự do (nature libre), nó giúp con người giải quyết những nghĩa vụ văn hóa mà đời sống đặt ra cho cho họ. Kết quả là Freud và Adler đoạn giao 1911. Adler lập ra trường phái tâm lý học cá nhân (psychologie individuelle). Với công trình Khí chất dễ bị kích động. Các yếu tố của một tâm lý học cá nhân và việc áp dụng vào điều trị tâm lý (Le tempérament nerveux. Éléments d’une psychologie individuelle et application à la psychothérapie), tâm lý học cá nhân đã thâm nhập mạnh vào văn học và sau đó là giáo dục học. Chủ trương của Adler là đưa tâm lý học đến gần với cuộc đời thực tế, cho phép người này hiểu người kia qua tiểu sử rất khác nhau của họ. Do tinh thần lạc quan và tính thực tiễn của tâm lý học cá nhân, từ năm 1926, Adler đã rất thành công ở Hoa Kỳ. Nhiều công trình về sau của ông tập trung nghiên cứu về vai trò dự phòng của giáo dục, và ở đó thể hiện vị thế tư tưởng của Adler. Theo ông, ý nghĩa của đời người là phát triển một tinh thần cộng đồng để giải quyết những vấn đề đời sống, một nỗ lực hoàn thiện để đạt đến một xã hội lý tưởng.  Trong khi xác định mối quan hệ bù trừ giữa thân thể và tâm thức, Adler cũng đồng thời nói lên những tương quan làm nên thái độ của con người giữa cộng đồng qua ba mục tiêu lớn của mỗi người: công việc, tình yêu và xây dựng cộng đồng.  Với những trường hợp bệnh lý, Adler phân tích những câu trả lời sai về các yêu cầu của đời sống, mà nguyên nhân có thể là một mặc cảm tự ti (complex d’infériorité), làm con người có ý chí thể hiện quyền lực và thường phóng đại một số phương diện. Adler có những tác phẩm như: Nhận biết con người. Nghiên cứu về tính tình học cá nhân (Connaissance de l'homme. Étude de caractérologie individuelle, 1949), Ý nghĩa của đời sống. Nghiên cứu về tâm lý học cá nhân (Le sens de la vie. Étude de psychologie individuelle, 1950), Giáo dục trẻ em (1983)…

Otto Rank (Áo-Mỹ, 1884- 1939), học trò của Freud, chú ý nhiều về huyền thoại, tôn giáo, triết học. Đã có những công trình đọc văn học. Hai bài viết của ông Chiêm bao và sáng tạo thi ca (Rêves et création poétique), Chiêm bao và huyền thoại (Rêve et Mythe), năm 1913, được Freud đưa vào sau chương VI cuốn sách Giải thích chiêm bao của mình. Năm 1924, khi công bố Chấn thương đầu đời (Trausmatique de la Naissance), nói về những gì có trước mặc cảm Oedipe,  ông bắt đầu có quan điểm  khác với Freud và bị Freud đoạn giao. Tác phẩm của Otto Rank có: Một đóng góp vào thuyết ái kỷ (Une contribution au Narcissisme, 1911);  Don Juan và cái nhân đôi (Don Juan et le double, 1914), Chấn thương đầu đời (Traumatisme de la naissance, 1924); Viễn cảnh của phân tâm học (Perspectives de la psychanalyse, 1924);  Ý chí của hạnh phúc (La volonté du Bonheur, 1972); Nghệ thuật và nghệ sĩ: tính sáng tạo và sự phát triển của nhân cách (L'art et l'artiste : créativité et développement de la personnalité, 1998)… 

Theodor Reik (Áo- Mỹ, 1888-1969), cũng là người từng cộng tác với Freud. Công trình tiến sĩ của ông về Flaubert, được xem là một trong những luận án đầu tiên vận dụng phân tâm học (1912). Theodor Reik nghiên cứu kỹ về các chứng khổ dâm và bạo dâm và đưa ra nhiều giải thích thuyết phục. Cũng như Adler, T. Reilk làm cho phân tâm học trở thành phổ thông và quen thuộc với mọi người. Các tác phẩm chính của Theodor Reik là: Cần thú nhận (Le besoin d'avouer, 1925), Nghe với cái tai thứ ba (Écouter avec la troisième Oreille, 1948), Trong  sản phẩm Khổ dâm nơi người đàn ông hiện đại (Dans son ouvrage Masochism in Modern Man,1941)…

Marie Bonaparte  (Pháp, 1882-1962), thành viên sáng lập Hội Phân tâm học Paris, và tạp chí phân tâm học Pháp, quan điểm rất gần với Freud và Gustave Le Bon, hoạt động xã hội mạnh mẽ. Bà cho rằng Freud quá tự tín, trong vị thế lý thuyết và trong phương pháp điều trị, đồng thời phóng đại giai đoạn  đầu đời của con người. Với phân tâm học của Jacques Lacan, Marie Bonaparte nói là nó nhuốm màu hoang tưởng (paranoia) và nặng tính ái kỷ (narcissisme), điều này có thể đưa đến việc can thiệp quá sâu vào con người. Tác phẩm của Marie Bonaparte cho thấy phạm vi quan tâm của bà khá rộng rãi : thiên nhiên, xã hội, con người, văn học. Phân tâm học của bà mang đậm nữ tính: Mùa xuân trên khu vườn của tôi (Le Printemps sur mon jardin, 1924); Tang chế, thi hài và chứng bạo dâm. Về trường hợp Edgar Poë (Deuil, nécrophilie et sadisme. À propos d'Edgar Poë, 1932); Edgar Poë, nghiên cứu phân tâm học (Edgar Poë, étude psychanalytique, 1933); Nhập môn vào lý thuyết bản năng (Introduction à la théorie des instincts, 1934); Huyền thoại về chiến tranh (Mythes de guerre, 1947); Tiểu luận về phân tâm học (Essais de psychanalyse,1950),  Độc thoại trước cuộc sống và cái chết (Monologues devant la vie et la mort, 1950); Mót nhặt những ngày (Les Glanes des jours,1950); Về tính dục nữ (De la sexualité de la femme, 1977)…

Melanie Klein (Áo- Anh, 1882- 1960), chuyên gia về tâm lý học trẻ em. Thuộc xu hướng Lý thuyết về quan hệ đối tượng (Object relations theory). Có ảnh hưởng lớn ở Anh, Mỹ trong lý thuyết và kỹ thuật phân tâm học. Về căn bản, Melanie Klein tuân thủ các khái niệm chủ đạo của Freud, nhưng trong trải nghiệm lâm sàng, đặc biệt với đối tượng trẻ em, bà tìm ra các phương thức trị liệu đặc thù, xem trò chơi và đồ chơi, như là điều kiện để đưa đến “hợp tác tự do”. Tiếp tục nhấn mạnh vai trò của cha mẹ trong việc hình thành nhân cách của trẻ, nhưng Melanie Klein cho rằng thời điểm xuất hiện siêu ngã (superego) và mặc cảm Œdipe có thể sớm hơn, ngay từ khi trẻ mới sinh ra. Khác với xu hướng Freud, Melanie Klein tập trung phân tích sâu cảm xúc và tưởng tượng. Những khác biệt này đã làm bùng nổ một cuộc tranh luận trong năm 1940 ở Anh, giữa hai xu hướng, sau đó hình thành ba đơn vị đào tạo riêng biệt: một của Klein, hai của Anna Freud, và ba là trung lập. Tác phẩm của Melanie Klein được đưa vào một bộ tuyển tập: Love, Guilt and Reparation: And Other Works 1921–1945, The Psychoanalysis of Children; Envy and Gratitude, Narrative of a Child Analysis

Charles Baudouin (Pháp-Thụy Sĩ, 1893-1963), khởi đầu từ văn học, Baudouin đi  theo con đường của Freud và Jung, tập trung vào điều trị trẻ em. Công trình Từ bản năng đến tinh thần (De l'instinct à l'esprit) mở ra một hướng riêng của Baudouin.  Ông  chú ý các xu hướng khác của xung năng, xác lập các mặc cảm mới, các xung đột bên ngoài và bên trong tâm thức. Ông khai sinh thuật ngữ  psychagogie và  đề xuất ba cấp độ tâm lý, tương ứng với ba phương pháp, tùy theo mức độ tham gia của vô thức: cấp độ thứ nhất, là từ ý thức đến ý thức (thực hiện ý thức một tư tưởng ý thức có trước): đây là phương pháp giáo dục và các  hoạt động thuộc về tư tưởng, ý chí, hành động,  dùng điều trị hỗ trợ tâm lý và  nhận thức  hành vi; cấp độ thứ hai là từ ý thức đến vô thức (thực hiện vô thức một tư tưởng ý thức có trước): đây là phương pháp gợi ý và tác động của gợi ý hồn nhiên,hoặc được dẫn dắt theo một quá trình thôi miên; cấp độ thứ ba, từ vô thức đến vô thức (thực hiện vô thức của một tư tưởng vô thức có trước): đây là phương pháp phân tâm học. Đặc biệt, Baudouin thiết lập một mô hình tâm thức mới hình tam giác gồm 7 thành phần, ở đó, có ba thành phần của Freud: cái nguyên thủy (primitif tức là cái ấy), cái tôicái siêu tôi;  kết hợp với ba thành phần của Jung: nhân cách (persona), cái bóng (ombre), cái mình (le soi) và một thành phần của chính ông: máy tự động (automate). Trong mô hình này, Baudouin còn xác định ba lĩnh vực: trên đỉnh là tinh thần (secteur spiritual), góc dưới trái là sinh học (secteur biologique),  góc dưới phải là xã hội (secteur social); và ba tầng vỉa có kích thước bằng nhau: vỉa trên cùng là tâm (coeur) có cái mình; vỉa ở giữa là tinh thần (esprit)  gồm cái tôi, bóng và cái siêu tôi; vỉa dưới cùng là thân thể (corps) gồm cái ấy, nhân cách và máy tự động. Theo Baudouin, Tùy theo sự đối lập, hòa hợp hay bổ sung của các yếu tố này mà hệ thống tâm thức cân bằng hay xung đột. Baudouin đã đọc nhiều tác giả văn học và có những công trình phê bình văn học đáng chú ý: Romain Rolland bị vu khống (Romain Rolland calomnié, 1918);  Tolstoï nhà giáo dục (Tolstoï éducateur,1921); Biểu tượng nơi Verhaeren (Le Symbole chez Verhaeren, 1924), Blaise Pascal hay mệnh lệnh của trái tim (Blaise Pascal ou l’ordre du cœur,1962); Jean Racine, đứa con của sa mạc (Jean Racine, l'enfant du desert,1963). Công trình Phân tâm học về nghệ thuật (Psychanalyse de l’art, 1929) và Nhập môn phân tích chiêm bao (Introduction à l’analyse des rêves, 1942) của ông là một kết hợp khéo léo những thành quả lớn của Freud và Jung để mở rộng phạm vi khám phá của phân tâm học, đi từ vô thức cá nhân đến vô thức tập thể, từ các mặc cảm đến các cổ mẫu, mà theo ông, vốn có thể ẩn tàng trong cùng một tác phẩm. Ngoài ra, Baudouin còn làm công việc phân tích xâu chuỗi đối chiếu một lúc nhiều văn bản của cùng một tác giả: có lẽ, phương pháp này của ông đã mang lại những gợi ý cho Mauron về phương pháp chồng văn bản (supposition).

Anna Freud (Áo- Anh, 1895-1982), con gái của S. Freud, người tiếp tục con đường của cha bằng những bổ sung về nghiên cứu tính dục nữ giới, phân tâm học trẻ em và lặng lẽ tìm những hướng rẽ khác cho mình. Có tinh thần mô phạm, Anna Freud đòi hỏi những nguyên tắc nhất định. Trong Nhập môn vào tâm lý học trẻ em (Introduction à la psychologie des enfants, 1927), Anna Freud khẳng định nguyên tắc phân tâm của mình là thiết lập một chuyển giao tích cực, bảo đảm vai trò sư phạm và giáo dục khi tiến hành phân tâm trẻ em, khác với Melanie Klein là ủng hộ trò chơi, một hình thức hợp tác tự do vốn đã được Freud tiến hành cho người lớn. Khác với cha mình, bà xem hiện tượng đồng tính là lệch lạc, bệnh hoạn. Xu hướng mà Anna Freud nghiên cứu được gọi là Tâm lý học về cái tôi (hay Tâm lý học bản ngã: Psychologie du Moi, Ego psychology).

Wilhelm Reich (Áo –Mỹ, 1897-1957), người cộng sự của Freud. Đã góp vào phân tâm học một số tìm tòi riêng, về sau có nhiều yếu tố thần bí, gây khá nhiều tranh cãi như : kết hợp lý thuyết phân tâm học và lý thuyết Marxisme; coi trọng cơ chế sinh học ; đề xuất khái niệm orgastic, orgone như là một tiềm năng sống, hay nói khác đi là nguồn khí lực giúp con người đạt được sự thăng bằng. Phân tích chứng nhiễu tâm, W. Reich, cắt nghĩa bằng các yếu tố: cơ chế sinh học, xung năng tính dục, hoàn cảnh xã hội và sự thiếu hụt tiềm năng  sống.  Ông tập trung nghiên cứu về trạng thái thỏa mãn tính dục của con người, phân tích  chức năng của cực khoái (fonction de l’orgasme). Có nhiều tác phẩm : Phân tích tính cách (Character Analysis, 1933) ; Chủ nghĩa duy vật biện chứng và phân tâm học (Matérialisme et psychanalyse, 1933) ; Cuộc đấu tranh tình dục của thanh niên (La Lutte sexuelle des jeunes) ; Sự bùng nổ của luân lý tình dục (L’irruption de la morale sexuelle) ; Tâm lý đám đông và chủ nghĩa phát xít (The Mass Psychology of Fascism, 1946); Hãy nghe đây, con người nhỏ bé! (Listen, Little Man!,1948)…

Georges Devereux (Pháp –Mỹ, 1908 - 1985), người sáng lập phân tâm học tộc người (ethnopsychanalyse), gần với trường phái Chicago và tâm lý học bản ngã (ego- psychology). Xem mặc cảm Œdipe là phổ quát, Devereux cho rằng con người không chỉ hình thành với nền văn hóa của mình mà là kết tinh của nhiều nền văn hóa. Do vậy, tiếp cận phân tâm học của ông luôn đặt trên cái nhìn xuyên văn hóa kết hợp nhân học và phân tâm học. Trong tác phẩm Từ lo âu đến phương pháp (De l’angoisse à la methode, 1967), Devereux nói đến khoa học về ứng xử (sciences du comportement) và  cho rằng các phương pháp phân tâm học cổ điển là phản tác dụng, do tập trung quá mức vào một điểm. Tác phẩm của Georges Devereux: Trị liệu tâm lý một người Ấn vùng đồng bằng : thực tế và chiêm bao (Psychothérapie d'un indien des plaines : réalités et rêve, 1951), Bi kịch và thơ ca Hy Lạp (Tragédie et Poésie grecques), Những giấc mơ trong bi kịch Hy Lạp (Les Rêves dans la tragédie grecque), Phụ nữ và huyền thoại (Femme et mythe)…

Erich Fromm (Đức- Mỹ, 1900-1980), một trong những người sáng lập trường phái Frankfurt, từng làm việc với Freud. Chủ trương dung hợp phân tâm học với Marxisme và Thiền học, Fromm nối tiếp Freud cái tinh thần khám phá “sự thật” trong thế giới nội tâm của từng cá nhân, nhằm giải thoát chính mình, đạt đến tự do. Với Erich Fromm, những truy vấn về tình yêu và tôn giáo trong chiều hướng phân tâm học, đã đưa lý thuyết này vượt khỏi ấn tượng về định mệnh, khỏi các rào cản của văn hóa, của Đông- Tây, chạm đến những khát vọng đẹp đẽ nhất của nhân loại: hiểu biết, yêu thương, giảm thiểu khổ đau, có khả năng tự chủ và được chịu trách nhiệm về chính mình. Những tiêu điểm phân tâm học của Freud như: vô thức, xung năng tính dục, về mặc cảm Œdipe …được Fromm nhìn nhận lại. Những luận điểm mới của Erich Fromm là: (1) mặc cảm Œdipe không mang tính phổ quát; (2)  việc điều trị bệnh nhân có thể kết hợp nhiều yếu tố khác, ngoài lời nói, đặc biệt, chú ý thế giới bên ngoài;(3) cần chống lại nỗi sợ tự do (peur de la liberté) trong chính mình; (4) xác lập sự hợp nhất với vũ trụ để có được cái tự do tích cực (yêu thương, tin cậy, sáng tạo) đẩy lùi nơi mình cái tự do tiêu cực (thù hận, nghi ngờ, hủy diệt)… Trong tương thông con người, Fromm đề cao sự sáng rõ và dễ hiểu, vì vậy, ông phản đối việc Jacques Lacan đã dấn quá sâu vào trò chơi từ ngữ với các ẩn dụ bí hiểm, làm nên mê cung của ý nghĩa.  Ca ngợi phương Đông, đặc biệt là Thiền học, Fromm luôn tra vấn lại di sản tư tưởng phương Tây và nêu ra những nhược điểm của xã hội hiện đại. Tác phẩm Xã hội bị tha hóa và xã hội lành mạnh- Từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội nhân văn. Phân tích tâm lý xã hội đương đại) (Société aliénée et société saine- Du capitalisme au socialism humaniste. Psychanalyse de la société contemporaine, 1971) thể hiện rõ quan điểm chính trị của Fromm. Công trình Sở hữu hay Tồn tại (Avoir ou Être, 1978), nói lên sự tráo đổi các giá trị trong xã hội tiêu thụ và sự lạc hướng của nhân loại trên con đường làm người. Tác phẩm Hy vọng và Cách mạng. Về việc nhân văn hóa kỹ thuật (Espoir et Révolution. Vers l'humanisation de la technique, 1981) như là di chúc của Fromm gửi lại hậu thế.  Tư tưởng rộng rãi, khoan hòa và việc đề cao trải nghiệm  là nét đặc biệt của Fromm, đã làm ông  không bị khuôn vào trong bất kỳ lý thuyết cố định nào.

Jacques Lacan (Pháp, 1901-1981): là người đặc biệt trung thành với Freud, đã diễn dịch lại các khái niệm của phân tâm học Freud theo một tinh thần mới, nhấn mạnh quy luật và quyền năng của ngôn ngữ trong vô thức, đẩy mạnh phân tích cấu trúc. Có thể nói, Jacques Lacan là nhân vật thứ hai, sau Freud, khơi sâu dòng lý thuyết phân tâm học theo cảm hứng khám phá mê cung. Và tính rối rắm phức tạp cũng như sự xác tín khá độc đoán của Lacan, giống Freud, cũng đã tạo ra những tranh cãi trong giới phân tâm học. Dù tuyên bố rõ: «Tôi là người theo Freud », nhưng Lacan cũng đã làm nên danh tính cho lý thuyết của riêng mình: Lacanisme, và cùng với nó là nhiều khái niệm và luận điểm mới. Kế thừa thành quả của ngôn ngữ học và cấu trúc luận, Lacan phát triển, làm sáng tỏ những hiện tượng mà Freud từng khơi gợi như : nói nhịu (lapsus), trò chơi chữ ; đồng thời triển khai kỹ bốn khái niệm nền tảng của Freud: vô thức, xung năng, sự chuyển dịch sự lặp lại. Nhưng nếu Freud cho rằng vô thức có trước ngôn ngữ thì Lacan lại xác định ngôn ngữ xuất hiện cùng thời hoặc có trước vô thức, quy định vô thức: “vô thức không chỉ được cấu trúc như một ngôn ngữ, mà nó còn là sản phẩm của ngôn ngữ ». Luận điểm này bị một số nhà phân tâm học phê phán, trong  đó, có Jean Laplanche. Quan niệm «vô thức là kết quả của sự cấu trúc hóa ham muốn bằng ngôn ngữ », của Lacan cho thấy ông có cái nhìn khác với Freud  về vô thức, rằng nơi ấy chứa chất một khối hỗn độn các nhóm bản năng bị dồn nén. Người ta gọi phân tâm học của Lacan là Lý thuyết cấu trúc của ham muốn và của ngôn ngữ (une théorie structurale du désir et du langage). Cũng như Freud, Lacan tập trung nghiên cứu giai đoạn đầu đời của con người, từ đó ông đề xuất khái niệm giai đoạn gương  (stade de miroir), để nói lên diễn trình ý niệm và ngôn ngữ của con người về chính mình và về tương quan của mình với kẻ/ cái khác. Theo ông, giai đoạn gương của con người chia làm ba chặng:  (1) Tưởng tượng (Imaginaire): Thời kỳ tiền ngôn ngữ (6-18 tháng tuổi), cảm thức về người mẹ và người khác, chưa hoàn chỉnh; (2)  Biểu tượng (Symbolique): Thời kỳ bước vào ngôn ngữ, chú ý đến bố như là đại biểu của các chuẩn mực, lề luật, ngôn ngữ và quyền lực (biểu tượng là phallus); (3) Thực tế (Réel): Thời kỳ hòa giải và đấu tranh để giải phóng năng lượng, lấy lại bản ngã. Tác phẩm của Lacan rất kén người đọc: Rối loạn tâm thần hoang tưởng trong tương quan với nhân cách (De la psychose paranoïaque dans ses rapports avec la personnalité, 1932);  Bốn khái niệm nền tảng của Phân tâm học (Les quatre concepts fondamentaux de la psychanalyse, 1964); Ngôn ngữ của tự ngã: Chức năng của ngôn ngữ trong phân tâm học (La langue du Soi: La fonction du langage en psychanalyse, 1968); Một phương diện khác của Phân tâm học (L'autre côté de Psychanalyse, 2007)…

Jean Laplanche (Pháp, 1924- 2012): người từng cộng tác và sau đó đối trọng với Jacques Lacan, đã đề xuất lý thuyết của sự quyến rũ khái quát hóa (Théorie de séduction généralisée) trong công trình Một nền tảng mới cho phân tâm học, 1987). Năm 1960, Jean Laplanche phê phán luận điểm « ngôn ngữ được cấu trúc như một ngôn ngữ » của Jaques Lacan, cho là đi sai tinh thần của S. Freud. Tác phẩm chính của Laplanche có: Vốn từ phân tâm học (Vocabulaire de la psychanalyse, 1967) ; Hölderlin và vấn đề người cha  (Hölderlin et la question du père, 1961) Vô thức, một nghiên cứu phân tâm học (L'inconscient, une étude psychanalytique, 1960); Sự sống và cái chết với phân tâm học (Vie et mort en psychanalyse), Vấn đề I: Lo âu (Problématiques I : L'angoisse) Vấn đề II: Thiến hoạn và biểu tượng hóa (Problématiques II: Castration, symbolisations); Vấn đề II: Thăng hoa (Problématiques III : La Sublimation); Vấn đề IV: Vô thức và cái ấy (Problématiques IV : L'Inconscient et le ça)…

Qua những khuôn mặt lý thuyết gia trên đây, có thể thấy phân tâm học trải qua hai giai đoạn: giai đoạn phân tâm học truyền thống, từ 1895 đến 1945 ;  giai đoạn phân tâm học hiện đại và hậu hiện đại, từ 1945- nay; với ba thế hệ nhà nghiên cứu : thế hệ thứ nhất, đại diện là  Freud và Jung; thế hệ thứ hai, có Erich Fromm, Melanie Klein; thế hệ thứ ba có Jacques Lacan, Jean Laplanche…

Người ta gọi phương pháp phân tâm học của Freud là phương pháp diễn dịch: dùng con người và các văn bản khác như là phương tiện để chứng minh cho luận điểm lý thuyết của mình. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng phân tâm học Freud đã đưa ra nhiều quan điểm có tính chất quyết định luận (deterministe), bản thân Freud cũng đã khái quát hóa cao một số hiện tượng tâm lý, biến chúng nó thành bản chất phổ quát của con người. Nhưng sự vận động của phân tâm học, qua nhiều ngả rẽ khác nhau (kể cả với con gái của Freud là Anna Freud),  đã cho phép chúng ta tin vào tính năng động của phân tâm học nói chung. Vì sao phân tâm học năng động ? Bởi vì lý thuyết này luôn tiếp tục được triển khai trên những điều trị lâm sàng. Các quan sát, phân tích và tự phân tích từng trường hợp (con người và văn bản) cụ thể là trải nghiệm thực tế phong phú, mang lại sinh khí mới cho lý thuyết phân tâm học.

Không chỉ mở ra một cánh cửa lớn trong việc khám phá con người và tham gia vào đời sống học thuật với tư cách là một lý thuyết, phân tâm học đã đi vào đời sống văn học với tư cách là một một trường phái phê bình, đồng thời để lại nhiều dấu ấn trên phương diện sáng tác. 

Trên bình diện thực tiễn, mối quan hệ giữa phân tâm học và văn học là lâu dài, phong phú và phức tạp. Nếu cho là vô thức là một yếu tố có ở con người từ khi mới sinh ra, thì khả năng là rất nhiều tác phẩm của nhân loại từ khởi thủy đến nay là sản phẩm của vô thức và như vậy chúng là đối tượng nghiên cứu của phân tâm học. Chúng ta đã thấy Freud là người đọc văn học theo tinh thần ấy, qua một số tác phẩm kinh điển.

Về phương diện sáng tác, trong phạm vi phân tâm học, sẽ có hai loại đối tượng: một nhóm đối tượng có trước/ hoặc chưa tiếp xúc với phân tâm học, được viết hồn nhiên, chúng ta gọi đó sáng tác tự phát; một nhóm đối tượng viết sau/ và tiếp xúc với phân tâm học, chúng ta gọi đó là sáng tác tự giác.

Nhưng  hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học thì lại khác. Nghiên cứu, phê bình theo tinh thần phân tâm học thì chỉ xuất hiện từ khi có phân tâm học, khi người viết đã được tiếp xúc với lý thuyết này và đã vận dung nó để khám phá những hiện tượng văn học. Ranh giới giữa nghiên cứu và phê bình cũng có tính tương đối. Nói chung, ở đây, khi nói nghiên cứu, chủ yếu sẽ  là nghiên cứu về lý thuyết phân tâm học, về phê bình phân tâm học; còn phê bình thì chủ yếu là tập trung vào phân tích tác giả và tác phẩm văn học trên tinh thần và phương pháp của phân tâm học.

Sau đây chúng ta sẽ dõi theo hành trình phân tâm học đi vào văn học, hay nói khác đi là phân tâm học được ứng dụng như thế nào vào văn học. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những ứng dụng trong nghiên cứu, phê bình văn học.

Phê bình phân tâm học

Đọc và giải thích phân tâm học

Trong phân tâm học và phê bình phân tâm học, việc đọc và giải thích là hai hoạt động cực kỳ quan trọng.  Đọc phân tâm học là một khái niệm mới trong nhiều khái niệm mà phân tâm học mang tới, nhằm nhấn mạnh tính chuyên biệt của phương pháp. Đọc phân tâm học là một trải nghiệm đặc thù, ấy là đọc giải thích.  Việc giải thích là quan trọng, bởi vì tất cả diễn ngôn (người bệnh và văn bản) đều khó hiểu, đó là nơi tập hợp các quá trình, các ý nghĩa của vô thức và ý thức. Khi giải thích cần thu nhặt tất cả những chỉ  báo chưa biết, thoáng thấy hay bị bỏ qua, sau đó lựa chọn các chỉ báo quan trọng và phân tích chúng trong mối quan hệ với nhau.  Phê bình phân tâm học là một loại phê bình giải thích, nên cách đọc phân tâm học là dõi theo những cái hữu hình và vô hình từ văn bản, khám phá ra những bí ẩn của nó. Các nhà phân tâm học ví von văn bản với hình tượng trong tấm thảm. Theo họ, giống như người thợ thủ công làm nên tấm thảm, nhà văn dệt nên văn bản của mình bằng những sợi ngang và sợi dọc. Sợi dọc vẽ nên hình ảnh hữu hình theo ước muốn của nhà văn. Sợi ngang thì lại vẽ nên những hình ảnh vô hình không chủ ý. Hình tượng ẩn dấu trong những chỗ giao nhau của sợi, làm nên cái bí mật của tác phẩm (đối với tác giả của nó và với người đọc). Hình tượng ẩn dấu là cái bẫy đối với nhà giải thích, vì chúng có thể ở khắp nơi và không ở nơi nào cả. Trong thực tế, nơi văn bản có một phức hợp các hình tượng. Lúc người đọc tưởng chừng văn bản chấm dứt, lại là lúc những biến hóa vô tận nảy sinh. Như vậy, thế giới của văn chương có biết bao lời mời gọi, từ trí tưởng tượng, lời nói, đến hoạt động của người đọc và người thưởng ngoạn. Trong khi tiến hành giải thích, các nhà phê bình phân tâm học phải chỉ rõ các chọn lựa, mục tiêu, và phương pháp của mình, với từng trường hợp một. Các nhà phê bình phân tâm học cần ý thức mình là một bộ phận của phê bình và phải thừa nhận những giới hạn của phương pháp mình trong mối quan hệ với những dạng phê bình khác; nhờ thế mới có thể thoát khỏi sự giáo điều. Phê bình phân tích là một trải nghiệm vận động, nhưng sự chuyển hoá này không liên quan đến cấu trúc của tác giả, cấu trúc của tác phẩm mà chỉ liên quan đến cấu trúc của tác phẩm được đọc. Từ đó, có rất nhiều tình huống đọc. Khởi đi từ gợi ý của điều trị lâm sàng bệnh tâm thần, nhưng việc đọc văn học theo phân tâm học rất khác với việc điều trị. Lời nói của người bệnh chỉ gắn với một cá nhân, hoàn toàn riêng tư, và lộn xộn nhưng văn bản văn học thì có nhiều yếu tố chung và được sắp xếp theo một logic nào đó. Giữa nhà phân tâm và bệnh nhân có một tiếp xúc trực tiếp, giữa người đọc và nhà văn là tiếp xúc gián tiếp, có khoảng cách. Mong đợi của nhà phân tâm khác với mong đợi của người đọc. Tóm lại, phê bình phân tâm học phải chú ý hơn về tính chuyên biệt của văn bản văn chương, về tính chuyên biệt của sản phẩm và về tính độc đáo của những quan hệ liên chủ thể nối kết xung quanh nó. Việc thay đổi không ngừng những cách giải thích của nhà phê bình cũng đáp ứng một thực tế hiển nhiên là: không một lời giải thích nào có thể vét cạn tiềm năng ý nghĩa của một lời nói, của một con người, của một trí tưởng tượng cụ thể. Tác phẩm văn chương không phải là triệu chứng, cũng không phải là ngôn từ qua phân tích, nó mang đến cho chúng ta  hình thức tượng trưng hoá cho một phương diện tâm lý vô thức của chúng ta, đến bất ngờ từ tác phẩm. Chức năng trung gian là bản chất của tác phẩm văn chương: nó chỉ có thể hoàn tất nếu nó sống được, nghĩa là nó được đọc, và bằng một cách đọc mang tính đối thoại với văn bản, bất chấp những khoảng cách văn hoá và lịch sử.  

Theo Freud, có hai cấp độ nhận thức. Một là, các nhà văn “tự giới hạn trong việc trình bày”, ấy chính là chỗ để nhà phân tâm học “phát hiện”. Hai là có những nhà văn không ý thức hết những gì mình viết, nhưng cũng có người sắp đặt kiến thức của mình. Đi theo bước của Freud, nhà phân tâm coi ông như là “sự quan sát có ý thức những diễn trình tâm lý thông thường nơi người khác, để có thể đoán ra và trình bày những quy luật”. Tinh thần tự phân tích mờ nhạt đi: có người tìm hiểu và kẻ khác là đối tượng của tri thức.

Trong phê bình phân tâm học rất thường xảy ra hiện tượng đồng nhất một nhân vật hư cấu với một “con người thật”, hoặc đi đến kết luận trực tiếp về một tác phẩm với bệnh lý của nhà văn. Freud (Gradiva) và Lacan (Lá thư bị đánh cắp) đôi khi cũng lúng túng trước tình trạng này trong việc đọc của chính mình. Để phân biệt, cần chú ý tính chất cách điệu hoá như là yêu cầu tất yếu của văn chương, trong khi câu chuyện của người bệnh lại hoàn toàn không cần điều này. Hơn nữa, tác phẩm văn chương còn giúp người đọc thanh lọc và tự nhận thức. Ngoài ra, từ độ chênh mỹ học (giữa văn chương và thực tế) giúp người phân tích tránh được những quy chiếu trực tiếp với hiện thực.

Các xu hướng phê bình phân tâm học:

Phê bình phân tâm học tiểu sử (Psychobiographie)

Phân tâm học tiểu sử là một phương pháp của phân tâm học và của phê bình văn học. Các nhà phân tâm học tiểu sử dùng cuộc đời của đối tượng nghiên cứu, để giải thích động cơ đằng sau một số các hành vi và trang viết của họ. Những nhân vật có tác động lớn đến xã hội (vừa tích cực, vừa tiêu cực) là đối tượng phổ biến của phân tâm học tiểu sử: Sigmund Freud, Carl Gustav Jung, Vincent van Gogh, William Shakespeare, Martin Luther King, Jr., Abraham Lincoln, Elvis Presley, Søren Kierkegaard, Friedrich Nietzsche, Adolf Hitler…

Các nhà phân tâm học tiểu sử thường tập trung vào một số sự kiện đặc biệt trong cuộc đời nhà văn, nhất là xảy ra vào thời thơ ấu, đôi khi phải truy nguyên gia phả họ hàng, và đối chiếu với hành vi, sự nghiệp, tính cách, từ đó dõi theo diễn trình vô thức của người ấy.

Đề cập đến vấn đề chủ thể sáng tạo, phê bình phân tâm học dùng những khái niệm vô thức và xung đột tâm lý soi sáng sự ra đời và vận động của lịch sử của cá nhân, của hoạt động sáng tạo, của tác phẩm, khác với những phương pháp phê bình trước đây.

Khái niệm Phân tâm học tiểu sử (psychobiography) được khai sinh bởi Dominique Fernandez (Pháp, 1929-) trong công trình Sự thất bại của Pavese[17] (L’échec de Pavese, 1967), nhưng hoạt động phân tâm học tiểu sử đã có từ trước đó khá lâu. Công trình Leonardo da Vinci -Một ký ức tuổi thơ (Leonardo da Vinci -A Memory of Childhood, 1910) của Freud, được xem như là sự đổi mới của phương pháp đọc tiểu sử, nhưng trước đó và cùng thời gian ấy, cũng đã có nhiều công trình đã dùng cách tiếp cận này: Karl Abraham (Đức, 1877-1925) với công trình Giovanni Segantini (1911); Max Graf (Áo, 1873-1958) với Richard Wagner (1911); Moris J. (Karpas, với Socrates (1915); Joseph Wood Krutch (Mỹ, 1893 -1970) với Edgar Allan Poe : nghiên cứu về một thiên tài (Edgar Allan Poe: A Study in Genius, 1926).

Từ năm 1930 trở về sau, phân tâm học tiểu sử bùng phát với vô số công trình viết về các nhân vật trong nhiều lĩnh vực: Tolstoy, Dostoevsky, Molière, Goethe, Coleridge, Nietzsche, Poë, Rousseau, Caesar, Lincoln, Napoléon, Darwin, và Alexander Đại đế, Henry James, Isaac Newton, Mohandas Gandhi, Max Weber, Emily Dickinson, Beethoven …Theo  William M. Runyan, kể từ năm 1910 đến 1988, đã có hơn 4000 công trình phân tâm học tiểu sử xuất bản[18].

Dù vậy, những công trình có đóng góp thực sự cho phân tâm học nói chung, và phê bình phân tâm học, nói riêng, cũng không nhiều. Các nhà nghiên cứu thường nhắc đến công trình Sự thất bại của Baudelaire (L’Échec de Baudelaire, 1931) của René Laforgue ; Edgar Poë (1933) của Marie Bonaparte,; Tuổi trẻ của André Gide (1956) của  Jean Delay; Hölderlin hay vấn đề của người cha (Hölderlin et la question du père, 1961) của Jean Laplanche…

Trong Sự thất bại của Baudelaire, Laforgue tập trung tìm trong tiểu sử những dấu vết gây chấn thương cho nhà thơ: mồ côi cha, mẹ tái giá. Theo ông, trong Baudelaire vừa có mặc cảm Œdipe, vừa có biểu hiện bạo dâm và khổ dâm. Thơ của Baudelaire là tiếng nói của một nhân cách không toàn vẹn.

Edgar Poë  được Freud viết Lời nói đầu “Nghiên cứu những quy luật tâm lý con người trên những cá nhân ngoại lệ”, ở đây ông đã phác ra nền tảng cho cách đọc phân tâm học tiểu sử. Marie Bonaparte đi tìm cấu trúc chung cho nhiều tác phẩm của Edgar Poë, đồng thời phân tích những hạt nhân kỳ ảo phức tạp làm nổi lên những dạng thức khác nhau của một xung đột tâm lý diễn ra trong tưởng tượng, trong việc sáng tác và trong biểu tượng của những văn bản khác nhau của cùng tác giả, cuối cùng bà nhận ra rằng tác phẩm của Edgar Poë thường xoay quanh chứng loạn dâm tử thi.

Jean Delay (Pháp, 1907-1987) là một chuyên gia về André Gide. Trong Tuổi trẻ của André Gide, ông giới thiệu kỹ về tiểu sử nhà văn, ghi nhận là Gide đã xoáy rất sâu vào vấn đề cá nhân“đặt một vấn đề riêng tư đến nỗi là vấn đề thôi không còn gì để thêm nữa của con người, ấy là vấn đề cái bản thể và cái bề ngoài”, và tiểu thuyết gia đình của ông dung chứa nhiều dấu vết vô thức hình thành trong tương quan cha mẹ và con cái. Trong công trình Tiền ký ức (Avant-Mémoire, bốn tập, 1979-1986), ông tìm hiểu gia đình bên ngoại của Gide; tiểu luận “Tâm thần và tâm lý của “Kẻ vô luân” (Psychiatrie et psychologie de L’Immoraliste) đã phân tích sâu tác phẩm, tìm ra chứng bệnh ái kỷ trong Gide.

Hölderlin hay vấn đề của người cha  phát hiện  nỗi bất lực trong nhà thơ này đã làm nên ở ông những cơn điên rồ là chứng tâm thần phân liệt.

Trong Thời thơ ấu cuả nghệ thuật. Một giải thích mỹ học của Freud  (L'Enfance de l'art. Une interprétation de l'esthétique freudienne, 1970), Sarah Kofman (Pháp, 1934-1994) đã xác định là phê bình phân tâm học tiểu sử  mang tính quyết định luận, nhiều dự định phê bình phân tâm học tiểu sử được triển khai dưới ánh sáng của thuyết nhân quả. Bà đối lập phân tâm học tiểu sử với một mô thức khác của tính nhân quả,  làm nên cấu trúc của tác phẩm từ tấn kịch tâm lý,  và cũng làm nên cấu trúc tượng trưng từ tác phẩm và hình thành sự soạn thảo từ tấn kịch này. Tóm lại, theo bà, “tác phẩm sinh ra người cha của nó”.

Với phê bình phân tâm học tiểu sử, tự truyện là một thể loại được chú ý. Theo M. Martini, Philippe Lejeune (Pháp, 1938-) là người mở đường cho việc nghiên cứu tự truyện. Trong Thỏa ước tự truyện (Le Pacte autobiographique, 1975), Lejeune  đặt ra hai vấn đề căn bản: vấn đề về sự thực của hồi ký và vấn đề của diễn ngôn.

Khái niệm “ký ức-màn hình” (mémoire- écran) của Freud, được Lejeune sử dung xuyên suốt trong công trình. Những phân tích của Lejeune cho thấy « ký ức này là một sự hình thành mang tính thoả hiệp giữa sự dồn nén và sự kháng cự, là sự tích tụ chung quanh một nội dung tưởng như không quan trọng nhưng hiệu quả tác động rất mạnh, bằng những chi tiết thực và ảo thuộc về những giai đoạn khác nhau của thời thơ ấu. Như vậy sự thực của hồi ức không phải là sự thực sự kiện mà là sự thực tâm lý. Cách viết tự truyện là tái hiện lại một tuổi thơ và một lịch sử bằng cách sắp xếp tất cả thành câu chuyện, theo dòng đời của chúng ta. Như vậy khi tháo gỡ cấu trúc của nó, cần trải qua sự phân tích hệ thống văn bản, vì đời sống ở đây bắt đầu từ văn bản »

Lejeune, từ những tương quan giữa nội dung tự sự với chủ thể được kể và chủ thể kể, phân tích công việc của chủ thể viết, giữa tưởng tượng và ngôn từ. Những nghiên cứu mới nhất này ghi nhận những thay đổi của cách đọc phân tích chú ý đến bản thân cách viết[19].

Nói chung, dù khác nhau về nội dung phán đoán, những ý kiến trên vẫn nằm trong mục tiêu và phương pháp truyền thống.

Charles Mauron (Pháp, 1899-1966), phê bình phân tâm học và phương pháp «chồng văn bản»

Có thể nói, với Charles Mauron phê bình phân tâm học chuyển sang thời kỳ hiện đại và tính chuyên nghiệp của phương pháp này ngày càng rõ.

Mauron xem tác phẩm văn chương là  tâm điểm mà ông say mê đọc và tiến hành công việc phê bình của mình. Không ngừng xác lập công cụ phân tâm cho công việc phê bình, nhưng phân tâm học với Mauron, không bị công cụ hóa mà là như một sự có mặt tất yếu trong phương pháp.

Năm 1938, Mauron đọc những bài thơ của Mallarmé, bằng cách soi sáng lần lượt từ văn bản này đến văn bản khác. Phát hiện những hệ thống của ẩn dụ ở đó, Mauron nhận ra rằng, hình như chỉ có những nguyên lý của Freud về giải thích giấc mơ mới cho phép ông đi xa hơn trong việc thấu hiểu tác phẩm và những bất trắc cốt tử của nó. Và chính trong khi mò mẫm, ông đã sáng tạo ra phương pháp cùng với các khái niệm phê bình của mình.

Vào năm 1948, Mauron sáng tạo thuật ngữ “phê bình phân tâm học”  (psychocritique) để nhấn mạnh tính tự trị của một phương pháp cần tinh luyện “những công cụ riêng” tùy theo mục tiêu của nó, như một sản phẩm thẩm mỹ. Người ta có thể nói rằng Mauron là người duy nhất đã phát minh một phương pháp khoa học đặc thù, trên tinh thần “hoà nhi bất đồng”, với những phương thức thực hành phân tích khác trước. Những công trình của ông thật đáng chú ý: Mallarmé, Racine, Baudelaire, Molière, Valéry, Hugo…

Để không biến thành những công thức vô hiệu, phương pháp phê bình của Mauron giả định một sự thực hành lâu dài, và hơn nữa, yêu cầu phải đọc tác phẩm thường xuyên, bền bỉ: Mauron thuộc Mallarmé nằm lòng.

Phê bình phân tâm học của Mauron đã triển khai song song hai cách đọc đã được gợi ý trước đây của Freud : đọc triệu chứng (la lecture symptômale) và đọc cấu trúc  (la lecture structurale). Đọc triệu chứng là xác định vị trí  các dấu vết mà vô thức để lại  trong văn bản, trong tính hàm hồ của từ ngữ, hình ảnh, lời nói và tình huống tự sự, sự lặp đi lặp lại của ám ảnh, sự lủng củng giữa một chủ đề và niềm xúc động, sự kỳ khôi, nói nhịu, lạ lùng, mâu thuẫn, từ ngữ bất ngờ, sự vắng mặt cũng như sự có mặt đột xuất… Đọc cấu trúc được tiến hành bằng việc thiết lập những quan hệ những văn bản khác nhau của cùng một tác giả, nhằm khám phá một cấu trúc tâm lý đặc thù và bằng cách tập hợp những văn bản từ nguồn gốc khác nhau để phát hiện một cấu trúc phổ quát. Đọc cấu trúc, nếu không bám sát văn bản, và thiếu tinh tế nhà phê bình dễ có nguy cơ sa vào sự đơn điệu thảm hại,  để rồi cuối cùng người ta chỉ trở lại với những giả thuyết ban đầu (thường rất tẻ nhạt).

Chủ trương một cách đọc thực sự văn chương, trong tiểu luận Những ẩn dụ ám ảnh nơi huyền thoại cá nhân, Mauron trình bày, một cách rất sư phạm, bốn giai đoạn của phương pháp: Giai đoạn 1:“Những cuộc chồng văn bản” cho phép cấu trúc hóa tác phẩm xung quanh hệ thống của những liên kết ; Giai đoạn 2:“làm xuất hiện những hình thái và tình huống bi kịch gắn liền với sản phẩm tưởng tượng ; Giai đoạn 3:“Huyền thoại cá nhân, sự ra đời và tiến hóa của nó, tượng trưng cho nhân cách vô thức và lịch sử của nó ; Giai đoạn 4:“Nghiên cứu những dữ kiện tiểu sử dùng để làm sáng tỏ các giải thích, nhưng chỉ nhận ra tầm quan trọng của chúng và ý nghĩa của chúng bằng việc đọc các văn bản. Việc khảo sát được thực hiện trở đi trở lại bốn giai đoạn này. Công trình của nhà phê bình sẽ giống như một “công trường” ở đó hiện ra toàn bộ tập hợp của một trải nghiệm phân tích tâm lý.

Phương pháp  chồng văn bản của Mauron vừa mang tính chất chỉ báo, vừa mang tính cấu trúc (đồng đại) và lịch sử (lịch đại). Trong khi phân tích, Mauron nêu cao nguyên tắc  “kết hợp tự do” và “lắng nghe ơ hờ” vào việc đọc văn chương. Tất cả các văn bản đều có thể sử dụng ngữ cảnh kết hợp với một văn bản khác. Toàn bộ việc đọc là lắng nghe trong văn bản này những tiếng vọng từ các văn bản khác. Từ nền tảng, những quá trình vô thức diễn ra theo phương thức tích tụ, di chuyển, soạn thảo lần hai… Ở đây Mauron lại làm việc với chủ điểm đầu tiên của Freud: Vô thức, Tiềm thức, Ý thức.

Cần hiểu rằng việc chồng văn bản không phải là so sánh. Với phương pháp so sánh, người ta thường chọn những đối tượng có biểu hiện tương đồng và người ta quan tâm ngay những khác biệt cũng như những giống nhau của chúng. Chồng văn bản thì tìm kiếm những  trùng hợp của nghĩa ngôn từ hay nghĩa hình thái trong những văn bản có biểu hiện khác nhau. Ở đó giả định một “sự xáo trộn”  ý nghĩa thuộc về ý thức, một sự đảo lộn của những cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa, “một sự điều tiết cái nhìn nào đó”. Trong so sánh, các văn bản vẫn tồn tại độc lập; trong chồng văn bản, các văn bản tạm thời để lại vị trí cho một cơ cấu khác. Với phân tâm học, cơ cấu ấy bắt nguồn từ một logic khác, ấy là logic của vô thức.

Trong thực tế, chồng văn bản là công việc bao la và phức tạp hơn nhiều. Gần như ta phải dấn mình vào trong một thế giới đọc, ở đó mang đến cho ta một tình cảm vừa xa lạ vừa quen thuộc. Những yếu tố khác nhau của hệ thống không ngừng sinh sôi, biến dạng, trong những kết hợp vô tận của kính vạn hoa. Tùy theo sự phân tích của mình, người ta có thể đọc đi đọc lại một bài thơ để dõi theo ở đó vô số những điểm độc đáo của những cấu trúc ẩn dụ. Người ta còn đào sâu vào công việc biểu tượng hóa giữa trí tưởng tượng và ngôn ngữ mà không xem việc đọc chỉ thuần túy là đọc ngôn từ (chỉ thuần túy là mã). Cuộc trò chuyện trên những văn bản trong sự biến hóa sẽ nối kết giữa một chủ thể viết và những chủ thể đọc. Việc giải thích chỉ được chấp nhận nhờ vào con đường nghiêm ngặt và kiên trì của phê bình phân tâm học. Với Mauron, “những cấu trúc thi pháp này phác họa  nhanh chóng những chân dung và những tình huống kịch”. Trong khi đọc Racine, Mauron tuyên bố: “Nhân tố của toàn bộ vở kịch không là nhân vật mà là mối quan hệ căng thẳng ít nhất giữa hai chân dung: điều đó làm nên tình huống bi kịch”. Ấy là sự khác nhau giữa một việc đọc theo logic tâm lý và một việc đọc được thiết lập trên hư cấu, nó tổ chức những quan hệ liên chủ thể của chủ thể và đặc biệt, tình huống liên tâm lý của chủ thể. Ở đây Mauron triển khai chủ điểm thứ hai của Freud: siêu ngã/ ngã /tự ngã.

Từ cấu trúc các văn bản, Mauron xác lập cấu trúc nhân cách vô thức. Huyền thoại cá nhân thuộc về ranh giới giữa hai cái đó: ảo ảnh vô thức (“ổn định và liên kết cấu trúc từ một nhóm nhất định của những tiến trình vô thức”) và kịch bản tiềm thức làm nên những hư cấu ý thức. Với Mauron, huyền thoại cá nhân có một lịch sử. Đó là một sự sinh thành (một văn bản thiếu niên) và những hoá thân khác, cùng với những may rủi cá nhân và những may rủi xã hội- văn hoá.

Jean Bellemin-Noël và “vô thức của văn bản”

Trong khi vận dụng phân tâm học, Jean Bellemin-Noël tập trung vào văn bản, phương pháp tiếp cận ấy có tên là phân tích văn bản (textanalyse). Ông cho rằng phê bình văn học mà tập trung vào nhà văn, chẳng khác gì là điều trị một bệnh nhân tâm thần bằng cách phân tâm người mẹ của ông ta[20].  Những quan niệm sau đây rất gần với quan niệm của Proust trong Thời gian tìm thấy lại (Le temps retrouvé): “Mỗi người đọc, khi ông ta đọc, là đang đọc chính họ. Tác phẩm của nhà văn chỉ là một loại công cụ thị giác mà nhà văn cung cấp cho người đọc để cho phép người đọc nhận ra rằng, nếu không có cuốn sách này, anh ta không thể nhìn thấy chính mình”[21]. Bên cạnh phương pháp phân tích văn bản, J.B. Noël còn đưa ra khái niệm “vô thức của văn bản”, về sau khái niệm này được ông đổi thành “công việc vô thức của văn bản”. Khái niệm này của ông đòi hỏi sự tham dự của người đọc đặc biệt là người đọc chuyên môn, tức là các nhà phê bình trong việc giải mã tác phẩm. Ông cho rằng “công việc vô thức của văn bản là một tấm nhiễu mà người phân tích cho thấy nó lóng lánh nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ của việc đọc. Tuy nhiên có lẽ trong tương lai người phê bình có thể phát hiện nhiều con đường mới cũng với chừng đó dấu mốc hay với  những dấu mốc mới mà cho đến bây giờ người phê bình không thấy”. Với các khái niệm, lí thuyết của mình J.B. Noël đã có những thành công nhất định trong việc áp dụng cách đọc phân tâm đối với tác phẩm văn học. Trong số những công trình giả mã tác phẩm thành công đó, cần phải kể đến cách ông đọc tác phẩm Tượng nữ thần Venus ở Ille của Prosper Mérimée. Nhìn chung, trong các công trình phân tâm của mình, J.B. Noël chịu ảnh hưởng khá nhiều, từ lí thuyết, quan điểm của Lacan - một lí thuyết phê bình phân tâm kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc.

            Trong công trình Về vô thức của văn bản của mình, Jean Bellemin-Noël trình bày cả lý thuyết và phương pháp.

Theo ông, phân tích văn bản là một cách đọc  gần với “đọc phân tâm”, nhưng nhà phê bình khước từ những khái niệm “quá nhân văn” về tác giả và về “huyền thoại cá nhân”. Trước hết, ông đề nghị  công thức “vô thức của một người viết”. Công thức này chuyển đổi trọng tâm chủ thể bằng mối quan hệ với văn bản của ông ta. Nhưng “vô thức của văn bản “ là một công thức hàm hồ. Bởi sự vắng mặt của tác giả dễ dẫn đến hệ quả một “vô thức vô ngã”. Không còn vô thức ngoài cá nhân cũng như ngôn ngữ ngoài những chủ thể nói. Trong thực tế còn có nguy cơ là thay thế chủ thể đọc với chủ thể viết hoặc là xem chỉ có người đối thoại mới là chủ thể lý thuyết. Tuy nhiên, đóng góp của nhà phê bình việc còn nằm ở sự thực hành của ông ta. Jean Bellemin- Noel đã làm “một cuộc đối thoại chính xác” với người khác, “giữa nó nửa câm và tôi nửa điếc”. Người ta nhận ra tính khoa học của cuộc gặp gỡ này trong sự xê xích xung quanh một văn bản: nhà văn viết cho công chúng bên trong, và người đọc xây dựng một tác giả trong cuộc đọc cuả mình.

Phân tâm học và văn học của Jean Bellemin-Noël là một công trình quan trọng và cực kỳ thú vị, đã phân tích rất kỹ mối quan hệ giữa hai hoạt động này trong suốt lịch sử phân tâm học, đồng thời giới thiệu các quan niệm và phương pháp phê bình phân tâm học, từ Freud đến Mauron, Lacan và nhiều nhà phê bình khác. Những ai muốn đọc văn học theo tinh thần phân tâm học có thể tìm thấy ở đây nhiều hướng dẫn và gợi ý bổ ích. Bên cạnh những quan niệm rất mới mẻ về phân tâm học và văn học, Jean Bellemin-Noël còn có những phân tích rất tinh tế và uyển chuyển. Ông viết: “Chính qua văn học mà ta thức nhận được tính người của ta, nó suy nghĩ, nói năng (…) Đại thể là, chỉ nhờ vào một cái gì đó như văn học (dù là văn học truyền miệng trong những kỷ nguyên và những nền văn minh không chữ viết) mà con người tự vấn về bản thân mình, về số phận vũ trụ của mình, lịch sử của mình, hoạt động xã hội và tinh thần của mình”.

Nhấn mạnh “Diễn ngôn văn học là loại diễn ngôn chênh vênh về hiện thực. Đấy là cái đẹp của nó, là bi kịch của nó, và là vận may kỳ diệu của nó”, Bellemin-Noël muốn nói đến sức sống tự nhiên của văn học, khác với lý thuyết. Đồng thời, ông nói rất tinh tế về cái mong manh, đa sắc khó nắm bắt của văn học, những như tâm thức con người: văn bản cũng có vô thức và đôi khi “Bài thơ biết nhiều hơn nhà thơ”.

Những ý tưởng sau của ông mang lại nhiều gợi ý việ đọc phân tâm học: “Nếu ý nghĩa là dư thừa trên văn bản, thì ở đâu đó có một sự thiếu vắng ý thức. Hành động văn học chỉ lo tàng trữ trong nó một phần của cái vô ý thức hoặc của cái vô thức. Nhiệm vụ mà phê bình văn học trong mọi thời đại đã tự xác định cho mình là phát hiện ra cái thiếu vắng hoặc dư thừa đó”.

Trong ý tưởng sau, hình như Bellemin-Noël đã loại bỏ cái nhìn nhị nguyên vốn có về văn học (nội dung/ hình thức), xem đó là một trải nghiệm trọn vẹn hòa quyện, không thể tách rời: “Văn học và phân tâm học “đọc” con người trong nghiệm sinh thường nhật cũng như trong số phận lịch sử của nó. Sâu hơn nữa, chúng giống nhau ở chỗ chúng cùng loại trừ mọi siêu ngôn ngữ: không có sự khác biệt giữa diễn ngôn đề cập đến chúng và những diễn ngôn hợp thành chúng”. Theo chúng tôi, công trình Phân tâm học và văn học thuộc loại sách “gối đầu giường” cho những ai làm phê bình phân tâm học. Đây là một thành quả trong dịch thuật phân tâm học ở Việt Nam.

