20231024 2

PGS - Nhà giáo ưu tú Chu Xuân Diên sinh năm 1934 tại tỉnh Bắc Ninh. Sau khi tốt nghiệp khóa đầu tiên (1956 - 1959) ngành Ngữ văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy văn học dân gian. Từ năm 1986 đến năm 2000, ông công tác tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (hiện nay là Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh).
Năm 2000, ông về hưu và chuyển sang làm việc ở Trường Đại học dân lập Văn hiến (TP. Hồ Chí Minh) với trách nhiệm Chủ nhiệm Khoa Văn hóa. Năm 1984, ông được Nhà nước phong chức danh Phó Giáo sư Văn học.
Nhà giáo Ưu tú Chu Xuân Diên đã có nhiều năm nghiên cứu, viết sách, giảng dạy đại học và sau đại học, trên các lĩnh vực chính văn học dân gian, văn hóa dân gian, văn hóa, dân tộc học. Ngoài ra, ông còn có đóng góp đáng kể trong lĩnh vực dịch thuật.

Tôi may mắn được học thầy từ năm lớp 10 ở trường Phổ thông Năng Khiếu. Đến bây giờ ngẫm lại, làm phép tính trừ tới trừ lui, tôi vẫn không tin được lúc đó, năm 1997, khi dạy lớp tôi chuyên đề về văn học dân gian thì thầy đã 63 tuổi.

Bởi vì lúc đó thầy còn trẻ quá, trẻ từ dáng người đến tâm hồn, tính cách. Tôi không biết đến khi mình đã ngoài 60, ở cái tuổi bắt đầu “mỏi gối chồn chân”, tôi có còn được nhanh nhẹn, minh mẫn, tinh tấn để thong dong đạp xe đến trường và tiếp tục “gõ đầu trẻ” như thầy không.


Tiên ông với chiếc xe đạp: giữa nắng và sứ trắng

Những buổi chiều đến dạy chúng tôi, thầy đều mặc áo sơ mi, quần tây giản dị, đi bằng xe đạp và nhẹ nhàng gạt chân chống dựng xe dưới gốc cây sứ đầu tiên trong sân trường. Tôi nhớ hoài mái tóc thầy cắt ngắn gọn ghẽ, màu bạc trắng lấp lánh hòa vào màu nắng trong vắt như lẫn vào màu hoa sứ, làm cả một vùng sân trường dưới tán cây sứ sáng bừng lên. Tôi ngồi ngay cửa sổ lớp, tính lại hay mơ mộng nên thường nhìn qua khung cửa ngắm nắng, ngắm mây trời và những cội sứ trắng huyền thoại. Vì vậy mà hình ảnh ban đầu về thầy trong tôi không gắn liền với không gian bảng đen phấn trắng mà là không gian của vùng hoa sứ đẫm nắng trong veo. Thầy hiện ra, đẹp như một tiên ông nhỏ nhắn đi xe đạp giữa ánh sáng hoa nắng ấy. Tôi nghĩ lần đầu Tấm gặp gỡ Bụt, chắc nàng cũng thấy vùng ánh sáng rạng rỡ, vừa bừng lên, nhưng cũng vừa đằm ngọt dịu dàng như vậy.

Mà khi giảng bài, thầy cũng giảng như một tiên ông. Thầy lúc nào cũng từ tốn đi từ ý này sang ý kia một cách lớp lang, rõ ràng, dễ hiểu nhưng lại truyền tải cả hệ kiến thức uyên thâm về văn hóa dân gian cho lũ học trò chuyên Văn còn ngơ ngác ở cái tuổi 15 chúng tôi. Có thể nói, thầy là người đầu tiên mở ra cho chúng tôi một cánh cửa khác, một thấu kính khác để nhìn vào các câu chuyện cổ tích quen thuộc, từ Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh Lý Thông đến Sự tích trầu cau, Hòn vọng phu, câu chuyện Cây khế,… Từ đó, chúng tôi vỡ lẽ ra rằng mình có thể đọc cổ tích bằng đôi mắt hồn nhiên, long lanh của thế giới trẻ thơ và cũng có thể đọc bằng tư duy luận lý khách quan, xem cổ tích như những di chỉ khảo cổ sống động của hình thái xã hội cổ xưa, của các tập quán, tín ngưỡng và cách thức thực hành nghi lễ ở các cộng đồng từ trong quá khứ. Những bài giảng của thầy vừa êm đềm trong veo cổ tích, vừa thăm thẳm uyên bác hang động u huyền, xuyên qua cả triệu năm nhân loại lớn dậy từ thuở ấu thơ. Thầy đứng giữa lớp thanh nhẹ như tiên ông không cần đũa phép, giọng nói nhẹ nhàng, nụ cười cũng hiền lành nhẹ nhàng, như thể Bụt trong truyện cổ hiện ra giữa đời thường.

Nhưng rồi có lần tôi tranh luận với Bụt. Và lần tranh luận đó trở thành một kỷ niệm đáng nhớ, một bài học có muôn vàn ý nghĩa trong hành trình trưởng thành của tôi.


Chuyện cái vần “ưa”: đôi khi ta không cần hoạch định trước tương lai

Tôi vẫn nhớ trong buổi học thứ hai, thầy giảng về ca dao dân ca và đọc cho chúng tôi nghe bài ca dễ thương của dân gian:

“Trời mưa cho ướt lá dừa

Đôi ta be bé đi bừa với nhau

Trời mưa cho ướt lá cau

Đôi ta be bé rủ nhau đi bừa”

Trong lúc phân tích, thầy giảng về đặc trưng tư duy sáng tạo và nói rằng nhiều khi tác giả dân gian chỉ nương theo vần, điệu để cho chữ gọi chữ và hình thành nên bài ca. Thế nhưng khi ấy, tôi không chấp nhận kiến giải đó, đưa tay phát biểu. Được thầy mời, tôi trình bày huyên thuyên với giọng điệu hùng hổ của tuổi mới lớn rằng tác giả dân gian phải có ý thức, có chủ đích lựa chọn lá dừa, lá cau, đi bừa vì đó là những hình ảnh gắn liền với đời sống dân tộc, tạo nên chất dân dã chứ không thể chỉ vì tình cờ gieo vần “ưa” rồi tạo ra bài thơ. Thầy cười nhẹ nhàng, từ tốn bảo tôi rằng bài thơ chứa những điều tôi vừa phân tích, nhưng cũng có sự ngẫu hứng, tình cờ của con chữ nữa. Nhưng con bé tuổi 15 “trẻ trâu” trong tôi lúc đấy không chịu chấp nhận, lại tiếp tục đứng lên “cãi thầy” bằng cái giọng ào ào, sục sôi. Thầy vẫn điềm tĩnh để cho tôi nói hết tất cả những gì muốn nói, rồi cười nụ cười thật hiền, nhìn tôi bằng đôi mắt trong veo và chỉ nói một câu: “Có thể sau này, từ từ em sẽ hiểu ra và nghĩ khác”.

PGS-NGƯT Chu Xuân Diên cùng các học trò và đồng nghiệp

Rồi thời gian trôi đi, tôi giã từ thời cấp ba, trở thành sinh viên ngành Văn học và được gặp lại thầy trong môn học Thi pháp truyện cổ tích. Công trình nghiên cứu nổi danh của thầy khi ấy Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học là một trong những cuốn sách giúp tôi học cách tư duy phân tích văn học một cách rõ ràng, thuyết phục từ cái nhìn có tính liên ngành. Sau gần 7 năm, tôi thấy thầy vẫn giữ vẹn nguyên vóc dáng ấy, phong thái ấy, sự uyên bác giản dị và từ tốn ấy. Chỉ có điều tôi không còn được nhìn thấy thầy trên chiếc xe đạp giữa một vùng nắng huyền thoại bên cội sứ trắng nữa. Khi ấy tôi đã tập tành làm thơ nhiều hơn, gửi đăng báo và tham dự cuộc thi Bút mới trên báo Tuổi Trẻ. Với trải nghiệm làm thơ, tôi dần vỡ lẽ ra bài giảng thầy cho tôi năm 15 tuổi. Nhiều bài thơ, tôi viết câu đầu tiên với ý tưởng đang nảy nở, nhưng các câu tiếp theo là chữ gọi chữ, vần gọi vần, cứ nối nhau đi theo một sự ngẫu hứng kỳ lạ. Những con chữ khi ấy như đang chủ động trong một cuộc chơi riêng, vượt lên trên tôi, choài ra khỏi tôi. Tôi thấm thía kết luận của thầy hôm đó và hiểu ra rằng cái ngẫu hứng, cái không dự định trước cũng là cái giá trị, chứ không phải là cái vô nghĩa.

Rồi nhờ bài học ứng xử hấp thụ được từ thầy, tôi biết kiên nhẫn, bao dung hơn với học trò của mình, từ những học trò cấp ba đang tuổi lớn, tuổi khẳng định cái tôi ở trường Phổ thông Năng Khiếu đến những lứa sinh viên ở Đại học. Tôi hiểu rằng đôi lúc mình cần kiên trì chờ ai đó lớn lên, trải nghiệm để vỡ lẽ cái điều mà người đi trước nhìn thấy, đừng nên gò ép, phán xét, áp đặt những kinh nghiệm của mình vào người trẻ. Khoảng không tự do trong tri thức và ứng xử thầy dành cho tôi để trưởng thành thật trong lành, đẹp đẽ. Và tôi tâm niệm mình cũng sẽ dành điều đó cho những người trẻ quanh tôi.

Xa hơn nữa, bài học hôm ấy của thầy không chỉ có giá trị với tôi trong môi trường học thuật, mà dần dần, với những trải nghiệm đời người, tôi còn hiểu ra rằng đôi khi mình cứ hồn nhiên nương nhờ theo dòng chảy cuộc sống, không cần phải hoạch định trước, có mục tiêu trước với tất cả những gì xảy ra trong đời, như người làm thơ không cần phải chăm chăm hoạch định từng câu thơ một. Hẳn nhiên, chúng ta cần sống có mục đích để không bơ vơ, hoang mang kiểu “người bay không có chân trời” như câu thơ nổi tiếng của Trần Dần. Nhưng nhiều khi giữa đời, ta cũng cần nới lỏng mình ra, thả ta phiêu diêu tự do như bong bóng bay vuột khỏi tay đứa trẻ, lửng lơ tận hưởng mây trời. Những nhân duyên đầy ngẫu hứng của cuộc đời sẽ đưa đẩy ta đến bao điều thú vị mà biết đâu, khi ta chăm chăm đi tìm thì lại không gặp, không thấy.

Những kỉ niệm với thầy nuôi nấng tôi trưởng thành từng ngày, từ năm 15 tuổi đến nay. Suốt 27 năm qua, lần nào được gặp thầy, tôi cũng thấy như mình được gặp nắng ấm từ nụ cười nồng hậu, ánh mắt hiền từ và cử chỉ, giọng nói nhẹ nhàng, từ tốn của thầy. Tiên ông đi xe đạp của những đứa học trò lớp 10 chúng tôi thuở ấy thực sự bước ra từ cổ tích và khiến chúng tôi thêm yêu cổ tích vì khi nhìn thấy thầy, chúng tôi có thể tin một cách chắc chắn rằng: cổ tích có thật giữa cuộc đời này.

Hồ Khánh Vân [1]


[1] TS. Phó trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.

Tiểu dẫn :

Năm 2013 trong chương trình hợp tác giữa các nhà nghiên cứu ở Đại học Đài Bắc (Đài Loan) và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM (Việt Nam) về các nhà Trung Quốc học thế giới đã chọn GS. Huỳnh Minh Đức là một trong 20 nhà Trung Quốc học tiêu biểu ở Việt Nam. Bài phỏng vấn dưới đây do TS. Nguyễn Ngọc Quận thực hiện từ chương trình đó.  

20230910

Lời dẫn về GS. Huỳnh Minh Đức: Thuở nhỏ, ông ở nhà bố mẹ bên bờ sông Đồng Nai, TP. Biên Hoà. Khi có gia đình riêng ông ở nhà số 26 lô H, cư xá Nguyễn Thiện Thuật, P.1, Q.3, TP.HCM. Những năm gần đây, ông về ở ngôi nhà cổ của cha mẹ để lại bên bờ sông Đồng Nai nói trên. Đầu tháng 9 năm 2023, GS. Huỳnh Minh Đức đã qua đời.

Các công trình chủ yếu:

  1. Thương hàn luận (Nxb. Đồng Nai, 1995),
  2. Dịch lý y lý (Nxb. Đồng Nai, 1998),
  3. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển I (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),
  4. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển II (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),
  5. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển III (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1990),
  6. Hoàng Đế nội kinh Tố vấn (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),
  7. Hoàng Đế nội kinh Nan kinh (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),
  8. Vấn đề Ngũ vận Lục khí trong Y học Đông phương (Nxb. Đồng Nai)
  9. Hán văn dành cho Y học Đông phương (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1988),
  10. Châm cứu thực hành­ Linh quy bát pháp (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986),
  11. Cẩm nang châm cứu thực hành Thái Ất thần châm cứu (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1987),
  12. Châm cứu thực hành Tý ngọ Lưu Chú (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986).

Bài nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam và văn học cổ Trung Quốc:

  1. “Tiểu thuyết Trung Quốc” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),
  2. “Vấn đề Lão tử và Đạo đức kinh” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),
  3. “Nhà Tây Chu và chế độ phong kiến” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),
  4. “Chung quanh hai chữ ‘Tây minh’ trong Lục Vân Tiên” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),
  5. “Hiếu trong đời Kiều” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

 

NỘI DUNG PHỎNG VẤN

Hỏi: Thưa ông, được biết trước đây ông học ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Xin ông cho biết là ông tốt nghiệp ĐH năm nào?

Đáp: Không nhớ. Lâu quá mà.

Hỏi: Được biết ngày xưa ông học Đại học văn khoa ngành Việt Hán, đúng không ạ?

Đáp: Đúng. Việt Hán.

Hỏi: Nghe nói thời đại học, ông là một SV xuất sắc, đặc biệt là rất giỏi tiếng Hán hiện đại. Được biết là lúc này ông có dịch sách chữ Hán ra Việt cho SV làm tài liệu học tập, có chuyện đó không?

Đáp: Tôi vô năm thứ Nhứt, bắt đầu dịch cuốn Trung quốc triết học sử, của Hồ Thích, và là SV duy nhất dịch cuốn sách này.

Hỏi: Thưa ông, tài liệu dịch đó được dùng cho SV năm thứ mấy?

Đáp: SV năm thứ Ba và năm thứ Tư.

Hỏi: Môn học gì cần tài liệu đó, và Giáo sư nào dạy môn đó, thưa ông?

Đáp: Môn Triết học Trung Quốc, GS. Nguyễn Đăng Thục dạy.

Hỏi: Ông được ĐH Văn khoa giữ lại trường làm giảng viên ĐH ngay sau khi tốt nghiệp ĐH, hay là sau một thời gian đã làm việc ở đâu?

Đáp: Sau một thời gian. Sau khi ra trường, tôi về dạy ở Trường Trung học Kiến Hoà, môn Việt văn ở Đệ nhị cấp. Trường này ở Bến Tre. Sau đó, Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục mời tôi về làm Chuyên viên về Hán văn.

Hỏi: Thời gian bao lâu sau đó thì ông được mời về giảng dạy ở ĐH văn khoa?

Đáp: Sau chừng hai năm.

Hỏi: Ông dịch quyển Trung Quốc triết học sử của tác giả Hồ Thích từ khi là SV năm thứ Nhất, và theo một số tài liệu trước đây thì ông hoàn thành bản thảo vào năm 1965, viết lời tựa ngày 15-8-1969, được cấp giấy phép xuất bản ngày 21-01-1970. Điều đó đúng không?

Đáp: Tôi dịch xong lúc còn trẻ lắm, còn nhỏ xíu hà.

Hỏi: Được biết, tác phẩm này đã được giải thưởng dịch thuật, xin ông cho biết rõ thêm điều này.

Đáp: Tác phẩm này được giải thưởng hạng Nhì toàn quốc về dịch thuật. Một người nữa cũng được giải dịch thuật hạng Nhì như tôi. Không có hạng Nhất.

Hỏi: Thưa ông, đơn vị, tổ chức nào cấp giải thưởng này?

Đáp: Đó là Phủ Quốc Vụ khanh đặc trách Văn hoá của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (ở Miền Nam) bấy giờ. Người ký tặng Giải thường này là ông Mai Thọ Truyền.

Chú thích: Trên Bằng GIẢI THƯỞNG DỊCH THUẬT (treo tại ngôi nhà cổ ở Biên Hoà nơi ông đang sống) có ghi thông tin: Giải nhì đồng hạng về loại tác phẩm: Hán văn của người ngoại quốc, dịch ra tiếng Việt về cuốn Trung Quốc Triết học sử của Hồ Thích, do Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá là ông Mai Thọ Truyền ký ngày 31/3/1971.

 Hỏi: Thưa ông, những SV của ông thường nhắc đến câu chuyện thú vị khi ông lên nhận giải thưởng trên lễ đài (GS. HMĐ bật cười: Khà khà). Cử toạ hôm ấy hầu hết là người cao tuổi đều tưởng là ông đi nhận thay cho bố ông, vì lúc này ông còn rất trẻ, ngoài dự đoán của mọi người! Đó là ấn tượng đẹp, khó quên trong đời ông. Ông còn nhớ chuyện ấy không?

Đáp: Những người đi nhận giải thưởng như tôi đều già hết, không ai tin là tôi nhận giải thưởng cho tôi. Họ tưởng tôi nhận thay cho bố tôi.

Hỏi: Ông còn nhớ hôm tổ chức trao giải thưởng là tại đâu không?

Đáp: Ở một trường học thuộc Quận 5.

Hỏi: Phần thưởng này có kèm theo tiền không ạ?

Đáp: Có. Về mua hai cái máy truyền hình.

Hỏi: Ngoài tấm Bằng dịch thuật đã nói, giải thưởng còn có bao nhiêu tiền?

Đáp: Hồi đó, vàng rẻ lắm (so với tiền thưởng).

Hỏi: Thế ông có mua vàng không?

Đáp: Không. Tiền tôi dùng in sách.

Hỏi: Được biết, ông làm Luận án Tiến sĩ, khi ở giai đoạn cuối, chưa bảo vệ thì phải dừng lại do sự kiện 30 tháng Tư (năm 1975), và kéo theo các cấp học Sau đại học bấy giờ tạm thời bị đứt đoạn. Xin hỏi, ông bắt đầu học Tiến sĩ từ năm nào, và do ai hướng dẫn?

Đáp: Tôi đậu bằng Cao học rồi, tôi thi vô Tiến sĩ, do GS. Bửu Cầm bảo trợ.

Hỏi: Cùng khoá với ông có ai nữa không?

Đáp: Đó là khoá học Tiến sĩ đầu tiên ở đây. Cùng khoá có hai người nữa.

Hỏi: Ông dự định năm nào làm xong và trình Luận án này?

Đáp: Tôi dự định giữa tháng 5 sẽ xin trình Luận án thì Giải phóng (chỉ sự kiện 30 tháng 4.1975). Luận án viết xong hết rồi.

Hỏi: Công trình Luận án này đến nay ông còn giữ không?

Đáp: Cái này (GS. HMĐ chỉ vào hai tập Luận án đóng bìa mềm, giấy A4, để trên bàn. Ở bìa có ghi: "Sự nghiệp chánh trị của Lương Khải Siêu qua văn chương của ông", Luận án Tiến sĩ văn chương Trung-Hoa, G.S. bảo trợ: G.S. Bửu Cầm, nguyên Giáo sư thực thụ ĐH Văn khoa Sài gòn, S.V. đệ trình: Huỳnh Minh-Đức, nguyên Giảng sư ĐH Văn khoa Sàigòn, Tập 1, và Tập 2 cũng trình bày như trên, tổng cộng 494 trang).

Hỏi: Được biết cùng làm Tiến sĩ một khoá với ông có GS. Nguyễn Khuê và GS. Nguyễn Tri Tài. Đúng vậy không, thưa ông?

Đáp: Đúng vậy. Giáo sư Nguyễn Tri Tài làm về Triết học, Giáo sư Nguyễn Khuê làm về văn chương Việt Nam, về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (GS. Khuê đã làm Cao học về thơ văn Tương An Quận Vương). Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn mở khóa tiến sĩ đầu tiên năm 1972. Riêng ban Hán văn, từ 1972 đến 1975, mở được 3 khóa tiến sĩ chuyên khoa Hán văn. Tôi học khóa 1, cùng khóa có các bạn đồng nghiệp Nguyễn Khuê, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Dương và Trần Như Uyên. Luận án tiến sĩ của tôi làm về văn chương Trung Hoa, do thầy Bửu Cầm là Giáo sư thực thụ hướng dẫn. Thực ra, vào thời điểm 30 tháng 4 không chỉ riêng tôi mà cả Giáo sư Nguyễn Khuê và Giáo sư Nguyễn Tri Tài đều đang làm luận án ở giai đoạn cuối đều phải dừng lại việc học tiến sĩ. Chúng tôi dự kiến sẽ bảo vệ học vị tiến sĩ trong năm 1975, hoặc trễ nữa là năm 1976. Riêng tôi thì như đã nói, đến thời điểm đó, Luận án của tôi đã viết xong.

Hỏi: Ông đã dịch, chú giải, và xuất bản cuốn Văn học sử Trung Quốc của Dịch Quân Tả, do nhà Minh Tâm xuất bản và phát hành ngày 12/4/1975, với số lượng 1000 bản. Như vậy, sách này bắt đầu phát được hơn 2 tuần thì Giải phóng, ông nhớ là đã tiêu thụ được nhiều không?