Julia Kristéva và phân tích ngữ nghĩa học 

Theo M. Martini, quan điểm của Kristéva luôn vận động. Sau công trình Cho một cuộc Cách mạng của ngôn ngữ thơ ca (Pour une Révolution du langage poétique), dần dần bà hướng về phân tâm học. Với phân tích ngữ nghĩa học, Kristéva sáng tạo một lý thuyết vận dụng toàn bộ những kiến thức đương đại. Đặc biệt bà rất quan  tâm nối kết ngữ nghĩa học và phân tâm học. Theo bà có hai vấn đề : thứ nhất là sự đối lập giữa ngữ nghĩa học và ký hiệu học. Đây là nền tảng của lý thuyết này. Ngữ nghĩa học (từ phương diện của “sinh thành –văn bản) gắn liền với xung năng, với cái cổ xưa, với những thực hành ngôn ngữ của thuở thanh xuân hay của chứng tâm thần phân lập: nó được biểu thị như là giống cái –mẹ. Ký hiệu học, lại quan tâm đến quy luật của ngôn ngữ (cấu tạo của những ký hiệu, ngữ pháp, ngữ nghĩa tuyến tính, diễn từ xây dựng “hiện tượng-văn bản”): như ở Lacan, ông đồng nhất nó với giống đực-cha. Người ta nhận thấy tinh thần nhị nguyên làm nên triết học phương Tây: mẹ-thân thể-thiên nhiên/ cha- ngôn ngữ-văn hoá. Nhưng, Kristeva thử đọc những văn bản thơ như cuộc đối chiếu biện chứng của hai trật tự không đồng nhất này. Trong khi đề cao giá trị của hoạt động ngữ nghĩa, bà phục hồi ở thơ ca sức mạnh xung năng vốn có (tính âm nhạc, sự bùng nổ của ý nghĩa, công việc của nghĩa, những chứng nói lắp…Vấn đề thứ hai mà Kristeva chú ý là chủ thể  trong cuộc khảo sát,  bà chọn những nhà thơ của hiện đại như Mallarmé, Artaud, Bataille, Joyce, Céline làm mẫu cho nghiên cứu của mình. Theo bà, phân tâm học cần quan tâm về “những khủng hoảng của ý nghĩa, của đề tài và của cấu trúc”. Kristeva khước từ xem xét những sản phẩm văn hoá dưới cái nhìn giới tính, biểu hiện là dùng các thuật ngữ đàn ông hay đàn bà, vì bà cho rằng khi chủ thể phát biểu, bản thân việc “nói” ấy đã thoát khỏi phạm trù giới tính. Trong thực tế, người ta viết để thoát khỏi những vai trò vốn có hay những biểu hiện đông cứng. Nhưng dù sao, phạm trù đàn bà và đàn ông vẫn giữ vai trò nền tảng cuả lý thuyết phân tâm học.

Như vậy, vấn đề giới tính kép vẫn còn ở chân trời của lý thuyết Freud như một mục tiêu chưa thể đạt tới. Và phải chăng, từ Kristéva, những bước chuẩn bị cho phê bình nữ quyền ra đời?

Gaston Bachelard và “phê bình của trí tưởng tượng” (La critique de l’imaginaire)

Gaston Bachelard quan tâm đến mối quan hệ giữa khoa học và văn học, giữa lý tính và tưởng tượng. Đọc nhiều về thơ ca, ông đã tái giải thích các khái niệm phân tâm học của Freud, và nhận cảm hứng từ Jung để xây dựng một xu hướng có tên là phân tâm học về kiến thức khách quan (psychanalyse de la connaissance objective) và phê bình của trí tưởng tượng (La critique de l’imaginaire). Bốn nguyên tố lớn của vũ trụ: đất, nước, khí, lửa là cảm hứng lớn cho các công trình phân tâm học của Bachelard: Nước và các giấc mơ: Tiểu luận về tưởng tượng của vật liệu (L’Eau et les rêves: essais sur l’imagination de la matière, 1941); Khí và các mơ mộng: Tiểu luận về tưởng tượng của vận động (L’Air et les songes: essais sur l’imagination du movement,1943 ); Đất và các mơ mòng về yên nghỉ (La Terre et les Reveries du repos, 1946), Đất và các Mơ mòng về Ước muốn (La Terre et les Reveries de la volonté, 1948); Thi pháp của không gian (La Poétique de l’espace, 1957); Thi pháp của mơ mòng (La Poétique de la rêverie, 1960) …

Pierre Bayard (Pháp, 1954- ), giáo sư, nhà phê bình văn học, có nhiều công trình đọc phân tâm. Nổi tiếng với tiểu luận Nói như thế nào về các cuốn sách mà người ta không đọc? Ở đó ông phê phán ý tưởng cho rằng có một ranh giới rõ rệt giữa đọc và không đọc, và mời gọi người đọc xây dựng một mối quan hệ tự do, đơn giản với văn bản văn học.

Ông quan niệm văn học là lĩnh vực bất định: Điều tôi chú ý trong văn học, ấy là tính bất định của nó. Văn học và phân tâm học liên minh trong các không gian phức tạp nơi chúng  bắt đầu chống lại một loại diễn ngôn chính trị nào đó, mang đến bức tranh biếm họa của hôm nay”.

Trong phê bình, Pierre Bayard luôn xác lập một tinh thần phân tích văn bản chống lại quán tính, công thức, đạt đến một suy tư lý thuyết và phê bình có chiều sâu. Ông đã vận dụng nhiều phương pháp khác cùng với phê bình phân tâm học: liên văn bản, văn hóa học…Công trình của ông gắn với các nhà văn lớn của Pháp:  Balzac và sự trao đổi trí tưởng tượng- Đọc Miếng da lừa (1978); Triệu chứng của Stendhal- Armance và lời thú tội (Symptôme de Stendhal. Armance et l’aveu1980); Maupassant ngay trước Freud (Maupassant, juste avant Freud 1994); Sự lạc đề -Proust và sự xa đề (Le Hors-sujet. Proust et la digression, 1996); Dõi theo Hamlet. Cuộc đối thoại của những người điếc (Enquête sur Hamlet. Le Dialogue de sourds, 2002);  Chúng ta có thể áp dụng văn học vào phân tâm học (Peut-on appliquer la littérature à la psychanalyse, 2004)…

Với sự mở đầu của Freud, phân tâm học từ Áo đã lan rộng ra Thụy Sĩ, Đức, Pháp, Anh và Mỹ, năm 1920 trở thành một ngành học mới, và nửa sau thế kỷ XX tiếp tục phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Ở Pháp, các nhà phân tâm học tranh cãi về hệ thống khái niệm cực kỳ phong phú mà Freud đã đề xuất, nhưng vẫn tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt và các nguyên lý nền tảng trong nghiên cứu, trong đạo đức và trong điều trị. Với Jacques Lacan (Pháp, 1901-1981), nhà phân tâm học nổi tiếng là khó đọc, có nhiều ý kiến phê phán. Ở Anh, có hai xu hướng: xu hướng thứ nhất chủ trương duy trì quan điểm truyền thống của Freud, đại biểu là con gái Freud: Anna Freud (Áo, 1895-1982), xu hướng thứ hai muốn đổi mới học thuyết Freud, đại biểu là Melanie Klein (Áo, 1882-1960). Những nhà phân tâm học nổi tiếng có nhiều đóng góp là: Pierre Janet, Carl Gustav Jung, Alfred Adler, Otto Rank, Theodor Reik, Wilhelm Reich, Malanie Klein, Anna Freud, Wilhelm Reich, Georges Devreux, Erich Fromm, Jacques Lacan, Lagathe Laplanche, Marie Bonaparte…

Nhìn chung, xu hướng đổi mới phân tâm học đã để lại nhiều thành tựu hơn. Các nhà phân tâm học sau Freud đã có sự kế thừa, phát triển, và đổi khác nhất định, tùy theo quan niệm của họ về vai trò của vô thức, đặc biệt là vị trí của libido, cũng như vai trò của giai đoạn đầu đời của con người. Hầu hết đều thừa nhận những đóng góp của Freud, nhưng cho rằng mỗi người có một cơ chế tâm sinh lý riêng (và theo đó có một nhân cách riêng), nhưng cơ chế tâm sinh lý ấy có khả năng vận động, kể cả khi người ấy đã trưởng thành, do sự tương tác, va chạm giữa cá nhân ấy với môi trường như nhà trường, xã hội mà họ đã trải qua.

Qua những khuôn mặt lý thuyết gia và phê bình gia trên đây, có thể thấy phân tâm học trải qua hai giai đoạn: giai đoạn phân tâm học truyền thống, từ 1895 đến 1945 ;  giai đoạn phân tâm học hiện đại, hậu hiện đại, từ 1945 - nay; với ba thế hệ nhà nghiên cứu. Thế hệ thứ nhất, đại diện là Freud và Jung; thế hệ thứ hai, có Erich Fromm, Melanie Klein; thế hệ thứ ba có Jacques Lacan, Jean Laplanche, Julia Kristéva…

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng phân tâm học Freud, đã đưa ra nhiều quan điểm có tính chất quyết định luận (déterministe), bản thân Freud cũng đã khái quát hóa cao một số hiện tượng tâm lý, biến chúng nó thành bản chất phổ quát của con người, vì vậy, người ta gọi phương pháp phân tâm học của Freud là phương pháp diễn dịch: dùng con người và các văn bản khác như là phương tiện để chứng minh cho luận điểm lý thuyết của mình.

Nhưng sự vận động của phân tâm học, qua nhiều ngả rẽ khác nhau (kể cả với con gái của Freud là Anna Freud), đã cho phép chúng ta tin vào tính năng động của phân tâm học nói chung. Vì sao phân tâm học năng động? Bởi vì lý thuyết này luôn tiếp tục được triển khai trên những điều trị lâm sàng. Các quan sát, phân tích và tự phân tích từng trường hợp (con người và văn bản) cụ thể là trải nghiệm thực tế phong phú, mang lại sinh khí mới cho lý thuyết phân tâm học.

Không chỉ mở ra một cánh cửa lớn trong việc khám phá con người và tham gia vào đời sống học thuật với tư cách là một lý thuyết, phân tâm học đã đi vào đời sống văn học với tư cách là một một trường phái phê bình, đồng thời để lại nhiều dấu ấn trên phương diện sáng tác. 

Trên bình diện thực tiễn, mối quan hệ giữa phân tâm học và văn học là lâu dài, phong phú và phức tạp. Nếu cho là vô thức là một yếu tố có ở con người từ khi mới sinh ra, thì khả năng là rất nhiều tác phẩm của nhân loại từ khởi thủy đến nay là sản phẩm của vô thức và như vậy chúng là đối tượng nghiên cứu của phân tâm học. Chúng ta đã thấy Freud là người đọc văn học theo tinh thần ấy, qua một số tác phẩm kinh điển.

Về phương diện sáng tác, trong phạm vi phân tâm học, sẽ có hai loại đối tượng: một nhóm đối tượng có trước/ hoặc chưa tiếp xúc với phân tâm học, được viết hồn nhiên, chúng ta gọi đó sáng tác tự phát; một nhóm đối tượng viết sau/ và tiếp xúc với phân tâm học, chúng ta gọi đó là sáng tác tự giác.

Nhưng hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học thì lại khác. Nghiên cứu, phê bình theo tinh thần phân tâm học thì chỉ xuất hiện từ khi có phân tâm học, khi người viết đã được tiếp xúc với lý thuyết này và đã vận dung nó để khám phá những hiện tượng văn học. Ranh giới giữa nghiên cứu và phê bình cũng có tính tương đối. Nói chung, ở đây, khi nói nghiên cứu, chủ yếu sẽ  là nghiên cứu về lý thuyết phân tâm học, về phê bình phân tâm học; còn phê bình thì chủ yếu là tập trung vào phân tích tác giả và tác phẩm văn học trên tinh thần và phương pháp của phân tâm học.

Gắn liền với lịch sử phê bình văn học, phê bình phân tâm học mở ra nhiều hướng tiếp cận khác nhau: Phân tâm học nhà văn, phân tâm học người đọc, phân tâm học văn bản. Đặc biệt, ngả rẽ của Carl Gustav Jung, trong ý hướng đi từ vô thức cá nhân đến vô thức cộng đồng, đi từ quan sát những hệ quả tâm - sinh lý của từng người đến quan sát những tương tác văn hóa, đã mang đến phê bình cổ mẫu, còn gọi là phê bình huyền thoại (Archetypal Criticism, Myth Criticism); và những thành tựu hiển nhiên của ngôn ngữ học, cùng việc ý thức vai trò của ngôn ngữ trong đời sống nhân loại, đã giúp cho Jacques Lacan đi sâu vào việc nghiên cứu vô thức của ngôn ngữ, và rồi các lý thuyết gia và các nhà phê bình văn học hậu hiện đại cũng thừa hưởng và phát triển những thành tựu đã có này. Vào cuối kỷ nguyên hiện đại và đầu kỷ nguyên hậu hiện đại, hiện tượng dung hợp, liên ngành và liên lý thuyết diễn ra rõ rệt: lại có phân tâm học hiện sinh, phân tâm học xã hội (Marxist), phân tâm học cấu trúc, phân tâm học nữ quyền, phân tâm học hậu thực dân…

Ngày hôm nay, phân tâm học và phê bình phân tâm học không còn mang tính thời thượng như giữa thế kỷ 20, nhưng dòng chảy của nó vẫn âm thầm thấm sâu trong các lý thuyết khác. Đặc biệt, các khái niệm của phân tâm học như: vô thức, ám ảnh, mặc cảm, ẩn ức, chấn thương, giấc mơ, huyền thoại… đã lan tỏa trong đời sống văn học.

Những giới thiệu trên đây (được chúng tôi tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu, đặc biệt là các thông tin được triển khai bởi M. Martini, trong công trình ông viết chung với nhiều người[22]) cho chúng ta thấy rằng, từ khi ra đời đến nay,  phân tâm học và phê bình phân tâm học đã phát triển mạnh mẽ, có nhiều xu hướng khác nhau và rất nhiều công trình, cực kỳ phong phú.

Sài Gòn, 2017

 


[1] Jean Bellemin-Noël, Phân tâm học và văn học, Đỗ Lai Thúy và Phan Ngọc Hà dịch, http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=12429%3Atai-liu-nghien-cu-phan-tam-hc-va-vn-hc-jean-bellemin-noel&catid=4131%3Aly-luan-phe-binh&Itemid=7242&lang=fr&site=30

[2] Trích theo  Jean Bellemin –Noël, Phân tâm học và văn học, Đỗ Lai Thúy và Phan Ngọc Hà dịch, Bđd.

[3] Freud, S. [1908]. 1985. « Le créateur littéraire et la fantaisie ». In : L’inquiétante étrangeté et autres
essais. Paris : Gallimard, p.43.

[4] Freud, S., [1909]. 1973. « Le roman familial des névrosés ». In : Névrose, psychose et perversion.
Paris : PUF.p.158.

[5] Freud, S.,[1928]. 1985. Dostoïevski et le Parricide. In : Résultats, idées, problèmes II. Paris : PUF, p.173.

[6]Dẫn theo  S. Freud, C.G.Jung (Đỗ Lai Thúy tổ chức biên soạn, 2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật.  Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

[7] Freud, S., [1924].1985. « Petit abrégé de psychanalyse ». In : Résultats, idées, problèmes II. Paris :
PUF, p.116.

[8] Kofman, S., 1985. L’enfance de l’art. Paris : Galilée, p. 38. Dẫn theo Dominique Rougé, Synergies Pologne n° 8 –2011,pp.13-20.

[9] “La critique Psychanalytique” trong  Introduction aux Méthodes critiques pour l’analyse littéraire, nhiều tác giả, Dunod, Paris, 1996,  pp.43.

[10] « Esthétique et psychanalyse” trong La Psychanalyse (1969), collectif, éd.: S.G.P.P.; Coll. «Le point de la question»

[11] Sigmund Freud, Cinq leçons sur la psychanalyse, (1909), Payot, Paris, 1966, p. 38

[12] S. Freud, Cinq leçons sur la psychanalyse, (1923), Paris, Payot, p. 43.

[13] Sigmund Freud (1920) Beyond the Pleasure Principle.

[14]Trong Sigmund Freud, Métapsychologie (1915), Gallimard Folio.

[15] Năm giai đoạn:  miệng (từ lúc sinh ra đến 1 tuổi) , hậu môn (1 đến 3 tuổi), giai đoạn dương vật (3 đến 6 tuổi, phát sinh mặc cảm Oedipe và Electra), giai đoạn tiềm ẩn (6 tuổi đến dậy thì, mơ thấy khi ngủ), giai đoạn sinh dục (từ dậy thì đến khi qua đời).

[16] Cũng bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp, được Sophocles xây dựng thành vở  kịch Electra, và Carl Gustav Jung đã bổ sung, theo cách làm của thầy mình trong công trình:  Lý thuyết Phân tâm học  (The Theory of Psychoanalysis, 1913).

[17] Cesare Pavese (1908-1950):  nhà thơ nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng người Ý.

[18] William M. Runyan (1988), “Progress in psychobiography”. Journal of Personality, No.56, pp.295-326.

[19] Introduction aux Méthodes critiques pour l’analyse littéraire, Sđd, tr.67-68. NTTX dịch.

[20] Bellemin-Noël, J., 1979. Vers l’inconscient du texte. Paris: PUF.p.8.

[21] Proust, M., 1968. À la recherche du temps perdu, tome III. Paris: Bibliothèque de la Pléiade, p.911.

[22] Bergez, D. - Barberis, P- Biasi. P- M. de, Marini, M- Valency, G. (1996), Introduction aux Méthodes critiques pour l’analyse littéraire. Dunod, Paris.

1. Khi viết lại Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã cho tự nhiên tràn vào thế giới của người, với hơn 600 câu có các từ ngữ tự nhiên trên 3254 câu thơ lục bát.  Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, sẽ thấy trang viết của ông đầy ắp một cảm thức xanh (green thought) và phập phồng nhịp đập của vũ trụ. Màu xanh ấy đậm đà, tươi thắm và nhịp đập của vũ trụ ấy rộn ràng, sinh sắc.

Trong một tham luận hội thảo cách nay hai năm, chúng tôi đã có dịp nhắc qua điều ấy: Truyện Kiều“ không dừng lại ở câu chuyện của người. Nguyễn Du đã mở rộng chiều kích của tác phẩm, bằng các mối tương thông kỳ lạ giữa con người và tự nhiên, giữa cõi tục và cõi thiêng”[1].

Chính cảm thức xanh chảy mạnh trong tư duy và tâm hồn Nguyễn Du đã giúp ông liên kết rất nhiều các yếu tố đã có trong mỹ học phương Đông, được biểu thị thành công thức hiển lộ trong văn thơ, cái chúng ta gọi là điển tích và điển cố, và rồi không dừng lại ở đó, ông băng qua những lằn ranh của kỹ thuật nhân tạo để chạm đến những bờ cõi sâu hơn thao thiết mời gọi con người hãy quay về.

Vì vậy, khác với Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ… Nguyễn Du hình như chưa bao giờ có lằn ranh giữa xuất và xử. Ngay từ đầu, ông sớm nhận ra thế giới của con người thấm đẫm nỗi buồn.Trong khi làm quan, trên đường hoạn lộ, ông đã nhìn ra, nhìn thấu suốt những cái giả tạm, sai lầm của thế giới người.Có lẽ vì vậy, trong suốt cuộc đời, ông tựa vào tự nhiên để sống, để tỏ bày, để tìm thấy sự tương thông và để chữa lành những vết thương của chính mình.

Sinh ra từ tự nhiên, sống giữa lòng tự nhiên, đi lại, hít thở, nói năng, ngắm nhìn, thụ hưởng, tự nhiên chảy mạnh trong con người và hết sức đa dạng trong cái nhìn của con người.Có thể nói, những tác phẩm văn chương lớn thường dung chứa tự nhiên trong dáng vẻ muôn mặt này và Truyện Kiều của Nguyễn Du là trường hợp như vậy.

Như câu chuyện của con người, tự nhiên cũng là một đối tượng phản ánh của Truyện Kiều: Những nắng sớm, mưa chiều, cỏ non tháng Ba, lá vàng tháng Bảy, vầng kim ô lúc hoàng hôn hay mảnh trăng chênh chếch dòm song. Nhưng do phần lớn gắn bó với con người, tự nhiên có lúc như là nơi an trú, có lúc như là chốn giải thoát, có khi là lời chiêu niệm, là không gian để lại được phục hồi, là người chứng giám... Thấy sự vật trên cái nhìn nhất thể: tất cả là thành tố của vũ trụ này, toàn bộ các biểu hiện trên trong Truyện Kiều đều hàm chứa hai mặt: là phản ánh tự nhiên nhưng cũng là phản ánh con người; con người an trú trong tự nhiên, bởi vì bản chất tự nhiên là an hòa; con người tìm thấy tự do không đâu bằng giữa tự nhiên, vì tự nhiên không bao giờ câu thúc; con người chiêu niệm tự nhiên để nối hồn mình với một hồn thiêng vũ trụ; con người phục hồi mình trong sự hồi sinh của tự nhiên; con người nhờ tự nhiên làm chứng và tự nhiên chứng giám con người...

Mối tương liên của con người với tự nhiên thể hiện rõ nhất qua sự quy chiếu của cái nhìn, mọi cái đều gắn với tự nhiên.

Là “cõi người ta”, nhưng tự nhiên tham dự từng giây từng phút trong Truyện Kiều.

Ý thức về biến đổi, biến cố trong đời người được nén gọn trong hai chữ “bể dâu” (“Thương hải biến vi tang điền”), phải chăng điều ấy nói rằng sự thay đổi của tự nhiên là cái được con người chú ý hơn và nắm bắt trước so với sự thay đổi của xã hội?: Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Đặc biệt, con người khi xuất hiện là xuất hiện lồng trong sự tồn tại của tự nhiên.Tính chất lồng ghép song song như hình với bóng này diễn ra trong suốt truyện thơ, từ việc miêu tả cơ thể người, cho đến việc khắc họa tính cách, tâm lý hành động hay xây dựng tình huống...Tự nhiên như vậy, vừa là quan niệm nghệ thuật, vừa là cảm hứng, vừa là bút pháp. Tất cả quyện chặt với nhau, bất khả phân ly, làm thành một suối nguồn xanh biếc ào ạt chảy vào mảnh đất bị hằn nát bởi những dục vọng trần tục của con người.Sự kết hợp khăng khít này mang lại một hình tượng quen thuộc ai cũng đều chấp nhận và cảm được, nhưng nếu dùng logic của lý trí mà phân tích thì thật khó, nếu không nói là bất khả: “Đề huề lưng túi gió trăng” “Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”, “Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”, “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”.”Hạt mưa sá nghĩ phận hèn. Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”...

Này đây là sự hòa trộn của cơ thể người với cơ thể của tự nhiên: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười, ngọc thốt” “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, “châu sa”, “nét hoa”, “sen vàng”, tóc mây”...mà đỉnh điểm là câu thơ trác tuyệt, làm nên một tôn vinh kép: “Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Nếu phân tích tình huống (tắm), không gian (lầu xanh) và cái nhìn (Thúc Sinh hay Nguyễn Du và cả chúng ta, người đọc), sẽ thấy một mạng lưới văn bản và tiếp nhận dung chứa nhiều nghịch lý (theo cái chuẩn thông thường của người) mà ở đó nhờ  có tự nhiên (là nhân vật trội bật), nên đã điều hòa hết thảy. Ở trường hợp này, thật khó xác định là con người có quyền năng hay tự nhiên có quyền năng?

Khắc họa tính cách con người bằng những quy chiếu biểu tượngtừ tự nhiên, Nguyễn Du đã đi sát với công chúng Việt Nam, những người  từ lâu  quen thuộc với hệ biểu tượng văn hóa Trung Hoa: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”,  “ong bướm”, “yến anh”, “cành thiên hương”, “cỏ hoa”, “phượng chạ, loan chung” “cây quỳnh, cành dao”, “xuân lan, thu cúc”, “đầu trâu, mặt ngựa”, “ruồi xanh”, “mạt cưa, mướp đắng”, “trăng già”, “trời già”...Cách làm này, vừa là thủ pháp tương hợp với yêu cầu cô nén của thi ca, vừa chạm đến những đường dây ký ức trong lòng công chúng, bởi các hình tượng tự nhiên, dù đã được nâng lên tầm biểu tượng hay ẩn dụ, thường vẫn long lanh. Tuy nhiên, phải nói rằng, ở Truyện Kiều, cũng có những quy chiếu mang tính áp đặt bất công mà ngày nay chúng ta cần xem lại.

Nếu có người cho Truyện Kiều là “cuốn sách của một nghìn tâm trạng” thì quả thật sự đa dạng về tâm trạng ấy có vai trò không nhỏ của tự nhiên.Mới buổi sáng xuân thảnh thơi,cỏ non xanh bát ngát, hoa lê nở lác đác; đã chiều xuân tà bóng xế, nao nao giòng nước, dàu dàu ngọn cỏ; vừa mới “yến anh xôn xao ngoài cửa đã “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”... Sự chuyển biến của tâm trạng và sự thay đổi của đời người như ánh chớp của bầu trời, như vệt nắng và bóng mây bay qua cửa sổ. Phải chăng do ảnh hưởng nhịp điệu chuyển động của tự nhiên mà tiết tấu của Truyện Kiều nhanh đến bất ngờ? Phải chăng cảm thức về thời gian là cái ám ảnh Nguyễn Du nhiều hơn hết? Ông mở đầu bằng “Trăm năm trong cõi người ta”, rồi ông kêu lên: “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!”. Một xã hội nông nghiệp Đông Á tiệm tiến xa xưa đã có thể sản sinh một tâm thế gấp gáp hiện sinh như ta nhìn thấy trong Truyện Kiều ư?

Tự nhiên cũng có mặt để làm nên những tình huống, những tình huống làm cho Truyện Kiều, dù ta đã đọc không biết bao nhiêu lần, thậm chí thuộc nằm lòng, khi giáp mặt lại, vẫn cảm thấy bị bất ngờ, vẫn cảm thấy bị lay động. Bởi tình huống ấy không đơn thuần là sự kiện được kể lại mà là hình ảnh đập vào tâm thức, trong đó hầu hết là hình ảnh của tự nhiên. Liệu có sự thay thế nào khả dĩ cho các câu sau: “Nổi danh tài sắc một thì/ Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh/Kiếp hồng nhan có mong manh/ Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”?;  “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh/Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây”; “Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”...?

Những liên tưởng so sánh cũng vô cùng kỳ thú, không chỉ gợi trên mắt mà vang cả trong tai: Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời/ Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Còn ai có thể đưa tự nhiên vào để miêu tả một tiếng đàn tuyệt diệu như Nguyễn Du!

Tự nhiên là người chứng của biết bao thăng trầm, bể dâu trong đời Thúy Kiều.Đi giữa tự nhiên, mọi việc xảy ra với sự chứng giám của tự nhiên: lễ hội thanh minh: bát ngát cỏ, trời, tuyết, gió, cây, hoa, ánh nắng tà, giòng suối nhỏ lượn lờ sóng nhẹ, ở đó, ngôi mộ của Đạm Tiên là điểm nhấn, và dấu chân lướt trên rêu xanh là cái hồn lâu nay quyện cùng sương khói tự nhiên muốn tái hồi nối kết với một tấm tình tri kỷ. Những giòng thơ ghi lại trên gốc cây không chỉ là chứng tích tương giao ấy của người mà còn là biểu hiện của một thời khắc ghi hồn nhiên ký tự trên vạn vật xa xưa.Thời điểm trở lại nhà, trong tâm trạng bồi hồi nhớ lại phút giây gặp gỡ: “mặt trời, núi, mảnh trăng, nước, cây, hoa (hải đường, liễu), sương, gió, chim (oanh vàng), và giấc chiêm bao báo mộng tương lai.Và tìm kiếm, và nôn nao: dấu bèo, đá vàng, lá hoa sông suối, Và thề nguyền: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai mặt một lời song song”...

Những trình bày trên đây cho thấy Nguyễn Du không lý tưởng hóa tự nhiên, hay nói khác đi là văn chương phương Đông không lý tưởng hóa tự nhiên.Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du rất ít thể hiện sự ngạc nhiên hay niềm ngưỡng mộ tự nhiên, bởi ông thấy con người là một phần trong ấy. Tự nhiên là cái gần gũi cận kề mà hàng ngày ta chạm phải Có một tiếng gọi tự nhiên nội tại (inner nature echo) trong lòng người. Từ đó tâm trí và tưởng tượng của con người không thoát ly bầu khí quyển của tự nhiên. Từ đó, tự nhiên và văn hóa không còn bờ ranh nào cả. Trong nhiều trường hợp, tự nhiên như là tâm hồn bạn (âme soeur) có khả năng tương thông, chia sẻ, giúp con người chữa lành những vết thương, hay điều hòa những xáo trộn của con người. Do vậy, Truyện Kiều vẫn không mang đến “một ảo ảnh về sự bình an và hài hòa trên cánh đồng xanh”.

Về phương diện cụ thể của từng biểu tượng, có thể Nguyễn Du vẫn phải tuân theo những quy ước chung nằm trong hệ thống mã mỹ học và văn hóa Trung Hoa nhưng về phương diện cấu trúc và mạch tư duy, Nguyễn Du luôn nương theo nhịp điệu vận hành của tự nhiên, vì vậy Truyện Kiều của ông luôn có khả năng tự điều chỉnh năng động, luôn có một cái nhìn mở và đôi khi có thể khiêu khích với những gì mang tính giáo huấn,

Điều đặc biệt là ý nghĩa của các biểu tượng tự nhiên không đơn nghĩa một lần cho tất cả, mà biến hóa thay đổi theo nguyên tắc cấu trúc lại trong ngữ cảnh hay tình huống mới. Có thể nhìn thấy điều ấy trên tất cả những từ ngữ chỉ tự nhiên mà Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều, nhất là những từ ngữ được dùng ở tần số cao như hoa, xuân, trăng và nước.

Ngoài ra, việc nhân cách hóa các yếu tố tự nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều hầu hết nhằm xác lập một tương giao hơn là mang tính ngụ ngôn giáo huấn, chúng đã nói lên vấn đề môi trường và công lý xã hội. Những gợi ý từ các khái niệm không gian của Gilles Deleuze và Félix Guattari [2], cũng có thể giúp ta khám phá trường hợp Từ Hải – Hồ Tôn Hiến như là một hệ quả tất yếu của đối kháng. Một không gian cố định (espace sédentaire) là bộ máy nhà nước “Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng” tất sẽ không thể dung chứa một không gian du mục (espace nomade) là “khách biên đình” “Giang hồ quen thú vẫy vùng,Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.

Truyện Kiều đã tràn đầy tinh thần sinh thái như vậy là nhờ Nguyễn Du sinh ra từ cái nôi của phương Đông, nơi có một chiều dài lịch sử gắn kết với tự nhiên, và ông là người con thụ nhận phần nhiều thiên hướng bản nhiên ấy.

2. Gần đây, một số học giả phương Tây đã vừa thừa nhận vừa tra vấn tinh thần sinh thái của phương Đông, cụ thể là các nước Đông Á. Chỉ từ một trường hợp là Truyện Kiều, luận điểm của chúng tôi liệu có vững không? Sau đây chỉ là những suy nghĩ nhỏ, xin cùng thảo luận.

Nếu lần lại ngọn nguồn, có thể nói, trên phương diện thực tiễn, nhân loại toàn cầu đã có những khởi đầu gần giống nhau trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.Khởi nguyên, con người ở giữa muôn loài ruột rà với hết thảy. Từ khi biết nuôi trồng, thấy mình cũng có khả năng tạo ra những sản vật của thế gian; từ khi quần tụ lại thành những cộng đồng, những vấn đề của con người nảy sinh, các thiết chế văn hóa và những rào ngăn tự bảo vệ hình thành;  khi chủ nghĩa cá nhân và khoa học phát triển, con người có lòng tự tin chất ngất; luôn nghĩ mình là chủ nhân ông của thế giới này, con người bắt đầu dứt lìa cuống rún với vũ trụ. Từ đó con người mất đi cái nhìn nhất nguyên “thiên nhân hợp nhất”. Khai thác tự nhiên để phục vụ cho nền văn minh công nghiệp, con người lạm dụng, thậm chí hủy hoại vũ trụ.Sự dứt lìa ấy là một bất hạnh.Sự lạm dụng ấy là vô đạo. Sự chuyển đổi từ cái nhìn nhất nguyên sang cái nhìn nhị nguyên là một bước lệch xa rời tư duy minh triết.

Nhưng trên phương diện diễn ngôn, phương Đông đã thức tỉnh rất sớm. Trong khi thần thoại Hy Lạp chi chít những nhân vật thần linh nhân hóa và bi kịch cổ đại phương Tây đậm sắc những tính cách người sừng sững trong mâu thuẫn tinh thần và xã hội; thì văn học dân gian phương Đông và kinh Vệ Đà dành phần lớn số trang ngợi ca sức sống kỳ diệu của vũ trụ.Trong khi Cơ đốc giáo nói đến tội tổ tông qua truyền thuyết Adam và Eva ăn trái cấm, bị đuổi vườn địa đàng:  trái và vườn đã trở thành sản phẩm đặc quyền của Thiên chúa; thì Tất Đạt Đa rời bỏ cung vàng điện ngọc, cha mẹ và vợ con để vào rừng, tu luyện trong tiếp xúc với tự nhiên.  Hôm nay những kinh sách Dịch học, Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo…còn đó như là bằng chứng hiển nhiên.

Trong khi nghiên cứu văn học Đông Á, Karen Thornbern đã nhiều lần khẳng định sự thực này, từ các công trình lần lượt xuất bản từ 2012 đến 2014[3]: “Văn hóa Đông Á từ lâu được gắn với hệ thống những niềm tin chủ trương tôn sùng thiên nhiên, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và Shinto cũng như nhiều triết lý và tôn giáo bản địa”.  “Đông Á, gồm các nước: Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, từ lâu được xem là những nước kính trọng tự nhiên, trong triết học và tôn giáo. Cho đến khi có ảnh hưởng của phương Tây, về công nghệ, môi trường Đông Á có những thay đổi lớn.”

Karen Thornbern cũng đã thừa nhận tác động của các diễn ngôn này với thế giới: “Những phương thức tư tưởng này đã khơi gợi ý thức về môi trường của rất nhiều người châu Á cũng như người Mỹ, châu Âu và một phạm vi nhỏ hơn là các trí thức Trung Đông và châu Phi”.

Công trình Cambridge người đồng hành cùng văn học và môi trường (The Cambridge companion to literature and the environment) do Louise Westling chủ biên, cũng nói rõ rằng, dù ngành học chỉ mới có vài thập kỷ, nhưng ý thức về môi trường thì đã có rất lâu, đặc biệt là với truyền thống tư tưởng phương Đông cổ đại.

Suy tư về cội nguồn của thành tựu này, một số học giả phương Tây đã đưa ra các giả thiết và lý giải, làm nên những đối thoại thú vị.

Những đối thoại ấy cho thấy tính phức tạp của vấn đề sinh thái trong mạng lưới tư duy và diễn ngôn hôm nay, và chúng ta cũng có thể tham gia ý kiến, với tinh thần “ý thức hành tinh- planet conscious), như Karen Thornbern từng mong đợi.

Trước hết là ý kiến về độ chênh giữa triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật và thực tế cuộc sống trong xã hội Đông Á.

Về thời điểm và mức độ phá hủy môi trường, Karen Thornbern cho rằng ý kiến sau của Rhoades Murphey là “quá lời”: “Thế nhưng những tư liệu ở châu Á lại cho thấy rõ rằng bất chấp những giá trị mà giới tinh hoa trí thức ở đây tuyên xưng, người dân đã làm biến đổi hoặc phá hủy môi trường châu Á sớm hơn và ở mức độ lớn hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới, thậm chí so với cả phương Tây thế kỷ XX.” (“Góc nhìn châu Á”).

Về cội nguồn của tư tưởng, Karen Thornbern cho rằng Heiner Roetz đã “phóng đại” khi “khẳng định quả quyết rằng ở Trung Hoa thời kỳ cổ -trung đại, “một sự đồng cảm với thiên nhiên, như được biểu hiện trong sách Trang Tử, chỉ là một phản ứng đơn giản chống lại những gì thật sự đang diễn ra”. (85)

Dù vậy, qua khảo sát bốn nước ở Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, về căn bản, Karen Thornbern vẫn khẳng định “Tuy nhiên, sự không tương hợp giữa những niềm tin và những hành vi ở đây là rất đáng lưu tâm”.

Luận điểm này hết sức đáng chú ý. Karen Thornbern muốn nói lên một độ chênh, một khoảng cách và cũng là một nghịch lý mà bà nhận ra trong tập quán tư duy, trong phong thái cảm thức với cách hành xử thực tế của con người thuộc khu vực Đông Bắc Á đối với tự nhiên.

Tuy nhiên, theo thiển ý, hiện trạng “không tương hợp giữa những niềm tin và những hành vi” phải chăng là hiện trạng phổ biến của hành tinh chúng ta từ xưa đến nay, chứ không riêng Đông Á, và không chỉ trên phương diện sinh thái? Và phải chăng đó là lý do để nhân loại cứ mãi trầm luân trong những vấn đề của chính mình? Và phải chăng đó là lý do để các tôn giáo tiếp tục còn có mặt? Và phải chăng đó là lý do để Phật giáo kiên trì kêu gọi từng cá nhân phải biết “hành thiền” mong tìm lại được trạng thái “thân tâm hợp nhất”?

Từ thực tiễn văn học các nước Đông Bắc Á, Karen Thornber khai sinh khái niệm “Sự mơ hồ sinh thái” (Ecoambiguity).Đây quả là một kết hợp thú vị. Khái niệm ambiguity hoàn toàn không mới, bắt nguồn từ khái niệm latin ambiguous, có ý nghĩa nói lên một trạng thái khó xác định của nhiều phương diện, do nhiều lý do: lai ghép, vận động, dao động, đa nghĩa, mâu thuẫn...Như vậy, từ xa xưa, trí tuệ nhân loại đã ý thức được tính bất định và đa nghĩa, như là một trạng thái bao trùm trong mọi sự vật, trong mọi sự việc, của đời sống của chúng ta. Ambiguity trở thành một từ phổ biến trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, từ những ngành mà chúng ta tưởng là rõ ràng chính xác như: sinh học, toán học, vật lý, máy tính, cho đến những ngành khuyến khích sự mơ hồ: âm nhạc, hội họa, điện ảnh, nhưng đặc biệt văn học, do chất liệu là ngôn ngữ, lại dung chứa nhiều mơ hồ hơn hết. Vào thập kỷ đầu của thế kỷ XX, các nhà Phê bình Mới đã đưa khái niệm Ambiguity thành một từ khóa quan trọng để yêu cầu người đọc phải tập trung vào văn bản, tiến hành Đọc kỹ (Close- Reading) nhằm tránh những ngộ nhận (hay ngụy luận) trong cảm thụ và dự định).

Với kỷ nguyên hậu hiện đại, những khái niệm như tính bất định, tính bất xác quyết, tính triển hạn...theo thiển ý, chỉ là sự bổ sung theo tinh thần cụ thể hóa khái niệm ambiguity.

Như vậy, sự mơ hồ, nhập nhằng, đa nghĩa cũng đã là tính chất của tất cả, và  khả năng nhận thức của con người luôn hữu hạn, đó là điều mà kỷ nguyên hậu hiện đại lưu ý chúng ta.

Đề xuất khái niệm mơ hồ sinh thái (ecoambiguity) Karen Thornbern đã làm nên những kết hợp mới, kỳ tài, trong từ ngữ, theo kiểu tư duy phương Tây, chẳng phải để nói lên thực trạng mà chúng ta đang đối mặt hay sao?  Và từ những quan sát trong đời sống bốn nước Đông Bắc Á, bà cho là tình trạng ấy là bắt nguồn từ sự nhập nhằng phức tạp (complex ambivalence)[4]

Vậy có thể nghĩ đến việc sẽ xuất hiện một khái niệm mới nhập nhằng sinh thái (ecoambivalence) chăng? Bởi dù cả hai đều có tiền tố ambi (cả hai), nhưng trong khi guity (bắt nguồn từ agree) có nghĩa chuyển động về hai phía, thì valence (bắt nguồn từ valentia) có nghĩa là một năng lượng bên trong.

Với ecoambivalence, có thể cắt nghĩa sâu trạng thái hơn nước đôi trong tâm lý đối với tự nhiên có thể luôn diễn ra ở mỗi  con người chúng ta: Vừa gần gũi, vừa xa lạ; vừa ngưỡng mộ, vừa coi thường; vừa sợ hãi, vừa yêu mến, vừa nâng niu, vừa tàn phá…  dù hôm nay phải hết sức tránh cái nhìn theo tinh thần nhị phân.

Cùng với trạng thái tâm lý chung vốn có của loài người ấy, còn có nhiều lý do đẩy con người Đông Á nói chung, và con người Việt Nam nói riêng, vào con đường tàn phá, làm thay đổi môi trường: đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh, hệ quả của chính sách thực dân, lòng duy lợi, tham vọng và áp lực cần phải phát triển…Nhưng quả thật, theo chúng tôi, mức độ lạm dụng và hủy hoại môi trường nơi đây chưa thể sánh với các khu vực phát triển phương Tây. Vì sao?Bởi vì nơi đây hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, máy móc của nền công nghiệp và các sản phẩm hóa chất đến muộn hơn, và thói quen tiêu thụ cũng hình thành chưa dài lắm. Nhưng điều quan trọng hơn, theo chúng tôi, chính là ở nền tảng của cảm thức và tư duy về tự nhiên. Nơi đây, những sức mạnh nội tâm hình thành rất sớm, nhưng tất cả chìm khuất trong đói nghèo, loạn lạc. Phần lớn người Châu Á yêu công việc chân tay và xa lạ với máy móc. Vì thế, như Việt Nam, đất nước trải dài theo đại dương mà gần đây mới phát triển hoạt động trên biển.

Vì vậy, thiển nghĩ là hơi vội khi nói về một sự phân ly rõ ràng trong lịch sử các nước Đông Á về “niềm tin và hành vi” đối với tự nhiên, xem những di sản văn học xưa nay như là thú thưởng ngoạn vô tư của tầng lớp tinh hoa tách rời cuộc đời chung, hay ngược lại, là phản ứng trực tiếp với hiện trạng nhãn tiền lúc bấy giờ.

Tất cả đều là giả thiết, cần phải có thời gian kiểm chứng.

Một trong những nét nổi bật của hầu hết các triết thuyết của phương Đông là khả năng lan tỏa rất tự nhiên trong cộng đồng trở thành tín ngưỡng  vàluôn đề cao trải nghiệm. Ở Việt Nam, hiện tượng tam giáo (Phật, Lão, Nho) đồng nguyên là có thật và có trong đại chúng, hòa trộn một cách sống động trong diễn ngôn văn học, cả truyền miệng và văn bản viết.

Nhưng ở kỷ nguyên này, khi các phát minh khoa học (đặc biệt là vật lý, và tâm lý học) đưa ra những khám phá mới, cho thấy chúng rất gần với các ước đoán và lý giải từ xa xưa của Đức Phật về vũ trụ và con người, thì có lẽ chúng ta cũng phải tin vào khả năng kỳ diệu của trực giác, có nơi những trí tuệ khác thường.Triết gia và người nghệ sĩ, hơn ai hết, có thể làm chúng ta ngạc nhiên về khả năng thấu thị, nhiều khi không giải thích được.

Đã có cội nguồn lớn như thế, vậy phải chăng tinh thần sinh thái hôm nay là vực lại ký ức từ quá khứ, nhằm soi sáng hiện tại, với vô số vấn đề vừa cụ thể, vừa trừu tượng mà chúng ta đang đối mặt trong từng giờ, từng phút?

Dường như nó buộc chúng ta phải soát xét lại toàn bộ hành trình mà nhân loại đã đi qua trong niềm tin về cái gọi là văn minh và phát triển, từ tu từ học cổ điển cho đến văn hóa học hay đồng tính…

Cần tìm ra cách nhìn và diễn ngôn về tự nhiên, đặc biệt là những cách nhìn và diễn ngôn chủ đạo chi phối sâu sắc nhân loại hàng bao thế hệ, như là chân lý, như là tín điều mặc nhiên không tra vấn. Và như vậy không có thành tựu nào là vô can, không có lý thuyết nào là đứng ngoài nhãn quan sinh thái.

Nhưng trước hết là ý thức lại đời sống sáng tác trong tiến trình lịch sử.Tự nhiên đã có mặt trong văn học từ bao giờ và như thế nào? Một câu hỏi lớn. Có phải bất kỳ tác phẩm nào dung chứa tự nhiên cũng mang tinh thần sinh thái? Thần thoại, đồng thoại, ngụ ngôn, truyện loài vật …cũng có thể vừa mang tinh thần sinh thái, vừa phản sinh thái.

Trong khi đi tìm những yếu tố tự nhiên trong văn học, phương Tây (vốn mạnh ở việc xác lập khái niệm mang tính khái quát), như tinh thần của công trình The Cambridge companion to literature and the environment đã quy về hai khái niệm chính: thể loại văn học điền viên (Pastoral Literature) và văn học thuộc trào lưu lãng mạn (Romantic Literature). Từ đó, các phân tích xoay quanh hai trục này, theo hướng phái sinh: điền viên (pastoral) phản điền viên (anti- pastoral) hậu điền viên (post-pastoral)[5] và Lãng mạn (Romantic), Phản lãng mạn (anti-romantic), Hậu lãng mạn (post-romantic). Tuy thế, cả hai loại văn này đều có tính nước đôi và nhập nhằng về khái niệm.Tính chính danh và tựa hẳn vào khái niệm, đã làm tốn bao giấy mực của nhân loại, nay gặp lý thuyết sinh thái, lại càng lúng túng.

Như vậy, có vô số con đường đến với phê bỉnh sinh thái, những khái niệm như vậy rất hấp dẫn, luôn mời gọi người nghiên cứu nắm lấy và đưa ngay vào không gian phân tích của mình. Nhưng quả thật, như văn học Việt Nam, thể loại điền viên chỉ là một phần rất nhỏ, và tự nhiên như phấn thông vàng xuất hiện khắp nơi, từ ngôn bản đến văn bản, từ thơ ca đến văn xuôi, từ trữ tình đến tự sự, từ truyền thống đến hiện đại…

  1. Có thể nói, trong lịch sử lý thuyết, chưa từng có một lý thuyết nào   thách thức con người như lý thuyết sinh thái. Cũng có thể gọi đây là liều thuốc thử lớn nhất với con người từ trước đến nay, bởi mấy lẽ.

Thứ nhất, xưa nay con đường của lý thuyết (văn học) chỉ xoay quanh trong cái vùng trời của con người, nay lý thuyết sinh thái nghiên cứu cái khung của con người trong tương quan với cái vùng trời của tự nhiên.

Thứ hai, lý thuyết sinh thái không dừng lại ở quan niệm, diễn ngôn, phương pháp như nhiều lý thuyết khác mà nó chủ yếu phải là cách sống, là trải nghiệm; sự nhận biết (tri thức) phải được chuyển hóa thành tình cảm, hành vi, thể hiện trong  từng giây phút, từng cử chỉ, trở thành nhu cầu và tâm thế thường trực nơi mỗi người. Vai trò của cá nhân như vậy, rất lớn.Đó là lòng từ ái, lân mẫn và sự tỉnh thức, được thấm nhuần từ những xác tín sâu xa. Nếu chỉ xuất phát từ tinh thần duy lợi và nhu cầu thực tế “bảo vệ tự nhiên vì sự bình an của con người”, nếu chỉ tiếp nhận kiến thức bằng logic của lý trí, và tuân theo những đặt định bên ngoài, chắc hẳn con đường “trở về nhà ngồi hát ca rất bình an” của con người sẽ còn rất xa, thậm chí có nhiều ngả rẽ “lạc lối về” bất ngờ, chờ chực.

Thứ ba, tinh thần sinh thái cuối cùng sẽ đưa ta đến việc khước từ những hành vi làm tổn hại muôn loài, việc ăn chay cũng như việc tối giản hóa nhu cầu vật chất là những thôi thúc lớn: nền văn minh của nhân loại đang trên đà phát triển như vũ bão có cho phép một ai đứng ngoài, một ai cưỡng lại?

Thứ tư, phương Tây, xưa nay vốn được xem là trung tâm ban phát lý thuyết, kể cả lý thuyết sinh thái, có chịu thừa nhận phương Đông với những trầm tích tư tưởng ẩn náu hàng nghìn năm về tự nhiên, và cùng nhau khám phá tối đa di sản này trong tinh thần mới?.

Trên chỗ đứng của văn hóa,văn học phương Đông, chúng tôi đặc biệt chú ý tinh thần của Sinh thái học chiều sâu (Deep Ecology) trong khuyến khích những trải nghiệm về tự nhiên qua việc xây dựng hình ảnh trong trang viết; và quan điểm của Martin Heidegger, ở việc nắm bắt những khoảnh khắc của trạng thái cá nhân con người trong không gian và tình huống giao kết với tự nhiên.

Martin Heidegger có nói, đại ý rằng: thơ ca là thể loại nói về tự nhiên quan trọng nhất. Ngôn ngữ thơ ca là “Ngôi nhà của Tồn sinh” (House of Being), nó giúp chúng ta dấn mình vào những điều và vật mà chúng ta nhìn thấy và miêu tả, Truyện Kiều của Nguyễn Du quả thật là “Ngôi nhà của Tồn sinh” đặc biệt, ở đó con người, văn hóa và tự nhiên tương chiếu nhau, làm nên ánh sáng      từ muôn vàn cánh cửa.

   Nguồn: Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu (Ecocriticism: Local and Global Voices), Nxb. Khoa học Xã hội, H, 2017.

          

Tài liệu tham khảo:

  1. Karen Thorbern, Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures. University of Michigan Press. USA. 2012.
  2. Simon C. Estok, Won-Chung Kim. East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment). Edition Palgrave Macmillan. USA. 2013.
  3. Louise Westling (chủ biên). The Cambridge companion to literature and the environment. Cambridge University Press, USA, 2014.
  4. Nguyễn Đăng Điệp. Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Tho-moi-tu-goc-nhin-sinh-thai-hoc-van-hoa-4743.html. (Dẫn nguồn 10-9-2017).

  1. Đỗ Văn Hiểu. Tính khả dụng của phê bình sinh thái. https://dovanhieu.wordpress.com/2016/09/15/tinh-kha-dung-cua-phe-binh-sinh-thai/ (Dẫn nguồn 10-9-2017).
  2.  Cheryll Glotfelty (Trần Thị Ánh Nguyệt dịch). Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường. http://tapchisonghuong.com.vn/tintuc/p0/c7/n16166/Nghien-cuu-van-hoc-trong-thoi-dai-khung-hoang-moi-truong.html. (Dẫn nguồn 10-9-2017).
  1. Trần Đình Sử. Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nayhttps://trandinhsu.wordpress.com/2015/02/09/phe-binh-sinh-thai-tinh-than-trong-nghien-cuu-van-hoc-hien-nay/ (Dẫn nguồn 1-9-2017).
  2. Karen Thornbern. Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-hoc/6289-nh%E1%BB%AFng-t%C6%B0%C6%A1ng-lai-c%E1%BB%A7a-ph%C3%AA-b%C3%ACnh-sinh-th%C3%A1i-v%C3%A0-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc.html (Dẫn nguồn 20-8-2017).

[1]Nguyễn Du, người làm nên những cuộc hôn phối kỳ diệu trong thế giới văn chương. Tham luận tại Hội thảo kỷ niệm 250 năm, ngày sinh Nguyễn Du tại Viện Văn học, 2015.

[2]Trong Mille PlateauxÉditions de Minuit, Paris, 1980.

[3] 2012: Karen Thornbern, Ecoambiguity: Environmental Crises and East Asian Literatures. University of Michigan Press. USA.

2013: Lời bạt tập East Asian Ecocriticisms. A Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment) Edition Palgrave Macmillan. USA.

2014: The Cambridge companion to literature and the environment (Louise Westling chủ biên),Cambridge University Press, USA, p.198-211: Karen Thornbern, “Environmental Crises and East Asia Literature: Uncertain Presents and Futures”

[4] (this theme of how the love of wild nature co-exists with policies of ecological destruction in relationships of complex ambivalence ...)

[5] Terry Gifford. “Pastoral, Anti-pastoral, Post- Pastoral”, trong The Cambridge companion to literature and the environment.Sđd, p. 28.

20191027 NMC

Vợ chồng nhà văn Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Thị Doanh, năm 1961

Đó là một chiều thu Hà Nội, tháng 10 năm 1984. Chị Thiếu Mai, người nhiều năm phụ trách trang Lý luận - phê bình của báo Văn Nghệ, hẹn tôi đi thăm nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ở báo Văn Nghệ có ba nhà văn mà tôi chịu ơn là anh Từ Sơn và các chị Thiếu Mai, Ngọc Trai - những người đã  ưu ái đăng những bài phê bình đầu tiên của tôi ba năm trước đó. Chị Thiếu Mai biết tôi ra Hà Nội sau khi báo Văn Nghệ đăng bài tôi viết về tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu.

     Từ nhà chị Thiếu Mai ở ngõ Hạ Hồi, chúng tôi đạp xe về khu tập thể Văn Nghệ Quân đội gần đường Lý Nam Đế. Hà Nội trong những ngày kỷ niệm 30 năm giải phóng Thủ đô, đường phố rực rỡ cờ hoa, người và xe nhộn nhịp. Hòa bình đã chín năm, lại thêm hai cuộc chiến tranh biên giới, đời sống còn kham khổ, nhưng lòng người vẫn bình tâm và hy vọng một thay đổi sẽ sớm đến với đất nước.

     Lòng tôi hồi hộp chờ gặp Nguyễn Minh Châu. Sáu năm trước, trong thời gian học ở Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, khi đến dự buổi nói chuyện của giáo sư Hoàng Như Mai ở Thư viện Hà Nội về tiểu thuyết Miền cháy vừa ra đời, tôi chỉ nhìn thấy nhà văn từ xa mà chưa được nói chuyện với ông.     

Nguyễn Minh Châu tiếp chúng tôi thân tình và ân cần ngay từ phút đầu tiên. Đó là một căn hộ tập thể khiêm nhường, hơi ít ánh sáng, nhưng ấm cúng. Bà Nguyễn Thị Doanh, vợ của nhà văn, cũng ngồi tiếp chuyện. Ông hỏi thăm công việc của tôi ở Sài Gòn, nhắc đến những nhà văn mà ông quen biết đã chuyển hẳn vào sống trong đó. Ông hỏi tôi có biết Nguyễn Thanh ở Cà Mau không, ông thích những truyện ngắn viết về đồng bằng sông Cửu Long của nhà văn này. Tôi bảo có biết nhưng chưa gặp. Về sau, gặp gỡ ở Cà Mau, Nguyễn Thanh rất vui khi nghe tôi kể lại chuyện này.

      Biết điều tôi quan tâm nhưng không dám nói, chị Thiếu Mai hỏi: “Anh thấy bài viết Phương về tập truyện của anh thế nào?”. Ông trả lời không đắn đo: “Đó là một bài viết có văn hóa phê bình. Giá như có nhiều dịp gặp nhau, Phương sẽ hiểu tôi hơn và viết kỹ hơn”. Rồi ông trầm ngâm: “Đọc những bài phê bình như vậy, lòng mình được chia sẻ, được thúc giục tiếp tục cầm bút. Trái lại, có những bài phê bình khiến mình khổ tâm, muốn buông xuôi”.