Đáp: Số lượng ấn bản được tiêu thụ rất ít, còn lại sau đó tôi phải bán như giấy vụn, cho người ta gói đậu phụng.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ, đó mới là quyển I trong bộ sách Trung Quốc văn học sử gồm 3 quyển (Q.I: từ Kinh Thi đến Văn học Lưỡng Tấn-Nam Bắc triều, Q.II: từ Đường đến Nguyên, Q.III: từ Minh đến Dân Quốc). Xin ông cho biết, khi công bố bản dịch này, ông đã có kế hoạch dịch tiếp hai quyển còn lại của bộ sách chưa?

Đáp: Tôi biết đánh máy chữ Hán. Thời đó ở Sài Gòn chưa ai biết. Sau Giải phóng tôi dịch tiếp các quyển còn lại, và cho xuất bản.

Hỏi: Theo ông cho biết, sau Giải phóng ông đã tiếp tục dịch các quyển tiếp theo. Sau đó, ông đã cho gộp lại với quyển I (in 1975), thành quyển Văn học sử Trung Quốc, (quyển I), và Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 1992, số lượng 800 cuốn, khổ 14x20. Quyển 1 lúc này có nội dung lớn hơn vì có thêm hai chương; đó là Chương VI- Đường thi, và Chương VII- Đường văn và Truyền kỳ tiểu thuyết. Vì vậy số lượng trang của quyển sách lúc này rất lớn, 567 trang). Theo dự định, quyển II có nội dung từ Vãn Đường cho đến Dân quốc là hết (gồm Chương VIII- Vãn Đường, Ngũ đại và Tống từ, Chương IX- Tống thi, văn và tiểu thuyết, hí kịch, Chương X- Nguyên khúc, Chương XI- Văn học đời Minh, Chương XII- Văn học đời Thanh, Chương XIII- Văn học thời Dân quốc). Vậy ông đã dịch hết bộ sách này chưa?

Đáp: Lúc đó tôi thức nhiều quá, nên sinh bệnh. Văn học, Triết học, tôi biết hết.

Hỏi: Xin ông cho biết, bản Hán văn của Dịch Quân Tả nói trên, ngoài ông ra còn có ai dịch bản này sang tiếng Việt không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Ông có thể cho biết thêm thông tin về lam bản bộ sách này không?

Đáp: Lam bản có khổ khá lớn, chữ phồn thể, xuất bản ở Hongkong.

Hỏi: Thưa ông, nếu nay có người học trò của ông muốn xin phép ông, tiếp tục công việc của ông, tức dịch tiếp phần còn lại của bộ sách đó, đặt tên là quyển II, và người đó đứng tên phần dịch của mình, ý ông như thế nào?

Đáp: Được không? (cười, và gật gù)

Hỏi: Một vài học trò cũ của ông nay là giảng viên ĐH, mốn xin chụp lam bản quyển sách nói trên và cùng hợp tác nhau dịch tiếp phần còn lại đó, để có trọn một bộ sách dịch hoàn chỉnh, xem như một kỷ niệm tốt đẹp cùng sư phụ của mình. Ông thấy được không ạ?

Đáp: Được, được!

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, được biết vào thời điểm tháng 4/1975, khi ông sắp cho xuất bản công trình Hán văn quyển 2, Triết học chính trị cổ đại Trung Quốc: Lễ ký, Hán phú, và Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu, tức là quyển Luận án Tiến sĩ văn chương Trung Hoa của ông. Tuy nhiên, cho đến nay, độc giả vẫn chưa được hân hạnh đón nhận những ấn phẩm này. Vậy thưa ông, cho đến bây giờ đã có công trình nào trong số này của ông đã hoàn thành bản thảo chưa? Và có định công bố không ạ?

Đáp: (đưa tay khoát) Thôi!

Hỏi: Thưa ông, bây giờ, trước mặt ông đang có quyển Luận án của ông. Nếu không có sự kiện 30 tháng 4/1975 thì khoảng giữa 1975 có lẽ ông sẽ cho xuất bản quyển sách này. Tuy nhiên, cho đến nay thì công trình này của ông vẫn chưa được công bố. Nếu được, trong tương lai không xa, khi ông khoẻ thì ông có thể xem lại, và cho xuất bản công trình này. Và đó sẽ là một tài liệu có giá trị học thuật. Vì từ 1975 đến nay, chúng tôi được biết là chưa có công trình nào quy mô nghiên cứu về Lương Khải Siêu như Luận án của ông. Ngoài ra, thưa ông, ông từng biên soạn cuốn sách có tên Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện trong thời gian khá lâu, và đã được công chúng đánh giá như là một kỳ công, và xem ông như một nhà Huế học. Phải chăng thành phố Huế và các công trình kiến trúc của các vua triều Nguyễn có sức hấp dẫn với ông từ lâu, ít ra là từ cái thời Viện Đại học Huế mời ông ra giảng dạy trước năm 1975? Các công trình kiến trúc ở Huế phải chăng đã tạo cho ông một sự chú ý, đã lôi cuốn, hấp dẫn ông từ những năm trước 1975, và đó là nguyên nhân, là tâm tình đầu tiên khiến ông nghiên cứu về đề tài Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện, có phải vậy không ạ?

Đáp: Tui phải gan dạ lắm mới dám làm. Bút sa gà chết. Làm mà sai, Huế họ chửi chết! Trên thực tế, từ Ngọ môn tới Thái Hoà điện, nhất là trong lăng Tự Đức, có rất nhiều câu thơ đặt không đúng vị trí của nó. Và tôi là người khám phá ra trật tự những câu thơ này, và sắp xếp chúng lại, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải cẩn thận. Đây là việc làm rất công phu, rất quy mô, và công bố trong công trình Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện, có sức hấp dẫn, lôi cuốn và đầy sức thuyết phục đối với bạn đọc. Tôi cho là lối kiến trúc của các vua chúa triều Nguyễn ở Huế đã có ảnh hưởng rất lớn đối với học thuật, đối với văn hoá và đối với nền triết học nước nhà.

Hỏi: Trước 1975, Đại học Huế mời ông ra dạy. Xa xôi thế, làm sao ông đi được?

Đáp: Tôi đi máy bay. Đi hoài, đi mấy chục bận.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ ra Huế ông dạy môn gì ạ?

Đáp: Tôi dạy Hán văn và tiếng Quan thoại.

Hỏi: Thưa ông, Luận văn Cao học của ông viết về đề tài gì?

Đáp: Đề tài Luận văn cao học của tôi là "Hồ Thích và cuộc vận động Tân văn học". Còn đề tài Luận án tiến sĩ cuả tôi là làm về Lương Khải Siêu (Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu).

Hỏi: Ông có kỷ niệm gì về việc dạy sinh viên học chữ Hán ở Huế những năm trước 1975 không ạ?

Đáp: Sinh viên rất thích học. Tôi là người dẫn sinh viên đến lăng Tự Đức, ra nhà thuỷ tạ.

Hỏi: Thưa ông, Ông nhiều lần nhắc tới GS. Bửu Cầm, Nguyễn Đăng Thục, Lê Thành Trị. Các vị đó có tác động đến ông như thế nào trong đam mê học hỏi, nghiên cứu, và cả về cách làm việc, phong cách nghiên cứu và nhân cách sống? Họ có ảnh hưởng như thế nào đối với ông?

Đáp: Ông Bửu Cầm làm việc rất cẩn thận, luôn chú trọng Tứ thư, Ngũ kinh. Còn Lê Thành Trị dạy Triết Tây, dạy Logic. Nguyễn Đăng Thục dạy về Triết Đông. Giáo sư Bửu Cầm dạy Cổ văn.

Hỏi: Thời ông học thì ai dạy chữ Nôm?

Đáp: Không ai dạy chữ Nôm. Chữ Nôm là tự học.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ các Giáo sư như ông đều rất giỏi chữ Nôm mà sao không dạy cho sinh viên?

Đáp: Bấy giờ, trong chương trình học không có môn này. Chỉ học chữ Hán.

Hỏi: Thưa ông, về nhân cách sống của các giáo sư nổi tiếng ở ĐH Văn khoa bấy giờ như GS. Bửu Cầm, Nguyễn Đăng Thục, Lê Thành Trị, ông thấy thế nào?

Đáp: Ông Bửu Cầm rất trong sáng, thanh bạch, sống nghèo. Ông Thục với ông Cầm đều là người sĩ khí.

Hỏi: Xin lỗi ông, xin phép tò mò hỏi ông điều này. Ông và nhiều Giáo sư ĐH trước 1975 đều có xe hơi. Vậy tiền sắm xe hơi có phải là tiền lương không?

Đáp: Đó là nhờ có đi làm thêm. Đi dạy thêm.

Hỏi: Nghe nói, tiền lương của các giáo sư ĐH lúc đó rất cao, mỗi tháng ngoài chi tiêu ra có thể dành dụm mua được vài lượng vàng, đúng không?

Đáp: Vâng, lương cao lắm. Sống được. Nhưng tôi cũng còn nghèo vì cái vụ này (Ông chỉ vào đống sách mà ông là soạn giả). Nên tôi phải đi dạy thêm, kiếm thêm tiền. Tôi chỉ mê nghiên cứu và viết sách, có bao nhiêu tiền tôi chuẩn bị cho việc in sách. Việc làm của tôi chỉ có tôi biết, trong nhà không ai biết hết. Tôi luôn bị bà xã phàn nàn vì thức khuya nhiều quá.

Hỏi: Có phải vợ ông lo ông bị bệnh không?

Đáp: Đúng vậy. Từ khi có máy vi tính, tôi luôn thức khuya, và có lẽ làm quá sức nên tôi đã bị bệnh. (Ông lật vài trang giấy ở một cuốn sách và nói) Làm một cuốn như thế này cũng đã quá mệt. Nhưng tôi đã làm nhiều cuốn như thế, anh biết đó.

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, trong các vị giáo sư ở ĐH Văn khoa bấy giờ, thì ai là người mà ông chịu ảnh hưởng nhiều nhất, để lại ấn tượng cho ông mạnh mẽ nhất?

Đáp: Giáo sư Bửu Cầm. Ông Cầm dạy tôi không nhiều, nhưng nhân cách và tác phong của ông thì tôi rất thích. Ông mỗi khi khảo cứu vấn đề gì vẫn luôn chú thích rất cặn kẽ. Bản thân tôi đã chịu ảnh hưởng của GS. Bửu Cầm về mặt này. Sau 1975, khi dạy sinh viên học, tôi vẫn thường hay nhắc đến GS. Bửu Cầm như một tấm gương sáng, rất đáng quý.

Hỏi: Trong thư tịch cổ Trung Quốc, ông quan tâm mảng nào nhiều nhất, vì sao?

Đáp: Tứ thư, Ngũ kinh.

Hỏi: Ông từng giảng dạy ở ĐH Văn khoa (từ trước 1975 đến sau 1975 một thời gian ngắn), và sau đổi tên thành ĐH Tổng hợp TP.HCM. Vậy ngoài đại học này, ông còn tham gia giảng dạy đại học nào ở Miền Nam nữa không?

Đáp: Có. Tôi trước Giải phóng có dạy các Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Cần Thơ, Hoà Hảo.

Hỏi: Thưa ông, thời đó mà ông đi dạy các đại học Đà Lạt, Cần Thơ thì bằng phương tiện gì ạ?

Đáp: (cười) Đi máy bay không hà.

Hỏi: Ông có quyển sách nhan đề Hán văn dành cho Y học Đông phương, ngoài ra chúng tôi được biết từ trước 1975 ông từng biên soạn sách học Hán văn cho người Việt. Những sách này ông biên soạn dựa vào tài liệu nào, Trung Quốc hay Việt Nam?

Đáp: Bộ sách có tên Hán văn tôi soạn cho sinh viên ĐH Văn khoa (do nhà Minh Trí xuất bản năm 1973). Hai sách trên đều được biên soạn dựa theo tài liệu của Trung Quốc.

Hỏi: Thưa ông, chúng tôi được biết, những thập niên gần đây, ông có hàng chục đầu sách soạn hoặc dịch về Đông y và rất được công chúng hoan nghênh. Xin ông cho biết cơ duyên nào đã đưa ông đến với Đông y một cách say mê như thế?

Đáp: Tôi đến với Đông y say mê bởi vì nó hấp dẫn quá, mà ở Việt Nam hầu như chưa ai biết đến nhiều. Tây y nhiều người giỏi, nhưng Tây y hầu như không biết gì về Đông y. Một số "ông lớn" chuyên Tây y mà viết về Đông y, tôi thấy đều làm ẩu, không đúng. Bộ Linh khu này (ông chỉ bộ sách trên bàn, có tên Hoàng Đế Nội kinh Linh khu) do tôi dịch và chú giải, gồm 3 quyển, vừa rồi được tái bản.

Hỏi: Thưa ông, bộ sách Linh khu này tôi thử giở đọc một số trang, nhưng chẳng hiểu gì. Vậy làm thế nào để có thể hiểu được?

Đáp: (cười) Sách này dùng cho giới chuyên môn, dành cho những ai chuyên nghiên cứu về Đông y.

Hỏi: Được biết là về cuối đời ông mới nghiên cứu về Đông y, chứ trước đây ông chỉ nghiên cứu về văn học và triết học Trung Quốc thôi, có đúng vậy không?

Đáp: Đông y quá hấp dẫn đối với tôi, nhất là khi tôi đã có tuổi, có nhiều chiêm nghiệm từ Triết học Trung Quốc.

Hỏi: Thưa ông, các sách về Đông y của ông được soạn theo tài liệu của Trung Quốc hay Việt Nam?

Đáp: Theo tài liệu của Trung Quốc hết.

Hỏi: Các sách về Đông y của Trung Quốc do ông sưu tầm hay tìm ở đâu ạ?

Đáp: Phần lớn là của ông ông nội tôi để lại.

Hỏi: Chữ viết tay hay in?

Đáp: Đều là sách in (NNQ: nhưng ông không cho biết là in bản gỗ hay in đồng).

Hỏi: Như vậy có phải nhờ nghiên cứu Triết học Trung Quốc mà ông có nhiều lợi thế trong việc nghiên cứu Đông y hay không?

Đáp: Đúng vậy. Nó là một (ông đưa ngón tay trỏ lên và vẽ một vòng tròn trong không trung theo chiều kim đồng hồ). Triết học Trung Quốc được vận dụng vào Y học từ lâu đời rồi.

Hỏi: Và có phải ai muốn nghiên cứu về Đông y thì buộc phải biết chữ Hán không?

Đáp: Đúng, phải biết chữ Hán, phải biết Kinh Dịch, biết Triết học Trung Quốc thì mới có thể nghiên cứu sâu về Đông y được (ông cầm một bản dịch Chu Dịch đưa lên).

Hỏi: Thưa ông, sau 1975, việc dạy Bạch thoại của ông có trở ngại gì không ạ?

Đáp: Sau Giải phóng (30.4.1975), Công an không cho dạy Bạch thoại. Tuy nhiên, cho đến khi đất nước mở cửa (từ 1986, 1987) thì việc dạy Bạch thoại được khôi phục, và tôi được mời dạy rất nhiều nơi ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Việc tôi chủ trương dạy chữ Hán phồn thể và phản đối chữ Hán giản thể làm cho nhiều người không thích, cho rằng tôi theo Đài Loan, theo Thế giới tự do chứ không theo Trung Quốc lục địa.

Hỏi: Ông đã bỏ công nghiên cứu về triết học Trung Quốc từ thời còn rất trẻ. Ngoài việc dịch bộ Trung Quốc triết học sử của Hồ Thích, ông còn dự định dịch cả Trung Quốc triết học sử của Phùng Hữu Lan. Phải chăng chính Triết học Trung Quốc đã giúp ông thâm nhập Y học phương Đông một cách thuận lợi?

Đáp: Phải rồi.

Hỏi: Thưa ông, từ sau 30 tháng 4 năm 1975, Đại học Văn khoa, mà nay là trường ĐHKHXH&NV TP.HCM, vẫn duy trì và không ngừng củng cố Bộ môn Hán Nôm. Theo ông, tên gọi "Bộ môn Hán Nôm" tại nhiều ĐH trong nước nói chung và trong trường ĐHKHXH&NV, nơi ông được đào tạo và từng làm việc nói riêng, có phản ánh đúng nhiệm vụ và chức năng của nó không?

Đáp: (lắc đầu, đưa tay qua lại tỏ ý phản đối) Không đúng, không đúng.

Hỏi: Theo ông nên gọi là gì?

Đáp: Phải gọi là Việt Hán.

Hỏi: Thưa ông, ĐH Văn khoa trước 1975 có một đội ngũ rất mạnh nghiên cứu về Cổ văn Trung Quốc, về văn Bạch thoại, cũng như thơ văn chữ Hán chữ Nôm của Việt Nam. Xin ông cho biết tên gọi của nhóm nghiên cứu này là gì?

Đáp: Trước 1975, đơn vị mà các giáo sư làm việc, nghiên cứu về Hán Nôm gọi là Ban Việt Hán, chứ không gọi Bộ môn Hán Nôm hay Tổ Hán Nôm như hiện nay. Gọi là Việt Hán mới là cách gọi đúng.

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, ngoài những sách mà chúng tôi vừa nhắc ở trên thì ông còn có công trình nào khác nghiên cứu về Hán Nôm nữa không ạ?

Đáp: Những quyển này (chỉ những quyển sách ông đã soạn sẵn ra bàn trước khi trả lời phỏng vấn). Về sách đã xuất bản trước 30 tháng 4 năm 1975 ở Sài Gòn, ngoài Trung Quốc triết học sử (nhà Khai trí xuất bản, 1970, 746 trang, dịch từ nguyên bản Hán văn của Hồ Thích) và Văn học sử Trung Quốc (nhà Minh Tâm xuất bản, 1975, 396 trang, dịch từ nguyên bản Hán văn Trung Quốc văn học sử của Dịch Quân Tả) như nói ở trên, tôi còn có: Hồ Thích và cuộc vận động Tân văn học (biên khảo, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục xuất bản, 1972, 390 trang), Hán văn (dành cho sinh viên Đại học Văn khoa, nhà Minh Trí xuất bản). Sau 1975, ngoài công trình Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện (khổ 20x28cm, 198 trang, Nxb. Trẻ, 1994) như đã nhắc tới ở trên, tôi còn biên soạn Giáo trình Triết học Trung Quốc (Bộ môn Châu Á học, Đại học Tổng hợp TP.HCM) và công bố một số công trình biên soạn, dịch Hán-Việt khác về y học sau:

1/ Thương hàn luận (Nxb. Đồng Nai, 1995),

2/ Dịch lý y lý (Nxb. Đồng Nai, 1998),

3/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển I (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),

4/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển II (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),

5/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển III (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1990),

6/ Hoàng Đế nội kinh Tố vấn (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),

7/ Hoàng Đế nội kinh Nan kinh (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),

8/ Vấn đề Ngũ vận Lục khí trong Y học Đông phương (Nxb. Đồng Nai)

9/ Hán văn dành cho Y học Đông phương (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1988),

10/ Châm cứu thực hành­ Linh quy bát pháp (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986),

11/ Cẩm nang châm cứu thực hành Thái Ất thần châm cứu (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1987),

12/ Châm cứu thực hành Tý ngọ Lưu Chú (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986).

Về khảo luận, tôi đã công bố 5 bài nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam, văn học cổ Trung Quốc:

1/ “Tiểu thuyết Trung Quốc” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

2/ “Vấn đề Lão tử và Đạo đức kinh” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

3/ “Nhà Tây Chu và chế độ phong kiến” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),

4/ “Chung quanh hai chữ ‘Tây minh’ trong Lục Vân Tiên” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),

5/ “Hiếu trong đời Kiều” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

Cùng một số bài khảo luận về Y học đông phương, đăng ở tạp chí Y học cổ truyền Đông phương sau 1975.

Và như đã nói ở trên, bản dịch và chú giải Văn học sử Trung Quốc, Q.1, do nhà Minh Tâm xuất bản năm 1975 đã được Nhà xuất bản Trẻ in lại năm 1992, với nội dung có thêm hai chương, nên số trang lên đến 567 trang.

Hỏi: Xin trở lại vấn đề nghiên cứu Trung Quốc của ông trước 1975. Triết học Trung Quốc mà ông quan tâm rất sớm qua tài liệu văn bản Hán văn, theo ông, những vấn đề nào là cốt lõi nhất, những vấn đề nào để lại cho ông ấn tượng sâu sắc nhất?

Đáp: Ấn tượng nhất là Tứ thư, Ngũ kinh.

Hỏi: Nhưng theo ông thì vấn đề nào là cốt lõi nhất trong Triết học Trung Quốc?

Đáp: Cốt lõi nhất là: Nhân, Nghĩa. Đạo, Nhơn đạo, Chính đạo, Thiên đạo, Vô vi.

Hỏi: Trong văn học Trung Quốc từ Kinh Thi đến Dân Quốc, giai đoạn nào theo ông là rực rỡ nhất?

Đáp: Mỗi thời kỳ có một giai đoạn rực rỡ của nó.

Hỏi: Theo ông, về ảnh hưởng của văn học cổ điển Trung Quốc đối với văn hoá và văn học Việt Nam, ảnh hưởng lớn nhất là ở những điểm nào?

Đáp: Ảnh hưởng lớn nhất là ở Triết học.

Hỏi: Còn sau Triết học là gì?

Đáp: Sau Triết học là Văn học, Y học. Như cái cây kia (chỉ ra cây ngoài vườn), hoa lá là Văn học, thân cây là Triết học, rễ cây là Y học. Nếu không có rễ cây, sẽ không có hoa lá.

Hỏi: Thưa ông, trong luận án tiến sĩ Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu, ông tâm đắc Lương Khải Siêu ở điểm nào nhiều nhất?