      Khuôn mặt và giọng nói Nguyễn Minh Châu buồn lặng khi ông kể cho chị Thiếu Mai và tôi nghe câu chuyện buổi sáng mà ông trực tiếp tham dự. Đó chính là hôm diễn ra Đại hội Văn nghệ thủ đô Hà Nội. Trong bài phát biểu có tính cách chỉ đạo, một nhà lãnh đạo văn hóa - văn nghệ lúc đó nói trước các đại biểu: “Những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đăng gần đây trên báo không có ‘vấn đề’ như thường ta hiểu mà đặt ra những vấn đề cho chúng ta phải suy nghĩ. Tuy không đồng đều, nhưng nhìn chung, đó là những truyện ngắn hay. Những suy tư, những nét đi sâu vào tâm lý là những nét khám phá mới của tác giả, riêng tôi hoan nghênh, nhưng tác giả còn ‘ngắm’, chưa thực sự vào cuộc, tham gia với một lòng tin mãnh liệt những vấn đề mà tác giả đặt ra. Nói tóm lại, đứng về một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì tác giả mới thành công một nửa, còn một nửa, chúng ta chờ đợi”[i]. Bài viết này có đăng trên trang nhất báo Văn Nghệ ngày thứ bảy, 06-10-1984, với nhan đề “Văn nghệ Hà Nội, bộ mặt của cả nước” (sic).

     Lúc này tôi mới e dè góp tiếng: “Thật ra thì trong ý kiến đó cũng có mặt khẳng định giá trị truyện ngắn của anh. Vả lại, ông ấy phải nói như vậy để cân đối những luồng dư luận trái ngược nhau”. Nguyễn Minh Châu cười: “Phương chỉ sống ở miền Bắc vài năm, chưa hiểu hết thâm ý của phê bình ngoài này. Ông ấy nói như vậy có nghĩa là cho rằng tôi đang đứng bên lề đời sống. Sáng nay tôi ngồi nghe mà như đang bị kiểm điểm, nhiều đồng nghiệp quay lại nhìn mình, vậy là mình được cho điểm 5/10 đó”. Chị Thiếu Mai chen vô: “Vậy là xem như anh đạt điểm trung bình, thi đỗ rồi”. Chúng tôi cùng cười vui vẻ.

         Về sau này tôi cứ tiếc mãi là phần vì bận việc, phần vì e ngại mà chị Mai và tôi đã từ chối lời mời của ông bà ở lại dùng cơm tối để nói chuyện nhiều hơn. Hai năm sau, tôi sang học ở Moskva nên không còn dịp gặp lại Nguyễn Minh Châu lần nữa. Ở xa, tôi vẫn đọc kỹ những truyện ngắn mới, những bài bình luận, trả lời phỏng vấn của nhà văn và vẫn thường hỏi thăm nhà phê bình Vương Trí Nhàn về sức khỏe của ông.

Đầu năm 1988, giữa lúc cuộc đổi mới xã hội và đổi mới văn học ở giai đoạn mở đầu đầy hứng khởi, Nguyễn Minh Châu phát hiện bệnh nan y và phải vào miền Nam chữa bệnh. Tháng tư năm đó, từ chùa Pháp Hoa, ông viết bài báo có nhan đề “Hòa đồng cùng nhân loại”. Trong bài báo ấy, nhà văn kể lại một kỷ niệm: khi chiến tranh phá hoại của Mỹ vừa chấm dứt, ở một tỉnh bắc Trung Bộ, ông chứng kiến những người lãnh đạo địa phương phải thức thâu đêm để bàn việc có nên cho phép các xã mở lại chợ hay không, vì e ngại tư tưởng “con buôn” có thể làm hư hỏng những người dân anh hùng của một vùng đất anh hùng. Nhưng mặc cho sự níu kéo của tinh thần duy ý chí, quy luật cuộc sống đã cất lên tiếng nói của nó, như sự ghi nhận của nhà văn: “Không hề chờ đợi nghị quyết của tỉnh ủy, dân trên vùng thượng du lũ lượt, kĩu kịt gánh sắn xuống biển đổi lấy cá, lấy muối, dân làm ruộng bắt đầu tìm nơi rèn thêm lưỡi cày, dao, liềm… Khắp các làng xã, chợ búa cứ sống lại, cứ đông đúc mãi lên như một lời tuyên ngôn của đời sống”. Nhà văn nhận xét: “Chúng ta đang sống trong cái thời những người anh hùng và các đức thánh đang phấn đấu để trở thành người bình thường giữa cõi đời”[ii].

Tôi tìm đọc loạt bài “Ngồi buồn viết mà chơi” của Nguyễn Minh Châu, sau này được chọn in trong tập Trang giấy trước đèn. Có một câu chuyện ông kể ám ảnh tôi mãi. Một buổi sáng sớm ông đạp xe từ nhà đến trụ sở Hội Nhà văn, khi đi ngang ga Hàng Cỏ ông nghe thấy một người đàn bà đang kêu khóc. Bà ở quê lên, dẫn theo hai đứa con nhỏ, bảo con ngồi chờ để mẹ giặt tã, khi bà quay lại thì đứa lớn đã bị bắt cóc. Sân ga nhốn nháo, mọi người nhìn bà thương cảm, nhưng ai cũng mải lo việc của riêng mình. Ông dừng xe đạp đi tìm một người công an nhưng cũng không giúp gì bà được. Trong giờ giải lao cuộc họp, ông kể với mọi người câu chuyện đã thấy và nhận được thái độ khó chịu của một người đồng nghiệp cấp trên[iii].

Nghe tin Nguyễn Minh Châu từ trần, tôi có viết một bài tiễn đưa ông. Một tờ báo của người Việt ở Nga, định đặt tên là Lửa Ấm, nhận lời đăng bài đó, nhưng vì thiếu kinh phí, báo không ra được. Tôi nhớ mãi một chi tiết trong bài viết của bà Nguyễn Thị Doanh: một ngày bà đưa ông đi khám bệnh ở Sài Gòn, khi ra về, ông đau quá không đi nổi phải đứng tựa vào một gốc cây trên đường để thở. Tôi hình dung, trong bao nhiêu người Sài Gòn đi đường sáng hôm ấy, liệu có ai tưởng tượng được người đàn ông ốm yếu bên lề đường kia là một văn tài của dân tộc, một người cho đến giây phút cuối đời không rời ngòi bút vì cái Đẹp và điều Thiện.

Về sau này tôi không viết thêm được gì về Nguyễn Minh Châu, nhưng lần gặp năm 1984 đó luôn khắc sâu trong tâm thức tôi. Trong những năm 1990 tôi đã hướng dẫn thành công ba luận văn về sự nghiệp của ông: Vũ Bích Vân viết về truyện ngắn, Lại Thị Hồng Vân viết về tiểu thuyết, Đinh Thị Thanh Thủy viết về bình luận văn học của Nguyễn Minh Châu. Tôi có nhờ giáo sư Tôn Phương Lan chuyển cả ba luận văn đó tặng bà Nguyễn Thị Doanh để làm kỷ niệm.

Trong bài báo “Hòa đồng cùng nhân loại” nói trên, Nguyễn Minh Châu tỏ ra nhạy cảm khi đề phòng điều mà ông gọi là “trò chơi đổi mới” và cảnh báo: “Cuộc ‘thoát xác’ đầy đau đớn, đầy cực nhọc này liệu chúng ta có thể làm được hay chỉ làm hình thức, làm cho có vẻ, và mãi mãi Việt Nam vẫn chỉ là một con ngài nằm khoanh tròn trong chiếc kén, đầy bưng bít, để gặm nhấm đồng thời cả tinh thần tự ti và sự kiêu ngạo”[iv].

Sau hơn 30 năm, thực tiễn văn học cho thấy những hạt giống của niềm hy vọng đã được gieo trồng, nhưng nỗi lo của Nguyễn Minh Châu vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp trọn vẹn. Thiết nghĩ đó cũng là lời nhắc nhở cần thiết đối với những người làm văn học hôm nay, khi tưởng niệm 30 năm ngày mất của Nguyễn Minh Châu.

 

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Bài viết tham gia Hội thảo khoa học Nguyễn Minh Châu và tiến trình Đổi mới văn học, Viện Văn học (tháng 10/2019)


[i]  “Văn nghệ Hà Nội, bộ mặt của cả nước”, Báo Văn Nghệ số 41, ngày 06-10-1984, tr. 10.

[ii] Nguyễn Minh Châu: “Hòa đồng cùng nhân loại”, Tạp chí Văn, TP Hồ Chí Minh, số 2, năm 1988, tr. 3.

 [iii] Nguyễn Minh Châu: “Ngồi buồn viết mà chơi”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4 - 1989, tr. 10.

[iv] Nguyễn Minh Châu: “Hòa đồng cùng nhân loại”, Bđd, tr. 4.

Trong thế giới này xuất hiện một nữ thi nhân

với những bài ca nâng chúng tôi hướng thượng

vượt bản thân lên cõi tinh thần

đem lửa thếp vàng vách nhà tù tăm tối

và đem trời cao vào tận buồng tim

lời tro nguội bỗng biến thành lửa cháy.

HARRY MARTINSON

 

Những câu thơ trên đây của Harry Martinson (1904-1978), nhà thơ Thụy Điển được giải thưởng Nobel văn chương năm 1974, trích từ thiên sử thi khoa học giả tưởng Aniara - về con người, thời gian và không gian (bản dịch của Hoàng Hưng), nói lên điều kỳ diệu khi xuất hiện một người nghệ sĩ hát thơ, được tôn vinh làm nữ tư tế của Thần Ánh sáng. Thơ ca tự nó là một niềm bí ẩn; thế giới vừa mới mẻ hơn, vừa lạ lùng hơn từ khi có thơ ca, đặc biệt là những câu thơ cất lên từ một tâm hồn nữ.

  Không phải ngẫu nhiên mà Ý Nhi nhắc lại những câu thơ ấy khi bà trở thành nhà thơ Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng Cikada[i], giải thưởng văn học dành cho các nhà văn châu Á do Thụy Điển thành lập nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Martinson. Thật tự nhiên, những câu thơ từ Bắc Âu tìm thấy sự đồng cảm nơi những nhà thơ Đông Á xa xôi trong quan niệm về điều kỳ diệu của thơ ca, cũng như trong cách nhìn về sự có mặt của một nhà thơ trong cõi đời này.

1.

Ý Nhi đã khởi đầu con đường dài nửa thế kỷ với thơ ca như thế nào?   Đó là khi đôi mắt bé thơ mở to ngắm nhìn thị xã Hội An thương hồ mà trầm mặc? Đó là nhờ ảnh hưởng của dòng tộc Huỳnh Quế Sơn, những người đã rời bỏ đô thị Hội An, ngược sông Thu Bồn, khai thiên lập địa ở nơi rừng thiêng nước độc? Khí phách, niềm tin và sự lãng mạn đã đem cho họ không chỉ sản nghiệp mà còn là những vần thơ ghi lại trong một thi tập được lưu giữ từ đời cụ tổ cho đến hôm nay. Đó là khi cô gái mười tuổi nắm tay mẹ và em giã từ quê hương, lên tàu ra phương Bắc xa xôi? Đó là khi người thiếu nữ “mặc áo rộng thùng thình và tóc tết đuôi sam” lang thang trên đất cảng Hải Phòng? Đó là khi mối tình văn khoa chớm nở trong khung trời đại học Hà Nội? Hay phải đợi cô gái đó lớn lên thành một người đàn bà thì nhà thơ mới trọn vẹn tìm thấy hình ảnh chính mình?

Những sáng tác đầu tiên của Ý Nhi trong Nỗi nhớ con đường (NXB Văn Học, 1974, in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ), Đến với dòng sông (NXB Tác Phẩm Mới, 1978), Cây trong phố chờ trăng (NXB Hà Nội, 1981, in chung với Xuân Quỳnh) có thể xem là những bài thơ Dự cảm. Như những nhà thơ cùng thế hệ, Ý Nhi cũng khởi đầu con đường nghệ thuật của mình từ những vần thơ tức cảnh và thuật cảm, với sự tinh tế của nhận biết, sự dào dạt của hình ảnh. Thiên nhiên ở đó xanh trong như hồn người, cái tôi nhòa lẫn trong lòng thung đầy bướm, những giọt mưa đọng đầy nhị hoa hay cây bàng vừa nhuốm lửa.

Nhưng từ rất sớm, thơ Ý Nhi đã xuất hiện những điềm bất tường về đời sống cùng với những dự cảm bất an. Trong yên bình của hàng cây hoa nở trắng hay những ngôi nhà cao rộng, nhà thơ lại nghĩ đến một ngày biển động và con thuyền trên biển chơi vơi, đến nỗi lo âu về con đường xa tít tắp và chân trời ngút mắt. Người con gái mang về từ phố biển cánh buồm ngoài khơi, tiếng sóng vỗ ì ầm vách đá, tự biết tâm hồn mình không còn vẹn nguyên như cũ, khi “phố biển giữa lòng em như thác/ sóng gió theo về/ náo động một mùa thu” (Từ phố biển em về).

Những xáo động, âu lo, run sợ đó dự báo hình ảnh tương lai của nhà thơ, khi cảm hứng và tài năng hình thành cùng với những biến đổi của đời sống: Đột ngột đến rồi đi cơn rét cuối mùa/ Cây chanh nhỏ đã bắt đầu tụ quả/ áo con gái đã dần sang mùa hạ/ chỉ chút gì nán níu của ngày đông. (Tháng Ba). Dù sao, những biến đổi đó còn mong manh, chưa đủ âm vang trong một cõi lòng ít nhiều khép kín.

 Người đàn bà ngồi đan (NXB Tác Phẩm Mới, 1985), Ngày thường (NXB Đà Nẵng, 1987), Mưa tuyết (NXB Phụ Nữ, 1991), Gương mặt (NXB Trẻ, 1991) là những mốc đánh dấu sự Bừng nở của thơ Ý Nhi. Ở đây có cả sự bừng tỉnh của ý thức về cá nhân lẫn sự bừng tỉnh của ý thức về thực tại. Và sự bừng tỉnh đó dẫn đến sự bừng nở trong nghệ thuật. Những năm 1980 là thời gian Ý Nhi viết được nhiều bài thơ hay nhất.

Trong những câu thơ Ý Nhi viết sau chiến tranh vẫn còn đan cài niềm hy vọng xen lẫn với sự phân vân, lưỡng lự, thậm chí hoang mang. Cảm hứng và ngôn ngữ thơ đã có dấu hiện rạn vỡ nhưng chưa mang tâm thức lạc loài, một dấu hiệu  của thế hệ những trí thức trẻ sau chiến tranh:

                  Đã đóng kín rồi cửa sổ những ngôi nhà

                  đã xao xác bao vòm đại thụ

                  ánh sáng cô đơn ngọn đèn ngoài phố

bao con đường vắng bóng người qua

thuyền đã về nép dưới chân đê

lá đã rụng trong vườn cây ngoài cửa.

[...]

Đêm mùa đông ầm ào tiếng gió

ai hát xa vời lẩn khuất trong mơ

trang sách mở ra khép lại tự bao giờ

những hàn gắn ồn ào

cách chia lặng lẽ

bước chân khua vang

bước âm thầm nức nở

như vẫn còn xao động cuộc đời ta.

                       (Thư mùa đông)

       Những bài thơ viết về biền cát quê hương, về Hải Phòng, Thái Nguyên, sông Trà… bắt đầu mở rộng tầm cảm và tầm nghĩ của nhà thơ. Tứ thơ không còn đi từ ngoại giới vào nội tâm mà là sự phóng chiếu của tâm cảm:

Tôi cách xa nơi này hai mươi năm

thiếu nữ đã là người đàn bà tuổi bốn mươi

cam chịu và cuồng nộ

mong mỏi và buồn nản

đem cho và nhận về

kiếm tìm và đánh mất

giản đơn và rối ren, lớn lao và hạn hẹp

tôi đứng kề bên giới hạn của mình

như đứa trẻ lên mười trong giờ thể thao

đứng run sợ trước con cừu gỗ

nhưng tôi không còn nhiều thời gian cho do dự

không còn nhiều thời gian cho sai lầm

tôi đi trên đoạn đường còn lại

không nguôi quên

nguồn sáng mặt trời chảy như xối qua cánh rừng hai mươi

    năm cũ.

                         (Về Thái Nguyên)

       Cả một đoạn thơ dài chỉ có câu cuối là họa cảnh, mà là cảnh trong ẩn dụ, còn là tự họa chính mình trong giằng xé của những nghịch lý và đối cực. Và nhà thơ biết từ đây mình sẽ tách khỏi những người cùng thế hệ, một mình đi trên đoạn đường còn lại cho đến hồi kết cục:

Tôi là đứa trẻ muốn kêu to lên để nghe thấy lời mình trong biển

là người đàn bà tìm về kết cục

tôi đang đứng kề bên cái vạch mỏng manh

của thủy chung và phản trắc của tan vỡ và hy vọng của hằn thù

         và tha thứ.

                                                (Biển chiều)

       Bài thơ Người đàn bà ngồi đan có lẽ ra đời trong mạch thơ đó. Tại sao bài thơ chỉ hơn 20 câu này trở thành một tác phẩm tiêu biểu cho thi ca thời Đổi mới? Phải chăng vì nó không chủ yếu giãi bày, không tuyên ngôn hô hào, không một chiều cảm xúc mà hóa giải những cảm xúc đối nghịch: nhẫn nại và vội vã, đau thương và hạnh phúc, tin tưởng và ngờ vực, hân hoan và lo âu, chán chường và hy vọng. Bài thơ của ngày thường nhưng không chỉ là bức tranh tâm cảnh mà còn là một ứng xử với cuộc đời, vừa như chấp nhận nó, lại vừa như hờ hững đối với nó. Nói theo ngôn ngữ hiện tượng luận, bài thơ này vừa phô bày những chiều kích của tâm hồn, vừa che giấu những niềm hồ nghi, những bí mật không thể đoán định.

                Giữa chiều lạnh

                một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ

               dưới chân chị

                cuộn len

                như quả cầu xanh

                đang lăn

                những vòng chậm rãi.

                                       (Người đàn bà ngồi đan)

    Trong văn bản công bố lần đầu, câu thơ cuối vốn chỉ có hai dòng: cuộn len như quả cầu xanh/ đang lăn những vòng chậm rãi. Nhờ thay đổi hình thức ngắt nhịp, câu thơ biểu hiện rõ hơn nhịp chậm của thời gian qua vòng quay chậm của cuộn len. Không phải người đàn bà đang ngồi trong buổi chiều, mà chính sự hiện hữu của chị đang làm ra buổi chiều ấy.

Trong các tập Ngày thường, Mưa tuyết, Gương mặt, tác giả ngày càng kín đáo khi phô diễn cái tôi: Lòng chợt ước ao/ một tiếng gõ bất thường/ sau cánh cửa. (Ngày thường 1). Bà gửi lòng mình qua cảm hứng về thân phận của những văn nhân - tinh hoa một thời Hà Nội: Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu… Vì những nhà thơ luôn đồng bệnh với Đan Thiềm, nói theo ngôn ngữ Nguyễn Huy Tưởng, rồi thơ bà sẽ đi xa cả về tâm thức lẫn không gian để khám phá vẻ đẹp của những tài năng và tài hoa trong cờ vua, bóng đá, hội họa, thi ca.

Những năm về sau, dành tâm sức cho truyện ngắn và chân dung văn học, Ý Nhi vẫn không hoàn toàn rời bỏ thơ ca. Dù vậy, nhìn cả quá trình thơ bà, có thể xem Vườn (NXB Văn Học, 1998) như một khúc Coda của sự nghiệp và những bài thơ sau này như vẫn được viết ra dưới bóng mát của Vườn. Sau khi trải qua Dự cảm Bừng nở, Vườn đánh dấu những ngày tháng Lắng đọng của thơ Ý Nhi. Đây phải chăng là giọng thơ của một người được chứng ngộ? Người đã đi qua những độ đường không cây, những miền viễn xứ tuyết giá, đã thăm dò đời sống qua những trải nghiệm, giờ sẽ tự nghiệm chính mình. Đến cái tuổi không còn bị cám dỗ và ám ảnh của những cuộc phiêu lưu, người ta trở về với một góc vườn, nơi có tán cây và tiếng chim khuyên:

      Đôi lần

em nhìn tán cây mà ứa nước mắt

     vì màu xanh

 

     Đôi lần

     em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt

     vì sự trong trẻo

Rồi em khóc vì đốm nắng lan trên vạt cỏ

vì bông hoa trắng như hạt lệ

vì phiến đá dần tan trong ly nước mùa hè

 

      Rồi em nhớ miên man tới bến sông chiều

tới cơn mưa trên mái đầu trần

tới chiếc võng đơn sơ ngoài hiên vắng

lời bản tình ca cầu ước sum vầy.

                       (Vườn)

        Giờ là lúc có thể nhìn lại những quãng đường thơ Ý Nhi đã đi qua. Có cần gọi tên cho thơ bà: thơ lãng mạn, thơ hiện sinh, hay thơ tân cổ điển? Thiết nghĩ, không có tên gọi nào bao quát được cho những chặng đường đó. Chắc chắn bà có chịu ảnh hưởng của những trào lưu thi ca hiện đại. Nhưng đối với thế hệ của bà ở miền Bắc thời đó, Thơ Mới lãng mạn cũng như thơ miền Nam là những điều cấm kỵ, không dễ tiếp nhận. Trong một chiều hướng khác, có lẽ nhờ người cha - giáo sư, nhà nghiên cứu sân khấu Hoàng Châu Ký, người chồng - giáo sư, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Lộc và những năm đại học, mà Ý Nhi có một vốn liếng khá nhuần nhuyễn về thơ ca cổ điển, điều hiếm thấy nơi những nhà thơ cùng thế hệ. Đâu phải ngẫu nhiên mà bà viết được bài thơ mang suy tưởng sâu sắc Nguyễn Du, 1813, biểu hiện nỗi cảm khái của người nghệ sĩ trước những biển dâu, tàn phai và hoang phế:

Nào còn đâu

những lâu đài đồ sộ nghìn xưa

những thành quách tưởng muôn đời bền vững

ta bước giữa những con đường mới

những đền đài mới

lòng kinh sợ

như đứa trẻ đi trong mưa lạc lối

 

Những bạn bè cũ đã cáo quan

ăn măng trúc măng mai ngồi câu bên sông vắng

làm thơ thưởng hoa

làm thơ vịnh nguyệt

coi cuộc đời như phù vân

 

Các bạn gái ngày xưa

nay tay dắt tay bồng

vẻ đẹp chóng tàn phai

không ai còn mặc áo màu thiên thanh

không ai còn cài hoa trên tóc

không ai còn hát bài hát cũ.

...

       Ý Nhi ít làm thơ lục bát, thơ năm chữ và tám chữ nhiều hơn, nhưng nhiều nhất là thơ hợp thể và thơ tự do. Bà đưa ngôn ngữ đời sống vào thơ rất tự nhiên:

                    Sau một mùa đông không hề buốt giá

                    Hoa loa kèn nhiều và rẻ

                    Đến nỗi

                    Tôi không còn muốn cắm hoa như lệ thường.

                                                       (Hà Nội, tháng 5.1987)

        Đó thực là một câu văn xuôi, nó đã thành thơ nhờ nhịp điệu.

Hẳn nhiên thế hệ đó không phải chỉ có bà muốn vượt thoát ra khỏi vùng từ trường thẩm mỹ của một thời đại. Điều thú vị là, một mặt, dù mang hình thức tự do, thơ Ý Nhi vẫn mang tính cấu trúc trong sự liên kết của những hình ảnh và từ ngữ song song hay đối lập. Mặt khác, tính cấu trúc đó lại trở nên linh hoạt nhờ nhịp điệu luôn biến hóa của thơ. So với văn bản công bố trước đây, trong Tuyển tập này (Ngọn gió qua vườn, NXB Phụ Nữ, 2019), tác giả đã thay đổi nhịp điệu của hầu hết các bài thơ, cả thơ tám chữ lẫn thơ tự do. Hình như bà nhận ra rằng những câu thơ dài, “êm ả” của 20, 30 năm trước không còn thích hợp với nhịp điệu hôm nay.      

        Khác với Xuân Quỳnh, cảm thức về cá nhân trong thơ Ý Nhi không tuôn chảy dào dạt. Xuân Quỳnh thả cảm xúc ra, đẩy cảm xúc tới, đi hết cõi lòng mình, muốn nói một lần cho tất cả, như linh cảm không còn nhiều dịp để nói nữa. Ý Nhi nén lòng mình lại, luôn giữ một chút gì đó trong lòng, chưa bày tỏ hết. Thơ Ý Nhi không vụ cái mềm mại nữ tính của cảm xúc. Hồ Anh Thái thật tinh tế khi viết: “Dường như lạm dụng cảm xúc là điều gì đó hiếm thấy trong thơ Ý Nhi…”. Nguyễn Đức Tùng thì nói cô đọng mà xác đáng: “Ý Nhi vượt qua chủ nghĩa thương cảm”. Nói theo thuật ngữ của B. Eikhenbaum, thơ Xuân Quỳnh chủ yếu là thơ điệu ngâm, thơ Ý Nhi chủ yếu là thơ điệu nói. Điều đó giải thích vì sao thơ Xuân Quỳnh được Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc rất hay (Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu); còn thơ Ý Nhi thì kén phổ nhạc: bài Trong ánh chớp của phận số không thuộc những ca khúc hay nhất của Phú Quang.

        Làm thơ sớm hơn Xuân Quỳnh và Ý Nhi một chút, ở miền Nam, có hai nữ thi sĩ nổi tiếng là Minh Đức Hoài Trinh và Nhã Ca. Thơ điệu ngâm của Minh Đức Hoài Trinh tràn đầy cảm hứng lãng mạn và hiện sinh, bà trở thành đồng tác giả những tình khúc để đời của Phạm Duy (Đừng bỏ em một mình, Kiếp nào có yêu nhau…). Thơ Nhã Ca là thơ điệu nói, hàm súc, triết lý, hầu như chưa có ai phổ nhạc, hay đúng hơn nó không muốn phổ nhạc.

        Nếu văn chương là một cuộc hành trình không ngơi nghỉ, thì đối với Ý Nhi, thơ ca là một bến bờ sáng tạo, quan trọng nhất nhưng không phải là duy nhất.

2.

Với một người cầm bút, sự tự biểu hiện nhiều khi không đủ để trang trải hết thông điệp muốn gửi đến cuộc đời. Người ta không chỉ muốn tỏ lòng mình mà còn muốn tái hiện trần gian dưới đôi mắt của mình. Thơ dù trút hết gan ruột cũng không làm đủ đầy đời sống trong ngôn ngữ.  Nhà văn xuôi có khi là một nhà thơ không thành đạt, mà cũng có khi là nhà thơ đã thỏa nguyện. Phải chăng Ý Nhi thuộc về trường hợp thứ hai.

Năm 1998, sau mười năm vào sống ổn định ở Sài Gòn, Ý Nhi viết truyện ngắn đầu tiên và năm năm sau, bà in tập truyện ngắn Có gió chuông sẽ reo (NXB Trẻ, 2013). Hình như bà thỏa nguyện với thơ mà chưa thỏa nguyện với văn chương nói chung. 

Thật lạ, những nhân vật bà chăm chút nhất bây giờ không phải là những người nữ bà quen thuộc tính nết mà là những người đàn ông trung niên nhiều trải nghiệm trong cuộc đời, giờ nhìn lại đời mình khi đời đã xanh rêu, dù đôi khi họ không giấu được rằng “thực ra họ chỉ là những đứa trẻ.

Nói Sài Gòn làm cạn nguồn thơ bà, nơi đây đất của văn xuôi và thời của văn xuôi cám dỗ bà, thì không đủ lý. Vì truyện ngắn của bà tuy nói chuyện thời nay nhưng điểm nhìn vẫn thiên về hoài niệm. Nỗi buồn tưởng đã hóa giải trong thơ bà, giờ lại tràn sang văn xuôi. Những ánh mắt thoáng hiện buồn bã. Những nụ cười tỏ mờ buồn bã. Dưới ngòi bút kể chuyện của Ý Nhi, đời chẳng qua là một phòng chờ, chờ ở sân bay, chờ ở bệnh viện hay ở một nhà ga, chờ tàu xuôi hay chờ tàu ngược thì cũng vậy thôi. Những người đàn ông với dáng ngồi cô độc, khổ não; họ ngồi đó chờ cái gì, chờ ai, và biết khi nào gặp?

Đọc Cỏ, Biển, Tiếng chuông, Một giờ sáng… ta bắt gặp mô-típ những cuộc hôn nhân thất bại, khiến ta tự hỏi hạnh phúc có thật hay hạnh phúc chỉ là thoáng chốc, mong manh, tạm thời; khổ đau mới là vĩnh cửu, dài lâu, bất tận? Ngòi bút Ý Nhi nhạy cảm với những cuộc chia tay, những chọn lựa nhầm lẫn, những cuộc tình đã đến hồi khô tạnh, những lừa dối và phản trắc gây tai họa mà không dẫn tới hận thù.

Thơ Ý Nhi viết hay về tuổi trẻ và tình yêu; truyện Ý Nhi viết hay về tuổi già và tình bạn, nhất là khi tình bạn hóa thân thành tình yêu hay tình yêu chỉ còn là tình bạn. Người già trong truyện bà như người đi lạc, lạc loài và lạc lõng trên thế gian này. Một nhân vật của bà đã tự trào: “Mình bây giờ là kẻ đi lạc, chẳng làm sao mà hiểu nổi mọi thứ ở đây, làm cái gì cũng không phải, nghĩ cái gì cũng không đúng, nói như bọn trẻ là chẳng giống ai.” (Mix).

Nhân vật sở trường của Ý Nhi là những con người nhỏ bé không tên tuổi, hay tên chỉ là một mẫu tự, những người đa cảm dễ bị tổn thương, những người trí thức hoang mang và sầu muộn, những nhà thơ trẻ sinh bất phùng thời, những người từng “có một mảnh đạn nằm đâu đó trong cơ thể mình…, không nằm trong đầu mà nằm trong tâm khảm.” (Quán chữ cái). Những khuôn mặt in dấu truân chuyên của họ ứng với những đồ vật đã qua thời gian sử dụng: chiếc đồng hồ, cái điện thoại, chiếc túi du lịch, bộ ấm chén, những cuốn sách cũ…

Niềm vui mà tác giả ban phát hay đền bù cho nhân vật hình như cũng là niềm vui của chính tác giả: thưởng ngoạn những khúc ca hay, những bức tranh đẹp, một trận túc cầu hấp dẫn. Điều đó đủ tiếp sức cho họ kéo lê kiếp sống mệt mỏi này.

Có thể mượn lời của người kể chuyện nói về một nhân vật - nhà văn trong truyện Ý Nhi để nói về chính văn phong của bà: “Người ta gọi những nhân vật của ông là loại nhân vật nhỏ bé, loại nhân vật không tên tuổi, không tiếng tăm, không biến cố. Họ là bất cứ ai trong đám đông ngoài kia. Những mơ ước, những lo âu, những chờ đợi của họ thật bình thường, thậm chí tầm thường. Người ta bảo văn của ông dẫn dụ người đọc như tiếng rì rầm của những cơn mưa nhỏ về đêm. Người ta bảo không thể kể lại câu chuyện của ông nhưng cũng không thể rời bỏ cuốn sách khi đã cầm nó trên tay…” (Món quà).

Như thế, truyện ngắn Ý Nhi có thể xem như thuộc loại hình văn xuôi tâm lý - đời thường. Đó là những tác phẩm mà cốt truyện tan biến trong sinh hoạt và dòng tâm trạng của nhân vật. Nếu văn bản thơ Ý Nhi có nhiều khoảng trống, thì văn bản truyện ngắn của bà đan kết những lời kể, lời độc thoại và đối thoại không đứt đoạn. Những truyện viết về sau (Có người gõ cửa, Con ngựa trên bãi biển, Người đứng bên kia đường…) cho thấy tác giả vận dụng kỹ thuật chồng lắp thực tại và ảo giác, ý thức nhân vật hòa trộn với tiềm thức và vô thức, ám tượng và ám thanh, tưởng tượng và hoang tưởng; văn bản trở thành một bức tranh đan dệt bằng những sợi tơ mỏng manh của hiện thực và phi thực.

3.

      Sáng tác truyện ngắn, một thể loại văn-xuôi-hư-cấu, không phải là bất ngờ cuối cùng Ý Nhi đem đến cho bạn đọc. Sau Có gió chuông sẽ reo, Ý Nhi lại thử sức với văn-xuôi-phi-hư-cấu qua thể loại chân dung văn học, một thể loại chưa mấy thịnh hành ở nước ta: ít có nhà văn xem việc tái hiện chân dung tinh thần của đồng nghiệp như một niềm hứng thú lớn lao đủ để người ta dồn cả tâm sức vào đó. Điều ấy một phần do khó khăn về  tư liệu, hạn chế về hoàn cảnh, nhưng cái chính vẫn là do quan niệm: người ta ngại chạm vào chỗ riêng tây của cá nhân, ngại phơi bày những điều uẩn khúc trước mắt thiên hạ, ngại những mối quan hệ bình ổn bị sứt mẻ…

        Nhà văn viết chân dung văn học đã ít, nhà văn nữ viết thể loại này lại càng hiếm hoi. Không phải là người nữ không nhìn sâu được vào thế giới bên trong của đồng nghiệp – trái lại là đằng khác, nhưng có lẽ vì người nữ vốn cẩn trọng hơn nên vẫn giữ một khoảng cách nhất định trong những ứng xử nghề nghiệp. Ở nước ta, hình như chưa có cây bút nữ nào viết ra những tập chân dung như Những gương mặt - những câu thơ (NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2008) Kỷ niệm không có mưa (NXB Đà Nẵng, 2018). Trong Từ bến sông Thương của Anh Thơ có hiện ra đời sống và tính cách của một số văn nghệ sĩ, nhưng đó là hồi ký, không phải chân dung văn học. Những tập tiểu luận phê bình của các cây bút nữ tài hoa thường điểm xuyết những nét chân dung của các tác gia đương đại, nhưng đó chủ yếu vẫn thuộc văn phong khoa học.

        Ý Nhi viết về số phận và tâm tình của những nhà văn, hoạ sĩ đương đại trong quan hệ với cá tính sáng tạo của họ. Bà không chủ ý nói về cái thời của mình, nhưng những bài viết vẫn có thể quy chiếu về một bối cảnh. Bà cũng không nhằm biểu hiện cái tôi như khi làm thơ, nhưng với tư cách chứng nhân tham dự, bà không thể giấu được cảm xúc của một tâm hồn bè bạn. Đọc những trang miêu tả cảnh Nguyên Hồng lúc nào cũng vội vã, tất bật với cái làn cói buộc trên chiếc xe đạp cũ, cảnh Xuân Diệu lúi húi đếm tiền sau một buổi nói chuyện thơ, cảnh Xuân Quỳnh vừa trao đổi công việc văn chương vừa tranh thủ giặt áo quần ngay ở cái vòi nước của cơ quan, người ta thấy dấu vết của một thời chưa xa lưu lại với biết bao tình thương yêu trong kỷ niệm.

       Những ai am hiểu văn học Việt Nam đương đại đều biết Ý Nhi từng nhiều năm liền làm công tác biên tập ở một nhà xuất bản lớn, đã góp phần cho sự ra đời của nhiều tác phẩm giá trị. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng bà đã từng có thời gian làm một công việc có thể là rất nhàm chán đối với những người sáng tác, là nghiên cứu - phê bình văn học. Nhưng chính nhờ trải qua công việc có thể thành chỗ sa lầy của một tư chất nghệ sĩ đó mà bà vừa có sự thấu cảm với chuyện bếp núc trong nghề văn, vừa có cái tinh nhạy khi nắm bắt và khắc hoạ những chân dung văn học.

        Có phần giống với văn bản thơ, viết về phong cách những người nghệ sĩ, Ý Nhi thường kết hợp những nét đối cực trong một thể thống nhất để làm nổi bật lên cá tính sáng tạo của họ. Bà thấy trong tranh Dương Bích Liên “một thế giới giản dị mà sang trọng, êm ả mà hừng sáng, dịu nhẹ mà huy hoàng. Ông đã lưu lại vẻ đẹp trong ngần từ một đời sống đầy cơ cực, dằn hắt, đau đớn.” (Rời thành phố vào sáng sớm). Dưới mắt bà, Phan Thị Thanh Nhàn “vừa duyên dáng vừa vụng về, vừa sâu sắc vừa nông nổi, vừa chi chút vừa hào phóng. Tất cả những đức tính tưởng như trái ngược ấy đều có nơi Nhàn, tạo nên sức hấp dẫn của Nhàn, một sức hấp dẫn đầy nữ tính.” (Bạn cũ ơi là cũ). Theo Ý Nhi, “thơ Trần Vũ Mai là sự va đập, dồn đẩy giữa niềm vui và nỗi khổ, giữa tin cậy và hồ nghi, giữa hân hoan và cay đắng, giữa hy vọng và tuyệt vọng.” (Tay em lạnh mà không run sợ). Bà hình dung “một Phạm Thị Ngọc Liên vừa yếu đuối vừa mạnh mẽ, vừa cả tin vừa tự tín, vừa mê đắm vừa sáng suốt, vừa hồn nhiên vừa cay đắng.” (Hình dung về Phạm Thị Ngọc Liên). Bà cắt nghĩa sự lặng lẽ của Tôn Nữ Thu Thuỷ là “sự lặng lẽ giấu kín trong nó những lo âu, đau đớn, những đam mê, khao khát.” (Sự lặng lẽ của Tôn Nữ Thu Thủy). Để có những câu văn đọng lại trong tâm trí người đọc như vậy, người viết phải nhập cảm vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm và “thuộc” tính cách của tác giả.

       Hầu như Ý Nhi chỉ viết về những nhà thơ, nhà văn, họa sĩ mà bà quen biết lâu năm, đồng cảm với số phận để có thể tái hiện thần thái và  cái tình từ con người cũng như tác phẩm của họ: Nguyên Hồng, Bùi Giáng, Bùi Xuân Phái, Thái Tuấn, Nguyễn Minh Châu, Trang Thế Hy, Hoàng Trung Thông, Tô Thùy Yên, Chim Trắng… Trước khi được tái hiện trong những bài chân dung này, những đời văn ấy đã từng đi vào thơ và truyện Ý Nhi như những niềm tương ngộ. Họ đã đến với bà không chỉ như những đối tượng để miêu tả mà còn như những nguồn cảm hứng kích thích sự sáng tạo.

        Do khuôn khổ của cuốn sách, Tuyển tập này không đưa vào những bài chân dung văn học của tác giả. Nhưng thiết nghĩ, muốn hiểu đời văn Ý Nhi, không thể không khảo sát đóng góp của bà trong lĩnh vực này. Chân dung văn học làm cho đời văn Ý Nhi đa dạng hơn mà lại cho thấy tính nhất quán trên hành trình nghệ thuật: khi cái tôi đi đến cùng con đường của nó, nó sẽ được những cái tôi khác đón chào nơi bến bờ của sáng tạo.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Thành Nghị (2019), “Bông cúc nhỏ nơi vườn khuya lặng lẽ”, Tạp chí Văn Hiến, tháng 7- 2019.

[2] Ý Nhi (2008), Những gương mặt, những câu thơ, Nxb. Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

[3] Ý Nhi (2000), Thơ, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[4] Ý Nhi (2010), Tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

[5] Ý Nhi (2014), Có gió chuông sẽ reo, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

[6] Ý Nhi (2019), Ngọn gió qua vườn, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

[7] Lê Hồ Quang (2015), “Thơ Ý Nhi, hành trình trong lặng lẽ”, trong Âm thanh của tưởng tượng, Nxb Đại học Vinh, Tp. Vinh.

[8] Chu Văn Sơn (1987), “Thơ của tâm hồn xao xác giữa ngày yên”, Báo Văn Nghệ số 36, ngày 5-9-1987.

[9] Mai Sơn (2017), “Một vẻ đẹp khác”, trong Sự quyến rũ của chữ, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

Nguồn: Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học (Viện Văn học), số 01-2020.

  

 


[i] Nguyên nghĩa là Con ve sầu, tên một tập thơ của Harry Martinson.

Hiếm có cuốn sách nào mà lời mở đầu của chính tác giả lại mời gọi người đọc chân thành đến thế: "Người hôm nay đọc người hôm xưa, cảm nhận rõ một điều là những ngọn lửa ấm nồng của trí tuệ và trái tim vẫn được ủ kín trong chữ nghĩa và một ngày thức dậy đồng hành cùng chúng ta hôm nay"

"Gửi đây chút duyên tình đọc" (tác giả: Nguyễn Thị Thanh Xuân, NXB Đà Nẵng và Như Books, ấn hành tháng 10-2019). "Gửi đây", "đây" là đâu? Ngay lúc này, ngay ở đây, ngay ở điểm nhận ra, điểm gặp gỡ, điểm nhìn thấy. Đây, là đang giữ, đang nắm bắt, đang giao hòa. Chữ "đây" làm nên một không gian chứng tá, không gian đối thoại. Trong không gian ấy, người đọc tiếp xúc với Phan Khôi, Thiếu Sơn, Hoài Thanh như một khối trụ đẹp của các nhà bình luận văn chương hồi đầu thế kỷ XX. Quãng giữa kết nối là một Bích Khê tài hoa, Hồ Hữu Tường mãnh liệt, Triều Sơn đa mộng. Rồi sẽ bất ngờ với một Nguyễn Đổng Chi viết phóng sự, một Bùi Giáng bản nhiên, một Trịnh Công Sơn như người tình của thiên nhiên. Người đọc tiếp tục cuộc tri nhận lúc này, tại đây với Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phùng Khánh - Thích Nữ Trí Hải, Lê Giang, Nhật Tuấn, Mang Viên Long - những tên tuổi như ngọn lửa ủ kín đâu đó trong dòng hải lưu văn chương miền Nam vốn không dễ để có thể tiếp xúc và truyền gửi những giá trị. Ba tác giả đương đại cuối cùng khép lại chuyến phiêu lưu của ngọn lửa âm thầm cháy không nguôi: Lưu Quang Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Nhật Ánh.

Đọc nhau vì duyên, trọng nhau vì tình, "duyên tình đọc" là sự hấp thụ nhau như lửa cháy lên sức nóng, làm sống lại ánh sáng từ những nơi mờ tối. Duyên đọc là một cách đọc đặt trọng tâm vào sự "ngẫu nhĩ", "bản nhiên" trong hành trình tiếp xúc và tạo tác tri thức. Nhưng bởi có "tình" mà duyên ấy không chỉ băng qua mà còn đứng lại, ở lại trong nỗi xúc động.

Bìa sách “Gửi đây chút duyên tình đọc”

Tôi đón lấy một vài sợi tơ duyên nằm ngang qua tâm trí: Đó là "đôi mắt nhìn đâu cũng thấy vấn đề" của Phan Khôi, kẻ luôn "nói ra sự thật ở thế chủ động, tích cực, lạc quan", là người "làm văn học vì chân lý, tự do, bình đẳng". Đó là nhà văn chính trực Thiếu Sơn với những lời dẫn "thổi vào chúng ta cảm hứng và hy vọng về giáo dục", thứ "ánh sáng của trí tuệ độc lập". Đó là Hoài Thanh, "người tri kỷ của thơ ca Việt", người đã chọn duy mỹ làm "căn tính" của một "nghệ sĩ đích thực khi viết phê bình". Đó là Bích Khê với "dáng viết" in bóng sự "trong lặng", những "tinh khiết", "tinh chất", "tinh hoa", "tinh huyết" làm nên cái thế cân bằng hiếm tuyệt của một hiền nhân trẻ dại. Đó là chân dung Hồ Hữu Tường, Triều Sơn với những gia sản đồ sộ về tư duy ít được giới thiệu cũng được tác giả tinh lọc và điểm xuyết công phu. "Dòng mưa ánh sáng" có thể xem là một trong những phát hiện lịch lãm và sâu sắc nhất của tác giả đối với sự nghiệp Lưu Quang Vũ. Mưa (như tác giả giới thuyết) không chỉ là sự "liên hoàn giữa đất và trời, giữa khí và nước" mà còn là "sự phong nhiêu của tinh thần, ánh sáng và các tác động tâm linh". Từ đó, người đọc làm một chuyến đi ngỡ ngàng và "phiêu hốt" với biết bao dòng mưa ánh sáng từ một năng lượng có tên Lưu Quang Vũ: mưa ban sơ như thơ ngày non trẻ, mưa lạc loài buồn nhân thế như những trang viết thời chiến, mưa giao hòa kết tinh như thơ của tình yêu mãnh liệt, đắng cay, mưa xối xả trong cuộc chinh phục thời gian, khán thính giả của một nhà biên kịch lớn nhất Việt Nam. Không phải là "cơn mưa" bởi "cơn" rồi sẽ hết; "dòng" thì sẽ tuôn mãi. "Dòng mưa" là dự báo đặc biệt của Nguyễn Thị Thanh Xuân đối với cơn khát "nguồn ánh sáng lẽ tự nhiên" được chắt ra từ di sản tài hoa Lưu Quang Vũ.

Hãy đến "đây", cùng làm một mối duyên tình thấm sâu trong bóng sáng của ánh lửa đọc. Những ngọn lửa ủ kín có thể làm ấm cái không gian bao quanh nó, làm sáng lên vùng tối mờ quanh nó và hứa hẹn làm nảy mầm nhiều sinh thể non tơ của sáng tạo.

Lửa của người viết, lửa của người đọc, lửa từ năng lượng tác phẩm, lửa của sự tương thông, lửa của tâm giao - nguồn sống ủ kín đó âm thầm nhảy múa và thao thức trong sâu kín của trí tuệ người đọc, khiến người ta có cảm giác cần đến sự đọc nhau, đọc cho nhau; vì sự đọc ấy mà nghĩ suy; nối dài những cách nghĩ suy để đọc thêm những "văn

 bản" sống động ngoài chữ nghĩa như những thông điệp vẫn đang từng giờ tìm lối hiển lộ nơi cảm xúc và tâm hồn con người.

Ngọn lửa ấy chưa từng ngưng tắt trước, trong và sau lời thì thầm của cuốn sách này. Bởi mối duyên của dưỡng chất văn chương nơi "đây" vẫn đầy đặn phủ bồi cho những ai yêu mến suy tư, thiết tha chữ nghĩa. 

Những trang viết tận tụy, lão luyện

Ấn tượng lớn nhất của cuốn sách này là mối cảm động luôn mới, luôn nóng trong cách đọc và cách dụng chữ của một người nghiên cứu. Thanh thoát và nghiêm cẩn, hai điều ấy khó mà kết hòa. Nhưng nó đã trở thành "một" trong bút lực và phong cốt của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân. Tôi tự nhủ, trải dài một quãng đời người với tuổi đời, tuổi nghề, người ta vẫn có thể hy sinh sự thinh nhẹ cho những đòn chữ lão thực, song, lúc này tôi không thể tìm thấy cái gì thay thế cho sự thanh xuân của ngôn từ qua những trang viết tận tụy, lão luyện nhưng vẫn phập phồng sự đón đợi mà tác giả công trình đã gửi tặng người đọc trong cuốn sách này.

Nguồn: https://nld.com.vn/van-nghe/gui-day-chut-duyen-tinh-doc-nhung-ngon-lua-u-kin-20191011221423169.htm

 

Nghiên cứu liên văn bản là một hướng tiếp cận thuộc trường phái phê bình giải cấu trúc. Có mặt trong khoảng gần nửa thế kỷ, giải cấu trúc đã góp phần tạo nên kỷ nguyên hậu hiện đại, đưa đến một bước ngoặt lớn trong đời sống tinh thần (bao gồm các quan niệm triết học, mỹ học, văn hóa, văn học...). Trong phạm vi văn học, giải cấu trúc mở ra nhiều hướng mới trong việc đọc văn học, tinh thần của lý thuyết này chi phối hầu hết các trường phái khác, đặc biệt là trong cái nhìn nhấn mạnh tính mở, tính liên, và tính biện chứng trong đời sống văn học. Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử đặc biệt, văn học Việt Nam luôn hình thành trên những giao lộ, luôn là kết tinh của các giao điểm. Trong đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du là biểu hiện rõ nét, đặc biệt nhất.

Tầm vóc của vấn đề và triển vọng của hướng nghiên cứu này đòi hỏi chúng ta một dự án lớn, hết sức tỉ mỉ, kỹ lưỡng, tốn nhiều thời gian, công sức. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng tôi xin được đi vào một vài tiêu điểm nghiên cứu, nảy sinh từ việc quan sát văn bản (Truyện Kiều của Nguyễn Du [3] và Truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân [5] và một số gợi ý về phương pháp từ phê bình liên văn bản [4, 6].

 Bài viết sẽ triển khai lồng ghép các nội dung: Biểu hiện liên văn bản của Truyện Kiều; ý nghĩa liên văn bản của Truyện Kiều; cội nguồn liên văn bản của Truyện Kiều.

Đứng trên quan điểm giải cấu trúc, liên văn bản là thuộc tính của văn học, liên văn bản diễn ra trong đời sống văn học, ở mọi không gian và thời gian, như một hiện tượng tự nhiên, tất yếu. Phong phú và đa dạng, hoạt động liên văn bản có thể diễn ra theo nhiều mức độ, xu hướng và phương thức khác nhau.

1.Với  Truyện Kiều, biểu hiện liên văn bản đầu tiên, hiển lộ, đó là sự mô phỏng (pastiche). Nguyễn Du đã lấy lại cốt truyện trên những nút thắt lớn của đường giây sự kiện, thụ nhận hệ thống những nhân vật quan trọng, giữ lại thời gian và không gian của Truyện Kim Vân Kiều.

Mô phỏng trong Truyện Kiều đã đi theo tinh thần chủ động, tự giác và công khai: “Cảo thơm lần giở trước đèn. Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh” [3, tr.169]. Tính tự giác (reflexivity) và tính minh bạch ( explicitness) của trường hợp liên văn bản này xuyên suốt hoạt động tái tạo của nhà thơ, làm nên cái khác của văn bản và tạo nên xung lực trong lịch sử tiếp nhận văn bản.

2. Dõi theo hoạt động tái tạo của nhà thơ và phân tích cái khác của văn bản, chúng ta nhận ra sự biến đổi (alteration) của Truyện Kiều.

2.1.Trước hết, đó là sự chuyển đổi về thể loại, giọng văn và mạch văn. Từ tiểu thuyết chương hồi của Truyện Kim Vân Kiều, Nguyễn Du đã viết thành truyện thơ Truyện Kiều. Với 3254 câu lục bát, Nguyễn Du đã dùng một giọng văn và một mạch văn hoàn toàn khác. Đó là giọng văn trữ tình. Tính trữ tình nằm trong âm thanh, nhịp điệu, hình ảnh, cảm xúc của từng câu chữ. Điều ấy buộc mạch văn phải đi theo đường giây tâm lý, bên cạnh đường giây sự kiện. Với cái khung của lục bát, nhà thơ đã phải chưng cất (distillation) và cấu trúc lại Truyện Kim Vân Kiều. Liên văn bản ở đây nằm trong phương thức cấu trúc văn bản (architextuality), nói theo quan niệm của Gérard Genette.

2.2.Công việc chưng cất và tái cấu trúc của Truyện Kiều có thể nhìn thấy qua các thủ pháp sau: cắt dán (collage), bổ sung (intergation), chuyển dịch (displacement), tô đậm (emphasize), làm mờ (eclipse), xoắn bện (twisting), tăng cường hiệu ứng thẩm mỹ bằng chất liệu, với các thủ pháp tu từ học trong đó có cả thủ pháp lạ hóa (defamiliarization), trớ trêu (irony), tạo nên độ nén và những khoảng trống, những chỗ lửng lơ, những nếp gấp, những dung hợp...Tất cả những điều ấy hoàn toàn vắng bóng trong Truyện Kim Vân Kiều.

2.3. Trong khi giữ lại những nút thắt lớn của đường giây sự kiện, Nguyễn Du đã loại bỏ rất nhiều những yếu tố cận văn bản (Lời tựa, các đề mục, các tiêu đề, các lời bình ngoại đề, các chuyển mạch) và những yếu tố trong văn bản của Truyện Kim Vân Kiều (những nhân vật mờ nhạt [[1]], những chi tiết sự kiện, hành động  rậm rạp, những mẩu  đối thoại (vốn dài dòng, dung tục). Trong nghệ thuật cắt dán (collage), có thể nói, Nguyễn Du là bậc kỳ tài. Những gì Ông loại bỏ đúng là thừa thãi, nặng nề  [2]; những gì Ông chọn lại đúng là tinh chất, tất cả sẽ sáng lên trong một cấu trúc mới, một giọng văn mới, những thủ pháp mới.

2.4.  Được triển khai theo lời kể và các đối thoại của nhân vật, trong suốt 20 hồi, 338 trang sách, Truyện Kim Vân Kiều gần như không có trang nào dành cho việc tả cảnh, tả người, tả tâm lý nhân vật. Truyện Kiều đã bổ sung nhiều trang (được xem là tuyệt bút, tốn biết bao giấy mực người sau) cho việc say sưa khắc họa vẻ đẹp của tự nhiên, của con người, và những cõi lòng uẩn khúc. Lắm khi cả ba lồng vào nhau, nhòa đi ranh giới: “Ngày xuân con én đưa thoi...Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” [3, tr.171-172], “Kiều từ trở gót trướng hoa...Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình” [3, tr.178-182], “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân...Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” [3, tr.226-227] ...

2.5. Nguyễn Du cũng đã chuyển dịch một số chi tiết trong truyện, theo kỹ thuật “ém quân”. Thay vì giới thiệu Kim Trọng ngay sau khi giới thiệu ba chị em Vương Quan, Thúy Kiều, Thúy Vân như Truyện Kim Vân Kiều [6, tr.26-28], Nguyễn Du đã chỉ cho Kim Trọng xuất hiện sáng rực vào buổi chiều thanh minh. Giữa một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng,  hình ảnh của chàng trở nên lung linh;  cuộc gặp gỡ trở nên bất ngờ, kỳ thú, với hai nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân và ...cả với chúng ta. Thay vì giới thiệu Hoạn Thư ngay sau khi nói về Thúc Sinh, với những nét báo trước “con quan thượng thư, thông minh, tài trí, có uy, hay ghen” như Truyện Kim Vân Kiều [6, tr.181], Nguyễn Du chỉ tả Hoạn Thư khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều về thăm nhà [3, tr.252-257] . Mạch văn như vậy rất là liền lạc, tạo nên một hiệu ứng hòa hợp giữa cảnh và người (Kim Trọng), một hiệu ứng dồn dập giữa tính cách, mưu mô và hành động (Hoạn Thư).

2.6. Nguyễn Du đã tô đậm những chân dung, cảnh quan, tâm trạng và tình huống mà theo ông là đặc biệt.

2.6.1. Với chân dung, nếu Truyện Kim Vân Kiều mở đầu giới thiệu Thúy Kiều, Thúy Vân, bằng đôi giòng: “tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người tha thướt phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu” [6,tr.26] và sau đó để chân dung hai nàng hiện lên qua cái nhìn của Kim Trọng: “Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như thu thủy, sắc tựa hoa đào; còn Thúy Vân thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng, khó mô tả” [6,tr.34]; thì Nguyễn Du dành hẳn 24 câu thơ để khắc họa sắc nét về dung mạo, tính cách, tài năng và phong cách con nhà của hai nhân vật: “Đầu lòng hai ả tố nga...Tường đông ong bướm đi về mặc ai” [3, tr.170-171.

Thanh Tâm Tài Nhân viết về Kim Trọng thật khô khan: “Đây nói đến trong miền có một người học trò nhà giàu họ Kim tên Trọng, tự Thiên Lý, sinh ra trang mạo giống Phan An, văn tài ngang Tử Kiến, tuổi trạc đôi mươi, đang mơ mộng gặp người tốt đôi vừa lứa...” [6, tr.28], trong khi đó, Nguyễn Du của chúng ta dùng 38 câu thơ để vẽ nên một Kim Trọng tuyệt vời dưới cái nhìn của Thúy Vân Thúy Kiều và ngược lại, tạo nên cuộc gặp gỡ đầy ám ảnh: “Trông chừng thấy một văn nhân...Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” [3,176-178].

Khi cho nhân vật Thúc Sinh xuất hiện, Truyện Kim Vân Kiều viết gọn và kể toẹt luôn cả gia thế của chàng, trong đó nói về Hoạn Thư. Truyện Kiều thì không thế, Nguyễn Du dành cả 110 câu để nói về một Thúc Sinh hé lộ dần tính cách trong cơn mê say Thúy Kiều: “Khách du bỗng có một người...Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen” [3,tr.239-244].

Từ Hải chỉ được ghi Truyện Kim Vân Kiều phác qua vài nét: “Hồi ấy có một tay hảo hán họ Từ, tên Hải, tự Minh Sơn, vốn người đất Việt, tâm tính khoáng đạt, độ lượng lớn lao, coi phú quý như lông hồng, nhìn người đời tựa cỏ rác, vả lại anh hùng rất mực lược thao, tinh thông. Lúc thiếu thời cũng có học tập, khoa cử, vì không đỗ đạt mới bỏ đi làm nghề buôn, của cải dư đạt, lại thích kết giao bè bạn” [6,tr.279] và cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật trai anh hùng gái thuyền quyên chỉ được dành hơn 2 trang [6, tr.279-282], nói rằng khi ấy Từ Hải chưa có sự nghiệp lớn. Trong khi đó Nguyễn Du có những 45 câu thơ khắc họa nhân dáng, tài năng, tính cách, ngôn ngữ Từ Hải và cho thấy sự tương đắc của cuộc gặp gỡ được gọi là tri kỷ: “Lần thâu gió mát trăng thanh...Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng” [3,tr.288-290].

2.6.2. Với Nguyễn Du, khung cảnh là nhân vật. Thiên nhiênmùa thấm vào từng trang thơ của Truyện Kiều. Mùa xuân, cỏ non, Mùa hạ: lửa lựu, Mùa thu: gió cây trút lá. Mùa đông: mịt mù dặm cát... Kim Vân Kiều Truyện gần như không hề có khái niệm về điều ấy. Ngập trong xã hội người, thế giới Truyện Kim Vân Kiều cắt lìa với tự nhiên. Nguyễn Du đã nối lại một nhịp cầu. Trong nhiều trang gần như người và cảnh hòa làm một: “Nàng từ chiếc bóng song mai...Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” [3,tr.291-292]

2.6.3. Nội tâm của các nhân vật trong Truyện Kim Vân Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều, thường được bộc lộ một cách lộ liễu, ồn ào, trùng lặp: thở dài, sa nước mắt, khấp khởi mừng thầm, vui quá không ngủ được, vật mình lăn vào lòng Kim Trọng khóc ròng, cất tiếng khóc lớn, dẫm chân khóc, thở dài một tiếng châu lệ chứa chan, ngẩn ngơ thờ thẫn, rưng rưng nước mắt, nước mắt đầm đìa, đối cảnh buồn tênh, khóc lóc đứt ruột... những chỗ cần diễn tả kỹ hơn, Thanh Tâm Tài Nhân cho Kiều làm thơ hoặc ghi “bài” [6, tr.123-124]. Kim Trọng thì: “mặt này hớn hở”, “dẫm chân nói”, “tấm tắc khen”, “ứa lệ”...Thúc Sinh: “ruột như dao cắt, cố nuốt nước mắt vào lòng”...Nói tóm lại, Thanh Tâm Tài Nhân kể trạng thái chứ không tả được nội tâm. Truyện Kiều của Nguyễn Du đầy ắp các trang miêu tả tâm trạng. Niềm vui, nỗi buồn, lo âu, dự cảm, xót thương, hạnh phúc, nhớ nhung, căm giận, bẽ bàng, nhục nhã, biết ơn...Mỗi tình huống, một sắc thái nhẹ nhàng, kín đáo, mạnh mẽ, ân cần, dịu dàng, quyết liệt... Tất cả không hề lặp lại. Tất cả nói lên những nội tâm phong phú và cái trác tuyệt của ngòi bút Nguyễn Du khi lách sâu vào mê cung tâm lý của con người.

Trong một bài viết mới đây, chúng tôi đã viết: “Nguyễn Du nhấn mạnh những điều trông thấy, nhưng không chỉ làm công việc kể lại chúng (như Truyện Kim Vân Kiều), mà chủ yếu nói lên tiếng vang của chúng trong lòng mình (Đoạn Trường Tân Thanh) và có chủ ý tạo ra  tiếng vang của tiếng vang trong lòng người, những ai sẽ đọc ông, gần xa, hiện tại, tương lai...[3].

Tiếng vang ấy, chính là lời của tâm trạng. Tâm trạng của chủ thể sáng tạo, tâm trạng của nhân vật,  Truyện Kiều đúng là “quyển sách một ngàn tâm trạng”, như Phan Ngọc đã viết [5, tr.215].

Nhưng tâm trạng trong truyện thơ của Nguyễn Du không là những cảm xúc thoáng qua, chơi vơi, mơ hồ của những nhân vật lãng mạn thông thường. Trong Truyện Kiều, hầu như mỗi một tâm trạng luôn nói lên một tình huống, một tình thế. Chính vì thế mà ở Việt Nam, hiện tượng bói Kiều xuất hiện (thiêng hóa). Chính vì thế mà ở Việt Nam có tục tập Kiều (liên văn bản), lẩy Kiều (liên văn hóa)”...[4].

2.6.4. Các tình huống mà Nguyễn Du tô đậm thể hiện trong việc Ông phân bố số giòng thơ. Và điều này khác với Truyện Kim Vân Kiều.

Truyện Kim Vân Kiều được xây dựng trên bốn quyển, hai mươi hồi, với Lời tựa mở đầu. Trong mỗi hồi, các tiêu đề bằng thơ cho thấy mối quan tâm của tác giả rải đều cho một số nhân vật, gắn với sự kiện và tình huống khác nhau. Trong khi đó, Truyện Kiều được cấu trúc lại thành tám phần thơ: phần 1 (38 câu: “Gia thế và tài sắc chị em Kiều”); phần 2 (529 câu: “Tiết thanh minh- Kiều gặp Kim Trọn”); phần 3 (207 câu:“Cơn gia biến - Mối tình Kim Kiều tan vỡ”); phần 4 (749 câu: “Kiều bị bán vào lầu xanh Tú bà- Kiều gặp Thúc Sinh”); phần 5 (501 câu: Hoạn Thư ghen- Kiều trốn khỏi Quan Âm Các); phần 6 (619 câu: “Kiều lại bị bán vào lầu xanh ở Châu Thai- Kiều gặp Từ Hải); phần 7 (89 câu: “Kiều được Giác Duyên cứu vớt); phần 8 (515 câu: “Kim Trọng trở lại vườn Thúy- Đại đoàn viên”) [5].

Nguyễn Du đã  dừng lại nhiều ở những tình huống  mà ở đó Ông có thể cất lời để ngợi ca vẻ đẹp, ngợi ca tâm hồn, ngợi ca tình yêu, ngợi ca giao cảm. Kim Trọng  và Thúy Kiều, được dành nhiều giòng nhất: 1251 câu/ 3254 câu, không kể nhiều giòng thơ Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng ở các phần khác. Nếu  đoạn kết đoàn viên, Truyện Kim Vân Kiều chỉ có một hồi, 22 trang/ 338 trang (tỷ lệ 1/15),  thì Truyện Kiều dành 515 câu/ 3254 câu (tỷ lệ 1/6). Mối giao tình giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh và Từ Hải cũng được Nguyễn Du tô đậm, theo những sắc thái cảm xúc khác nhau, những đối thoại ý nhị, tinh tế, hoàn toàn khác với Truyện Kim Vân Kiều, là chỉ kể lướt qua, nhạt nhẽo, hoặc biểu hiện bằng các đối thoại tầm thường. Chẳng hạn, hai đoạn nhỏ sau: “Thúy Kiều nói:Chàng muốn lấy thiếp thì chàng phải ưng cho thiếp một việc! Thúc Sinh vội nói: Đừng nói một việc, dù mười việc cũng xin ưng!” (Truyện Kim Vân Kiều, tr.185- 186)/ “Thương sao cho vẹn thì thương, Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng” Sinh rằng: “Hay nói dè chừng, Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao? Đường xa chớ ngại Ngô Lào, Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.” (Truyện Kiều, tr. 243).

3. Bên cạnh việc tô đậm, Nguyễn Du đã làm mờ/lược bỏ (eclipse) một số chi tiết vốn rậm rạp, đậm nét đến trần trụi trong Truyện Kim Vân Kiều: những biểu hiện thô thiển, tầm thường của Kim Trọng; những lời đôi co có tính đốp chát  của Thúy Kiều; các lời dạy “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” của Tú bà; đặc biệt là cảnh báo ân báo oán với những màn tra tấn khủng khiếp của Thúy Kiều...

4. Cuối cùng là những xoắn bện (twisting) kỳ công và kỳ ảo của Nguyễn Du, để tạo ra một mạng lưới văn bản với vô vàn nếp gấp, vô vàn tầng vỉa. Xoắn bện thứ nhất là việc xe kết giữa thơ và truyện, giữa lãng mạn và hiện thực, tạo thành một thể thống nhất chưa từng thấy trong lịch sử văn bản Truyện Kiều nói riêng và trong thể loại truyện thơ nói chung. Xoắn bện thứ hai là việc xe kết giữa văn học dân gian và văn học bác học: điều ấy thể hiện qua thể thơ lục bát, âm hưởng ca dao, khảm kết với một chuỗi chi chít các điển tích, điển cố. Xoắn bện thứ ba là việc xe kết giữa văn hóa và tự nhiên: Thúy Kiều đi theo những giá trị văn hóa (chủ yếu được đúc kết từ Nho giáo và Phật giáo) nhưng Thúy Kiều cũng chính là người có khả năng tương thông với tự nhiên và vì vậy, tâm hồn và cách thế hành xử của Thúy Kiều trong Truyện Kiều có một cái gì đó cao nhã, tinh tế và uyển chuyển hơn Thúy Kiều của Truyện Kim Vân Kiều.

5. Những biến đổi trên bề mặt và bề sâu của Truyện Kiều đã nói với chúng ta rằng: Nguyễn Du đã tiến hành liên văn bản trên tinh thần phê phán. Nguyễn Du đã xúc động vì câu chuyện (trong Truyện Kim Vân Kiều) mà không chia sẻ về cách viết. Truyện Kiều là một hành động phản biện về cách viết của Nguyễn Du. Qua cách viết này, Nguyễn Du muốn nói với chúng ta rằng, văn chương tồn tại trên nguyên tắc sự bí ẩn của cái đẹp, tính truyền dẫn cảm xúc.  Truyện Kim Vân Kiều đã không có sự bí ẩn của cái đẹp và tính truyền dẫn cảm xúc ấy.

6. Tiếp nhận Truyện Kim Vân Kiều và hợp nhất với rất nhiều dữ liệu văn học văn hóa khác của Việt Nam và Trung Hoa, có thể nói Truyện Kiều của Nguyễn Du là một biểu hiện đạt trình độ cao. Tính tương liên của vô vàn yếu tố dữ liệu trong/ ngoài văn bản (hẹp/ rộng) là cực kỳ tinh tế, làm thành các cấu trúc vận động, không ngừng tương tác nhau, tạo nên những trường nghĩa và trường liên tưởng mới. Đó là lý do làm cho Truyện Kiều tỏ rõ tính hiệu năng của mình và hai mươi năm mươi qua cứ luôn vẫy gọi chúng ta.

7. Cắt nghĩa sự lựa chọn viết lại Truyện Kim Vân Kiều Nguyễn Du, chúng tôi đã nói đến tần số rung cảm của cá nhân nhà thơ, trong tâm thế chung “thương người như thể thương thân” của dân tộc Việt Nam thuở ấy. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ thể hiện cái tài năng cá nhân của riêng mình mà còn nói với thế giới về căn cốt của văn hóa Việt Nam. Nhưng các nguyên tắc nghệ thuật quy định hệ thống thủ pháp của trường hợp liên văn bản này lại còn nằm trong sự dẫn dắt của thể loại và xung lực của ngôn ngữ. Có thể nói, không phải cốt truyện, tình tiết và chi tiết có từ Truyện Kim Vân Kiều chi phối các nguyên tắc và thủ pháp của Đoạn Trường Tân Thanh mà ngược lại.

Hiện tượng liên văn bản của Truyện Kiều diễn ra trong tình thế không thuận lợi về chính trị (mối quan hệ bấp bênh giữa Việt Nam và Trung Quốc) và không bình đẳng về văn hóa (ngoại vi/ trung tâm), nhưng Nguyễn Du đã hóa giải những lằn ranh, xóa bỏ những vị thế quyền lực bằng văn chương.

Với Truyện Kiều, hôm qua, hôm nay và mai sau, một lần và nhiều lần nữa, chúng ta tin rằng, cái đẹp sẽ đưa con người đến với nhau trong một lòng yêu mến, “cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới” (Fyodor Dostoievsky).        

                                                                                   

Nguồn: Đại thi hào dân tộc- Danh nhân văn hóa Nguyễn Du- Kỷ niệm 250 năm, năm sinh Nguyễn Du. Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM, 2015. 

                                                                       

 

Tài liệu tham khảo:

  1. G. Genette (1979), Introduction à architexte, Seuil, Paris.
  1. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Nxb. Khoa học Xã hội, H.
  2. Nguyễn Du (1976, Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích) Truyện Kiều, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.
  3. Phan Ngọc (2003), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb. Thanh niên, H. tr.215.
  4. Michael Payne (1993), Reading Theory - An Introduction to Lacan, Derrida, and Kristeva, Blackwell, USA.
  5. Thanh Tâm Tài Nhân (1994, Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân dịch), Truyện Kim Vân Kiều, Nxb. Hải Phòng.
  6. 7.     Nguyễn Minh Quân, Liên văn bản, sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn học http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=792,  truy cập ngày 20-11-2015.

---------------------------------------------------------------------------------------

[1] Vợ Vương viên ngoại họ Hà, tên công sai, tên trùm sai, người ứng bổ, mụ mối họ Hàm, Gia đình họ Chung, một bọn người địa phương (tr.137), bọn hương chức với Tú Bà, Sử Chiêu...

[2] Giấc mơ của Thúy Kiều gặp Kim Trọng sau khi nhận lời bán mình; những trang viết của Thúy Kiều sau khi gặp Mã Giám Sinh và ở Lầu Ngưng Bích; Tú Bà đến lầu Ngưng Bích uống rượu khuya với Thúy Kiều vào ngày hẹn với Sở Khanh; rút gọn tình huống Sở Khanh;  lướt qua đoạn đối thoại “vành ngoài bảy chữ”...

[3]  Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Độc Tiểu Thanh Ký)

[4] Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Du, người làm nên những cuộc hôn phối kỳ diệu trong thế giới văn chương, tham luận trong Hội thảo quốc tế “250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du: Di sản và các giá trị xuyên thời đại”tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, ngày 8-8-2015.

 


 

Sinh năm 1920. Đến tết năm nay ông tròn 100 tuổi. Có nhẽ thi sỹ Nguyễn Xuân Sanh là người cuối cùng của phong trào Thơ Mới (1930-1945) còn tại vị trên thế gian này.

Trong số 44 người được Hoài Thanh chọn thơ vào Thi Nhân Việt Nam 1941 không có Nguyễn Xuân Sanh. Cũng không có tên Nguyễn Xuân Sanh khi xếp 3 dòng thơ. Dòng Pháp. Dòng Đường. Dòng Việt. Cũng không thấy tên ông trong các xóm thơ. Xóm sông Thương. Xóm Huế. Xóm Bình Định. Xóm Hà Tiên... Mặc dầu vậy, bài tổng luận ở đầu sách - Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã không quên vị trí của Xuân Sanh, nói về ông đến hai lần trong dòng chảy phát triển của Thơ Mới. Hoài Thanh viết. Từ Xuân Diệu, Huy Cận, thơ Việt Nam đã có tính cách của thơ Pháp lối tượng trưng nhưng còn dè dặt. Bích Khê và ít nhiều nữa như Xuân Sanh muốn đi đến chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarme, Valéry ... Thơ tượng trưng được người ta thích hơn nhất là Baudelaire. Có thể nói hầu hết các nhà thơ vừa kể trên, không ít thì nhiều, đều bị ám ảnh vì Baudelaire. Sau nhận định này về Xuân Sanh, Hoài Thanh có một chú thích nhỏ dành cho riêng Nguyễn Xuân Sanh rằng tác phẩm chưa xuất bản nhưng làng thơ thường nhắc đến. Như thể một lời thanh minh của Thi Nhân Việt Nam đã không chọn bài thơ nào của Nguyễn. Kỳ thực, theo Hồi ký Song đôi của Huy Cận thì vào hè năm 1935, chàng Huy và Xuân Sanh đã viết tay được một tập thơ chung khoảng 50 bài gửi cho nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng. Khi ấy Xuân Sanh chừng độ 15 tuổi. NXB đã không in tập thơ và theo Huy Cận - Người sau này tự họa thơ mình là Thơ ơi, chiếc võng ta treo, Đầu theo vũ trụ đầu theo loài người, rằng họ đã không thèm trả lời. Nguyễn Xuân Sanh trước khi nổi tiếng với Buồn xưaBình Tàn Thu trong Xuân thu nhã tập 1942, Ông đã có một số bài thơ đăng báo như Xuân ngày - Bút Mới - Sài Gòn 1938. Giường bệnh mùa thu – Bút mới – 9/1938. Xây Mơ - Tiếng Địch - số 1 - 1938. Buồn Mơ, Đường Xuân - Thanh Nghị số tết 1942 v.v... Trong đó bài thơ Xây Mơ viết tặng Chế Lan Viên và được nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc vào năm 1940 là đáng kể hơn cả. Khuynh hướng siêu thực, tượng trưng đã đậm nét trong bài thơ ấy. Tay sương lam mờ đường buông tơ. Nghe sương lam mờ đường dăng mơ... Chưa thả bờ yêu ra đón má. Môi xa vây người nơi xa xôi.

Hoài Thanh viết Một thời đại trong thi ca tháng 11-1941. Tháng 6 -1942 Xuân thu nhã tập in thơ của Nguyễn Xuân Sanh mới được ấn hành. Nhưng lý do chính Hoài Thanh không chọn thơ Nguyễn Xuân Sanh vì ông không ủng hộ khuynh hướng đổi mới tìm tòi thi ca của tác giả này. Sau khi nói gần nói xa một chặp, Hoài Thanh bộc lộ Các ông Bích Khê và Xuân Sanh noi theo gương Mallarmé, Valéry không thèm giữ gìn gì hết. Đôi khi hình như họ đã diễn tả được những điều sâu kín. Nhưng lời thơ rắc rối quá… Rồi dư ba ấy cứ kéo dài mãi. Cho đến gần hết thế kỷ 20.

Bây giờ nhìn lại, Xuân thu nhã tập dội lên như một hướng tìm tòi mới được giới văn chương đương thời coi là một hiện tượng văn học độc đáo, sự tiếp nối của phong trào Thơ Mới ở chặng đường cuối cùng của nó. Ở đây tình yêu, sự cô đơn, nỗi buồn với mọi cung bậc màu sắc đã được khai thác đến vỉa cuối cùng. Hai bài thơ Buồn XưaBình Tàn Thu, Buồn Xưa nổi bật nhất. Nó hiện ra vẻ đẹp toàn bích và kỳ ảo của chủ nghĩa tượng trưng.

Lẵng xuân

Bờ giũ trái xuân sa

Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà

            ... Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa

             ... Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời.

Buồn Xưa như tiếng nhạc trầm buồn của hoa lá cỏ cây, của nhịp hải hà đầy quyến rũ đưa đẩy người ta vào thế giới của siêu thực trong sáng mà say đắm. Để cuối cùng chợt nhận ra rằng sau những quỳnh hoa và ngọc quế ảo não trong nỗi buồn không sao giũ được, không thể thiếu được bóng dáng của người xưa yêu dấu. Đó là chàng hoàng tử nghiêng mái tóc buồn đượm một làn mưa giữa ngàn mây tràng giang buồn muôn thuở. Tôi mường tượng chàng hoàng tử đó chính là Nguyễn Xuân Sanh. Khi viết bài thơ này ông mới 19 tuổi. Tôi đã xem thủ bút của Nguyễn Xuân Sanh viết cho ông Đỗ Lai Thúy hồi mùa hạ năm 2012. Cách đây 7 năm bài Bình Tàn Thu. Bình Tàn Thu hay không kém Buồn xưa. Ở đấy mùa thu thật đẹp không chỉ bởi sương mù héo lệ dặm đường hương mà còn là vẻ đẹp kỳ ảo của cung phi dăng bướm buồn nghê thường. Nhưng tôi cứ lấy làm tiếc sao Xuân Sanh không viết bài thơ thần của mình để người đời nhìn ngắm cái run rẩy đầy kiêu sa trong nét chữ của thi nhân một thời vang bóng và tiếng đời u huyền trực tiếp ẩn trong những ký tự mơ hồ của Buồn xưa. Xây mơ, Buồn xưa, Bình Tàn thu có lẽ là 3 bài thơ nổi trội nhất của thơ tượng trưng Nguyễn Xuân Sanh.

Trong Xuân thu nhã tập 1942 có một bài viết của 3 người. Đoàn Phú Tứ. Phạm Văn Hạnh. Nguyễn Xuân Sanh. Đến bây giờ vẫn còn để ta suy ngẫm về sự làm thơ. Thơ như giai nhân. Như đẹp. Như trời - Có rung động là có thơ - Thơ có thể có trong âm nhạc, hội họa, kiến trúc... và cả trong đạo lý -. Thơ = Trong = đẹp = thật.  Thơ là đạo: Đạo - âm + dương - Sáng tạo - rung động - thơ - đạo.  Thơ không cấm lúc nào cũng rõ nghĩa v.v...

Vào năm 1940-1941, Nguyễn Xuân Sanh viết tập Đất Thơm - theo thể thơ văn xuôi đã trích đăng trên báo Thanh Nghị số 37 ngày 16-5-1943, thể hiện cách tổ chức đặc sắc một bài thơ văn xuôi với những tiêu đề nhỏ và những suy tưởng thơ rộng mở của tác giả. Đây là một buổi chiều giữa xuân: Chiều nay ta chỉ yêu đồng xanh. Ta mộng cánh đồng vàng ... Đồng mọi nơi sắp chín. Sắp gặt vụ mùa. Chùm bông nặng chưa chín nghiêng nhành lúa trong hạt đã gần căng. Hương đặc lùa ra bờ ruộng cỏ... Ta dành buổi chiều nhớ cánh đồng vĩnh viễn. Những vần thơ tươi sáng và mới lạ. Bằng Đất Thơm, Xuân Sanh là nhà thơ đi tiên phong về thơ văn xuôi trên thi đàn Việt Nam hiện đại. Sau này, các nhà thơ tiếp tục con đường khai mở của Nguyễn Xuân Sanh. Năm 1964 ở miền Nam Thanh Tâm Tuyền đã cho ra đời tập thơ văn xuôi: Liên - Đêm - Mặt trời nhìn thấy. Thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu 21, một số nhà thơ trẻ cũng sáng tác thơ văn xuôi như Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh v.v... Thơ văn xuôi tiếp tục hành trình đi tìm cái mới.

Các nhà văn đương thời như Tế Hanh, Trinh Đường, Nguyễn Bao, Mã Giang Lân, Đỗ Lai Thúy v.v... không chỉ một lần cho rằng Nguyễn Xuân Sanh là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ Mới sang thơ hiện đại, một hướng đi mới của Thơ Mới ở chặng cuối con đường của nó. Có người tỏ ý nuối tiếc rằng chàng thi sỹ của Buồn Xưa lại không đi tiếp con đường đổi mới thi ca vừa mới bắt đầu mà nhường việc ấy cho những người trẻ hơn tiếp tục như Nguyễn Đình Thi. Hồng Nguyên. Chính Hữu... Tôi cho rằng điều ấy cũng phù hợp với logic của sáng tạo văn chương. Sau cách mạng Tháng 8/1945, Xuân Sanh làm chủ bút tuần báo Gió Mới của Tổng hội sinh viên cứu quốc. Sau tham gia lãnh đạo văn nghệ kháng chiến liên khu 4. Đến giữa năm 1949 về công tác ở Trung ương Hội Văn nghệ Việt Nam tại Việt Bắc. Từ 1954 đến 1989 liên tục tham gia Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Có khi được giao làm Tổng thư ký. Sự thay đổi nghiệp đời như thế lẽ dĩ nhiên thế giới quan phải thay đổi, có lẽ làm cho ông chuyển từ siêu thực vốn đã bị phê bình sang phản ánh hiện thực cho an toàn hơn. Chuyện hay dở trong văn chương là chuyện của cả một đời người, đôi khi còn chưa dứt. Các tập thơ Tiếng hát quê ta (1947-1954). Sáng Thơ (1956-1960). Nghe bước vào xuân (1956-1960). Đất nước và lời ca (1970-1977). Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1936-1990) v.v... cả một đường thơ được nhẫn nại đắp nên để đi tới. Rất đáng được người đời trân trọng.

Vậy mà, khi đọc lời giới thiệu Con đường nửa thế kỷ thơ của Nguyễn Xuân Sanh do Tế Hanh viết từ 1987 đến 1991, tôi không sao tránh khỏi bị ngậm ngùi. Nhớ lại hồi 1941, Hoài Thanh đã nhắc nhở Tế Hanh như sau: Tệ hơn nữa, người muốn hưởng cái thú tàn nhẫn được thấy người yêu "đau đớn quằn quại"... sự thành thực của thi nhân không thể ngờ được... Tế Hanh có khắt khe lắm không khi vào năm 1991 rồi còn hạ một câu: có một số cái gì dường như còn chưa nhập cuộc, hay có thể nói đúng hơn chưa nhập cuộc hoàn toàn... Có một đôi cái gì do hoàn cảnh nào đó chưa nở rộ hẳn ra đón chúng ta. Thời bao cấp bảo gì thì bảo mà bảo nhà văn chưa nhập cuộc thì ... thôi rồi! Chừng ấy của cả đời thơ Nguyễn Xuân Sanh mà bảo chưa nhập cuộc được chăng?

Nhận xét của Tế Hanh chỉ nên dành cho một số bài thơ đã thuộc về dĩ vãng như Trong sương đêm (1947). Ghi câu chuyện nhỏ (1948). Rừng vui (1949). Từ siêu thực trầm mặc thơ và đạo kết liền nhau đến con đường thơ phản ánh hiện thực là một sự quặn đau dữ dội để phục sinh không dễ dàng chút nào. Dường như đó là con đường chung của nhiều nhà thơ có thành tựu trong phong trào Thơ Mới đi theo Cách mạng, kể cả những thi tài như Huy Cận, Chế Lan Viên. Họ phải mất hàng chục năm để phục sinh. Cả hai người ấy, nhất là với Chế Lan Viên, đến lúc phục sinh thì lập tức nở rộ. Như cuộc diễu hành chiến thắng của nhiều tập thơ hay. Nguyễn Xuân Sanh không có được cái may mắn ấy. Chặng đường phục sinh của thơ ông dài đằng đẵng đến hết thế kỷ 20. Thơ ông không chín lại theo mùa như các bạn thơ cùng thời mà chín từng bài. Đôi khi từng câu một. Đôi khi khoảng cách giữa sự chín ấy lại thật là dài…

Bao nhiêu tình ý của một cuộc đời. Nhưng tôi nhận thấy hễ khi nào Nguyễn Xuân Sanh viết về hoài niệm, về kỷ niệm đã qua, thường có được những câu thơ hay nhất. Và số đó cũng không phải là nhiều, nếu không muốn nói là ít ỏi của lao động vất vả một đời người. Dòng thơ về hoài niệm, kỷ niệm đựng nhiều thơm thảo nhất trong thế giới thơ Nguyễn Xuân Sanh.

Đó là hoài niệm về biển miền Trung sóng vỗ bạc đầu, rạt rào nỗi nhớ quê hương, nghe như bức tranh thiên nhiên đã để lại lâu lắm rồi bên trời Thu.

Mũi Én như bàn tay hứng trăng

Trút ánh đêm Thu bãi cát bằng

Sóng vỗ bạc đầu quanh mỏm đá

Rạt rào nghe rõ tiếng đêm chăng?

Nhớ biển 2-1961.

Đó là cảnh mùa xuân bâng khuâng ở chùa Hương Tích.

Xuân chưa về, núi chưa mưa

Nhưng bên ta khắp rừng mơ nở rồi.

Trước xuân thăm chùa Hương Tích 12-1962.

Đó là kỷ niệm trên Nậm Tà Lê ở Trường Sơn. Rừng, sông, núi như nói hộ lòng người ra trận mà vằng vặc nỗi niềm với đất nước quê hương.

Tôi cầm dăm cánh lá bay

Thả xuôi con nước rừng ngây ngất chiều

Con sông vằng vặc nhìn ai

Nhìn khuya ngọn núi, nhìn mai con đường.

Trên một ngả đường đất nước 9/1973.

Đó là ngọn đồi Mái Nhà ở miền Trung nơi con trai nhà thơ đã ngã xuống thời chiến tranh. Khi hòa bình ông đến đây chỉ gặp được gió không gặp được người.

Đá hiện lên gương đồi xanh

Nghe như ngan ngát hương lành cỏ tơ

Ta đi cho đến bao giờ

Mà trời cứ mở gió trưa, gió chiều

Thăm ngọn đồi nơi con từng chiến đấu 6/1/1976.

Đó là trở lại đường cũ tuổi thơ ở thành phố biển Quy Nhơn khi ông đã  về già, những kỷ niệm của đời người tưởng đã rất xa mà lại sẫm màu hiện tại.

Về đây cả một cuộc đời

Tim ta tìm lại bồi hồi ngõ đêm

Trên kí ức một hiên thềm

Biển vui thở sóng dãy đèn ngã tư

Thăm đường cũ ngày tuổi nhỏ, quãng sau 1980.

Nguyễn Xuân Sanh còn nổi tiếng là một dịch giả thơ có uy tín. Cùng với Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Đào Xuân Quý... Một thế hệ vàng trong việc chuyển ngữ từ tiếng Pháp sang tiếng Việt thơ của các nhà thơ nổi tiếng cả ở 5 châu lục, nhất là các nhà thơ phương Tây. Heinrich Heiner, G.Apollinaire, Paul Éluard, Adam Mikiewicz, Petofi Sándor... Hai trăm bài thơ dịch của Nguyễn Xuân Sanh góp phần vào việc xây dựng nền tảng cho văn học dịch ở lĩnh vực thơ ca. Ông dịch thơ tây mà bình di dễ hiểu. Nhớ mãi cảnh mùa thu thân thuộc chẳng khác gì làng quê Việt Nam trong thơ Apollinaire, khi người nông dân dắt bò đi trong sương mù buổi sớm, nó che nỗi thẹn thùng của thôn xóm nhỏ. Người nông dân vừa bước đi vừa ngâm nga bài ca về tình yêu và lòng bội bạc để kết thúc bằng một câu cảm thán. Ôi! mùa thu đã giết chết mùa hè. Giữa sương mù hai bóng xám ra đi.

Nghề làm văn, làm thơ là nghề của ân tình. Nếu không thế thì làm để làm gì nữa. Tôi biết Nguyễn Xuân Sanh là nhờ học thuộc lòng bài thơ Vườn dừa của ông trong sách tập đọc lớp 4 hồi năm 1960. Khi vào đại học năm 1968 biết thêm Buồn xưa. Một trong số ít bài thơ được nhớ vì quá đặc biệt, không giống một ai. Thơ đã đành rằng quý một đằng vì hồn người ở đấy. Nhưng khi tuổi càng già đi với bao trải nghiệm nhiều khi đắng cay ở cuộc đời này thì càng quý trọng tình người, tình đời, tình bạn bè... Càng yêu quý và trân trọng, đồng cảm với Nguyễn Xuân Sanh. Ông quê gốc ở Quảng Bình nhưng sinh ra ở Đà Lạt. Thời đầu những năm 1930, Cụ thân sinh làm thừa phái ở Quy Nhơn. Vì vậy Nguyễn Xuân Sanh học ở trường Quốc học Quy Nhơn. Trường có thầy Tú Thọ, thân phụ nhà thơ Xuân Diệu. Thầy Tú dạy chữ nho vào thứ 5 hàng tuần. Xuân Diệu cũng học ở trường đó trước Nguyễn Xuân Sanh mấy năm. Tình bạn giữa Chế Lan Viên và Nguyễn Xuân Sanh thật cảm động. Trong thư Chế Lan Viên gửi ông ngày 20-4-1988 có viết: "Sanh à, mình có về Bình Định, tìm ra cái nền nhà mình, tức là nhà Sanh bên cạnh". Nguyễn Xuân Sanh và Chế Lan Viên khi ở Quy Nhơn cũng như khi về nhà bố mẹ ở sát bên nhau, ngoài cửa đông thành cổ Bình Định, thị trấn An Nhơn, thường nói chuyện với nhau về Hàn Mạc Tử. Nhớ lại việc in Điêu Tàn, hồi 1957, Chế Lan Viên viết. Hồi đó Sanh đứng ra xem in Điêu Tàn, và lo cho cả việc đòi nợ của Thái... Thất Lang Nam kỳ bây giờ. Sanh có nhớ bữa hai đứa đi đòi được 20 đồng, Sanh dẫn Hoan đi may brique?.

Năm 1937, Chế Lan Viên gửi Điêu Tàn từ Quy Nhơn ra Hà Nội cho Nguyễn Xuân Sanh. Một buổi chiều, Xuân Sanh liều mạng xông bừa vào nhà in Thụy Ký ở phố Hàng Gai. Vì cái liều ấy mà được nhận in Điêu Tàn với giá 50đ. Nguyễn Xuân Sanh đã lo sốt vó vì số tiền thật là quá to. Xuân Diệu nhận sắp xếp lại trật tự các bài thơ trong Điêu Tàn. In xong, Xuân Sanh gói ghém Điêu tàn gửi vào Quy Nhơn cho Chế Lan Viên để phát hành ở trong Nam, còn ông tự đi phát hành ngoài Hà Nội để có tiền trả cho Thụy Ký. Điêu Tàn, một trong những tập thơ nổi tiếng nhất thế kỷ 20 đã bước ra cuộc đời một phần nhờ tình bạn như vậy đấy.

Huy Cận trong Hồi ký song đôi có kể một kỷ niệm đáng nhớ của ông và Xuân Sanh, khi họ mới chập chững bước vào nghề văn. Hồi mùa hè 1936, Huy Cận có mấy bài bình văn được đăng báo Sông Hương do Phan Khôi làm chủ bút, Hoài Thanh làm biên tập. Xuân Sanh khuyên Huy Cận đến thăm tòa báo. Vào một buổi chiều, hai người tìm đến trụ sở báo ở phố Gia Hội. Hoài Thanh tiếp họ. Nói chuyện văn học hợp gu lắm. Cả hai người rào trước đón sau quanh co mãi rồi cũng hé ra cái chủ ý muốn tiền nhuận bút. Nhưng cả hai ông phải về tay không, vì những bài của Cận chỉ là những bài lai cảo không được trả tiền.

Cuối tháng 5-2019, tôi đi tìm gặp Nguyễn Xuân Sanh, với cái vinh hạnh một kẻ hậu thế được trực tiếp kiến diện người cuối cùng của phong trào Thơ Mới. Nguyễn Xuân Sanh mấy năm nay về nương tựa tại nhà con gái ông ở phường Khương Trung, đường Tô Vĩnh Diện. Tôi đã xem nhiều sách của các cụ nhà ta ngày xưa cũng như các học giả thời hiện đại về kinh thành Thăng Long thấy rất ít nói về làng Khương lắm! Khương Hạ, Khương Trung, Khương Thượng xưa là đất trồng rau, đặc biệt là trồng gừng để phục vụ cho việc làm thuốc trong Hoàng Thành. Ở đây có cả một xóm người Chăm theo quan quân triều đình ra đây lập nghiệp từ hồi thế kỷ 13, 14. Sau này thời thực dân, phát sinh một số gia đình làng Khương làm nghề thợ nguội ở trên phố hàng Thiếc... Cư dân cả 3 làng đều là tầng lớp bình dân cả. Khác với bên kia sông Tô Lịch - bên làng Mọc, làng Quan Nhân... toàn là đất học và đất làm quan. Có nhiều danh sỹ người gốc vùng đấy... Trong cuốn Hà Nội Chỉ Nam có phụ đề bằng tiếng Pháp Guide de Hanoi được Nghiêm Hàm ấn quán in 1923 thì nếu đi xe điện từ Bờ Hồ qua Hàng Gai, Hàng Bông rồi Thái Hà ấp (sào quật của các cô đào) đến Ngã Tư Sở vào Hà Đông cả hai đường giá vé hạng ngồi đệm da người lớn 7 xu, trẻ con 3 xu. Đến Ngã Tư Sở xuống tàu đi bộ vào Khương Trung. Còn nếu đi xe ngựa cao xu thì phải thuê nửa ngày tại tiệm Maison Tricolore ở 46 Hàng Lọng hết 6 đồng bạc Đông Dương. Xa xôi quá. Tôi làm một tour taxi đến đường Tô Vĩnh Diện thì dừng lại xuống xe đi bộ. Đoạn đường không phải thật là dài. Nhưng cũng đủ để tôi ôn lại đường đời đường thơ qua một thế kỷ mà gió mưa đã đưa chàng hoàng tử trong Buồn xưa đến cư ngụ tại nơi xa xôi và hẻo lánh nhất của kinh thành xưa. Tôi đã đi theo chàng qua nhiều địa chỉ ở cuối bài thơ. Đà Lạt. Quy Nhơn. Huế. Hà Nội. Vùng than Quảng Ninh. Việt Bắc. Bungari. Rumani. Paris. Mascơva. Bắc Kinh... và sáng hôm nay tôi đi tiếp đoạn đường có lẽ là đoạn đường cuối cùng của chàng. Đời người ta sao phiêu diêu thế nhỉ? Đến nhà rồi. Đó là một tòa nhà hai tầng. Vẻ bề ngoài nhỏ mà yên tĩnh và thanh lịch. Ở tầng trệt hình thành 5 không gian sống không có vách ngăn đầy đủ. Bước vào nơi để xe đạp, xe máy và giày dép. Tiếp theo bên trái là nơi đặt 4 chiếc ghế giả da đã cũ dùng để tiếp khách. Một bên là tường. Một bên dựa vào chiếc tủ đứng bằng ván công nghiệp. Trong khung kính phía trên tủ có đặt ảnh chân dung của Vũ Tú Nam và Nguyễn Xuân Sanh. Đằng sau cái tủ ấy rộng chừng hơn 1m bề ngang đủ kê một chiếc giường và bàn làm việc cho nhà văn Nguyễn Cẩm Thạnh. Sinh 1927. Phu nhân của nhà thơ. May mắn diện tích nhỏ này có 1 khung cửa sổ đón ánh sáng từ bên ngoài vào. Tôi xin phép chị Nguyễn Thị Việt Triều, người con gái hiếu thảo thay mặt cả gia đình chăm sóc nhà thơ và vợ ông lúc cuối đời, cho tôi được vào kiến diện ông. Đi qua một khu bếp nhỏ chừng vài m2 nhiều đồ đạc bước vào ngăn thứ 5 với một khoảng sân trời nhỏ để đón ánh sáng tự nhiên. Kế đến là diện tích vừa đủ đặt chiếc giường. Màn buông kín và có nhiều cặp nhựa nhỏ kẹp theo mép đỉnh màn. Trong màn là một cụ già đầu tròn, tóc cắt sát da đầu, mắt nhắm, phía trên một góc màn là dây tiếp thuốc. Có 1 dây đưa thẳng vào bụng để truyền thức ăn. Tự dưng tôi ứa nước mắt. Đó là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh - chàng hoàng tử của Buồn xưa, người tôi đã thấy đẹp trai, hào hoa phong nhã trong những bức ảnh hồi kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc và những năm sau hòa bình của nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Im lặng choán chỗ không gian sống. Tôi không nhớ khi ngồi ở chỗ ghế khách bên ngoài hay ở đây, hay ở ngoài ngõ vắng 102, tôi đã đọc thật to: Em nhớ trái dừa tròn, Của quê em Bình Định, Lấy ngón tay em tính, Ngày trở lại vườn dừa. Mắt nhà thơ đương nhắm nghiền chợt mở ra ở phía bên trái. Tôi đọc tiếp thật to: Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà bật ra từ vô thức. Tôi như thấy khóe miệng của người trăm tuổi ấy nở ra một nụ cười khô héo mà thật phong nhã, kiêu sa. Vâng! Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Và trong góc chật hẹp của gian phòng nhỏ bé này như vang lên khúc Dạo chơi của Paul Éluard qua lời của người đang im lặng nằm bất động trong cái màn mà đỉnh của nó đính đầy kẹp nhựa định mệnh kia.

Bé hơn một quốc gia

Nhưng đất rộng vô song

Đất thuộc về tôi nơi đây và nơi đó

Ở bất cứ nơi đâu khác nữa...

 

Hà Nội, tháng 5 đến tháng 8 -2019

Nguồn: Báo Văn nghệ số 35+36 ngày 31/8/2019

I.DẪN NHẬP

Đối thoại thay cho đối đầu: Chúng ta dễ dàng thống nhất về tính quy luật của thực tiễn -thời đại ngày nay đối thoại thay cho đối đầu (trên tất cả các  lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa - nghệ thuật, đạo đức,...). Trái đất là ngôi nhà chung của thế giới,theo cách diễn đạt của nghệ sỹ ngôn từ thì đó là một “cõi nhân gian bé tý”. Đối đầu là hủy diệt, đối thoạilàhòa bình,là cùng tồn tại. LESTER PEARS (1897-1972), nguyên Thủ tướng Canada,Giải thưởng Nobel Hòa bình 1957, đã viết: “Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên khi mà các nền văn minh khác nhau phải học cách cùng sống trong hòa bình, học hỏi lẫn nhau, nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật của nhau; cùng nhau làm phong phú thêm cái vốn của những nền văn minh khác nhau. Đi ngược lại, thế giới nhỏ bé chật chội này chỉ còn lại sự hiểu lầm, căng thẳng, va chạm và thảm họa… Một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh là một bảo đảm an toàn nhất chống lại chiến tranh thế giới” (theo Wikipedia tiếng Việt). Mẫu mực của đối thoại Việt Nam chính làChủ tịchHồ Chí Minh. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong tiểu luận Đối thoại Hồ Chí Minh siêu phẩm của trí tuệ và tài năng đã nhận xét: “Trong di sản về tư tưởng và văn hóa có một bộ phận đặc biệt là đối thoại Hồ Chí Minh. Đối thoại Hồ Chí Minh thể hiện qua ba phạm vi đối thoại với nhân dân, với ngoại giao và đối thoại với báo chí (…). Toàn bộ đối thoại Hồ Chí Minh là một kỳ tích của trí tuệ, tài năng và tài ứng xử của Người” (Báo Văn nghệ số 35+36, ra ngày 31-8-2019).

Đối thoại đang trở thành một tập quán/cách hành xửtốt đẹp của đời sống hiện nay. Trong lĩnh vực lý luận - phê bình, tinh thần đối thoại càng trở nên cấp thiết, nó thể hiện tính dân chủ của nền văn chương đổi mới.

Đối thoại thay cho độc thoại:Thể hiện tính dân chủ của các quan hệ xã hội, phá thế “độc quyền chân lý”, dỡ bỏ rào cản bảo thủ, kìm hãm, duy ý chí, tạo cơ hội cho những tư tưởng mới có điều kiện phát huy tính tích cực. Độc thoại thực chất là “toàn trị”, sở hữu chân lý (tuyệt đối). Đối thoại là “thế giới mở”, là đa thanh âm, là kiếm tìm chân lý (tương đối). Đối thoại thể hiện sự trưởng thành của thế hệ, cá nhân/(một cá nhân có khát vọng vươn tới danh hiệu “công dân toàn cầu”). Đối thoại nảy nở trên nền tảng của một “thế giới phẳng”. Vì thế Trần Đăng Khoa mới có thể tung bút viết Chân dung và đối thoại (tái bản nhiều lần) - một cuốn sách hay, bán chạy (best-seller) nhưng tất nhiên gây “bão” trong dư luận văn giới. Trên tinh thần đối thoại cởi mở thay cho độc thoại khép kín, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã có cuộc đối thoại thẳng thắn với Giáo sư xã hội học Mỹ B. Katsiaficas (Viện Công nghệ Wentworth). Cuộc đối thoại thú vị mang tên Một cách nhìn về Tết Mậu Thân (thực hiện năm 1992, in trong sách Lãng du trong văn hóa Việt Nam, NXB Thanh niên, 2007, trang 648 đến 653). Chúng tôi đã có cuộc đối thoại nghề nghiệp bổ ích do Tạp chí Văn hóa Nghệ An (số tháng 5-2015) tổ chức thực hiện dưới chủ đề Đối thoại về văn học hậu chiến Việt Nam. Gần nhất là Đối thoại về tác phẩm “nóng” trong văn chương hiện nay (Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số tháng 5-2019). Đối thoại, dưới ánh sáng của phát triển, sẽ giúp chúng ta tiệm cận chân lý nhanh hơn, tốt hơn. Gần đây trong phê bình có hình thức “luận chiến”. Xét về một khía cạnh nào đó, “luận chiến” và “đối thoại” có nét tương đồng. Nhưng cái khác biệt là, “đối thoại” không dẫn đến việc phân chia thành “chiến tuyến” (đôi khi thành “đấu khẩu”) trong hành động phê bình. Trước sau chúng tôi tán đồng quan niệm: “Nghệ thuật đi tìm cái đẹp trong đời sống. Phê bình đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật”.

II.NHẬN DIỆN PHÊ BÌNH THẾ HỆ F

Phê bình thế hệ là gì/ai?Chúng tôi dẫn trực tiếp quan niệm của một tác giả thuộc thế hệ 8X, tự nhận mình và đồng nghiệp cùng trang lứa thuộc vào thế hệ f: “Muốn hiểu về thế hệ nhà nghiên cứu trẻ, trưởng thành từ đầu thế kỷ XXI mà chúng tôi gọi là thế hệ f, chúng ta cần hiểu về những điều kiện (condition) mà họ thuộc về, đó chính là điều kiện hậu hiện đại, mà ở Việt Nam cụ thể hơn chính là trong bối cảnh tin học hóa và mạng hóa (...). Ngày nay, thật khó hình dung đời sống phê bình đương đại nếu thiếu đi những tiểu luận, công trình của thế hệ f. Nhưng trước tiên, họ là ai? Nhiều người định danh thế hệ lý luận phê bình mới này theo tuổi, từ 7X, 8X, 9X. Một số người khác, gọi tên thế hệ này dựa trên “cách viết đặc thù” của họ, là “thế hệ viết trên mười đầu ngón tay (...). Nhưng theo chúng tôi, f trước tiên là facebook (...). Lấy facebook làm biểu tượng, dĩ nhiên còn một ý nghĩa sâu xa khác, đó là cách thức kết nối và thể hiện sự quan tâm đặc thù của thế hệ này đối với đời sống văn học” (Dẫn theo sách Văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới [1986-2016] - Sáng tạo và tiếp nhận. NXB Văn học, 2017, trang 84-89). Bàn về những thuận lợi và khó khăn của nghiên cứu/phê bình thế hệ f, nhà nghiên cứu/phê bình trẻ Phan Tuấn Anh xác tín: “Mặc dù có nhiều thuận lợi, nhưng nghiên cứu văn học thế hệ f vẫn phải đối mặt với “những con thủy quái hồ Loch Ness” - tức những khó khăn và nguy cơ trong thời đại viết của họ. Thứ nhất, so với mặt bằng chung của người đọc bình dân, những tác phẩm phê bình của họ thường vượt qua tầm đón nhận của độc giả bình thường. Bởi vì, khác với phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, cũng khác với phê bình tiểu sử học hoặc xã hội học truyền thống, đa phần những nhà phê bình thế hệ f đều là phê bình lý thuyết (lấy lý thuyết làm đối tượng phê bình), hoặc ứng dụng những lý thuyết mới mẻ của phương Tây vào việc khảo cứu văn bản. Lối phê bình này kén người đọc, dễ tạo cảm giác khô khan, nặng nề, lại đòi hỏi người đọc phải có một tầm đón nhận nhất định, có sự tìm hiểu sơ bộ lý thuyết. Thứ hai, nhằm truy cầu những cái mới có tính cách mạng, vượt chuẩn, lệch chuẩn, phù hợp với các lý thuyết mà họ theo đuổi, các nhà phê bình thế hệ f thường không chọn những tác phẩm dễ đọc, các best seller, những tượng đài cũ kỹ, mà chủ yếu lấy đối tượng khảo cứu là những tác gia, tác phẩm có sự phổ biến hẹp, hoặc nổi danh trên thế giới nhưng ở Việt Nam có thể còn vượt ngưỡng tiếp nhận với đa phần người đọc” (Sđd, trang 91). Như thế, chúng ta đã rõ như dưới thanh thiên bạch nhật, phê bình thế hệ f đề cao “tinh hoa”, bỏ qua “ đại chúng”, đề cử cái “nâng cao”, hạ thấp cái “phổ cập”. Không ít cây bút phê bình trẻ tự nhận mình thuộc “nhóm tinh hoa”. Tự tin là một phẩm chất tốt của người trẻ trong bất kỳ lĩnh vực đời sống nào hiện nay như chúng ta thấy nhỡn tiền. Nhưng nếu lún sâu vào “vượt chuẩn”, “lệch chuẩn” liệu họ có khả năng tạo ra cái mới/giá trị mới trong lĩnh vực tinh thần/ sáng tạo nghệ thuật (?!). Câu trả lời không quá khó! 

Lực lượng/đội ngũ phê bình thế hệ FDõi theo trang website “phebinhvanhoc.com.vn” của nhóm chủ trương (Phạm Phương Chi/Trần Thiện Khanh/Đinh Văn Thuần), thiết kế trang “Phê bình văn học” (Literature Criticsm Online), chúng tôi truy cập được mục “THẾ HỆ F”,với danh sách khá dài/đông đảo/hùng hậu gồm hơn 40 cây bút đang ăn khách. Họ gồm (ghi chưa đầy đủ, theo thứ tự ABC): Hoàng Thụy Anh, Nguyễn Phúc Anh, Thái Phan Vàng Anh, Phan Tuấn Anh, Phạm Văn Ánh, Nguyễn Duy Bình, Cao Việt Dũng, Trần Trọng Dương, Đoàn Ánh Dương, Hoàng Cẩm Giang, Quách Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Năm Hoàng, Trần Ngọc Hiếu, Lê Nguyên Long, Trần Thiện Khanh, Hoàng Đăng Khoa, Hoài Nam, Đỗ Hải Ninh, Lê Thiếu Nhơn, Đoàn Minh Tâm, Nguyễn Thanh Tâm, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh Tiến, Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Thuấn, Nguyễn Thị Minh Thương, Nhã Thuyên, Lê Hương Thủy, Phạm Xuân Thạch, Phùng Gia Thế, Hồ Khánh Vân, Nguyễn  Thanh Sơn,... Nhưng vấn đề đáng nói ở đây là, khái niệm “thế hệ” không quy vào số lượng/đội ngũ tác giả. Chúng tôi tán thành quan điểm của nhà phê bình Chu Văn Sơn (1962-2019) về khái niệm thế hệ: “Một thế hệ văn học thực sự phải là chủ thể cốt lõi của một chặng đường văn học. Đó là một lớp người cầm bút được kết nối bởi cùng một hệ giá trị chung của thời mình. Họ vừa là kẻ sản sinh lại vừa là sản phẩm của hệ giá trị đó” (Dẫn theo sách Thế hệ nhà văn sau 1975, NXB Hội Nhà văn, 2006, trang 8). Vậy liệu những người tự xưng/nhận mình thuộc “thế hệ F” đã thực sự tạo nên một thế hệ theo đúng nghĩa đích thực của từ này (?!). Bất cứ lĩnh vực nào cũng đặt ra vấn đề tiếp nối thế hệ như điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại, theo quy luật tre già măng mọc. Theo chúng tôi, đang diễn ra một tình trạng đứt gãy thế hệ, như ai đó nói trong làng thơ ca đang hiện hữu cái ý đồ “chôn Thơ mới”(?!).

20200217pb

III. “TINH THẦN ĐỐI THOẠI” CỦA “PHÊ BÌNH THẾ HỆ F

Đối thoại về “cái khác”: Ngay tên sách cũng thể hiện tinh thần mải miết đi tìm “cái khác” của phê bình thế hệ f. Trường hợp Hoàng Thụy Anh với tác phẩm Phê bình văn học & ý thức cái khác (NXB Hội Nhà văn, 2018) là một ví dụ rõ ràng, gần nhất. Chúng tôi truy nguyên mầm mống của quan niệm về “cái khác”, rất có thể tác giả này đã ảnh hưởng người đi trước Đỗ Lai Thúy (tác giả của Thơ như là mỹ học của cái khác). Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy có cách lập luận của riêng mình chưa hẳn đã thuyết phục giới nghiên cứu - lý luận - phê bình: “Mỹ học tiền hiện đại là mỹ học của cái đẹp (...). Mỹ học hiện đại là mỹ học của siêu tuyệt (...). Mỹ học hậu hiện đại là mỹ học của cái khác (...). Đây là mỹ học trò chơi, trò chơi ngôn ngữ” (Thế hệ nhà văn sau 1975, Sđd, trang 27-28). Trong Hội nghị LLPBVH do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, 2016 tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc), nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - có nêu một ý kiến được nhiều người quan tâm, tán thành: “cái khác nào cuối cùng cũng không ra ngoài phên giậu của cái dân tộc - nhân văn - nghệ thuật, lại càng không ra ngoài quỹ đạo chân - thiện -mỹ”. Trong tập tiểu luận phê bình của Hoàng Thụy Anh, người đọc thấy tác giả say sưa với “Những khu vực văn học ngoại biên” và ý thức ngoại biên của Phan Tuấn Anh  (trang 20-28). Theo Hoàng Thụy Anh chú giải thì, tác phẩm Những khu vực văn học ngoại biên của Phan Tuấn Anh sẽ được nhà xuất bản Tao Đàn (Hà Nội) ấn hành trong tương lai gần (!?). Thực ra thì cuộc đối thoại về “trung tâm” và “ngoại biên”, theo chúng tôi, không phải là vấn đề hàng đầu/trọng tâm/quan thiết/sống còn của toàn bộ nền văn học dân tộc thời hiện đại/đương đại. Nếu say sưa với “ngoại biên” thì vô tình hay hữu ý nhà văn sẽ kéo văn chương xa rời đời sống của nhân dân, cuối cùng chỉ còn là những bản sao của các “tự ngã”. Khi bàn về văn chương trẻ, tôi ghi nhớ một ý của nhà thơ Hữu Thỉnh: “Văn trẻ giỏi thêu thùa bản thân nhưng kém vá may cho người” (!?). Các giá trị trở thành cổ điển của văn chương Việt Nam mười thế kỷ (X - XX) không dính dáng gì đến/hoàn toàn xa lạ/không liên đới mảy may với cái gọi là “trung tâm” hay “ngoại biên”. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,... chắc chắn không sáng tác theo cảm hứng/tâm thế “ngoại biên” hay “phi trung tâm” (!?).