Đáp: Ông Lương Khải Siêu có sáng kiến, không phản đối phong kiến, phản đối Cộng hoà, muốn một đất nước danh nghĩa là một nước có vua, giống như Anh, Nhật. Ông nhiều lần nói như vậy. Nhưng bà Từ Hy không nghe, ỷ mình đàn bà nắm quyền.

Hỏi: Xin cám ơn ông rất nhiều. Được biết, ngoài chuyên môn là nghiên cứu Hán Văn, Trung văn, ông còn quan tâm không ít về lãnh vực âm nhạc. Xin ông cho biết ngành âm nhạc nào ông quan tâm nhiều nhất, vì sao? Và hình như ông cũng có quan tâm lãnh vực võ thuật, có đúng không ạ?

Đáp: (cười) Võ thuật thì tôi không biết. Âm nhạc thì tôi biết đờn, biết hát cổ nhạc. Tôi biết chơi Hạ-uy cầm, mà nay gọi là đờn Hạ Uy Di đó. Loại đàn này có kiểu dáng tương tự guitar điện, nhưng khi chơi thì đặt đàn nằm ngang trên hai đùi, tay trái vuốt phím, tay phải đeo móng gãy lên dây đàn. Khi biểu diễn thì đeo một lẳng hoa dài ở cổ, theo phong cách của người Hạ Uy Di (Hawaii). Tôi rất thích chơi đàn này từ hồi trẻ, và đã từng trình diễn trước công chúng. Tôi phát hiện ra rằng, Hạ-uy cầm có thể chơi cả tân nhạc lẫn cổ nhạc, nhất là Vọng cổ.

Hỏi: Xin trở lại lãnh vực chuyên môn của ông. Thưa ông, ngoài việc nghiên cứu Triết học Trung Quốc, Văn học Trung Quốc cổ đại, ông còn nghiên cứu văn Bạch thoại. Ông có nhiều năm tham gia giảng dạy Trung văn, vậy theo kinh nghiệm của ông thì nên dạy và nên học tiếng Quan thoại như thế nào cho có hiệu quả cao nhất?

Đáp: Muốn giảng dạy cho có hiệu quả cao thì trước hết, người thầy phải cho giỏi cái đã, thầy phải say mê với nghề, với đối tượng nghiên cứu của mình, thì học trò mới giỏi được.

Hỏi: Đó là phần người thầy, còn người học thì thế nào?

Đáp: Bây giờ, không được bắt chước nhiều nơi mà học chữ giản thể. Học chữ giản thể thì người học không thể giỏi. Phải học chữ phồn thể thì mới giỏi được. Người học cũng phải say mê. Thầy giỏi, học trò cũng phải giỏi.

Hỏi: Thưa ông, xin hỏi ông một câu cuối cùng. Những năm gần đây, do sức khoẻ yếu ở tuổi già, ông đành gác bút để dưỡng sức. Xin ông cho một lời khuyên đối với thế hệ trẻ nói chung, và sinh viên ngành Hán Nôm hiện nay nói riêng.

Đáp: Học Hán Nôm thì không giàu được, không có tiền, khác với học vi tính, Anh văn hay học toán. Dạy vi tính, dạy Anh văn, dạy toán, lý, hoá, sinh học… là giáo.

Hỏi: Xin lỗi, ông vừa nói dạy các môn trên là "giáo" là thế nào ạ?

Đáp: "Giáo" là dạy cái mới, dạy kiến thức. Còn "dục" là dạy con người, dạy làm người.

Hỏi: Vậy, thưa ông, dạy con người là dạy cái gì ạ?

Đáp: Là dạy làm người, dạy cho học trò trở thành người tốt trong xã hội, người con tốt đối với cha mẹ, bạn tốt đối với bạn hữu, công dân tốt, thành viên ưu tú của xã hội. Đó là ”dục".

Người thực hiện phỏng vấn: Thưa ông, chúng tôi hết sức cám ơn ông đã nhiệt tình hợp tác với chúng tôi, thực hiện thành công buổi phỏng vấn này. Kính chúc ông sức khoẻ!

- HẾT -

PGS.TS Trần Hữu Tá, chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, nguyên trưởng khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, nguyên hiệu trưởng Trường THPT Trương Vĩnh Ký, vừa qua đời tối 27-11, thượng thọ 86 tuổi.

20221127 4

PGS.TS Trần Hữu Tá - Ảnh: VĨNH THẮNG

Thầy Tá bắt đầu dạy học năm 20 tuổi từ bậc phổ thông rồi sau này chuyển lên giảng dạy ở bậc đại học. Ông là chủ biên sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 11, đồng chủ biên sách giáo khoa ngữ văn lớp 12 (chương trình cũ). Ông cũng là tác giả hàng chục cuốn sách văn học cùng nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học đăng trên các tờ báo của cả nước.

Thầy Trần Hữu Tá là một nhà giáo, nhà quản lý, nhà nghiên cứu phê bình văn học, có nhiều đóng góp cho nền giáo dục nước nhà.  

Trong những năm qua, ông là cái tên quen thuộc trên nhiều tờ báo với các bài viết, trả lời phỏng vấn về những vấn đề mang tính cấp thiết đối với ngành giáo dục. Đó là việc thay đổi chế độ tiền lương cho nhà giáo, chăm lo đời sống các thầy cô giáo ở vùng sâu vùng xa để họ đủ sống một cuộc sống tận tâm, tận lực với nghề dạy học. 

Ngoài ra, thầy Tá còn hiến kế cho ngành giáo dục những vấn đề mang tính chuyên môn nóng bỏng như việc đào tạo đội ngũ giáo viên, tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông, tuyển sinh đại học, cải tiến hoạt động quản lý và giảng dạy... 

Hoàng Hương
Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 27.11.2022.

Thiếu cơ sở đào tạo chính quy cùng với nỗi lo thu nhập là nguyên nhân phổ biến gây ra việc thiếu những biên kịch đủ thực lực.

Những khoảng trống trong đào tạo chính quy

Tính đến năm 2023, cả nước hiện có duy nhất Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội đào tạo ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình. Còn ở miền Nam, khoa Văn học (trực thuộc Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM) mở chuyên ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình trực thuộc khoa Văn học được 4 năm.

Chuyên ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình thuộc khoa Văn học duy trì tuyển sinh 45 sinh viên/khóa từ khi thành lập. Các sinh viên sau khi học xong năm nhất tại khoa Văn học muốn theo chuyên ngành sẽ làm một bài thi gồm xem phim và đưa ra đánh giá, phân tích ngôn ngữ điện ảnh. Còn Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội sẽ tổ chức thi năng khiếu qua 2 vòng thi gồm sáng tác tác phẩm trong 180 phút và vấn đáp.

Trao đổi với Thanh Niên, tiến sĩ Đào Lê Na, Trưởng bộ môn Sáng tác và Phê bình Sân khấu - Điện ảnh, khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, cho biết, nhu cầu biên kịch tại các công ty truyền thông đa nền tảng hiện nay rất lớn nhưng khó tuyển được người do thiếu chương trình đào tạo bài bản để có được lực lượng nhà biên kịch đủ giỏi.

"Với tôi, hạn chế của các biên kịch trẻ hiện nay là không có nhiều cơ hội được sửa kịch bản chi tiết. Với những bạn không học chính quy thường tìm đến những khóa học ngắn hạn. Những khóa học này tuy có thể cung cấp đủ kiến thức để làm nghề nhưng không đủ thời lượng để sửa bài cho học viên. Nguyên nhân khiến phim Việt không nhận được nhiều phản hồi tích cực một phần do kịch bản còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng được tính logic và khả năng kể chuyện của biên kịch chưa chặt chẽ", tiến sĩ Lê Na chia sẻ.

Đồng tình với quan điểm trên, biên kịch Hạnh Ngộ, giảng viên giảng dạy môn biên kịch phim truyện tại Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh TP.HCM, cho biết: "Theo tôi thì số lượng không nhiều để chọn, trung bình 10 tác phẩm viết ra thì cũng chỉ chọn được tầm 3 tác phẩm".

20230331 3Bạn trẻ muốn theo đuổi nghề biên kịch cần luyện tập khả năng quan sát, tính kiên nhẫn và chấp nhận thất bại - SHUTTERSTOCK

Hiện nay, hàng loạt công ty truyền thông đa phương tiện ra đời cùng với những hãng phim chuyên nghiệp có nhu cầu sản xuất hàng loạt phim truyện, tài liệu, điện ảnh… Tuy nhiên, "cung không đủ cầu" dẫn đến tình trạng thiếu hụt kịch bản hoặc không dùng được vì khác biệt giữa nội dung và cách thể hiện, khả năng sản xuất, theo biên kịch Hạnh Ngộ.

Ít được định hướng và không đảm bảo thu nhập cũng là một nguyên nhân khiến cho nhiều người trẻ còn ngần ngại lựa chọn học ngành này. Với những biên kịch tự do, nếu kịch bản không đủ tốt để các nhà làm phim chi tiền thực hiện hoặc không hợp với nhu cầu của thị trường thì tác phẩm không bán được.

Thực tế cho thấy các biên kịch hiện tại ở TP.HCM làm việc cho những hãng phim lớn và đài truyền hình hầu hết xuất thân từ chuyên ngành đạo diễn, văn học, báo chí và một số trưởng thành từ những khóa học biên kịch ngắn hạn. Cũng theo biên kịch Hạnh Ngộ, các bạn trẻ hiện nay quan tâm đến ngành biên kịch là đúng hướng, đúng xu thế, vì nghề này vẫn còn rất nhiều khoảng trống để các bạn thử sức và phát triển.

Cần chuẩn bị gì để theo nghề?

Trong talkshow "Nghề biên kịch: Từ trang giấy đến màn bạc" tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM vào cuối tháng 2 vừa qua, các khách mời cũng đã có những chia sẻ về hành trình làm nghề và cơ hội nghề nghiệp đến sinh viên.

Với những bạn trẻ mong muốn tìm cơ hội với nghề biên kịch phim, hai khách mời đều khuyến khích tận dụng mọi cơ hội từ những cuộc thi và dự án phim ngắn chiếu mạng. 

Đạo diễn Phan Đăng Di, người đứng sau loạt phim điện ảnh được công chiếu tại Liên hoan phim Quốc tế như Khi tôi hai mươiCha và con… cho rằng bạn trẻ nên luyện tập khả năng quan sát, tính kiên nhẫn và chấp nhận thất bại.

Nghề biên kịch 'hot' nhưng khó tuyển được người - Ảnh 2.

Đạo diễn Phan Đăng Di khuyên các bạn trẻ nên dành thời gian để đọc sách và báo nhiều hơn (Ảnh: CLB Sân khấu và Điện ảnh, khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM)

Từ kinh nghiệm đi dạy tại các trường ĐH, anh nhận thấy người trẻ hiện nay lười đọc, thiếu sự nhẫn nại. "Bởi nghề biên kịch đòi hỏi sự tập trung và khả năng phản biện cao nên những bạn không thể dành thời gian để đọc sách, báo thì chưa đủ đam mê để theo nghề", anh Đăng Di lưu ý.

Nhà sản xuất - biên kịch Nhi Bùi lưu ý, bạn trẻ hãy luyện tập khả năng quan sát và lắng nghe những câu chuyện xảy ra quanh mình để làm phong phú vốn sống bên cạnh việc học lý thuyết từ sách vở.

Trâm Trần

Nguồn: Thanh niên, ngày 15.3.2023.

Tôi chỉ được học thầy Hoàng Như Mai một số tiết học về văn học Việt Nam cận-hiện đại và một chuyên đề về kịch tại Khoa Ngữ-Văn Đại học Tổng hợp vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Tôi là học trò thật, nhưng thâm tâm, không dám nhận mình là trò vì các thầy lớn quá, là thầy của các bậc thầy mấy bậc.

20221120

Giáo sư Hoàng Như Mai là một người thầy đức độ, tài hoa.

Như thầy Đinh Gia Khánh, Giáo sư dạy về văn học dân gian, nhưng từ Hán Nôm đến ngôn ngữ, từ văn học Phương Tây đến Phương Đông, cái gì cũng thông tuệ. Có lần, Thư viện tỉnh Hà Đông mời thầy đến nói chuyện. Thầy bận việc đột xuất, anh thư viện mếu máo, nhờ thầy giới thiệu người khác thay. Thầy nói: “Ai thay tôi được? Việt Nam chỉ có một Đinh Gia Khánh”!

Đấy là cách nói hài hước, là tính cách, nhưng cũng là một sự thật.

Chúng tôi nhớ các thầy mình ở Trường Tổng hợp vì kiến thức đã đành, nhưng nhớ nhiều ở tính cách “mỗi người một vẻ”. Như thầy Hoàng Xuân Nhị, một người từ Pháp về nước theo Lời kêu gọi của Bác Hồ từ trong kháng chiến, thường gọi học trò là các đồng chí, giảng Nhật ký trong tù lúc nào cũng khóc vì thương Bác. Tiếng Nga tự học trong ít tháng mà dịch cả bộ Lịch sử văn học Nga.

Thầy Nguyễn Tài Cẩn đi bình bịch nhưng lúc nào cũng mang điếu thuốc lào, đến giảng muộn giờ thì nhảy qua cửa sổ vào.

Thầy Phan Ngọc thì giảng say sưa đến đứng cả lên ghế, nói bật máu miệng... Thầy dịch Sử ký Tư Mã Thiên từ lúc còn thanh niên, cùng dịch Chiến tranh và hòa bình (với tên Nhữ Thành), thế mà khi hầu chuyện cha là cụ Phan Võ và các bạn bè của cha, khi vui miệng bàn góp, các cụ bảo: “Học đi đã, mày trẻ con biết gì”...

Thầy Đỗ Đức Hiểu, Phó Chủ nhiệm khoa thường thay thầy Nhị “huấn thị” sinh viên, có câu đáng nhớ nhất “Các anh chị yêu nhau bây giờ là cho nhau ăn bùn”.

Thầy Lê Đình Kỵ, chỉ cầm sách đọc (giáo trình thầy viết) mà học sinh mê như điếu đổ vì văn hay...

Còn thầy Hoàng Như Mai hơn cả thế, là một ma thuật. Có những tiết học, tôi không biết thầy giảng gì nữa mà cứ bị cuốn theo từng bước đi, ánh mắt, cử chỉ, giọng nói của thầy, đắm chìm trong một thế giới khác, không phải một thế giới của đời thực với áo mỏng mùa đông, cơm độn ngô chan canh loãng, cái đói triền miên những năm tháng sinh viên. Thầy như một nghệ sĩ, đạo sĩ.

Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, từng học thầy Mai từ năm 1953-1956, khi thầy là Hiệu trưởng Sư phạm Trung cấp đã viết về thầy Mai trong bài thơ “Thăm thầy giáo cũ” năm 1980:

Đứa học trò thuở mười tám, đôi mươi

Lại lắng từng câu

Lại nhập từng lời

Cái giọng nói một đời không quên được

Cái ánh lửa cháy lên trong cặp mắt

Hai mươi bốn năm rồi mãi ấm trong con...

Thầy đã giảng cho con về đất nước, nhân dân

Để khi mặc lành không quên người áo vá

Ăn miếng ngon nhớ bàn tay trồng khoai, dỡ củ

Câu ca dao đau đáu một đời...

Vâng, nhớ về thầy Hoàng Như Mai là nhớ về một người thầy giảng văn hay số một Việt Nam, và nhớ nhiều hơn là một người thầy vì đất nước, vì nhân dân, yêu thương học trò, nhớ về một nhân cách lớn.

***

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai (1919-2013) quê Liên Ninh, Thanh Trì, Hà Nội; sinh tại Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang, nơi cha ông làm Tuần phủ; từng học Trung học ở Trường Bưởi, học Đại học Y, Đại học Luật dưới thời Pháp thuộc. Thầy sớm theo cách mạng, hoạt động suốt đời trong sự nghiệp giáo dục, là một người thầy lớn của nhiều thế hệ.

Năm 1948, thầy được Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Bình mời làm Hiệu trưởng Trường trung học Phan Thanh. Sau đó thầy làm Hiệu trưởng Trường Sư phạm Việt Bắc (1951); Hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp trung ương (1953); cán bộ giảng dạy Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (1959); cán bộ giảng dạy Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (1980); Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký (1997-2013); Chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh từ 1988 đến khi qua đời ngày 27/9/2013 ở Bệnh viện 175, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 95 tuổi.

Các tác phẩm, công trình tiêu biểu của thầy đã xuất bản gồm:Tiếng trống Hà Hồi (kịch, 1948), Dòng sông biên giới (kịch, viết 1957, xuất bản 2001), Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu (kịch, viết 1982, xuất bản 2001), Trao cho nhau cuộc đời (thơ, 1993) , Văn học Việt Nam hiện đại ( Nhà xuất bản Giáo dục, 1961), Trần Hữu Trang - soạn giả ca kịch cải lương (1982), Nhận định về cải lương (1986), Giới thiệu sân khấu cải lương (1986), Thơ một thời (1989)...

Ở thầy Hoàng Như Mai có sự kết hợp tuyệt vời của một người nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và nhà giáo. Trong thư gửi sinh viên Văn khoa khóa 8, thầy viết: “Tôi có nguyện vọng từ thời trẻ là làm văn nghệ, nhưng rồi Nhà nước lại gọi sang làm giáo dục. Có những người bạn xưa nói vui với tôi: Anh sang bên giáo dục được phong Nhà giáo Nhân dân, nhưng nếu anh cứ ở bên văn nghệ (sân khấu) chắc cũng được là Nghệ sĩ Nhân dân". Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một học trò của thầy, đã gọi thầy là “một người thầy đức độ, tài hoa, tâm huyết, chân tình”.

Cái “đức độ, tài hoa, tâm huyết, chân tình” của thầy Mai thể hiện trong tình cảm đối với đồng chí, đồng nghiệp, với học trò được phản ánh qua chính những vần thơ của thầy viết về Trường Tổng hợp:

Nhớ khi Ký Phú, Ðồng Văn

Mấy phen mì độn, mấy lần đạn bom

Thầy, cô người mất, người còn

Sinh viên mấy nấm mồ chôn chiến trường...

Lẽ sống của thầy có nguồn gốc từ lẽ sống của một nhà nho chân chính, luôn theo phò nghĩa cả, bất chấp gian khổ, hiểm nguy. Người vô sản đi làm cách mạng là một lẽ đương nhiên. Người thành phố giàu có thuộc tầng lớp trên chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý để đi làm cách mạng, chịu gian khổ hy sinh là một điều đáng nói. Đó là một sự tự nguyện, tự giác nhưng cũng luôn trăn trở, tìm tòi - một “con đường đau khổ” như tên tiểu thuyết của nhà văn Nga Xô-viết A-lếch xây Tôn-xtôi để đi đến một niềm tin hoàn toàn vững chắc, sự tự nguyện tuyệt đối. Họ không che giấu nỗi buồn, họ biết không có gì là được cả, không có gì hoàn thiện, nhưng khi lựa chọn, biết chọn phò nghĩa cả.

Đây là tâm sự của thầy khi theo nhà trường đi sơ tán lên Việt Bắc lần thứ hai:

Ra đi lần nữa biệt kinh thành

Mái tóc mười phần chín hết xanh

Trách nhiệm - gia đình: đôi gánh nặng

Văn chương nghệ thuật: sợi tơ mành

Hai mươi năm trước dân không nước!

Hai chục năm sau biết có mình?

Đã quyết đem thân phò nghĩa cả

Niềm riêng chạnh nghĩ luống buồn tênh.

Càng ngày, thầy càng ung dung tự tại, những niềm riêng nhẹ tựa hồng mao, chỉ lòng tin yêu theo Đảng ngày một lớn:

Chúng ta trí thức đi theo Đảng

Nào có khi nào tính thiệt hơn

Việc làm ngay thẳng lòng trong sáng

Sống giản đơn và chết giản đơn...

Năm 80 tuổi, thầy viết:

Cuộc đời vinh nhục vui buồn

Sắc-không, không-sắc há còn vấn vương

Bao giờ đến lượt lên đường

Thì như một chiếc lá vàng gió bay...

Trong sắc có không, trong không có sắc. Thầy đã phiêu linh ở thế giới khác. Nhưng thầy vẫn hiện hữu trong tình cảm yêu thương, kính trọng của lớp lớp học trò. Lẽ sống, nhân cách cao đẹp của một người trí thức cách mạng còn soi sáng các em.

Nam Từ Liêm, 19/11/2022

Nguyễn Sĩ Đại

Nguồn: Nhân dân, ngày 19.11.2022.

Từ buổi giao lưu về đề tài “Ước vọng cho học đường và câu chuyện học văn” , tôi nhận được nhiều ý kiến phản hồi rất thú vị, trong đó có ba ý kiến đáng suy nghĩ nhất.

Sau bài tường thuật “Tại sao môn văn dưới góc nhìn xã hội lại bị giảm sút uy tín?” của Hà Ánh trên báo Thanh Niên, độc giả Vietroad nhận định một cách nghiêm khắc: “Môn văn là môn bắt buộc ở phổ thông, số tiết học tương đương với môn toán, vậy mà ra trường rất nhiều trường hợp viết sai chính tả, thậm chí cả người làm trong lĩnh vực văn hóa. Điều này khó có thể chấp nhận. Hãy thay đổi cách dạy. Hãy dạy tiếng Việt thay cho dạy văn. Thay vì bắt học sinh ngồi bình luận, miêu tả, cảm nhận tác phẩm văn học, thì nên ngồi rèn từ ngữ, ngữ pháp cho thành thạo. Tìm hiểu Truyện Kiều làm gì khi mà bản thân viết một câu không ra hồn”.

        Quả thật gần đây có nhiều ý kiến phàn nàn về tình trạng dạy văn quá tải hiện nay, từ đó đề nghị không nên sa vào chương trình văn học nặng nề mà chỉ nên tập trung dạy tiếng Việt thật tốt để học sinh ra trường nói và viết đúng ngữ pháp. Thật đáng buồn khi một số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông rồi mà vẫn không viết chuẩn một cái đơn xin việc. Quả là nghịch lý khi chưa bao giờ sách giáo khoa cung cấp nhiều kiến thức ngôn ngữ học hiện đại, sâu sắc như bây giờ nhưng cũng chưa bao giờ học sinh viết sai chính tả và ngữ pháp nhiều như bây giờ. Chúng tôi thật khổ tâm khi chấm bài tuyển sinh ngành văn, phải chấp nhận những bài thi có ý tưởng tốt nhưng diễn đạt rối rắm, mơ hồ. Lẽ ra nhà trường phổ thông phải giải quyết yêu cầu về kỹ năng viết lách, trình bày cho học sinh trước khi họ bước chân vào đại học. Theo thông tin của GS Trần Hữu Dũng, một nghiên cứu gần đây ở Mỹ cho biết yếu tố quan trọng hàng đầu dẫn đến thành công trong bất cứ ngành nghề nào là khả năng viết báo cáo, phát biểu, thuyết trình cho rõ ràng, mạch lạc – điều có thể trang bị từ việc học ngôn ngữ và văn nghị luận – chứ không phải kiến thức chuyên môn về toán học, hóa học hay địa chất.

        Hồi tôi học cấp hai, thầy giáo khuyên nên mua một cuốn từ điển tiếng Việt và cuốn sách giúp ích nhiều cho tôi là Việt Nam tân từ điển minh họa của Thanh Nghị. Ở tiểu học, thầy giáo cũng chỉ bày một lần quy luật viết chính tả các từ láy theo câu ghi nhớ “Huyền Ngã Nặng – Sắc Không Hỏi” là mình có thể áp dụng mà không sợ viết sai, trừ một số ít trường hợp ngoại lệ. Hiện nay, học sinh sinh viên sẵn sàng mua từ điển tiếng Anh hơn là từ điển tiếng Việt, hình như họ cho rằng người bản ngữ thì không lo viết sai tiếng Việt, chỉ lo sai tiếng Anh. Nhưng ở thời đại công nghệ số, dùng tự điển online cũng rất tiện dụng. Khi soạn thảo văn bản, người học có thể cài phần mềm sửa lỗi tiếng Việt để kịp thời chỉnh sửa. Điều quan trọng là chúng ta có tra cứu cẩn trọng như một thói quen thường xuyên hay không.

20220125

        Tuy nhiên, ý kiến cho rằng chỉ cần coi trọng dạy tiếng Việt mà không đặt nặng việc dạy văn học cũng khó thuyết phục vì văn học là nghệ thuật ngôn từ, giữa học văn và học tiếng có mối quan hệ hỗ tương không thể tách rời. Người học sinh giỏi tiếng Việt sẽ am hiểu sâu sắc tác phẩm văn học, ngược lại người cảm thụ văn chương tinh tế sẽ viết tiếng Việt hay. Hơn nữa, có tư duy và quan niệm sáng rõ thì mới diễn đạt được mạch lạc, khúc chiết.

        Phản hồi về bài tường thuật “Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là dạy người” của Trần Mặc trên báo Tuổi Trẻ, độc giả Van Do phản biện thẳng thắn: “Dạy người là khái niệm mơ hồ, chưa có định nghĩa. Tạm hiểu là dạy nhân cách. Môn nào cũng góp phần dạy người, nhưng môn văn có ưu thế. Dẫu như vậy thì dạy văn vẫn là dạy “văn” cũng như dạy toán phải là dạy nội dung toán học”.

        Ý kiến trên đây giúp tôi suy nghĩ kỹ hơn về đặc trưng của môn văn ở trường phổ thông để phân biệt với các môn học khác. Quả thật không phải chỉ môn văn mới góp phần đào tạo một con người toàn diện. Người thầy giáo dạy khoa học tự nhiên cũng góp phần dạy cho con người hiểu biết về thế giới, có kiến thức và tầm nhìn sâu rộng. Người thầy giáo dạy toán, bằng cung cách và phong thái dạy học, bằng việc đề cao sự chính xác, cũng dạy cho học trò có tư duy logic và nhân cách thẳng thắn, trung thực.

        Tuy nhiên, môn văn (ở trường phổ thông) “có ưu thế” vì mục đích cuối cùng không phải là dạy người học hiểu biết kiến thức văn học, để thuộc làu lịch sử văn học hay các mệnh đề lý luận như thuộc các định luật vật lý hay định lý toán học. Môn văn ở trường phổ thông gánh sứ mạng bồi dưỡng cho học sinh tình thương yêu, lòng trắc ẩn, sự ăn năn, niềm rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, sự nhạy cảm với nỗi cô đơn cùng với lòng khát khao được giao cảm và hòa hợp. Điều đó không phải là nhiệm vụ “chủ yếu” của các môn học khác. Các môn toán học, vật lý, hóa học, sinh học dạy ta kiến thức nền tảng để ta áp dụng khi học làm thợ máy, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ… Còn môn văn học “chủ yếu” không chuẩn bị để ta làm văn sĩ. Dạy học trò kiến thức về điện để họ có thể giúp gia đình mắc cái bóng đèn; còn dạy học trò cách miêu tả con mèo hay cây thông không phải để họ viết được truyện ngắn hay tùy bút về các đề tài ấy, mà để họ luyện óc quan sát và trau dồi tình yêu với loài vật cũng như ý thức bảo vệ môi trường sinh thái. Người ta không phê phán cách giải những bài toán mẫu mà phê phán cách dạy văn mẫu, vì văn mẫu góp phần thủ tiêu việc “dạy người” như là những cá nhân độc đáo, có cảm nhận và suy nghĩ riêng về cuộc đời. Cũng chính từ đây mới thấy công nghệ giáo dục có thể thành công trong việc dạy các môn tự nhiên, cả các môn khoa học xã hội như lịch sử, địa lý nhưng chắc không có “ưu thế” trong việc dạy văn chương, nghệ thuật.

        Nhưng nói như vậy phải chăng là môn văn (ở trường phổ thông) đứng ngoài, thậm chí dửng dưng với sự tiến bộ của công nghệ số và chúng ta vẫn dậm chân tại chỗ hay quay lại thời của những thầy đồ dạy văn trước đây.

        Không. Công nghệ số giúp cho việc học văn rất nhiều thuận lợi nếu ta biết khai thác thế mạnh của nó. Nhờ Internet, chưa bao giờ học sinh có thể tham khảo nhiều tài liệu văn học phong phú như hiện nay. Google có thể trả lời những thắc mắc về kiến thức văn học một cách nhanh chóng. Nếu phòng học được trang bị hiện đại, bằng những thao tác chính xác, trong khi dạy trích đoạn tiểu thuyết Những người khốn khổ của V. Hugo, giáo viên có thể dẫn đường link chiếu lên màn ảnh cho học sinh xem một đoạn phim dựng từ tác phẩm ấy để minh họa cho bài học. Trong khi dạy trích đoạn Truyện Kiều của Nguyễn Du, giáo viên có thể vào mạng YouTube mở cho học sinh nghe một bài Kiều ca của Phạm Duy để tăng thêm cảm xúc về bài học. Khó khăn hiện nay là do những quy định quá chặt chẽ về giờ giấc, quy trình giảng dạy, khiến người giáo viên bó tay, không được phép “sáng tạo” thêm được gì ngoài sách giáo khoa và giáo án đã được phê duyệt.

         Thời công nghệ số tạo điều kiện cho người học tiếp cận với kho tàng văn học nghệ thuật phong phú từ cổ điển đến hiện đại và hậu hiện đại. Trong bài viết Cho tôi lại nhà trường trên trang vanvn.vn, nhà giáo Lê Thị Thanh Vy góp ý rất xác đáng: “Với thời chiến hay sau đó với thế hệ 7x, 8x, sách vở rất thiếu thốn nên sách giáo khoa còn là một nguồn không gian tinh thần quan trọng bậc nhất, và những câu chuyện trong sách giáo khoa đóng những vai trò chính yếu trong hành trình “khai tâm” cho tuổi trẻ. Nhưng ngày nay, nếu giới trẻ được bao vây trong rất nhiều “câu chuyện”: phim ảnh đủ mọi nguồn và vô cùng dễ tiếp cận, truyện tranh, Facebook, TikTok, thậm chí các video tóm tắt phim nhan nhản… – thì nên tiếp cận những câu chuyện trong sách giáo khoa như thế nào để những tác phẩm này thực hiện sứ mạng khai tâm, chữa lành của mình”. Từ đây, một vấn đề đặt ra là chọn văn bản nào giảng dạy trong nhà trường cho phù hợp với thời đại và tâm lý lứa tuổi, để người học vừa không cắt đứt với quá khứ, vừa không xa lạ với hiện tại và tương lai. Đâu là những giá trị bền vững đã qua thử thách cần trao truyền trong sách giáo khoa để kết nối nhiều thế hệ mà không phải thay sách liên tục như hiện nay. Sách giáo khoa lưu giữ truyền thống ra sao và thu nhận tinh thần đương đại ở mức độ nào, đó là câu hỏi không đơn giản. Trong nhà trường trung học ở Pháp, chẳng hạn, có lẽ người ta chưa vội thay một tác phẩm kinh điển bằng tác phẩm của Annie Ernaux, người vừa được giải Nobel năm 2022.

         Hiện nay, trên thế giới có ba quan điểm lý giải ảnh hưởng của công nghệ số đến cuộc sống con người: (1) Thuyết tất định luận công nghệ (Technological determinism) cho rằng công nghệ chắc chắn sẽ dẫn đến một thế giới lý tưởng (utopia) hoặc là một thảm họa (dystopia); (2) Thuyết kiến tạo xã hội đối với công nghệ (Social construction of technology) khẳng định con người làm chủ công nghệ vì con người tạo ra và uốn nắn công nghệ theo ý mình; (3) Thuyết định hình xã hội của công nghệ (Social shaping of technology) chứng minh con người và công nghệ liên tục tương tác và định hình lẫn nhau. Quan điểm thứ ba này đang được ủng hộ và chấp nhận rộng rãi nhất.

         Văn học là con đường giao tiếp và hiệp thông giữa người và người. Công nghệ số giúp cho sự kết nối và tương tác giữa văn học và cuộc đời thêm sâu sắc. Nhưng đôi khi sự giao lưu trong thế giới ảo lại khiến con người trở nên hờ hững với những giao tiếp trong đời thật. Văn học là tiếng nói của cá nhân đến với cá nhân. Công nghệ số vừa cung cấp phương tiện thuận lợi để cá nhân hóa giáo dục, lại vừa có thể giản lược bản sắc của cá nhân qua những dữ liệu được số hóa. Vấn đề là con người và công nghệ luôn quan hệ hỗ tương với nhau chứ không phải công nghệ hoàn toàn điều khiển con người.

         Như vậy, ta không lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc của con người; ta chỉ nên lo con người không biết khai thác thế mạnh của công nghệ số để làm giàu cho kiến văn, suy tưởng và cảm xúc của chính mình.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Thế giới số, ngày 17.01.2023.

Những ngày này, ký ức về một người thầy như những thanh âm nhẹ nhàng vang trong lòng tôi: thầy Huỳnh Như Phương - người thầy mà tôi may mắn được học trong những tháng ngày tôi thực hiện chương trình cao học tại Đại học Đà Lạt.

.
 
 Đà Lạt những ngày đầu tiên của mùa khô đẹp lắm, bầu trời không còn quá đỗi u xám, muôn loài như đang căng tỏa trong những tia nắng tươi vàng dịu nhẹ. 

Năm đó, chúng tôi cũng nhập học dịp này. Buổi đầu tiên của những ngày tháng ấy, tại giảng đường A7, chúng tôi được giáo vụ khoa giới thiệu về chương trình. Lúc đầu ai cũng tò mò về bộ môn mà chúng tôi sẽ học, tò mò cả về những giảng viên mà chúng tôi sẽ được học, giáo sư Huỳnh Như Phương - giảng viên thỉnh giảng là người thầy thế nào...

Rồi ngày đầu tiên được học môn của thầy cũng đến, thầy bước vào lớp một cách nhẹ nhàng với nụ cười dìu dịu nổi bật. Sau khi giới thiệu những tài liệu tiếng Việt, tiếng nước ngoài mà thầy đã cẩn thận mang từ TP.HCM lên Đà Lạt, thầy bắt đầu bài giảng về "Tiếp nhận văn học". 

Chúng tôi say sưa với tiết dạy của thầy và quả thật sau những tiết học về "Tiếp nhận văn học" chúng tôi còn vỡ ra rằng bộ môn này không chỉ cho chúng tôi những kiến thức về tiếp nhận một tác phẩm, một giai đoạn văn học... mà rộng hơn bài giảng của thầy còn cho thấy: cuộc sống này hay mỗi một con người ta gặp trong cuộc đời chính là những bản thể mà ta phải dùng cảm xúc và tri thức đúng mực để tiếp nhận. 

Kết thúc tuần học thứ nhất, tôi xin phép đến phòng của thầy tại dãy nhà A2 - nơi nghỉ ngơi của những giảng viên thỉnh giảng. Trong lần gặp gỡ này, với lòng ngưỡng trọng của mình, tôi trình bày mong muốn được thầy hướng dẫn luận văn tốt nghiệp. 

Thầy trả lời: "Thầy không thể trực tiếp hướng dẫn em vì trường Đại học Đà Lạt có rất nhiều phó giáo sư, tiến sĩ giỏi, lại ở gần đây. Tuy nhiên, trong quá trình làm, em cần tư liệu hay góp ý thêm thì cứ email cho thầy, giúp được thầy sẽ giúp em". 

Câu trả lời của thầy làm tôi hơi hụt hẫng nhưng sau đó tôi đã phần nào hiểu ra: đằng sau câu trả lời ấy là cả một sự khiêm nhường, là tinh thần trách nhiệm, tôn trọng với học viên, với đồng nghiệp sở tại và với cả đơn vị chủ quản của thầy. 

Trong cuốn sách Ước vọng cho học đường của mình, thầy từng nhấn mạnh: "Vậy nên người dạy học luôn luôn có tình cảm biết ơn: biết ơn thầy cô, biết ơn đồng nghiệp, biết ơn học giới đã xây đắp kho tàng tri thức và văn hóa mà ngày nay mình thừa hưởng và truyền đạt lại cho thế hệ sau". Tôi đã đọc và suy ngẫm lời thầy để nó thấm vào hành vi sống về sau của mình.

Sau khoảng thời gian ngày hai buổi học với thầy, thấm thoắt buổi học cuối cũng đã tới. Thầy đưa cho tôi một cuốn notebook màu hồng khổ A5 rất dễ thương và nói: "Thầy tặng em cuốn sổ này, em hãy viết ra đây những ý tưởng mà em trăn trở hằng ngày". 

Tôi rất mừng vì đó là tình cảm mà thầy dành riêng cho tôi, nhưng điều mà tôi trân quý hơn cả là chính món quà như một lời nhắn nhủ, một sự tin tưởng của một người thầy lớn trao cho người học viên nhỏ bé.  Cám ơn thầy Huỳnh Như Phương, người thầy khiêm nhường, dạy tôi lòng biết ơn - Ảnh 2.Thầy Huỳnh Như Phương trong thời gian giảng dạy tại Đại học Đà Lạt

Cuốn sổ màu hồng luôn bên tôi từ đó cho đến nay, đó là một nơi tôi chăm chút những ý tưởng về nghề dạy học của mình rồi chấp bút cho ra đời những bài báo đầu tay đăng trên báo Lâm Đồng như "Từ cái tát trong học đường đến hiện tượng Khá Bảnh" - viết về cậu học trò tát cô giáo ở Hà Nội, "Chiếc lá cuối cùng" không bao giờ rụng xuống" - viết về những hy vọng của chúng ta trong những ngày tháng COVID-19 dữ dội, đớn đau hay bài "Trẻ buồn, cô đơn, lo âu, rất cần người khác giúp đỡ để nói ra" - viết về những cách thức nhỏ hỗ trợ học sinh bị trầm cảm đăng trên báo Tuổi Trẻ...

Và nhận ra rằng, đôi khi không phải là bài học, môn học hay giáo trình nào, mà chính là nhân cách, tâm hồn của một người thầy mới lay đọng, làm thay đổi những người đi học như tôi, như học trò mà tôi đang đứng lớp. 

Cám ơn thầy và kính chúc thầy Huỳnh Như Phương thật nhiều sức khỏe. 

NGUYỄN VĂN DŨNG (GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT LỘC AN, BẢO LÂM, LÂM ĐỒNG)

Nguồn: https://tuoitre.vn/cam-on-thay-huynh-nhu-phuong-nguoi-thay-khiem-nhuong-day-toi-long-biet-on-20221118140913953.htm

Kiến văn sâu rộng, tấm lòng ưu tư về giáo dục, văn học của một trí thức đồng hành với văn học - văn hóa gần nửa thế kỷ, GS Huỳnh Như Phương đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi giao lưu với chủ đề "Ước vọng cho học đường và câu chuyện học văn" do khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức sáng 05.11.2022.

20221106

Giáo sư Huỳnh Như Phương ký tặng sách cho sinh viên, độc giả sau buổi trò chuyện sáng 5.11 - Ảnh: TRẦN MẶC

Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là một nghệ thuật

Có lẽ chưa bao giờ việc học văn và liên quan với đó là việc dạy văn, đứng trước một tình thế đầy mâu thuẫn như hiện nay: sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, phương tiện học tập phong phú, đội ngũ thầy cô giáo nhiệt huyết, quan niệm văn học cởi mở và đổi mới; trong khi đó thì môn văn bị giảm sút uy tín trước mắt nhìn xã hội, bị phàn nàn nhiều trong dư luận, sự chuyên tâm và say mê của người đi học có chiều hướng suy giảm.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: sự thay đổi bảng giá trị trong xã hội, cơn xâm thực của chủ nghĩa duy lợi, chương trình nặng nề, nạn văn mẫu... Nhưng có lẽ một nguyên nhân quan trọng là quan niệm dạy văn và học văn không thể hiện được đặc trưng của môn học và đối tượng.

Theo chúng tôi, cần phân biệt học văn ở bậc phổ thông và học văn ở bậc đại học. Học văn ở bậc phổ thông là học làm người, học làm giàu tâm hồn và trí tuệ.

Học văn ở bậc đại học là học một nghề nghiệp, học kiến thức và kỹ năng để làm nghề. Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là dạy người; dạy văn ở đại học chủ yếu là dạy nghề. Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là một nghệ thuật; dạy văn ở đại học chủ yếu là một khoa học.

Nhưng hai lĩnh vực/giai đoạn trên không tách rời hay trái ngược nhau mà có quan hệ chặt chẽ, có ảnh hưởng qua lại với nhau. Vậy thì có gì chung đặt ra cho việc học văn?

Học sống giữa muôn người và học làm người tự do

Học văn là học tha nhân mà cũng đồng thời là học bản thân ta. Ta học bảng tuần hoàn Mendeleev là học tri thức do nhà bác học cung cấp.

Còn ta học tác phẩm của L. Tolstoi là vừa học những tâm hồn Nga yêu chuộng hòa bình, chán ghét chiến tranh, vừa học tiếng vang của nó vào tâm hồn ta, xem cách ta bắt lấy và đón nhận tín hiệu từ tác phẩm đó.

Nếu ta chỉ thâu nhận nội dung và các thủ pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết như các nguyên tố hóa học của bảng tuần hoàn thì mãi mãi ta không hiểu gì văn học mà cũng không hiểu gì bản thân ta.

Học văn là học kinh nghiệm làm người ở đời để chính mình tự quyết lấy cuộc đời mình. Vì không ai có thể thay ta đưa ra lời giải bài toán cuộc đời ta. 

Người học văn vì tiếp xúc với nhiều cuộc đời trong sách vở nên có thể lúng túng, lưỡng lự, phân vân và băn khoăn khi va chạm với cuộc đời thực tế. Ta tham khảo từ những cuộc đời đó để rồi đưa ra giải pháp của riêng ta.

Học văn là học cách ứng xử với quá khứ, đối mặt với hiện tại và dự báo cho tương lai. Vì vậy mà chúng ta cần cả văn chương dấn thân lẫn văn chương viễn mơ, cần cả tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết hiện thực lẫn tiểu thuyết viễn tưởng.

Học văn là để mở rộng chiều kích cuộc đời ta, để ta không biến thành "con người một chiều kích" như Herbert Marcuse cảnh báo từ những năm 1960.

Học văn là học sống ở đời giữa muôn người cũng đồng thời là học làm người tự do lựa chọn. Theo tinh thần của Jean-Paul Sartre, con người bị buộc phải tự do, có tự do mới có lựa chọn. Lựa chọn chỉ có ý nghĩa khi lựa chọn trong tự do.

Nhưng tự do của ta không đối lập với tự do của người khác, tự do của ta chỉ có ý nghĩa khi hiện hữu cùng tự do của người khác.

Học văn là học cách sống hòa hợp và có trách nhiệm với xã hội, đất nước, đồng thời là sống như một cá tính độc đáo. Độc đáo không phải là lập dị, làm cho khác người.

Có những người khiếm khuyết một cái gì đó về tinh thần, họ tìm cách che đậy bằng cách lòe bịp thiên hạ bằng xảo ngôn, vậy mà cũng đánh lừa được một số người. Người thấm nhuần chất văn sẽ không dễ bị lừa bịp bởi những kẻ xảo ngôn, ác khẩu.

Học văn là học cách tu dưỡng, cách nói năng, học nghệ thuật ngôn từ, mà cũng là học nghệ thuật lắng nghe và im lặng.