   

Vấn đề đặt ra là “cái khác” có đồng nghĩa với “cái mới”? Lẽ thông thường, cái mới tạo nên giá trị mới, còn “cái khác” lại chỉ đồng nghĩa với “cái lạ” (đánh mạnh vào tâm lý/thị hiếu ham thanh chuộng lạ của con người). Chẳng hạn nhà phê bình Đoàn Ánh Dương đã viết tiểu luận Những biểu thuật hậu thực dân: Văn học đổi mới như là di sản hậu thuộc” (in trong sách Không gian văn hóa đương đại, NXB Phụ nữ, 2014, trang 9-32). Trong mở đầu Nơi con đường bắt đầu (Thay lời mở sách), tác giả viết: “Đọc văn học Việt Nam hiện đại từ điểm nhìn hiện tại, theo đó, dù khuôn gọn đến mấy trong phạm vi nghệ thuật, vẫn khó tách rời các can hệ về mặt xã hội, văn hóa và lịch sử của một dân tộc đã nếm trải rõ rệt quá trình thực dân hóa, và đang phải chứng nghiệm những di sản hậu thực dân một cách khá rõ ràng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Bởi nhà văn hôm nay, nhất là nhà văn ở các nước thế giới thứ ba, luôn được/bị đòi hỏi nhiều hơn phẩm tính của một nghệ sỹ. Họ không chỉ là nhà văn trong hệ thống văn học mà còn là trí thức trong một hệ thống văn hóa, trở thành những di chỉ tiếp nối của di sản quá khứ trong suốt quá trình kiến tạo dân tộc” (Sđd, trang 6). Suốt hơn 30 năm qua, theo quan sát của chúng tôi, cũng chỉ có duy nhất một tác giả này khẳng định “Văn học đổi mới như là di sản hậu thuộc” (!?). Đó là “cái khác” chăng? Tiến xa hơn, anh khẳng định: “Tuy nhiên, phải đến nhóm Mở Miệng thì tính chất của trí thức mang biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc (nationalism) mới thể hiện rõ nét” (Sđd, trang 31). Đến đây thì tất cả chúng ta thấm thía “cái khác” trong quan niệm viết phê bình của thế hệ f. Về vấn đề tiếp thu lý luận “hậu thực dân” mà tác giả trẻ này hăng hái đặt ra, theo chúng tôi cần tham khảo ý kiến của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Dân: “Gần đây chúng tôi thấy ở Việt Nam người ta bắt đầu nói đến “triển vọng của nghiên cứu hậu thực dân trong văn học”. Song, thực tế là vấn đề văn học hậu thực dân trên thế giới đã xuất hiện ở (và đối với) những nước thuộc địa cũ của Pháp, Anh và Mỹ, đó là những nước vẫn còn giữ lại những thiết chế chính trị và văn hóa mẫu quốc, họ có vấn đề về mâu thuẫn giữa thiết chế với bản sắc dân tộc, có vấn đề tìm lại bản sắc dân tộc sau chế độ thực dân, bởi lẽ các nước đó sau khi độc lập vẫn nằm trong Liên hiệp Pháp hay trong khối Thịnh vượng chung của Anh. Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, không phải tất cả những nước đã qua giai đoạn thuộc địa đều có vấn đề về hậu thực dân (...). Tương tự, Việt Nam đã giành được độc lập bằng cuộc cách mạng dân chủ, thiết lập một chế độ mới với những thiết chế chính trị và văn hóa mới hoàn toàn. Do đó, cũng giống như Hoa Kỳ, Việt Nam hoàn toàn không có vấn đề hậu thực dân” (Báo Văn nghệ số 33, ra ngày 17-8-2019). Theo chúng tôi, cái khác ngày càng xa cái đúng (“sức mạnh của cái đúng”).

Tuy nhiên, cũng phải công bằng khi luận bàn về “tinh thần đối thoại” của phê bình thế hệ f qua một số trường hợp ở đó sự viết/đối thoại có biệt sắc, có giới hạn, có khả năng đóng góp như Lê Hồ Quang với Âm thanh của tưởng tượng (NXB Đại học Vinh, 2015), Hoàng Đăng Khoa với Song hành & đối thoại (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2018); Phùng Gia Thế với Văn học Việt Nam sau 1986 -phê bình đối thoại(NXB Văn học, 2016), Nguyễn Thanh Tâm với Giới hạn của những huyền thoại  (NXB Văn học, 2017). Người đọc quý cái đức tính khiêm tốn của tác giả Nguyễn Thanh Tâm khi anh thẳng thắn: “Giới hạn hàm chứa dự phóng về một không gian khác phía bên kia. Bởi vậy, cần phải mang ơn giới hạn vì những giục giã mà nó gợi lên, cũng như cuốn sách này, mang ơn những ai đã đọc, đã nhận thấy và chỉ ra giới hạn của nó” (Lời đầu sách). Tác phẩm này nhận Giải thưởng năm 2017 của Hội đồng LLPBVHNT Trung ương. Tinh thần đối thoại, theo chúng tôi, thể hiện khá độc đáo/nề nếp trong tác phẩm nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 2016 - Âm thanh của tưởng tượng (NXB Đại học Vinh, 2015) của Lê Hồ Quang. Lối viết của tác giả, theo tôi, tuy đầy tính chất “khiêu khích”, nhưng sẵn sàng đối thoại trên tinh thần khoa học, công bằng và thể tất. Ví dụ phê bình Nghệ thuật của sự đơn giản (Đọc Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh, NXB Hội Nhà văn, 2006). Tác giả dẫn lại bài Tập làm thơ (đứng cuối tập) của Phan Thị Vàng Anh: “Tôi có tài, tôi có tài, tôi có tài/Chẳng bao giờ đến mức “tai một vần”/Đã cố cầu kỳ hết những dòng trên, giờ thì buồn ngủ/Nhai cái kẹo lạc dính hai hàm răng chẳng muốn/mở miệng ngáp một lần”. Lê Hồ Quang viết: “Ai đó có thể nghĩ rằng đấy là một cách ứng xử không nghiêm túc với thơ ca. Nhưng tại sao chúng ta lại không thể nghĩ rằng đấy là một sự lựa chọn có ý thức của người viết? Thơ ca có nhiều con đường để tồn tại và đơn giản, hiểu theo nghĩa là sự tiết chế cao độ những dễ dãi cảm xúc và những bóng bẩy, du dương sáo ngữ, để có thể diễn tả tiếng nói nội tâm một cách thẳng thắn, công khai và thành thực, thì tại sao không? (...). Với tôi, Gửi VB là tập thơ để lại nhiều ấn tượng thú vị và tôi cho rằng, sự đơn giản của nó không chỉ là đơn giản, mà đúng hơn, đó là nghệ thuật của  cái đơn giản trong cuộc sống, trong sự sáng tạo” (Sđd, trang 232). Có lẽ, chúng tôi nghĩ, tác giả muốn nhấn mạnh, qua cách viết của mình, một tiên đề “cái đẹp là sự giản dị”.

Đối thoại về phương pháp phê bình: Đang rộ lên như một cuộc thi đua các phương pháp phê bình “phi truyền thống” (thực chất là “nhập khẩu”, “nhập siêu”) như phê bình phân tâm học, phê bình ký hiệu học, phê bình sinh thái học,phê bình hậu hiện đại,... để đối trọng với phê bình truyền thống như phê bình ấn tượng, phê bình xã hội học, phê bình tiểu sử, phê bình macxit,... Người Pháp có câu “mọi nẻo đường đều dẫn đến tháp Eiffel”. Thiết nghĩ, mỗi phương pháp đều có hạn chế cũng như khả thủ của nó. Gần nhất, một tác giả có kinh nghiệm trường văn trận bút đã tung ra một cuốn sách về phê bình ký hiệu học. Khi vận dụng phương pháp này vào khảo cứu văn chương trên cơ sở “thực tiễn tinh hoa” đã lộ ra những bất cập đáng tiếc. Một tác giả khác thì trói voi bỏ rọ, “nhốt” từ Hồ Xuân Hương đến Hoàng Cầm (cách nhau mấy trăm năm) vào cái gọi là “libido”. Những luận cứ/luận giải thực sự ít thuyết phục người đọc vì tác giả quan tâm, đề cao “cái khác” một cách cực đoan.

Vậy còn “phê bình thế hệ f, họ say mê phương pháp nào? Ai có theo dõi đời sống văn chương đương đại thì không khó nhận thấy đang có một “cơn sốt nhẹ” về “phê bình phân tâm học”, “Phê bình ký hiệu học”,“phê bình hậu hiện đại”,đặc biệt hấp dẫn là “phê bình sinh thái”. Có hẳn một cuốn sách Phê bình sinh thái là gì? (Hoàng Tố Mai [Chủ biên], NXB Hội Nhà văn, 2017). Đây là công trình dịch và tổng thuật tập thể. Một tài liệu tham khảo cần thiết cho giới nghiên cứu- lý luận - phê bình văn học nước nhà, xét từ một khía cạnh và mức độ nào đó. Có hẳn một Hội thảo khoa học Quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu” do Viện Văn học (Viện HLKHXH Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội, ngày 14-12-2017, với hơn 100 tham luận của các tác giả trong nước và quốc tế. Các luận văn ở các trường đại học, viện nghiên cứu đã rục rịch và đông đảo dần hai chữ “sinh thái”. Đó là tâm lý sợ tụt hậu, sợ mang tiếng “ếch ngồi đáy giếng”. Nhưng có hẳn một công trình riêng dành cho phê bình sinh thái, thì quả thật còn hiếm hoi, như Rừng khô, suối cạn, biển độc...và văn chương(Phê bình sinh thái) của Tiến sỹ Nguyễn Thị Tịnh Thy, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành (năm 2017). Trong 4 chương của sách, 3 chương luận chung về phê bình sinh thái, 1 chương “Thực hành nghiên cứu”. Nhưng các tác giả được “chạm” đến thì chỉ có 2  nhà văn Việt Nam, còn lại là các nhà văn nước ngoài (Trung Quốc nhiều hơn cả). Trong Lời giới thiệu “Phê bình sinh thái ở Việt Nam: quen mà lạ”, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy nhiệt tình cổ xúy: “Thuộc hệ hình phê bình hậu hiện đại, phê bình sinh thái đã góp phần giải phóng phê bình văn học Việt Nam hiện hành thoát khỏi sự cầm tù của văn bản, tức phê bình nội quan hiện đại chủ nghĩa, tiếp cận tác phẩm từ văn bản, để đến với lối tiếp cận tác phẩm từ  người đọc, tức phê bình nội - ngoại quan, chuyển từ văn học sang văn hóa” (Sđd, trang 7). Chúng tôi muốn đối thoại với ông Đỗ Lai Thúy rằng, chưa bao giờ phê bình bám chặt văn bản lại không có cơ sở để gia tăng hàm lượng văn hóa, lại không có cơ sở để chuyển từ văn học sang văn hóa (văn chương là nghệ thuật ngôn từ). Chúng tôi cũng mong manh tin rằng, khi tác giả công trình Rừng khô, suối cạn, biển độc...và văn chươngviết: “phê bình sinh thái đã phần nào làm thay đổi thái độ của nhân loại với tự nhiên thông qua lý thuyết của mình” (Sđd, trang 16). Chưa từng có một phương pháp phê bình nào lại có sức mạnh vô song như thế trong lịch sử văn chương nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.

Tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong tiểu luận Văn xuôi Việt Nam sau đổi mới từ gợi dẫn của phê bình sinh thái nữ quyền”(trong sách Văn  học Việt Nam ba mươi năm đổi mới [1986-2016] - Sáng tạo và tiếp nhận, NXB văn học, 2017, trang 311- 321) đã vận dụng phương pháp phê bình kép sinh thái - nữ quyền để đi tới nhận định: “Hành trình bóc lột tự nhiên gắn liền với hành trình bóc lột phụ nữ (...). Phê bình sinh thái nữ quyền có sự giao cắt với chính trị, điều đó khiến cho phê bình sinh thái thực sự nhạy cảm với các vấn đề thời sự. Đó là lý do vì sao phê bình sinh thái bắt nhịp được với những vấn đề của xã hội Việt Nam đương đại” (Sđd, trang 320-321). Theo cách diễn đạt của tác giả thì, phê bình sinh thái là “bảo bối”, là “vạn năng”, là “mắt thần”. Nhưng thực tiễn chứng minh không như thế. Vì sao có sự khập khiễng giữa lý thuyết và thực tiễn? Theo chúng tôi, quan điểm của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Dân là khá thuyết phục. Trong tiểu luận văn học Tình hình tiếp thu lý luận, phê bình văn học nước ngoài hiện nay (Báo Văn nghệ, số 33 ra ngày 17-8-2019), ông đã  chỉ ra tình trạng: 1/Chưa chú ý đầy đủ đến tính khả dụng của lý thuyết, 2/Tình trạng sai biệt trong tiếp thu lý thuyết, 3/Tình trạng thiếu cân nhắc trong tiếp thu. Về phê bình sinh thái, tác giả nhấn mạnh: “Tình trạng sai biệt cũng xảy ra với việc tiếp nhận lý thuyết phê bình sinh thái nói chung và phê bình sinh thái tinh thần nói riêng. Hiện nay ở Việt Nam, một số người đã tiếp thu một quan niệm của Trung Quốc cho rằng: Sinh thái học văn học, ngoài xu hướng nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh thái (môi trường tự nhiên với văn học), còn có xu hướng nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học với môi trường văn hóa tinh thần - xã hội như là một vấn đề sinh thái. Nhưng thực sự đây có đúng là phê bình sinh thái tinh thần không?”.

Đối thoại về “trò chơi” và lối viết

Tác giả Thái Phan Vàng Anh xác quyết: “Một trong số các lí thuyết văn học tác động mạnh mẽ đến tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI là lí thuyết hậu hiện đại (...) Không còn “phương pháp sáng tác’, “nguyên tắc xây dựng nhân vật’, hệ thống “thi pháp” như là những “chuẩn mực” trong việc “tái hiện” thế giới; với lí thuyết hậu hiện đại văn học được xem như trò chơi của ngôn ngữ - nơi cả nhà văn lẫn nhà phê bình tập trung hướng đến những khoái cảm do nghệ thuật ngôn từ mang lại hơn là “tính mục đích” trong sáng tạo/phê bình văn chương” (Lời nói đầu trong sách Tiểu thuyết việt Nam đầu thế kỷ XXI - Lạ hóa một cuộc chơi, NXB Đại học Huế, 2017, trang 7-8). Có người nhận xét hơi quá, đó là “phương pháp thả rông” (!?). Cách nay chưa lâu, một nhà văn nữ đã hùng hồn tuyên bố: “Văn chương là một trò chơi vô tăm tích”. Gần đây, luận điểm coi văn học như là trò chơi ngôn từ đã đi vào các luận văn, luận án như một thứ thời thượng/thời trang (à la mode); chẳng hạn đề tài Luận án tiến sỹ của Trần Ngọc Hiếu “Lý thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại”. Trong tác phẩm của mình, Thái Phan Vàng Anh dành hẳn phần 3 (97 trang) để chỉ viết say sưa về “Trò chơi và lối viết”, trong đó mục II/33 trang (Chối bỏ đại tự sự và nguyên tắc trò chơi), được coi như là điểm nhấn/thăng hoa của sự viết. Tất nhiên đây không phải là phát kiến của tác giả, chỉ là mượn ý của M. Kundera khi ông cho rằng tiểu thuyết là “tiếng gọi của trò chơi”. Trong lý thuyết trò chơi, tác giả nhấn mạnh hơn cả đến “trò chơi mặt nạ tác giả” (“mặt nạ tác giả” gắn với cái gọi là “bất tín nhận thức”). Chúng tôi thấy, một tác giả 8X mà lặn ngụp sâu như thế vào những mê cung của “hậu hiện đại” thì quả thực vất vả và không biết hiệu quả có bù đắp xứng đáng cho những nỗ lực vô tận? Một tác giả trẻ khác - Hoàng Cẩm Giang - trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI - Cấu trúc và khuynh hướng (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015) cũng say sưa với “Tiểu thuyết như là trò chơi của tự sự và ngôn từ (mục 2, chương 9). Từ/thuật ngữ “trò chơi” xuất hiện dày đặc trong các tiểu luận Yếu tố trò chơi trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 (trường hợp Tưởng tượng và dấu vết của Uông Triều) của Nguyễn Văn Hùng (Văn học Việt Nam 30 năm đổi mới [1986 -2016], Sđd)Tiểu thuyết Tạ Duy Anh và trò chơi thể loại của Trần Viết Thiện (Thế hệ nhà văn sau 1975, Sđd), ...Gắn văn chương với “trò chơi” thì, theo chúng tôi, đến một ngày nào đó giống các “game show” trên truyền hình, phải thay món liên tục nếu không khán giả sẽ chán, bỏ xem.

IV. KẾT LUẬN

- Dân gian có câu “cũ người mới ta”. Việc tiếp nhận và vận dụng lý thuyết của thế giới là một công việc cần thiết đối với nhà khoa học trong quá trình tác nghiệp. Nhưng tiếp biến (vận dụng sáng tạo) như thế nào lại là cả một vấn đề không hề đơn giản và dễ dàng. Không thể gò ép, thậm chí khiên cưỡng vận dụng “phê bình sinh thái” để viết Sáng tác của Ngọc Giao từ góc nhìn phê bình sinh thái (Lê Tú Anh: Văn xuôi Việt Nam hiện đại- Khảo cứu và suy ngẫm, NXB ĐHQG Hà Nội 2018, trang 258-273). Vũ Ngọc Phan, tác giả công trìnhđồ sộNhà văn hiện đại(quyển Thượng, quyển Hạ,1942-1945),ngày ấychỉ giới thiệutác giảNgọc Giao (1911-1997) một cách giản dị. Cứ theo đà này thì tất cả nhà văn Việt Nam và tác phẩm của họ đều có thể tiếp cận từ “phê bình sinh thái, “hậu hiện đại”, “hậu thực dân”, “phân tâm học”, “ký hiệu học” (!?).

- Liệu có thể coi “thế hệ f” với đúng nghĩa là một thế hệ phê bình, dẫu họ cố gắng một cách có ý thức về “cái khác”, dẫu họ cố gắng làm chủ các lý thuyết phê bình “ngoại nhập”, dẫu số lượng tác phẩm của họ được xuất bản là không ít? Thiết nghĩ, một thế hệ mới xuất hiện phải tạo nên được cái mới/giá trị mới. Nghiêm túc, công bằng mà nói đội ngũ 7X, 8X và cả 9X nếu có đóng góp vào nền phê bình nước nhà hiện nay là ở chỗ họ bổ sung lực lượng đông đảo (trẻ, khỏe, nhiệt huyết), có sản phẩm kịp thời. Nhưng số lượng (nhân lực, vật lực) dẫu tăng có thể vẫn không dẫn đến chất lượng mới/giá trị mới theo quy luật “nghệ thuật sáng tạo cái mới”./.                                                                                     

TÀI LIỆU THAM KHẢO        

1. Trần Hoài Anh: Lý luận -Phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 (Chuyên luận), NXB Hội Nhà văn, 2009

2. Trần Chí Lương: Đối thoại với tiên triết về văn hóa phương Đông thế kỷ XXI (Trần Trọng Sâm -Nguyễn Thanh Diên dịch), NXB ĐHQG Hà Nội, 2006

3. Nhiều tác giả: Tiếp nhận văn học nghệ thuật, NXB ĐHQG Hà Nội, 2013

4. Nhiều tác giả: Lý thuyết phê bình văn học hiện đại (Tiếp nhận & ứng dụng), NXB Đại học Vinh, 2013

5. Nhiều tác giả: Thế hệ nhà văn sau 1975, NXB Hội Nhà văn, 2016

6. Nhiều tác giả: Văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới- Sáng tạo và tiếp nhận (1986-2016), NXB Văn học, 2017

Bùi Việt Thắng

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 11.02.2020.

Tối 1/8, Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương tổ chức trao thưởng cho 15 tác phẩm Lý luận, Phê bình văn học Nghệ thuật xuất bản năm 2018.

Đây là tặng thưởng của Ban Bí thư Trung ương Đảng dành cho các tác phẩm có giá trị khoa học, đóng góp về lý luận và thực tiễn.

Trong các tác phẩm được trao thưởng, có công trình Nghiên cứu lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kỳ 1865-1954 do PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chủ biên.

Tới dự và trao giải có ông Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, ông Võ Văn Phuông, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương cùng đại diện các Bộ, Ban, Ngành Trung ương và địa phương, các thành viên trong Hội đồng Lý luận và Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương.

Về phía VOV có sự tham dự của PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), Chủ tịch Hội đồng Lý luận và Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, các Phó Tổng Giám đốc: Vũ Hải, Ngô Minh Hiển và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc VOV.

Mở đầu lễ trao giải, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận và Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương báo cáo kết quả xét tặng thưởng của Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương.

Trong bản báo cáo, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ đánh giá: 3 lĩnh vực chuyên ngành (lý luận chung; lý luận, phê bình văn học; lý luận, phê bình các loại hình nghệ thuật) đều có những tác phẩm tốt, công phu, nghiêm túc.

Các tác phẩm này đều có giá trị khoa học và thực tiễn, đề cập kịp thời những vấn đề thiết thực trong đời sống văn học, nghệ thuật, có tác dụng định hướng công tác lý luận, sáng tác, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, lệch lạc trong đời sống văn học, nghệ thuật.

Tuy vậy, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ cũng nghiêm khắc chỉ ra những hạn chế của một số tác phẩm như: Chỉ dừng ở mức độ nêu vấn đề, phần phân tích, lý luận còn tản mạn, cảm tính, chưa đi sâu vào bản chất của vấn đề nghiên cứu, từ đó rút ra những vấn đề có tính lý luận, còn thiếu những công trình nghiên cứu có tính hệ thống, có tầm khái quát về một hay một số vấn đề chuyên sâu nào đó, thiếu những tác phẩm có chiều sâu về lý luận văn nghệ có tính thuyết phục; thiếu sự thẳng thắn, trực diện trong phê bình...

Sau quy trình xét tặng nghiêm túc, chặt chẽ, Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương quyết định tặng thưởng cho 15 tác phẩm, trong đó mức A: 4 tác phẩm; mức B: 6 tác phẩm; mức C: 5 tác phẩm, đồng thời tặng thưởng cho 9 đơn vị có đóng góp cho sự phát triển lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật.

4 tác phẩm được tặng thưởng mức A là: Sách Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam (Hội Kiến trúc sư Việt Nam); sách Trang phục người Việt xưa - nay (Đoàn Thị Tình, Viện Sân khấu – Điện ảnh), sách Tiếp thu tinh hoa thi pháp kịch nước ngoài: Tập 1 & Tập 2 (Tất Thắng, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam); sách Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học (Trần Nho Thìn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).

6 tác phẩm được tặng thưởng mức B gồm: Sách Tiêu điểm thời gian (Vũ Kim Thoa, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên); sách Đồng hành với cái đẹp (Nguyễn Phương Liên, Báo Nhân Dân); Chương trình phát thanh Việt hóa phim nước ngoài: Lối thoát hay bế tắc? (Biên tập viên Phạm Minh Phú, Ban Văn học Nghệ thuật, Đài Tiếng nói Việt Nam); sách Những quan niệm, những thế giới nghệ thuật văn chương (Lê Quang Hưng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội), Nghiên cứu lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kỳ 1865-1954 (Nguyễn Thị Thanh Xuân, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh); bài Sự tiếp thu lí thuyết sân khấu nước ngoài ở Việt Nam hiện nay (Cao Ngọc, Ban Văn học Nghệ thuật, Đài Tiếng nói Việt Nam).

6 tác giả có tác phẩm được tặng thưởng mức B tại Lễ trao tặng thưởng Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương.

PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn đã đại diện cho các tác giả công trình Nghiên cứu lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kỳ 1865-1954 nhận giải thưởng (người đứng bìa phải).

 

5 tác phẩm tặng thưởng mức C gồm: Năng lượng của văn chương (Nguyễn Trọng Hoàn, Bộ giáo dục và Đào tạo); chương trình Vận dụng dân ca – Lối mòn trong ca khúc (Nhóm các biên tập viên Trần Nhật Dương, Phạm Xuân Kỳ, Tạ Mai Anh, VOV); Đi tìm lời giải cho tác phẩm múa đương đại (Thanh Hoa, Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam); Phê bình âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh - tồn tại hay không? (Nguyễn Thị Mỹ Liêm, Trường Đại học Sài Gòn); Cách tân hay sáng tạo nửa vời, phản cảm? (Việt Quang, báo Nhân dân).

Sau khi tặng thưởng cho 15 tác phẩm, Ban Chỉ đạo cũng trao thưởng cho các cá nhân, tập thể có những tác phẩm có nhiều giá trị khoa học, đóng góp về lý luận và thực tiễn.

Theo: https://vtc.vn/tang-thuong-15-tac-pham-ly-luan-phe-binh-van-hoc-nghe-thuat-d490368.html

(NLĐO) - Hỡi những nhà văn trẻ, bạn muốn mình luôn là người viết (écrivant) làm ra sách, hay sẽ là nhà văn (écrivain) làm ra tác phẩm, nói như Jean-Paul Sartre thuở ấy?

Có phải một mùa sinh sắc đã trở lại với văn chương Việt, khi cuộc sống dần dần trả lại nhịp đập tự nhiên, với vô vàn xáo động? Ngày của thông tin, mùa của thông tin, thời của thông tin.

Chúng ta bị va đập hằng ngày với những chuyện trên trời dưới đất của mình, của thiên hạ, không lúc nào ngơi. Cảm xúc của ta dao động, trồi sụt như nhịp tim của người đang yêu hay người đang hấp hối.

Hai xu hướng của văn học trẻ

Sau hai cuộc chiến tranh, văn học Việt Nam trở lại con đường hiện đại hóa một cách chậm chạp. Một nền văn học chịu nhiều phân tán, ngập ngừng, nhiều lần mở, khép. Một nền văn học trộn lẫn các yếu tố truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại.

Cạnh tranh với các lĩnh vực nghệ thuật khác trong chinh phục công chúng, văn học của thế kỷ XXI đi vào tiếng rì rầm của đời thường. Các quầy sách tràn ngập các bản in mới, đa dạng và bắt mắt về hình thức. Tuổi trẻ chín sớm và thành danh trong sáng tạo. Niềm tự tin trở lại. Đã có một số nhà văn chuyên nghiệp.

20200201

Độc giả mong ước mỗi cuốn sách được nhấc lên, cầm về nhà sẽ là cuốn sách có thể đọc đi đọc lại, thậm chí theo họ suốt cuộc đời ảnh: Hoàng Triều

Trong cái bề bộn của số sách xuất hiện với tần suất dày ấy, trong khu vực các tác giả trẻ, có thể nhìn thấy hai xu hướng lớn: một xu hướng chịu khó lắng nghe bản thân, nắm bắt những nhịp đập sâu xa của đời sống, cố gắng tìm tòi những giá trị nghệ thuật, cân nhắc khi chọn một diễn ngôn văn chương mang cá tính riêng; một xu hướng nhạy với thị hiếu công chúng, tiếp thu nhanh kỹ thuật viết các loại văn xuôi hư cấu trong làng văn đại chúng, hình thành ngay một mạch văn đơn giản, viết lẹ, thành công dễ dàng, chinh phục đám đông công chúng trẻ, tạo nên sự kiện, có số lượng phát hành và có doanh thu lớn.

Có vẻ như xu hướng thứ hai đang đà phủ sóng rộng. Họ viết về những cái thường ngày trong sinh hoạt người trẻ: ăn, mặc, chơi và yêu. Nhan đề linh hoạt như một lời thoại. Bìa thiết kế theo phong cách ngôn tình: họa tiết mềm mại, màu sắc lung linh hay dữ dội. Văn học đại chúng đáp ứng nhu cầu có thực của một tầng lớp người đọc đông đảo đang muốn có những phút giây thư giãn bằng chữ nghĩa.

Thành danh với văn học đại chúng

Vốn chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Hoa, văn học đại chúng Việt Nam giờ đây học tập thêm Nhật Bản và Hàn Quốc; chỉ một số ít có dấu vết kỹ thuật phương Tây. Điểm chung của loại sách này là dễ đọc, mạch truyện sáng rõ, câu chữ giản dị, kết thúc thường có hậu.

Đã có một đúc kết, rằng chủ ý của sách là tác động đến các trạng thái tâm lý của con người (thất tình, lục dục), rằng cách viết là tuân theo các mô thức đã trở thành kinh điển. Tác giả viết như làm một cuộc trò chuyện êm đềm da diết về những phức cảm của người trẻ (trong thơ); hay như một cuộc bài binh bố trận, hoặc xây dựng một cốt truyện ly kỳ, lâm ly, bi đát, di chuyển qua nhiều không gian, nhiều biến cố; hoặc xây dựng những nhân vật trẻ ngồ ngộ, cá tính độc đáo, với các câu chuyện tình bất ngờ và các mẫu đối thoại thú vị (trong văn).

Sách bán chạy, người viết thành công sớm và thành danh nhanh, được một số nhà xuất bản, nhà sách và báo chí săn đón, có thể sống bằng ngòi bút, đó là những yếu tố làm nức lòng nhiều người trẻ, ngày càng đông người chọn hướng đi này: Dương Thụy, Nguyễn Phong Việt, Nồng Nàn Phố, Anh Khang, Trần Thu Trang, Jun Phạm, Meggi Phạm, Gào (Vũ Phương Thanh), Keng (Đỗ Thị Thùy Linh), Hamlet Trương, Iris Cao, Nguyễn Ngọc Thạch, Phan Ý Yên, Nguyễn Thu Hoài, Linh Lê, Ngọc Hoài Nhân, Ploy Ngọc Bích, Kawi Hồng Phương, Bom, Sơn Paris…

Những trang văn tinh tế

Như một mạch ngầm mải miết chảy, tiếp nối những giá trị đã có trong lòng dân tộc và ước mong hội nhập cùng nhân loại, xu hướng thứ nhất lặng lẽ và cẩn trọng hơn. Thế hệ 8x và 9x đã ra ràng một loạt các cây bút từng theo học ngành văn chương, phần lớn bước ra từ Khoa Ngữ văn và Báo chí Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP HCM.

Thục Linh, Tú Trinh tinh tế và lặng lẽ. Nguyệt Phạm, Phương Lan, Lynh Bacardi táo bạo, bứt phá làm nên sự kiện trong nhóm Ngựa trời. Nguyễn Thúy Hằng xuyên sâu vào cõi màu cô độc. Ngô Thị Hạnh, Phương Huyền viết sớm và viết đều trong mạch thơ văn dung dị. Phương Trinh ấp ủ ngọn lửa ấm của lòng từ ái. La Mai Thi Gia hồn nhiên phơi mở. Tạ Anh Thư, Hạ Nguyên viết chắt lọc và cá tính, phác vẽ chân dung mình trong những khắc khoải, băn khoăn. Nguyễn Thiên Ngân và Yến Linh chín sớm, ghi dấu bằng các giải thưởng, có mặt đều đặn với các thể loại khác nhau; người thì chinh phục công chúng trẻ bằng một chất giọng tưng tửng, ngang tàng, cuộn dưới đáy sâu một tâm cảm khác thường; người cầm bút như để tự chữa lành những chấn thương thời thơ ấu. Ngọc Huyền mềm mại trong những tra vấn về bản thể. Vũ Lập Nhật dữ dội và hiện đại trong khám phá nghệ thuật. Huỳnh Trọng Khang mạo hiểm trong hành trình khai quật những câu chuyện quá khứ. Thái Cường rủ rỉ kể tiếp câu chuyện gia đình và quê nhà. Tru Sa lần mò trong mê cung đầy bóng tối. Pháp Xa Chan trình hiện một tâm thức hỗn mang và Pháp Hoan với bút pháp tân hiện thực…

Phân định giữa sách và tác phẩm

Chúng ta vui mừng với sự đa dạng hôm nay, bởi vì đó là dấu hiệu của sự phát triển bình thường lẽ ra phải có. Văn chương có mặt cho tất cả mọi người. Nhưng cũng cần thấy rằng với trình độ thưởng thức ngày càng cao của công chúng và sự sàng lọc của thời gian, sẽ có sự phân định giữa sách và tác phẩm.

Sẽ có những người viết có khát vọng để đời và những người viết nhằm đạt được một mục tiêu ngắn hạn. Khởi điểm của con đường cầm bút rất quan trọng, ý thức chọn lựa sẽ tùy thuộc khả năng và điều kiện của từng người. Và người đọc cũng thế, niềm vui đầu đời khi bước chân vào khu vườn văn chương và những tháng ngày ngồi trên ghế nhà trường rất là quan trọng.

Nếu lạc quan, sẽ nói rằng đời sống văn học bề bộn hôm nay là một trong những biểu hiện của đời sống văn học mang tính tự nhiên và dân chủ. Có chút ít tinh thần dân tộc, sẽ mừng vì sách do người Việt viết tăng lên đáng kể và mừng vì người đọc rộn ràng tìm đến sách.

Trong mong ước mỗi cuốn sách được nhấc lên và cầm về nhà sẽ là cuốn sách có thể đọc đi đọc lại nhiều lần, thậm chí theo ta suốt cuộc đời, sẽ nảy sinh một sự lo âu và nuối tiếc. Lo cho "tầm đón đợi" của độc giả đang dần dần đi xuống. Tiếc cho những chọn lựa cầm bút sẽ định hình luôn một con đường. Hỡi những nhà văn trẻ, bạn muốn mình luôn là người viết (écrivant) làm ra sách, hay sẽ là nhà văn (écrivain) làm ra tác phẩm, nói như Jean-Paul Sartre thuở ấy?

Bộc lộ cá tính sáng tạo

Cá tính sáng tạo của những người trẻ này đã hé. Việc học và việc đọc đã đưa họ đến với văn chương với một đà viết đầy cảm hứng và có tinh thần trách nhiệm. Dù viết là bộc bạch, là trải nghiệm hay là tưởng tượng, có thể thấy những người trẻ hôm nay đã ý thức rất rõ về tính giao điểm của đời và của văn. Trường liên tưởng của họ rộng, hiện tượng liên văn bản (cả về phương diện tư tưởng lẫn phương diện thủ pháp) trong tác phẩm của họ càng rõ.

Những trang viết tạo sóng trong lòng người thường là kết quả của một quá trình lắng nghe mình và lắng nghe đời, được phả thành một giai điệu riêng. Ngày hôm nay văn xuôi bừng nở, thơ ca âm thầm hơn, nhưng trên góc độ cá nhân, tôi tưởng chừng như nghe được tiếng dội sâu trầm của những bài thơ được viết từ ám ảnh.

 

Nguyễn Thị Thanh Xuân

Nguồn: Người lao động, ngày 25.01.2020.

Milan Kundera trong một bài viết của mình đã cực lực phản đối nhiều người coi F.Kafka là một nhà văn Séc, vì ông cho rằng thiên tài người Do Thái chỉ viết văn bằng tiếng Đức, và bản thân F.Kafka cũng tự coi mình là nhà văn Đức. Milan đặt một giả thuyết thú vị, nếu F.Kafka viết bằng tiếng Séc thì ngày nay sẽ không ai biết F.Kafka là ai! Giả thuyết này thật đáng sợ nhưng không phải không có lí. Vì sao tác giả của cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết lại có một nhận định gây shock như vậy?
Vấn đề nằm ở sức mạnh của một ngôn ngữ. Milan Kundera đặt giả thuyết vì tiếng Đức là một ngôn ngữ mạnh hơn tiếng Séc rất nhiều. Ngoài việc phổ biến hơn (nhiều nước sử dụng) thì tiếng Đức là ngôn ngữ của một cường quốc. Nước Séc và tiếng Séc có lẽ chưa bao giờ có được vị thế ấy. Có phải vì thế văn học được viết bằng thứ ngôn ngữ ưu thế thì nhà văn sẽ được lợi hơn? Tôi không tường tận lí do F.Kafka viết bằng tiếng Đức nhưng có lẽ ông đã từng nghĩ đến sức mạnh của ngôn ngữ khi lựa chọn giữa tiếng Đức và tiếng Séc để viết?
Milan Kundera còn dẫn ra một ví dụ khác. Ông cho rằng những saga (sử thi) của vùng Iceland ở thế kỉ XIII, XIV đã không được nhìn nhận đúng giá trị vì chúng đã được viết bởi tiếng Iceland. Nếu chúng viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức thì có lẽ sẽ khác, bất chấp thời điểm xuất hiện các saga này thì những tác phẩm tương tự còn chưa xuất hiện ở Pháp hay ở Anh. Những tác phẩm được coi là những tiểu thuyết đầu tiên của châu Âu bị thiệt thòi chỉ vì chúng không được viết bằng thứ ngôn ngữ ưu thế. Chính Milan Kundera đã rất thấm thía điều này. Từ khi sống lưu vong ở Pháp, dần dần ông đã viết văn bằng tiếng Pháp và muốn được coi mình là một nhà văn Pháp, giống như bậc tiền bối của ông là F.Kafka đã tự coi mình là nhà văn Đức chứ không phải nhà văn Séc. Cả hai người đều sử dụng thứ ngôn ngữ ưu thế, tiếng Đức và tiếng Pháp để tác phẩm của mình có cơ hội lớn hơn.
Nói như thế để thấy rằng những nhà văn sử dụng tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Tây Ban Nha... có lẽ không bao giờ cảm thấy thiệt thòi về ngôn ngữ của mình. Họ viết thứ tiếng của các cường quốc và đương nhiên tâm thế đón đợi của độc giả quốc tế sẽ tốt hơn so với các tác giả viết bằng ngôn ngữ thiểu số hoặc của các nước nhỏ yếu. Ưu thế về ngôn ngữ nói của các cường quốc là không thể phủ nhận. Ở đây để tránh hiểu lầm tôi xin nói thêm rằng, không phải ngôn ngữ ở các nước nhỏ thiếu sự giàu có hay sinh động mà sự “bất bình đẳng trong tâm thức” này chủ yếu bởi ngôn ngữ được sử dụng của các cường quốc có quá nhiều lợi thế.
Sử dụng ngôn ngữ của các cường quốc có lợi lắm chứ. Nó sẽ phát tán, áp đặt và ảnh hưởng bởi sức mạnh quân sự, sự giàu có về kinh tế, hàng hóa, sự lan toả văn hoá sang các nước khác. Ta dễ thấy, một tác phẩm văn học hoặc một trào lưu nghệ thuật nổi tiếng ở nước Mĩ thì ảnh hưởng của nó ra toàn cầu sẽ nhanh và mạnh hơn nhiều so với một sản phẩm tương tự ở một nước nhỏ hơn. Ở đây có một “sự bành trướng ngấm ngầm” về sức mạnh ngôn ngữ mà người ta vẫn quen gọi là quốc tế hóa văn hóa.
Một nhà văn người Việt có lần bảo tôi rằng, nếu anh ấy viết bằng thứ ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thì có thể vị thế của anh ấy đã khác bây giờ. Đây không phải là câu nói đùa và cũng không phải sự vong quốc hay tâm lí nô dịch. Đây là một thực tế. F.Kafka sống ở Séc và viết văn bằng tiếng Đức; Nabokov là người Nga, sống ở Mĩ và viết bằng tiếng Anh; Joseph Conrad là người Ba Lan, sống ở Anh và viết văn bằng tiếng Anh. Dẫn ra điều này không phải để khẳng định F.Kafka, V.Nabokov hay Joseph Conrad phản bội quê hương của mình. Nước Séc, nước Nga, nước Ba Lan tự hào biết mấy khi có những nhà văn kể trên. Và tiếp tục câu chuyện về Milan Kundera khi ông dẫn ý kiến của nữ nhà văn Vera Linhartova, người đồng hương nổi tiếng của ông: “Nhà văn không phải tù nhân của một ngôn ngữ duy nhất”.
Nói như thế để thấy rằng, người sáng tác hoàn toàn có thể chọn một thứ ngôn ngữ bất kì để viết. Anh ta sẽ chọn ngôn ngữ nào? Sự lựa chọn thường là những ngôn ngữ có ưu thế và phổ biến hơn vì đơn giản với ngôn ngữ ấy tác phẩm sẽ có nhiều người đọc và được chú ý hơn. Nhưng điều này đôi khi lại khá nguy hiểm khi nhà văn không viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình, anh ta thường bị coi là bạc bẽo, vong quốc. Có lẽ cái quan niệm “phải viết vào tiếng mẹ đẻ” là một thứ định kiến ăn quá sâu vào rất nhiều người. Chỉ những trường hợp tác giả sống ở nước ngoài và viết bằng ngôn ngữ của nước ấy thì sự chấp thuận dễ dàng hơn.
Ở các nước châu Á, ưu thế về ngôn ngữ không quá rõ ràng như châu Âu. Hầu như không có ngôn ngữ nào được coi là ưu thế, kể cả tiếng Trung Quốc được nói bởi hơn một tỉ người. Một ví dụ dễ thấy là một tác phẩm nổi tiếng viết bằng tiếng Trung Quốc thì phải khá lâu mới được biết đến bên ngoài lãnh thổ Trung Hoa, một sự khác biệt khá lớn nếu so sánh với một tác phẩm tương tự viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

20190725 Kundera
Milan Kundera cho rằng F.Kafka khi lựa chọn ngôn ngữ viết đã nghĩ đến sức ảnh hưởng của nó.

Từ cuối thế kỉ XX, Nhật Bản và Hàn Quốc đã trở thành những cường quốc thực sự ở châu Á và vì thế ngôn ngữ của họ đã dần trở thành những ngôn ngữ ưu thế. Tác phẩm của các nhà văn Nhật Bản và Hàn Quốc được dịch sang các ngôn ngữ khác nhanh hơn, trong đó có tiếng Việt. Ở Việt Nam, ngoại trừ tiếng Trung Quốc, do có một lịch sử và sự gắn liền văn hóa quá lâu đời và những bối cảnh đặc biệt, hiện thời tác phẩm của các nhà văn châu Á được dịch nhiều nhất là đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc. Các ví dụ tiêu biểu, có thể kể đến tác phẩm của những tác giả như Kawabata, H.Murakami, Tanazaki... đến từ Nhật Bản và Shin Kyung-sook, Ahn Do Hyun, Han Kang... đến từ Hàn Quốc.
Các nhà văn gốc Việt cũng sử dụng những ngôn ngữ ưu thế cho tác phẩm của mình. Những người sống ở nước ngoài như Linda Lê, Viet Thanh Nguyễn, Kim Thúy... viết trực tiếp bằng tiếng Anh hoặc Pháp. Tác phẩm của họ đã nhận được sự công nhận rộng rãi và có những thành tựu đáng kể. Linda Lê được coi là một trong những nhà văn nữ đương đại tiêu biểu nhất của Pháp. Tác phẩm của Linda Lê đoạt nhiều giải thưởng danh giá và đã được dịch sang tiếng mẹ đẻ như Thư chết, Lại chơi với lửa, Vượt sóng, Sóng ngầm... Còn Viet Thanh Nguyễn đã đoạt giải Pulitzer ở hạng mục văn học hư cấu cho tiểu thuyết The Sympathizer (Cảm tình viên). Những tác giả ấy, ở bối cảnh và cuộc sống hiện thời của họ, chọn thứ tiếng không phải tiếng mẹ đẻ cho tác phẩm của mình là điều đương nhiên.
Các nhà văn sống trong lãnh thổ quốc gia Việt Nam, có nhiều người từ những dân tộc thiểu số như Tày, Mường, Thái... cũng chọn thứ ngôn ngữ phổ biến để viết tác phẩm của mình. Sự lựa chọn này là đương nhiên và phù hợp với quy luật tồn tại và phát triển của văn hóa, văn học. Ngoài những tác phẩm viết bằng tiếng Việt (Kinh) là ngôn ngữ phổ biến, những nhà văn các dân tộc thiểu số cũng sử dụng tiếng dân tộc mình ở những trường hợp cụ thể để bảo tồn và phát huy tiếng mẹ đẻ. Ở đây, sự lựa chọn ngôn ngữ ưu thế là điều hoàn toàn bình thường để tác phẩm có cơ hội được biết đến nhiều hơn.
Một nhà văn trẻ đã nói với tôi rằng, chị đang thử nghiệm viết văn trực tiếp bằng một ngôn ngữ có ưu thế hơn. Điều này không phải chị đã chán tiếng Việt mà tác giả muốn có những thử nghiệm mới. Khi nhà văn viết bằng hai ngôn ngữ, rõ ràng cơ hội cho tác phẩm sẽ nhiều hơn. Chúng ta đã từng chứng kiến những hiện tượng này, Milan Kundera viết bằng cả tiếng Séc và tiếng Pháp, Nabokov viết bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh, Cao Hành Kiện viết bằng cả tiếng Trung và tiếng Pháp và điều này chỉ làm cho tác phẩm của những người kể trên có nhiều bạn đọc hơn chứ không suy giảm đi.
Đã đến thời điểm các nhà văn trẻ thành thạo nhiều ngôn ngữ và họ có những lựa chọn mới. Đã đến lúc câu nói kinh điển của nhà văn Séc - bà Vera Linhartova, về sự xoá bỏ cầm tù bởi một ngôn ngữ duy nhất mở ra rất nhiều hướng mới mà xu thế này không thể tránh khỏi hay phủ nhận. Tất nhiên sẽ có một thực tế xảy ra, những quốc gia từng bị coi là nhỏ bé đã trở nên hùng mạnh hoặc bản thân đất nước ấy sản sinh ra những tác phẩm hay. Từ một ngôn ngữ không ưu thế, tiếng Hàn, tiếng Nhật đã dần dần trở thành một ngôn ngữ quyền lực ở châu Á và những nhà văn sống trong những đất nước ấy được hưởng lợi từ quá trình biến đổi này.
Ngôn ngữ không phải là một thực thể có sức mạnh vĩnh viễn, nó có thể thay đổi bởi hoàn cảnh lịch sử, thực lực kinh tế, vị thế của quốc gia. Sự thay đổi này đã nhiều lần diễn ra trong lịch sử như ta từng thấy sự bùng nổ của tiếng Anh ở thế kỉ XIX khi nước Mĩ trở thành một cường quốc. Các ngôn ngữ ưu thế có thể bị yếu đi và các ngôn ngữ ít phổ biến hơn có thể hùng mạnh hơn, đó chính là sức hấp dẫn của sự vận động và phát triển ngôn ngữ cũng như thay “vận mạng” của các tác phẩm viết bằng thứ ngôn ngữ ấy. Nhưng có thể khẳng định một điều, nếu có một kiệt tác thực sự được tạo ra, nó sẽ không phụ thuộc vào việc viết bằng ngôn ngữ nào. Sự công nhận trước sau sẽ đến với tác phẩm và vì thế chúng ta cũng không có gì phải buồn rầu khi đang viết bằng thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, dù nó có mạnh yếu thế nào

Uông Triều

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 23.7.2019.

1. Trong “Lời nói đầu” cuốn Văn chương như là quá trình dụng điển của mình, Ngô Tự Lập đã dẫn ra Sơ đồ Aristotle và nhận xét của M.H.Abrams trong Chiếc gương và ngọn đèn: Lí thuyết lãng mạn và truyền thống phê bình (1953): “Mặc dù bất kì lí thuyết nào cũng đều có tính đến cả bốn yếu tố, nhưng mỗi lí thuyết chỉ chủ yếu hướng đến một yếu tố mà thôi. Điều này có nghĩa là, nhà nghiên cứu có xu hướng lấy một trong bốn yếu tố làm cơ sở cho việc định nghĩa, phân loại, phân tích tác phẩm nghệ thuật, cũng như làm tiêu chí chính để đánh giá”. Bốn yếu tố mà M.H.Abrams đề cập là tác phẩm, tác giả, độc giả và thực tại, mà trong đó, theo Sơ đồ Aristotle, thì tác phẩm là yếu tố trung tâm. Ngô Tự Lập đi đến khẳng quyết: Các lí thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: Tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.(1)

Lí thuyết tiếp nhận tập trung vào quan hệ giữa văn bản và người đọc, vào cơ chế tạo nghĩa của văn bản khi tương tác với người đọc.

20200124

Về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp đối thoại tự do sáng tạo giữa người đọc và tác giả qua tác phẩm, ở đó người đọc cụ thể hóa hiện thực hóa tác phẩm trong trí tưởng tượng của mình. Trong hoạt động này, người đọc có thể gặp gỡ với tác giả, trở về với tâm ảnh của tác giả, nhưng cũng có thể cách xa, rất xa so với tác giả. Tiếp nhận văn học thúc đẩy ảnh hưởng văn học, làm cho tác phẩm không đứng yên mà luôn luôn lớn lên phong phú thêm trong trường kì lịch sử, tạo thành đời sống lịch sử của tác phẩm. Nếu lí luận tiếp nhận truyền thống chủ yếu quan tâm tới sự gặp gỡ của hai chủ thể cá nhân của tác giả và người đọc, của hai “thế giới nội tâm”, của ý thức (và vô thức) tác giả với ý thức (và vô thức) người đọc, thì lí thuyết tiếp nhận hiện đại bổ sung thêm bình diện xã hội học, tính quy định văn hóa lịch sử đối với sự gặp gỡ kia. Ý nghĩa của lí luận tiếp nhận hiện đại là tường minh được cơ chế hoạt động tiếp nhận và từ đó cho thấy sự tồn tại đích thực của tác phẩm cũng như số phận lịch sử của nó.(2)

Các nhà lí thuyết tiếp nhận hiện đại như H.R.Jauss, W.Iser, M.Naumann, D.Schlenstedt, R.Ingarden… cho rằng, tác phẩm văn học là một “đề án tiếp nhận”, một “tiềm năng để tiếp nhận”, một “kết cấu vẫy gọi”, một “chương trình nhận thức”, một “sơ đồ”… Tuy nhiên, “đề án”/ “kết cấu”/ “chương trình”/ “sơ đồ” ấy chỉ được khai triển, được hiện thực hoá trong “tầm đón” của người đọc, với khả năng “đồng sáng tạo” của anh ta. Muốn thế thì tự thân dự đồ văn chương ấy phải giàu “tiềm năng”, được đặt ở chế độ động và mở, có khả năng mở ra những “chân trời” tiếp nhận nơi những “người đọc tiềm ẩn” - những người đọc được trông mong trong kết cấu của văn bản. M.B.Khrapchenco xem tác phẩm như một máy thu có nhiều dải sóng mà người nhận là kẻ chỉnh sóng để dò bắt được đúng cái “chương trình” mà mình mong đợi.

Quyết định số phận sáng tác mỗi thời là tầm đón của người đọc, thế hệ người đọc, cộng đồng người đọc. Tầm đón là khái niệm do K.Mannheim - nhà triết học và xã hội học người Đức nêu ra, được Jauss vận dụng vào văn học. Theo Jauss, tầm đón là tiền đề tiếp nhận tác phẩm của người đọc. Nó bao gồm kinh nghiệm và tri thức có được từ trong các tác phẩm đã đọc, mức độ quen thuộc đối với các hình thức và thủ pháp văn học khác nhau cũng như các điều kiện chủ quan khác (địa vị kinh tế, chính trị, trình độ được đào tạo, sự từng trải và kinh nghiệm sống, trình độ thưởng thức và thị hiếu nghệ thuật, hứng thú cá nhân, tính cách và các tố chất…). Jauss cho rằng tầm đón được biểu hiện cụ thể ở ba phương diện: 1/ sự hứng thú và đòi hỏi đối với hình thức, phong cách, thi pháp của tác phẩm, gắn liền với những hình thức thể loại đã biết; 2/ năng lực cảm nhận, trình độ lí giải gắn với một môi trường lịch sử văn học cụ thể; và 3/ sự đối lập của tưởng tượng và thực tại, của các chức năng thực tế và chức năng nghệ thuật của ngôn ngữ.(3)

Tán thành với các nhà lí thuyết tiếp nhận hiện đại, đặc biệt là nhận định của Jauss, rằng tính lịch sử của văn học chính là ở những trải nghiệm vốn có của bạn đọc đối với tác phẩm văn học, rằng không thể hiểu được nghệ thuật nếu chỉ nhìn vào tác phẩm và hành vi sáng tạo ra nó, khoảng năm mươi năm nay, các nhà nghiên cứu - dịch giả như Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Phương Lựu, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Lã Nguyên, Nguyễn Hưng Quốc, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Văn Dân, Hoàng Phong Tuấn… đã hứng khởi tích cực lan toả lí thuyết tiếp nhận hiện đại vào đời sống văn học Việt Nam. Năm 1971, Nguyễn Văn Hạnh đã phát biểu: Trong khâu sáng tác, giá trị là cố định và ở trong thế khả năng; ở trong khâu thưởng thức, trong quan hệ với quần chúng, giá trị mới là hiện thực và biến đổi. Quan điểm nghiên cứu, đánh giá tác phẩm này sẽ lưu ý nhà văn đến độc giả, buộc người nghiên cứu trong khi đánh giá tác phẩm không thể chỉ dừng lại ở việc đối chiếu cái được phản ánh và cái phản ánh, ở sự phân tích cấu trúc bên trong của tác phẩm, mà phải chú ý đến tác dụng thực tế của tác phẩm, phản ứng của người đọc đối với nó, cơ sở xã hội - lịch sử và tâm lí của sự tiếp thu.(4) Về sau, Trần Đình Sử cũng khẳng quyết: Nếu xem hoạt động của văn học gồm hai lĩnh vực lớn là sáng tác và tiếp nhận thì bản thân sự tiếp nhận đã hàm chứa một nửa lí luận văn học.(5) Nhờ công của những nhà nghiên cứu - dịch giả kể trên trong việc giới thiệu lí thuyết cũng như công của rất nhiều nhà nghiên cứu - phê bình trong việc ứng dụng thực hành lí thuyết vào những trường hợp cụ thể, trong gần nửa thế kỉ qua, cộng đồng văn học Việt Nam dần ý thức sâu sắc, rằng trong hai loại lịch sử khác nhau của tác phẩm văn học là lịch sử sáng tạo và lịch sử tiếp nhận thì loại lịch sử sau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi chính loại lịch sử này một mặt làm cho tác phẩm trở nên giàu có đa bội hơn hẳn chính bản thân chúng, mặt khác mở rộng và thậm chí làm thay đổi tầm nhìn tầm cảm nhận của người đọc, khi mà cái đọc của họ đã có cơ hội cọ xát đối thoại với rất nhiều cái đọc khác cả trên hai chiều đồng đại và lịch đại.

2. Đặc biệt, đối với một hiện tượng văn học gây nhiều làn sóng tiếp nhận trái chiều, thì việc phục dựng lại cái diễn trình lịch sử mà nó được đọc được diễn dịch được đánh giá sẽ giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến “đời sống” của nó - cái đời sống riêng nằm ngoài khả năng can dự kiểm soát của tác giả - mà còn liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của nghiên cứu văn học như lịch sử văn học, lí luận văn học, phê bình văn học.

Chẳng hạn, thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi, nhiều chiều hướng tiếp nhận. “Cách tân” hay là “giết thơ”? “Thơ đến tận cùng” hay là “phản thơ”? Những làn sóng tiếp nhận cứ va đập vào nhau rồi đẩy về đầu mút của hai thái cực. Nghiên cứu thực tiễn tiếp nhận thơ của nhóm tác giả này, kể từ khi các tập thơ của họ hoặc lần lượt hoặc đồng thời xuất hiện trên thi đàn, sẽ trừu xuất được ít nhiều kết quả khả dụng.

Các tập thơ “lạ” thường được xem là có dấu hiệu của chủ nghĩa hiện đại như Ba sáu bài tình (Lê Đạt - Dương Tường), Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Bóng chữ (Lê Đạt), Bến lạ, Ô mai (Đặng Đình Hưng)... được bắt đầu công bố từ cuối những năm 80 thế kỉ XX. Tuy nhiên, cần lưu ý là thực ra nhiều sáng tác trong số này đã ra đời trước mốc xuất bản khá lâu. Đó là những sáng tác nằm ngoài lề dòng thơ ca chính thống một thời. Như vậy, có thể thấy những nỗ lực cách tân thơ ca của thời kì Đổi mới thật sự đã được manh nha khởi động từ trước đó bởi ý chí sáng tạo âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt của những nhà thơ kể trên.