Đôi khi chỉ cần một cái mỉm cười hay một cái nhếch mép, bĩu môi cũng đủ tỏ một thái độ. Tác phẩm nghệ thuật đích thực là những lời hay ý đẹp đến với ta như bông hoa kia làm nở trên môi ta một nụ cười.

Nụ cười trong im lặng, nhưng là im lặng của hiện hữu, vì đó là im lặng của hiệp nhất và hòa hợp. Văn học giúp ta tìm ra, dù chỉ một khía cạnh nào đó, ý nghĩa của đời sống, ý nghĩa của hiện hữu. Có thể nói văn học chân chính thắp sáng hiện hữu của chúng ta.

Không tung ném cái tôi của người viết để phủ chụp người đọc

Sáng tác và tiếp nhận văn học là chuyện cá nhân, gắn với cái tôi. Nhưng có tôi mà cũng có chúng ta, có ta mà cũng có người.

Trong ta có người và trong người có ta. Văn học biểu hiện và phơi bày cái tôi, nhưng trong chừng mực nào đó văn học không nên tung ném cái tôi của người viết để phủ chụp lên người đọc, tra tấn người đọc bằng những rối loạn và hoảng loạn của người viết. Văn bản dạy trong trường phổ thông cần chú ý đến điều này.

Cuộc đời có cả cái đẹp lẫn cái xấu, cái thiện lẫn cái ác, ánh sáng lẫn bóng tối. Tuổi thiếu niên chưa cần nhà trường cung cấp kinh nghiệm về cái ác, cái xấu và bóng tối. Khi ra đời, cuộc sống sẽ dạy họ điều đó.

Điều họ cần bây giờ là nhà trường trang bị cho họ điều thiện và cái đẹp để họ có sức mạnh ứng phó với cái ác và cái xấu.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 06.11.2022.

Cuốn sách Nhớ và quên của Phạm Hồng Sơn và Đặng Anh Đào gợi nhớ đến Đường sáng trăng sao của Nguyệt Tú mà tôi đọc cách đây mấy năm. Hồi ký của Nguyệt Tú ghi lại đường đời và hoạt động cách mạng của tác giả – nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Phụ Nữ – với người bạn đời là nguyên Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo. Còn Nhớ và quên là hồi ký song đôi của một đôi bạn “văn võ song hành”: Trung tướng, Giáo sư, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Phạm Hồng Sơn và nhà văn, Phó Giáo sư văn học Đặng Anh Đào. Họ thuộc vào một thế hệ đã chứng kiến một thời kỳ lịch sử đặc biệt của dân tộc và góp phần làm nên những kỳ tích không lặp lại của đất nước.

PGS-TS Đặng Anh Đào (1934 – 2023)

Nhớ và quên, Hồi ức và chân dung của Phạm Hồng Sơn và Đặng Anh Đào, NXB Phụ Nữ, tháng 01.2011.   

Phần thứ nhất của cuốn sách có tiêu đề “Nửa đời chiến trận” là hồi ký của Phạm Hồng Sơn, tên lúc nhỏ là Phạm Thành Chính – người cháu ruột của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, viết về đoạn đường chiến binh từ khi người sinh viên Luật khoa tham gia phong trào yêu nước trước Cách mạng Tháng Tám, rồi sau đó xếp bút nghiên đi kháng chiến cho đến khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phần thứ hai có tiêu đề “Vầng trăng khuyết” do Đặng Anh Đào viết, bổ sung và nối tiếp “Nửa đời chiến trận”, từ khi người chiến binh hứa hôn với người con gái thứ tư của giáo sư Đặng Thai Mai. Từ đây, những câu chuyện chiến trường thời chống Mỹ được kể lại dưới góc nhìn của người vợ ở hậu phương.

Là nhà thi pháp học, nhà phê bình văn học và người viết văn xuôi nhuần nhị, Đặng Anh Đào như cố nén mình lại để cho các sự kiện và chứng liệu tự nó lên tiếng. Bà sắp xếp và khai thác những lá thư gửi về hậu phương, những trang sổ tay và nhật ký chiến trường của Phạm Hồng Sơn, rồi liên kết với những tư liệu lịch sử sưu tầm được trong sách báo, để tái hiện lại không khí ác liệt của cuộc kháng chiến và chân dung người anh hùng nơi tiền tuyến. Đồng thời, những trang viết của bà cũng cho chúng ta hình dung cuộc sống khó khăn và tâm tình của người hậu phương qua những lá thư gửi từ miền Bắc.

Những ghi chép từ chiến trường, do hoàn cảnh khắc nghiệt của nó, đôi khi sơ lược và chỉ thuần sự kiện, đã được bổ sung bằng sự phân tích của một nhà bình luận chuyên nghiệp. Có thể nói, Đặng Anh Đào đã thay chồng viết tiếp phần sau “Nửa đời chiến trận”, khi mà trí nhớ của Phạm Hồng Sơn không cho phép ông hoàn thành công việc của “người lính già đầu bạc, ngồi kể chuyện Nguyên Phong”. Những điều ông ghi chép, dù vắn tắt bằng ngôn ngữ tường thuật “trung tính”, nếu người đọc tinh ý, vẫn nhận ra giá trị của một chứng liệu trung thực. Chẳng hạn, những đoạn ông viết về Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc, về cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, mà bà trích dẫn.

20230115 3

PGS Đặng Anh Đào và GS Huỳnh Như Phương ở Paris, Pháp năm 1999

Hồi ký Đường sáng trăng sao của Nguyệt Tú có giọng văn nồng nàn, đầy chất trữ tình, bộc lộ ngay từ nhan đề cuốn sách. “Vầng trăng khuyết” của Đặng Anh Đào cũng là một hình tượng lãng mạn qua ngòi bút của một nhà văn mà phong cách tinh tế, đầy chất thơ đã từng thể hiện trong tác phẩm Tầm xuân. Nhưng ở đây, giọng văn của bà đạm hơn là nồng, hình như bà muốn “chỉnh sửa” mình cho nghiêm nghị một chút khi đứng cạnh ông tướng chăng. Tuy nhiên, đôi lúc bà cũng không kiềm chế được, đã để cảm xúc tuôn trào theo dòng câu chuyện, nhất là ở phần “Vĩ thanh”: “Giang sơn biến đổi. Số phận những người đồng đội, sau hai cuộc chiến đấu trường kỳ, ở thế kỷ 21 ra sao, một khi đã tản mát về bốn phương trời? Trong khoảng bấy nhiêu năm, âm vang của họ giống như những viên sỏi ném xuống mặt nước, lúc đầu lan toả thành những vòng tròn đậm và dày, sau càng thưa, càng mờ” (tr. 264).

Gần tuổi 90, trung tướng Phạm Hồng Sơn vẫn khoẻ mạnh, duy trí nhớ thì suy giảm nhiều. Giáo sư Đặng Anh Đào cố gắng hoàn thành cuốn sách này để kịp ghi giữ lại những điều mà vì tuổi tác, cả ông và bà rồi sẽ không còn nhớ nữa. Quả thật, trong cuộc sống, nhiều điều rồi sẽ bị lãng quên. Nhưng cũng có những năm tháng, những chân dung và kỷ niệm mà ta không nên quên lãng và cũng không thể nào quên được.

TP. HCM – 2011

Huỳnh Như Phương

Nguồn: vanvn.vn

"Cho tôi lại nhà trường

Bao nhiêu là người thương

Không ai thù ai oán

Ai cũng bảo tôi ngoan

 

Tôi yêu thầy tôi lắm

Nhớ tiếng nói vang vang

Tôi yêu tà áo trắng

Cô em bạn cùng đường"

(Kỷ niệm, Phạm Duy)

Giáo sư Huỳnh Như Phương trò chuyện cùng các học sinh, sinh viên - Ảnh: KHẢ LINH

Đây là những câu hát mà thầy mình đã chọn để mở đầu buổi nói chuyện và ra mắt sách "Ước vọng cho học đường và câu chuyện học văn" sáng nay. Thầy bảo: "May mắn cho tôi là trường học luôn đi vào giấc mơ như là những giấc mơ đẹp; và không biết tuổi học trò ngày nay - khi nằm mơ về mái trường, những giấc mơ có dịu êm như thế không?”.

Hơn mươi năm qua thầy mình đã ra không biết bao nhiêu cuốn sách, nhưng mãi đến hôm nay thầy mới đồng ý làm nhân vật chính cho một talk show. Với mình, thầy là một người bạn lớn; có lẽ ít ai được thấy một giáo sư Huỳnh Như Phương dịu dàng, hóm hỉnh, ân cần như mình luôn may mắn được thầy đối đãi như vậy - vì thật sự lúc mới học thầy thời sinh viên, mình thấy thầy nghiêm khắc lắm; và sau này, trong mọi công việc, thầy luôn cực kỳ chỉn chu, nghiêm túc và kỹ lưỡng.

Nhưng hôm nay thầy mình đã rất hóm hỉnh và nhẹ nhõm trên sân khấu, và thật sự những chia sẻ của thầy khiến mình nhiều xúc động. Thế hệ của thầy, không bị vây bọc và ám ảnh như thế hệ của mình về những lý thuyết giáo dục, nhưng với trực giác mẫn cảm và một tâm hồn rộng rãi của một người dạy văn, thú thật, mình thấy những quan niệm của thầy về giáo dục vẫn rất "hiện đại". Như cách thầy nói về việc chọn văn bản để đưa vào sách giáo khoa cần quan tâm đến đặc thù lứa tuổi và mục tiêu giáo dục, nên một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn, sẽ là không phù hợp - mặc dù ông là nhà văn quá lớn. Thầy chia sẻ về những văn bản thầy đã được học thuở nhỏ: “Một văn bản hay, sẽ âm vang trong lòng ta suốt cả cuộc đời”.

Dĩ nhiên, như một đứa học trò bướng bỉnh nhưng luôn được thầy yêu thương - mình vẫn có những điều có thể tranh luận với thầy, khi mình đang được “nhúng” vào không gian của GenZ, GenAlpha - một không gian rất khác so với thế hệ của các thầy. Chẳng hạn, với thời chiến hay sau đó với thế hệ 7x, 8x, sách vở rất thiếu thốn nên sách giáo khoa còn là một nguồn không gian tinh thần quan trọng bậc nhất, và những câu chuyện trong sách giáo khoa đóng những vai trò chính yếu trong hành trình “khai tâm” cho tuổi trẻ. Nhưng ngày nay, nếu giới trẻ được bao vây trong rất nhiều “câu chuyện”: film ảnh đủ mọi nguồn và vô cùng dễ tiếp cận, truyện tranh, Facebook, TikTok, thậm chí các video tóm tắt phim nhan nhản… - thì nên tiếp cận những câu chuyện trong sách giáo khoa như thế nào để những tác phẩm này thực hiện sứ mạng khai tâm, chữa lành của mình.

Thầy còn là một trong những chứng nhân ít ỏi còn lại của giáo dục miền Nam trước 1975, một nền giáo dục mà thầy nhận xét là “kỳ lạ và đặc biệt” - chẳng hạn như thống kê cho thấy có đến 4 bài thơ của Tố Hữu - một nhà thơ thuộc về một ý thức hệ rất khác với ý thức hệ chính thống của miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 - đã được đưa vào sách giáo khoa, như bài thơ “Mồ côi” là một ví dụ.

Không chủ định trở thành nhà giáo từ đầu (thầy muốn trở thành một kỹ sư nông nghiệp, nhưng những biến động thời cuộc đã khiến thế hệ thầy trở thành một “lost generation”), nhưng thầy đã gắn bó gần 50 năm cuộc đời với nghề, và đến nay vẫn còn bao trăn trở như tại sao ngày nay sách vở ngày càng nhiều, quan niệm về văn học ngày càng cởi mở hơn, nhưng chưa bao giờ uy tín về môn Văn và giáo dục lại xuống thấp đến như vậy dưới con mắt của dư luận.

Nhưng thông điệp mà thầy muốn gửi đến cho các thầy cô giáo hôm nay thật xúc động: Hãy tin tưởng vào nhà trường, vào văn học. Kẻ khác không hẳn là “địa ngục” như Sartre nói, kẻ khác còn tham dự vào đời ta, làm phong phú đời ta; và văn chương góp phần mình vào sự hiệp thông giữa người với người đó. Đứng trước những thời đại mà con người bị “số hóa”, từ Đức Quốc xã đến Khmer Đỏ, và thậm chí đến thời Covid - khi con người bị giản lược thành những mã định danh - thì, văn học kiên quyết kháng chống lại sự biến con người thành con số đó - nó tôn vinh những cá thể, nó nói với chúng ta rằng mỗi tồn tại người là một tồn tại duy nhất và không lặp lại.

Và: “Học văn là học kinh nghiệm làm người ở đời, để mình tự quyết với cuộc đời của mình”.

Hình như hơn 10 năm lăn lóc với nghề dạy học, và gần đây đã cảm thấy cả quyết với văn học như một lựa chọn trọn đời - mình mới thấm thía biết bao điều mà thầy mình đã cố nói - không phải bằng vài lời hôm nay, mà bằng những điều mà thầy đã làm cho giáo dục, cho việc học văn suốt gần 50 năm qua.
Lê Thị Thanh Vy

Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Anh Đào, nhà nghiên cứu văn học, con gái cố Giáo sư Đặng Thai Mai - qua đời sáng 12/1, thọ 88 tuổi.

GS. TS Lê Huy Bắc - học trò của PGS. TS Đặng Anh Đào - cho biết bà qua đời vì bệnh tuổi già, tại bệnh viện Đa khoa Tâm Anh. Nhiều tháng nay, sức khỏe suy yếu, bà được gia đình đưa vào viện để điều trị. Trước đó, ngày 11/1, giáo sư cùng các đồng nghiệp, học trò tới thăm bà. Khi đó, tiến sĩ đã hôn mê nhưng mọi người vẫn trò chuyện, thăm hỏi giống như thời bà còn khỏe mạnh. Cuối đời, bà sống cùng con út ở Lý Nam Đế, Hà Nội. Tiến sĩ sống lạc quan, yêu thiên nhiên, cây cỏ.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Anh Đào sinh thời. Ảnh: Lê Huy Bắc cung cấp

Phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Anh Đào sinh năm 1934, nguyên là giảng viên khoa Ngữ văn của Đại học Sư phạm Hà Nội. Bà là nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, dịch giả được nhiều người biết đến, với các tác phẩm Tài năng và người thưởng thức, Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỷ XIX, Truyện ngắn phương Tây, Balzac và cuộc săn tìm nhân vật chính diện trong Tấn trò đờiTầm xuân và những ký ức muộn...

Bà là người dẫn dắt nhiều học trò thành danh như giáo sư Lê Huy Bắc, tiến sĩ Trần Hinh, nhạc sĩ Trần Tiến, nhà thơ Châu La Việt...

Lê Huy Bắc nhớ năm 1991, từ Huế ra Hà Nội ôn thi cao học, một trong những người dạy ông lúc đó là cô giáo Đặng Anh Đào. Kể từ đó, mối duyên cô - trò kéo dài đến tận bây giờ. Mỗi lần đứng trước bà, ông lại như cậu học trò nhỏ từ quê ra phố thị.

Suốt hai năm cao học, ông chỉ được tiếp xúc với bà vài lần, mỗi lần không quá năm phút. Tuy nhiên, những gì ông viết, cô giáo đọc kỹ, nhận xét tỉ mỉ để học trò sửa chữa. Bà nghiêm khắc trong khoa học nhưng rất yêu thương học trò. Bà thẳng thắn, không thích nói nhiều và dị ứng với những người kệch cỡm, dốt nát nhưng thích tỏ vẻ.

"Với tôi, cô là người thầy duy nhất và vĩnh viễn mà không ai có thể thay thế cả về nhân cách, tri thức và đạo đức. Tôi vẫn luôn tin rằng nếu một ngày nào đó, vì một lý do nào đó, cả thế gian này đột nhiên xấu tất thảy, vẫn còn duy nhất một người tốt, thì đấy là cô. Tôi tự hào về điều đó, không có cô sẽ không có tôi của hôm nay", giáo sư Lê Huy Bắc nói.

Những năm cuối đời, dù tuổi cao, sức yếu, bà vẫn say mê làm việc, nghiên cứu. Đi lại khó khăn, bà nhận dịch, viết sách báo, dạy cao học và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại nhà.

Bà Đặng Anh Đào là một trong bốn con gái của cố Giáo sư Đặng Thai Mai. Bà kết hôn với trung tướng Phạm Hồng Sơn - người từng trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch trên các chiến trường từ Bắc vào Nam trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1975.

Lễ viếng PGS. TS Đặng Anh Đào diễn ra vào 7h15 ngày 15/1 tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5, Trần Thánh Tông. Linh cữu bà an táng tại Công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng.

Nguồn: https://vnexpress.net/pgs-ts-dang-anh-dao-qua-doi-4559350.html

Theo tin từ gia đình, Giáo sư Nguyễn Văn Trung, nguyên Khoa trưởng Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, do tuổi cao sức yếu, đã qua đời ở Brossard, Québec, Canada, lúc 21 giờ 30 ngày 19-10-2022, hưởng thọ 92 tuổi.

GS Nguyễn Văn Trung (còn có bút danh Phan Mai, Hoàng Thái Linh) sinh ngày 26-9-1930, quê ở làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

20221020

GS Nguyễn Văn Trung

Sau khi học trung học Chu Văn An ở Hà Nội, từ 1950-1955, ông du học tại Pháp và Bỉ, đậu cử nhân triết học. Từ 1955-1960, ông về miền Nam mở trường mẫu giáo, dạy trung học ở Sài Gòn, rồi Đại học Huế. Năm 1961, ông trở lại Bỉ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Louvain. Về nước, ông dạy đại học ở Sài Gòn và Đà Lạt, từng làm Khoa trưởng (tương đương hiệu trưởng ngày nay) Đại học Văn khoa Sài Gòn, sau đó làm Trưởng ban (tương đương Trưởng khoa ngày nay) Triết học Tây phương thuộc trường này.

Sau 1975, ông tiếp tục nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Từ cuối năm 1993, sau khi về hưu, ông cùng gia đình định cư tại Montréal, Québec, Canada.

Nhà giáo uyên bác và dấn thân

Ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, Nguyễn Văn Trung không chỉ là một nhà giáo, nhà nghiên cứu trong phạm vi học đường mà còn là một nhà báo, nhà bình luận chính trị, nhà hoạt động xã hội với quan niệm "tri hành hiệp nhất". Ông tham gia sáng lập các tạp chí Đại Học, Hành Trình, Đất Nước và cộng tác với nhiều tờ báo như Sáng Tạo, Bách Khoa, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Trình Bầy, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới… Ông cũng là thành viên ban chủ trương các nhà xuất bản Nam Sơn và Trình Bầy.

Nguyễn Văn Trung cùng với Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần, Nguyễn Huy Lịch, Thiện Cẩm, Thế Nguyên, Diễm Châu… được xem như những trí thức Công giáo tiêu biểu dấn thân vào những hoạt động chống Mỹ, kêu gọi hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Ông khuyến khích sinh viên bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tìm hiểu triết học Marx thời trẻ trong khía cạnh nhân bản của nó. Ông cùng một số đồng nghiệp tham gia tuyệt thực trước Hạ nghị viện, đòi chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả tự do cho các sinh viên tranh đấu và từng được cử làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (1970).

Nguyễn Văn Trung có một sự nghiệp trước tác phong phú gồm nhiều thể loại. Về biên khảo triết học, ngoài những sách giáo khoa bậc trung học, ông đã biên soạn các công trình Triết học tổng quát (1957), Danh từ triết học (đồng tác giả, 1958), Ca tụng thân xác (1967), Ngôn ngữ và thân xác (1968), Hành trình trí thức của Karl Marx (1969), Đưa vào triết học (1970), Nhận diện Marx (1974), Triết lý văn nghệ (1974).

Về nghiên cứu văn học, ông cho xuất bản Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (1962), Lược khảo văn học (ba tập, 1963-1968), Nhà văn - người là ai, với ai? (1965), Vụ án Truyện Kiều (1972), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (1974), Trường hợp Phạm Quỳnh (1974), Chủ đích Nam Phong (1975), Câu đố Việt Nam (1986), Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1987).

Trên lĩnh vực văn hóa – lịch sử, ông công bố các tác phẩm Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (1958), Người Công giáo trước thời đại (đồng tác giả, 1961), Lương tâm Công giáo và công bằng xã hội (đồng tác giả, 1963), Nhận định (6 tập viết và in trước 1975, 4 tập sau 1975), Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại (1963), Góp phần phê phán giáo dục và đại học (1967), Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa (1993), Về sách báo của tác giả Công giáo thế kỷ XVIII-XIX (1993), Hồ sơ Lục châu học: Tìm hiểu con người ở vùng đất mới (2015).

Là người được đào tạo trong môi trường văn minh phương Tây, Nguyễn Văn Trung có điều kiện đi sâu tìm hiểu và quảng bá các trào lưu tư tưởng triết học và mỹ học hiện đại: phân tâm học, hiện tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, tiểu thuyết mới, phê bình mới, lý thuyết tiếp nhận. 

Ông giúp độc giả làm quen với quan niệm của những tác gia nổi tiếng: F. de Saussure, R. Jakobson, G. Lanson, M. Heidegger, J.-P. Sartre, P. Valéry, A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, Ch. Mauron, G. Bachelard, L. Goldmann, R. Barthes… Vào lúc ra mắt, bộ Lược khảo văn học gồm ba tập "Những vấn đề tổng quát", "Ngôn ngữ văn chương và kịch", "Nghiên cứu và phê bình văn học" có thể xem là bộ sách lý luận văn học cập nhật những tư tưởng hiện đại một cách hệ thống nhất ở nước ta. Sau khi được tái bản, bộ sách này đoạt Giải thưởng Sách quốc gia năm 2020. Trước đó hai cuốn Ca tụng thân xác, Hành trình trí thức của Karl Marx, và gần đây cuốn Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: thực chất và huyền thoại cũng được in lại.

Người trí thức gắn bó với văn hóa dân tộc

Nguyễn Văn Trung không phải là nhà nghiên cứu thuần túy lý thuyết. Có thiên hướng xã hội và tinh thần dân tộc, ông luôn gắn liền những suy tưởng của mình với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và bị lệ thuộc.

Trong ý hướng góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn Việt Nam, ông liên hệ lý thuyết với lịch sử văn học dân tộc và bước đầu đưa ra những gợi ý cho người sáng tác, phê bình. Ông góp tiếng nói phân tích và bình luận những hiện tượng văn học phức tạp của dân tộc từ cổ điển (Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương…) đến hiện đại (Trương Vĩnh Ký, Tự Lực Văn đoàn, văn chương Nam bộ…). Hiếm thấy nhà nghiên cứu triết học nào có tầm nhìn sâu rộng về văn học Việt Nam như ông. Có thể xem ông là nhà trí thức từ bỏ tháp ngà để nhập cuộc với đời sống, theo tinh thần của Jean-Paul Sartre, triết gia hiện sinh mà ông chịu nhiều ảnh hưởng.

Với Nguyễn Văn Trung, Sartre không chỉ là một hiện tượng văn hóa mà còn là một chỗ dựa tinh thần, một nguồn chia sẻ và lời giải đáp cho những vấn đề của con người tại thế, trong hoàn cảnh sống cụ thể. Trong bài Sartre trong đời tôi, ông viết: "Chúng ta không có thời đại nào khác, ngoài thời đại hiện nay của chúng ta. Có thể có thời đại khác thanh bình hơn, đẹp hơn, nhưng đó không phải thời đại của ta, thời đại có chiến tranh nóng lạnh giữa hai khối, thời đại có mối đe dọa thường xuyên của bom nguyên tử, thời đại đế quốc chủ nghĩa, thực dân xâm lăng… Chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, thời đại, nhưng chỉ có thể lựa chọn trong hoàn cảnh, thời đại của ta" (Nhận định V, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 249).

Ở miền Nam trước 1975, ngòi bút Nguyễn Văn Trung có ảnh hưởng nhất định đến công chúng, nhất là trí thức trẻ, sinh viên học sinh. Một phần vì ông thể hiện quan niệm xem triết học, văn học không chỉ như một đối tượng khảo sát mà quan trọng hơn, là một cách thế sống và một thái độ làm người ở đời. Phần khác vì văn phong của ông không tư biện, lý thuyết suông mà vừa khúc chiết, mạch lạc, vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống và giàu yếu tố thời sự.

Hình ảnh người trí thức băn khoăn, thao thức nơi Nguyễn Văn Trung từng gợi cảm hứng cho Ngô Thế Vinh xây dựng nhân vật Hoàng Thái Trung trong tiểu thuyết Vòng đai xanh: "Dưới con mắt của đám sinh viên trẻ, ông Trung được coi như thần tượng, một trí thức dấn thân, chữ của ông Trung. Vậy mà ông cũng có những nỗi băn khoăn thất vọng. Ông Trung cô đơn trong sự yêu mến của nhiều người khác. Đôi mắt sáng và buồn của ông soi qua một làn kính trắng dày, trông ông Trung trơ trọi như một ảnh tượng đẫm nét bơ vơ trong một không gian bạc màu".

Người tìm đường, hay tra vấn và đặt lại vấn đề thường là người cô đơn. Trong nghiên cứu những hiện tượng nhân văn, không hiếm trường hợp sự phê phán nồng nhiệt có thể dẫn đến chỗ không thấu tình đạt lý, nhất là khi chưa bao quát toàn diện và thấu đáo những tình thế của người cầm bút. Nguyễn Văn Trung từng có dịp nhìn lại những đánh giá của mình trước đây, lúc ông viết những lời lẽ nặng nề và không thỏa đáng về một số hiện tượng văn học sử như Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí.

Trong tinh thần đó, những ý kiến của ông cần được xem xét một cách khách quan như một bài học kinh nghiệm về ý thức trách nhiệm của người cầm bút không xem mình là người phát ngôn sau cùng cho chân lý mà chỉ là tiếng nói đóng góp vào cuộc đối thoại dân chủ không ngưng nghỉ trên con đường đi tìm sự thật. Trên tất cả những điều đó, nhớ đến GS Nguyễn Văn Trung là nhớ đến hình ảnh một người trí thức không bao giờ thờ ơ với vận mệnh Tổ quốc, luôn trăn trở và ưu tư với văn hóa dân tộc, đồng thời không ngần ngại đón nhận cái mới vì sự phát triển của đất nước trong một thế giới đang chuyển biến.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Người lao động, ngày 20.10.2020.

Trong kí ức của tôi, có một người thầy bước đi khoan thai thư thái. Nhìn ông, tôi như thấy phong thái của một trí thức mà trong trí tưởng tượng của mình thường mơ tưởng.

Năm tôi được gặp Thầy, năm 2011, ông chừng 70 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, thường mặc chiếc áo sơ mi màu xám tro, chiếc quần màu trắng đục, trang phục rất hợp dáng người, trang nhã. Mái đầu bạc trắng gọn gàng, đôi mắt sáng hiền từ. Nét mặt rạng ngời không hiện ra dấu vết của năm tháng, giống như ánh nắng đầu thu. Trên sống mũi là cặp kính gọng vàng thỉnh thoảng đeo. Tác phong của một học giả đáng kính. Học giả có đôi mắt hiền từ tinh tế. Khi nói thường kèm theo điệu cười mỉm. Điềm tĩnh, ung dung, trí tuệ, hiền hậu. Nhất cử nhất động đều hiện ra một khí chất học giả, một thứ khí chất không có ở người đàn ông bình thường. Ông là Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư, nguyên giảng viên trường Đại học KHXH NV TP HCM – Chu Xuân Diên.

20221218 3

PGS Chu Xuân Diên

Lần đầu tiên, tôi được gặp Thầy cũng là một sự tình cờ, do lúc đó là giảng viên nam duy nhất của ngành Văn hóa học nên được phân công đưa đón Thầy trong những ngày ở Đại học Đà Lạt giảng dạy môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam cho sinh viên ngành Văn hóa học K33. Trong những ngày đó tôi mới thấy Thầy giống như ông tiên có thật trên đời.

Thông thường, trước khi lên lớp tôi giới thiệu giảng viên mời giảng tới sinh viên của lớp học. Lần đó, tôi giới thiệu với sinh viên rằng ông là PGS-TS. Chu Xuân Diên, nguyên Trưởng Bộ môn Văn học Dân gian, Khoa Ngữ văn & Báo chí Trường Đại học KHXH&NV TP HCM, hiện là Chủ nhiệm Khoa Văn học Trường Đại học Văn Hiến, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian… Sau khi tôi dừng lời, ông chậm rãi đính chính: “Cám ơn thầy Hóa đã giới thiệu nhưng tôi xin đính chính, tôi là PGS. Chu Xuân Diên, chứ không phải PGS-TS. Chu Xuân Diên”.

Ngồi nghe thầy giảng bài môn Cơ sở văn hóa Việt Nam cho các lớp sinh viên, tôi không thấy ông giảng những nội dung cụ thể viết trong giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam mà chỉ hướng dẫn, giảng giải những vấn đề văn hóa nền tảng, những hệ giá trị văn hóa,… Sau những bài giảng, thầy yêu cầu sinh viên đặt câu hỏi, và Thầy giải đáp cụ thể. Câu hỏi quen thuộc của Thầy sau mỗi bài giảng là: “Có sinh viên nào hỏi nữa không?”. Mỗi lần lên lớp Thầy ngồi ngay ngắn sau bục giảng, ánh mắt sáng ngời. Lời của Thầy giảng cho tôi thấy hình tượng một trí thức uyên bác, một học giả có uy quyền học thuật. Công trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của Thầy đã tái bản nhiều lần, Thầy cũng đã lên rất nhiều lớp sinh viên, tuy nhiên, mỗi lần lên giảng ở đây tôi thấy mỗi tối ông đều ngồi vào bàn xem lại bài giảng.

Có lần tôi giở cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam Thầy để trên bàn làm việc trong phòng khách, tôi sửng sốt vì trong mỗi trang sách là chi chít những chú thích bằng mực bi còn tươi màu. PGS Chu Xuân Diên chu đáo và kỹ lưỡng với công việc nghiên cứu như thế khiến tôi hết sức kính trọng và khâm phục.

Đà Lạt những lần Thầy lên giảng trời đều mưa lạnh, những đám lá thông vàng bay lả tả trong chiều ẩm ướt, nhưng hầu như lần nào tôi cũng nghe Thầy đề nghị dẫn đến các nhà sách ở trung tâm thành phố Đà Lạt. Có điều, ông không đến để mua sách, tôi nhớ duy chỉ một lần ông mua cuốn sách Nghiên cứu văn hóa dân gian phương pháp, lịch sử, thể loại của mình để tặng khi đến nhà thăm PGS. Lê Chí Dũng vì ông quên mang lên. Những lần đến nhà sách, tôi đi theo ông, còn ông lại tận tâm chỉ cho tôi chọn cuốn sách này, hay cuốn sách kia, lý giải ngọn ngành vì sao lại chọn như thế.

Tôi đã đọc các công trình của Thầy, đã biết Thầy qua bài viết của GS. TS. Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Nghiên cứu văn hóa dân gian phương pháp, lịch sử, thể loại của ông. Nhưng phải sau này, nghĩ lại, tôi mới thấy những lần Thầy lên Đại học Đà Lạt giảng bài, đó là những lần tôi thu nhận được nhiều hơn. Có lần, tôi mạnh dạn hỏi Thầy về băn khoăn trong lựa chọn chuyên môn giữa văn hóa và văn học. Thầy lặng im suy nghĩ một lúc lâu, nói, Hóa à, em với Thầy cũng giống nhau, thầy vốn có nguyện vọng được nghiên cứu và giảng dạy văn học Pháp. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp đại học, thầy được GS. Đinh Gia Khánh phân công giảng dạy văn học dân gian. Thầy nói: đã là giảng viên đại học, đó là cơ hội để mình được học tập và nghiên cứu,…

Tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Chu Xuân Diên

Lần đó, Thầy tâm sự rất nhiều, từ những trải nghiệm trong đời ông, đến quan điểm về giáo dục hiện tại, từ thái độ học tập của sinh viên, đến lý tưởng về quan hệ thầy trò… Đến nay tôi vẫn còn nhớ Thầy đã nói với tôi một câu: Đã là giảng viên đại học, nên đọc sách nhiều. Thầy dặn tôi khi nào xuống Sài Gòn ghé nhà, Thầy tặng mấy cuốn sách đọc. Do công việc quá bận bịu, tôi không ghé nhà Thầy được như hẹn, không ngờ Thầy cất công gửi sách qua xe khách Sài Gòn – Đà Lạt lên cho tôi. Mà có phải là ít đâu, những bốn thùng sách, có nhiều cuốn mới xuất bản gần đây.

“Đọc sách nhiều”, tôi nghĩ, đó không chỉ là yêu cầu của Thầy đối với tôi, với một giảng viên đại học, mà thực tế cũng là phong cách học giả của ông. Tôi có hỏi quan điểm của Thầy việc dư luận xôn xao về SGK môn Ngữ văn lớp 10 đã thay đổi đoạn kết trong câu chuyện cổ tích quen thuộc Tấm Cám. Thầy bảo ông đã nói chuyện này mấy chục năm về trước, rằng “không có gì đáng phải làm ầm ĩ cả lên nếu hiểu rõ bản chất của truyện cổ tích”. Sau đó Thầy chậm rãi giảng giải.

Những ngày ở Đà Lạt, tôi thấy trước khi đi ngủ ông thường cắm tai phone vào điện thoại di động để nghe nhạc. Sợ mình làm ồn Thầy không ngủ được nên tôi đề nghị hay là đến giờ ngủ tôi qua phòng bên để Thầy yên tĩnh. Ông hiểu ý ngay mà nói: “Mình thích nghe nhạc cổ điển Hóa ạ”. Qua ánh sáng đèn bàn sau lưng ông tôi như thấy một người ông đôn hậu đang chỉ bảo đứa cháu yêu thương của mình. Một học giả có khuôn mặt hiều hậu và ánh mắt trong sáng tươi tắn, ấm áp.

Tôi chưa từng nghĩ đến, trong những năm tháng sau này của đời mình, mặc dù không phải là học trò trực tiếp của Thầy, không tiện đến thăm Thầy nhưng sau nhiều lần phân vân, tôi vẫn đến thăm Thầy ở nhà riêng, được nghe ông nói chuyện và hơn nữa giúp tôi tháo gỡ những khó khăn trong chuyên môn. Đến nhà Thầy Cô, tôi như lạc vào biển sách. Nhà ông có 3 tầng, tầng một có phòng khách rộng, hai bức tường dọc nhà là hai kệ sách lớn. Lầu trên, có một phòng rộng để ông đọc sách và làm việc, cũng rất ngăn nắp. Thầy đều ngồi ngay ngắn bên cái bàn làm việc mà nói chuyện.

Lần đó, tôi nhìn bức tranh trên tường với ánh mắt tò mò vì gam màu xám tro và những nét vẽ tượng trưng khó hiểu, ánh mắt tinh tế của ông đã nhìn ra sự tò mò của tôi, với nụ cười thường trực cùng giọng nói Hà Nội trầm ấm rủ rỉ ông lý giải rất ngọn ngành. Đôi mắt kính trên sóng mũi cao thanh cùng ánh mắt dịu dàng như chân lý tỏa sáng trước mặt tôi. Sau này, mỗi lần đăng được một bài trên tạp chí, tôi thường gọi điện thoại khoe với ông, tiếng ông lại rủ rỉ động viên, khích lệ hay gợi ý cho tôi những đề tài này nọ.

Trong ấn tượng của tôi, PGS. Chu Xuân Diên vừa có cái khí chất tu dưỡng của trí thức bậc cao, vừa có sự hiền hậu, ân cần của một người thầy; có cái tâm cống hiến của một học giả và tấm lòng của người ông với con cháu. Đời người dài lâu, ký ức dằng dặc. Cuộc đời là một cuốn sách dày, mỗi lần mở một trang sách, đều là một cuộc tương phùng xa cách lâu ngày. Thế nhưng, tôi với một người Thầy như một người ông ấy mãi mãi là ân tình lĩnh hội trong ký ức dài lâu – Cảm ơn Thầy – PGS. Chu Xuân Diên.

Phạm Văn Hóa

(Giảng viên Đại học Đà Lạt)

Nguồn: Vanvn.vn, ngày 16.12.2022.

Sáng 28-9, thông tin từ học trò cho biết thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký - người thầy đầu tiên viết chữ bằng chân - vừa qua đời rạng sáng cùng ngày tại nhà riêng sau thời gian chiến đấu với bệnh suy thận.

Thầy Nguyễn Ngọc Ký giao lưu với học sinh Trường tiểu học Nguyễn Thái Sơn, Q.3, TP.HCM năm 2012 - Ảnh: TỰ TRUNG

Tang lễ của thầy được tổ chức ở nhà riêng tại phường Phước Long B (thành phố Thủ Đức, TP.HCM) từ 8h sáng nay.

Nhà văn - nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Ký sinh ngày 28-6-1947, tại Hải Hậu, Nam Định.

Năm lên 4 tuổi, cậu học trò Ký bị bệnh và liệt cả hai tay. Không đầu hàng trước số phận, cậu đã nỗ lực rèn luyện không ngừng, rèn đôi chân thay cho bàn tay để viết chữ, lập kỷ lục Việt Nam "Nhà văn Việt Nam đầu tiên viết bằng chân".

Năm 1992, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký được nhận danh hiệu "Nhà giáo ưu tú".

Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký qua đời - Ảnh 2.

Suốt cả cuộc đời, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương truyền cảm hứng cho rất nhiều thế hệ học trò - Ảnh chụp năm 2014 (V.V.TUÂN)

Suốt cả cuộc đời, thầy Ký đã truyền cảm hứng cho biết bao thế hệ học trò với nghị lực, quyết tâm phi thường và ra mắt nhiều tác phẩm để lại tiếng vang như Hồi ký "Tôi đi học", Hồi ký "Tôi học đại học", Hồi ký "Tôi đi dạy học", Tâm huyết trao đời…

Nguồn: https://tuoitre.vn/thay-giao-nguyen-ngoc-ky-qua-doi-20220928073646495.htm

Tôi yêu quý thầy Trần Hữu Tá từ khi thầy dạy cao học lớp tôi khóa 1995-1998, cách đây gần 20 năm. Hồi đó, lớp cao học tôi có 6 học viên thôi. Chúng tôi đến nhà thầy học chuyên đề “Tiểu thuyết Việt Nam”. Tôi ấn tượng với phong cách sư phạm mẫu mực của thầy, từ phong thái, cách giảng bài, cách soạn bài, cách trình bày, cách đi đứng nói năng…rõ ràng, dễ hiểu, trật tự, khuôn phép. Tôi học được rất nhiều từ phong cách thầy cho việc giảng dạy sau này của mình vì tôi vốn không phải là dân sư phạm.

Từ khi ở lại khoa Văn học và Ngôn ngữ, tôi có nhiều cơ hội gặp thầy, trò chuyện với thầy, hiểu thầy, vì tuy là người Sư phạm, nhưng thầy cũng rất thân với Xã hội nhân văn. Khi tôi làm tiến sĩ, thầy viết nhận xét giúp tôi, bản thảo viết tay, chữ thầy đều tăm tắp, gọn gàng, ngay hàng thẳng lối. Thầy cứ thanh minh mãi chuyện lẽ ra phải đánh máy, nhưng hóa ra tôi lại may, giữ trong tay một bản thảo viết tay của thầy. Đối với học trò, thầy khoan dung, độ lượng, nhìn ra được năng khiếu và tư chất từng người. Tôi nghe rất nhiều anh chị đồng nghiệp kể về những hàm ơn mà thầy làm cho họ, mà khi gần thầy, tôi chưa bao giờ nghe thầy kể lại.Thầy là người cẩn thận, chỉn chu, đối xử trước sau như một có tình, có lý. Hôm bên Khoa tôi tổ chức kỷ niệm sinh nhật thầy Nguyễn Khuê, có mời thầy, dạo đó thầy yếu đi nhiều, nên thầy gọi cho tôi, tha thiết bảo tôi gửi lời xin lỗi đến thầy Khuê, nói rằng giờ yếu rồi, hay mệt, mong thầy Khuê thứ lỗi. Thầy dặn đi dặn lại tôi phải nói với thầy Khuê: “ chỗ thầy với anh Nguyễn Khuê tuy không thân nhưng rất quý mến nhau, thầy quý anh ấy cái tâm với nghề, và cả tài năng nữa, em nhớ nhắn gửi cho thầy”. Thầy là vậy: cẩn thận, chu đáo, thấm đẫm tình người. Khi làm thành viên Ban chấp hành Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, tôi lại có dịp làm việc với thầy nhiều hơn. Gia đình tôi là hậu duệ của thi sĩ Bích Khê, muốn nhờ Hội kết hợp với Khoa tổ chức một đêm thơ nhạc Bích Khê, thầy là người ủng hộ và sốt sắng nhất trong việc tổ chức. Từ việc viết bài để dẫn, gợi ý người viết bài, xem lại chương trình, thậm chí các tiết mục ca nhạc cũng được thầy góp ý tận tình, kỹ lưỡng. Gia đình tôi nợ ân tình thầy. Mà thầy lại là người giản dị, không đòi hỏi, không màng danh lợi, vật chất. Bao nhiêu năm sống trong căn hộ tập thể của Đại học Sư phạm TP.HCM, dọn được về căn nhà mới nhỏ gọn trên đường Trần Hưng Đạo, khi tiếp khách, thầy rất vui. Thầy hay nói vui: hơn 70 tuổi đầu mới biết đến việc có một căn phòng làm việc riêng, phòng tắm có gắn máy nước nóng. Quả là những đãi ngộ cho các bậc trí thức của mình cũng còn nhiều thiếu sót!