Ngôn từ thơ, nhất là kiểu thơ từ chối “biểu nghĩa”, nỗ lực “làm việc trên chiều năng nghĩa”, tìm đến thủ pháp lạ hóa mờ hóa như trường hợp Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, càng là nơi tập trung tính mơ hồ đa nghĩa của ngôn từ nghệ thuật, cũng là nơi có khả năng tạo sinh nhiều nhất “mã tiếp nhận”. Điều này cắt nghĩa hiện tượng đa tiếp nhận thơ các nhà thơ này.

Cuộc “đi tìm mặt” của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng chính là nỗ lực tìm kiếm cho mình một thứ ngôn ngữ mới nhằm cách tân mở ra những hướng mới cho thơ, và mỗi người trong số họ đều đưa ra những tuyên ngôn (hoành tráng) riêng. Tuy nhiên, thơ của họ cách tân không đồng bộ (nghĩa không theo kịp chữ, hình thức không đi liền với nội dung hoặc ngược lại, hay ý chí thể nghiệm hình thức lấn lướt hoặc chênh với cảm xúc tự nhiên...), và không đồng đều (mức độ thành công ở mỗi bài/ câu không giống nhau). Do vậy, những người đọc chỉ quan tâm đến những điểm thành công thì vồ vập cổ suý, còn những ai chỉ chăm chăm vào những điểm kém/ thất bại/ cách tân chưa tới, thấy khoảng cách giữa tuyên ngôn và thực tế sức bật tài năng ở các tác giả này khá xa thì lớn tiếng phủ định sạch trơn.

Từ sau 1954, giới độc giả Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc về văn hoá đọc. Lí thuyết văn học mà họ tiếp cận có thể là lí thuyết đã có phần lỗi thời so với thực tiễn sáng tác mới, có thể là thứ lí thuyết hiện đại phong phú đa dạng có nguồn cội từ những quan niệm tư tưởng triết - mĩ khác nhau. Gắn với những khung lí thuyết như ngôn ngữ học, phân tâm học, cấu trúc luận, hình thức luận, hiện tượng luận, “phê bình mới”..., một bộ phận người đọc thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng không nhất nhất đi tìm cái gọi là “nghĩa” của những từ/ câu/ đoạn/ bài, không lấy việc “hiểu” làm mục đích, chỉ cần bài thơ mang lại cho họ một cảm giác một ấn tượng là đủ; ngược lại, một bộ phận người đọc không lấy những lí thuyết này làm khung nhận thức, bất lực trong việc “diễn xuôi” thơ nên vội vàng cho thơ của các nhà thơ kể trên là “hũ nút”, là “phản thơ”.

Người ta khó tìm được tri âm rộng rãi trong quan niệm về yếu tính của thơ, nên khi đọc thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, những ai quan niệm yếu tính của thơ là cách làm chữ là cách tổ chức ngôn ngữ thì sẽ cho đây là “thơ đến tận cùng”, tác giả của chúng là những “phu chữ”, còn những ai quan niệm yếu tính của thơ là thông điệp là điều chia sẻ giãi bày thì sẽ cho đây là thơ “hũ nút”. Cũng vậy, khái niệm hay dở mới cũ của thơ thường trừu tượng và mang tính chủ quan cá nhân, nên người ta khó có thể có tiếng nói chung khi tiếp nhận thơ của các nhà thơ này.

Một bộ phận chủ thể tiếp nhận - phê bình luôn cảnh giác với thứ thơ mà họ cho là “trò xiếc chữ”, “phá phách”, “bên lề”, “phụ lưu”, “bàng thống”, thứ thơ bị cho là “du nhập rác tri thức về”, “lai căng”, “nhố nhăng”, “vong bản”… Đã thế, công việc cách tân thơ của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng lại đi kèm những tuyên ngôn như “chôn Thơ mới” dễ bị quy chụp là gây hấn phá bĩnh phạm thượng. Thêm nữa, một số trong những nhà thơ này bị gọi là “bọn Nhân văn - Giai phẩm”, “bọn có vấn đề”... Cứ như thế, tâm thế định kiến (hoặc về thẩm mĩ hoặc về chính trị hoặc về cả hai) chi phối cái đọc của nhiều người. Với bộ phận chủ thể tiếp nhận - phê bình này, đây là thơ “vô nghĩa”, “hũ nút”, “phá chữ”, “làm bẩn chữ”, “vong bản”, “đưa thơ vào thế chân tường”, “giết thơ”, “phản thơ”... Ngược lại, một bộ phận người đọc thơ bằng tâm thế đón đợi cổ vũ cái mới cái khác, không quan tâm đến những yếu tố phi thơ ngoài thơ. Họ đòi hỏi, thời đại khác chất liệu ngôn ngữ thơ cũng phải khác. Do vậy, khi nhìn vào các sản phẩm cách tân thành công, độc sáng của các nhà thơ kể trên, họ cho đây là “thơ đến tận cùng”, là niềm kiêu hãnh của nền thơ Việt Nam hiện đại.

Theo Ngô Tự Lập, “văn chương như là quá trình dụng điển”. Bài thơ là một kí hiệu được thiết lập tức thời giữa nhà thơ và người đọc trong quá trình tiếp nhận. Tài năng của nhà thơ nằm ở khả năng phán đoán được cái vốn “điển” tiềm ẩn ở người đọc, cái mà nhà thơ trông đợi sẽ trở thành “điển” chung tức thời giữa anh/ chị ta và người đọc khi tiếp nhận văn bản. Vì các độc giả khác nhau, vốn “điển” tiềm ẩn có thể được kích hoạt trong kí ức họ cũng khác nhau, nên cùng một bài thơ nhưng không bao giờ có sự tiếp nhận như nhau bởi những độc giả khác nhau.(6) Đa vốn “điển” nơi những chủ thể tiếp nhận khác nhau góp phần cắt nghĩa hiện tượng đa tiếp nhận thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng.

Thói quen đọc thơ, quán tính thẩm mĩ quy định lối thưởng thức thơ của một bộ phận người đọc. Bài/ tập thơ nào không vừa vặn với tầm mong đợi vùng thưởng ngoạn của họ thì bị phủ nhận chối bỏ. Trong một nền văn hóa còn đề cao tính đại chúng, những cách tân có khi quá bạo liệt của thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng vượt ra ngoài mọi khuôn khổ cũ khiến phản ứng chung của nhiều người là phủ nhận ngay tư cách thơ của những bài thơ được xem là mới trước khi đặt vấn đề là chúng hay hay không hay. Ngược lại, một bộ phận người đọc can đảm vứt bỏ những hình dung quen thuộc của mình về thơ và đủ hứng thú để tham dự vào cuộc phiêu lưu ngôn từ này. Với họ, thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng là niềm khoái thú đặc biệt trong giải mã, và do vậy, họ cho đây là thứ thơ “cách tân”, “thơ đến tận cùng”.

Trước khi thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng được công bố khoảng nửa thế kỉ, Thơ mới đã làm nên một cuộc đại cách mạng, “một thời đại trong thi ca” cả về diện và đỉnh. Một khi thực tế sức bật tài năng có khoảng cách khá xa so với những tuyên ngôn (hoành tráng) dẫn đến thành tựu thơ của các nhà thơ đi sau không thể vượt qua được thành tựu Thơ mới, thì người đọc thất vọng, cực đoan hơn là phủ nhận chế giễu cũng là điều dễ hiểu. Với nữa, sau khoảng ba mươi năm im lặng từ hậu thời kì Nhân văn - Giai phẩm, các nhà thơ này tái xuất, sự mong đợi kì vọng của mọi người lúc đó đối với họ là rất lớn, nên người đọc đã thất vọng trước những bài/ tập cách tân chưa tới trong loạt thơ gọi là cách tân mà các nhà thơ này trình làng. Thêm nữa, sau nhiều năm chiến tranh, sự tiếp xúc trực tiếp và đồng thời của độc giả Việt Nam với thơ hiện đại thế giới bị hạn chế, người ta vốn dị ứng với cái lạ và chưa kịp có nhu cầu đổi thay mĩ cảm, do vậy, những tập thơ “lạ” của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng chưa giành được thiện cảm của số đông, do chúng không may mắn có được một lớp độc giả lí tưởng như thời Thơ mới - những trí thức Tây học đang hăm hở với cái mới và đã từng ít nhiều được làm quen với cái mới qua nền văn học Pháp thế kỉ XIX trong nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh việc gặp bối cảnh bất lợi như vừa trình bày thì những tập thơ của Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng được công bố giữa bối cảnh không ít thuận lợi. Tinh thần đổi mới đã thực sự thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học nói chung và đời sống thơ nói riêng. Trong thời đại thế giới ngày một “phẳng”, đời sống thơ nước nhà không ngừng trở nên giàu có bởi những góc nhìn hướng nhìn tầm nhìn mới do những hệ thống lí thuyết mới trên thế giới soi chiếu. Chủ nghĩa hậu hiện đại mở ra sự khủng hoảng phân rã của những cái toàn trị nhất quán, là một môi trường văn hóa thuận lợi cho sự phát triển của các dòng văn học bị coi là “ngoại biên”, “phụ lưu”, “bàng thống”.(7) Nhờ tinh thần “giải trung tâm” trong văn nghệ mà thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng đã ngày càng có cơ hội nổi lên, trở thành bình đẳng với mọi hiện tượng văn học khác. Hệ quả của hơn ba mươi năm đổi mới và hội nhập là đã tạo ra một không gian thoáng mở. Văn hoá đọc không ngừng được cải thiện. Trình độ đọc không ngừng được nâng cao. Người đọc càng ngày càng ghi nhận khẳng định những đóng góp nhất định của các nhà thơ kể trên.

Như vậy, nếu đi sâu khảo sát miêu tả cái “dây chuyền tiếp nhận” thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng từ khi chúng được công bố cho đến nay và nỗ lực kiến giải hiện tượng đa tiếp nhận đó thì một cách nhìn nhận đánh giá toàn diện thấu đáo công bằng khách quan hơn về thơ của các tác giả này sẽ được kiến tạo, những đóng góp của họ trong sự vận động của thơ ca đương đại sẽ không bị bỏ sót, đồng thời, những vấn đề cốt lõi của lí thuyết tiếp nhận sẽ được thêm cơ hội tham chiếu và củng cố. Ngoài ra, thiết thực hơn, bức tranh toàn cảnh lịch sử tiếp nhận thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng và một cách đánh giá lại thơ các tác giả này sẽ là đường dẫn khả dụng để đi đến câu chuyện đang để ngỏ, đang ngổn ngang bộn bề, chưa bao giờ nguội tính thời sự: tiếp nhận - phê bình, sáng tác, lí luận thơ cách tân đương đại. Đối với tiếp nhận - phê bình, từ đây người ta có ý thức hơn trong việc nâng tầm đón nhận khi gặp thơ “khó”, thiết tạo cách đọc mới khi gặp thơ “lạ”; ứng xử với thơ bằng tâm thế không định kiến, bằng thái độ không phủ định sạch trơn; không a dua nói theo, không cổ súy thái quá đối với cả những trường hợp cách tân chưa tới, cách tân thất bại. Đối với sáng tác, từ đây người ta một mặt táo bạo hơn trong cách tân, dũng cảm hơn trong tìm tòi thể nghiệm, mặt khác biết nói “không” với lối cách tân vô điều kiện. Đối với lí luận thơ, từ đây người ta không đóng khung lí thuyết, không đông cứng thể loại; coi trọng vai trò hướng đạo của lí luận đối với sáng tác, tiếp nhận - phê bình...

3. Không có lí thuyết nào là toàn bích, độc tôn. Như đã nói ở đầu bài viết, mỗi lí thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau, bằng việc tập trung vào một bình diện khác nhau. Nếu tuyệt đối hoá một lí thuyết nào đấy khi nghiên cứu văn học thì đồng nghĩa với tự biến mình thành “thầy bói xem voi”, tự đẩy mình đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Một lí thuyết bất kì đều đang ở trạng thái dang dở, đang nỗ lực tự hoàn thiện, vừa bình đẳng với các lí thuyết khác vừa có nguy cơ bị phủ định thay thế bởi một lí thuyết mới. Do vậy, một cách hành xử khôn ngoan là tỉnh táo gạn đục khơi trong lí thuyết, là cân bằng hai mặt tích cực và tiêu cực của lí thuyết bằng việc không ngừng đa dạng hóa lí thuyết. Với tinh thần thức nhận như vậy, không khó để nhận ra, bên cạnh những hạt nhân hợp lí thì lí thuyết tiếp nhận hiện đại cũng bộc lộ những giới hạn, bất khả của nó, đặc biệt là khi lí thuyết này cực đoan dẫn dụ người nghiên cứu chú mục vào quan hệ giữa tác phẩm và người đọc, trong đó cường điệu hoá đến mức tuyệt đối hoá vai trò của người đọc. Phương Lựu phát biểu, vai trò tác dụng quan trọng của người đọc là quá rõ ràng, nhưng tất cả vai trò và tác dụng quan trọng đó chỉ diễn ra khi có tác phẩm. “Không có tác phẩm thì cố nhiên người vẫn còn đây, nhưng dứt khoát không có cái gọi là người đọc”.(8)

Không thể phủ nhận, rằng phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, thực chất, chính là quá trình tạo lập đời sống cụ thể của văn bản văn học qua sự tiếp nhận của người đọc. Cũng không thể phủ nhận, rằng tác phẩm văn học không đồng nhất trùng khít với mọi sự đọc, bởi không ai có thể hiểu hoàn toàn đúng về tác phẩm, không có ý kiến phát biểu duy nhất đúng về tác phẩm; hơn thế, dù động cơ tâm thế tầm đón như thế nào thì đọc “nhầm” là một hiện tượng phổ biến: khen nhầm cũng như chê nhầm. Antoine Compagnon từng đặt ra câu hỏi: “Nếu ý nghĩa một văn bản là tổng số các diễn giải nó đã nhận được, thì tiêu chuẩn nào cho phép ta phân biệt một diễn giải có hiệu lực với một diễn giải sai? Khái niệm hiệu lực có thể duy trì được hay không?”.(9) Một câu hỏi khác cũng có thể được đặt ra là: Vậy thì cái gì bảo đảm sự đồng nhất trùng khít của một tác phẩm với chính nó?

Ấn tượng thẩm mĩ di động giữa hai cực (tác phẩm và người đọc), cho nên sự thay đổi của một trong hai cực đó đều làm hình thành những giá trị thẩm mĩ khác nhau, đặc biệt là ở cực chủ thể tiếp nhận, nơi mà thế giới nội tâm luôn có những biến động vô thường bất thường, vì thế khả năng biến thể của các giá trị thẩm mĩ liên quan đến một tác phẩm là rất lớn. Và thách thức đặt ra là làm sao có những chuẩn cứ giúp ta so sánh và khoanh vùng được các giá trị thẩm mĩ liên quan đến một tác phẩm.

Không thể lấy sự đánh giá của đại chúng làm tiêu chuẩn của sự sáng tạo. Với những thi phẩm “lạ” gây tranh cãi, gây những làn sóng tiếp nhận trái chiều thì không thể lấy “đa số thắng thiểu số”, lấy “chúng khẩu đồng từ” làm chân lí. Sự tiếp nhận đáng tin cậy là sự tiếp nhận của những “người đọc lí tưởng”, những “siêu người đọc”. Nhưng, nhận diện người đọc đáng tin cậy cũng chỉ là sự nhận diện chủ quan, và bản thân người đọc tưởng là đáng tin cậy đó thực ra cũng là một khối chủ quan, đầy thiên kiến và giới hạn.

Chính Jauss cũng từng khiêm tốn tự nhận, rằng mĩ học tiếp nhận là một phương pháp với những cơ sở vẫn còn chưa được hoàn toàn chắc chắn, nó không thể một mình đóng góp vào cái mới hiện tại của công việc nghiên cứu nghệ thuật. “Nó không phải là một bộ môn độc lập, xây dựng nên một hệ tiền đề có khả năng tự mình giải quyết mọi vấn đề gặp phải, mà nó là một sự suy tư phương pháp luận cục bộ có thể kết hợp với các phương pháp khác và được bổ sung bởi chúng để đạt tới kết quả của mình”(10)

P.L

--------

1. Xem: Ngô Tự Lập (2008), “Lời nói đầu”, Văn chương như là quá trình dụng điển, Nxb Tri thức, Hà Nội.

2. Xem: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.325-326.

3. Xem: Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, tập hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.310.

4. Xem: Nguyễn Văn Hạnh (1971), “Ý kiến của Lenin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống”, tạp chí Văn học, số 4, tr.95-98.

5. Xem: Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, tập hai, sđd, tr.300.

6. Xem: Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển, sđd, tr.101.

7. Xem: Nguyễn Hưng Quốc (2007), Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học, Văn Mới, tr.297.

8. Xem: Phương Lựu (1999), Mười trường phái lí luận phê bình văn học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.230.

9. Xem: Antoine Compagnon (1998), Bản mệnh của lí thuyết - văn chương và cảm nghĩ thông thường, Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006, tr.116.

10. Dẫn theo Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - lí luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.73.

Phước Lộc

Nguồn: Quân đội nhân dân, ngày 22.01.2020.

Trước kia tôi mê F.Dostoevsky và đánh giá ông là một nhân vật vĩ đại. Tất nhiên bây giờ ông vẫn là một nhà văn vĩ đại bất chấp cảm giác của tôi thế nào.

20190703 sach

Ảnh: internet

Thế nhưng tôi đã giảm sự yêu thích ông khá nhiều khi đọc lại những cuốn tôi thích nhất, ví như Tội ác và hình phạt. Tôi đọc lại cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Dos để kiểm tra lại cảm giác choáng ngợp của lần đầu đọc. Ông đã khiến tội hụt hẫng khi đọc lần hai. Lần thứ nhất, tôi đã đứng tim khi đọc những dòng mô tả về Raskolnikov khi hắn phạm tội giết người. Lần sau, tôi đã không còn cảm giác như thế nữa. Raskolnikov làm tôi khá dửng dưng. Tôi đã biết được diễn biến và không hứng thú nữa. Sự đọc lần hai này tôi đã bình tĩnh hơn rất nhiều và có lẽ điều đó đã làm giảm sự đam mê của tôi đối với ông. Tôi vẫn kính trọng F.Dostoevsky nhưng ông không làm tôi mê mẩn như lần đầu nữa.

Điều đó không xảy ra tương tự với Lev Tolstoy hay nói khác đi sự giảm sút cảm xúc ở Lev không nhiều như ở Dos khi đọc lại lần hai. Tôi vẫn ngỡ ngàng trước những hành động của Anna Karenina, vẫn thấy một sự cảm thương vô bờ với nàng. Sự miêu tả của tác giả với những diễn biến tâm lí của người đàn bà quý tộc ấy khi rơi vào vòng xoáy tình ái vẫn khiến tôi xúc động. Những hành động bản năng đầy kiên quyết của nàng vẫn khiến người đọc thông cảm, đón đợi. Lev Tolstoy vẫn làm tôi hứng thú, kể cả với cuốn tiểu thuyết mang tính lí tưởng của ông là Phục Sinh. Những suy nghĩ của chàng công tước Nekhliudov về cái ác, nhà tù, nỗi thống khổ của con người vẫn có sức lay động.

Sự đọc lại là một sự trải nghiệm khắc nghiệt với tác phẩm, dù tinh thần cơ bản là bất cứ tác phẩm nào, ở lần đọc sau, cảm xúc đều bị suy giảm ít nhiều. Có tác phẩm suy giảm chút ít, có tác phẩm bị mất đi một khối lớn và cá biệt từ non cao rơi thẳng xuống vực thẳm. Thế nên ban đầu tôi xếp Dos cao hơn Lev. Dos đứng vị trí thứ nhất trong các nhà tiểu thuyết Nga cổ điển, Lev ở vị trí thứ hai nhưng sau khi đọc lại, vị trí đã bị đổi ngược. Tôi viết những cảm nhận về hai nhà văn nói trên ở mạng xã hội facebook, một bạn đọc đã hỏi tôi: Vì sao như vậy? Tôi trả lời rằng: Đọc lại mà vẫn thích, điều ấy khó hơn. Cho nên trong cảm quan cá nhân của tôi bây giờ Lev là số một trong các nhà tiểu thuyết Nga cổ điển. Lev Tolstoy đã làm được cái điều mà tôi nghĩ F.Dostoevsky rất khác biệt. Tác giả của của Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Phục Sinh... làm cho tôi cảm thấy rằng câu chuyện ông kể là rất thực, còn Dos, ấn tượng lần sau là những câu chuyện của ông phi thực, nó giống những vở kịch được dàn dựng nhiều hơn. Và đọc những câu chuyện được dàn dựng, dù có khéo léo đến mấy thì lần sau đều ít hứng thú.

Tôi vẫn nhớ cảm giác choáng ngợp khi lần đầu đọc Salammbô của G.Flaubert, sao mà nhiều cảnh hùng vĩ và ấn tượng đến thế. Tôi thán phục trước những cảnh hoành tráng mà miêu tả vô cùng tỉ mỉ của Flaubert. Những cuộc chiến tranh đầy màu sắc và âm thanh giữa các bộ tộc, tác phẩm như một cuốn phim với rất nhiều cận cảnh vĩ đại. Ông có một trí nhớ và một óc họa sĩ thiên tài. Nhưng ở lần đọc sau, những cảm giác đó trong tôi mất đi nhiều lắm. Tôi thấy Salammbô chỉ là một tác phẩm hay, không đến mức gây choáng ngợp bàng hoàng. G. Flaubert quá cầu kì, quá dàn dựng và khi người ta đã biết được ý đồ của tác giả thì họ không còn hồi hộp chờ đợi nữa.

Sự khác biệt ấy có thể xảy ra ở cùng một tác giả với những tác phẩm khác nhau. Vẫn là Flaubert nhưng với Bà Bôvary thì cảm giác gần như trái ngược. Lần sau của Bà Bôvary vẫn khiến tôi ưa thích với những phiêu lưu tình ái đầy nguy hiểm của người đàn bà ấy, dù sự hồi hộp đã mất đi một lượng không tránh khỏi. Sự kiểm chứng này rất giống với trường hợp của Anna Karenina, đọc lần sau, người ta vẫn tin rằng điều ấy có thực và có thể chính mình đã rơi vào vòng xoáy ấy. Sự cám dỗ của những người đàn bà đẹp, người ta nhìn thấy sự nguy hiểm của vấn đề mà không sao thoát ra khỏi. Bi kịch của bà Bôvary giống hệt của Anna Karenina nhưng tất nhiên vấn đề không phải là nội dung câu chuyện. Điều tài tình là tác giả đã khiến cho người đọc lần sau vẫn tin vào câu chuyện, dẫn dắt họ đi theo cảm xúc và nhập cuộc theo những cảm xúc ấy. Và điều đó khiến cho tác phẩm được thích lâu hơn?

Sự đọc lại vô cùng nghiệt ngã. Tôi ngưỡng mộ nhiều hơn những tác phẩm trụ được lần đọc thứ hai, thứ ba và hơn nữa. Thôi thì tạm gác qua những vĩ nhân cổ điển. Giờ ta đi gặp những “ông lớn” đương đại xem thế nào.

Nói thật là khi Cao Hành Kiện vừa được dịch ra tiếng Việt với Linh Sơn tôi đã không thể nào đọc nổi ông. Đọc được mươi trang tôi đã vất sách và không nghĩ sẽ có ngày đọc lại. Khoảng mười năm sau, tôi mới đọc lại Cao Hành Kiện và vô cùng thích thú. Nhưng tôi vẫn nghi ngờ cảm giác của mình giống như khi đọc Salammbô của G. Flaubert, tôi để lắng lại ít nhiều và tiếp tục với Linh Sơn. Kinh ngạc. Lần kiểm tra này cảm xúc vẫn gần như lần đầu và đến lần thứ ba, thứ tư, họ Cao bị mài mòn rất ít và tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết của họ Cao là một trường hợp vô cùng đặc biệt. Nó chống lại cực tốt sự bào mòn. Lại sao có được trạng thái ấy, có phải tác giả đã không muốn giải quyết vấn đề một cách rốt ráo, cuộc đi tìm ngọn núi thiêng chỉ là một cái cớ? Và xen vào cuộc truy tìm là rất nhiều những câu chuyện về lịch sử, văn hóa Trung Hoa. Nhưng cuốn sách cũng không phải viết về văn hóa lịch sử Trung Hoa, nó là một sự “lừng khừng” giữa các lằn ranh giới, giữa tiểu thuyết và tản văn, giữa kí sự và triết luận. Nó không triệt để vấn đề để tạo khoái cảm quá lớn của lần đầu nhưng đến lần thứ hai, thứ ba vẫn bóc tách, khám phá những mảng lớp mới. Đó là sự tài tình và khác biệt của Cao Hành Kiện. Nhưng tất nhiên đấy là cảm xúc riêng của tôi, một người bạn văn khác thì đánh giá, anh không thể nào chịu nổi họ Cao lần hai!

Milan Kundera đã được dịch rất nhiều ra tiếng Việt và fan hâm mộ của ông không phải ít. Tôi đã đọc toàn bộ những gì của ông được dịch ra tiếng Việt, độ chục cuốn. Nhà văn gốc Séc này có một điểm rất đáng nói về góc độ đọc lại. Các tiểu thuyết, tiểu luận của ông đa số đều vượt qua được những lần bào mòn cảm xúc, những cuốn xuất sắc nhất có thể kể đến: Sự bất tử, Đời nhẹ khôn kham, Nghệ thuật tiểu thuyết, Màn... Tại sao Milan Kundera làm được điều này, có phải những triết luận đan xen trong tiểu thuyết của ông là vừa đủ, vừa đủ độ kích thích hưng phấn sau mỗi lần đọc và không bị mệt mỏi cho những lần tiếp sau? Nó như một nhắc nhớ nhẹ nhàng về cuộc sống, đọc nó không bị phiền lòng, không bị giáng những đòn quá mạnh nhưng vẫn đủ sâu sắc. Đa số sách của Milan Kundera không làm tôi suy giảm hứng thú với những lần trở về, cho nên ở những chuyến đi xa, tôi thường chọn vài cuốn của Kundera để mang theo cùng hành trình.

Tôi thử nghiệm sự đọc lại với hai cuốn tiểu thuyết thuộc loại thành công nhất của các nhà văn Việt đương đại: Thời xa vắng của Lê Lựu và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thời xa vắng của Lê Lựu gợi cho tôi những nỗi buồn của anh chàng Giang Minh Sài nhưng những lần đọc sau tôi càng ít buồn hơn. Có lẽ, vì cái sự “thời vụ của lịch sử” đã thay đổi, cái “thời cuộc” của đời anh Giang Minh Sài không kéo dài và bây giờ không lặp lại nữa. Với Nỗi buồn chiến tranh thì dường như tính lặp lại và những quãng rung động về chiến tranh, tình yêu vẫn còn nhiều. Người đọc vẫn thấy mình có cơ hội trải qua nó hoặc nghĩ về nó với những gần gặn của liên tưởng và trải nghiệm. Sự suy giảm khoái cảm của Bảo Ninh ít hơn của Lê Lựu và tôi nghĩ rằng đó đều là hai tượng đài của tiểu thuyết Việt Nam mà có lẽ cần thêm nhiều thời gian nữa để có đối thủ vượt qua.

Câu hỏi đặt ra là các nhà văn, họ viết cho lần đọc thứ nhất hay cho lần đọc thứ hai hoặc nhiều hơn và có bí quyết gì không? Có lẽ không ai đặt ra câu hỏi ấy khi bắt tay vào viết và tôi nghĩ cũng không ai giải nổi bài toán này. Lev Tolstoy chắc chắn không ý định viết Anna Karenina cho người ta đọc lần thứ hai mới thích và F. Dostoevsky sẽ không ngốc mà nghĩ rằng ông chỉ làm cho người ta choáng ngợp ở lần thứ nhất. Và ở cùng một tác giả đã có sự khác biệt như ở trường hợp G. Flaubert, cả Lê Lựu hoặc Bảo Ninh... Bằng một sự mẫn cảm hoặc thiên phú, xuất thần nào đó của tác giả mà ta khó giải thích nổi sự khác biệt ở những tác phẩm cụ thể của họ ở những lần đọc lại và không hề giống nhau. Cùng tác giả mà có cuốn thích đọc hơn một lần, cuốn khác lại không thế và ngay cả ở quy mô nhỏ hơn, những truyện ngắn cũng có nhiều trường hợp tương tự. Một truyện ngắn của Bảo Ninh tôi rất thích khi lần đầu khi đọc trên báo là Bội phản, nhưng rồi khi tôi chọn nó để đọc cho một mục đích khác tôi đã thất vọng vì cảm xúc xưa đã bị mất đi khá nhiều. Ngoài vấn đề tài năng hay nội dung của tác phẩm thì những khác biệt này còn có thể suy nghĩ theo một hướng khác nữa: “cái tạng của tác phẩm”. Tác phẩm “tạng này” thì chỉ nên đọc một lần, còn “tạng kia” thì có thể nhiều lần?

Sự đọc lại nghiệt ngã như nhúng kim loại vào a xít. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà văn đôi chút lo sợ khi đọc lại tác phẩm của mình và những bạn đọc, vì quá yêu mến một tác phẩm nào đó cũng ngần ngại khi đứng trước sự thử thách này. Sự đọc lại giống như một lưỡi cưa máy rất sắc, ít trang bị bảo hộ. Chiếc cưa có thể cắt đứt ngay một thân cây lớn và cũng có thể làm tổn thương chính người dùng. Những tác phẩm đã vượt qua được sự nghiệt ngã của sự đọc lại thì có thể chúng đã sở hữu một vé đi vào sự bất tử của văn chương.

Uông Triều

Nguồn: Tạp chí Sông Hương SDB33/06-2019, phiên bản trực tuyến ngày 25.6.2019.

TTCT - Suốt một thập kỷ qua, mỗi năm, khi cần có một cái nhìn tổng kết về tình hình văn học dịch của Việt Nam, ta đều có thể thoải mái mà tự hào là một trong những nước có hệ thống văn dịch phát triển mạnh mẽ.

20200117

Từ văn chương cổ điển tới đương đại, từ khu vực châu Á sang châu Âu, từ các giải Nobel, Goncourt, Booker, đến Pulitzer, Orange, không mảng nào mà nền xuất bản của chúng ta bỏ sót. Chưa bao giờ độc giả trong nước được hưởng một sự đa dạng đến vậy của dịch phẩm. Đúng 15 năm sau khi gia nhập Công ước Berne, nền xuất bản Việt Nam gần như đuổi kịp thế giới.

Những mảnh ghép sắc nhọn

2019, do vậy, một lần nữa là một năm thành công vang dội của văn học dịch. Những tác phẩm kinh điển và đương đại nặng ký về cả số trang lẫn chất lượng vẫn được cho ra mắt đều đều, từ Hán Sở diễn nghĩa của Chung Sơn cư sĩ Chân Vĩ, Những linh hồn chết của N. Gogol, đến Thằng cười của Victor Hugo, Chết chịu của Céline, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Các tác phẩm đoạt các giải thưởng danh giá cũng đều đặn xuất hiện: Những người đẹp say ngủ, Đẹp và buồn của Kawabata Yasunari (Nobel năm 1968), Herzog của Saul Bellow (Nobel năm 1976), Cảnh đồi mờ xám của Kazuo Ishiguro (Nobel năm 2017), Trong một đêm tối trời tôi ra khỏi ngôi nhà tịch mịch của Peter Handkle - nhà văn vừa đoạt giải Nobel và gây nên một cuộc tranh cãi trên toàn cầu vào năm nay.

Những hiện tượng văn chương mới của châu Á khuấy đảo văn đàn thế giới cũng góp mặt cho bộ mặt sách dịch năm nay với Bản chất của người của Han Kang, Cô nàng cửa hàng tiện ích của Murata Sayaka (giải Akutagawa năm 2016) và tác phẩm nữ quyền bán chạy cả triệu bản Kim Ji Young, sinh năm 1982 của Cho Nam Joo. Rất tiếc, về đến Việt Nam, cả ba không gây được nhiều tiếng vang như mong đợi.

Một loạt nhà văn đương đại ít nhiều tạo được danh tiếng cũng đã được dịch sang tiếng Việt như Christopher Isherwood (Người chuyển tàu, Hoa tím ngày xưa), Ray Bradbury (Người minh họa), đặc biệt là Philip Pullman - người được tờ Times bình chọn là một trong “50 nhà văn Anh vĩ đại nhất kể từ năm 1945” với bộ ba Vật chất tối của ngài.

Trong bài “Ngôn từ, đối thoại, tiểu thuyết”, phê bình gia và nhà triết học Julia Kristeva nêu ra quan niệm về liên văn bản, “như một ghép mảnh hay khảm (mosaic) của các trích dẫn; bất kỳ văn bản nào cũng là sự hấp thu và biến hóa của văn bản khác”.

Đọc, trong những ngồn ngộn sách vở ấy, không chỉ là nhận ra được những tác phẩm xuất sắc và thưởng thức riêng lẻ, mà còn là kết nối chúng lại với nhau, tạo thành một mạng lưới nơi các cuốn sách có thể cùng vang vọng hay đối chọi nhau. Những cuốn sách nổi bật nhất năm 2019, với tôi, là một tập hợp những cuốn có thể phân thành những cú đọc sóng đôi, một cách tình cờ mà soi rọi đầy ý nghĩa. Và đôi khi sự móc nối không chỉ nằm ở một cặp đôi.

Cặp đôi đầu tiên là hai cuốn sách cách nhau 2.000 năm, Biến thể của Ovide và Lưỡng giới của Jeffrey Eugenides vì cùng chung một mảng đề tài: sự biến đổi diễn ra và tác động của nó lên thân thể cũng như tâm lý con người. Ovide là nhà thơ La Mã nổi tiếng với tác phẩm vĩ đại nhất Biến thể - bài thơ sử thi gồm 15 thiên, kể lại hơn 250 câu chuyện thần thoại, từ khởi đầu của thế gian. Biến thể của Ovide tập trung vào “những hình hài biến đổi thành những hình thể mới”, nơi con người bị biến thành sói, cây nguyệt quế, con gấu, những vì sao…

Điểm độc đáo của Biến thể nằm ở sự phóng túng và cợt nhả trong cách kể chuyện và nội dung truyện kể với đầy những vị thần tai quái, sân si, với những yêu đương, ghen tuông, thù ghét, cưỡng đoạt. Nếu bắt buộc phải xác định, như nhà nghiên cứu Hy-La của Đại học Oxford Jonathan Bate chiêm nghiệm, Ovide quan tâm tới khía cạnh tâm lý con người, cụ thể hơn là khía cạnh nguy hiểm của việc làm người.

Đầy rẫy trong Biến thể là những câu chuyện về tình yêu, bạo lực, khổ đau, những biến hóa khôn lường của lòng người và tạo hóa. Không có gì ngạc nhiên khi Ovide gây ảnh hướng lớn tới thế hệ các nhà thơ, văn sau này, mà người học trò lớn nhất của ông chính là William Shakespeare, người đã lấy cả một tích truyện về cặp tình nhân Pyrame và Thisbé, biến nó thành vở kịch lừng danh Romeo và Juliet.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Lưỡng giới không chỉ lấy khuôn mẫu từ một nhân vật xuất hiện trong Biến thể là Tiresias. Jeffrey Eugenides muốn đi xa hơn thần thoại bằng cách tạo ra một nội dung mới toanh với một người kể chuyện là nhân vật lưỡng giới thật. Sự biến thể hẳn nhiên cũng xảy ra ở Cal Stephanides, nhân vật chính của Lưỡng giới, khi sinh ra là một đứa con gái, nhưng đến tuổi dậy thì lại phát hiện ra mình có tinh hoàn ẩn bên trong do bị đột biến gien. Trên nền tảng nhân vật có một không hai này, Eugenides xây dựng cốt truyện, hoàn cảnh, dẫn tới cái sự đột biến gien ấy. Và Lưỡng giới là rất nhiều thứ trong một: sử thi hào hùng, câu chuyện gia đình vắt qua mấy thế hệ, qua nhiều giai đoạn và biến động lịch sử.

Không hề khó khăn để đọc vắt từ Lưỡng giới sang một tác phẩm kinh điển đương đại khác của văn học Mỹ được xuất bản cũng vào năm 2019: Vết nhơ của người.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Eugenides công khai thừa nhận mình học tập và chịu ảnh hưởng từ một bậc thầy người Mỹ trong việc tạo ra một giọng kể mang hướng văn hóa mới, đó chính là Philip Roth. Và còn ở đâu hơn Vết nhơ của người, với nhân vật chính là vị giáo sư người Do Thái, Coleman Silk, người từng giữ vị trí danh giá là chủ tịch hội đồng giảng viên suốt nhiều năm, bị quy kết là phân biệt chủng tộc, ta có thể đọc về sự tan vỡ của giấc mơ Mỹ một cách khủng khiếp hơn?

Vết nhơ của người kể lại cái bi kịch đầy ngẫu nhiên này khi lần về quá khứ của Coleman - nạn nhân của phân biệt chủng tộc và quyết tâm đổi đời mình, ở một cái đất nước nhồi sọ công dân về giấc mơ Mỹ. Coleman đã cố tạo ra số phận lịch sử của riêng mình, cố “phá tung xiềng xích của lịch sử” nhưng “cuối cùng lại bị sập bẫy bởi cái lịch sử mà ông hoàn toàn không ngờ tới” của thói đạo đức giả và sự phải đạo chính trị.

Roth chỉ ra rằng Coleman không vượt thoát nổi “cái thòng lọng của lịch sử mà chính là thời đại của mỗi người”.

Cách Coleman trong Vết nhơ của người 105 năm, một nhân vật khác cũng bị sa lầy trong chính thời đại của mình: chàng Jude của Thomas Hardy. Mồ côi cha mẹ, sống với bà cô ở một làng quê lạc hậu thời Victoria, Jude Fawley chỉ có một khát khao tột bậc là được đến Christminster (nguyên mẫu là Oxford), nơi có cây tri thức mọc để trở thành một học giả. Jude - Kẻ vô danh là một trong những cuốn tiểu thuyết tố cáo xã hội mạnh mẽ nhất của Hardy khi tấn công không khoan nhượng vào cái pháo đài đạo đức giả của xã hội thời Victoria. Gặp phải vô số chỉ trích của giới phê bình thời đó, thậm chí cuốn sách còn bị một vụ giám mục ném vào lửa đốt.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Hơn 70 năm sau, một cuốn sách khác bị ném vào lò đốt vì bị coi là có nội dung không lành mạnh: cuốn tiểu thuyết chống chiến tranh Lò sát sinh số 5 của Kurt Vonnegut. Từng bày tỏ sự ngưỡng mộ vô bờ bến của mình dành cho Céline trong nhiều bài viết, một trong những nhà văn Pháp vĩ đại nhất nhưng đầy tai tiếng của thế kỷ 20, Vonnegut đi xa hơn nữa là đã lấy cảm hứng và học Hành trình đến tận cùng đêm tối cách chiến tranh khủng khiếp vô nghĩa tàn sát bao nhân mạng có thể được triển khai một cách lố bịch và đầy hài hước như thế nào.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Chết chóc, sự vô nghĩa lý và hài hước bao trùm Lò sát sinh số 5 nơi mỗi khi cái chết xảy ra, độc giả lại được nghe cái điệp khúc “đời là thế”. Là nhà văn của trò đùa và cái chết, với Vonnegut, “Hài hước là cách để trì hoãn lại sự khủng khiếp của cuộc đời, để bảo vệ chính mình”. Lò sát sinh số 5 đặt người đọc vào thế lưỡng nan, một bên là chiến tranh vô nghĩa, một bên là sự khó khăn đến tột độ để cắt nghĩa sự vô nghĩa đó.

Sự vô nghĩa và tăm tối của bạo lực đưa tôi đến tác phẩm nổi bật cuối cùng của văn học dịch năm 2019: Khó mà tìm được một người tốt của Flannery O’Connor. Được coi là một tác giả kinh điển của văn chương Mỹ, mãi đến tận năm nay O’Connor mới xuất hiện ở Việt Nam trong một tập truyện gồm mười truyện ngắn khắc họa đời sống người dân miền Nam nước Mỹ. Những cái ác dửng dưng và những pha bạo lực ập đến trong truyện của bà trong những tình thế bất ngờ nhất như là một phương cách để tác giả phơi bày những mặt tối của nhân tính, để từ đó tạo ra những phút giây ân sủng, hay đốn ngộ.

Văn chương của O’Connor gây ảnh hưởng lớn tới nhiều nhà làm phim nổi tiếng sau này như anh em nhà Coen, như họ thú nhận, “Anh có thể nhận ra sự ngưỡng mộ của chúng tôi dành cho các nhà văn miền Nam như […] Flannery O’Connor. Bà ấy hiểu biết thật sự được tâm lý người miền Nam mà nhiều nhà văn khác không có được”. Mỗi nhà văn tạo ra được tác phẩm của mình thế giới theo đặc điểm riêng của họ, và đó chính là dấu ấn của thiên tài. Độc giả không bao giờ có thể nhầm lẫn O’Connor với ai khác, một khi đã bước chân vào cái thế giới đầy nghịch dị với những chân dung nhân vật như biếm họa, những con người khao khát sục sạo đi tìm chính mình và đi tìm đức tin nhưng thường thất bại.

Nhìn lại văn học dịch: Vẫn đọng lại sự vật lộn ấy của kiếp người

Trong một cái nhìn đọng lại, văn học dịch của năm 2019 vẫn bày ra những chủ đề khiến người đọc phải trầm tư: con người chống lại thời đại, ký ức và những gương mặt tráo trở của nó, sự hiểm nguy của việc làm người và những biến thể của cảm xúc, lịch sử và cách chúng ta nhìn nhận và tạo tác nó, chiến tranh và sự vô nghĩa của bạo lực, con người và quá trình truy tìm căn tính…

Đọc văn chương, ta thử thách chính mình trong công cuộc truy lùng cái biểu đạt và cái được biểu đạt, rồi đi tìm chính mình, ngoài đi tìm cuộc đời và những hiện thực khác.■

Zét Nguyễn

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 01.01.2020.

1. Đặt vấn đề

Tại Việt Nam, Hình tượng học (cách dịch thuật ngữ Imagology phổ biến nhất của giới nghiên cứu Trung Quốc), so với các phương pháp tiếp cận văn học đã khá quen thuộc khác như thi pháp học, loại hình học, văn hóa học, chủ nghĩa cấu trúc/hậu cấu trúc, chủ nghĩa thực dân/ hậu thực dân, chủ nghĩa hậu hiện đại, có lẽ còn là một phương pháp mới mẻ. Trên thế giới, đây cũng là một phương pháp nghiên cứu có tuổi đời non trẻ hơn cả. Cùng với bước phát triển mới trong nhận thức về dân tộc kể từ sau Thế Chiến II, khi người ta không còn tin vào “tính có thật” của “tính cách dân tộc” (national character) như được mô tả trong các “huyền thoại về dân tộc” từng bị lợi dụng để cổ vũ cho cuộc đại chiến thảm khốc giữa các quốc gia dân tộc, những hình tượng như vậy đã trở thành đối tượng của một ngành nghiên cứu mới: Hình tượng học.

Vậy Hình tượng học là gì? Nó hướng tới mục đích gì? Lịch sử hình thành và phát triển của nó ra sao? Đó là những vấn đề chúng tôi sẽ đề cập tới trong bài viết mang tính giới thiệu này. Đồng thời, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp nghiên cứu của Hình tượng học để tiến hành một nghiên cứu trường hợp là hình ảnh phương Tây trong thơ văn của nhà nho Việt Nam đi sứ thế kỷ XIX.

2. Giới thiệu về Hình tượng học

2.1. Định nghĩa về Hình tượng học

Để hiểu rõ về Hình tượng học như một phương pháp nghiên cứu văn học, trước hết chúng ta cần phải hiểu đối tượng của nó: Hình tượng. Khái niệm hình tượng trong quan niệm của các nhà nghiên cứu hình tượng học có cơ sở từ khái niệm “hình ảnh” (image) thuộc lĩnh vực tâm lý học nhận thức, theo đó hình ảnh, ở bình diện khái quát, được chia thành năm cấp độ: “đồ họa (tranh vẽ, tượng, các thiết kế), thị giác (gương, hình chiếu), tri giác (dữ liệu của các cơ quan cảm giác, ‘chủng loại’, diện mạo), tinh thần (giấc mơ, ký ức, tư tưởng, mộng tưởng), ngôn từ (ẩn dụ, mô tả)” (Beller và cộng sự 2007: 4). Hình tượng dân tộc trong văn chương được xếp vào loại hình ảnh tinh thần (mental image), bởi đó là những sự hư cấu của trí óc chứ không phải là những hình ảnh được quan sát thấy hay những trải nghiệm thực tế của con người.

Xác định đối tượng nghiên cứu của Hình tượng học là hình ảnh của các dân tộc được biểu hiện trong văn chương, M. Beller đưa ra định nghĩa về ngành nghiên cứu này như sau: “Nghiên cứu hình tượng học trong văn chương (literary imagology) - và, cụ thể hơn là nghiên cứu so sánh hình tượng học (comparativist imagology) - tìm hiểu nguồn gốc và chức năng của các mô tả về đặc trưng (characterization) của các đất nước và dân tộc khác trong văn bản nghệ thuật (literary text), đặc biệt là theo cách mà chúng được thể hiện trong các tác phẩm văn học, kịch, thơ, du ký và tiểu luận” (Beller và cộng sự 2007: 7).

2.2. Mục đích của Hình tượng học

Tại sao chúng ta lại phải cần đến một ngành nghiên cứu về hình ảnh các dân tộc? Trả lời câu hỏi này chính là chỉ ra mục đích của Hình tượng học.

Muốn vậy, chúng ta phải đi sâu vào tâm lý con người và quay ngược trở lại quá khứ xa xôi của nhân loại. Khi con người bắt đầu có ý thức về mình thì cũng là lúc nảy sinh ý nghĩ về Kẻ khác, như một đồng xu tất yếu phải có hai mặt. Quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm người, các dân tộc, các quốc gia-dân tộc, các vùng, các châu lục khác nhau, đã từ rất lâu, thường được hình dung trong mô hình mang tính nhị nguyên: Ta và Kẻ khác. Trong khái niệm Kẻ khác luôn ẩn chứa sự đe dọa bởi họ khác với Ta, Ta không hiểu được họ. Để hiểu Kẻ khác, và từ đó có thể kiểm soát và thống trị họ, Ta phải định nghĩa được họ. Hình ảnh chính là phương tiện để Ta làm việc đó. Khi định nghĩa về Kẻ khác, ta sẽ tạo dựng lên những hình ảnh mô tả về những đặc trưng của họ theo hệ quy chiếu là những đặc trưng mà Ta tự nhìn nhận thấy ở mình, sau đó đưa chúng vào những khuôn quan niệm cứng nhắc, giản lược so với thực tế luôn biến đổi và phức tạp, và từ đó truyền bá chúng trong cộng đồng của mình, khiến chúng ăn sâu vào ý thức và tiềm thức của các thành viên trong cộng đồng (stereotype). Khái niệm “stereotype” được giới nghiên cứu Trung Quốc dịch bằng các khái niệm “khắc bản ấn tượng” (ấn tượng cứng nhắc) hay “thành kiến” cũng bởi tính khó thay đổi và sai lầm của nó. Một khi đã hình thành, những hình ảnh như vậy sẽ được coi là “tri thức” cố định để hiểu về “những Kẻ khác khác” cùng nhóm với đối tượng Ta đã gặp ban đầu.

Suốt một thời kỳ dài, cùng với sự hình thành ý thức dân tộc, những hình ảnh như vậy đã được xem như công cụ mang tính tiên nghiệm giải thích cho những khác biệt giữa các dân tộc. Hệ quả là những sự phân biệt, xung đột, đối kháng dân tộc kéo dài (ví dụ như giữa người Đức và người Pháp, giữa người Thiên chúa giáo và người Hồi giáo, chủ nghĩa bài Do Thái ở các nước châu Âu, thái độ lúc ngưỡng mộ, khi coi thường người Trung Hoa của người phương Tây, quan niệm Hoa - Di từ thời cổ đại Trung Hoa kéo dài cho tới tận ngày nay…), công cuộc xâm chiếm thuộc địa dưới chiêu bài khai hóa văn minh của các cường quốc tư bản nhân danh sự khác biệt và ưu việt của dân tộc mình so với các dân tộc mà họ cho là lạc hậu, dã man ở những vùng đất xa xôi, đỉnh điểm là Thế Chiến II với tư tưởng “chủng tộc thượng đẳng” của Đức Quốc xã và vụ Diệt chủng với người Do Thái. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, trong bối cảnh căng thẳng, xung đột giữa các nước tư bản phương Tây với các nước xã hội chủ nghĩa, các hình tượng dân tộc cũng được hai bên dựng lên nhằm thể hiện những nhận thức tiêu cực về đối phương. Trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu tiếp xúc giữa các quốc gia - dân tộc ngày một tăng lên, tuy vậy, ý thức về bản sắc dân tộc không vì thế mà giảm đi; ngược lại, ở một số nơi còn có xu hướng trở nên cực đoan, ví dụ như khu vực Balkan, Trung Cận Đông Hồi giáo, Trung Quốc, gần đây nhất là sự kiện Anh tách ra khỏi Liên minh châu Âu, cuộc khủng hoảng nhân đạo ở châu Âu và tình hình chia rẽ trong nội bộ nước Mỹ sau cuộc bầu cử tổng thống. Và dĩ nhiên, cùng với những xung đột đó, hình tượng dân tộc - cả của Ta lẫn Kẻ khác - lại càng xuất hiện dày đặc và trở nên phức tạp hơn bao giờ hết, để rồi tới lượt chúng, càng khắc sâu thêm xung đột và sự thù ghét giữa các dân tộc.

Nhận thức được gốc rễ của vấn đề cốt lõi và hệ trọng này của nhân loại, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong lĩnh vực nhân loại học và nghiên cứu văn chương, đã xác định đối tượng và nhiệm vụ cho một ngành nghiên cứu mới, Hình tượng học, vốn khởi nguồn từ văn học so sánh (comparative literature) rồi được khai triển rộng rãi trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Mục đích của ngành này là: “mô tả nguồn gốc, quá trình hình thành và chức năng của các định kiến và khuôn quan niệm dân tộc, đưa chúng ra ngoài ánh sáng để phân tích và giúp con người nhận thức chúng bằng lý trí” (Beller và cộng sự 2007: 12), xem xét lại theo định hướng phê phán và có hệ thống truyền thống văn hóa của việc tạo dựng các thành kiến dân tộc để chứng minh rằng “các mô tả về đặc trưng của một dân tộc chỉ có tính quy ước và đồn đại chứ không phải được nhận định dựa trên kinh nghiệm hay là những phát biểu có cơ sở thực tiễn” (Beller và cộng sự 2007: xiii). Việc “giải huyền thoại”, “giải ảo” thành công các quan niệm tưởng tượng về dân tộc sẽ góp phần loại bỏ tận gốc các quan niệm phân biệt và xung đột dân tộc.

2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Hình tượng học

Như các tác giả biên soạn công trình Hình tượng học: Sự kiến tạo trong văn hóa và sự mô tả trong văn chương về tính cách dân tộc đã chỉ ra, “Hình tượng học […] tìm hiểu diễn ngôn” (Beller và cộng sự 2007: xiii). Cụ thể hơn, “Hình tượng học quan tâm đến loại hình học của các mô tả về đặc trưng dân tộc và các thuộc tính dân tộc, cùng với sự phổ biếntriển khai chúng trong lĩnh vực văn chương” (Beller và cộng sự 2007: xiv). Chúng ta có thể điểm qua một loạt đề tài của Hình tượng học trong văn học thế giới theo tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại như sau:

 Trong truyền thống văn học châu Âu, từ thời Hy Lạp cổ đại đã có những bằng chứng về hình tượng bản thân và hình tượng kẻ khác. Khái niệm dã man trong tiếng Hy Lạp (là từ tượng thanh barbaros) ban đầu dùng để chỉ tất cả những người không nói tiếng Hy Lạp, và đây được xem như cách “định danh” về mặt ngôn ngữ của họ (Beller và cộng sự 2007: 266). Về sau, khái niệm này dần trở nên phức tạp và chứa nhiều ý nghĩa tiêu cực, miệt thị dân tộc hơn. Ví dụ như, trong vở bi kịch nổi tiếng Người Ba Tư (472 Tr.CN) của Aeschylus, khái niệm này được dùng để mô tả người Ba Tư như là một dân tộc ngoài Hy Lạp hiếu chiến, tàn bạo, thích hủy diệt và chuyên chế (Beller và cộng sự 2007: 6). Đây là cách nhìn “kẻ cả” của người đánh giá. Về sau, cách nhìn tương tự cũng được người Hy Lạp áp dụng với người La Mã, người La Mã áp dụng với người Giéc-manh, tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn nhận những kẻ ngoại đạo.

Vào thời Trung cổ, những bản anh hùng ca ra đời trong bối cảnh xung đột giữa đạo Thiên Chúa và Hồi giáo cũng chứa đựng “cả một kho hình tượng” về Kẻ khác xa lạ và thù địch, trong đó những kẻ thù tôn giáo bị xem như “quỷ dữ”. Cuộc đối đầu Đông - Tây này kéo dài nhiều thế kỷ và vẫn tiếp diễn cho tới tận ngày nay (Beller và cộng sự 2007: 6).

Trong thời đại của chủ nghĩa nhân văn, khi các nền văn học châu Âu tái phát hiện quá khứ, ý thức dân tộc khiến cho các tác giả thường có xu hướng tự đề cao các đặc trưng của dân tộc mình bằng cách mô tả tiêu cực về các dân tộc khác. Các tính cách dân tộc được mô tả trong các vở kịch của Shakespeare, hài kịch phong tục, và nhất là trong tiểu thuyết, tiểu luận và sách du ký của thế kỷ mười tám và mười chín được rút ra từ kho hình tượng có sẵn và những hình tượng đó hàm chứa tư tưởng coi dân tộc mình là trung tâm (Beller và cộng sự 2007: 6).

Tới thời kỳ Khai sáng, giới trí thức tỏ ra quan tâm đến sự hệ thống hóa các khuôn quan niệm dân tộc theo quan điểm của tính cách học (charactology) và những hiểu biết dựa trên giai thoại về “phong tục tập quán” vẫn còn thống trị, qua các tác phẩm tiêu biểu như Espirit des lois (Tinh thần pháp luật) của Montesquieu, tiểu luận “Of national character” (Về tính cách dân tộc) của Hume, Essai sur les moeurs (Khảo luận về các tập quán) của Voltaire và Scienza nouva (Khoa học mới) của Vico (Beller và cộng sự 2007: 18).

Sang thế kỷ XIX, chịu ảnh hưởng của quan điểm triết học của Fichte và Hegel, cho rằng cá tính của một dân tộc “linh hồn dân tộc” (Volksgeist), độc lập về phương diện bản thể luận (Beller và cộng sự 2007: 18), theo đó tính cách dân tộc được xem như linh hồn mà thể xác là xã hội. Cực đoan hơn, Hippolyte Taine, trong phần giới thuyết cho cuốn sách Lịch sử văn học Anh của ông (1863), còn “coi những đặc trưng văn chương của văn bản nghệ thuật được quyết định cả bởi đặc điểm thể chất của tộc người của tác giả” (Beller và cộng sự 2007: 19).

Trong truyền thống khác về lịch sử truyền giáo của đạo Thiên chúa và văn học thực dân, cuộc đụng độ giữa Thiên Chúa giáo với các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa, sự xung đột về quan điểm đạo đức, văn hóa, hệ tư tưởng của các cường quốc thực dân với các nước thuộc địa ở Trung-Cận Đông, Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á, châu Phi được phản ánh trong văn chương của cả hai phía (ví dụ như: quan niệm “Dương di” trong văn chương nhà nho ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản).