Hôm nay, tôi cầm trong tay cuốn sách thầy tặng, vào đúng năm thầy 80 tuổi…Cuốn sách của một vị thầy đã 80 tuổi, tuổi mà mọi điều nói ra, viết ra đều đã đạt đến độ chiêm nghiệm cái lẽ thấu suốt của cuộc đời, của trời đất. 80 tuổi mà thầy còn viết, thì đó là những lời gan ruột. Thành ra cứ mỗi sáng, tôi lại giở ra đọc về một người thầy. Đọc để hun đúc thêm cho mình khí chất, tâm huyết, nỗi khổ công của các vị thầy. Mỗi vị thầy đều có những bước ngoặt trong cuộc đời của họ, đều sinh ra trong những giai đoạn đất nước có những đau đớn về lịch sử, vận mệnh, mà mỗi vị đều phải tự mình tìm ra con đường để đóng góp sức mình vào những đổi thay của dân tộc. 25 vị thầy đó là: Trương Vĩnh Ký, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Giản Chi, Nghiêm Toản, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Giàu, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Lý, Nguyễn Đổng Chi, Lê Trí Viễn, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đình Đầu, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phạm Thế Ngũ, Thẩm Thệ Hà, Lê Đình Kỵ, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đăng Mạnh, Văn Tâm, Nguyễn Khắc Phi, Phong Lê. 25 vị thầy có thể nói không chỉ gói gọn trong “từ bục giảng đến văn đàn”, tức là không chỉ trên hai lĩnh vực giảng dạy và sáng tác, mà còn trên nhiều lĩnh vực khác của hoạt động văn hóa văn nghệ: nghiên cứu, dịch thuật, làm từ điển, làm sách giáo khoa, đảm nhiệm những vị trí về văn hóa trong bộ máy chính quyền trên nhiều lĩnh vực: văn học, lịch sử, ngôn ngữ, nghệ thuật,… Theo như tâm sự của thầy: có vị thầy được học, có vị không, nhưng đều là những người

Thầy của thầy trong cuộc đời 80 năm đi học và tự học. Người thầy lớn tuổi nhất trong cuốn sách này, Trương Vĩnh Ký, sinh năm 1837, tức là năm nay đã 188 tuổi,người thầy nhỏ nhất, là Phong Lê, ngót 80 tuổi. Khoảng cách hơn 100 năm, một thiên niên kỷ trong chiều dài lịch sử của một dân tộc, lại là giai đoạn lịch sử nhiều biến động, vinh nhục, đau thương và huy hoàng của dân tộc. 25 vị thầy này đã đóng góp tài năng, đức độ và công sức của mình vào sự nghiệp văn hóa của một dân tộc. Đọc toàn bộ cuốn sách, tâm huyết của một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, một nhà khảo cứu, một nhà văn Trần Hữu Tá thể hiện rất rõ. Đó là sự thận trọng, chân xác của lịch sử, tiểu sử; là sự chừng mực nhưng trân trọng; sự dũng cảm trong việc đánh giá những đóng góp của các vị thầy (ngay với cả những quan điểm mà có vẻ như trái ngược nhau hoặc không được đồng tình); là ngòi bút tài hoa và tinh tế; là tấm lòng của một học trò hậu bối…Là một hậu bối của thầy, tôi đọc cuốn sách trong một tâm thức khó tả. Đó không chỉ là một cuốn sách chân dung, càng không phải là một cuốn sách tiểu sử, trên hết, tôi đọc với một tâm thức về dòng mạch len lỏi của đạo lý “tôn sư trọng đạo”,“uống nước nhớ nguồn”. Hơn thế nữa, còn là dòng mạch rất rõ của việc đề cao và nuôi dưỡng sự tử tế, sự lương thiện. Ai đó đã nói: “Trên hết của tài năng là sự lương thiện”. Tất cả những tri thức văn hóa mà ngày nay chúng ta thụ hưởng được, có công rất lớn của các tiền bối, mà, trong khi luận định về vị trí, vai trò, công lao của họ, chúng ta rất cần có một con mắt “nhìn suốt sáu cõi”, bỏ qua những thiên kiến chính trị, vùng miền, như của thầy Trần Hữu Tá.

Đây là một cuốn sách cần thiết cho những ai muốn hiểu thêm về một người thầy lớn kể về những vị thầy vĩ đại!

11-2016

Các sinh viên chọn chuyên ngành Hán Nôm được xem là những người “không màng vật chất”, mang tình yêu mãnh liệt đối với di sản của dân tộc.

Cơ sở để tham chiếu về quá khứ

Chia sẻ lý do chọn ngành đi ngược số đông, các sinh viên cho hay họ đều đam mê tìm hiểu thư tịch và văn hóa cổ xưa. Phạm Hoàng Anh, sinh viên Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, cho biết: “Từ bé, tôi đã thích những thứ cổ xưa, văn hóa VN và châu Á. Tôi chọn chuyên ngành Hán Nôm vì nghĩ đây là cách tiếp cận sâu sắc nhất với văn hóa truyền thống”, Hoàng Anh chia sẻ.

Đồng quan điểm này, Lê Trọng Phúc, sinh viên Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, cho rằng người học và nhà nghiên cứu Hán Nôm rất vinh dự khi được đóng vai trò cầu nối giữa truyền thống và đương đại vì có thể phân tích, diễn giải văn tự cổ hoặc thư tịch. “Chẳng hạn, nếu không nghiên cứu Hán Nôm thì chúng ta sẽ không có cơ sở để tham chiếu về quá khứ, dẫn tới sự đứt gãy của văn hóa. Làm sao chúng ta có thể tự hào về Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), trong khi chỉ đọc bản dịch mà không đọc và hiểu nguyên văn”, Phúc chia sẻ.

 

Một lớp giảng dạy âm vận học, môn học quan trọng được thiết kế trong chương trình đào tạo chuyên ngành Hán Nôm

NVCC

Bên cạnh đó, điều thú vị nhất của chuyên ngành Hán Nôm là giúp người học nhìn lại những nét văn hóa dân tộc một cách sâu sắc hơn. Nữ sinh viên Hoàng Anh chia sẻ: “Mỗi lần vào những cơ sở thờ tự, tôi luôn cố gắng đọc và hiểu những câu đố, hoành phi. Những kiến thức Hán Nôm mang đến cho tôi trải nghiệm thú vị, làm giàu vốn sống”.

Học hán nôm để “bốc bia mộ”, viết câu đối ?

Các sinh viên chuyên ngành Hán Nôm thường phải đối mặt những định kiến và sự hiểu lầm của nhiều người như: Hán Nôm là học về Trung Quốc; học Hán Nôm chỉ để “bốc bia mộ”, viết câu đối cho đền, chùa…

Trước những hiểu lầm này, Nguyễn Thanh Lộc (23 tuổi, phụ trách bộ môn tiếng Trung tại Trường CĐ Văn Lang Sài Gòn) cho hay anh thường cố gắng giải thích. Lộc nói: “Ngành Hán Nôm giúp tôi giải thích các hoành phi, câu đối ít ai hiểu được, đồng thời giúp tôi thỏa mãn đam mê tìm hiểu lịch sử VN và Trung Quốc qua việc chạm tay trực tiếp vào những văn bản cổ như sắc phong, gia phả, chế phong, cáo biểu…”. Bên cạnh đó, Lộc chia sẻ các văn bản cổ đang bị hư hại nhưng chưa có nhiều người đủ năng lực để sửa chữa, phục hồi và “nếu dân Hán Nôm không làm thì không ai làm”.

Tham gia giảng dạy chuyên ngành Hán Nôm tại Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, tiến sĩ Hồ Minh Quang, Trưởng khoa Đông phương học, kiêm Trưởng bộ môn Trung Quốc học, nhận thấy những sinh viên học ngành Hán Nôm đa phần không màng vật chất, dành một tình yêu rất mãnh liệt đối với di sản Hán Nôm của dân tộc và tri thức mà tiền nhân đã để lại. “Họ đã vượt qua những lời khuyên định hướng kinh tế, xu hướng chọn nghề hot và quyết đoán trong chọn lựa ngành Hán Nôm”, ông Quang chia sẻ.

Tiến sĩ Quang kể một số sinh viên của ông từng suýt bị từ chối vào Đền thờ Khu tưởng niệm các vua Hùng khi đem các tác phẩm thư pháp Hán Nôm với nội dung như “Thiên đô chiếu”, “Nam quốc sơn hà”… vì bị nhân viên quản lý lầm tưởng đó là “đồ Trung Quốc”. Thầy còn đau lòng khi thấy một số câu đối Hán Nôm của tiền nhân để lại treo ở nhiều miếu, đình, trường học, nhà bảo tàng… đã bị gỡ bỏ hoặc thay thế.

Cơ hội nghề nghiệp nào cho người học Hán Nôm ?

Không ít sinh viên kiên định theo ngành Hán Nôm vẫn phải lo ngại về nguy cơ khó tìm việc làm hoặc phải làm việc trái ngành sau khi tốt nghiệp. Dù vậy, Trương Lư Bác Kim Điền (23 tuổi, làm việc trong lĩnh vực marketing) chia sẻ anh làm trái ngành nhưng công việc ổn định và chuyên ngành Hán Nôm thật sự đã dạy bản thân cách làm người, giúp rèn luyện được thái độ tốt, dễ dàng hòa nhập với môi trường doanh nghiệp.

Trước mối lo ngại trên, thạc sĩ Nguyễn Văn Hoài (giảng viên chính bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học, Trưởng phòng Nghiên cứu Hán Nôm Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) cho biết sinh viên sau khi ra trường có thể làm tốt những công việc như nghiên cứu, bảo tồn di sản Hán Nôm, học nâng cao để giảng dạy hoặc xin học bổng du học ở Đài Loan và Trung Quốc.

“Các bạn có thể xin đi làm ở các công ty sử dụng tiếng Trung vì ngành Hán Nôm đào tạo song song tiếng Hán cổ, chữ Nôm và tiếng Hán hiện đại. Tôi hy vọng sẽ có một thế hệ kế tục, tâm huyết với Hán Nôm, có trình độ ngoại ngữ vững vàng. Từ đó, các bạn có thể phát huy những giá trị quý báu của di sản Hán Nôm, đánh dấu bản sắc của dân tộc trên bản đồ văn hóa thế giới”, thầy Hoài chia sẻ.

Theo thạc sĩ Hoài, các khóa từ năm 2015 về trước, mỗi năm có khoảng 20 - 30 sinh viên đăng ký. Trong những năm gần đây số lượng giảm xuống, mỗi lớp còn khoảng 10 - 15 người.

Nguồn: https://thanhnien.vn/chon-nganh-di-nguoc-so-dong-hoc-han-nom-lam-cau-noi-truyen-thong-duong-dai-post1483812.html

Đời sống văn học thời cận đại và hiện đại cho thấy mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận văn học ngày càng gắn kết nhờ vai trò quảng bá, giảng dạy trong nhà trường. Nhà trường trở thành nhân tố tác động đến việc phổ biến văn học, góp phần hình thành một lớp nhà văn mới, đồng thời với một lớp độc giả mới. Trong chu trình đó của văn học, người thầy giáo dạy văn đóng ba vai trò cùng một lúc: vừa là độc giả được chuẩn bị tâm thế để tiếp nhận tác phẩm văn học; vừa là người “trung chuyển” truyền tải tư tưởng và nghệ thuật ngôn từ đến với các thế hệ hậu sinh; lại vừa là người đồng sáng tạo trong những giờ giảng văn hoặc chính là người sáng tác, trước tác những tác phẩm văn học hay công trình nghiên cứu.

PGS-TS Trần Hữu Tá (thứ 4 từ trái sang) và GS-TS Huỳnh Như Phương (thứ 2) cùng đồng nghiệp các thế hệ

Văn học Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến nay chứng minh đặc điểm phổ quát đó. Văn học ngày càng gần gũi với đông đảo độc giả vì chữ quốc ngữ trở thành công cụ giao tiếp của xã hội; báo chí và xuất bản phát triển với công nghệ ấn loát được cải tiến; giáo dục trở thành phúc lợi chung của người dân; nạn mù chữ được thanh toán qua các cuộc vận động xã hội. Những điều kiện đó giúp công chúng rộng rãi có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng những kiệt tác văn chương của dân tộc, cổ điển cũng như hiện đại. Trong thành tựu của văn hóa, vai trò của nhà giáo thật không ai sánh nổi.

Ở Việt Nam, hơn một thế kỷ qua, hình ảnh và quan niệm về người thầy cũng thay đổi rất nhiều. Những biến động và biến đổi xã hội làm cho vị trí người thầy không yên ổn giữa bốn bức tường lớp học mà được thử thách trong nắng gió và bão táp của thời cuộc. Bao lần thay đổi chế độ, bao cuộc chiến tranh, bao chương trình cải cách xã hội… đã kéo nhà giáo ra khỏi khuôn viên trường học, đối mặt với những chọn lựa lắm khi sinh tử và buộc phải trả lời những câu hỏi gay cấn của đời sống. Đặc biệt, những nhà giáo dạy văn, những nhà giáo cầm bút rất khó giữ một thái độ thuần túy văn chương, học thuật, mà luôn đụng chạm đến cái thời sự dễ quy chiếu nhân cách và thân phận mình vào với lịch sử.

Là giáo sư văn học lâu năm, có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong nghề giáo lẫn nghề văn, chắc hẳn Trần Hữu Tá hiểu rõ tình thế đó của những người đồng nghiệp tiền bối và cùng thời. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Văn khoa ở Hà Nội năm 1959, lúc mới 22 tuổi ông trở thành giảng viên Trường Sư phạm trung cấp liên tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình – Vĩnh Linh, vùng giới tuyến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó. Hành trang mang theo của ông là những bài giảng và tấm gương sư phạm của những bậc thầy nổi tiếng: Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc… Hai năm sau, ông được cử làm hiệu phó, rồi hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp Sơn Tây trước khi trở về mái nhà xưa là Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào năm 1965. Ông dạy văn học Việt Nam hiện đại ở đó hơn 20 năm rồi tiếp tục công việc này ở Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.

Trọn đời là nhà giáo dạy văn, là nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình văn học, Trần Hữu Tá nhiều lần chia sẻ với học trò, đồng nghiệp và độc giả những ấn tượng, cảm xúc và suy nghĩ của bản thân mình về những người thầy giáo “từ bục giảng bước ra văn đàn”, những người trên tư chất nhà giáo mà khẳng định bản lĩnh của mình trong đời sống văn học, và với tư chất nhà văn mà nâng cao phẩm cách của mình trên cương vị nhà giáo. Gần mười năm nay, không còn bị chi phối vì công tác quản lý giáo dục, ông dành nhiều thời gian để hoàn chỉnh 25 bài viết về những người thầy mà ông trân trọng và cuốn sách Từ bục giảng đến văn đàn là kết quả của mối quan tâm bền bỉ ấy.

Nét chung nhất của những bài viết trong tập sách này là sự kết hợp văn phong khoa học và nghệ thuật khắc họa chân dung. Là ngòi bút cẩn trọng khi viết chuyên khảo và sách giáo khoa, Trần Hữu Tá không bao giờ nói về tác gia, tác phẩm mà tách khỏi tiểu sử cá nhân và bối cảnh lịch sử. Những chi tiết đời tư và sự kiện xã hội ánh xạ với nhau được tác giả chọn lọc và cân nhắc khi đưa vào văn bản để làm rõ nhân cách và tính cách của đối tượng. Hầu hết những nhà giáo – văn nhân ở đây đều từng sống qua hai chế độ đối nghịch, cách ứng xử của họ là một bài học, hơn nữa là một nghệ thuật để lại cho đời sau. Mỗi người đều có một “cuốn sổ bình sinh”, dày hay mỏng, cho hậu thế soi mình. Cắt nghĩa thái độ và con đường lập nghiệp của họ đòi hỏi một cái nhìn vừa điềm tĩnh khách quan, vừa thấu đáo nhân tình.

Không chỉ Trương Vĩnh Ký, Đào Duy Anh, Nghiêm Toản, mà cả Trần Văn Giàu, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Đình Đầu đều có những bước ngoặt khó khăn trong cuộc đời hoạt động không thể lý giải một chiều. Điều quan trọng là họ đã gặp nhau trong chí hướng phụng sự dân tộc, trước hết và trên hết về văn hóa và giáo dục, với tinh thần độc lập của người trí thức. Hoàn cảnh xã hội và đời riêng của họ cách xa nhau biết bao, nhưng tất cả đều để lại cho đời những tấm gương sáng về ý chí tự học, vượt gian khổ, vượt cả những rào cản và định kiến để nói lên tiếng nói trung thực của người trí thức trên bục giảng và trên văn đàn. Có thể nói chất lý tưởng trong nghề giáo và chất thẩm mỹ trong nghề văn đã cộng hưởng với nhau, tạo nên gương mặt tinh thần của họ, mặc dù đã là người mấy ai không có tì vết.

Qua sự phân tích của Trần Hữu Tá, ta cảm nhận được tình nghĩa của Vũ Đình Hòe, Nguyễn Lương Ngọc dành cho Đoàn Phú Tứ, Nghiêm Toản – những người bạn một thời cách xa về danh phận và cách trở về giao tiếp. Và ta cũng hiểu những con người xa cách đó đã sống và viết như thế nào để giữ được mối thâm tình và sự tôn trọng nhường kia. Ba mươi năm sống ở miền Nam giúp cho những trang viết của Trần Hữu Tá về Giản Chi, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Nguyễn Đình Đầu, Phạm Thế Ngũ, Thẩm Thệ Hà có sự ấm áp, gần gũi của người đồng cảm.

Có lẽ chính những bài viết về các đồng nghiệp bao năm chia ngọt sẻ bùi càng cho thấy rõ một phương diện của ngòi bút Trần Hữu Tá: qua khắc họa chân dung người thầy mà làm toát lên thần thái của một văn nhân. Đó là Huỳnh Lý với cái bếp dầu hôi làm bằng ống bơ quây quần bè bạn, là Nguyễn Đăng Mạnh với chiếc mũ lá cũ kỹ và gói trà Thái Nguyên bị khám xét dọc đường, là Văn Tâm với những bức tranh và đồ gốm cổ đổi bằng tem phiếu thực phẩm gia đình... Rồi sẽ có những lớp thầy giáo – nhà văn khác đến thay thế những người đã qua. Phong thái trong đời và trong văn của thế hệ trước không nên được lặp lại và cũng không thể lặp lại. Thông thuộc tính nết của những người thầy, người bạn từng sinh hoạt ở cùng một khoa, một tổ bộ môn, trong lòng thủ đô hay giữa làng quê nghèo khi sơ tán, Trần Hữu Tá lưu giữ cho chúng ta hình ảnh và kỷ niệm về những nhà giáo thanh bạch đã một thời làm chứng rằng phẩm giá con người có thể đứng cao hơn hoàn cảnh.

Đọc tiểu thuyết Số phận một quả chuông, tác phẩm cuối đời của nhà giáo – nhà lý luận văn học Nguyễn Lương Ngọc, Trần Hữu Tá nhận ra thông điệp kín đáo của tác giả. Quả chuông làng Lai Xá trong truyện là biểu tượng cho số phận người trí thức, không lệ thuộc vào môi trường đào luyện, dù “trải bao phen truân chuyên chìm nổi”, thậm chí từng chịu oan khuất, vẫn không bao giờ quên sứ mạng của mình là ngân vang tiếng gọi hồn làng, hồn nước. Nguyễn Lương Ngọc qua hình tượng nghệ thuật mà mở lòng ra với đời: tiếng chuông sẽ thanh lọc và “chiêu tuyết” cho lịch sử, vốn không thiếu những góc khuất và những trớ trêu.

Cũng là người “từ bục giảng đến văn đàn”, Trần Hữu Tá gửi gắm lòng mình qua những trang viết về đồng nghiệp là điều dễ hiểu. Khi viết về những nhà giáo cao niên, ông thường bày tỏ niềm tin hơi lạc quan về tuổi thọ con người có thể kéo dài đến 90 năm, thậm chí một trăm năm. Thật ra, có ai mà cưỡng được quy luật của thời gian! Nhưng viết về người khác, có lẽ tác giả cũng qua đó bày tỏ một nỗi ám ảnh và băn khoăn không chỉ của riêng mình. Nhà giáo, nhà văn sẽ làm gì đây khi quỹ thời gian đang dần cạn? Ta sẽ còn tặng cho đời những món quà gì nữa đây sau ngần ấy thời gian nhọc nhằn trên bục giảng và trên trang giấy?

Trong ý nghĩa đó, Từ bục giảng đến văn đàn là món quà tinh thần mới nhất mà nhà giáo – nhà văn Trần Hữu Tá gửi đến chúng ta nhân ngày 20 tháng 11 năm nay.

(Lời bạt trong sách Từ bục giảng đến văn đàn, Tiểu luận văn hóa của Trần Hữu Tá, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2015)

 

Trong khi đã có nhiều nghiên cứu cho thấy môi trường học tập gây nhiều áp lực căng thẳng cho học sinh nhưng lâu nay chúng ta ít nhắc tới việc thay đổi một vấn đề cốt lõi, đó là chất lượng đời sống học đường mà chúng ta có thể gọi tên là sự “an vui học đường”.

20220506 3Nguồn ảnh minh họa : dangcongsan.vn

Trước Covid-19, chất lượng cuộc sống học đường đã là một chủ đề nghiên cứu của giới học thuật và giới làm chính sách cũng như những quản lý giáo dục ở nhiều quốc gia. Trong 17 Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc đến năm 2030, sức khỏe và an vui đứng vị trí thứ ba. Năm 2015, PISA (Programme for International Student Assessment) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã dành hẳn một báo cáo đánh giá về sự an vui của học sinh ở bốn lĩnh vực: kết quả học tập, quan hệ với giáo viên và bạn học, đời sống gia đình, và các hoạt động ngoại khóa. Chúng ta đang bắt đầu bước vào giai đoạn hậu Covid-19 sau một thời gian dài học sinh và giáo viên gặp nhiều khó khăn, căng thẳng do giãn cách, do học trực tuyến thì an vui học đường chắc chắn phải được quan tâm đặc biệt hơn và thậm chí phải đổi mới để tiếp tục thích ứng với tương lai còn nhiều bất định.

“An vui” đến từ tâm lý học tích cực

Có một phân ngành tâm lý học mới mang tên tâm lý học tích cực bắt nguồn từ các ngành triết học hiện sinh, tâm lý học nhân bản và tâm lý học xã hội1. Phân ngành này giúp chúng ta hiểu được sự vận hành tối ưu của một cá nhân, kích hoạt những tiềm năng và nguồn lực bên trong và bên ngoài, từ đó để cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần. Mô hình PERMA của Martin Séligman, cha đẻ của tâm lý học tích cực, có thể được ứng dụng dễ dàng vào môi trường giáo dục và học đường thông qua năm yếu tố sau:

– Cảm xúc tích cực (Positive emotions): là khả năng nhìn nhận quá khứ, hiện tại và tương lai trong một viễn cảnh tích cực, nghĩa là, giúp học trò phát triển mối liên hệ mang tính xây dựng với việc đánh giá học lực, với những điểm mạnh, điểm yếu, hay sai lầm của bản thân.

– Cam kết (Engagement): khơi gợi, động viên học trò chủ động tham gia các hoạt động trong và ngoài buổi học.

– Quan hệ tích cực  (Relationships): nghĩa là chất lượng của các mối quan hệ giữa học trò với nhau phải được gây dựng dựa trên sự đoàn kết, hợp tác, tương trợ, đồng cảm, giữa học trò với giáo viên.

– Ý nghĩa cuộc sống (Meaning): là ý thức và mong muốn thường trực cải thiện đời sống học đường và luôn thống nhất giữa hệ giá trị và hành động.

– Thành tựu (Achievement): ý thức vượt lên chính mình, phấn đấu trong học tập.

Mô hình của Konu và Rimpelä (2002).

Trên phương diện xã hội học, công trình của hai nhà nghiên cứu Konu và Rimpelä (2002) đã đưa ra mô hình về an vui học đường bao gồm các chỉ số chia thành bốn loại như sau: điều kiện học hành (Having), quan hệ xã hội (Loving), hoàn thiện bản thân (Being) và tình trạng sức khỏe (Health). Căn cứ vào mô hình này, các nhà quản lý có thể đánh giá được tình trạng hay mức độ của chất lượng cuộc sống nơi trường học nói chung hay an vui học đường nói riêng tại cơ sở giáo dục của mình hay của cả nền giáo dục quốc gia.

Đánh giá “An vui học đường”: định tính hay định lượng?

Để đánh giá được an vui học đường, các nhà quản lý và nhà trường phải nhìn nhận ở bốn phương diện như sau:

– Thể chất (tiến hành đều đặn các hoạt động thể chất).

– Xã hội (mối tương tác với giáo viên và bạn học, cảm giác được là thành viên của cộng đồng).

– Tâm lý (các chủ thể trong môi trường giáo dục có cảm giác an toàn trong các mối quan hệ trong môi trường học đường, hài lòng về đời sống học đường).

– Nhận thức (cảm nhận có năng lực, học tập hiệu quả).

Thông qua bốn phương diện đó, học sinh và giáo viên cảm thấy an vui khi được:

– Tôn trọng và hài lòng về những nhu cầu tâm lý căn bản như cảm thấy an toàn, được công nhận, được lắng nghe, được yêu mến, công bằng.

– Tôn trọng những quyền căn bản: quyền được bảo vệ chống mọi hình thức phân biệt đối xử, quyền tự do thông tin, quyền biểu đạt và tham dự.

– Khả năng biểu đạt cảm xúc và tình cảm khi những nhu cầu hay quyền trên không được tôn trọng.

Từ một thập kỷ trở lại đây, hai ngành khoa học thần kinh cảm xúc và khoa học thần kinh xã hội đã minh chứng cho chúng ta thấy tác động vô cùng quan trọng của thái độ khoan dung (benevolence, bienveillance) trong môi trường giáo dục. Thái độ này biểu hiện ở khả năng của học sinh biết điều tiết cảm xúc trong các mối quan hệ tại trường học (với giáo viên, nhân viên, bạn học), biết thể hiện sự cảm thông với người khác, biết giải quyết các tranh chấp hay mâu thuẫn một cách có trách nhiệm.

Đề xuất tập huấn cho giáo viên, nhân viên ở khối trường phổ thông và mầm non
– Cung cấp và cập nhật kiến thức nghiên cứu khoa học về cảm xúc, trí thông minh cảm xúc, thần kinh học.
– Tổ chức những buổi phân tích thực hành nghiệp vụ thông qua câu chuyện, trải nghiệm, buổi học có ghi hình của giáo viên.
– Tổ chức thường kỳ (theo học kì hay theo tháng) các phiên khai vấn (school coaching) là khoảng không gian- thời gian lắng nghe, quan sát và trao đổi, sẻ chia giữa giáo viên với nhau hoặc giữa giáo viên với nhân viên nhằm giải phóng cảm xúc, giúp cho việc dạy trong lớp và quản lý nhà trường được thuận lợi.

Thầy và trò: vòng tròn thiện tâm

Người lớn, là phụ huynh và giáo viên, đều hiểu rằng niên thiếu là quãng tuổi đầy khó khăn và khó hiểu của học sinh, do những thay đổi về tâm sinh lý khiến cho tính cách, tâm lý, hành xử cũng biến đổi theo từng tháng, từng năm. Người lớn phải biết tạo ra những điều kiện, môi trường, thái độ, thậm chí cả chiến thuật để giúp học sinh cảm thấy bình an trong hành trình trưởng thành của mình.

Chúng ta vừa nhắc đến sự khoan dung cần tạo ra cho học trò, thì người lớn chúng ta cũng phải biết cách thể hiện sự khoan dung, thiện tâm của mình trước học sinh. Điều này được thể hiện ở nhiều chiều kích: quan tâm và lắng nghe, không phán xét và phê bình, giữ lời hứa và đồng hành, trợ giúp việc học hành… Những điều này giúp tạo dựng cho học trò sự tự tin, tự trọng, ý thức cố gắng phấn đấu, từ đó rèn luyện những kỹ năng tâm lý xã hội, là điều thiết yếu giúp người học sinh hôm nay công dân tương lai hòa nhập vào một xã hội ngày càng phức hợp và đa diện.

Nếu quan sát trong khuôn khổ học đường (lớp học), chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của chất lượng giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, nó tác động hoặc tiêu cực hoặc tích cực đến khả năng tiếp thu kiến thức, thái độ của học sinh. Sự giao tiếp này biểu hiện ở ba cấp độ: ngôn (chú trọng đến việc dùng câu, từ), phi ngôn (cử chỉ, điệu bộ, tư thế) và cận ngôn (giọng điệu, ngữ điệu, lưu lượng, âm lượng lời nói). Ba phương diện giao tiếp này tác động trực tiếp đến thái độ và nhu cầu về sự an toàn và niềm tin ở học sinh.

Có ba thời khắc khá tế nhị trong quá trình giảng dạy đứng lớp của giáo viên, đó là khi:

– Một học sinh thể hiện thái độ phản kháng (từ chối hay phản đối) trước một yêu cầu nào đó đến từ giáo viên

– Giáo viên đánh giá trình độ, học lực, ý thức học tập của học sinh

– Giáo viên phải thể hiện cái uy của người lớn

Các nước OECD đã đưa ra nhiều giải pháp để cải thiện “an vui học đường” theo từng năm. 

Đó cũng chính là lúc các giáo viên phải hết sức tỉnh táo kiểm soát bản thân và điều tiết, kiểm soát tình huống giao tiếp với học sinh sao cho tiêu chí đạo đức (ethic), bao dung và thiện tâm được coi là kim chỉ nam.

Khuyến khích và thúc đẩy an vui học đường có thể được tiến hành ở hai cách thức: một mang tính cá nhân (chăm sóc thường xuyên xúc cảm và thái độ của từng học sinh và giáo viên) và một mang tính tương tác (chăm chút cho chất lượng quan hệ giữa học sinh và giáo viên). An vui là một phương tiện, điều kiện để đạt được chất lượng học tập ngày càng tốt hơn, phát huy sự nỗ lực, kiên trì, óc sáng tạo và vượt lên chính mình ở người đi học.

Có cần một chính sách cho toàn bộ nền giáo dục?

Câu trả lời là có! Nền giáo dục của các nước phát triển, đặc biệt thuộc khối OECD, đã thi hành các biện pháp và cải thiện theo từng năm học. Khái niệm “an vui” được hiểu và quan tâm một cách khác nhau ở sáu quốc gia Úc, Tây Ban Nha, Mỹ, Phần Lan, Pháp và Anh. Trong đó, Phần Lan thực sự coi an vui vừa là mục đích giáo dục rõ ràng vừa là điều kiện giáo dục ở cấp quốc gia. Ở năm quốc gia còn lại, an vui được lồng vào các khái niệm khác như sức khỏe học đường, không khí học đường, an toàn, chất lượng cuộc sống, hay phân biệt đối xử… Tuy nhiên, các phương pháp tiếp cận tổng thể (whole school) cũng như các chương trình (curriculum) hướng đến giáo dục cảm xúc và kỹ năng xã hội (Social and Emotional Learning, Personal Social and Health Education) đều trở nên rất phổ biến.

Việt Nam chưa có hẳn một chính sách tầm quốc gia cho nền giáo dục phổ thông về an vui học đường. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Việt Nam không quan tâm đến chủ đề này. Một vài tổ chức như HEARY – Positive Education Center, Wellbeing, ARNEC, Faros… đã tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho giáo viên và phụ huynh. Một số cơ sở giáo dục mầm non hay một vài trường quốc tế tại Việt Nam cũng bắt đầu giảng dạy cho học sinh (British International School Hanoi, Brendon Văn Hiến School, Bilingual Canadian International School…).

Nếu như chưa có chính sách từ Bộ Giáo dục và Đào tạo thì các nhà trường vẫn có thể dựng nên một bản đồ chiến lược tổng thể ở cấp cơ sở. Một cách lý tưởng, nội dung chương trình nên xuyên suốt từ lớp 1 đến (ít nhất là) lớp 9. Một cách tổng quát, đầu tiên, an vui phải hướng đến từng đối tượng sau, và một cách độc lập, là học sinh và giáo viên (đối tượng thứ ba sẽ là nhân viên), tiếp theo, hướng đến mối tương tác giữa hai đối tượng quan trọng này, sau đó, hướng đến không khí học đường, trang bị và cơ sở vật chất của nhà trường.

– Hướng đến học sinh: sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, kỹ năng giao tiếp ứng xử tôn trọng lẫn nhau, đặt trọng tâm vào tinh thần tự học, động lực học và niềm vui học tập

– Hướng đến giáo viên: cập nhật kiến thức, tập huấn nâng cao kỹ năng đối thoại với học sinh

– Trang bị từ nhà trường: cơ sở vật chất thể hiện ở vệ sinh, an toàn, ăn uống…, tạo nên không khí lắng nghe thân thiện, giảm tối đa bạo lực từ lời nói đến hành động

Điều quan trọng là nhà trường đừng gò bó mình vào một khuôn khổ, hình mẫu hay vài tiêu chí mà nên điều chỉnh, thích nghi các biện pháp, và tiến hành khảo sát ý kiến thường kỳ (theo học kỳ hay năm học) từ giáo viên, phụ huynh và học sinh. □

Sáu biện pháp cho giáo viên thực hành để cải thiện an vui cho học sinh, ngay trong lớp học hay ở những giờ ngoại khóa:

1. Thực hành phương pháp giao tiếp không bạo lực (Nonviolent Communication): là cách thức giao tiếp khoan dung dựa vào sự đồng cảm, thấu cảm và không phán xét để tạo nên một không khí bình an.

2. Thiết kế những khoảng thời gian tĩnh: ví dụ sau mỗi giờ ra chơi, để chuẩn bị cho học sinh tập trung quay vào bài học, giáo viên có thể sử dụng những bài tập thở yoga, thiền… trong khoảng 10 phút.

3. Sáng kiến những vật dụng giúp học sinh tự đối thoại với bản thân: đó có thể là sổ tay cá nhân (học sinh hằng ngày có thể viết vẽ bộc lộ cảm xúc suy nghĩ tâm trạng, sử dụng viết như một liệu pháp tinh thần giải tỏa và giải phóng); phong bì hạnh phúc và kỉ niệm (là những tranh, ảnh, thiếp hoặc vật dụng nhỏ mỏng mà các học sinh bỏ vào phong bì để lưu giữ kỉ niệm) ; hay hộp giải stress (trong đó cất những vật dụng cá nhân giúp các bé mẫu giáo được cầm giữ mỗi khi mệt, sợ hoặc buồn trên lớp).

4. Đề xuất những giải pháp giải quyết các mâu thuẫn thông qua các bài tập, kỹ năng đối thoại giữa hai học sinh đang gặp mẫu thuẫn với sự xuất hiện của giáo viên như “trọng tài” để phân tích và giải quyết tình huống một cách khách quan.

5. Khuyến khích các hoạt động hợp tác nhằm mục đích không cạnh tranh hay tranh giành thắng thua, đặc biệt dễ thực hiện trong những bài tập như vẽ, thủ công hay nghệ thuật thị giác trong đó mỗi học sinh đóng góp một phần việc để tạo nên một tác phẩm tập thể.

6. Rèn luyện học sinh điều tiết cảm xúc và giảm stress: ví dụ biết gọi tên những nỗi sợ, lo âu, tìm hiểu nguyên nhân của những cảm xúc tiêu cực, hay tập những bài tập thể chất (thở, đi bộ, tĩnh tâm…) để điều tiết.

Nguyễn Thụy Phương

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 25.3.2022.

-------

1 Ra đời vào năm 1998 thông qua bài diễn văn của Martin Seligman, Chủ tịch Hội Tâm lý học Mỹ, nhân Hội nghị thường niên của Hội này.

Tài liệu tham khảo

Konu, A., Alanen, E., Lintonen, T. et Rimpelä, M. (2002). Factor structure of School Well-being Model. Health Education Research17(6)

Konu, A. et Rimpelä, M. (2002). Well-being in schools: a conceptual model. Health Promotion International17(1)

Báo cáo khoa học “Chất lượng đời sống ở trường học” (CNESCO, 2017) http://www.cnesco.fr/fr/qualite-vie-ecole/

Nguyễn Thụy Phương, Báo cáo “Chất lượng cuộc sống và an vui tại trường học Pháp trong các văn bản chính thống”, Hội đồng quốc gia đánh giá hệ thống học đường (CNESCO – Pháp), 2016 : http://www.cnesco.fr/wp-content/uploads/2016/11/institutions2.pdf

PGS.TS Trần Hữu Tá, chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, nguyên trưởng khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, nguyên hiệu trưởng Trường THPT Trương Vĩnh Ký, vừa qua đời tối 27-11, thượng thọ 86 tuổi.

Web Khoa Văn học xin đăng lại bài của PGS. TS Đoàn Lê Giang viết về thầy 6 năm trước, nhân dịp lễ Thượng thọ (80 tuổi) của thầy.

Tôi gặp thầy Trần Hữu Tá từ đầu những năm 1990, khi ấy anh Lê Tiến Dũng dẫn tôi đến gặp thầy để ba thầy trò làm một quyển sách dạy văn cho nhà sách T.. Ngày ấy T. còn là một sạp sách báo ọp ẹp ở trước cổng trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh cũ kỹ xác xơ. Nhà thầy còn ở khu tập thể của Trường Sư phạm. Bước qua hẻm phía sau mấy tiệm cơm, tiệm photo ngổn ngang xô chậu mới đến nhà thầy. Nhà thầy chật, nhưng phòng khách luôn tươm tất, bàn ghế sạch sẽ, trà ngon, đúng như phong cách trí thức Hà Nội thời trước. Tôi bị thu hút bởi phong cách lịch lãm, chuyện trò thông thái và thái độ ân cần của thầy. Thầy trò làm việc với nhau rất ăn ý, thầy tỏ ra rất tin tưởng tôi, dù lúc ấy tôi mới hơn 30 tuổi. Trong quyển sách, tôi được vinh dự đứng tên chung với thầy. Sách bán rất chạy, tái bản liên tục. Hết hạn hợp đồng tôi vẫn thấy sách được tái bản mà chủ nhà sách chẳng liên hệ và trả nhuận bút cho thầy trò gì cả. Tôi gặp nhóm xuất bản hỏi chuyện, nhưng họ chối ngay là họ không xuất bản (để khỏi trả nhuận bút), và họ thách thức: nếu các tác giả muốn kiện thì họ sẵn sàng đi hầu, đến đâu cũng theo! Sau không thấy họ tái bản nữa, tưởng họ đã thôi, nào ngờ đi tỉnh lại thấy sách tái bản ở một nhà xuất bản tỉnh, để tránh bị nhóm tác giả phát hiện, và khỏi phải trả mấy đồng nhuận bút còm. Đến nay thì thầy trò vẫn nghèo vậy, còn chủ nhà sách kia trở thành trùm xuất bản và phát hành sách. Thế tôi mới thấm thía chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam đã hình thành với sự keo bẩn điển hình của giai cấp ấy trong giai đoạn tích lũy tư bản như thế nào.

Ấn tượng sâu sắc nữa là thầy trò cùng làm việc với nhau trong chương trình “Cửa sổ văn học” do HTV tổ chức vào cuối những năm 1990. Chương trình rất được học sinh, sinh viên yêu thích. Giai đoạn cuối cuộc thi, chỉ còn 2 đại biểu kỳ cựu nhất là Trường Phổ thông năng khiếu (thuộc ĐHQG TP.HCM) và Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP TP.HCM. Trong Ban Giám khảo bên Đại học Quốc gia có tôi với TS.Phan Thu Hiền (lúc ấy chưa là PGS), bên ĐHSP có thầy Tá và anh Hoàng Dũng. Hai đội dự thi đội nào cũng xuất sắc, bên Năng khiếu có nhóm Hồ Khánh Vân, Long Hòa, Thanh Trâm.., (bây giờ là giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM), bên Khoa Ngữ văn ĐHSP có Hoàng Phong Tuấn, Phạm Ngọc Lan… (bây giờ đều là giảng viên của Khoa Ngữ văn). Khi thi câu hỏi nào vừa đưa ra là cả hai đội đều bấm chuông ngay, không cần suy nghĩ. Thậm chí có cả câu đố “làm thơ trong vòng 7 bước” (như Thất bộ thi của Tào Phi), các bạn ấy cũng bấm chuông và hoàn thành ngay lập tức. Trong hai đội, đội Phổ thông Năng khiếu có vẻ nhỉnh hơn một chút. Thế là trong số các giảng viên phụ trách đội Khoa Ngữ văn Sư phạm có ý nghi ngờ bên tôi làm “lộ đề” cho “gà nhà”. Tôi và cô Thu Hiền không bao giờ làm chuyện đó. Thầy Tá là trưởng ban giám khảo cũng tỏ ý tin tưởng tôi và cô Hiền. Cuộc thi kết thúc suôn sẻ. Và thời gian, dư luận chứng minh niềm tin của Thầy đã đặt đúng chỗ.

Sau này được làm chung nhiều việc với thầy trong chuyện sách vở, hội thảo khoa học hay công việc của Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP.Hồ Chí Minh, tôi càng hiểu thầy và càng học được ở thầy nhiều điều.

Thầy có một kiến thức rất uyên bác, nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học ngữ văn. Thầy giỏi tiếng Pháp, cố nhiên rồi, như thế hệ của thầy. Thầy chuyên môn sâu về văn học Việt Nam hiện đại, nhưng cũng rất hiểu, rất thuộc văn học cổ điển Việt Nam và Trung Quốc. Thầy hay ngâm nga thơ cổ điển Việt Nam. Tôi cứ nhớ mãi, có lần trong bài viết của tôi tôi có trích thơ Vương Chi Hoán nhưng lại ghi lầm là Đỗ Mục, thầy đọc và phát hiện ra ngay. Tôi cứ phục mãi.

Thầy là một người ngay thẳng và cầu thị. Từng trải qua thời khó khăn của văn nghệ, thầy ngại đụng chạm, nhưng chưa bao giờ thầy nói ra những điều trái với suy nghĩ của mình. Hồi trước 1975 thầy được phân công theo dõi mảng văn học đô thị miền Nam, hồi ấy do hạn chế lịch sử nên thầy có nhiều ý tưởng và lời văn cứng rắn, không thật khách quan. Sau này thầy đã thẳng thắn nhìn nhận những chỗ sai lầm của mình và khắc phục điều ấy trong Từ điển văn học (bộ mới). Tôi nhớ có tờ báo kia nói năng báng bổ, hàm hồ quá, thầy gặp lãnh đạo Thành phố là thầy nhắc ngay, nhờ vậy mà tờ báo ấy dịu giọng hẳn lại xuống, ít dùng bài hung hăng, báng bổ nữa. Tôi rất tâm đắc thái độ trí thức của thầy: người trí thức đích thực không nói thì thôi, nhưng đã nói ra thì chỉ nói những điều mình tin là lẽ phải.

Thầy là một người yêu thích công việc, làm việc không biết mỏi. Thầy sốt sắng với Hội thảo 100 năm Đông Kinh Nghĩa thục (2007), Hội thảo 80 năm Thơ mới và Tự lực văn đoàn (2012), Kỷ niệm 100 năm nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi (2015)... Thầy lúc nào cũng bận rộn với ý tưởng làm sách vở, hết Vũ Trọng Phụng đến Từ điển văn học, rồi chân dung các nhà văn, nhà giáo. Thầy còn dự định làm từ điển tri thức bách khoa ngữ văn, nhưng rồi sức khỏe không cho phép nên thầy đành gác lại. Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học liên tục năm nào cũng xuất bản niên san Bình luận văn học, đều có công tổ chức, biên tập và đôn đốc của thầy.

Năm nay thầy đã tám mươi. Sức khỏe thầy giảm đi rõ rệt nhưng tinh thần, đầu óc vẫn sáng suốt. Tôi biết thầy còn dở dang nhiều công việc, nhiều ước muốn mà chưa làm được. Chúng tôi nhiều lần mong mỏi và thúc giục thầy: thầy viết cho cuốn hồi ký, cuốn hồi ký ghi lại một thời đầy nhiệt huyết, lãng mạn mà cũng lắm gian truân. Không biết chừng nào cuốn hồi ký ấy hoàn thành. Riêng tôi được gần thầy nhiều, tôi học được rất nhiều ở thầy, qua những trang văn của thầy, và nhất là qua cách sống, cách nghĩ, cách làm của thầy.

Nguồn: Sách Kỷ niệm Sinh nhật lần thứ 80 Giáo sư Trần Hữu Tá, năm 2016.

Thông tin truy cập

60735048
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
8439
8619
60735048

Thành viên trực tuyến

Đang có 276 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website