Vào nửa đầu thế kỷ XX, ý thức dân tộc phát triển tới đỉnh điểm và bộc lộ mạnh mẽ trong các hình thức của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc đế quốc chủ nghĩa, chủ nghĩa dân tộc của các nước thuộc địa. Các diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa thời kỳ này đầy rẫy những hình tượng bản thân và hình tượng kẻ khác.

Nửa sau thế kỷ XX, cuộc Chiến tranh Lạnh với sự đối đầu giữa hai phe là các cường quốc tư bản phương Tây và các nước xã hội chủ nghĩa kéo dài tới đầu thập niên 1990, song song với nó là phong trào “bài thực”, “giải thực” ở các quốc gia dân tộc đang đấu tranh giải phóng dân tộc hay cựu thuộc địa cũng là bối cảnh chính trị - xã hội và văn hóa - tư tưởng cho sự ra đời của hàng loạt tác phẩm văn chương, các lý thuyết phê bình văn học theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa.

Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, quan hệ phức tạp của các nước lớn, sự hình thành các khối liên minh quốc gia dân tộc cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, các cuộc xung đột vẫn diễn ra lẻ tẻ ở một số điểm nóng như khu vực Balkan, Vùng Vịnh, giao tranh giữa Palestine-Israel, cuộc chiến chống chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan do Mỹ và các nước phương Tây phát động cũng thúc đẩy sự ra đời của nhiều tác phẩm và công trình phê bình văn chương theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa, bài ngoại, thân hoặc chống phương Tây.

2.4. Lịch sử phát triển của Hình tượng học

Thế hệ nghiên cứu đầu tiên về sự mô tả về một dân tộc cụ thể trong văn chương xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XX, Pháp, Đức, Hoa Kỳ và một số nơi khác. Họ thường sử dụng phương pháp tìm hiểu lịch sử chủ đề, liệt kê và lần theo dấu vết của một chủ đề nào đó trong văn chương, từ văn bản này qua văn bản khác, xuyên suốt những thế hệ nối tiếp nhau. Ví dụ như, chủ đề “người Pháp trong văn chương của Shakespeare” hay “người Đức trong văn học Nga”. Fernand Baldensperger, với hai tiểu luận viết về những hình tượng tập thể được tạo dựng bởi các tác giả Pháp quan tâm đến người Anh và người Đức, đã thể hiện nhận thức của ông về tính dễ thay đổi trong tiến trình lịch sử của các hình tượng này và sự chi phối của bối cảnh quan sát đối với chúng (Beller và cộng sự 2007: 8).

Từ tiền đề này, các nhà nghiên cứu văn chương trong những năm sau Thế Chiến II, sau khi chứng kiến “những biến thiên trong lịch sử của tính cách dân tộc Đức”, đặc biệt là cuộc chiến thảm khốc cùng vụ Diệt chủng mà phát xít Đức đã phát động trong Thế Chiến II, đã đưa ra cách tiếp cận theo quan điểm của chủ nghĩa kiến tạo và chống yếu tính luận đối với sự mô tả về dân tộc và căn tính dân tộc trong văn chương. Công trình Les écrivains français et le mirage allemand: 1800-1940 (Các nhà văn Pháp và ảo tượng về người Đức (1800-1940)) của Carré được xem như mốc khởi đầu. Sau đó, học trò của Carré là Guyard, trong tiểu luận “L'étranger tel qu'on le voit” (Người ngoại quốc qua cái nhìn của chúng ta) (1951), đã tiến xa hơn nữa khi đề xuất xem đây là chủ đề chủ chốt của văn học so sánh: nghiên cứu tính cách dân tộc “như được nhìn nhận” (Beller và cộng sự 2007: 21), “như một phép tu từ trong văn chương” (Beller và cộng sự 2007: 22). Hướng nghiên cứu của Guyard được xem như lĩnh vực tương lai của văn học so sánh (Beller và cộng sự 2007: 22).

Lẽ ra, nhờ đó, nghiên cứu Hình tượng học trong văn chương châu Âu trong thập niên 1950 khá phát triển. Nhưng nó lại vấp phải sự phản đối của nhà nghiên cứu văn chương hàng đầu René Wellek (1953), khi ông cho rằng hình tượng học là một hình thức của “xã hội học văn học”, gần gũi với những mối quan tâm của các nhà dân tộc học hơn là các nhà nghiên cứu văn chương (Beller và cộng sự 2007: 23). Quan điểm này của Wellek, cùng với sự không nhất trí của Trường phái Mỹ, thời kỳ đó vốn đang chú trọng đến các cách tiếp cận chủ đề học, loại hình học, phong cách học, đã góp phần “làm tê liệt văn học so sánh trên toàn thế giới” (Beller và cộng sự 2007: 23) và hình tượng học gần như bị lãng quên ngay trong chính địa hạt của văn học so sánh. Trong khi đó, ở các lĩnh vực khác, Hình tượng học lại thu hút sự chú ý, đặc biệt là của các học giả người Đức (trường phái Frankfurt), vốn cảm thấy thôi thúc mạnh mẽ phải “hạ bệ huyền thoại dân tộc”. Tại Pháp, từ quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc, chủ đề “tâm lý học dân tộc” được các nhà tâm lý học xã hội xem xét lại và “căn tính dân tộc” bắt đầu được coi như những hình tượng bản thân của tập thể hình thành trong bối cảnh đối lập tưởng tượng giữa Ta và Kẻ khác.

Tuy vậy, trong thập niên 1960, 1970, Dyserinck, vẫn kiên trì với định hướng nghiên cứu này. Ông lập luận rằng những hình tượng và khuôn quan niệm về dân tộc không nằm ngoài kết cấu nội tại của văn bản, mà trái lại, “thấm vào tận chất liệu của nó” (Beller và cộng sự 2007: 23). Dyserinck biên soạn Aachener Beiträge zur Komparatistik (Cương lĩnh Aachen), trong đó “lấy tính chất đa quốc gia của văn học, xét về những thiên kiến chủ quan mang tính chất tạm thời về dân tộc (quan điểm, hình tượng, khuôn quan niệm) vốn dày đặc trong khung cảnh văn hóa châu Âu (và thế giới) và làm nảy sinh phần lớn những căng thẳng đạo đức mà các văn bản văn chương đề cập tới, chứ không phải xét về sự phân loại dân tộc mang tính khách quan, làm đề tài nghiên cứu” (Beller và cộng sự 2007: 23).

Từ nửa sau thập niên 1980, Dyserinck tiếp tục nghiên cứu Hình tượng học văn chương trong khuôn khổ nghiên cứu châu Âu, biên soạn các công trình có ý nghĩa quan trọng như: Internationale Bibliographie zu Geschichte und Theorie der Komparatistik (Thư mục quốc tế các công trình về lịch sử và lý thuyết của nghiên cứu so sánh), Europa und das nationale Selbstverständnis (Châu Âu và sự tự hiểu về dân tộc mình), “Entstehung und Bewahrung einer Nation” (Sự hình thành và duy trì một dân tộc). Tại Đức và Áo, có các nhà nghiên cứu ngữ văn Anh, tiêu biểu là Stanzel với Der literarische Aspekt unserer Vorstellungen vom Charakte (Bình diện văn chương và những quan niệm của chúng ta về tính cách), và Zacharasiewicz (biên soạn) Die Klimatheorie in der englischen Literatur und Literaturkritik von der Mitte des 16. bis zum frühen 18. Jahrhundert (Ảnh hưởng của Khí hậu học trong văn chương và phê bình văn học Anh từ giữa thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18). Tại Pháp, đáng kể là Moura với công trình “L'imagologie litteraire: Essai de mise au point historique et critique” (Nghiên cứu bước đầu về lịch sử và phương pháp luận của nghiên cứu hình tượng học trong văn chương); Pageux phát triển lý thuyết về hình tượng văn hóa với công trình “L'imagologie litteraire: Essai de mise au point historique et critique” (Từ hình tượng văn hóa tới trí tưởng tượng) và những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hình tượng người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong văn chương Pháp. Hình tượng học, dưới định hướng nghiên cứu của các học giả Pháp, chuyển trọng tâm từ khảo sát hình tượng kẻ khác trong văn bản sang nghiên cứu về người sáng tạo ra hình tượng, từ kiểm chứng xem liệu hình tượng đó có chính xác hay không sang khám phá quá trình tạo dựng hình tượng đó (Tào Thuận Khánh 2014: 29).

Ba chục năm trở lại đây, nhiều sự kiện và biến động chính trị thế giới (sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, phá bỏ bức tường Berlin, thành lập Liên minh châu Âu) khiến cho vấn đề dân tộc lại nổi lên mạnh mẽ. Stanzel viết Europäer: ein imagologischer (Châu Âu: một sự tưởng tượng), Zacharasiewicz khảo sát Das Deutschlandbild in der amerikanischen Literatur (Người Đức trong văn học Mỹ). Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Amsterdam (Hà Lan) biên soạn công trình Imagology: The cultural construction and literary representation of national characters (Hình tượng học: Sự kiến tạo trong văn hóa và sự mô tả trong văn chương về tính cách dân tộc) nhằm cung cấp những nét đại lược về mục đích, lịch sử và phương pháp của Hình tượng học (cũng là công trình chúng tôi chủ yếu dựa vào trong bài viết này). Những nghiên cứu trường hợp cũng được tiến hành, ví dụ như: The Dutch revolt through Spanish eyes: Self and other in historical and literary texts of golden age Spain (c.1548-1673) (Cuộc nổi dậy của người Hà Lan trong con mắt người Tây Ban Nha: Ta và kẻ khác trong văn bản lịch sử và văn chương thời hoàng kim của Tây Ban Nha (1548-1673)).

Chủ nghĩa dân tộc đang lên tại các nước khu vực Balkan cũng đã khuyến khích các nhà nghiên cứu trẻ ở Bulgari và Nam Tư cũ tham gia nghiên cứu diễn ngôn về dân tộc tính và khuôn quan niệm dân tộc với tư duy phê phán, ví dụ như: Wachtel với Making a nation, breaking a nation: Literature and cultural politics in Yugoslavia (Quá trình tạo ra một dân tộc: Văn học và chính trị bằng văn hóa ở Nam Tư cũ), Dukic' với Turaka u hrvatskoj književnosti ranog novovjekovlja (Những đứa con của Sultan: Hình tượng người Thổ Nhĩ Kỳ trong văn học Croatia đầu thời hiện đại), Živančević-Sekeruš với How to describe a difference? The image of the Other in Serbian literature (Làm thế nào để mô tả một sự khác biệt? Hình tượng Kẻ khác trong văn chương Serbia).

Ở các khu vực khác, nghiên cứu Hình tượng học trong những thập niên gần đây cũng bắt đầu sôi động. Các nhà nghiên cứu hình tượng học trong văn chương Đông Á vào cuộc từ giữa thập niên 1980. Đi đầu là Zhao Yiheng với Imagist and chinese classic poems (Các nhà hình tượng học và thơ ca cổ điển Trung Hoa), Hua Meng và Hirakawa với Imagist and chinese classic poems (Hình tượng người phương Tây trong văn học Trung Quốc và Nhật Bản), Zhou Ning với tập sách Hình tượng Trung Hoa trong học thuật và các huyền thoại của phương Tây. Các tiếng nói của giới nghiên cứu ở khu vực Trung - Cận Đông cũng bắt đầu cất lên, ví dụ như A girl in Paris. A Persian encounter with the West (Cô gái ở Paris. Ba Tư gặp gỡ với phương Tây) của Guppy, và gần nhất là công trình nghiên cứu của Nanquette Orientalism versus OccidentalismLiterary and Cultural Imaging between France and Iran Since the Islamic Revolution (Đông phương luận với Tây phương luận. Sự tạo dựng hình tượng trong văn chương và văn hóa của Pháp và Iran kể từ sau cách mạng Hồi giáo).

3. Vận dụng lý thuyết Hình tượng học để nghiên cứu hình ảnh phương Tây trong con mắt các nhà nho Việt Nam được cử đi sứ vào thế kỷ XIX

3.1. Hình ảnh văn minh phương Tây trong mắt nhà nho đi sứ

Theo Trần Kinh Hòa, từ năm 1778 đến 1847, các vua/ chúa Việt Nam đã cử nhiều phái đoàn đi sứ tới các quốc gia và hải đảo Đông Nam Á. Không kể 18 cuộc đi sứ đến nay vẫn không có cứ liệu chính xác (rải suốt từ 1788 và 1846), ông đã liệt kê 11 cuộc tới vùng Batavia, 6 cuộc tới Singapore, hai cuộc tới vùng Biển Tây (Tiểu Tây Dương), tới Pinang, tới Semarang, một cuộc đến Johor, và một cuộc đến Goa/Malắcca (Phan Huy Chú 1994: 127). Những chuyến đi này, nhiệm vụ chủ yếu vẫn là “điều tra những cơ sở của người phương Tây trong vùng, cũng như những mưu toan và mục tiêu của họ làm” (Phan Huy Chú 1994: 129). Tuy vậy, cho đến nay, những tài liệu ghi chép và các chuyến đi này chỉ còn lại khá ít, đó là: những tập nhật ký Hải trình chí lược của Phan Huy Chú, Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức, Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ, những tập thơ như Ba Lăng Thảo của Phan Thanh Giản, Dương mộng thi tập của Hà Tôn Quyền, thơ đi sứ của Cao Bá Quát... Qua những tác phẩm đó, chúng ta có thể thấy thái độ của các nhà nho khi được cử đi sứ tại các nước phương Tây hoặc là thuộc địa của phương Tây.

Thứ đập vào mắt họ đầu tiên là đời sống đô thị quá khác biệt, đặc biệt là các phương tiện giao thông. Phan Huy Chú và Lý Văn Phức, tới các nước Đông Nam Á vào đầu thập niên 1830, nhận xét: “Chế độ xe cộ của người phương Tây rất tinh xảo, vừa nhẹ vừa chắc, so với xe của Trung Quốc thì hơn hẳn” (Phan Huy Chú 1994: 162), “Tàu chạy bằng hơi nước của họ (người Mỹ) qui cách rất lạ […] Không cần nhờ gió thổi vào cánh buồm mà chỉ trong khoảnh khắc tàu chạy về hướng nào cũng được. Từ bờ biển trông ra xa đã thấy thần kỳ. Còn như máy móc kỳ diệu thì không thể nào biết hết được” (Phan Huy Chú 1994: 174). Phạm Phú Thứ, trong chuyến đi diễn ra sau đó hơn 30 năm, để ý và miêu tả tỉ mỉ những phương tiện giao thông hiện đại nhất thời bấy giờ như xe lửa chạy bằng động cơ hơi nước, khinh khí cầu dùng để do thám tình hình quân địch và tấn công từ trên cao. Phạm Phú Thứ cũng rất chú ý đến chiến thuyền và hải quân của người Pháp, ông mô tả một thuyền binh tại cảng Toulon: “gồm bảy tầng, hai bên hông của bốn tầng trên có đặt 120 cỗ súng đại bác hạng đại và hạng trung, còn súng nhỏ thì nhiều vô kể, quan binh trong thuyền tổng cộng là 1.200 người, trong đó có tới 80 sĩ quan” (Phạm Phú Thứ 2014: 1892). Trong khi phương tiện giao thông chủ yếu của người Việt cho tới cuối thế kỷ XIX vẫn là đi bộ, đi ngựa, đi bằng thuyền buồm thì phương Tây đã có thuyền máy, tàu viễn dương (tàu chiến), xe lửa, khinh khí cầu. Các nhà nho lần đầu tận mắt chứng kiến, không thể không sửng sốt, giật mình.

Sau phương tiện giao thông, phố xá, nhà cửa, các công trình kiến trúc công cộng, vườn hoa… là những minh chứng rõ ràng của một không gian văn hóa hoàn toàn khác và vượt trội khiến cho nhà nho phải trầm trồ. Phan Huy Chú mô tả Giang Lưu Ba: “nhà ngói chen chúc ước tới vài mươi dặm”, những ngôi nhà lầu có cửa kính ven sông, “hàng hóa la liệt”, “xe ngựa như nước chảy”, “các phố Hoàng Lang thì lại càng tân kỳ hoa lệ”, và ông nhận xét: “Đại khái sự phồn vinh hoa lệ và cảnh sắc tươi đẹp có thể sánh ngang Ngô Châu ở Trung Quốc, còn về quy mô rộng rãi sáng sủa thì lại hơn hẳn” (Phan Huy Chú 1994: 160). Phạm Phú Thứ mô tả về các thành phố lớn mà ông đi qua: thành phố cảng Alexandria “phố buôn bán rất đồ sộ, nhà cửa xây ba bốn tầng, có tiệm buôn của người Ai Cập, người Anh, người Pháp, hàng hóa Âu Tây rất nhiều”, có cả “công viên để nhân dân nghỉ ngơi” (Phạm Phú Thứ 2014: 1883), “nước uống thì do người Anh đứng lập nhà máy, có đặt ống ngầm để dẫn nước đi khắp nơi”; thành phố cảng Marseille “trong bến lúc nào tàu thuyền cũng tấp nập, cột buồm ống khói tua tủa như một rừng cây” (Phạm Phú Thứ 2014: 1893), công quán, công viên không phải của triều đình mà là của tư nhân, trong công viên có lâu đài, có ao, có chuồng để nuôi thú vật, nhà hát ôpêra với sức chứa tới mấy ngàn người; và đặc biệt là Paris, đô thị phồn hoa bậc nhất khiến ông choáng ngợp: đường sá rộng tới sáu, bảy trượng, mặt đường đều lót đá, xe ngựa đi lại như mắc cửi, lại có cả đường tàu lửa đặt từ nội thành thông ra bốn phía, chỗ nào gặp phải phố xá thì đào đường hầm, những nơi cống rãnh thì bắc cầu sắt lên trên, trong thành cũng như ngoài thành đều có rừng cây, vườn hoa, nội thành có tới 24 ca trường thay đổi nhau để khai diễn, tiếng đàn tiếng sáo nhộn nhịp thâu đêm, nhà cao đều có kim tỵ lôi để tránh sét, vườn bách thảo - bách thú có đủ loại động thực vật từ các xứ đưa về nhằm mục đích học tập và nghiên cứu, rạp xiếc, trường đua ngựa, nhà thờ Đức Bà Paris và các tu viện, bảo tàng… đến mức không nén được phải chêm vào câu nhận xét: “người ta bảo kinh thành Paris cùng với kinh thành của Anh là những đô thị đứng vào hạng nhất” (Phạm Phú Thứ 2014: 1900).

Nhưng điều khiến nhà nho nể sợ và chú ý kỹ càng chính là những công nghệ và kỹ thuật hiện đại của người phương Tây. Phan Huy Chú nhận xét về những phát minh của người phương Tây bằng giọng ngưỡng mộ tột độ và xem đó như là tài khéo của trời: “Đồ dùng của Hòa Lang đại khái đều tinh xảo, ví như đồng hồ và tàu chạy bằng hơi nước đều gần như cái khéo của tạo hóa. Máy móc bên trong tinh vi, bí mật khó hình dung được. Chỉ căn cứ vào những cái dễ thấy, có thể kể ra sơ lược như máy xe cửa gỗ cũng là thần diệu […] Kẻ đầu tiên làm ra máy này là thuộc bậc Thánh trí chăng?” (Phan Huy Chú 1994: 163-164). Nỗi kinh ngạc này của Phan Huy Chú cũng lặp lại ở Phan Thanh Giản trong chuyến đi sứ ba mươi năm sau: “Trăm nghề khéo léo bằng trời đất/ Còn việc sống chết thuộc quyền tạo hóa” (Phạm Phú Thứ 2014: 2093). Nhận xét về phép đi biển, ông viết “xưa nay người ta vẫn thường ca ngợi Tây Dương có những nhà thông thái tính toán giỏi, không ai sánh kịp” (Phan Huy Chú 1994: 165); việc người phương Tây chuyển từ tiền đồng sang tiền giấy được ông nhận thấy là “thông dụng, giản tiện”, “hợp lòng dân”, “sáng tạo” (Phan Huy Chú 1994: 164); về lịch pháp, “không giống với Trung Hoa”, mà theo ông là do “trời Tây mù mịt kia là một vũ trụ riêng” (Phan Huy Chú 1994: 165); về pháp luật, “lập pháp không có thiên lệch, nên xử đoán công bằng, do đó dễ chế ngự dân chúng” (Phan Huy Chú 1994: 162).

Lý Văn Phức cũng có những nhận xét tương tự Phan Huy Chú và ông đặc biệt chú ý tới kỹ thuật tàu thuyền của người phương Tây. Trong con mắt một nhà nho tới từ một nước thuần nông nghìn đời, những kỹ thuật như vậy chẳng khác nào đoạt quyền tạo hóa: “Người Hồng Mao thường nói rằng trăm sự đều có thể làm, duy chỉ có sự sống và cái chết thì không tài khéo nào làm ra được” (dẫn theo Nguyễn Thị Ngân 2009: 156).

Có thể lý giải rằng, với tư tưởng xem văn minh Trung Hoa là mẫu mực trong thiên hạ, các nhà nho này không khỏi so sánh văn minh phương Tây với văn minh Trung Hoa, và khi chứng kiến những thành tựu khoa học, công nghệ và kỹ thuật hiện đại của phương Tây, họ đều thể hiện quan điểm thừa nhận và thán phục sự phát triển vượt bậc của phương Tây so với Thiên triều. Đây chính là cơ hội mở rộng tầm nhìn với một thiểu số nhà Nho ở nửa đầu thế kỷ XIX.

Chuyến đi sứ của Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông vào năm 1863 diễn ra trong một bối cảnh mới, khi những nỗ lực canh tân, dù yếu ớt, nhưng cũng đã cất lên trong triều đình bởi sự cấp bách của tình hình đất nước khi đó. Theo lệnh vua, Phạm Phú Thứ đi đến nơi nào cũng ghi chép cẩn thận về những thành tựu của khoa học kỹ thuật phương Tây (những quan sát chi tiết của ông có được cũng là nhờ tư cách chính thức của đoàn đi sứ lần này, với quốc thư của triều đình nhà Nguyễn). Ông đặc biệt chú ý đến các công xưởng - biểu tượng của văn minh công nghiệp phương Tây. Ông quan sát, tìm hiểu kỹ càng về các nguyên lý khoa học và nhận thấy rằng than đá là nguồn cung cấp năng lượng cho tất cả các loại máy móc trong các công xưởng: xưởng đúc súng, xưởng làm dây thừng, lò rèn, lò đúc… và khí đốt để thắp sáng cho tất cả các nhà dân ở đô thị. Ông cũng hiểu ra rằng nhờ có các loại máy móc này mà các hoạt động sản xuất công nghiệp được chuyên môn hóa và giảm bớt nhân lực. Các ngành nghề thủ công nghiệp như mạ kim loại (vàng bạc), sản xuất gốm sứ, chế tạo đồng hồ cũng được ông mô tả khá tỉ mỉ. Hoạt động sửa chữa tàu thuyền, chế tạo “hạt nổ” - những lĩnh vực quan thiết đối với vấn đề an ninh, quốc phòng được ông rất chú ý (Phạm Phú Thứ 2014). So với Phan Huy Chú và Lý Văn Phức, Phạm Phú Thứ đã có cái nhìn đỡ bỡ ngỡ hơn và không còn bị chi phối bởi tư tưởng thần thánh hóa văn minh phương Tây. Mục đích quan sát của Phạm Phú Thứ khá rõ ràng, đó là để học hỏi nhằm áp dụng chứ không chỉ nắm bắt tình hình như các nhà nho thời trước.

3.2. Hình ảnh con người và phong tục tập quán của phương Tây trong mắt nhà nho đi sứ

3.2.1. Hình ảnh người phương Tây trong con mắt nhà nho đi sứ

Khác với phần đông nhà nho trong nước thường miệt thị người phương Tây với cách gọi “bạch quỷ” (tức quỷ trắng, dựa vào nước da của người châu Âu), “hồng mao phiên” (giống người man di tóc đỏ), Lý Văn Phức và Phan Huy Chú miêu tả vẻ ngoài của những người phương Tây mà họ nhìn thấy với ánh mắt thiện cảm. Trong Tây hành kiến văn kỉ lược, Lý Văn Phức miêu tả: “Người nước ấy phần nhiều cao lớn, mũi to, tóc đỏ, mắt sâu và đục, nhưng da dẻ trắng lắm. Đàn ông đa số khỏe mạnh, đàn bà thì mềm mại, nhỏ nhắn như thường. Duy đàn ông thầy đạo thì cạo râu, ngoài ra thì cắt tóc và không để râu. Con gái thì búi tóc, cài trâm hoặc lược, nhưng trước trán thả xuống từng búp xoăn xoăn như ốc xoắn xâu chuỗi lại, coi đó là cách trang điểm đẹp; lại có nhiều cô thắt lưng như phong tục nước Ngô, Việt” (dẫn theo Nguyễn Đăng Na 2001: 137). Phan Huy Chú viết trong Hải trình chí lược: “Về y phục, họ coi trọng màu trắng, mặc áo ngắn, quần dài, đều bó sát người. Mũ và giày đều màu đen, trông cũng chỉnh tề, đẹp đẽ. Đại để, y phục của người phương Tây đều giống của người Hồng Mao và Hòa Lang” (Phan Huy Chú 1994: 150) còn trang phục của phụ nữ lại sang trọng, diêm dúa” (Phan Huy Chú 1994: 167). Phạm Phú Thứ không miêu tả về ngoại hình, dáng vóc người châu Âu, nhưng ông lại chú ý quan sát kĩ trang phục hoàng gia Pháp, Tây Ban Nha (Phạm Phú Thứ 2014).

Dù có ấn tượng tốt với y phục và diện mạo của người phương Tây nhưng các nhà nho lại tỏ ra ác cảm - một mối ác cảm đầy định kiến - với tính cách và lối sống của họ. Lý Văn Phức, trong Tây hành kiến văn kỉ lược, phê phán họ là “thường giảo quyệt, thích lừa dối” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 230), “ngạo mạn, vô lễ”, “vung tiền kiêu ngạo”, “đam mê phong lưu, nông nổi phóng đãng, không kiềm thúc”, “hám lợi vô tình” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 231). Điều mà Lý Văn Phức chỉ trích nặng nề nhất ở người phương Tây chính là thói “hám lợi” (theo cách nhìn của nhà nho). Trong phần “Tây di trí phú biện”, ông viết về cách thức buôn bán, làm giàu của người phương Tây bằng một sự miệt thị không che giấu: “Tây di, thuần lấy sự buôn bán làm chính, họ tính toán không ngơi một khắc, họ suy nghĩ hết cách để mưu cầu mối lợi của người, cũng không từ một mảy may bòn rút của cải của người” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 308), kèm theo đó là các dẫn chứng cụ thể như: bắt thuyền khách đến nơi phải thuê đất mới được bổ củi, mua đất để đằm thuyền, đá chèn thuyền phải để lại, không được vứt xuống nước rồi lấy đó xây tường, sửa thành. Hành vi vô đạo đức và thâm hiểm nhất của người phương Tây, theo Lý Văn Phức và Phạm Phú Thứ, là làm giàu nhờ buôn bán thuốc phiện. Bằng giọng chỉ trích, Lý Văn Phức viết: “Chúng lại có một vật gọi là ả phù dung (người Hoa gọi là “nha phiến”, lại gọi là “Dương yên” - thuốc hút Tây Dương). Hút nó làm cho hao tổn khí huyết và khánh kiệt gia sản. Nước họ đa số làm nghề nấu thuốc đó để bán cho người ta. Vậy mà cả nước, từ trên xuống dưới, không một ai chịu hút” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 372). Phạm Phú Thứ thì ôn tồn hơn: “Còn như thuốc phiện, thì Anh Cát Lợi làm ra mà phương Đông dùng, chứ phương Tây không có người nào hút”( Phạm Phú Thứ 2014: 1931). Lý Văn Phức cũng “bóc trần” thói “hà tiện” nhằm tích của ngay cả trong những lễ tiết quan trọng nhất của người phương Tây: “ngày lễ bái chỉ đèn nến thắp lên cũng đủ, còn những lễ phẩm bằng trâu dê gà lợn thì tịnh không có gì. Táng tống thì chỉ nhờ bốn người khiêng thây chết mà không có tế lễ đưa ma. Hôn lễ thì chỉ cần một lời nói của cha cố trong nhà thờ là xong […]. Suy ra số chi trong một năm để lo liệu cho sáu phẩm hạnh đã nói, họ chưa từng tốn phí một sợi tơ, nửa hạt gạo. Như thế thì của cải làm gì chẳng tích tụ?” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 310). Cuối cùng, ông kết luận: “Đạo lý buôn bán đến mức như Tây di có thể nói là đến cùng cực vậy, thế thì làm gì mà họ chẳng giàu?” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 309).

Hà Tôn Quyền, trong Dương mộng tập (1832), kết quả của chuyến đi sứ đến Singapore và Jakarta, miêu tả cảnh thực dân Anh dùng đồng tiền để khiến người Đồ Bà làm sai dịch cho họ và sử dụng người Thanh. Ông viết trong bài Đến Tân Gia Ba:

Dương phiên đa xảo quỷ.

Hắc quỷ dư bạch nhân,

Đại để xu vu lợi.

Dịch nghĩa:

Người Phiên ở Tiểu Tây Dương phần nhiều xảo quyệt.

Người da đen và người da trắng,

Tất cả đều chạy theo cái lợi.

(dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 340)

Phản ứng của các nhà nho như trên có căn nguyên từ trong quan niệm đạo đức truyền thống của Nho giáo. Nho giáo vốn luôn đối lập “nghĩa” với “lợi”, coi thường lợi ích vật chất, chống lại sự giàu mạnh (Mạnh Tử coi thường bá nghiệp của Tề Hằng, Tấn Văn, Lễ Ký của Tuân Tử viết “Đức là gốc, của cải là ngọn”, “Đi buôn là bất nhân”). Đó cũng là tư tưởng dẫn tới quan điểm “trọng nông ức thương” trong các xã hội mà Nho giáo giữ vai trò hệ tư tưởng, khiến cho các xã hội này không thể mở cửa giao thương và cải cách kịp thời khi các nước phương Tây tìm cách tiếp cận và xâm lược. Nhưng người phương Tây thì ngược lại, “chủ nghĩa trọng thương” gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, vì vậy việc coi trọng vật chất và lợi ích cũng chính là động lực thúc đẩy họ cải tiến công nghệ, kỹ thuật, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Vì vậy, nhà nho nếu chỉ biết lấy cái nhìn thủ cựu, phiến diện của mình mà tri nhận những đối tượng ở một thế giới khác ắt sẽ nảy sinh thái độ miệt thị, phủ nhận.

3.2.2. Phong tục tập quán của người phương Tây trong con mắt các nhà nho đi sứ

      Đây là đối tượng đả kích mạnh mẽ nhất của nhà nho. Nếu như với thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ, các nhà nho này hết lời khen ngợi, thì với phong tục tập quán, họ không tiếc lời chê bai dựa trên quan điểm Hoa - Di truyền thống.

Phan Huy Chú viết: “Tập quán phương Tây, lễ tục giản dị, không chuộng đẳng cấp, quyền uy. Khi lên xe, khi ngồi ghế, quan và dân đều ngang hàng nhau. Lúc gặp nhau chỉ bắt tay nhau bằng tay phải để tỏ lòng kính trọng. Người dưới yết kiến người trên không có lễ sụp lạy khấu đầu. Nghe nói vua nước ấy cũng rất giản dị, mỗi khi đi xe ra ngoài, mà thấy có người chắp tay kính cẩn, liền dừng xe để đáp lại. Bản thân là bậc quân trưởng mà đi cùng với kẻ thất phu, chứ không biết đến lễ giáo điển chương của Chu Khổng, nên tuy họ tài khéo trăm thứ, cuối cùng vẫn bị liệt vào hàng Man Di vậy” (Phan Huy Chú 1994: 167).

Lý Văn Phức cũng để ý đến sự không phân biệt danh phận, tôn ty của người phương Tây: “Trong nước dù giàu nghèo, sang hèn đều có thể đi xe, vết bánh xe đầy đường là vì nước họ không có luật cấm tiếm vượt danh phận vậy”. Ông cực lực phê phán phong tục của người Lữ Tống (Philippines) vốn đã bị “Tây hóa” sau nhiều thế kỷ là thuộc địa: “Hôn nhân thì không cần có lễ dạm hỏi, trai gái yêu nhau chỉ nhờ cha cố làm chủ cho việc nghị hôn… cha mẹ không dám làm trái ý các con […]. Chôn cất thì không quan quách […] Tôi nhờ phiên dịch hỏi họ, rằng còn nhớ cố quốc không thì họ đều trả lời: ‘Chẳng qua chỉ là vua thôi, sao phải nhớ?’. Than ôi, con người sống trong khoảng trời đất, có ba rường mối. Kẻ kia kết duyên chồng vợ qua loa như vậy, cho đến hình hài cha mẹ cũng coi như đất mục, coi nước cũ như cái nơm bắt thỏ. Phong tục như thế còn có thể hỏi được chăng?” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 306-307).

Có một hiện tượng văn hóa nữa mà hầu như nhà nho nào cũng để ý, đó là vị trí được ưu đãi của người phụ nữ trong xã hội. Lý Văn Phức để ý và ghi lại trong Tây hành kiến văn kỷ lược về quy định một vợ một chồng của người phương Tây với giọng không tán thành. Ông cũng không thấy thuận mắt với việc đàn bà con gái được thoải mái bắt tay đàn ông, cùng ngồi ngang hàng để tiếp khách. Phan Huy Chú thì nhận thấy phụ nữ được nâng niu, đối xử ngang hàng với đàn ông: “Mỗi khi đi ra ngoài, lúc lên xe thì chồng phải đỡ vợ lên trước. Khi đến chơi nhà, trò chuyện thân mật, không có thói phụ nữ phải trốn tránh trong buồng” (Phan Huy Chú 1994: 167). Phan Thanh Giản trong bài “Tân Gia Ba trúc chi từ” thuộc tập thơ Ba Lăng thảo (1832) viết khi đi sứ Tân Gia Ba (Singapore) cũng miêu tả thực tế này trong những câu thơ:

Thanh tình diệm tị phong lưu thậm,

Thân ủng kim mâu dạ xuất du.

(Những người mắt xanh, mũi nhọn, trông rất phong lưu,

Tự quàng lưng các cô gái mắt vàng đi chơi đêm.)

(dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 343)

Trong chuyến đi công cán ở Hạ Châu năm 1844, Cao Bá Quát cũng có bài thơ viết về “Dương phụ hành” (Người thiếu phụ Tây phương), nhưng với giọng đồng cảm thay vì phê phán:

                              Tây phương thiếu phụ y như tuyết,

                              Độc bạng lang kiên tọa thanh nguyệt.

                              Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh,

                              Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.

                              Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,

                              Dạ hàn vô ná hải phong xuy.

                              Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,

                              Khởi thức nam nhân hữu biệt ly.

                              (Dịch nghĩa:

                              Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,

                              Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng trong.

                              Nhìn sang thuyền Nam có ánh đèn sáng,

                              Níu áo chồng nói chuyện ríu rít.

                              Tay cầm chén sữa một cách uể oải,

                              Đêm lạnh không chịu nổi gió bể.

                              Nghiêng mình lại đòi chồng nâng dậy,

                              Đâu biết có một người Nam đang ở cảnh biệt ly!)

                                                      (dẫn theo Huỳnh Lý 1976: 748-749)

Trong Tây hành nhật ký, Phạm Phú Thứ nhiều lần miêu tả thái độ trân trọng phụ nữ của người phương Tây. Ông miêu tả trường hợp bà Nguyễn Thị Sen, người phụ nữ Việt theo chồng sang Pháp, cũng được đối đãi như bao người phụ nữ phương Tây khác: “Lễ quan quay lại phía mẹ con và bắt tay thi lễ, xong rồi nhường bà ta ngồi trên trường kỉ (hỏi ra thì phong tục Tây đều coi trọng phụ nữ, phàm trong yến tiệc mà có phụ nữ, thì thù tiếp cũng coi như nam giới chứ không tị hiềm gì, dẫu chưa quen biết bao giờ cũng thế, huống chi Thị Sen lại là người Việt, nên các quan chức nước đó càng kính mến hơn” (Phạm Phú Thứ 2014: 1923). Quan hệ bình đẳng giữa nam giới và nữ giới ở phương Tây cũng được thể hiện qua chi tiết Phạm Phú Thứ kể chuyện nhà vua Pháp phải đợi hoàng hậu về mới tiến hành tiếp đoàn sứ để cuộc tiếp đón được long trọng. Ông cũng không bỏ sót việc một cường quốc phương Tây như Tây Ban Nha có quốc trưởng là nữ giới. Tuy trong tập nhật ký ông không bình phẩm gì, nhưng trong bài thơ “Đông Tây dị thú” thì ông tỏ thái độ bất bình:

Trọng khách đồng diên tiếp,

Đơn xa tá bạn hành.

Sở do đồ ký dị,

Vở quái bất đồng tình.

Dịch nghĩa:

Vì trọng khách nên vợ chồng đồng ngồi bàn mà ăn tiếp,

Đi xe một mình, mượn người đàn bà để đi cho có đôi.

Hai bên đã noi con đường khác nhau,

Sự không đồng tình với nhau không lấy làm lạ.

(Phạm Phú Thứ 2014: 2081)

Việc để ý đến vị trí khác biệt của người phụ nữ phương Tây không phải chỉ có ở riêng biệt ở các nhà nho Việt Nam. Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi), người có vai trò rất lớn trong quá trình “thoát Á” của nước Nhật, khi sang Mỹ cũng đã ngạc nhiên trước quan hệ giao tế giữa người nam và người nữ. Ông đã ghi lại trong tự truyện của mình các mẩu chuyện nhỏ về quan hệ nam nữ trong giao tế hàng ngày ở Hoa Kỳ và xếp vào một phần có tiêu đề là “Nữ trọng nam khinh” nhằm nói lên sự khác biệt với tư tưởng “Nam trọng nữ khinh” trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ (dẫn theo Vĩnh Sính, in trong Nguyễn Hữu Sơn 2006). Câu chuyện này cho thấy những cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây chính là cơ hội để các nhà nho so sánh và bắt đầu nhìn nhận lại hệ tư tưởng Nho giáo với một góc nhìn ít nhiều có tính phản biện.

 

3.3. Nhận thức về mối đe dọa từ các cường quốc phương Tây của các nhà nho đi sứ

Khi được cử đi sứ, các nhà nho đều được chỉ dụ của triều đình là phải tìm hiểu tình hình chính trị tại các nước láng giềng cũng như trên thế giới.

Phan Huy Chú, trong khi đi hiệu trình, thuật lại tình hình tranh chấp thuộc địa của các nước phương Tây ở Đông Nam Á: “Họ [tức người Anh] đã từng hợp sức với Phú Lãng Sa (Pháp) đánh Hòa Lang. Nghe nói họ đã chiếm được một trấn lớn ở phía Tây nước ấy. Nay lại sắp đánh chiếm Giang Lưu Ba. Trấn ty ở đây hiện đang sửa đắp lũy chướng ngại, duyệt tập binh nhung, đề phòng vùng duyên hải và chuẩn bị đánh giữ. Việc người Man đánh nhau còn chưa xong, nguyên do của giao tranh là vì lợi ích vậy” (Phan Huy Chú 1994: 160).

Phạm Phú Thứ tường thuật về tình hình Nhật Bản: ‘Trong lúc dự tiệc, Phô-lét cho biết trong khi ở đảo Ceylan có người hành khách cho hay tin là Nhật Bổn phái sứ đoàn sang Pháp để xin nghị hòa; họ đáp chuyến tàu khách Hương Cảng, có lẽ cũng sắp tới đây. Thần đẳng hỏi duyên do, Phô-lét đáp rằng: ‘Năm trước, Nhật Bổn đã phái sứ giả sang nghị hòa, nhưng phái chủ chiến của Nhật còn đến quá nửa, lại gây ra nhiều vụ rắc rối (chẳng hạn như mùa thu năm ngoái, tàu Tây khi vào hải cảng Nhật thì các đồn ở ven bể phái binh xuống đuổi, rồi lại bắt lấy một người đem lên trên phố sát hại. Vì thế, các tàu binh của Tây ở trong hải cảng bèn nã súng vào thành v.v…) Ngày nay, hai nước ấy lại thỏa thuận để nối lại tình giao hảo, cho nên Nhật phái sứ sang’ ” (Phạm Phú Thứ 2014: 2007). Lời tường thuật này của Phạm Phú Thứ cho thấy tình hình của Nhật Bản và Việt Nam khi ấy tương đối giống nhau.

Các nhà nho khi đi ra nước ngoài hầu hết đều nhận thấy sức mạnh về mọi phương diện, đặc biệt là sức mạnh quân sự của người phương Tây. Họ cũng nhận thấy sự lạc hậu, yếu ớt của các quốc gia châu Á, cũng lo lắng cho đất nước mình khi chứng kiến cảnh nhiều nước láng giềng bị biến thành thuộc địa của các “cường di”. Chấn động nhất là sự kiện Trung Quốc thua Anh trong cuộc chiến tranh nha phiến (1839-1842). Cao Bá Quát, trong chuyến đi hiệu lực xuống miền Hạ Châu, đã viết bài “Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trường”, bộc lộ suy nghĩ về sự kiện

Hổ Môn:

Liệt cự thôi minh tối thượng đàn, 
Nhất thanh hám khởi dạ phong hàn. 
Kích tu tráng sĩ phương hoành giáp, 
Nộ mục tương quân dĩ cứ an. 
Xuất thế khởi vô chân diện mục, 
Phùng trường lãng tiếu cổ y quan. 
Hổ Môn cận sự quân tri phủ? 
Thán tức hà nhân ủng tị khan!

Dịch nghĩa:

Sân khấu đèn chăng rực rỡ soi, 
Gió đêm hòa tiếng thét ghê người. 
Quân vừa đeo giáp sùa râu đứng, 
Tướng đã lên yên trợn mắt ngồi. 
Tai mặt đời đâu toàn bộ giả, 
Áo xiêm xưa cũng thực trò cười. 
Hổ Môn biết việc gần đây chửa? 
Ngán nỗi kia ai nghếch mũi coi!

(Vị Chử và Hóa Dân dịch)

Qua bài thơ trên, nhà nho Cao Bá Quát thể hiện một ý thức phản tỉnh khá mạnh mẽ so với phần lớn các nhà nho đương thời về về họa xâm lăng khó tránh của những dân tộc vẫn còn u mê, khư khư bám lấy hào quang của quá khứ mà không để ý đến thực trạng trì trệ và hiểm họa cận kề.

 

3.4. Sự chuyển biến trong nhận thức và các đề xuất cải cách của các nhà nho sau khi đi sứ

Hầu hết các nhà nho sau những chuyến đi như vậy đều đã được “mở mắt” ít nhiều và khi trở về họ đều có những đề xuất cải cách dựa trên cơ sở học hỏi và vận dụng những tri thức về khoa học, kỹ thuật và quản lý của phương Tây.

Lý Văn Phức, trong bài Tựa cho sách Bản quốc sử ký lược biên, viết: “Phàm người dân nước ta có con em giỏi giang thì trước hết nên dạy cho biết lịch sử nước Nam, khiến cho lịch sử nước Nam luôn luôn có trong lời nói và ý nghĩ; lại phát huy tinh túy của đất nước, điểm xuyết với quốc hoa để luyện rèn tính chất của thanh niên, sau đó học thêm Bắc sử, Đông sử để thấy được sự cấp tiến bay nhảy của họ, rồi mở rộng bằng lịch sử các nước Âu Mỹ để có được trí tuệ tột bậc và kỹ xảo kỳ lạ của họ. Xem xét thắng bại, tốt xấu, cân nhắc sở đoản, sở trường của người và ta, mưu đồ công cuộc cải lương cho xã hội, thuận theo xu thế của thời vận để chuyển nghèo thành giàu, đổi yếu thành mạnh…, ngày khác sẽ vươn lên sôi động mãnh liệt, đẹp đẽ như gấm như hoa khiến lịch sử duy tân của đế quốc Việt Nam xuất hiện trong giáo giới toàn cầu, đó đều do đồng bào nước ta ấp ủ mà tổ chức nên vậy” (dẫn theo Trần Ích Nguyên 2013: 246).

Cao Bá Quát, sau những gì “mắt thấy tai nghe” trong chuyến xuất dương, đã nhìn nhận lại cái học mà mình theo đuổi bấy lâu với thái độ tự phản tỉnh. Nhận thức mới này của ông được phản ánh trong bài thơ “Đề sát viện Bùi công ‘Yên Đài anh ngữ’ khúc hậu”: 

Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự, 
Hữu như xích hoạch lượng thiên địa.
Tự tòng phiếm hải lịch Ba Sơn,
Thủy giác lục hợp hà mang mang! 
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí! 
Thế gian thùy thị chân nam tử, 
Uổng cá bình sinh độc thư sử.

Dịch thơ:

Nhai văn nhả chữ buồn ta, 
Con giun còn biết đâu là cao sâu

Tân Gia từ vượt con tầu, 
Mới hay vũ trụ một bầu bao la. 
Giật mình khi ở xó nhà, 
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. 
Không đi khắp bốn phương trời, 
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai.

                                                                  (Trúc Khê dịch)

Nhận thức của ông đã đi trước các nhà nho khác cả nửa thế kỷ. Mãi tới tận đầu thế kỷ XX, các nhà nho duy tân mới nhất loạt lên tiếng phủ nhận cái mớ tri thức cũ kỹ, lạc hậu và vô dụng mà họ buộc phải tiêu hóa chỉ để vượt qua kỳ thi tuyển quan lại nhằm vinh thân phì gia.

Phan Thanh Giản khi trở về từ sau chuyến đi sứ tới Paris cũng phải thốt lên:

Từ ngày đi sứ đến Tây kinh,,

Thấy việc Âu châu phải giật mình.

Kêu rủ đồng bang mau thức dậy,

Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.

Phạm Phú Thứ sau khi về nước thì lập tức đề xuất biện pháp ứng phó, cải cách và trực tiếp bắt tay vào một số công việc như: thuyết phục được triều đình ban cách thức chế "xe trâu" (do ông vẽ kiểu học được ở Ai Cập, dùng trâu kéo tiện lợi gấp mấy gàu tát nước của ta), đề nghị mở cảng ngoại thương ở Hải Yên (Hải Dương, Quản Yên) và dâng sớ trình bày những mục tiêu cần thực hiện để duy tân, tự cường. Để đối phó với nguy cơ bị Pháp xâm lược trước mắt, ông đề nghị một mặt phải liên kết với các cường quốc phương Tây khác như Anh, Nga, Mỹ, Phổ, với Pháp cứ “chịu nhịn cầu hòa”, trong lúc đó thì tìm người giỏi về quân sự dạy cho quân ta, mở hải cảng cho nhiều lãnh sự vào để học cách buôn bán, “đó là kế lấy người khác mà chế ngự quyền người Pháp vậy” (Lê Trí Viễn 1993: 335-336). Ông cũng đứng ra tổ chức biên soạn các sách giới thiệu về văn minh phương Tây như: Bác vật tân biên (sách nói về khoa học), Khai môi yếu pháp (sách nói về cách khai mỏ), Hàng hải kim châm (sách nói về cách đi biển), Vạn quốc công pháp (lề lối giao thiệp quốc tế). Đồng thời, ông cũng đề nghị với Tự Đức tuyển chọn những thanh niên ưu tú cho xuất dương du học để về xây dựng đất nước nhưng không được vua chuẩn y. 

Những sự phản tỉnh, những đề xuất cải cách như vậy không mấy ảnh hưởng tới chính sách của triều đình nhà Nguyễn suốt vài chục năm trước khi Pháp chiếm đứt Nam Kỳ. Tuy nhiên, chúng cũng cho thấy sự chuyển biến trong nhận thức về phương Tây của một bộ phận nhỏ các nhà nho có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh và văn hóa xa lạ này.

4. Kết luận

Như vậy, Hình tượng học là một chuyên ngành thuộc Văn học so sánh chính thức ra đời trong bối cảnh hậu chiến sau năm 1945, lấy việc nghiên cứu hình tượng dân tộc trong văn học làm nhiệm vụ chính. Ở phương Tây, Hình tượng học được kỳ vọng như một lĩnh vực tương lai của khoa học xã hội và nhân văn thời đại hậu dân tộc, giúp con người lý giải nguồn gốc của những xung đột dân tộc và ý thức hệ để hướng tới chung sống hòa bình, hợp tác. Lịch sử phát triển của Hình tượng học có những lúc thăng trầm, nhưng hai chục năm trở lại đây thì đặc biệt mạnh mẽ. Những thành tựu của Hình tượng học đã không chỉ dừng lại trong lĩnh vực nghiên cứu văn học mà vươn sang các lĩnh vực khác như văn hóa học, lịch sử, xã hội học, chính trị học v.v… Điều đặc biệt ở chuyên ngành này là nó dựa trên một hệ thống phương pháp luận liên ngành, đồng thời những kết quả của nó cũng thu hút và thúc đẩy mạnh mẽ các ngành khoa học khác. Sự phối hợp chặt chẽ của Hình tượng học với các ngành khoa học xã hội đã và đang tạo ra những tri thức khách quan giúp con người trong các xã hội hiện đại ngày càng thấu hiểu lẫn nhau, nhờ đó sự giao lưu toàn cầu ngày càng hiệu quả.

Nghiên cứu hình tượng trong văn học Việt Nam là một lĩnh vực còn chờ khai phá. Tìm hiểu hình ảnh phương Tây trong con mắt những nhà nho được cử đi sứ thế kỷ XIX là một nỗ lực vận dụng cách tiếp cận mới mẻ này. Qua việc khảo sát các nhật ký và thơ văn của các nhà nho đi sứ, chúng tôi nhận thấy rằng nền văn minh phương Tây thế kỷ XIX với những tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã khiến các nhà nho Việt Nam vô cùng choáng ngợp và thán phục. Đó chính là cơ sở cho những đề nghị cải cách dù còn sơ khai và không có nhiều ảnh hưởng nhưng cũng đáng quý, đáng trọng. Tuy nhiên, với quan niệm Hoa - Di đã ăn sâu vào tâm trí, cùng với “tâm lý phản vệ” xuất phát từ nỗi lo sợ bị phủ định, các nhà nho này không tránh khỏi việc phê phán, chỉ trích lối sống cũng như các phong tục, tập quán của người phương Tây từ góc nhìn đạo đức Nho giáo. Dẫu vậy, bản thân sự so sánh đó cũng chính là bước đầu tiên của một quá trình “thức tỉnh” kéo dài nhiều thập kỷ cho tới tận đầu thế kỷ XX, mà đỉnh cao là phong trào Duy tân do các chí sĩ cấp tiến phát động.

 

Tài liệu trích dẫn

Beller, Manfred and Leerson, Joep., ed. 2007. Imagology: The cultural construction and literary representation of national characters. New York: Rodopi.

Huỳnh Lí (chủ biên). 1976. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập 3. Hà Nội: Nxb Văn học.

Lê Trí Viễn (chủ biên). 1993. Tổng tập văn học Việt Nam. Tập 17. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.

Nguyễn Đăng Na. 2001. Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Tập 2 (ký). Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Nguyễn Thị Ngân. 2009. Nghiên cứu về Lý Văn Phức và tác phẩm Tây hành kiến văn kỉ lược. LATS, Viện nghiên cứu Hán Nôm. Hà Nội: Viện KHXH.

Phạm Phú Thứ. 2014. Tây hành nhật ký. In trong Giá viên biệt lục. Đình Thư Phạm Phú Lâm, Doãn Tân Trương Trọng Hữu tập hợp và chú giải. Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng.

Phan Huy Chú. 1994. Hải trình chí lược. Phan Huy Lê, Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu. Paris: Nxb Cahier d’Archipel 25.

Tào Thuận Khánh. 2014. The Variation Theory of Comparative Literature. Nxb Springer.

Trần Ích Nguyên. 2013. Thuật bàn về tư liệu sách chữ Hán ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.

Trần Nho Thìn. 2009. “Ý nghĩa của chuyến đi dương trình hiệu lực với tư tưởng của Cao Bá Quát”. Văn hóa Nghệ An.

     http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/y-nghia-cua-chuyen-di-duong-trinh-hieu-luc-voi-tu-tuong-cao-ba-quat. Truy cập tháng 10 năm 2017.

Vĩnh Sính. “Thử tìm hiểu về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”. In trong: Nguyễn Hữu Sơn. 2006. Cao Bá Quát, về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 4, số 3, năm 2018, tr. 316-332. 

TTCT - Hoàng Đăng Lãnh là dịch giả của nhiều tiểu thuyết kinh điển đương đại nổi tiếng như Thời nắng lịm của Eugen Ruge, Diệt vong (1) và Đốn hạ của Thomas Bernhard, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz. Luôn tự coi mình là một dịch giả ngoại đạo, vì vậy trong cuộc trò chuyện với TTCT, ông chia sẻ kinh nghiệm và ý nghĩ của mình chỉ trong tư cách một độc giả đặc biệt, một người có cơ hội đọc và có thể tiếp xúc gần hơn với các tác phẩm.

20191207 HDL

Dịch giả Hoàng Đăng Lãnh. Ảnh: Zét Nguyễn

Hoàng Đăng Lãnh (HĐL): Tôi nghĩ tôi không làm được công việc phê bình hay phân tích tác phẩm. Tôi chỉ là người dịch thôi.

Zét Nguyễn (ZN): Người dịch thật ra là một độc giả, một độc giả đặc biệt.

HĐL: Đúng thế, vậy nên tôi sẽ nói với tư cách một độc giả, một độc giả muốn giới thiệu sách mình đọc với các bạn đọc khác.

Nếu bạn hỏi tôi về quan điểm dịch thuật, thì phải học rất nhiều mới dịch được. Để dịch một tác phẩm, hay nói chung để hiểu nó thôi, tôi nghĩ mình phải đọc rất nhiều về nó; trước khi bắt tay vào dịch, ít nhất theo cách tôi hiểu, tôi phải nắm được khá nhiều về tác phẩm đó. Chẳng hạn, để dịch Đốn hạ của Thomas Bernhard thì đi thăm thành Viên, để biết cái nơi mà tác phẩm lấy làm bối cảnh nó thế nào.

ZN: Ông có đi Viên chứ?

HĐL: Tôi có đi. Tôi đã đi lần qua những con phố ấy, Graben, Gentzgasse, để thử hình dung xem người ta có thể nghĩ những gì khi đi qua đó. Nhưng, nói cho công bằng, không phải dịch giả nào cũng có được cái lợi thế đó của tôi. Đối với cuốn Diệt vong cũng vậy, tuy không đến được Wolfsegg nhưng những khu lâu đài kiểu như lâu đài Wolfsegg trong tác phẩm thì khá nhiều ở vùng Trung Âu. Hoặc để dịch quyển Giờ Đức văn, tôi đi lên cái vùng ấy, cái vùng đồng không mông quạnh, gió thổi ù ù và đứng nhìn khung cảnh ấy, mình cảm nhận được rằng mọi thứ ở cái vùng đất cực Bắc, quả nhiên, đều bị cảnh quan thiên nhiên nuốt chửng. Con người trở nên nhỏ bé. Cách ông Lenz không cho đối thoại xuống dòng mà viết lẫn vào những dòng văn tả cảnh, theo tôi, cũng là cách nhìn vùng đất ấy, một nơi mà mọi thứ của con người, cả đối thoại, ý nghĩ của họ, tất tần tật, đều lẫn hết vào với thiên nhiên.

ZN: Văn chương Đức hậu chiến có bốn cột trụ, gồm Günter Grass, Heinrich Böll, Martin Walser và Siegfried Lenz. Ông đã chọn dịch Lenz, vì sao ông chọn tác giả này?

HDL: Tôi dịch ông Lenz vì tôi thích tác giả này và phong cách viết của ông ấy. Bạn cũng biết là tôi dịch sách trước hết do thích thú. Chưa kể tôi có điều kiện về thời gian, về hoàn cảnh sống từ 5-6 năm trở lại đây. Có điều kiện, lại thích tác phẩm, thích tác giả thì dịch, bởi vì với tư cách một độc giả may mắn, như tôi đã nói, tôi muốn chia sẻ những gì làm mình thích thú với mọi người đọc khác.

Có thể tôi cũng hơi bảo thủ, nhưng tôi quan niệm rằng đã dịch thì nên dịch từ nguyên bản tiếng gốc, cực chẳng đã mới phải thông qua một thứ tiếng thứ ba, gần với thứ tiếng gốc. Chẳng hạn tiếng Anh, Pháp, Đức hay tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý là những thứ tiếng tương đối gần nhau. Tiếng Nga thì bắt đầu xa rồi. Chưa kể cách suy nghĩ, cách tiếp nhận của mỗi dịch giả là đã khác rồi. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải hiểu rằng khi đã dịch thì chắc chắc sẽ có sự sai lệch, lệch so với tác giả. Anh không thể nhập vào tác giả một cách hoàn toàn được. Đấy là quan điểm của tôi, ấy là chưa kể tôi chưa được đọc nhiều và nghiên cứu kỹ các lý thuyết về dịch thuật. Do trước đây học lỏm được từ các bậc cha chú, tôi chỉ nghĩ tôi phải kể lại câu chuyện mình đọc được bằng tiếng Việt, cho người Việt đọc. Song cũng không được phép đi xa quá. Bởi câu chuyện là của ông Eugen Ruge, của ông Siegfried Lenz, chứ không phải của ông Hoàng Đăng Lãnh. Giọng văn ấy, cách kể chuyện ấy là của người khác, chứ không phải của tôi. Đấy có lẽ là khó khăn lớn nhất trong quá trình dịch chăng? Tôi nhớ trong bài phê bình trên báo Lao Động về bản dịch tác phẩm Thời nắng lịm, người viết đã có một ý rất đáng để suy nghĩ khi e ngại rằng quyển Thời nắng lịm bị Việt hóa nhiều quá. Nếu Việt hóa quá nhiều, câu chuyện sẽ không còn là câu chuyện do người Đức kể nữa, mà do người dịch kể. Ta có thể không tán thành, nhưng việc người viết bài review, một người đọc, cảm nhận như vậy, đối với tôi là điều đáng quan tâm. Trong các tác phẩm dịch về sau, tôi cố gắng không để giọng văn, dù thật sự không muốn, ít nhiều chủ quan của mình len vào tác phẩm dịch.

Dịch giả Hoàng Đăng Lãnh: “Tôi chỉ là một độc giả đặc biệt”
Siegfried Lenz

ZN: Giờ Đức văn, theo tôi, là tác phẩm cực kỳ nhuần nhuyễn về tiếng Việt, tôi nghĩ là ở đỉnh cao phong độ của dịch giả. Cũng lâu rồi trong rất nhiều tác phẩm dịch của ngày nay có một tác phẩm có một thứ tiếng Việt đẹp và uyển chuyển như thế. Cũng phải kể đến một sự khác biệt giữa Thời nắng lịm và Giờ Đức văn. Trong Thời nắng lịm có rất nhiều đối thoại, còn Giờ Đức văn thì tràn ngập văn miêu tả. Vì thế, nếu thứ văn miêu tả ấy không được chuyển sang tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn, độc giả sẽ rất khó để hình dung ra cảnh quan của tác phẩm. Nếu giữ lại toàn bộ cấu trúc câu, từ dấu phẩy, từ giới từ trở đi, từ danh từ số ít hay số nhiều… thì liệu rằng có được một bản dịch tốt hơn hay không? Bản dịch Giờ Đức văn có rất nhiều từ tiếng Việt mà nhiều người bây giờ không biết, không dùng nữa, những từ gần như đã bị mất đi rồi. Vốn từ vựng mà ông đem được vào Thời nắng lịm và Giờ Đức văn rất phong phú, giàu có, đời thường. Tôi nghĩ về lâu dài, các dịch giả, theo thời gian, tích lũy kinh nghiệm, vốn sống, cùng với sách vở, phim ảnh… thì mới có thể dần dần đa dạng hóa được vốn từ của mình, từ đó mới chuyển được vào trong bản dịch. Vì thế, đọc văn chương, đọc sách vở là một cách để trau dồi từ vựng?

HĐL: Thực ra, nói về dịch thì tôi học được của ông Cao Xuân Hạo rất nhiều: chẳng hạn cách ông ấy xử lý vấn đề, cách ông tiếp cận một tác phẩm. Trong câu văn tiếng Đức, khi viết bao giờ người ta cũng tránh lặp từ, tránh có nhiều từ đồng nghĩa trong một câu hay một đoạn văn. Ông Cao Xuân Hạo cũng từng dạy tôi, trong một câu mà có nhiều từ lặp đi lặp lại quá sẽ gây ra nhàm chán, ta phải dùng từ đồng nghĩa để tránh lặp lại trong câu, trong đoạn văn. Việc dịch nó mất công là vì vậy.

Cao Xuân Hạo, có thể nói, là người có năng khiếu ngôn ngữ đặc biệt. Vào những năm 1960-1970, ông buộc phải sống bằng nghề dịch. Cao Xuân Hạo đã dịch Chiến tranh và hòa bình ra tiếng Việt, một bản dịch mà cho đến tận bây giờ, tôi nghĩ khó có bản nào sánh nổi. Thực ra mà nói, chúng tôi cũng ít chuyện trò trực tiếp với nhau, tôi học ông qua các bản dịch là chính. Và tôi học bố tôi nữa. Tôi đọc những bài cụ viết, thậm chí cả những bản nháp mà cụ loại đi.

Tôi học như thế, qua chuyện trò, qua sách vở. Nên thực ra, tôi cũng không hiểu mình thấm được tiếng Việt từ đâu, theo con đường nào. Và quả là tôi đã đọc khá nhiều. Tôi phải thú nhận giai đoạn sau tôi ít đọc văn chương, nhưng trước đó, những năm 1960-1970, thì rất nhiều. Vào giai đoạn những năm 1955-1965, ở miền Bắc dịch rất tốt, lại toàn những tác phẩm lớn của văn học thế giới.

ZN: Quả là giai đoạn hùng hậu về mặt dịch thuật, rất nhiều kinh điển của văn chương thế giới đã được dịch vào giai đoạn này, như Những người khốn khổ của Victor Hugo, Tuyển tập kịch Shakespeare…

HĐL: Việc hiện nay có những hiện tượng gọi là khan hiếm từ vựng như bạn nói, theo tôi, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, người ta học nói, học viết ở ngoài đời là chính, chứ không phải ở nhà. Học qua sách báo, đài phát thanh, TV, tại nhà trường, qua bạn bè, đồng nghiệp. Nếu từ ngữ trong môi trường đó không phong phú, hoặc sai hay chệch nghĩa, thì thanh thiếu niên cũng sẽ không học được vốn từ vựng phong phú, cũng sẽ dùng sai, dùng chệch đi. Ta không thể chỉ đổ tội cho giới trẻ ngày nay viết lách, nói năng kém, họ chịu ảnh hưởng của cách viết, cách nói của cuộc sống xã hội xung quanh họ. Ấy là chưa kể giới trẻ, ở đâu cũng thế, thời nào cũng vậy, bao giờ cũng cố tình nói năng, viết lách theo cách riêng của mình.

ZN: Nobel văn chương 2019 xảy ra những ồn ào xung quanh nhà văn Peter Handke. Việc này khiến tôi nhớ đến những phê phán hướng vào tác giả Siegfried Lenz khi ông được cho rằng đã dựa trên họa sĩ tai tiếng Emil Nolde để tạo ra nhân vật họa sĩ Max Ludwig Nansen trong Giờ Đức văn. Ông nghĩ sao về việc này?

HĐL: Đây là câu hỏi rất khó trả lời. Bây giờ ai cũng rõ Emil Nolde vốn là người bài Do Thái nặng và nhiệt tình ủng hộ chế độ Hitler. Thế nhưng, tranh của ông ta, tài năng nghệ sĩ của ông ta vẫn được đánh giá cao. Tôi cho đây là một trong những thí dụ điển hình cho việc ở Đức người ta đã có thể phân biệt tài năng nghệ thuật của một tác giả với quan điểm chính trị và đời sống riêng của người đó. Xã hội phương Tây, cụ thể là xã hội Đức, người ta đã chuyển sang giai đoạn biết đánh giá và đề cao nghệ thuật của Emil Nolde, trong khi lên án không nương nhẹ các quan điểm quốc xã và phân biệt chủng tộc của ông ta. Người ta tách rời một Emil Nolde nghệ sĩ, một nghệ sĩ tài ba, vị nhạc trưởng của màu sắc, nhà nghệ sĩ gắn bó với quê hương, với một Emil Nolde bài Do Thái, theo đuôi phát xít. Hai mặt này không nhập vào nhau, không bị đánh đồng với nhau.

Việc phê phán ông Lenz đã lấy hình ảnh một con người như Emil Nolde làm hình mẫu, tôi nghĩ như thế chưa chắc đã công bằng, bởi ông Lenz chỉ lấy hình ảnh một họa sĩ nổi tiếng để dựng nhân vật cho tác phẩm, chứ không phải ông ấy ca ngợi đích thân Emil Nolde. Bảo rằng qua tác phẩm Lenz đã bào chữa và “sửa sang sắc đẹp” cho Emil Nolde thì tôi cho là quá lời. Theo tôi, Siegfried Lenz muốn đối chiếu giữa một bên là viên cảnh sát, với bên kia là ông họa sĩ. Nhân vật họa sĩ có lẽ là một nhân vật mong ước của Lenz thì đúng hơn, chứ không phải người thực ở đời. Ông ta được dựng lên như một tấm bình phong làm nổi bật hình ảnh viên cảnh sát. Bởi chính những người như viên cảnh sát ấy, với cách hiểu máy móc, mù quáng về nghĩa vụ của họ, đã tạo nền tảng cho nền độc tài phát xít phát triển. Và kiểu người này không chỉ ở Đức mới có, họ có thể xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc. Song ngược lại, tôi cũng nghĩ nếu không có những người như cậu Siggi, chị Hilde, ông đưa thư, ông họa sĩ… thì cũng khó mà có được nước Đức ngày nay. Đối với tôi, phải chăng đây chính là giá trị của tác phẩm?

ZN: Trong Giờ Đức văn ông thích những đoạn nào?

HĐL: Tôi thích nhiều đoạn. Đầu tiên là cái cảnh ông cảnh sát đánh con, với những chi tiết mô tả ông ta vừa đánh vừa chờ phản ứng của bà vợ như thế nào. Cái đoạn đấy tôi rất thích vì nó làm lộ rõ bản chất thật của ông cảnh sát. Nếu không có mệnh lệnh gì để thừa hành thì ông không còn là ông nữa. Ông ấy sẽ rất hoang mang và bối rối. Hay là đoạn các ông dân quân tự vệ bắn máy bay. Hoặc cái đoạn ông thầy giáo dạy sinh vật. Khi có tiếng máy bay và máy bay đối phương bay qua thì ông chỉ nhìn lên vẻ khinh bỉ: Ông ấy thua rồi, nhưng lại không chịu thừa nhận mình thua trận. Đấy là tâm lý khá phổ biến trong bộ phận nhỏ người Đức theo chủ nghĩa phục thù.

Và người ta ca ngợi Lenz ở chỗ ông ấy dùng một nơi xa xôi hẻo lánh, hầu như không có bóng dáng gì của chiến tranh, chỉ có vài viên mật vụ. Thế nhưng chiến tranh rõ ràng đã thâm nhập vào từng người, từng số phận. Và độc giả chỉ cần đọc là cảm nhận được ngay không khí chiến tranh.

ZN: Ông Lenz quê ở vùng đất ấy?

HĐL: Quê ông ấy ở Lyck, vùng Đông Phổ xưa, nhưng sau chiến tranh sống ở Hamburg và thông thạo miền Bắc Đức. Ông ấy là người chuyên mô tả vùng đất phía bắc ấy. Có người bảo ông là nhà văn xóm làng, nhà quê. Ông ấy chả bao giờ phản đối chuyện ấy, mà chỉ bảo rằng ông viết về quê hương ông, thế thôi. Ông Lenz còn có một tác phẩm mà tôi rất thích, tên là Bảo tàng địa phương, kể về một ông già giống như ông ngoại của cậu bé Siggi trong Giờ Đức văn. Ông ấy sưu tầm tất cả mọi thứ của vùng ấy, nhưng rồi ông lại đem đốt sạch cái bảo tàng ấy với cái lý do rằng phải đốt đi thì người ta mới biết rằng những thứ ông sưu tầm là quý giá.

ZN: Có lẽ sự hài hước là thứ mà ông Lenz cũng rất mạnh. Cuốn Giờ Đức văn, tuy rằng nội dung rất nặng nề nhưng đồng thời lại có những cảnh rất hài hước. Chẳng hạn như đoạn ở trên cù lao biệt lập mà Siggi bị giam, lúc có sự xuất hiện của đám chuyên gia tâm lý. Ông có thấy là ông Lenz giễu cái đội ấy không?

HĐL: Thời sau Chiến tranh thế giới thứ 2 khoảng 10-15 năm, người ta tưởng có thể dùng tâm lý học sẽ có thể giải thích được nhiều thứ ở đời. Người Đức sau chiến tranh bị mặc cảm về việc tại sao đất nước mình, một nền văn minh như thế, lại đẻ ra 13 năm chủ nghĩa phát xít. Đối với nhiều người, đó là điều không giải thích nổi. Người ta quay ra phân tích tâm lý, kể cả của Hitler, xem tại sao ông ta lại căm ghét người Do Thái đến vậy. Người ta muốn hiểu điều đó và đi tìm lý do thông qua tâm lý học. Nhưng nhiều người cũng đã vạch ra rằng họ đi tìm lý do gây ra tai họa lớn đó của văn minh nhân loại ở đâu đâu, chứ không tìm ở chính mình. Ông Lenz là người chĩa mũi dùi quay ngược vào trong và cho ta thấy cái trách nhiệm ấy cũng nằm ở ta, ở sự mù quáng, ở sự cuồng tín của chính ta. Người Phổ, trong tuyên truyền về nước Phổ, được xem là người biết vâng lời, biết tuân mệnh lệnh một cách vô điều kiện. Và người ta coi sự chăm chỉ, đúng giờ đúng giấc, tuân thủ nghĩa vụ, vâng lệnh, trung thành, tận tụy với bề trên, vân vân... là các đức tính Đức, những đức tính có từ ngàn xưa. Khi lên cầm quyền, chủ nghĩa quốc xã đã tuyên truyền, đề cao những cái gọi là đức tính Đức này lên, cho rằng đó là những đức tính tạo nên con người Đức thượng đẳng.

Quyển Giờ Đức văn của Lenz ra đời năm 1968, đúng vào cao trào sinh viên. Khi ấy, giới trẻ đã đặt khá nhiều câu hỏi cho các thế hệ trước của họ, chất vấn tại sao bố mẹ họ lại để xảy ra một hiện tượng như Hitler trên đất nước mình. Các câu hỏi về nghĩa vụ, về giới hạn của nghĩa vụ, về trách nhiệm của các thế hệ đi trước đối với tai họa phát xít được đặt ra gay gắt. Giờ Đức văn ra đúng vào thời điểm ấy nên được độc giả quan tâm và đọc nhiều. Vấn đề được nêu ra trong tác phẩm khiến người ta phải đặt ra câu hỏi giới hạn của nghĩa vụ là ở đâu. Và quả thật, trong tác phẩm ấy, ai cũng bị trách nhiệm, nghĩa vụ giằng xé, từ thằng bé Siggi trở đi. Thằng bé nghĩ nó phải có nghĩa vụ cứu các bức tranh, dẫn đến chỗ nó thành tội phạm. Nó lấy cắp tranh từ trong nhà băng, từ các cuộc triển lãm đem giấu đi. Ông bố thi hành lệnh từ trên ban xuống, đã lệnh là lệnh, đến khi lệnh đó mất hiệu lực trên thực tế, ông ta vẫn thi hành nó cho bằng được bởi chưa ai ra lệnh cho ông hay thôi đi. Ông Nansen họa sĩ thì cứ nhất định vẽ, ông ấy coi đó là trách nhiệm của ông đối với nghệ thuật, đối với đời sau. Tôi cho rằng độc giả cũng sẽ đặt ra những vấn đề như thế với chính mình.

ZN: Xem và đọc những bộ phim tài liệu về diệt chủng, về Holocaust, ta có thể nhận ra rằng có rất nhiều người tìm thấy niềm vui khi thực hiện nghĩa vụ. Không chỉ những nhân viên quèn như bẻ ghi tàu đưa đến phòng hơi ngạt, hay đóng kín cửa không cho tù nhân thoát, mà ngay cả những sĩ quan, họ tìm mọi cách để sáng tạo ra cách để có thể tiêu diệt người Do Thái một cách nhanh gọn và nhiều nhất. Họ đau đáu với những việc như thế. Như vậy, việc thỏa mãn nhiệm vụ đã bị đẩy lên ở mức độ cao nhất, méo mó nhất. Quả thực việc này rất là lạ, khi nhìn vào tính cách của nhân vật trong truyện Giờ Đức văn. Ông bố là một người như thế. Và ông bố có lẽ là một người có thể vào cái trại cù lao để các chuyên gia tâm lý nghiên cứu.

HĐL: Theo tôi, giáo dục theo lối cũ cũng là một vấn đề ông Lenz muốn nêu ra trong Giờ Đức văn. Trong đó, cách thức giáo dục vẫn là cách thức của ngày xưa. Khi anh bị coi là khó giáo dục thì tôi cho anh vào một cái trại cách ly. Vậy ai xác định thế nào là kẻ khó giáo dục? Ngay cả chuyện dạy văn, người ta cho anh một cái đề tài để anh phân tích theo cách hiểu của người ta (của ông thầy, của ông hiệu trưởng, của viên giám thị về nghĩa vụ). Đấy là lối dạy cũ. Bây giờ người ta không dạy như thế nữa, không còn các cù lao như trong truyện nữa. Bây giờ, để học một tác phẩm văn học chẳng hạn, người ta để cho học sinh, riêng lẻ hay từng nhóm, tự đọc tác phẩm đó, rồi học sinh sẽ báo cáo, trình bày về nhận thức của mình đối tác phẩm. Nhận thức của học sinh có thể rất khác nhau, khác cả với của thầy cô giáo, nhưng học sinh có quyền bảo vệ ý kiến của mình, giải thích tại sao họ hiểu tác phẩm như thế.

Thực ra dịch Deutschstunde, tên của tác phẩm này, ra tiếng Anh thành The German Lesson, hay ra tiếng Việt thành Giờ học tiếng Đức, hay Giờ Đức văn như tôi dịch, theo tôi, đều không thật đúng. Bởi người đọc có thể sẽ nhầm hiểu đây là giờ học cách đọc, cách viết tiếng Đức, ngữ pháp tiếng Đức, như ta có thể nghĩ khi nói đến giờ Anh văn, Pháp văn, Trung văn hay Nga văn. Trong khi đó Deutschstund, có lẽ, cũng có thể hiểu thêm là “Giờ về nước Đức, về lịch sử nước Đức”. Trong Giờ Đức văn, Siggi nhớ lại câu chuyện, nhớ về quê hương... chứ không phải học chính tả hay ngữ pháp tiếng Đức. Đối với độc giả cũng thế, người ta sẽ phải nhớ lại giai đoạn trước và sau khi chiến tranh kết thúc, với các sự kiện đã xảy ra, và người ta sẽ đánh giá như thế nào về các sự kiện đó, về cách nghĩ, về hành vi và cách xử sự của nhân vật.

Dịch giả Hoàng Đăng Lãnh: “Tôi chỉ là một độc giả đặc biệt”

ZN: Ông từng chia sẻ dự định lập một nhóm dịch văn học Việt Nam sang tiếng Đức? Ông đã dịch được những gì rồi?

HĐL: Tôi mong muốn tập hợp một nhóm như thế nhưng chưa thành công. Tôi không phải là người thạo tiếng Đức đến mức có thể tự mình làm được mà phải hợp tác với bạn bè người Đức. Tôi có thử dịch một số truyện ngắn của vài nhà văn Việt Nam sang tiếng Đức nhưng chưa thật sự thành công

ZN: Ông có thể chia sẻ một vài kinh nghiệm dịch cho những người muốn làm công việc này?

HĐL: Tôi nghĩ, để dịch văn học Việt sang tiếng Đức, người dịch không những phải thạo tiếng Việt, mà đặc biệt phải thạo tiếng Đức. Cũng giống như khi dịch tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, theo những gì tôi học hỏi được, điều trước tiên là cần thạo tiếng Việt vậy. Và một khi đã nói đến sự thông thạo thì có lẽ bao giờ cũng là đề cập đến sự học tập và bồi dưỡng không ngừng về ngôn từ, ngữ nghĩa, về xã hội... Bởi tiếng nước nào cũng vậy, đều có lịch sử sâu xa, đều phát triển và thay đổi không ngừng, cùng nhịp với cuộc sống xã hội.

Dịch, theo tôi, là một công việc khá nặng nhọc, đòi hỏi nhiều tâm sức và trách nhiệm của người dịch, nhưng cũng là của người biên tập và của các nhà xuất bản - một công việc nếu được đánh giá thích đáng về nhiều mặt thì chắc chắn sẽ thu được các kết quả mong muốn.

Cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện này.■

(1): Bản dịch Diệt vong được trao Giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2018.

 

Hoàng Đăng Lãnh, sinh năm 1948, là một tiến sĩ ngành hóa học. Ông là con trai của giáo sư Hoàng Tuệ, nguyên viện trưởng Viện Ngôn ngữ Việt Nam, và là anh trai của nhà văn Bảo Ninh. Từng công tác tại Phân viện Khoa học Việt Nam tại TP.HCM, ông sang làm việc ở CHDC Đức lần đầu năm 1979, đến cuối thập niên 1980 ông sang làm việc tại Viện hàn lâm Khoa học CHDC Đức. Sau khi nước Đức thống nhất, ông tiếp tục làm việc tại Viện Nghiên cứu xúc tác ở Berlin và Rostock cho đến khi nghỉ hưu.

Siegfried Lenz (1926-2014) là nhà văn nổi tiếng người Đức, tác giả của 16 tiểu thuyết, nhiều truyện dài, kịch, tuyển tập truyện ngắn và tiểu luận. Ông được đánh giá là một trong những nhà văn Đức xuất sắc nhất hậu Chiến tranh thế giới thứ 2, sánh vai cùng những đại văn hào khác như Günter Grass và Heinrich Böll.

Ông được nhận giải thưởng Goethe danh giá vào năm 2000 nhân dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Johann Wolfgang von Goethe.

Giờ Đức văn của Siegfried Lenz (xuất bản năm 1968) nhanh chóng trở thành một trong những hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức. Tiểu thuyết này được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường và đã bán được hàng triệu bản.

Được coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, Giờ Đức văn kể lại những câu chuyện liên quan đến một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ. Mô tả chi tiết những giằng co giữa lương tâm và luân lý, Giờ Đức văn là nơi Siegfried Lenz thực thi nghĩa vụ của ông trong văn chương, giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với quốc trưởng của họ đã đặt lên vai mình”.

Zét Nguyễn

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 03.12.2019.

Các chức năng của tính siêu văn bản rất đa dạng bao gồm chức năng châm biếm, chức năng đùa bỡn, chức năng mỹ học, ý thức hệ, chính trị hoặc triết học.

20190610 metafiction

Sách "Métatextualité et Métafiction: Théorie et analyses" - Ảnh: internet

Để xác định tính bội phân của các chức năng được khỏa lấp vào nhau này người ta có thể hình dung về hình ảnh nếp gấp được cuộn lại xét trong chừng mực tính siêu văn bản cố gắng thực hiện chức năng của nó qua việc kết nối các trường tri thức khác nhau nhằm truy vấn chúng trong mối tương quan lẫn nhau. Dĩ nhiên, ở bài viết này, tôi không cố gắng phân bậc chúng, một việc vốn dĩ đi ngược lại với tinh thần của siêu văn bản, mà thay vào đó, tôi cố gắng xác nhận ba nếp gấp hay ba chức năng chủ đạo đảm bảo được sự cố kết nền tảng của tính siêu văn bản như sau.

Bộ khung quy chiếu được giải cấu

Siêu truyện/siêu hư cấu là một truyện/hư cấu quy chiếu một cách rõ ràng đến đối tượng của nó như là một truyện/hư cấu. Chủ nghĩa hiện đại chưa đạt được tính tự phản tư (auto-réflexivité) này của hư cấu, và như Robert Alter đã đề ra công thức cho siêu hư cấu đó là nó “hệ thống hóa” sự tự quy chiếu của văn bản (l’auto-référence textuelle). Siêu hư cấu cần đến một nhận thức phê phán về văn bản thông qua người đọc và để thực hiện điều này, nó “phô bày một cách có hệ thống điều kiện giả lập của nó.”1 Văn bản siêu hư cấu tạo ra một tác phẩm hư cấu nói chung, dẫu nó có là hư cấu điển phạm hay các hình thức đại chúng, chúng đều được dung nhập với cùng một sự đan dệt trần thuật.

Do đó, hư cấu được thiết đặt ở trong một trạng thái phản tư với cái nhìn về chính nó, một cái nhìn vốn dĩ tạo ra hiện tượng đối hợp (involution) có thể gợi lại sự khái quát hóa về hố thẳm và, hơn nữa, xác nhận những biến thể cùng các hình thù kỳ dị không thể đếm hết của nó. Trong “Life Story” thuộc quyển sách khá gợi tả có tên Thất lạc trong hý trường (Lost in The Funhouse, 1968) của John Barth, người kể ngạc nhiên vì anh ta không phải là mình, mà là nhân vật hư cấu ở trong một câu chuyện/truyện khác, “D. dần nghi ngờ rằng thế giới là một tiểu thuyết, và bản thân anh ta là một nhân vật hư cấu.”2 Trong trường hợp này, cũng như trong toàn bộ các trường hợp thường thấy khác, ở đó cấp độ trần thuật (niveau narratif) và cấp độ truyền dẫn của mạch truyện (niveau diégétique) được dung nhập vào nhau và trở nên rối rắm, từ đó cấu thành nên một tính chất tượng trưng của siêu hư cấu. Các cấu trúc xác thực và những sự phân biệt cho phép văn học thực hiện chức năng của nó, thế nhưng người đọc kiến tạo nên thế giới của quy chiếu hư cấu theo cách mà Linda Hutcheon, một chuyên gia thuộc dòng văn học này, gọi là khuynh hướng kiến tạo có tính cách ái kỷ (narcissisme).3

Để làm rõ hơn nữa về sự giao cắt này của các giới hạn, chúng ta có thể so sánh tác phẩm Roland Barthes par Roland Barthes của Roland Barthes với ví dụ kể trên. Đây là một tác phẩm được xem như là một tự truyện hậu hiện đại thể hiện yếu tố hư cấu trong vai trò điều khiển sự tái kiến tạo của chủ thể tính của riêng nó, vì như R. Barthes đã mở đầu văn bản này với phát biểu: “Tất cả điều này phải được xem như được nói ra bởi một nhân vật tiểu thuyết.”4 Bộ khung làm ổn định thể loại tác phẩm này tiến hành đánh cắp thời điểm và vị trí của người đọc trong một trạng thái lập lờ đầy nghi vấn. Chính tính bất định thuộc về bản chất logic học cũng như bản chất hữu thể học này đã gây ra các vấn đề nan giải liên quan đến những gì tạo ra giới hạn của một thể loại, một căn cước, một tỉ thức, tức quá trình của chính sự lĩnh hội. Bộ khung thường hay thay đổi và thăng giáng bắt nguồn từ tính bất định nói trên dường như là chức năng trọng tâm của siêu văn bản. Trong Siêu hư cấu? Tính phản tư ở trong các văn bản đương đại (metafiction? Reflexivity in Contemporary Texts, 1993), Wenche Ommundsen nhấn mạnh đến sự nhập nhằng gây ra cho người đọc khi các loại hình cấu trúc nên sự mô phỏng tạo ra hiệu ứng chập chờn: “Sự rung động nhận thức được siêu hư cấu tạo ra có lẽ nói một cách chính xác nhờ vào thực tế rằng nó cần chúng ta, nghe có vẻ nghịch lý, nhìn nhận bản thân chúng ta đang có một ảo giác, để biết rằng chúng ta là chủ thể của một niềm tin bị bóp méo, nhưng ta vẫn tiếp tục gia nhập vào cùng với nó.”5

Văn bản siêu hư cấu, giống như những người gièm pha hoặc thậm chí ca ngợi dòng văn học này nhận định, trong các chiến thuật văn bản, nó tiến hành xóa bỏ ảo giác mô phỏng được gây ra bởi hư cấu. Nếu chủ nghĩa hiện đại đã nhắm đến, tuy đây chỉ là vấn đề về mức độ và cường độ, cổ xúy cho một sự trong suốt của ký hiệu, thì siêu hư cấu lại muốn làm bão hòa những gì có thể được coi là một sự soạn kịch bản của ký hiệu. Siêu hư cấu chẩn bệnh và khắc tạc ký hiệu, bằng việc đẩy nó tới một cung điện của những sự phản ánh. Nó công khai tập trung sự chú ý của người đọc vào đặc tính kết cấu của ảo giác mô phỏng.

Chức năng cơ bản của tính siêu văn bản, do đó, là đập vỡ, phá bỏ, và cải đổi bộ khung quy chiếu mà vũ trụ hư cấu kiến tạo nên bằng cách dùng đến các thủ pháp mô phỏng (procédés mimétiques). Sự cải đổi bộ khung quy chiếu này được thực hiện dựa trên một kiểu mẫu vừa có tính đùa bỡn vừa có tính giễu nhại, và đạt đến đỉnh điểm ở trong sự soi sáng của một thể giả lập. Bên cạnh chiều kích chính trị vốn có ưu thế hơn, như sẽ được bàn đến ở mục 3, tính siêu văn bản còn có một chức năng đùa bỡn rất quan trọng.

Chức năng đùa bỡn

Có lẽ, tính siêu văn bản sẽ được định nghĩa tốt hơn nếu chúng ta nói rằng nó được sinh ra bởi bởi sự ma quái trong việc giải thích về những giới hạn đưa người đọc đến với một sự chóng mặt giữa việc bảo lưu và việc xáo trộn hiện trạng của văn bản. Sự chóng mặt liên quan đến việc xáo trộn diễn ra theo cách mà ở đó “bản thân nó” không chỉ là một văn bản “khác”, mà văn bản khác này còn có thể “chỉ đơn thuần” là cái vắng mặt và là cái rời đi mà không để lại địa chỉ. Sự chóng mặt còn mang tính bảo lưu hiện trạng văn bản vì chúng ta có thể kinh nghiệm sự tự phủ nhận ở trong và thông qua sự đọc. “Sự viết của giới nữ”, ví dụ như sự viết của Angela Carter, sẽ được phân tích sâu hơn, điển hình ở việc thông qua phong cách của cô tạo ra một thách thức lại các huyền thoại và các câu chuyện bằng cách mở ra các cấu trúc sơ cấp của chúng nhằm che giấu đi khoảng trống nơi trung tâm của hệ thống dị biệt của ngôn ngữ.

Qua việc quy chiếu đến các phân tích của các nhà triết học như Jacques Derrida, Michel Foucault, Jean Baudrillard, hoặc theo phương diện mang tính văn học hơn với Fredric Jameson, Terry Eagleton, Linda Hutcheon, ta có thể nhấn mạnh đến “tính logic” của siêu văn bản khi nó khiến văn bản nói về chính văn bản, từ đó để lộ ra các dấu vết, các mặt nạ và các thiếu sót của tính lịch sử văn bản của nó cũng như tính liên văn bản của nó. Ví dụ, trong Dược phẩm của Platon (La Pharmacie de Platon), J. Derrida đề ra hình thể triết học của ông bằng cách thực hành các kỹ thuật khắc tạc được khâu nối lại với nhau ở trong các văn bản triết học quá khứ, để vén mở miếng lót bìa sách của nó như là phương diện nghịch đảo của văn bản.6 Tương tự, tính siêu văn bản vận hành ở bản lề của các tri thức đã được thiết lập nên. Tất cả các giới hạn giữa các trường tri thức khác nhau hoặc các nghệ thuật khác nhau được tạo ra trở nên bất định mà không có sự nhập nhằng nói chung bởi vì siêu hư cấu có một đối tượng chính trị. Những sự phân chia Lịch sử/hư cấu, hiện thực/nghệ thuật, văn bản/hình ảnh đều được chuyển dịch thành cái gì đó rỗ và bất định.

Trong Chính trị học của chủ nghĩa hậu hiện đại (The Politics of Postmodernism), Linda Hutcheon nhấn mạnh rằng trào lưu này không phải nhất thiết được xem như đang thiết lập nên một cuộc đổ vỡ rõ ràng với quá khứ, cũng chẳng phải như việc xem chủ nghĩa hậu hiện đại đưa đến chủ nghĩa hư vô: “Hậu hiện đại, như tôi đã và đang định nghĩa nó, không phải là sự quy thoái về thành “hiện thực thậm phồn” mà là một sự truy vấn về việc thực tại có thể có nghĩa gì và làm thế nào chúng ta có thể biết được nó. Sự trình hiện, đến đây, không thống trị hoặc xóa bỏ chiếu vật, mà thay vào đó, công nhận một cách tự ý thức sự hiện hữu của nó ngang với sự trình hiện - tức là như việc diễn giải (và quả thật như việc sáng tạo ra) chiếu vật của nó, chứ không phải như việc đề ra một lối truy cập trực tiếp và vắn tắt về nó.”7

Nếu mọi thứ ở trong thế giới được đem lại bởi tính trung giới của các hệ thống ý nghĩa nhằm diễn giải chiếu vật hay thậm chí tạo ra nó ở trong chính hoạt động định nghĩa nó thì dường như các nhà siêu hư cấu nghĩ rằng, không gian văn học luôn vấp phải mọi thách thức, mọi sự xúc phạm được gây ra từ tinh thần của sự chơi. Trong truyện ngắn có tiêu đề “Cái chết của tiểu thuyết” (1969), Ronald Sukenick đem lại tính ưu việt cho chức năng chơi của văn bản, “Điều chúng ta cần không phải là các tác phẩm vĩ đại mà là các tác phẩm bông đùa… Một truyện là một trò chơi mà ai đó tham gia vào vì bạn cũng có thể chơi nó.”8 Mạng lưới ngôn ngữ bao phủ mọi thực tại, siêu hư cấu soi sáng cho chiều kích hư cấu của thực tại này: “Chơi được tạo điều kiện bởi các quy tắc và các vai diễn, và siêu hư cấu vận hành bằng cách khám phá ra các quy tắc hư cấu để khám phá ra vai trò của hư cấu ở trong đời sống. Nó nhắm đến khám phá ra việc làm thế nào mỗi người chúng ta “chơi” trong các thực tại của riêng mình.”9 Một khi đứng ở vị trí của nhà tiểu thuyết, người đọc “theo kinh nghiệm” sẽ có được vai trò xã hội của anh ta một cách đặc biệt, điều này chỉ có thể có được từ việc tra hỏi nếu đời sống của anh ta không được viết ra bởi một số tác giả cố ý né tránh, những người giữ vai trò giật dây từ phía đằng sau sàn diễn.

Mục đích ý thức hệ/thơ ca

Một cách khái quát, đến đây, sự trình hiện, vì thế, sẽ bị truy vấn, cụ thể, đó là tính đầy đủ quy chiếu của ký hiệu. Tính siêu văn bản cố gắng thể hiện rằng ý nghĩa không còn mờ tối nữa nhằm để đạt được sự hấp dẫn của tính thống nhất văn bản. Tính đa bội, tính mờ đục, sự giễu nhại, theo đó sẽ cho phép lột được mặt nạ cấu trúc của cái khả độc/cái có thể đọc được (lisible). Chắc hẳn không có cách đọc nào tốt hơn cách đọc trong S/Z của Roland Barthes để “thấy”, như Henry James nhận định, cái mới của Balzac mà R. Barthes chỉ ra nhập vào trong tính đa bội của các mã ngôn ngữ, văn học và thực hành, chúng được liên kết với nhau bằng cách tăng cường việc thiết lập nên các cấu trúc của sự tạo nghĩa (signification) đem lại ý nghĩa của chúng.

Sự nhịp nhàng và sự liên tục đến đây rõ ràng đã trở thành những điều đáng ngờ vì nó đang thể hiện ra rằng thế giới và nghệ thuật được thiết định bởi các bộ mã mà qua đó giúp hình thành nên một điều tự nhiên khiến các nhà thực hành siêu văn bản nhắm đến chỉ ra bản chất của nó, tức một đồ hình thói quen (construit habité) được tạo lập bởi ý thức hệ và các hệ thống giá trị. Tính siêu văn bản luôn có một phạm vi ý thức hệ/nghệ thuật, việc dính liền ở đây muốn nói đến việc khước từ đem lại ưu thế cho cái này hơn cái kia vốn dĩ trở thành một trong những vấn đề của sự viết.

Các bộ mã, dẫu chúng có là riêng biệt về mặt văn hóa hoặc là các thành phần cấu nên mặt văn học (thể loại, phong cách, giọng điệu), hoặc những thứ riêng biệt về mặt nghệ thuật nói chung cũng như liên quan đến truyền thống, đều phụ thuộc vào các mã và các hệ thống giá trị đồng thời cấu thành nên tính tương đồng mà từ đó người đọc gia biệt khoảng cách với chính mình. Trong bộ khung ý thức hệ, người đọc tiến đến việc nhận ra rằng văn bản được kết cấu và mọi thứ ở trong thế giới được đem lại thông qua các hệ thống trình hiện. Người đọc dần nhận ra rằng ý nghĩa tự nó là kết quả của sự sản sinh ý thức hệ, qua đó từ ngữ có trước sự vật. Việc phản tư về các vấn đề thuộc về các cấu trúc được mã hóa cũng như sự lập chủ đề của chúng ở trong các văn bản siêu hư cấu, do đó, khiến người đọc có thể chống lại sự hấp dẫn của các hệ thống đồng thời nắm bắt được bản chất của chúng, như “sự khai thác tình dục”, sự rập khuôn, tư kiến nói chung.

Sự truy vấn này về các cấu trúc tạo nghĩa là mơ hồ về mặt ý thức hệ, bởi vì làm thế nào chúng ta có thể khước từ đi các hình tượng sai lạc dựa vào tất cả các kiểu mẫu trong khi vẫn nghĩ đến cách thoát khỏi sự xác định ý thức hệ diễn ngôn của riêng nó, ngay cả nó là văn học? Theo Linda Hutcheon, hướng tiếp cận mỹ học chính trị bắt nguồn từ mâu thuẫn này được xem là khả dĩ. Đồng thời với phê bình phụ trợ và sự truyền dẫn được ủy quyền, siêu hư cấu khuyến khích sự phản tư bằng cách lập ra chủ đề mâu thuẫn: “Giễu nhại cũng đặt vấn đề về giả định nhân văn của chúng ta liên quan đến tính độc đáo và sự đơn nhất nghệ thuật cũng như các quan niệm tư bản của chúng ta về quyền sở hữu và tài sản.”10

Phạm Tấn Xuân Cao dịch (từ bài “Les fonctions de la métatextualité”, trong Tính siêu văn bản và siêu hư cấu: Lý thuyết và phân tích (Métatextualité et Métafiction: Théorie et analyses), Laurent Lepaludier (chủ biên), Presses universitaires de Rennes, 2003, trang 39-43).

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, 362/04-2019, phiên bản trực tuyến ngày 29.05.2019.

Trong lời nói đầu viết cho bản dịch tiếng Việt Tuyển tập truyện ngắn Trần Trường Khánh, tác giả chân thành bày tỏ ước vọng “đi tìm tri âm ở phương trời văn học khác”. Chợt nhớ ngày xưa Lưu Hiệp từng băn khoăn: “Tri âm thực khó thay! Âm thực khó tri mà người tri âm thực khó gặp. Gặp được tri âm là sự nghìn năm có một” (Văn tâm điêu long, thiên 48: Tri âm).

Tôi là một độc giả của Trần Trường Khánh, từ phương Nam xa xôi, quen thuộc với văn học Trung Quốc, nhưng có phần xa lạ với văn học trên lãnh thổ Đài Loan đầy sóng gió, lại càng chưa biết gì nhiều về tác phẩm của những nhà văn trên đảo Kim Môn có số phận gian nan khôn xiết. Không dám nhận là người tri âm, tôi chỉ thấy mình may mắn được thưởng thức tác phẩm này như thưởng thức “một hiện tượng, một bức tranh riêng biệt” (Hoàng Khắc Toàn) vừa lạ lẫm, vừa gần gũi để có thể ký thác vào đó một chút tâm trạng mình.

Những biến động lịch sử và xung đột ý thức hệ nửa cuối thế kỷ 20 đã đẩy Đài Loan và miền Nam nước tôi vào những tình thế hiểm nghèo. Những người đồng bào cùng trong một nước phải chia nhau ở hai bên chiến tuyến mà lằn ranh là một vùng biển (Đài Loan) hay một dòng sông (Bến Hải). Kim Môn (Đài Loan) và Bình Trị Thiên (Việt Nam) trở thành chảo lửa của chiến tranh. Một nơi là hàng cọc nhọn chống đổ bộ, một nơi là hàng rào điện tử McNamara, ranh giới lẽ ra là khu phi quân sự đó trở thành vùng tranh chấp quyết liệt nhất với bao máu xương đổ xuống.

Nhà văn Trần Trường Khánh đã chứng kiến hai lần khủng hoảng ở eo biển Đài Loan với những cuộc pháo kích, những trận hải chiến giữa hai bờ mà người dân Kim Môn phải chịu đựng. Nhưng cả sáu truyện ngắn trong tập này không nhằm miêu tả trực tiếp những biến cố ấy mà thể hiện những di chứng của thời kỳ thiết quân luật đã đè nặng lên đời sống của khoảng mười vạn dân Kim Môn trong hơn 36 năm ròng.

Dù thời nào, xứ nào thì nạn nhân trực tiếp của độc tài, quân phiệt cũng là những người dân lành vô tội. Những oan khiên vô cớ rơi xuống đầu người thợ hồ như A Thuận (Xe khách công cộng nhân dân). Những thân phận phụ nữ trôi dạt như Vương Mỹ Lệ , Hoàng Ngọc Tiêu trở thành món hàng chuyên tay bao kẻ võ biền thô bạo (Tạm biệt đảo Hải Nam, Tướng quân và Gạo Bồng Lai). Những góa phụ trung hậu như chị Thiêm Đinh bị viên chức địa phương bắt nạt, quấy rối và làm nhục (Tôn Rỗ).

Truyện Tạm biệt đảo Hải Nam dẫn ta đi qua những di tích và thắng cảnh thu hút tầm mắt mà không che giấu được vết thương trên cơ thể xã hội và cơ thể người phụ nữ chìm sâu trong bi kịch của nghề tiếp viên. Qua Vương Mỹ Lệ, độc giả Việt Nam bắt gặp hình ảnh hiện đại của Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du), Tuyết (Đời mưa gió, Khái Hưng và Nhất Linh), Huyền (Làm đĩ, Vũ Trọng Phụng)… trong một xã hội tự xưng là văn minh. Mô-típ “gặp lại cố nhân” được Trần Trường Khánh thể hiện tự nhiên, chân thực, để lại dư vị đắng cay mà không rơi vào một happy-ending giả tạo.

 Theo thiển ý, truyện ngắn hay nhất trong tập này là Tướng quân và Gạo Bồng Lai. Mặc dù tác giả cẩn trọng rào đón rằng trong quân đội Quốc Dân Đảng có “hàng chục ngôi sao sáng lấp lánh với tên gọi tướng quân”, độc giả không tránh khỏi đặt câu hỏi rằng cái guồng máy thối nát nào đã sản sinh ra một Ngưu tướng quân đốn mạt như vậy? Với bút pháp trào phúng cay nghiệt, Trần Trường Khánh đã khắc họa sinh động chân dung và tính cách một “tướng quân” đồi bại, thô lỗ trong “dáng vẻ anh Trư”, trên đời chỉ nghiện hai món là uống rượu ngâm dái chó để tráng dương bổ thận, và hưởng lạc thú với Gạo Bồng Lai hàng tuần ở trà thất Am Tiền, đến mức “chẳng cần giữ gìn tinh lực để phản công đại lục” (!).

 Cảm hứng phê phán, đả kích trong tác phẩm Trần Trường Khánh không dừng lại đó. Đọc truyện Xe khách công cộng nhân dân, tôi liên tưởng đến tác phẩm của Franz Kafka, Aziz Nesin, Slawomir Mrozek, Bùi Ngọc Tấn, với những con người thuần phác, vô tội bị chụp mũ, bức cung, tra tấn một cách oan khuất chỉ vì một lý do vớ vẩn, tuy về sau có được minh oan, trả lại danh dự thì tâm hồn cũng đã tổn thương nghiêm trọng mà không thể oán trời trách người được nữa, đành tự an ủi mình “đã không may sinh nhầm thời đại”. Truyện ngắn này là một bản luận chứng đầy mỉa mai về tình trạng nhà cầm quyền có thể nhân danh những lý lẽ tốt đẹp như bảo vệ an ninh quốc gia để đẩy dân lành vào vòng tai họa ở “nơi không ánh mặt trời”.

Thế đó, những thiên truyện hiện thực của Trần Trường Khánh cho thấy bạo lực và sự vô đạo có thể bóp nghẹt cuộc sống của một vùng đất như thế nào. Nhân vật Trần, vốn là một nhà văn, từng thốt lên cay đắng: “Con người thật hiểm ác. Chẳng phải các người luôn mồm nói rằng phải cải cách cái xã hội bất lương này, phải kiến lập một xã hội hoàn hảo tốt đẹp, nhưng tại sao không cách nào xóa bỏ được ánh mắt của lợi danh và quyền lực?”.

Nhưng nghĩa vụ của một nhà văn, dù không thiếu khiêm tốn, đòi hỏi ông ta không được thỏa hiệp với nỗi sợ hãi và lòng yếm thế, nhất là khi ngòi bút được truyền cho sức mạnh tinh thần và những đức tính tốt đẹp mà những người dân giàu lương tri ở Kim Môn, tuy có lúc phải “ngậm miệng làm ngơ, mũ ni che tai” trước cường quyền để “tránh chuốc họa vào thân”, cuối cùng không để cho ai tước đoạt. Ở bên kia và bên đây, con người chân chính đều tin vào lẽ phải và điều thiện, tin rằng “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”, như tục ngữ đã nói. Dù đã rơi vào hầm lửa của một xã hội đầy cạm bẫy, người “thần nữ” vẫn không thôi nuôi khát vọng về nhân tính, tình yêu và cái đẹp: “Khi em đã rửa sạch đôi tay đầy bùn tanh, em sẽ rửa sạch những vết nhơ trong lòng em bằng chính đôi tay của mình; em muốn khi em trao cho anh, em là người trong sạch và hoàn mỹ, dù em đang ở chân trời góc biển nào đó…”.

Những người như chị Thiêm Đinh, Xuân Đào, Võng Yêu Tử đều coi trọng đạo lý dân gian, phong hóa làng quê và phẩm giá của người phụ nữ. Đó là sức mạnh khiến Thiêm Đinh trụ vững mà Tôn Rỗ dù mưu ma chước quỷ cũng không làm cho gục ngã. Đó là lẽ sống tự lập và tự trọng khiến Võng Yêu Tử, không oán trách số phận, thà lấy sức mình nuôi con, nuôi mẹ chứ không làm kẻ phụ tùy của người chồng gàn dỡ. Đó là phản ứng thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương của Xuân Đào, người đàn bà đầy chất sinh thực khí, đã chọn cái chết để rửa nỗi nhục của mình. Những người phụ nữ đó sản sinh từ thổ nhưỡng, khí hậu Kim Môn, đồng thời cũng là hình ảnh người phụ nữ Á Đông trọng nhân cách, mà trên đất nước Việt Nam thời nào cũng có.

Tác phẩm của Trần Trường Khánh cho thấy văn học ở một địa phương có thể vươn ra khỏi các bức tường để tìm thấy sự đồng cảm của người đọc qua sự hiệp thông với chủ nghĩa nhân đạo. Xin trân trọng cảm ơn tác giả và giáo sư Trần Ích Nguyên đã bắc cầu cho tác phẩm này đến với bạn đọc Việt Nam qua bản Việt ngữ do các dịch giả ở Trường Đại học Khoa học xã hội - nhân văn và Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Đối với riêng tôi, tập truyện này không chỉ mở ra cánh cửa nhận thức về một xứ sở lắm trầm luân như quê hương tôi, mà còn đem lại kinh nghiệm mỹ cảm về sức lôi cuốn của nghệ thuật ngôn từ, như cách nói của Chu Quang Tiềm, nhà mỹ học hiện đại Trung Hoa được tiếp nhận ở cả Đài Loan và Việt Nam.

 

Lời Bạt Tuyển tập Truyện ngắn Trần Trường Khánh, NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP HCM, tháng 11-2019.

 

 

(Đọc "Chiều trên sông Hàm Luông" của Cao Quảng Văn)

Nhà thơ Cao Quảng Văn là dân Văn Khoa Sài Gòn, xuất hiện trong làng văn khá sớm, lặng lẽ mà có đến hơn nửa thế kỷ cầm bút, từ tốn và an nhiên với phong cách nhẹ nhàng, ấm áp và bút pháp thơ truyền thống của mình.
Mảnh đất phóng khoáng của phương Nam, quê hương xứ Huế, cùng với những chân trời rộng khác đã in dấu trong tập thơ mới nhất của anh: Chiều trên sông Hàm Luông, lưu lại những bài thơ từ năm 1966 đến năm 2018.
Tuổi đôi mươi hồn thơ bừng nở sinh sắc và bồi hồi cùng nhịp sống. Có những bài vang vang nhạc điệu một thời: "Đêm tan hoang muôn ngàn tấn bom/ Đêm kêu oan những lời bi thương/ Đêm gục đầu thành đô muốn khóc/ Đêm bốc cháy lửa nhà cuối thôn…" (Đêm nhiệm mầu tiếng hát đường xa, 1968). Có những lời âm âm nỗi buồn làm người: “Nghìn năm triền đá xanh rêu/ Ngày xanh xao/ Lệ ứa chân chiều/ Bước mỏi ta về/ Cơn gió thoảng/ Nằm im nghe cát bụi tiêu điều” (Cũng bâng khuâng gió lướt mặt đường, 1971).
Tuổi 40 chững lại những ghi nhận, một niềm vui từ hòa bình và gia đình: “Tình yêu là năm, là tháng/ Ngọt bùi, cay đắng có nhau/ Tình yêu là …khi tóc bạc/ Vẫn xanh giấc mộng ban đầu…” (Vẫn xanh giấc mộng). Nhiều bài thơ nhạc điệu mạnh, nghe như những bài ca (Tìm nhau, Vào xuân, Sông ơi cứ chảy…): Nước cứ trôi/ qua cầu/ lửng lơ/ Mây vẫn bay/ trên đầu- vu vơ/ Người bên nhau, mà không một lời!/ Một ngày…không còn Thơ trên đời?. Không còn lung linh- còn đâu mơ màng!/ Mai sớm, trưa chiều/ rồi đêm dần sang…/ Một ngày đi qua/ Một ngày lại tới!/ Người bước trên đường/ Không âm vang…(Hãy giữ giùm anh). “Chiều rơi mênh mông/ Người còn xa xăm/ Chiều buông thanh u/ Nhịp trầm hư không (Một mình với chiều Đà Lạt).
Và sau đó là trầm tư, là tra vấn, là khắc khoải. Do sức nặng của năm tháng trên vai hay bởi “những điều trông thấy”? Có thể là cả hai, nhưng dù thế nào, thơ Cao Quảng Văn vẫn chưa bao giờ bị chìm trong đắng cay, nghiệt ngã.

Có những nỗi đau nén chịu, tự dỗ dành: “Tim ơi, đừng cay đắng/ Cho lệ rơi ngậm ngùi/ Một ngày không mây trắng/ Còn dài hơn một đời…” (Trời không mây trắng). Có những nỗi buồn câm lặng, trong vô vọng, tự nhắc mình kiên nhẫn: Trên chót vót đỉnh cao/ Chỉ còn lặng im (*)?/ Thăm thẳm hơn mọi nỗi buồn/ Là niềm vô vọng… /Ai đã sống như đã ngàn năm sống/ Với tin yêu rồi thất vọng tràn bờ?/ Ngàn năm sau có gì còn lưu lại/ Hay chỉ niềm câm lặng trong thơ?.. (Câm lặng nỗi buồn).
Nhiều bài thơ trĩu nặng tự sự: (Bước mùa tôi, Vẫn mỗi ngày như thế, Bên sông trôi, Những con đường không có lề, …). Chúng chất chứa nỗi niềm của người cầm bút: Khi lạc quan: “Thơ sẽ hát bên người/ Khắp hang cùng ngõ vắng/Ngày nước mắt thôi rơi/ Thơ phập phồng hy vọng” (Trăng chiều); lúc khắc khoải, với những câu hỏi lớn dành cho người cầm bút: “Nhà thơ ơi/ Người đứng nơi đâu/ Trong cuộc đời này?/ Môi mím nụ- trầm tư/ Hay lặng thầm, nước mắt?/ Ngước nhìn trời/ Hay ngậm ngùi cúi mặt?/ Hy vọng, đau buồn/ Người viết cho ai? (Thơ hỏi nhà thơ); và “mỏi mòn: “Những câu thơ mỏng manh/ Như cũ mèm số phận/ Giọng ễnh ương mòn sương kêu trời/ Những vì sao nhói xanh lận đận…” (Lãng du); rồi kháng cự: “Tôi không muốn/ Những ngày dài vô nghĩa!/ Những trang dư trong cuốn sổ cuộc đời…/ Những đêm hoang vu/ Những ngày sương khói/ Tồn tại mỏi mòn/ Chờ đợi phút tàn hơi! (Có phút giây nào).
Trong kho tàng thơ Việt đã có những bài thơ viết về mùa, về chiều, đã trở thành kinh điển, không ai dám chạm vào, thế mà Cao Quảng Văn vẫn có khả năng chen vào ký ức chúng ta bằng một bài long lanh trọn vẹn (Ai chờ ai mùa thu) hay một đôi câu đẹp: “Mênh mang chiều chảy về đâu/ Ngày run bóng xế, bên cầu lá rơi/ Cánh chim khuất nẻo xa rồi/ Người mang theo cả ngậm ngùi trời mây”… (Nhạt nắng bên cầu).
Đá và mây là cặp biểu tượng đối ngẫu trong thơ Cao Quảng Văn: một tĩnh, một động, làm nên ám ảnh nơi những ai biết lắng mình với Tự nhiên.
Cao Quảng Văn làm thơ với một bút pháp tự nhiên, thuần phác. Hình như ông không quan tâm nhiều đến việc cách tân kỹ thuật. Thế mạnh của thơ ông là nhạc điệu và nhạc tính. Một vài bài thơ tự do hiếm hoi nơi đây, mang phong vị phương Đông: Tuyệt mù một thoáng vàng bay, Nhớ Ức Trai…thường rời rạc, dở dang, chưa tròn ý.
Tôi không biết Cao Quảng Văn đã có bài thơ nào được phổ nhạc chưa? Nếu được bay lên bằng đôi cánh của âm nhạc, chắc rằng thơ Cao Quảng Văn sẽ có dịp đến với nhiều người hơn, sẽ in vào ký ức nhiều thế hệ hơn, nhất là trong cái thời rộn rã của âm thanh, của các phương tiện nghe nhìn này.
Sài Gòn, 2019
Nguyễn Thị Thanh Xuân

Thông tin truy cập

63311165
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
5861
16010
63311165

Thành viên trực tuyến

Đang có 436 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website